intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tự chủ đại học: Từ góc nhìn về tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp của giảng viên

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

10
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tự chủ đại học: Từ góc nhìn về tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp của giảng viên" nhằm mục đích tìm hiểu những quan điểm về tự chủ nghề nghiệp của giảng viên đại học. Đồng thời, phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp, biện pháp nâng cao quyền và quyền tự chủ nghề nghiệp của giảng viên tại các trường đại học sư phạm ở địa phương. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tự chủ đại học: Từ góc nhìn về tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp của giảng viên

  1. TỰ CHỦ ĐẠI HỌC: TỪ GÓC NHÌN VỀ TỰ CHỦ TRONG GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIẢNG VIÊN Lê Đức Quảng1 Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị Abstract In the context that the autonomous role of universities is being promoted, the issue of professional autonomy of lecturers needs to be given due attention. In this article, the author aims to find out the views on professional autonomy of university lecturers. At the same time, analyze the current situation and propose solutions and measures to improve the rights and professional autonomy of lecturers at local pedagogical universities. Keywords: University autonomy; Teacher professional autonomy; University lecturers; Local Pedagogical University. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự chủ nghề nghiệp của GV đặc biệt quan trọng trong các trường sư phạm địa phương. GV các trường đại học sư phạm (ĐHSP) địa phương với chức năng chính là nghiên cứu khoa học giáo dục, đào tạo giáo viên phục vụ cho địa phương và cả nước. Theo Ramos, các chương trình đào tạo giáo viên cần nhận thức vai trò quan trọng của việc trang bị cho giáo sinh sư phạm khả năng tự chủ để các em có cơ hội được trải nghiệm về năng lực tự chủ với vai trò người học, từ đó họ có thể thực hiện với vai trò là giáo viên khi bước vào môi trường nghề nghiệp [1], Lực lượng thực hiện hiệu quả nhất mục tiêu này chính là các GV trong hệ thống các trường ĐHSP. Bởi vậy, đảm bảo quyền và nâng cao hiệu quả mức độ tự chủ nghề nghiệp của GV trong các cơ sở ĐHSP địa phương trở thành một yêu cầu cần thiết. Nâng cao năng lực tự chủ cho GV là một mục tiêu quan trọng của quản lý phát triển nguồn nhân lực GV ĐHSP địa phương đồng thời là con đường hiệu quả để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học. Bài viết này tác giả có mục đích tìm hiểu quan điểm về tự chủ nghề nghiệp của GV đại học. Đồng thời phân tích thực trạng, đề xuất những giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao quyền và năng lực tự chủ nghề nghiệp của GV các trường ĐHSP địa phương. 2. NỘI DUNG Để thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa Xã hội, Việt Nam ta đã đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đồng thời Đảng ta phát huy đến mức cao nhất đó là nguồn lực con người. Trong đó ngoài Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) là đòn bẩy quan trọng nhất thì nhân tố con người có tầm quan trọng đặc biệt quyết định đến sự thành công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với ý nghĩa đó, tại Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định “Phát triển Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong đó thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế và thực hiện đổi mới cơ chế giáo dục...”. “GD&ĐT cần tập trung vào việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”[2]. Báo cáo 1 quang_ld@qtttc.edu.vn 579
  2. Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đã đưa ra định hướng phát triển GD&ĐT giai đoạn 2021 - 2030 với nhiều vấn đề, một trong những vấn đề đó là: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp GD&ĐT theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” 3. GD&ĐT là khâu then chốt nhất nhằm tạo ra nguồn nhân lực thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục thì đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết định trong việc biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực, quyết định hiệu quả và chất lượng giáo dục. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục của một trường đại học thì một trong các khâu then chốt là phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên (GV) nói riêng và đội ngũ viên chức trong nhà trường nói chung. Để thực hiện vấn đề đó, cùng với xu hướng tự chủ đại học (TCĐH), tự chủ nghề nghiệp của GV đại học được coi là một yêu cầu tất yếu. Ở góc độ cá nhân, tự chủ giúp đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu của GV. Trong quản trị nguồn nhân lực, tự chủ nghề nghiệp giúp thực hiện chức năng duy trì đội ngũ [4] Trong hoạt động quản trị nhà trường, tự chủ nghề nghiệp giúp các trường đại học vươn tới mô hình quản trị tiên tiến khi các quyết định đều có sự tham gia của GV đại học, tự chủ nghề nghiệp của GV góp phần thúc đẩy và hỗ trợ tự chủ của người học - một trong những mục tiêu trọng yếu của giáo dục [5]. 2.1. Tự chủ của trường đại học 2.1.1. Khái niệm và các lĩnh vực tự chủ của trường đại học Theo Anderson and Johnson, TCĐH (university autonomy) được định nghĩa là sự tự do của một cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) trong việc điều hành các công việc của trường mà không có sự chỉ đạo hoặc tác động từ bất cứ cấp chính quyền nào [6]. Trong báo cáo đề dẫn của Debreczeni (2002) tại Hội thảo quốc tế “Tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức” cho rằng: tự chủ thể chế (institutional autonomy) là điều kiện cho phép một tổ chức GDĐH điều hành hoạt động của nhà trường mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Tự chủ của cơ sở GDĐH hoàn toàn không có nghĩa là nó nằm ngoài sự chi phối của luật pháp. Nó là tự chủ có điều kiện và các điều kiện này được xác định bởi mối quan hệ giữa nhà nuớc, xã hội và cơ sở GDĐH. Nội dung TCĐH: Tự chủ là quyền phổ biến của các trường đại học trên thế giới nhưng được thực hiện với những mức độ và cách thức khác nhau tùy mỗi nước. Ở Việt Nam, TCĐH được xác định tại điều 32, Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật GDĐH 2018, trên bốn nội dung chủ yếu. Thứ nhất, quyền tự chủ trong học thuật, hoạt động chuyên môn bao gồm: ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học, công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật. 580
  3. Thứ hai, quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm: ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với GV, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở GDĐH phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ ba, quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm: ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý, sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên (SV), chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ tư, trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH đối với chủ sở hữu, người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền và các bên liên quan. Có thể thấy rằng, TCĐH ở Việt Nam đã được luật hóa một cách cụ thể, khá toàn diện trên các mặt, từ vấn đề học thuật, đến tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản; từ quyền tự quyết đến trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH đối với các lực lượng tham gia vào quá trình quản lý, đầu tư, đào tạo, tư vấn, cung cấp dịch vụ, tuyển dụng và nhu cầu xã hội. Vấn đề là các cơ sở GDĐH ở Việt Nam làm như thế nào để tự chủ đi vào thực chất, phát huy tối đa vai trò của nó trong quá trình phát triển. 2.1.2. Vai trò của quyền TCĐH TCĐH thể hiện sự chi phối và ảnh hưởng đến công tác điều hành, công tác phát triển trường đại học nói chung. Từ đó, TCĐH ảnh hưởng đến từng khâu trong hệ thống của trường đại học. Mở rộng quyền TCĐH là hướng phát triển bền vững trong xu thế hội nhập quốc tế của nền giáo dục Việt Nam. Điều này rất quan trọng trong xu thế hội nhập toàn cầu của giáo dục Việt Nam. Quá trình giao quyền tự chủ cho các trường đại học công lập chắc chắn cũng sẽ có những cuộc tranh cãi bởi lẽ điều đó đồng nghĩa với việc quyết định sự sinh tồn của các trường đại học nước ta hiện nay. Tự chủ giúp các trường đại học sẽ tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm, lựa chọn phương thức tuyển sinh cho các hệ đào tạo; tự chủ trong học thuật, tổ chức, nhân sự, trường cũng được quyền chủ động xây dựng mức thu học phí và các khoản thu khác... Đặc biệt, sẽ cho phép trường được tự chủ trong việc phê duyệt kế hoạch và chủ động sử dụng kinh phí từ các nguồn thu hợp pháp... Giúp các trường đại học cần thay đổi tư duy, đổi mới phong cách, phương pháp làm việc và sẵn sàng chấp nhận thách thức, tức làm sao xóa bỏ bao cấp trong tư duy, huỷ bỏ cơ chế xin cho dứt khoát trong hành động, xoá bỏ sự trông chờ, ỷ lại nhằm phát huy tối đa sức mạnh và lợi thế cạnh tranh của nhà trường và bản thân từng cán bộ - GV. TCĐH không nghĩa là thương mại hóa giáo dục mà giúp trường đại học xây dựng hình ảnh của mình đối với xã hội, tạo ra một thương hiệu có chất lượng để hội nhập với nền giáo dục của quốc tế. Tự chủ giúp thu hẹp khoảng cách, tạo sự đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tự chủ xuất hiện với mục đích làm cho các trường đại học có sức hút lớn hơn, thoát ra khỏi sự quản lý lối mòn, tạo sự đổi mới quản lý giáo dục, tăng khả năng cạnh tranh với các trường đại học trong nước nói riêng và trên thế giới nói chung. 581
  4. Khi được giao quyền tự chủ sẽ giúp các trường chủ động hơn trong việc thực hiện mục tiêu, sứ mệnh của mình trong hoạt động đào tạo, tăng tính hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà trường, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. 2.2. Tự chủ nghề nghiệp của GV đại học 2.2.1. Khái niệm GV Theo Hoàng Phê (2003), GV là tên gọi chung của người làm công tác giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện, các trường trên bậc phổ thông [7, tr.144]. Theo Điều 66 của Luật Giáo dục (2019) thì nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở GDĐH gọi là GV [8]. Từ căn cứ trên tác giả đưa ra khái niệm: GV là khái niệm chỉ người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các cơ sở GDĐH, cao đẳng hoặc tương đương. 2.2.2. Khái niệm tự chủ nghề nghiệp của GV đại học Theo Hoàng Thị Kim Huệ (2017) khái niệm tự chủ nghề nghiệp của GV có thể được phát biểu như sau: “Tự chủ nghề nghiệp của GV là sự tự do, độc lập, tự quyết định ở mức độ cho phép trong việc lập kế hoạch, lựa chọn và thực hiện hoạt động giảng dạy, tham gia hoạt động quản trị, tương tác xã hội trong cả phạm vi lớp học và phạm vi nhà trường” [9]. Trong các nghiên cứu liên quan, khái niệm tự chủ được nhận định là “năng lực của GV và tính sẵn sàng giúp người học tự chịu trách nhiệm về việc học của mình” [10]. Theo đó, tự chủ GV là sự tổng hợp giữa tự chủ cá nhân, tự chủ học thuật và tự chủ chuyên môn. Từ sự tổng hợp các nghiên cứu có thể hiểu rằng: “Tự chủ nghề nghiệp của GV đại học là sự tự do, độc lập, tự quyết định ở mức độ cho phép trong việc lập kế hoạch, lựa chọn và thực hiện hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, tham gia hoạt động quản trị, tương tác xã hội trong cả phạm vi lớp học và phạm vi nhà trường”. Khái niệm trên cho thấy những biểu hiện của tự chủ bao gồm sự tự do trong khuôn khổ cho phép, sự độc lập, quyền ra quyết định, “mức độ cho phép” là giới hạn về phạm vi, mức độ tự chủ mà GV đại học có được để điều hành các công việc của mình và để tham gia hoạt động quản trị của nhà trường. Tự chủ nghề nghiệp trong khuôn khổ nhà trường bao gồm hai không gian: nhà trường và lớp học. 2.3. Vai trò tự chủ nghề nghiệp của GV đại học 2.3.1. Tự chủ góp phần tạo động lực làm việc của GV đại học Tiến sĩ Đỗ Tiến Long, Chủ tịch Hội đồng chuyên gia Công ty TNHH Tư vấn quản lý OD Click cho rằng để tạo động lực cho GV trong các trường đại học tự chủ cần tập trung vào 05 yếu tố quan trọng: (1) Trao quyền tự chủ cho GV để GV được tự do về tư tưởng, học thuật và được đối xử linh hoạt; (2) Cần quan tâm đến sức khoẻ, hạnh phúc và gia đình của GV; (3) Tạo cơ hội phát triển, giao lưu, học hỏi cho GV; (4) Xây dựng hình ảnh xã hội và trách nhiệm xã hội của GV; (5) Tạo môi trường tích cực để GV cảm thấy được trưởng thành, tôn trọng, thành công. 582
  5. Trong nhu cầu được tôn trọng đối với tháp nhu cầu của Maslow, chúng ta thấy sự hiện diện từ nhu cầu tự chủ [11, tr 50-58]. Chính việc thỏa mãn nhu cầu tôn trọng đã khiến cho tự chủ nghề nghiệp trở thành yếu tố tạo nên sự hài lòng trong công việc. Theo Amarasena: Có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự hài lòng trong công việc, trong đó có tự chủ nghề nghiệp; tự chủ là yếu tố trọng yếu trong việc giúp cho GV đại học có thể tham gia và trụ vững được ở cộng đồng học thuật [12]. Do đó, cần đề xuất việc ban hành các chính sách và thực hiện các thẩm quyền có liên quan, từ đó sẽ xem tự chủ nghề nghiệp như một nhân tố quan trọng trong trường đại học để tăng cường sự hài lòng trong công việc của GV. 2.3.2. Tự chủ là điều kiện để phát triển nghề nghiệp của GV đại học Hanson (William Edward Mommaw dẫn theo nghiên cứu của Frankili) cho rằng: GV có nhu cầu tự chủ trong quá trình giảng dạy SV vì họ là những chuyên gia thực thụ trong một lĩnh vực riêng; GV cảm thấy họ có quyền tổ chức quá trình học tập theo cách lựa chọn riêng của họ; hệ thống những quy định của nhà trường không thể chen vào không gian lớp học. GV tự quy định những luật lệ riêng, đặc thù, linh hoạt và thực hiện trong chính lớp học của họ một khi họ thấy đó là phù hợp [13], GV đại học với những đặc trưng tương tự như viên chức cộng đồng, cũng cần có quyền tự chủ với tư cách là một thuộc tính nghề nghiệp mang tính bắt buộc. 2.3.3. Tự chủ nghề nghiệp của GV giúp duy trì nguồn nhân lực của trường đại học Tự chủ nghề nghiệp là một trong các yếu tố chính quyết định đối với khả năng duy trì đội ngũ GV trường đại học. Bellsmy và cộng sự (được dẫn bởi Hilary Metcalf) đã kết luận: tự chủ là một nhân tố quan trọng giúp duy trì nguồn nhân lực [4]. Theo Jane Muceke Ng’ethel và đồng sự: Tự chủ là mức độ mà người GV đại học có thể trải nghiệm những quyền hạn có được trong công việc. Nó biểu hiện cho cảm giác gia tăng trách nhiệm cá nhân, mức độ trải nghiệm tự do đáng kể trong công việc, độc lập và tự do hành động trong việc thiết lập lịch trình công việc đồng thời xác định những điều kiện cần thiết để vận hành công việc. Tự chủ ngầm ý thể hiện mức độ tham gia tích cực trong việc quyết định những vấn đề học thuật chính yếu và được tương đối tự do trước những quy định, điều lệ hành chính. Được tự chủ trong công việc có thể làm thỏa mãn những nhu cầu bậc cao để thành công và hoàn thành kế hoạch, từ đó các tổ chức có khả năng sử dụng, duy trì đội ngũ tốt hơn. [14]. 2.3.4. Tự chủ nghề nghiệp của GV đại học sẽ góp phần thúc đẩy tự chủ trong học tập của SV Tác giả Kenny (được dẫn bởi Richard c. Smith) đã nhận định: để hình thành năng lực tự chủ của người học cuối cùng cũng chính là thông qua tạo lập một môi trường thúc đẩy sự tự chủ của người dạy, đảm bảo quyền tự chủ như là việc giải phóng và nâng cao vị thế của người thầy [15], Nếu một GV mong muốn và sẵn sàng cho tự chủ nghề nghiệp, GV đó sẽ dùng chính những lợi ích có được từ quyền tự chủ được trao để tạo lập môi trường giúp SV nhận thức được về tự chủ học tập thông qua việc lôi cuốn SV và các hoạt động mang tính tự chủ. Hay nói cách khác, tự do và tự chủ học thuật của GV có thể thúc đẩy sự phát triển tự chủ của người học [5]. 583
  6. 2.4. Giải pháp nâng cao quyền và năng lực tự chủ nghề nghiệp cho GV các trường ĐHSP địa phương 2.4.1. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, hiểu rõ bản chất của vấn đề quyền tự chủ nghề nghiệp của GV ĐHSP địa phương Hiện nay việc phân cấp, phân quyền chỉ mới dừng lại ở các vị trí lãnh đạo đang mới bắt đầu dần dần chuyển từ tập quyền sang phân quyền rộng hơn và có giám sát, giải trình nhưng chưa tập trung các nội hàm tự chủ về giao quyền, trách nhiệm lớn hơn cho GV, nhà khoa học trong trường đại học, nhất là đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ. Từ đó họ có thể tham gia quyết định nhiều vấn đề về học thuật và chuyên môn mà không nặng về hành chính hóa. Về nội dung truyên truyền: các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV; các mức độ tự chủ tương ứng với từng lĩnh vực tự chủ; hướng dẫn về cách thức tham gia đóng góp ý kiến cho hoạt động quản trị của nhà trường và hoạt động bồi dưỡng GV; hướng dẫn về các tiêu chí tự đánh giá đối với việc thực hiện quyền tự chủ nghề nghiệp; các quy định về khuyến khích tự chủ nghề nghiệp của GV trong nhà trường. Về hình thức tuyên truyền: thông qua đường công văn chính thức, hệ thống thư điện tử của các đơn vị và các cá nhân, đăng tải trên website của trường, của từng đơn vị, phát thanh trên kênh phát thanh của nhà trường, tổ chức hội nghị phổ biến quy định tự chủ nghề nghiệp của GV. 2.4.2. Ban hành hệ thống văn bản quy định về quyền tự chủ nghề nghiệp cho GV các trường ĐHSP địa phương Luật GDĐH cần làm rõ và mở rộng khái niệm, vai trò của tự do học thuật trong hệ thống GDĐH ở Việt Nam. Thậm chí Hiến Pháp cần có qui định cụ thể về tự do học thuật trong hệ thống giáo dục. Xây dựng văn bản quy định quyền tự chủ nghề nghiệp cho GV ĐHSP địa phương, gồm các nội dung: - Các lĩnh vực tự chủ của GV: tự chủ trong giảng dạy, phát triển chương trình, nghiên cứu, quyền tham gia hoạt động quản trị nhà trường, quyền tham gia hoạt động bồi dưỡng GV. - Các mức độ tự chủ tương ứng với từng lĩnh vực tự chủ. - Hướng dẫn về cách thức tham gia đóng góp ý kiến cho hoạt động quản trị của nhà trường và hoạt động bồi dưỡng GV. - Hướng dẫn về các tiêu chí đánh giá đối với việc thực hiện quyền tự chủ nghề nghiệp - Các quy định khen thưởng và kỷ luật với các trường hợp chấp hành và phát huy tốt cũng như vi phạm các quy định về quyền tự chủ nghề nghiệp. 2.4.3. Tăng cường sự tham gia quyết định trong các lĩnh vực hoạt động của trường đại học cho GV - Tổ chức trưng cầu ý kiến đóng góp rộng rãi của tất cả cán bộ, GV về những vấn đề quan trọng của nhà trường nhằm huy động trí tuệ tiềm tàng của tập thể. Cần lấy ý kiến rộng rãi tất cả các cán bộ, GV, sau đó sàng lọc ý kiến ở các cuộc họp cốt cán tại khoa, tại trường. Hiệu trưởng là người quyết định cuối cùng các vấn đề lớn trên cơ sở tham khảo ý kiến của tập thể cán bộ, GV trong trường. 584
  7. - Khuyến khích các quan điểm mở, văn hóa chia sẻ và đối thoại, các cơ sở GDĐH tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp giữa GV đại học và hiệu trưởng. Tạo cơ hội cho GV đại học được đối thoại trực tiếp với hiệu trưởng là biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường sự tham gia quyết định của GV đối với các vấn đề quan trọng của nhà trường. GV đại học tham gia ý kiến gắn với các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp mà họ được trao, bao gồm: tham gia ý kiến về lĩnh vực giảng dạy; phát triển chương trình; nghiên cứu khoa học; quản trị nhà trường và bồi dưỡng, phát triển chuyên môn cho GV đại học. Đây là các lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thực hiện mọi nhiệm vụ, vai trò của GV đại học. 2.4.4. Bồi dưỡng để nâng cao năng lực tự chủ nghề nghiệp cho GV ĐHSP địa phương Các trường đại học cần tổ chức bồi dưỡng để nâng cao năng lực tự chủ nghề nghiệp cho đội ngũ GV, xây dựng khung năng lực tự chủ nghề nghiệp với đầy đủ các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và thái độ tương ứng. Nội dung bồi dưỡng nhằm phát triển năng lực tự chủ nghề nghiệp cho GV bao gồm: phương pháp tư duy, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng tạo động lực làm việc ... Hình thức bồi dưỡng bao gồm: tự học, tham gia các lớp bồi dưỡng; cố vấn/tư vấn; huấn luyện; luân phiên thay đổi công việc. Căn cứ trên thực trạng năng lực đội ngũ, nhu cầu đào tạo bồi dưỡng và điều kiện tài chính, cơ sở vật chất của nhà trường, hiệu trưởng sẽ chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển chuyên môn cho GV toàn trường hoặc ủy quyền cho các đơn vị trực tiếp xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho cán bộ của đơn vị mình. 3. KẾT LUẬN Từ tầm quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW năm 2013) với nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế...” 2 phân tích thực trạng ta thấy rằng: nếu thời hoàng kim của GDĐH là thời kỳ tăng trưởng mạnh về số SV nhập học, tăng nhanh ngân sách dành cho nghiên cứu, có sự hỗ trợ chung của xã hội. Thì rõ ràng, ngày nay đổi mới GDĐH phải nên tự chủ, đồng thời cần nâng cao quyền và năng lực tự chủ nghề nghiệp của GV, đây là yếu tố cạnh tranh mạnh mẽ trong toàn hệ thống đại học để có những GV giỏi nhất, có năng lực nhất cho vị thế của nhà trường. Đây chính là cơ hội để mỗi GV phát huy tố chất, thể hiện năng lực phát triển thương hiệu bản thân. Tự chủ tạo quyền tự do về học thuật để theo đuổi những nghiên cứu, tạo nên sức sáng tạo trong giảng dạy và nghiên cứu. Quyền tự do học thuật của GV, sáng kiến cải tiến trong giảng dạy, quá trình nâng bậc về học thuật...không nằm ngoài những nỗ lực khác nhằm đẩy mạnh chất lượng nhà trường, đặc biệt là các trường ĐHSP địa phương. 585
  8. ________________ Tài liệu tham khảo 1 Rosalba Cardenas Ramos (2006), Considerations on the role of teacher autonomy, Colombian Applied Linguistics Journal, No 8, pp. 183-202. 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết sổ 29, TW 8 (Khóa XI), về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội. 3 Đảng Cộng Sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Tập I, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 4 Hilary Metcalf, Heather Rolfe, Philip Stevens and Martin Weale (2006), Recruitment and Retention of Academic Staff in Higher Education, National Institute of Economic and Social Research, ISBN 1 84478 523 8. 5 Oksana A. Gavrilyuk et al, (2015), University Autonomy and Teacher’s Academic Freedom in Modem Russia: Challenges and Opportunities, International Journal of Humanities Social Sciences and Education (IJHSSE) Volume 2, Issue 10, October 2015, pp 8-15 ISSN 2349- 0373 (Print) & ISSN 2349-0381 (Online) www.arcjoumals.org ©ARC Page 8). 6 Don Anderson Richard Johnson (April 1998), University Autonomy in Twenty Countries, Centre for Continuing Education The Australian National University. 7 Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng. 8 Quốc hội (2010), Luật Giáo dục, số 43/2019/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019. 9 Hoàng Thị Kim Huệ (2017), Phát triển tự chủ nghề nghiệp cho GV đại học sư phạm. Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 10 C. Thavenius (1999), Teacher autonomy for learner autonomy. In: S. Cotterall & D. Crabbe (Eds.). Learner Autonomy in Language Learning: Defining the Field and Effecting Change (pp. 159-163). Frankfurt am Main: Peter Lang. [11] Lê Văn Hảo (2015), “Xây dựng bộ tiêu chí và khung phát triển văn hóa chất lượng trường đại học”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, (2). [12] T.S.M. Amarasena (2015), The impact of work autonomy on job satisfaction of academic staff: an empirical examination of government universities in Sri Lanka, International Journal of recent advances in organizational behavior and secision sciences (IJRAOB) An online International research journal, 2015 Vol: l Issue 4. [13] William Edward Moonmaw (2005), Teacher-percaived autonomy: a construct validation of the teacher autonomy scale, In partial fulfillment of the requirements for the degree of Doctor of Education. [14] Jane Muceke Ng’ethel, Dr. Mike E. Iravo, G.S. Namusonge (2012), Determinants of Academic Staff Retention in Public Universities in Kenya: Empirical Review, International Journal of Humanities and Social Science Vol. 2 No. 13; July 2012. [15] Richard c. Smith (2001), Teacher education for teacher-learner autonomy, Centre for English Language Teacher Education (CELTE) University of Warwick, UK. 586
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1