intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Từ tiếng việt cổ trong Dictionarium anamitico - Latinum của J.L.taberd

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

68
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếng Việt như chúng ta đang sử dụng ngày nay đã trải qua một quá trình lâu dài hình thành, biến đổi và phát triển, đã được rèn giũa, chuẩn hoá để trở thành một thứ tiếng giàu đẹp, phong phú, diễn đạt hết các ý tưởng. Trong quá trình đó, bằng nhiều cơ chế khác nhau, tiếng Việt không ngừng sản sinh ra các đơn vị từ vựng mới nhằm cập nhật và hiện đại hóa ngôn ngữ, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội. Đồng thời tiếng Việt cũng dần mất đi một bộ phận từ ngữ hoặc chúng bị đẩy lùi xuống lớp từ vựng tiêu cực, thu hẹp phạm vi sử dụng. Đó chính là hệ thống từ ngữ cổ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Từ tiếng việt cổ trong Dictionarium anamitico - Latinum của J.L.taberd

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02<br /> <br /> TỪ TIẾNG VIỆT CỔ TRONG DICTIONARIUM<br /> ANAMITICO - LATINUM CỦA J.L.TABERD<br /> Đỗ Thùy Trang<br /> Trường Đại học Quảng Bình<br /> Tóm tắt. Tiếng Việt như chúng ta đang sử dụng ngày nay đã trải qua một quá trình lâu dài<br /> hình thành, biến đổi và phát triển, đã được rèn giũa, chuẩn hoá để trở thành một thứ tiếng giàu<br /> đẹp, phong phú, diễn đạt hết các ý tưởng. Trong quá trình đó, bằng nhiều cơ chế khác nhau,<br /> tiếng Việt không ngừng sản sinh ra các đơn vị từ vựng mới nhằm cập nhật và hiện đại hóa ngôn<br /> ngữ, đáp ứng sự đòi hỏi của xã hội. Đồng thời tiếng Việt cũng dần mất đi một bộ phận từ ngữ<br /> hoặc chúng bị đẩy lùi xuống lớp từ vựng tiêu cực, thu hẹp phạm vi sử dụng. Đó chính là hệ thống<br /> từ ngữ cổ. Đối với đa số người bản ngữ đương đại, hệ thống từ cổ này thực sự như những “tử<br /> ngữ”, chúng không được tri nhận, lưu giữ trong ý thức và sử dụng trong đời sống hàng ngày.<br /> Chúng ta chỉ có thể bắt gặp chúng như một hình ảnh của quá khứ xa xôi trong các tác phẩm văn<br /> chương cổ, đặc biệt chúng được ghi chép và lưu giữ trong những cuốn từ điển của các giáo sĩ<br /> phương Tây và các linh mục Việt Nam biên soạn vào thời kỳ bình minh của chữ quốc ngữ như từ<br /> điển Anam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La) của Giáo sĩ Alexandre de Rhodes,<br /> Dictionarium Anamitico -Latinum (tự vị Việt - Latinh) do giám mục Taberd biên soạn và Đại<br /> Nam Quốc âm tự vị của P.Huỳnh Tịnh Của. Trong đó, không thể không nhắc đến hệ thống từ<br /> ngữ tiếng Việt cổ trong Dictionarium Anamitico- Latinum của giám mục J.L.Taberd.<br /> <br /> 1. VỀ DICTIONARIUM ANAMITICO - LATINUM<br /> Dictionarium Anamitico -Latinum (Nam Việt dương hiệp tự vị; Tự vị Việt - Latinh)<br /> do giám mục Jean Louis Taberd biên soạn tại Việt Nam từ cuối thế kỉ XVIII (từ năm<br /> 1772 đến năm 1773) nhưng mãi đến đầu thế kỉ XIX mới được xuất bản tại Ấn Độ (năm<br /> 1838). Là “một tài liệu không thể bỏ qua vì nó đánh dấu một chặng đường quan trọng<br /> trong lịch sử hình thành nền quốc học Việt Nam” (Trần Văn Toàn - Cựu GS ĐH Công<br /> giáo Lile, Pháp) nhưng đến nay tự vị Việt - Latinh hầu như đã tuyệt bản.<br /> Ngay từ thế kỉ XVII, các giáo sĩ Tây phương sang Việt Nam truyền giáo đã ra sức<br /> quan sát phong tục tập quán, đồng thời học cả tiếng nói và chữ viết của người bản xứ để<br /> dễ bề chia sẻ niềm tin tôn giáo của họ. Trong thời kỳ này các giáo sĩ phương Tây không<br /> chỉ là những nhà truyền bá tôn giáo mà họ còn tỏ ra là những người am hiểu văn hóa, ngôn<br /> ngữ của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Điều này thể hiện qua những cuốn<br /> sách, những công trình nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau như tôn giáo, văn hóa, ngôn<br /> ngữ... họ còn để lại cho hậu thế.<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02<br /> <br /> Bìa và trang nhất tự vị Việt - Latinh của J.Taberd<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02<br /> <br /> Đầu thế kỉ XVII, giáo sĩ Girolamo Maiorica (Ý) đã soạn ra hàng chục cuốn sách đạo<br /> bằng chữ Nôm. Sau đó giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Pháp) đã cho in tại Roma năm 1651<br /> sách giáo lí bằng chữ quốc ngữ, sách về ngữ học Việt Nam bằng tiếng Latinh và tự vị<br /> Việt-Bồ-La. Sáng tạo ra các công trình ấy vốn là những người có học thức, có đầu óc cởi<br /> mở và được giúp sức bởi những người bản xứ, vốn là những thầy giảng đi theo cộng tác<br /> trong việc truyền giáo. Họ cũng là những người biết chữ Hán, chữ Nôm và hiểu biết các<br /> phong tục tập quán nước ta.<br /> Mấy thế kỉ về trước, tiếng Latinh là ngôn ngữ dùng trong giáo hội Công giáo đồng<br /> thời cũng là ngôn ngữ của giới học giả châu Âu, cũng như vị trí của chữ Hán ở miền<br /> Đông châu Á. Các giáo sĩ, các học giả thời đó ngoài tiếng mẹ đẻ còn am hiểu cả tiếng<br /> Latinh. Vì thế, Taberd cũng như các giáo sĩ khác viết sách và tự điển bằng tiếng Latinh,<br /> không chỉ dành cho người Công giáo mà còn hướng đến giới học giả châu Âu nhằm giới<br /> thiệu ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam. Thật thú vị khi A.de Rhodes, J.Taberd là những<br /> người nói tiếng Pháp nhưng đã soạn tự vị Việt - Latinh chứ không soạn tự vị Việt - Pháp.<br /> Lý do thật đơn giản, họ là những người đi giảng đạo, chia sẻ niềm tin Công giáo chứ<br /> không phải là người đi truyền bá văn hoá, chính trị và học thuật nước Pháp. Về sau này,<br /> khi người Pháp can thiệp vào Việt Nam và đặt nền móng thống trị trên đất nước Việt<br /> Nam, thì lúc đó mới xuất hiện tự vị Pháp-Việt, Việt-Pháp.<br /> Nét độc đáo của Tự vị Taberd là có cả chữ Latinh, chữ Nôm lẫn chữ quốc ngữ. Chữ<br /> quốc ngữ được ghi khá chính xác cách phát âm, còn chữ Nôm chỉ ghi bằng mặt chữ. Phần<br /> đầu cuốn từ điển, tác giả trình bày những nhận xét sơ bộ về tiếng Việt, sau đó giảng về<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02<br /> <br /> âm học, thanh học và văn phạm Việt Nam. Soạn giả viết tỉ mỉ về chính âm, phụ âm đầu<br /> và phụ âm cuối, đặc biệt là về hệ thống sáu thanh điệu của tiếng Đàng Ngoài. Phần chính<br /> của tự vị gồm 620 trang, mỗi trang chia làm hai cột. Các chữ trong tự vị được xếp theo<br /> trật tự ABC của mẫu tự Latinh nhưng mỗi từ đều được viết bằng chữ Nôm trước, sau đó<br /> viết theo mẫu tự Latinh rồi dịch nghĩa ra tiếng Latinh. Tiếp theo là thêm các kiểu nói sử<br /> dụng các từ đó. Vì J.Taberd hoạt động truyền giáo ở Đàng Trong nên tự vị nặng về tiếng<br /> Đàng Trong. Ngoài những từ ngữ thông thường, tự vị có 40 trang dành cho những từ ngữ<br /> chuyên môn về thực vật học, cây cối, hoa quả, rau cỏ ở Đàng Trong.<br /> Nội dung và cấu trúc của tự vị Việt - Latinh đã chứng tỏ sự am tường và uyên thâm<br /> của soạn giả Taberd cùng những người cộng sự không những trong lĩnh vực ngôn ngữ<br /> học (tiếng Latinh, tiếng Nôm, tiếng Việt, tiếng Hán) mà còn cả lĩnh vực khoa học tự<br /> nhiên. Chúng ta có thể tra cứu tự vị theo chữ Hán, chữ Nôm hay chữ quốc ngữ đều dễ<br /> dàng.<br /> 2. VỀ TỪ CỔ TRONG TIẾNG VIỆT<br /> Xung quanh thuật ngữ từ cổ, giới Việt ngữ học vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác<br /> nhau, chưa thực sự thống nhất. Nhưng chúng tôi quan niệm từ cổ là những từ thuộc hai<br /> nhóm sau đây:<br /> Một là những từ đã được sử dụng phổ biến trong lịch sử nhưng hiện nay không còn<br /> tồn tại trong từ vựng đồng đại, chúng biểu thị những đối tượng mà trong tiếng Việt hiện<br /> nay đã có các từ đồng nghĩa tương ứng để thay thế. Bản thân chúng bị đẩy ra ngoài hệ<br /> thống từ vựng hiện đại, bởi trong quá trình phát triển ngôn ngữ đã xảy ra những xung đột<br /> về ý nghĩa hoặc về ngữ âm, kết quả là chúng đã được các đơn vị từ vựng khác thay thế<br /> hoàn toàn. Vì vậy trong từ vựng đồng đại, chúng thuộc về lớp từ cổ.<br /> Hai là từ vị trí toàn dân, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nay chúng đã bị thu hẹp<br /> phạm vi sử dụng, trở thành lớp từ vựng tiêu cực như từ địa phương, trở thành từ cổ.<br /> Dù thuộc nhóm nào thì tựu trung lại, từ cổ chỉ xuất hiện trong phạm vi hẹp, như<br /> trong các tác phẩm văn học, lịch sử, ghi chép cổ, hoặc được dùng theo vùng miền địa lý,<br /> không mang tính phổ biến, kết quả là không phải người bản địa nào hiện nay cũng hiểu<br /> được ý nghĩa của từ cổ. Có thể có những từ vẫn được dùng như một số yếu tố trong từ<br /> ghép nhưng đã bị mất nghĩa hoàn toàn về mặt đồng đại, đa số người sử dụng không lí giải<br /> được ý nghĩa từ nguyên của chúng. Do đó, một căn cứ được sử dụng để xác định từ cổ là<br /> cảm thức của người bản ngữ đương đại. Tuy nhiên, tiêu chí này chỉ mang tính chất tương<br /> đối, vì nó phụ thuộc nhiều vào khả năng ngôn ngữ của người dùng nên mang tính chủ<br /> quan.<br /> 3. HỆ THỐNG TỪ CỔ TRONG TỰ VỊ VIỆT – LATINH CỦA J.TABERD<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH, SỐ 02<br /> <br /> Xuất phát từ quan niệm này, chúng tôi đã thống kê được gần 600 đơn vị được xem<br /> là cổ trong tự vị của Taberd. Tuy nhiên, so với các từ điển khác, như của A.de Rhodes,<br /> Huỳnh Tịnh Của…thì tự vị của Taberd có điểm khác biệt cơ bản, đó là trong khi làm tự<br /> điển, Taberd chỉ thống kê các đơn vị trong sự đối chiếu Hán- Nôm- quốc ngữ - Latinh<br /> chứ không hề giải thích nghĩa của các đơn vị từ đó. Vì vậy, việc thống kê từ cổ trong tự<br /> vị của Taberd gặp nhiều khó khăn khi phải thực hiện thao tác nhận diện nghĩa của từ.<br /> Mặt khác, tác giả làm tự vị lấy đơn vị cơ bản không phải là từ mà các tiếng (âm tiết), các<br /> yếu tố cấu tạo từ, trên cơ sở đó mới dẫn giải minh họa một số từ thường gặp có chứa các<br /> tiếng đó. Cách làm này tuy có gây khó khăn cho người làm thống kê nhưng nó xuất phát<br /> từ bản chất loại hình và truyền thống âm tiết của tiếng Việt, phản ánh nhận thức bước đầu<br /> tuy còn cảm tính nhưng hết sức chính xác của Taberd về loại hình ngữ âm đơn lập, âm<br /> tiết tính cao độ của tiếng Việt. Do đó, kết quả 600 đơn vị ở đây là âm tiết (đương nhiên<br /> nhiều khi trùng với các từ đơn) chứ không phải hoàn toàn là các từ. Số lượng từ cổ trong<br /> tự vị trên thực tế vì thế sẽ lớn hơn con số 600 rất nhiều, vì mỗi âm tiết như vậy, Taberd<br /> có thể dẫn nhiều từ khác nhau, mà chúng tôi chỉ lấy một số để minh hoạ.<br /> Khảo sát tự vị, có thể nhận thấy hệ thống từ cổ tiếng Việt gồm các nhóm sau đây:<br /> Trước hết chúng ta có thể tìm thấy trong tự vị những từ đã hoàn toàn biến mất trong<br /> hệ thống tiếng Việt hiện đại. Cùng biểu thị những sự vật ấy nhưng chúng đã được thay<br /> thế bằng các hình thức ngữ âm hoàn toàn khác.<br /> Ví dụ: xâm (nói xâm), sằn (sằn dã), rấn (rấn thuyền,) phãng (cái phãng), nhăp<br /> (thức nhăp), lế (cách lế), chệc (chệc a), ác vàng, bai (thanh bai, bẻ bai)…<br /> Có thể khẳng định hiện nay những từ này đã không còn tồn tại trong hệ thống từ<br /> vựng tiếng Việt đồng đại. Người bản ngữ không còn tri nhận ý nghĩa về chúng nữa,<br /> không sử dụng chúng trong giao tiếp hằng ngày. Chỉ trừ một bộ phận rất nhỏ những<br /> người nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ, văn hóa, văn học...có thể hiểu được ý nghĩa đã từng<br /> có của những đơn vị này. Sự biến mất của những đơn vị ngôn ngữ này là hiện tượng phổ<br /> biến và có tính quy luật tất yếu trong ngôn ngữ. Từ vựng của ngôn ngữ là một kho sẵn có,<br /> chỉ mang tính ổn định tương đối. Trong lòng hệ thống ổn định thống nhất đó luôn luôn<br /> diễn ra những quá trình vận động trái chiều nhau của các yếu tố. Một quá trình không<br /> ngừng làm giàu, phát triển vốn từ bằng nhiều cơ chế khác nhau (các phương thức chuyển<br /> nghĩa, vay mượn, ghép...) để sản sinh từ mới nhằm đáp ứng xu hướng cập nhật và hiện<br /> đại hóa ngôn ngữ. Ngược lại, có một quá trình triệt tiêu, làm biến mất hoặc tiêu cực hóa<br /> một số đơn vị tỏ ra lỗi thời, tần suất sử dụng ít. Hai quá trình đối lập này luôn diễn ra<br /> song song, thể hiện quy luật vận động tất yếu của bất kỳ ngôn ngữ nào, trong đó tiếng<br /> Việt cũng không phải là ngoại lệ. Do đó, xét về phương diện lịch sử, tự vị của Taberd có<br /> một ý nghĩa vô cùng to lớn, là pho tư liệu quý báu lưu giữ tiếng nói của dân tộc ta trong<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2