intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng giáo dục của Nho giáo nguyên thủy và ý nghĩa của nó đối với giáo dục công dân hiện nay

Chia sẻ: ViSasuke2711 ViSasuke2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

71
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích một số giá trị về khía cạnh giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng của Nho giáo nguyên thủy. Trên tinh thần đó nêu lên ý nghĩa của việc tiếp biến những giá trị tích cực đó vào nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, định hướng giá trị cho thế hệ trẻ, nhằm góp vào chiến lược phát triển con người Việt Nam mới vừa có tri thức vừa có nhân cách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng giáo dục của Nho giáo nguyên thủy và ý nghĩa của nó đối với giáo dục công dân hiện nay

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6B, pp. 82-90<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0104<br /> <br /> TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA NHO GIÁO NGUYÊN THỦY<br /> VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI GIÁO DỤC CÔNG DÂN HIỆN NAY<br /> Phạm Việt Thắng<br /> <br /> Khoa Lí luận Chính trị - Giáo dục Công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Bài viết tập trung phân tích một số giá trị về khía cạnh giáo dục nói chung và giáo<br /> dục đạo đức nói riêng của Nho giáo nguyên thủy. Trên tinh thần đó nêu lên ý nghĩa của<br /> việc tiếp biến những giá trị tích cực đó vào nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân,<br /> định hướng giá trị cho thế hệ trẻ, nhằm góp vào chiến lược phát triển con người Việt Nam<br /> mới vừa có tri thức vừa có nhân cách.<br /> Từ khóa: Nho giáo, giáo dục đạo đức, giáo dục công dân.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và phát triển ở Trung Quốc, được du<br /> nhập vào Việt Nam từ khá sớm, đã từng giữ địa vị độc tôn và ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống<br /> tinh thần của Việt Nam trong quá khứ. Chính vì vậy, nghiên cứu về Nho giáo nói chung và ảnh<br /> hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam nói riêng luôn là một vấn đề thu hút được sự quan<br /> tâm của giới nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn và nghiên cứu giáo dục. Đã có rất nhiều công<br /> trình nghiên cứu về Nho giáo, cả trên khía cạnh tư tưởng và sự phát triển của Nho giáo ở Việt<br /> Nam, lẫn những ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam. Có thể kể ra đây một số công<br /> trình như: Nho giáo tại Việt Nam của tập thể tác giả Viện Triết học; tác giả Vũ Khiêu với Nho giáo<br /> và phát triển ở Việt Nam; Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn<br /> của Nguyễn Tài Thư; Bàn về đạo Nho của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện.v.v.. Trong các công<br /> trình này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra nhiều giá trị tích cực của Nho giáo, như giáo dục đạo làm<br /> người, đối nhân xử thế .v.v.., cũng như chỉ ra những hạn chế của Nho giáo như tính khắt khe, trói<br /> buộc con người, đặc biệt là đối với phụ nữ.v.v..<br /> Bên cạnh những nghiên cứu trong nước, việc nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo<br /> đối với các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung trong đó có Việt Nam cũng<br /> thu hút sự quan tâm của nhiều học giả. Có thể nêu ra ở đây một số công trình như: Lưu Tông Hiền,<br /> Thái Đức Quý (Chủ biên): Nho học phương đông đương đại; Trương Bá Vĩ (Chủ biên): Nghiên<br /> cứu văn hiến học thư tịch Hán Nôm Việt Nam; Lý Vị Túy: Luận bàn về giao lưu văn hóa Trung<br /> Việt.v.v.. Nhìn chung, các tác giả đều có chung nhận định, Nho giáo tuy đã kết thúc vai trò lịch sử<br /> của mình nhưng những ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống tinh thần của các quốc gia Đông Á<br /> và Đông Nam Á hiện nay vẫn còn, cho dù đậm nhạt khác nhau. Ở một số quốc gia như Nhật Bản,<br /> Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/8/2016<br /> Liên hệ: Phạm Việt Thắng, e-mail: vietthang271077@yahoo.com.vn<br /> <br /> 82<br /> <br /> Tư tưởng giáo dục của Nho giáo nguyên thủy và ý nghĩa của nó đối với giáo dục...<br /> <br /> Singapore. . . đang có xu hướng kế thừa những giá trị đạo đức tích cực của Nho giao nguyên thủy<br /> phục vụ cho mục tiêu giáo dục con người hiện nay.<br /> Việc Việt Nam đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập thế giới đã làm nảy sinh<br /> những nguy cơ đối với văn hoá Việt Nam, đặc biệt trên lĩnh vực đạo đức công dân, đạo đức xã hội.<br /> Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển giáo dục Việt Nam, tỉ lệ quay cóp ở học sinh tiểu<br /> học 8%, THCS 55%, THPT 60%; tỉ lệ nói dối cha mẹ: tiểu học 22%, THCS 50%, THPT 64%; tỉ lệ<br /> vi phạm ATGT: tiểu học 4%, THCS 35%, THPT 70%. (GDCD và đạo đức học sinh; VOV online,<br /> 7h30 ngày 29/11/2008). Nhìn vào kết quả khảo sát thì có vẻ học sinh càng lớn thì ý thức công dân<br /> càng kém đi, nói cách khác, học sinh càng lớn càng muốn làm những điều khiến người lớn đau<br /> đầu [1]. Trong một nghiên cứu về giáo dục đạo đức công dân, tác giả Ngô Đình Xây cho rằng, để<br /> giáo dục đạo đức cho người dân và đưa đạo đức trở thành hạt nhân để điều chỉnh và định hướng<br /> cho sự phát triển thì cần phải xác định và xây dựng được hệ giá trị chuẩn và mẫu người đạo đức<br /> [9]. Tác giả Hà Nhật Thăng trong “Những vệc cần làm để phát huy vai trò của môn GDCD đối với<br /> sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh phổ thông” nhấn mạnh, không chỉ điều chỉnh giá<br /> trị, nội dung giáo dục, dạy học mà cả mục tiêu của hoạt động dạy học [4]. Tuy nhiên, vấn đề đặt<br /> ra là, trong sự đổi mới toàn diện giáo dục sắp tới, chúng ta cần phải xác lập hệ giá trị, chuẩn mực<br /> đạo đức mới và tổ chức giáo dục cho học sinh, cho thế hệ trẻ như thế nào thì vẫn còn chưa rõ và<br /> còn nhiều tranh luận.<br /> Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi mạnh dạn đi vào phân tích một số giá trị tích cực của<br /> đạo đức Nho giáo nguyên thủy đối với giáo dục đạo đức công dân Việt Nam hiện nay nhằm góp<br /> thêm cách tiếp cận trong việc kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức nói chung và đổi mới giáo<br /> dục nói riêng.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo nguyên thủy<br /> <br /> 2.1.1. Nho giáo nguyên thủy với tư cách là học thuyết về giáo dục đạo đức, nhân cách con<br /> người<br /> Lí luận Nho giáo coi trọng chữ Nhân, đề cao tình yêu thương con người. “Nhân” gọi là toàn<br /> đức, là đức tính quan trọng nhất của đạo làm người. Ở Khổng Tử, trước hết nhân là phải biết tiết<br /> chế hành vi của bản thân sao cho phù hợp với lễ [7;239]. Thứ hai, nhân là phải tự giác, do tự bản<br /> thân quyết định chứ không dựa vào người khác. Và sau cùng, để đạt đến nhân thì tất cả những gì<br /> không phù hợp với lễ thì không xem, không nghe, không nói, không làm [7;239]. Cho nên nói,<br /> nhân chính là một loại đạo đức toàn diện. Bên cạnh đó, Khổng Tử cũng cho rằng, một người được<br /> coi là nhân thì phải hội đủ năm đức: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung có nghĩa là đối với người<br /> thì không kiêu ngạo, đối với việc thì làm đến nơi đến chốn. Khoan là đối đãn với người phải khoan<br /> hậu, rộng rãi, không riết róng. Tín là đã nói như thế nào thì phải làm như vậy, phải biết giữ lời đã<br /> hứa. Khổng Tử cho rằng chữ tín giúp tạo dựng niềm tin trong các quan hệ xã hội, xuyên suốt trong<br /> mọi ứng xử và việc làm. Mẫn là siêng năng, tích cực. Huệ tức là biết làm ơn cho người khác, là<br /> cho mà không tiếc.<br /> Nhân ở Khổng Tử còn là đạo Trung Thứ. Trong sách Trung Dung có đoạn Khổng Tử nói:<br /> “Cái mà mình muốn con mình đối đãi với mình thì mình làm cho cha mẹ. Cái mà mình muốn bề<br /> tôi mình làm cho mình thì mình làm cho vua mình. Cái mà mình muốn em mình làm cho mình thì<br /> mình làm cho anh mình. Cái mà mình muốn bè bạn đối với mình thì mình làm trước cho bè bạn”<br /> [7, 53]. Như vậy ở đây Khổng Tử khi nói về con người là ông đã đặt con người trong các quan hệ<br /> 83<br /> <br /> Phạm Việt Thắng<br /> <br /> xã hội cụ thể. Ở trong những quan hệ đó thì mình và người khác là như nhau. Cái mình muốn thì<br /> người khác cũng muốn và mình không muốn thì người khác cũng không muốn. Cho nên Khổng<br /> Tử nói: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người” [7;297], “Người có lòng nhân nghĩa là<br /> giúp đỡ người khác thành công khi mình chưa thành công, giúp người khác hiển đạt trước khi mình<br /> hiển đạt” [7;177]. Tiếp nối Khổng Tử, các học trò đời sau đều phát huy tinh thần của “Nhân”, đề<br /> cao giáo dục điều nhân cho xã hội.<br /> Từ “Nhân” Nho giáo nói về “Hiếu Đễ”, coi hiếu đễ là gốc của nhân và chiếm một vị trí đặc<br /> biệt quan trọng tư tưởng đạo đức Nho giáo. Hiếu vừa là tư tưởng cũng vừa là hành vi. Coi hiếu đễ<br /> là gốc của nhân, tức là Khổng Tử đặt đạo đức gia đình làm gốc để phát triển đạo đức xã hội, phải<br /> từ tình yêu thương trong gia đình mới có thể có được tình yêu thương ngoài xã hội, thiên hạ. Trong<br /> con người có ba phạm vi, đầu tiên là gia đình, sau là xã hội và cuối cùng là nhà nước với dân.<br /> Nếu hiểu một cách đơn giản thì ai đã tốt trong gia đình thì ra ngoài mới có thể tốt. Hiếu là sự kính<br /> trọng, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ. Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự phụng dưỡng cha mẹ<br /> khi già yếu. Sự phụng dưỡng ấy phải được xuất phát từ tâm, phải hàm chứa trong đó cả sự tôn kính<br /> chứ không chỉ dừng lại ở việc chăm lo cơm bữa hàng ngày. Còn sống thì kính trọng phục dưỡng,<br /> chết đi thì phải an táng và thờ cúng. Mạnh Tử còn cho rằng, bất hiếu có năm loại: lười biếng; mê<br /> cờ bạc rượu chè; tham tiền của, chỉ yêu thương vợ con; ham chơi phóng túng; khoe khoang sức<br /> mạnh [7;485].<br /> Tuy nhiên cũng phải phân tích thêm là, hiếu trong sự phát triển của Việt Nho đã được phát<br /> triển thêm một tầng nhận thức nữa đó là hiếu với nước. Hiếu với cha mẹ được coi là “tiểu hiếu”,<br /> hiếu với nước mới là “đại hiếu” (câu chuyện Nguyễn Phi Khanh khi bị áp giải về Trung Quốc đã<br /> nói với Nguyễn Trãi học hành nuôi chí đánh giặc cứu nước mới là đại hiếu)<br /> Tín là chỉ phẩm chất có từ sự thành thực. Chuẩn mực của sự giao tiếp xã hội phải lấy thành<br /> tín làm căn bản, làm người hay làm việc cũng phải giữ lời hứa, chữ tín. Khổng Tử nói dù là đối<br /> với công việc hay trong các quan hệ xã hội đều phải luôn giữ chữ tín, “người không có uy tín, thì<br /> không biết có thể làm được gì” [7;120], “trước hết hãy biến lời nói thành việc làm, sau đó hãy bàn<br /> tiếp” [7;116]. Những điều này đều là nhấn mạnh điều cơ bản làm người phải thành tín. Thành tín<br /> là quy phạm đạo đức cơ bản, cho dù là cá nhân hay tập thể xã hội, bất tín sẽ không thể có chỗ đứng<br /> trong xã hội.<br /> Chính trong tư tưởng Nho giáo phân thành ba tầng nghĩa: Một là về góc độ tu thân, bao gồm<br /> ý nghĩa “chính tâm”, “thành ý”. Sách Đại học viết: “muốn tu dưỡng thành chính nhân thì trước<br /> hết phải chính tâm, muốn là người chính tâm thì trước hết phải thành ý” [7;10]. Nên gọi “chính<br /> tâm” là chỉ nội tâm ngay thẳng, không tồn tại những tà niệm, hành động theo nghĩa. Điều này nhấn<br /> mạnh sự thống nhất về nội tâm ngay thẳng, hành sự hợp nghĩa. Hai là nói về góc độ cảnh giới tinh<br /> thần, đó là chính nghĩa, chính khí. Thông qua tu dưỡng dần dần tích lũy tinh thần đạo đức và sinh<br /> ra một tinh thần khí phách, thể hiện khí phách đại trượng phu “giàu sang không được phóng đãng,<br /> nghèo khó không được lay động, quyền uy không được để bị khuất phục” [7;452]. Ba là giảng về<br /> người cầm quyền, cần phải hành sự ngay thẳng, bản thân phải chấp hành luật pháp. Trên không<br /> ngay ngắn, chính trực thì sẽ không làm gương cho dân chúng được [7;260], “người lãnh đạo phải<br /> tự sửa mình ngay thẳng thì dù không ban bố mệnh lệnh thì dân chúng sẽ tự giác làm; người lãnh<br /> đạo bất chính dù ban bố mệnh lệnh thì dân chúng cũng không phục tùng” [7;256]. Đây là tư tưởng<br /> chính trị “chính nhân tiên chính kỉ” trong Nho giáo. Tư tưởng này rất được coi trọng trong lịch sử<br /> Nho giáo.<br /> Liêm là biểu thị sự liêm khiết, liêm chính, không lấy bừa, là sự đối lập với “tham”, chỉ có<br /> liêm khiết mới có thể trong sạch. Liêm khiết trở thành một phẩm chất đạo đức của người làm quan,<br /> có liêm khiết thì sẽ có thanh quan, ngược lại là tham quan. Điều kiện tiên quyết của liêm khiết là<br /> 84<br /> <br /> Tư tưởng giáo dục của Nho giáo nguyên thủy và ý nghĩa của nó đối với giáo dục...<br /> <br /> sự tiết kiệm. Mạnh tử nói “người tiết kiệm không tranh đoạt của người”, chính là nói, người tiết<br /> kiệm sẽ không tham lam lấy tài sản của người khác, cũng giống với ý “tiết kiệm có thể dưỡng đức<br /> liêm khiết”. Các Nho gia đời sau mới đưa ra mệnh đề “chỉ có tiết kiệm mới giúp liêm khiết”. Sự<br /> tiết kiệm trở thành một phẩm chất đạo đức phải có của người làm quan, trong xã hội đương đại,<br /> liêm khiết trong việc công là một phẩm chất đạo đức nòng cốt của các nhân viên công vụ.<br /> Sỉ là chỉ cái tâm xấu hổ của con người, Khổng tử nói “bậc quân tử phải biết xấu hổ khi không<br /> làm được những điều mình nói” [7;278]. Còn Mạnh tử cho rằng, làm người không thể không biết<br /> xấu hổ, để bảo vệ sự tôn nghiêm của nhân cách, đối với các hành vi thiếu đạo đức thì không được<br /> làm. Sỉ là một loại lương tâm đạo đức, biết xấu hổ là yêu cầu cơ bản để làm người, không biết xấu<br /> hổ là người không có nhân cách, bởi vậy, Mạnh tử nhấn mạnh, “con người phải có lòng biết xấu<br /> hổ”, “sự xấu hổ có quan hệ rất lớn đối với con người,... Không thấy xấu hổ như người ta thì làm<br /> sao theo kịp người ta” [7;555]. Lấy sự xấu hổ để làm sự quan trọng của việc xây dựng quốc gia đều<br /> được các nhà Nho tán đồng. Bởi vậy, từ ngàn xưa tới nay, những bậc nhân sĩ vì để rửa mối quốc<br /> nhục mà đầu rơi máu chảy không từ, đó cũng là một biểu hiện của tinh thần “biết xấu hổ”.<br /> <br /> 2.1.2. Tư tưởng Nho giáo với tư cách là triết lí giáo dục<br /> Trên thực tế, môn phái Nho gia chính là được hình thành trong quá trình dạy học ở trường<br /> tư thục của Khổng Tử. Do vậy, thật ra Khổng Tử là một nhà giáo dục thành công.<br /> Đầu tiên, từ góc độ bình đẳng con người, Khổng Tử khẳng định quyền được giáo dục của<br /> tất cả mọi người (hữu giáo vô loài), do vậy, quý tộc được giáo dục, thường dân cũng nên nhận được<br /> sự giáo dục, xét về quyền được học tập thì quý tộc và dân thường là bình đẳng. Trên cơ sở đó, ông<br /> cũng đưa ra đối với những người học thì không phần biệt đối xử, tất cả đều có quyền học như nhau<br /> và không khước từ bất kì ai đến học. Nhìn từ góc độ sự khác nhau giữa các cá thể, Khổng Tử khẳng<br /> định tác dụng quan trọng của giáo dục. Khổng Tử từng đưa ra mệnh đề triết học nổi tiếng “tính<br /> tương cận dã, tập tương viễn”, đó chính là cơ sở lí luận trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo. Ông<br /> cho rằng tính cách, bản năng và những tố chất ban đầu của con người cũng gần giống nhau, “tập”<br /> là nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự khác biệt tính cách con người, bao gồm cả sự nỗ lực chủ quan<br /> của cá nhân, ảnh hưởng của giáo dục càng góp phần quan trọng, cơ sở của giáo dục dựa vào tính<br /> “dẻo” của mỗi cá nhân. Do vậy, Khổng tử đặc biệt nhấn mạnh tác dụng to lớn của giáo dục đem<br /> lại trong quá trình lâu dài của một con người. Ông phân biệt con người cao thấp thông qua thái độ<br /> đối với việc học “Khi sinh ra đã biết, là người ở tầng lớp trên; sau khi học mới biết, là người ở tầng<br /> lớp thư hai; khi gặp khó khăn mới học, là người ở tầng lớp thứ ba; gặp khó khăn mà không học,<br /> là tầng lớp dưới cùng” [7;312]. Ông cho rằng trí tuệ của con người, mạnh yếu không phải là tuyệt<br /> đối, có thể thay đổi thông qua sự giáo dục và học tập sau này và ông tin rằng thông qua sự giáo<br /> dục kiên trì và bền bỉ có thể giáo hóa con người và xã hội.<br /> Thứ hai, về mục đích của giáo dục, Khổng Tử cho rằng mục đích của giáo dục có ba mục<br /> đích chính. Một là, đào tạo nguồn nhân lực cai quản chính trị quốc gia. Lập trường chính trị của<br /> ông là “vi chính tại nhân”, đề xướng “cử hiền tài”, “lễ hiền hạ sĩ”, nỗ lực thông qua giáo dục để bồi<br /> dưỡng những quân tử hiền tài. Theo một ý nghĩa nào đó, ông cho rằng giáo dục chính là bộ phận<br /> quan trọng cấu thành nên nền chính trị có chất lượng, khẳng định giáo dục có ảnh hưởng quan<br /> trọng đối với chính trị. Mục đích dạy cho các học trò của ông chính là đào tạo tài năng đủ để có thể<br /> gánh vác việc nước. Nếu như học hành chưa đạt được thành tích ưu tú, chưa đạt được tiêu chuẩn<br /> thi không nên làm quan. Ông còn nhấn mạnh: cho dù là cha truyền con nối hay tuyển chọn hiền tài<br /> làm quan thì cũng phải thông qua việc “học” mới có thể đủ đức đủ tài để trị quốc. Tư tưởng này<br /> đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Hai là, hoàn thành nhân cách. Cái học ấy là phải học cho mình chứ<br /> không phải học cho ai hết [5;258]. Cho nên Khổng Tử lấy bốn điều làm chương trình giáo dục là:<br /> 85<br /> <br /> Phạm Việt Thắng<br /> <br /> văn chương, thực hành, trung nghĩa và tín nhiệm. Trong bốn điều thì ba điều thuộc về nhân sinh<br /> hành vi, đại biểu cho nhân cách của một cá nhân hành động ở đời [5;260]. Ba là, tìm tòi chân lí.<br /> Chân lí ở đây là đạo lí, “kẻ sĩ để chí vào đạo lí mà xấu hổ vì áo xấu, ăn đơn xơ thì không đáng<br /> bàn” [7;139].<br /> Thứ ba, về nội dung giáo dục, Khổng Tử khai thác nội dung giáo dục mở rộng, phong phú,<br /> chủ trương kết hợp giáo dục kiến thức với giáo dục đạo đức với nhau, coi việc bồi dưỡng phẩm<br /> chất tư tưởng và đạo đức luân lí là chủ đạo. Khổng Tử tuy cũng thực hiện rèn luyện lễ nghĩa thông<br /> thường, nhưng chú trọng hơn vào việc tìm kiếm và lĩnh hội về tinh thần thực chất. Trong nội dung<br /> giáo dục phong phú, Khổng Tử rất chú trọng đến quan hệ mật thiết giữa nội dung giáo dục và<br /> cuộc sống hiện thực, ra sức bài trừ những nội dung xa rời cuộc sống. Tuy nội dung chủ đạo trong<br /> giáo dục của Khổng Tử là đức giáo, nhưng không gạt bỏ giáo dục những kiến thức văn hóa thông<br /> thường và kiến thức khoa học tự nhiên. Trong tài liệu dạy học “lục kinh” có rất nhiều tài liệu lịch<br /> sử về khoa học kĩ thuật cổ đại, kiến thức của Khổng Tử cũng vô cùng phong phú, uyên sâu, tuyệt<br /> đối không chỉ giới hạn ở một góc “đức hành”. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nội dung giáo dục<br /> Khổng Tử bị khuyết một lỗ hổng ở chỗ ông không có dạy kiến thức và kĩ năng lao động sản xuất.<br /> Thực ra đó chính là sự gắn kết không thể tách rời liên quan đến mục đích mở trường lớp dạy tư và<br /> lí tưởng chính trị của Khổng Tử. Ông muốn đào tạo không phải là người làm nông hay người trồng<br /> rau mà là đào tạo nguồn nhân lực để thực thi chính sách nhân đạo.<br /> Thứ tư, Khổng Tử đã tích lũy và tổng kết những kinh nghiệm dạy học phong phú trong quá<br /> trình dạy học, khái quát ra hàng loạt những nguyên tắc và phương pháp luận có liên quan đến giáo<br /> dục, và nâng cao hơn yêu cầu về tố chất và trình độ của người làm giáo dục.<br /> Khổng Tử cho rằng nguyên tắc căn bản của giáo dục đó là nguyên tắc hướng dẫn gợi mở,<br /> trong quá trình dạy học, phương pháp giáo dục quan trọng nhất mà ông áp dụng đó là dạy phương<br /> pháp hướng dẫn. Ông nhấn mạnh, trong quá trình dạy học, người thầy phải phát huy tác dụng chủ<br /> đạo, luôn động viên, khích lệ học sinh có tinh thần tích cực chủ động tư duy, chủ động học tập phát<br /> hiện những vấn đề, những khó khăn sẽ tự động hình thành tư duy tích cực, chủ động suy nghĩ, sau<br /> đó người thầy mới bổ sung những hướng dẫn phù hợp, không nên truyền đạt một cách quá chi tiết<br /> cụ thể, sẽ khiến cho học sinh hình thành tính ỉ lại, dựa dẫm, ngăn cản sự phát triển tư duy và năng<br /> lực suy nghĩ độc lập. Đây là một tư tưởng giáo dục hiện đại, thực chất chính là hướng vào người<br /> học, đề cao tính chủ động tích cực của người học.<br /> Khổng Tử chỉ rõ điều cốt lõi của phương pháp hướng dẫn học nằm ở người thầy. Sự học tập<br /> phải biết tư duy, phải biết “ôn cố nhi tri tân”, xâu chuỗi các kiến thức, các vấn đề. Khổng Tử đặc<br /> biệt nhấn mạnh trong quá trình dạy học, người thầy phải có nghệ thuật hướng dẫn học sinh nhận<br /> thức và biết vận dụng suy lí logic, vận dụng tốt kiến thức để hiểu rõ ràng những điều cơ bản, đơn<br /> giản của một sự việc, sau đó tư duy logic để hiểu ý nghĩa sâu rộng hơn của vấn đề đó, giúp cho<br /> học sinh có thể nắm chắc kiến thức, phát huy được kinh nghiệm của bản thân. Chỉ có dùng mọi<br /> cách kích thích hứng thú học tập của học sinh, giúp chúng rèn luyện tinh thần chủ động thì phương<br /> pháp hướng dẫn học mới có thể đem lại hiệu quả, các học sinh mới có thể “học một biết mười”.<br /> Để thực hiện phương pháp này, Khổng Tử đưa ra nguyên tắc giáo dục dạy theo trình độ,<br /> theo năng khiếu. Phương pháp hướng dẫn học chỉ xây dựng dựa trên cơ sở dạy học tùy theo trình<br /> độ của học sinh mới có thể phát huy tác dụng của nó. Trong khi dạy học, Khổng Tử chú ý đến<br /> những điểm khác biệt cá thể của học sinh, trên cơ sở cố gắng hết sức tìm hiểu tính cách, tài trí, đức<br /> hành của học sinh, từ đó tiến hành những hướng dẫn, chỉ đạo phù hợp với học sinh. Đồng thời, ông<br /> cũng rất chú ý quan sát, nắm bắt tính cách và đặc điểm của học trò, bao gồm bao gồm cả ưu điểm<br /> và nhược điểm để có cách giáo dục thích hợp.<br /> 86<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
40=>1