intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn trước thế kỷ XX

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

36
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết cung cấp cho bạn đọc thêm nhận thức về lịch sử Việt Nam thời cổ - trung - cận đại. Khi làm rõ về lịch sử và vai trò của tuyến đường, bài viết có ý nghĩa giáo dục rất lớn cho thế hệ trẻ. Từ đó, hình thành thái độ, tư tưởng, tình cảm đúng đắn, biết trân trọng những công lao của cha ông trong quá trình xây dựng và hoàn thiện tuyến đường cũng như quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn trước thế kỷ XX

Nguyễn Thị Hòa và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 186(10): 71 - 76<br /> <br /> TUYẾN ĐƯỜNG HÀ NỘI – LẠNG SƠN TRƯỚC THẾ KỶ XX<br /> Nguyễn Thị Hòa*, Đặng Thị Lan<br /> Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Hà Nội – Lạng Sơn là tuyến đường được hình thành đầu tiên của đường Thiên Lý, nay là Quốc lộ 1A.<br /> Tuyến đường bắt đầu được xây dựng từ thời nhà Lý (1010 - 1225), xuất phát từ Thăng Long, qua Bắc<br /> Ninh, Bắc Giang lên vùng biên giới Việt – Trung ở Lạng Sơn, kết thúc tại trấn Nam Quan (nay là cửa<br /> khẩu quốc tế Hữu Nghị). Năm 1019, đoạn đường cuối của tuyến đường được hoàn thành, sau đó nhà Lý<br /> mở rộng tuyến đường thành quan lộ. Tới thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Mạc, tuyến đường tiếp tục<br /> được sử dụng, cải tạo. Tuy nhiên, về cơ bản hiện trạng tuyến đường giống như thời nhà Lý, đó là những<br /> đoạn đường đất nhỏ hẹp bị ngăn cách bởi sông suối, khó khăn đi lại khi mưa, lũ. Đến Thời nhà Nguyễn<br /> (1802 - 1945), tuyến đường được mở rộng, nắn thẳng và bắc cầu qua sông suối, chỗ bùn lầy đắp thêm<br /> đất. Những năm cuối thế kỉ XIX, nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và khai thác thuộc địa Việt Nam,<br /> Thực dân Pháp sửa chữa, mở rộng tuyến đường. Trong suốt tiến trình lịch sử trước thế kỉ XX, tuyến<br /> đường Hà Nội – Lạng Sơn được coi là huyết mạch quốc gia trong việc đi lại thông thương, ngoại giao<br /> với Trung Quốc. Tuyến đường có vị trí, vai trò quan trọng trong cả lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế,<br /> văn hóa và xã hội đối với đất nước, triều đình và nhân dân. Điều đó khẳng định sự đúng đắn, nhạy bén<br /> của các triều đại phong kiến Việt Nam trong việc quan tâm phát triển giao thông, nhất là việc mở và cải<br /> tạo, nâng cấp tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn.<br /> Từ khóa: Tuyến đường; Hà Nội; Lạng Sơn;Nam Quan; thế kỷ XX.<br /> <br /> MỞ ĐẦU *<br /> Xuất phát từ nhu cầu đi lại, cai quản các địa<br /> phương và yêu cầu của việc bang giao, hoạt<br /> động quân sự, các triều đại phong kiến Việt<br /> Nam đã quan tâm và chú trọng việc giao<br /> thông, mở đường bộ từ các kinh thành, phủ<br /> tới các địa phương và biên giới Việt – Trung.<br /> Hà Nội – Lạng Sơn là một trong các tuyến<br /> đường đó.<br /> Tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn, trước 1831<br /> được gọi là tuyến đường Thăng Long – Lạng<br /> Sơn (hay Nam Quan), là mạch đường khởi đầu<br /> cho trục đường Thiên Lý Bắc Kỳ, sau là Thiên<br /> Lý Bắc Nam. Đối với nước ta, tuyến đường<br /> này đã đóng góp vai trò hết sức to lớn trong<br /> phát triển kinh tế, ngoại giao, thông thương,<br /> quốc phòng,... Phạm vi tuyến đường chạy<br /> qua, nhất là Lạng Sơn là nơi trực tiếp diễn ra<br /> những cuộc tiến - lui quân khi có giao tranh<br /> giữa ta và phong kiến phương Bắc; là nơi tiếp<br /> đón hàng trăm đoàn sứ bộ của hai nước Việt Trung trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.<br /> Ngoài ra, đây còn là nơi giao thương, buôn<br /> bán giữa triều đình và nhân dân hai nước.<br /> Tuyến đường không chỉ là cửa ngõ ra vào<br /> giữa hai nước Việt - Trung, nối liền miền<br /> thượng du - đồng bằng, các đô thị, trung tâm,<br /> *<br /> <br /> Tel: 0973748369, Email: hoakhoasu@dhsptn.edu.vn<br /> <br /> đơn vị hành chính, các trạm, phục vụ hoạt<br /> động khai thác để đáp ứng mục tiêu quân sự,<br /> ngoại giao từ thời dựng nước và giữ nước mà<br /> còn là nền tảng cơ sở của đường 1A ngày nay.<br /> Vì vậy, việc tìm hiểu về việc xây dựng, hoạt<br /> động và vai trò của tuyến đường Hà Nội Lạng Sơn trước thế kỷ XX có ý nghĩa khoa<br /> học và thực tiễn.<br /> Bài viết cung cấp cho bạn đọc thêm nhận thức<br /> về lịch sử Việt Nam thời cổ - trung - cận đại.<br /> Khi làm rõ về lịch sử và vai trò của tuyến<br /> đường, bài viết có ý nghĩa giáo dục rất lớn<br /> cho thế hệ trẻ. Từ đó, hình thành thái độ, tư<br /> tưởng, tình cảm đúng đắn, biết trân trọng<br /> những công lao của cha ông trong quá trình<br /> xây dựng và hoàn thiện tuyến đường cũng<br /> như quá trình xây dựng và phát triển đất<br /> nước. Thông qua bài viết, chúng tôi hy vọng<br /> cung cấp thêm nguồn tư liệu để phục vụ học<br /> tập, giảng dạy và nghiên cứu lịch sử dân tộc<br /> và lịch sử địa phương.<br /> TÀI LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Để nghiên cứu và làm rõ về “Tuyến đường Hà<br /> Nội - Lạng Sơn trước thế kỷ XX”, chúng tôi<br /> khai thác và sử dụng tài liệu thành văn là các<br /> sách về lịch sử giao thông vận tải; các giáo<br /> trình lịch sử Việt Nam của trường Đại học Sư<br /> phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Thái<br /> Nguyên; sách sử của các triều đại phong kiến,<br /> 71<br /> <br /> Nguyễn Thị Hòa và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đặc biệt là sử sách triều Nguyễn; các tài liệu<br /> lịch sử địa phương của 4 tỉnh thành: Hà Nội,<br /> Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn…<br /> Các tác phẩm sử học của triều đại phong kiến<br /> có ghi chép về đường sá, việc đi lại của nhân<br /> dân như: Sử học bị khảo, Đại Việt Sử ký toàn<br /> thư, Lịch triều hiến chương loại chí... Đặc<br /> biệt, thời nhà Nguyễn có tác phẩm Đồng<br /> khánh dư địa chí (1888 -1890), Đại Nam nhất<br /> thống chí, Đại Nam thực lục, Khâm định Ðại<br /> Nam hội điển sự lệ, Châu bản triều Nguyễn,…<br /> Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử<br /> dụng phương pháp lịch sử kết hợp với<br /> phương pháp logic là chủ yếu. Phương pháp<br /> lịch sử: Chúng tôi tiến hành tìm hiểu vấn đề<br /> theo trình tự thời gian, trước tiên tìm hiểu quá<br /> trình hình thành, xây dựng và khai thác tuyến<br /> đường qua các triều đại phong kiến cho tới<br /> đầu thế kỷ XX. Phương pháp logic: Được vận<br /> dụng khi tiến hành tìm hiểu biến đổi trong<br /> xây dựng và khai thác, vị trí và vải trò của<br /> tuyến đường qua từng thời kỳ… Ngoài ra,<br /> chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê,<br /> phân tích, tổng hợp, so sánh, miêu tả...<br /> KẾT QUẢ VÀ BÌNH LUẬN<br /> Thực trạng xây dựng và hoạt động trên<br /> tuyến đường trước thế kỉ XX<br /> Trước thời nhà Nguyễn (trước năm 1802)<br /> Như đã khẳng định ở trên, tuyến đường Hà<br /> Nội – Lạng Sơn được mở từ thời đầu thời nhà<br /> Lý (1010 - 1225), tức là khi đó nhà nước và<br /> nhân dân mới có những hoạt động tác động<br /> như đắp đất, phát quang mở đường đi…<br /> Trước đó, tuyến đường ấy chỉ là những lối<br /> đường đất mòn do người Trung Quốc khai<br /> mở trong các cuộc viễn chinh xâm lược Việt<br /> Nam từ thời Hán (207 - 201 TCN) và do dân<br /> cư, gia súc đi lại nhiều tạo thành. Sách Đại<br /> Việt sử ký toàn thư ghi lại vào năm 980 “Lạng<br /> Sơn nghe tin quân Tống sắp sang, làm tờ tâu<br /> lên, Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ để<br /> chống cự” [1, tr.184]. Điều đó cho thấy ngay<br /> từ trước nhà Lý, việc đi lại và thông tin liên<br /> lạc giữa triều đình và vùng biên giới đã có. Lối<br /> mòn đi từ Thăng Long tới Nam Quan (Lạng<br /> Sơn) đã được hình thành trước thời nhà Lý<br /> phục vụ cho hoạt động kinh tế, chính trị, quân<br /> sự, bang giao với phong kiến phương Bắc của<br /> nước ta như đón tiếp đoàn sứ bộ của phương<br /> 72<br /> <br /> 186(10): 71 - 76<br /> <br /> Bắc, là đường đi của các đoàn sứ bộ Việt<br /> Nam sang Trung Quốc, là đường vận chuyển<br /> công văn, chiếu chỉ, thông tin liên lạc giữa<br /> các địa phương với triều đình,… Tuy nhiên,<br /> con đường mòn nhỏ, chạy qua các làng mạc<br /> hoang vu, dân cư còn thưa thớt, qua những<br /> đèo dốc và rừng hoang và bị chia cắt thành<br /> nhiều đoạn ngắn gây nhiều khó khăn khi di<br /> chuyển, vận tải.<br /> Xuất phát từ vị trí quan trọng của Lạng Sơn và<br /> kinh đô nước ta lúc bấy giờ cũng như tầm quan<br /> trọng của việc đi lại cai quản các địa phương<br /> vùng biên giới, tiến quân chặn đánh các đợt tấn<br /> công của phong kiến phương Bắc và giữ mối<br /> quan hệ bang giao với Trung Quốc, vua Lý<br /> Thái Tổ đã cho đắp đất mở tuyến đường từ<br /> Thăng Long lên biên giới Việt – Trung. Theo<br /> sách Sử học bị khảo của Đặng Xuân<br /> Bảng,“vua Lý Thái Tổ cho đắp xong con<br /> đường lộ từ Thăng Long đến biên giới Việt Trung. Năm 1019 thì đắp xong đoạn cuối từ<br /> ải Chi Lăng tới trấn Nam Quan (sau này là<br /> Mục Nam Quan và hiện nay là cửa khẩu quốc<br /> tế Hữu Nghị” [1, tr.271-272]. Như vậy, thời<br /> Lý Thái Tổ, năm 1019, đã đắp hoàn thiện<br /> đoạn đường biên giới Việt - Trung và tuyến<br /> đường Thăng Long - Lạng Sơn chính thức ra<br /> đời. Đến thời Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã<br /> được mở rộng thành đường quan lộ nhưng<br /> vẫn là đường đất và bị cắt đoạn với sông suối<br /> phải qua bằng thuyền bè.<br /> Tuyến đường thời này được chia ra từng<br /> cung, có các nhà trạm và các ụ đất cắm biển<br /> gỗ để chỉ phương hướng. Mỗi cung thuộc<br /> quyền cai trị hành chính của một giới chức do<br /> triều đình bổ nhiệm, nắm quyền cai trị hành<br /> chính, có trách nhiệm tu bổ hệ thống quan lộ<br /> nằm trong cung của mình. Các nhà trạm đặt<br /> cách nhau khoảng 15-20km, đứng đầu mỗi<br /> trạm là một trạm trưởng chỉ huy một số phu<br /> trạm chạy công văn, giấy tờ (công văn được<br /> đựng trong ống tre, được chuyển đi bằng chạy<br /> bộ, ngựa, thuyền).<br /> Tới thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê sơ, nhà<br /> Mạc, tuyến đường tiếp tục được sử dụng và<br /> cải tạo, tuy nhiên, về cơ bản hiện trạng tuyến<br /> đường giống như thời nhà Lý. Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa<br /> Trịnh cho đắp đường Thiên Lý, trong đó có<br /> <br /> Nguyễn Thị Hòa và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đoạn Hà Nội - Lạng Sơn đủ rộng và chắc<br /> chắn để voi, ngựa có thể đi được.<br /> Từ khi hình thành (1019) đến trước năm 1802,<br /> Hà Nội – Lạng Sơn là tuyến đường đi lại,<br /> thông thương của nhân dân giữa các địa<br /> phương và cả với bên kia biên giới. Đối với<br /> triều đình, tuyến đường là để đi thị sát; vận<br /> chuyển công văn, giấy tờ, thông tin đến các địa<br /> phương. Riêng đối với Lạng Sơn, có thể nói<br /> đây là con đường duy nhất. Tuyến đường cũng<br /> là lối di chuyển của quân lính trong các cuộc<br /> kháng chiến chống phong kiến phương Bắc<br /> xâm lược. Trong lịch sử trước thời nhà Nguyễn<br /> đã có rất nhiều cuộc kháng chiến chống quân<br /> Phương Bắc đi qua tuyến đường Hà Nội Lạng Sơn. Ví như cuộc kháng chiến chống<br /> quân Tống trên sông Như Nguyệt, trận Ải Chi<br /> Lăng trong kháng chiến chống quân Minh,<br /> kháng chiến chống quân Thanh của vua Quang<br /> Trung… Đặc biệt, đây là tuyến đường chủ yếu<br /> triều đình sử dụng để thông thương và thực<br /> hiện các hoạt động bang giao (đi sứ và đón tiếp<br /> các đoàn sứ Trung Quốc). Theo tấm bản đồ<br /> “Từ Trung Hoa đến An Nam” trong<br /> cuốn Histoire des Relations de la Chine avec<br /> l’Annam - Vietnam du XVIau XIXsiècle (Lịch<br /> sử quan hệ giữa Trung Hoa với Việt Nam từ<br /> thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX) của G. Devéria,<br /> xuất bản năm 1880 ở Paris, từ thế kỷ XV, việc<br /> đi lại cũng như thông thương giữa Trung Hoa<br /> với Việt Nam (và ngược lại) thông qua đường<br /> từ Quảng Tây - Lạng Sơn (đường bộ). Trong<br /> đó, từ Quảng Tây qua Lạng Sơn đến Đông<br /> Kinh (Hà Nội ngày nay) có 3 con đường đi qua<br /> cửa ải Nam Quan, ải Bình Nhĩ và ải Biện<br /> Cường nhưng đều qua phủ Lạng Sơn theo<br /> đường quan lộ về Đông Kinh [2].<br /> Về phương tiện đi lại, vận tải: Nhân dân, quân<br /> lính chủ yếu là đi bộ, còn quan lại triều đình<br /> sử dụng phương tiện như võng, cáng, kiệu<br /> hay cưỡi ngựa. Phương tiện vận chuyển hàng<br /> hóa có xe do trâu, bò, ngựa kéo (xe quyệt, xe<br /> cút kít, xe một bánh, xe hai bánh).<br /> Dưới thời Nguyễn<br /> Sau khi vua Gia Long thống nhất nước nhà<br /> (1802), ông thấy đường sá giao thông là vấn<br /> đề quan trọng đối với việc chính trị và quân<br /> sự nên đã sai quan trấn nhậm các doanh trấn<br /> phải “đo đạc đường quan và các đường thủy<br /> bộ”. Vua Gia Long cho lệnh sửa lại con đường<br /> <br /> 186(10): 71 - 76<br /> <br /> quan lộ, định rằng “bề rộng phải là 3 trượng và<br /> phân chia con đường ấy ra từng cung một, cứ<br /> cách khoảng 15 cây số lại đặt trạm để chuyển<br /> đệ công văn cùng vận tải đồ đạc của các quan<br /> chức bằng kiệu, bằng cáng, bằng ngựa. Tại<br /> những trạm này, khách bộ hành có thể nghỉ<br /> ngơi, ăn uống và thuê phu vận tải cung cấp bởi<br /> các xã thôn lân cận” [3, tr.201]. Mỗi dịch<br /> trạm có phu trạm và ngựa để kịp truyền công<br /> văn và khiêng cáng kiệu hay đồ đạc các quan.<br /> Ông cho chăng dây và mở đường thẳng, gặp<br /> ngòi suối thì bắc cầu, chỗ bùn lầy xếp xây đắp<br /> đất. Bên phải đường cái quan gặp chỗ nào<br /> cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, cầu cống<br /> thuyền bến đều luôn được gia tăng tu bổ,<br /> đường rộng suốt phẳng như đá mài.<br /> Thời kỳ này, người ta đắp đường ở giữa cao<br /> lên và đào những con mương dẫn nước ở hai<br /> bên hoặc một bên đường. Do đường đắp bằng<br /> đất nên khi mưa lũ hay bị bùn lầy, sạt lở. Để<br /> gia cố và làm vững chắc cho đường, triều<br /> đình cho rải ít đá dăm và sỏi, gạch vụn, rồi<br /> đầm vào mặt đường, hai bên đường trồng<br /> thêm cây để chống sói mòn do mưa lũ, giảm<br /> sự sụt lở của đất đá. Những tuyến giao thông<br /> và đoạn đường đê chống lũ lụt quan trọng,<br /> thường được quan tâm hơn, có quan hộ đê<br /> phụ trách riêng, luôn huy động dân công đắp<br /> đê bằng công quỹ từ triều đình và đóng góp<br /> của địa phương.<br /> Đầu năm 1810, vua Gia Long sai Giám thành<br /> Nguyễn Văn Học lo việc sửa cầu cống đường<br /> sá ở các địa phương. Công việc gồm có "đo<br /> xem thế đất, lấy dân sửa đắp, cấp cho (dân)<br /> lương ăn hàng ngày" [4, tr.191]. Lúc bấy giờ,<br /> con đường cũng được chia thành nhiều cung,<br /> mỗi cung trung bình dài khoảng 25 - 30 dặm<br /> (15 - 20km). Để có chỗ canh phòng, vận<br /> chuyển công văn giấy tờ và làm nơi đón đưa<br /> quan lại trú đêm trên đường; Gia Long cho<br /> dựng ở giữa hai cung một nhà trạm gồm ba<br /> gian, hai mái bằng gạch ngói hay cây lá, theo<br /> cùng một kiểu do bộ Công quy định, có hào<br /> và tường bao bọc chung quanh, lại có chòi<br /> gác bốn phía. Trên cửa ra vào có treo biển<br /> khắc tên trạm. Ở mỗi trạm đều có nhiều phu<br /> trạm (khoảng 50 người) và ngựa (khoảng 3<br /> con) để làm nhiệm vụ chuyển tải công văn<br /> giấy tờ, khiêng cáng và đồ dùng của quan lại<br /> qua đường. Quản lý và điều hành sự vụ các<br /> 73<br /> <br /> Nguyễn Thị Hòa và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> dịch trạm trên đường Thiên lý là chức năng<br /> của ty Bưu chính, còn việc đưa lệnh của triều<br /> đình và thu nhận báo cáo của các địa phương<br /> là nhiệm vụ của ty Thông chính sứ. Người<br /> của hai cơ quan này phải túc trực ngày đêm<br /> để điều hành công việc được thông suốt.<br /> Năm 1832, tiếp tục sự nghiệp của vua cha,<br /> vua Minh Mạng dụ cho Bộ Công: “…Đường<br /> cái quan có nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo<br /> trèo, nhân dân đi lại, có nhiều khó khăn trở<br /> ngại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa<br /> phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào<br /> có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi,<br /> cốt rộng từ 4 - 5 thước trở lên, đủ đi lại được;<br /> chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày<br /> thành trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây<br /> thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi ủy cho<br /> phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu<br /> bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được<br /> thành công để lợi ích lâu dài” [4, tr.191].<br /> “Năm 1840, vua Minh Mạng cho đắp các<br /> đường quan báo từ các nơi biên giới về, nhằm<br /> đảm bảo việc truyền thông tin khi có biến<br /> động” [1, tr.274].<br /> Như vậy, thời nhà Nguyễn, tuyến đường Hà<br /> Nội - Lạng Sơn được cải tạo, mở rộng và<br /> hoàn thiện hơn với hệ thống cầu bắc qua các<br /> con sông, suối lớn. Triều đình đã quy định<br /> trách nhiệm làm đường cho bộ Công lo việc<br /> xây dựng và duy trì các nhà công, đường sá,<br /> cầu cống, kênh mương và đê điều. Đôi khi bộ<br /> Lễ cũng được giao nhiệm vụ hỗ trợ bộ Công<br /> trong việc giao thông. Ví như dưới thời vua<br /> Tự Đức: “Giao nhiệm vụ cho bộ Lễ, bộ Công<br /> bàn về việc xây dựng, sửa sang đường sá, cầu<br /> cống, trạm nghỉ, cách trưng bày trong các<br /> trạm nghỉ trên con đường suốt từ Trị Thiên<br /> đến Lạng Sơn để chuẩn bị đón sứ đoàn nhà<br /> Thanh sang dự lễ Bang Giao” [5, tr.22].<br /> Thời kì này các hoạt động và phương tiện đi<br /> lại, vận chuyển trên tuyến đường vẫn như thời<br /> trước nhưng thuận lợi hơn. Hoạt động diễn ra<br /> trên tuyến đường nổi bật của thời kỳ này là<br /> hoạt động ngoại giao (đi sứ) và buôn bán.<br /> Thời nhà Nguyễn đã có nhiều đoàn sứ bộ<br /> sang Trung Hoa với mục đích cầu phong,<br /> cống tuế, tạ ân, chúc mừng, mua hàng hóa,...<br /> và ngược lại, Trung Hoa cũng đã cử nhiều<br /> đoàn sứ bộ sang nước ta. Những hoạt động<br /> bang giao đó đều được tiến hành thuận lợi<br /> 74<br /> <br /> 186(10): 71 - 76<br /> <br /> thông qua tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn.<br /> Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,<br /> đường đi sứ từ Việt Nam sang Trung Hoa bắt<br /> đầu từ Kinh đô Huế, theo đường bộ ra Hà<br /> Nội, lên Bắc Ninh, đến Lạng Sơn và qua ải<br /> Nam Quan vào đất Quảng Tây rồi vào sâu<br /> trong nội địa Trung nguyên… Còn sứ nhà<br /> Thanh sang Việt Nam thì đi theo đường bộ<br /> qua ải Nam quan đến Bắc Thành (Hà Nội), rồi<br /> theo đường thủy để vào Kinh đô Huế… Khi<br /> đi ra cũng theo lộ trình ấy, hoặc đôi khi đi bộ<br /> ra tới Bắc Ninh rồi theo đường thủy trở về<br /> Trung Quốc [6].<br /> Vào đầu triều Gia Long, triều đình định lệ sai<br /> sứ sang nhà Thanh, cứ bốn năm sai sứ đi một<br /> lần. Việc mua bán hàng hóa của các sứ bộ<br /> ngoại giao thời Nguyễn ở Trung Hoa như sau:<br /> Theo Châu bản Triều Nguyễn (tập 15, tờ 212213): “Ngày 28 tháng 3 năm Minh Mạng thứ<br /> 7 (1826), Hiệp tổng trấn Bắc Thành là<br /> Nguyễn Hữu Thận tấu trình về việc ngày 18<br /> tháng 3, hai sứ bộ sang trở về đến Thăng<br /> Long 2 chánh sứ Hoàng Kim Hoán và Hoàng<br /> Văn Quyền theo trạm về trước, 4 phó sứ còn<br /> lưu lại Thăng Long để kiểm soát đồ vật. Hộ<br /> tào Nguyễn Công Thiệp đã cùng các phó sứ<br /> kiểm kê đồ vật mua được; chọn các loại hàng<br /> hóa nhẹ như gấm, đoạn… gồm 14 thùng,<br /> phân thành 12 gánh chuyển theo đường bộ về<br /> Kinh, từ ngày 25 tháng 3. Còn hàng nặng<br /> gồm 16 thùng thì niêm phong, giao Cục Tạo<br /> tác giữ gìn, cùng với 53 hòm tư trang của hai<br /> sứ bộ và tùy tùng, chờ để chuyển về Kinh<br /> bằng đường biển” [6].<br /> Từ sau năm 1884<br /> Với Hiệp ước Hác-măng (1884), triều đình<br /> nhà Nguyễn đầu hàng và thừa nhận nền bảo<br /> hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Từ đó,<br /> Pháp bắt đầu công cuộc bình định nước ta,<br /> tiến tới đặt ách cai trị và khai thác thuộc địa<br /> từ năm 1897. Để thực hiện điều đó, Pháp chú<br /> trọng phát triển hệ thống giao thông ở Đông<br /> Dương nói chung, Việt Nam nói riêng. Bên<br /> cạnh hệ thống giao thông đường sắt và đường<br /> thủy, đường bộ được chú trọng nhằm đáp ứng<br /> nhu cầu kinh tế, khai thác tài nguyên và việc<br /> phục vụ các loại xe tiếp tế lương thực, vũ khí<br /> cho quân đội, trại lính nằm phân tán trên toàn<br /> lãnh thổ; cơ động di chuyển quân đối phó với<br /> các cuộc nổi dậy của người Việt Nam, kiểm<br /> <br /> Nguyễn Thị Hòa và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> soát an ninh vùng biên giới. Bởi vậy, Pháp đã<br /> kế thừa tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn có<br /> từ các triều đại phong kiến Việt Nam để mở<br /> rộng, cải tạo, nâng cấp phục vụ cho công cuộc<br /> cai trị và khai thác thuộc địa của mình.<br /> Vị trí và vai trò của tuyến đường<br /> Tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn nối kinh đô<br /> Thăng Long với Lạng Sơn, là con đường quan<br /> lộ đầu tiên vươn tới vùng biên giới Việt Trung ở nước ta, là đoạn cốt yếu trong trục<br /> đường Thiên lý của đất nước. Trước thế kỉ<br /> XX, tuyến đường được các triều đại phong<br /> kiến quan tâm, trải qua nhiều giai đoạn hình<br /> thành và phát triển cùng với lịch sử dân tộc và<br /> luôn giữ vị trí huyết mạch, có vai trò quan<br /> trọng đối với đất nước.<br /> Về chính trị: Tuyến đường là điều kiện thuận<br /> lợi để chính quyền phong kiến đi lại, vận<br /> chuyển công văn giấy tờ, di chuyển binh lính,<br /> vận chuyển lương thực và đặt các chốt đóng<br /> quân sự, cai quản các địa phương và vươn tới<br /> kiểm soát biên giới, từ đó khẳng định chủ<br /> quyền của dân tộc. Tuyến đường chạy qua các<br /> địa phương có vị trí địa chính trị chiến lược<br /> quan trọng đối với miền Bắc nói riêng và cả<br /> nước nói chung nên đã chứng kiến nhiều cuộc<br /> xâm lược của quân bộ binh phong kiến phương<br /> Bắc và sau đó là cuộc kháng chiến của triều<br /> đình, nhân dân. Vì thế, không thể phủ nhận vai<br /> trò của tuyến đường trong lĩnh vực quân sự,<br /> đảm bảo đọc lập tự chủ, trật tự quốc phòng - an<br /> ninh. Trong lịch sử, tuyến đường cũng được<br /> xem là huyết mạch đưa đón các đoàn bộ sứ<br /> của triều đình ta sang nước Trung Quốc và<br /> ngược lại, với nhiều mục đích như cầu phong,<br /> tạ ân, cáo thụ, chúc mừng, cống nạp... Hà Nội<br /> – Lạng Sơn là đường quan lộ duy nhất ở Bắc<br /> Thành cho tới trước năm 1831 nhưng sau đó,<br /> đây vẫn là con đường chủ đạo để đi lại giữa<br /> Việt Nam và Trung Quốc. Nó có vị trí, vai trò<br /> không nhỏ trong hoạt động ngoại giao, đảm<br /> bảng mối quan hệ bang giao Việt Nam – Trung<br /> Quốc để giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc,<br /> phạm vi lãnh thổ.<br /> Về kinh tế: Trước hết, tuyến đường đã thúc<br /> đẩy việc đi lại trao đổi, buôn bán của nhân dân<br /> và triều đình, hình thành hệ thống chợ trên dọc<br /> tuyến đường, góp phần phát triển nội thương.<br /> Đặc biệt, tuyến đường vươn tới biên giới đã<br /> hình thành các cửa ải thông thương với bên kia<br /> <br /> 186(10): 71 - 76<br /> <br /> biên giới, thúc đẩy việc mua bán giữa nhân<br /> dân hai nước ở dọc biên và giữa các triều đình<br /> Việt Nam với triều đình phong kiến phương<br /> Bắc, xa hơn là với thế giới. Có thể nói, tuyến<br /> đường có vị trí địa kinh tế thuận lợi bởi có Hà<br /> Nội là Kinh đô Thăng Long - trung tâm chính<br /> trị - kinh tế, đã có sự phát triển lâu đời của<br /> kinh tế hàng hóa nổi tiếng với 36 phố<br /> phường; có Bắc Ninh với rất nhiều các làng<br /> nghề truyền thống được hình thành và phát<br /> triển từ lâu đời; có Lạng Sơn – cửa ngõ buôn<br /> bán nước ta với Trung Quốc và châu Âu với<br /> nhiều phố, chợ, bến, nổi bật là phố Kỳ Lừa,<br /> Đồng Đăng, An Thịnh.<br /> Về văn hóa – xã hội: Việc phát triển kinh tế<br /> buôn bán đã hình thành các phố chợ, thị trấn,<br /> thị tứ, thay đổi bộ mặt nông thôn ở các địa<br /> phương; hình thành các đơn vị hành chính<br /> mới do giao thông thuận lợi nhân dân tụ họp<br /> buôn bán rồi sinh sống lâu dài tại đó. Giao<br /> thông đi lại thuận lợi cũng tạo điều kiện và<br /> thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các tộc người,<br /> nhân dân các địa phương. Bởi trước khi tuyến<br /> đường Hà Nội - Lạng Sơn được xây dựng,<br /> việc lưu thông đi lại được tiến hành chủ yếu<br /> bằng đường thủy, đường bộ chỉ có đường tiểu<br /> quan, việc đi lại chủ yếu chỉ bó hẹp trong<br /> phạm vi làng xóm, nông dân chỉ loanh quanh<br /> trong làng hay trong lãnh địa của mình, xa<br /> lắm là đi sang làng bên. Việc tăng cường tiếp<br /> xúc, giao lưu văn hóa giữa các địa phương và<br /> với bên kia biên giới đã có tác động làm tăng<br /> tính dân tộc, bản địa của văn hóa nước ta;<br /> đồng thời, sự tiếp thu có chọn lọc văn hóa bên<br /> ngoài và hòa trộn văn hóa các tộc người đã<br /> làm tăng tính phong phú, đa dạng trong nền<br /> văn hóa dân tộc.<br /> Với những giá trị trên, chúng ta có thể khẳng<br /> định tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn trước thế<br /> kỉ XX là huyết mạch kinh tế, ngoại giao và hệ<br /> thần kinh quản trị quốc gia. Và thực tế lịch sử<br /> dân tộc đã chứng minh sang thế kỉ XX rồi đến<br /> thế kỉ XXI ngày nay, tuyến đường vẫn có vị trí<br /> và vai trò quan trọng. Vị trí và vai trò quan<br /> trọng của tuyến đường trong lịch sử dân tộc<br /> cho phép chúng ta khẳng định nhãn quan và<br /> chính sách đúng đắn, nhạy bén của các triều<br /> đại phong kiến Việt Nam trong việc xây dựng<br /> và khai thác tuyến đường nói riêng và phát<br /> triển giao thông vận tải nói chung. Từ những<br /> năm cuối thế kỉ XIX và sang đầu thế kỉ XX,<br /> 75<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2