YOMEDIA
ADSENSE
U mỡ trong xương bướm: Một trường hợp hiếm gặp
33
lượt xem 1
download
lượt xem 1
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
U mỡ trong xương là khối u lành tính hiếm gặp, thường gặp ở các xương dẹt, hiếm gặp ở xương nền sọ, đặc biệt là xương bướm. Trong đa số các trường hợp, u mỡ trong xương bướm thường được phát hiện tình cờ qua chụp cắt lớp vi tinh (CLVT) hoặc cộng hưởng từ (CHT) sọ não.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: U mỡ trong xương bướm: Một trường hợp hiếm gặp
- U mỡ trong xương bướm:Bệnh một viện trường Trung hợp ương hiếm Huế gặp Báo cáo trường hợp U MỠ TRONG XƯƠNG BƯỚM: MỘT TRƯỜNG HỢP HIẾM GẶP Trịnh Thị Thu Hiền1, Nguyễn Văn Phấn1, Nguyễn Văn Khiển1, Lê Công Thuấn1, Nguyễn Ngọc Chiến1* DOI: 10.38103/jcmhch.2021.71.6 TÓM TẮT U mỡ trong xương là khối u lành tính hiếm gặp, thường gặp ở các xương dẹt, hiếm gặp ở xương nền sọ, đặc biệt là xương bướm. Trong đa số các trường hợp, u mỡ trong xương bướm thường được phát hiện tình cờ qua chụp cắt lớp vi tinh (CLVT) hoặc cộng hưởng từ (CHT) sọ não. Đây là một khối u phát triển chậm, ít gây ra triệu chứng, một số trường hợp gây triệu chứng khi khối u to chèn ép vào cấu trúc lân cận như tuyến yên hoặc dây thần kinh thị. Trong bài này, chúng tôi báo cáo một trường hợp u mỡ trong xương bướm không triệu chứng được phát hiện tình cờ và được chẩn đoán dựa vào phim chụp cộng hưởng từ sọ não. Bệnh nhân được khuyến nghị theo dõi định kỳ bằng cộng hưởng từ mà không phải tiến hành bất kỳ phương pháp điều trị nào. Từ khóa: U mỡ, xương bướm, MRI, cộng hưởng từ sọ não, chẩn đoán hình ảnh. ABSTRACT INTRAOSSEOUS LIPOMA OF SPHENOID BONE: A RARE CASE REVIEW Trinh Thi Thu Hien1, Nguyen Van Phan1, Nguyen Van Khien1, Le Cong Thuan1, Nguyen Ngoc Chien1* Intraosseous lipoma is very rare, usually benign tumor of flat bones. The incidence of an intraosseous lipomalocated basal skull bones is extremely rare, especially in sphenoid bone. Radiological imaging techniques such as magnetic resonance imaging (MRI) and computed tomography (CT) are used to detect the intraosseous lipoma by accident. These tumors are slow growing and usually asymptomatic, in some cases causing symptoms when the large tumor presses on nearby structures such as pituitary gland or the optic nerve. We present a rare case of lipomaof the sphenoid bone discovered incidentally with brain magnetic resonance imaging. The patient has been followed-up by magnetic resonance imaging without the need for surgery. Keywords: Intraosseous lipoma, sphenoid bone, MRI, brain MRI, diagnostic radiology. ĐẶT VẤN ĐỀ gặp ở các xương dẹt hơn là các xương dài [1]. Các U mỡ là một khối u trung mô hay gặp trong tổ vị trí thường gặp trong các báo cáo trước đây như: chức dưới da nhưng cũng có thể gặp trong xương. xương gót, xương sườn, xương trán và xương nền U mỡ trong xương là khối u lành tính hiếm gặp, sọ. U mỡ trong xương bướm rất hiếm gặp, trong được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1880, thường một số trường hợp u to có thể gây chèn ép vào tuyến Khoa Chẩn đoán hình ảnh, 1 - Ngày nhận bài (Received): 12/07/2021; Ngày phản biện (Revised): 25/7/2021; Hệ thống y tế Vinmec, Hà Nội - Ngày đăng bài (Accepted): 01/8/2021 - Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Ngọc Chiến - Email: ngocchien.phys@gmail.com; SĐT: 0359961998 48 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 71/2021
- Bệnh viện Trung ương Huế yên, dây thần kinh thị giác hoặc các cấu trúc lân cận mạch nội sọ. Tuy nhiên, thân xương bướm vị trí và gây ra triệu chứng. Đây là một khối u phát triển thành trái xoang bướm phát hiện khối tổn thương chậm với đặc điểm đặc trưng trên cắt lớp vi tính kích thước khoảng 10x11x16mm (ngang x cao x (CLVT) và cộng hưởng từ (CHT) có thể giúp chẩn trước - sau). Trên chuỗi xung T1W và T2W thấy đoán xác định mà không cần tiến hành các thủ thuật khối có ranh giới rõ, tăng tín hiệu không đồng nhất, xâm lấn như sinh thiết [2]. Việc chẩn đoán xác định tín hiệu tổn thương giảm trên chuỗi xung xóa mỡ u mỡ trên các phương tiện hình ảnh giúp bệnh nhân (Hình 1), điều này cho thấy có thành phần mỡ trong tránh phải phẫu thuật, trừ các trường hợp liên quan tổn thương này. Khối tổn thương đẩy lồi nhẹ thành đến các vị trí đặc biệt hoặc chèn ép vào các dây thần xoang nhưng chưa gây chèn ép vào tuyến yên hay kinh [3], [4]. các cấu trúc lân cận. Bệnh nhân được chụp kiểm tra bằng CLVT khu trú qua tầng xương bướm. Phim TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG CLVT cho thấy khối tổn thương này có tỷ trọng thấp, Bệnh nhân nam 51 tuổi tiền sử khoẻ mạnh vào khoảng - 70 đến - 100 đơn vị Hounsfield. Bệnh nhân viện khám vì đau đầu mới xuất hiện kéo dài hơn được chẩn đoán xác định là u mỡ trong xương bướm một tháng nay, giảm đau khi sử dụng paracetamol. và được khuyến nghị theo dõi bằng cộng hưởng từ Bệnh nhân không sốt, không nôn, không nhìn mờ sọ não định kỳ mà không cần phẫu thuật hay nhận và không có các dấu hiệu thần kinh khu trú khác. bất kỳ điều trị nào khác liên quan đến khối u mỡ. Bệnh nhân được chỉ định chụp CHT sọ não không Đau đầu của bệnh nhân được chẩn đoán là đau đầu tiêm thuốc đối quang từ để khảo sát các tổn thương căng thẳng và bệnh nhân được hướng dẫn điều tiết thực thể nếu có. Phim CHT cho thấy không có tổn sinh hoạt, tập thư giãn và sử dụng thuốc giảm đau thương thực thể nhu mô não hay bất thường hệ động trong những trường hợp cần thiết. Hình 1: Khối tổn thương nằm trong thân xương bướm bên trái, ranh giới rõ, với tín hiệu tăng trên cả 2 chuỗi xung T2W (hình bên trái) và T1W (hình bên phải) Hình 2: Khối tổn thương trong xương bướm lệch trái tăng tín hiệu trên T2W (hình bên trái) và bị xóa trên chuỗi xung xóa mỡ (hình bên phải) Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 71/2021 49
- U mỡ trong xương bướm:Bệnh một viện trường Trung hợp ương hiếm Huế gặp Hình 3: Khối tổn thương tướng ứng có tỷ trọng mỡ (-70 - >100 HU) trên phim CLVT (hình bên phải) BÀN LUẬN U mỡ trong xương là một u lành tính hiếm gặp, • Giai đoạn 2: Trên phim CLVT biểu hiện các chiếm khoảng 0.1% trong tổng số các u xương. U vùng giảm tỷ trọng của mỡ và các vùng tăng tỷ mỡ trong xương thường được gây ra bởi sự tăng trọng do hoại tử hoặc vôi hóa. Trên CHT ngoài sinh của các tế bào mỡ trưởng thành bên trong tủy ở các vùng biểu hiện tín hiệu của mỡ còn có các các bè xương bình thường. Các khối u này thường vùng biến đổi tín hiệu thấp trên T1W và T2W, không có triệu chứng và thường được phát hiện tình giai đoạn sau có thể thấy vôi hóa trung tâm. Viền cờ trên phim chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ. xơ xương xung quanh có thể thấy. Các khối u này gặp nhiều ở xương chi dưới, đặc biệt • Giai đoạn 3: Ngoài những đặc điểm của giai là xương gót và xương đùi. U mỡ trong xương rất đoạn 2, tổn thương giai đoạn này còn chứa những hiếm gặp ở các xương nền sọ và đặc biệt là xương khoang dịch vùng trung tâm, vách ngăn xương và bướm [1], [2]. Các trường hợp được báo cáo được viền xơ xương dày xung quanh. Trên phim CHT xác định do ngẫu nhiên hoặc do các triệu chứng gây vùng trung tâm hoại tử có tín hiệu thay đổi trên cả ra bởi sự chèn ép của các tổn thương vào các cấu T1W và T2W, viền mỡ xung quanh thì có tín hiệu trúc lân cận [3]. Trong trường hợp của chúng tôi, u cao trên cả T1W và T2W tương ứng. U mỡ trong mỡ trong xương bướm cũng được phát hiện ngẫu xương thường không có dấu hiệu xâm lấn, nhưng nhiên mà không có các triệu chứng liên quan đến sự ở giai đoạn này có thể phát triển ra bên ngoài vỏ phát triển của khối. xương. Đặc điểm này cần phân biệt với nhồi máu Milgram và các cộng sự nghiên cứu trên 61 xương. Trong bệnh u mỡ trong xương, vùng hoại trường hợp với chẩn đoán u mỡ trong xương và tử được bao bọc bởi mô mỡ vùng ngoại vi, ngược phân chia khối u thành 3 giai đoạn [5]. Giai đoạn lại trong nhồi máu xương, thì mô mỡ ở trung tâm 1: tổn thương đặc có ranh giới rõ ràng, chứa mỡ đại được bao bọc bởi mô hạt ở vùng ngoại vi. thể đồng nhất. Giai đoạn 2: tổn thương chứa mỡ với Vì hầu hết các u mỡ trong xương có xu hướng các vùng hoại tử, vôi hóa. Giai đoạn 3: tổn thương không đồng nhất, chứa mỡ với nhiều ổ hoại tử, thoái tiến triển tự phát do hoại tử mỡ, tổ chức nang và hóa dạng nang, vôi hóa lan rộng hoặc phản ứng đặc vôi hóa loạn dưỡng, sự kết hợp CLVT với CHT xương xung quanh. Vì vậy, đặc điểm hình ảnh trên cho phép đánh giá chính xác bệnh mà không cần CLVT và CHT cũng thay đổi, phụ thuộc vào giai giải phẫu bệnh [6]. Hầu hết những u mỡ trong đoạn của chúng: xương được phát hiện tình cờ mà không có triệu • Giai đoạn 1: Trên CLVT thấy ổ khuyết xương chứng thì chỉ cần theo dõi, chỉ những trường hợp cùng với sự phì đại của xương. Trên CHT thấy tăng tín gây nên triệu chứng lâm sàng nghiêm trọng thì hiệu đồng nhất của mỡ trên T1W và T2W và bị xóa trên cần được phẫu thuật cắt bỏ [4]. MacFarlane và chuỗi xung STIR hoặc các chuỗi xung xoá mỡ. cộng sự đã báo cáo hai trường hợp u mỡ trong 50 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 71/2021
- Bệnh viện Trung ương Huế xương bướm là nguyên nhân của rối loạn thị KẾT LUẬN giác và suy tuyến yên và phải được phẫu thuật U mỡ trong xương là một u lành tính, hiếm gặp, cắt bỏ [3]. Trong báo cáo trường hợp lâm sàng thường gặp ở xương chi dưới, hiếm gặp ở xương nền sọ, đặc biệt là xương bướm. U mỡ trong xương này, chúng tôi muốn nhấn mạnh các phương pháp có hình ảnh đặc trưng trên CLVT và CHT giúp chẩn hình ảnh như CLVT và CHT có hiệu quả trong đoán xác định mà không cần các kỹ thuật xâm lấn chẩn đoán bệnh mà không cần đến các phương khác để đánh giá mô bệnh học. Những trường hợp pháp xâm lấn khác để chẩn đoán. Bệnh nhân của phát hiện tình cờ, không gây triệu chứng lâm sàng chúng tôi không cần phẫu thuật, tiếp tục được thì không cần phẫu thuật, trừ các trường hợp chèn theo dõi. ép gây triệu chứng lâm sàng nghiêm trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. francisco resent-martinez vicente reig-boix, 4. T. Propeck, M. A. Bullard, J. Lin, K. Doi, and jose guinot-tormo, Computed tomography W. Martel, Radiologic - Pathologic correlation of intraosseous lipoma of os calcis. pp. 286- of intraosseous lipomas, Am. J. Roentgenol., 291, 1985. vol. 175, no. 3, pp. 673-678, 2000, doi: 10.2214/ 2. M. D. Murphey, J. F. Carroll, D. J. Flemming, ajr.175.3.1750673. T. L. Pope, F. H. Gannon, and M. J. 5. J. W. Milgram, “Intraosseous lipomas: Kransdorf, From the archives of the AFIP: Radiologic and pathologic manifestations,” Benign musculoskeletal lipomatous lesions, Radiology, vol. 167, no. 1, pp. 155-160, 1988, Radiographics, vol. 24, no. 5, pp. 1433-1466, doi: 10.1148/radiology.167.1.3347718. 2004, doi: 10.1148/rg.245045120. 6. R. S. D. Campbell, A. J. Grainger, D. C. 3. M. R. MacFarlane, S. S. Soule, and P. J. Mangham, I. Beggs, J. Teh, and A. M. Davies, Hunt, Intraosseous lipoma of the body of Intraosseous lipoma: Report of 35 new cases the sphenoid bone, J. Clin. Neurosci., vol. and a review of the literature, Skeletal Radiol., 12, no. 1, pp. 105-108, 2005, doi: 10.1016/j. vol. 32, no. 4, pp. 209-222, 2003, doi: 10.1007/ jocn.2004.07.010. s00256-002-0616-7. Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 71/2021 51
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn