intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

U trung biểu mô (MESOTHELIOMA)

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

231
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

U trung biểu mô là gì? U trung biểu mô là một bệnh ung thư của lớp mô phủ bên trong lồng ngực hoặc ổ bụng. Trong phần này, chỉ có u trung biểu mô của mô phủ trong lồng ngực sẽ được giải thích. Lớp mô phủ mặt trong lồng ngực được gọi là màng phổi. Màng phổi bao bọc hai phổi và bên trong thành ngực. Màng che phủ phổi được gọi là màng phổi tạng và lớp phủ thành ngực được gọi là màng phổi thành. Bệnh u trung biểu mô có thể bắt đầu ở...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: U trung biểu mô (MESOTHELIOMA)

  1. U trung biểu mô (MESOTHELIOMA) U trung biểu mô là gì? U trung biểu mô là một bệnh ung thư của lớp mô phủ bên trong lồng ngực hoặc ổ bụng. Trong phần này, chỉ có u trung biểu mô của mô phủ trong lồng ngực sẽ được giải thích. Lớp mô phủ mặt trong lồng ngực được gọi là màng phổi. Màng phổi bao bọc hai phổi và bên trong thành ngực. Màng che phủ phổi được gọi là màng phổi tạng và lớp phủ thành ngực được gọi là màng phổi thành. Bệnh u trung biểu mô có thể bắt đầu ở hoặc lan tràn đến bất cứ phần nào của màng phổi. Giống như bất cứ loại ung thư nào, u trung biểu mô là kết quả của các tế bào bất thường phát triển và phân chia không có sự kiểm soát. Chúng tạo thành những khối tế bào bất thường được gọi là khối u. Các tế bào u xâm lấn các mô lân cận và lan tràn đến các mô khác qua dòng máu và bạch huyết. Các tế bào u trung biểu mô có thể tạo thành nhiều khối u nhỏ nằm trên bề mặt màng phổi trước khi lan tràn tới các mô khác.
  2. U trung biểu mô là một loại ung thư hiếm gặp. Có sự nghi ngờ là bệnh này liên quan đến bụi amiăng. Nếu người nào đó phát triển bệnh u trung biểu mô th ì thường từ 20 năm đến 40 năm trước đã khi bị phơi nhiễm với bụi amiăng. Các triệu chứng của u trung biểu mô là gì? - Hơi thở ngắn (sự khó thở) - Khó thở hoặc sự đau đớn khi thở - Ho - Đau ở vùng ngực hoặc vùng lưng trên U trung biểu mô gây ra khó thở và đau. Biểu hiện khó thở phổ biến nhất là hơi thể ngắn. Các tế bào ung thư làm cho mô phủ màng phổi cứng lại, vì vậy, hai phổi và lồng ngực không thể phồng ra dễ dàng như bình thường. Sự cứng lại của mô phủ màng phổi làm cho người bệnh khó thở. Dịch trong lồng ngực còn có thể làm cho việc thở khó khăn hơn. Khối u gây ra dịch tích lũy lại bên trong lồng ngực giữa lớp mô của lá thành và lá tạng màng phổi. Hai phổi không thể phồng ra ở nơi có chất dịch, vì vậy có rất ít không khí được đưa vào hai phổi trong mỗi lần hít thở. Đau trong u trung biểu mô có thể do sự kích thích màng phổi. Đau cũng có thể phát sinh do các tế bào u xâm lấn vào các dây thần kinh giữa các xương sườn. Các dây thần kinh này nằm sát với lớp bên trong của thành ngực và có thể bị mắc kẹt
  3. giữa các tế bào ung thư. Các dây thần kinh sau đó bị kéo căng lên khi ngực phồng ra trong khi hít thở. U trung biểu mô được chẩn đoán như thế nào? Một bệnh nhân với hơi thở ngắn hoặc bị đau khi thở cần được bác sĩ khám. Một tiền sử bệnh và việc khám thực thể, đặc biệt ở vùng ngực là quan trọng trong việc đánh giá bệnh nhân. Một số xét nghiệm giúp sự chẩn đoán u trung biểu mô l à: - Chụp X quang ngực thường xuyên để phát hiện sự dày lên của màng phổi (mô lợp thành ngực), dấu vết của khối u, hoặc chất dịch bên trong lồng ngực. - Chụp CT hoặc chụp cộng hưởng từ hạt nhân lồng ngực MRI, một loạt hình ảnh những tia X cắt mỏng, những tia X cắt ngang qua lồng ngực cho thấy những khối u nhỏ, kích thước và sự lan tràn của các khối u được nhìn thấy rõ trên một phim chụp X quang ngực bình thường, và sự xâm lấn của khối u vào các mô lân cận và các hạch bạch huyết. - Chọc thành ngực và sinh thiết màng phổi: Nếu chất dịch đã tích lại trong lồng ngực (được gọi là tràn dịch), một mẫu chất dịch có thể được lấy ra và được sử dụng để chẩn đoán. Phương pháp này được thực hiện bằng một chiếc kim tiêm nhỏ và gây tê cục bộ làm tê liệt vùng da nơi chiếc kim chọc vào. Nếu chất dịch được gây nên do khối u, các tế bào ung thư có thể được tìm thấy trong đó. Việc
  4. phát hiện được các tế bào ung thư vẫn không cho phép chẩn đoán chắc chắn một u trung biểu mô, nhưng điều đó có nghĩa là một sinh thiết mô màng phổi là cần thiết. - Soi lồng ngực bằng một ống có gắn máy quay phim nhỏ ở đầu được đưa vào trong lồng ngực. Công việc này được tiến hành dưới sự gây mê toàn thân trong phòng mổ và đòi hỏi bệnh nhân nằm lại một thời gian ngắn trong bệnh viện. Soi lồng ngực được dùng để tìm kiếm những mô nằm bên trong ngực và để lấy sinh thiết (những mảnh nhỏ mô) của bất kỳ mô nào thấy không bình thường. Một bác sĩ giải phẫu bệnh xem xét mô này dưới một kính hiển vi. Bác sĩ giải phẫu bệnh có thể kết luận có hay không có mô từ một u trung biểu mô. Giai đoạn của u trung biểu mô là gì và ý nghĩa của nó? Giai đọan của một ung thư nói lên khối u nhiều đến mức nào và nó có lan tràn sang các vùng lân cận hoặc các bộ phận khác của cơ thể hay không. Độ của một ung thư được sử dụng để có những quyết định điều trị. Nó còn cho biết những thông tin về khả năng chữa khỏi bệnh. Hiện nay có ba hệ thống xếp giai đoạn đang được sử dụng. 1. Hệ thống Brigham: Miêu tả khối u có thể cắt bỏ bằng phẫu thuật hay không. Hệ thống này cũng bao gồm những thông tin về sự lan tràn của bệnh đến các hạch bạch huyết.
  5. 2. Hệ thống Butchart: dựa trên sự lan tràn của bệnh trong lồng ngực và tới các phần khác của cơ thể. 3. Hệ thống TNM: định rõ giai đoạn từ kích thước khối u (T), lan tràn đến các hạch bạch huyết (N) và di căn đến các bộ phận khác của cơ thể (M). Như một ví dụ sau, hệ thống Brigham sẽ được diễn giải. Hệ thống này định giai đoạn u trung biểu mô bằng việc khối u có thể được phẫu thuật để loại bỏ không và bằng sự lan tràn của ung thư đến các hạch bạch huyết. + Giai đoạn I: Có thể phẫu thuật loại bỏ khối u và không có lan tràn tới hạch bạch huyết. + Giai đoạn II: Có thể phẫu thuật loại bỏ khối u cùng với hạch bạch huyết bị bệnh. + Giai đoạn III: Không thể phẫu thuật loại bỏ vì khối u vì u đã lan rộng vào thành ngực, đến tim hoặc đi qua cơ hoành vào màng bụng (phúc mạc phủ mặt trong ổ bụng). Các hạch bạch huyết bên ngoài lồng ngực có thể hoặc không bị nhiễm bệnh. + Giai đoạn IV: Bệnh đã lan tràn đến các bộ phận khác của cơ thể. Tất cả các hệ thống định giai đoạn được dùng để quyết định những phương pháp điều trị nào là cần thiết và để dự đoán những khả năng có thể chữa khỏi bệnh này.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0