BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

NGÔ MINH DUNG

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HÓA

XÁC ĐỊNH NHU CẦU NĂNG LƯỢNG VÀ PROTEIN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỨC ĂN CHO CÁ LÓC (Channa striata)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

THỦY SẢN

NGÀNH NUÔI TRỒNG

Mã ngành 62 03 01

2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

NGÔ MINH DUNG

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HÓA

XÁC ĐỊNH NHU CẦU NĂNG LƯỢNG VÀ

PROTEIN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỨC ĂN CHO

CÁ LÓC (Channa striata)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Mã ngành 9 62 03 01

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN PGs. Ts. TRẦN THỊ THANH HIỀN PGs.Ts. BÙI MINH TÂM

2018

LỜI CAM KẾT KẾT QUẢ

Tôi xin cam kết luận án này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi (thuộc Dự án AquaFish Innovation Lab). Tất cả các số liệu và kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong thời gian trước đây bởi tác giả khác.

Cần Thơ, ngày .… tháng .… năm 2018

TÁC GIẢ

NGÔ MINH DUNG

i

LỜI CẢM TẠ

Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Thủy sản trường Đại hoc Cần Thơ và Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm, Kiểm định Nuôi trồng Thủy sản Vùng I đã tạo điều kiện cho tôi được thực hiện chương trình Nghiên cứu sinh trong những năm qua.

Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban Chủ nhiệm Khoa Thủy sản; Bộ môn Dinh dưỡng và Chế biến Thủy sản, Khoa Thủy sản; Phòng Đào tạo và Phòng Quản lý Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ đã rất nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chương trình học tập và nghiên cứu. Cám ơn Dự án Aquafish Innovation Lab đã hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu.

Tôi xin trân trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô hướng dẫn PGs.Ts. Trần Thị Thanh Hiền trong những năm qua đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành quyển Luận án này. Xin chân thành cảm ơn thầy hướng dẫn PGs.Ts. Bùi Minh Tâm đã động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian tôi học tập và nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến quý Thầy, Cô Ths. Trần Lê Cẩm Tú, Ks. Nguyễn Văn Khánh đã tận tình góp ý và hỗ trợ để giúp tôi hoàn thiện luận án; cùng tất cả quý Thầy Cô trong Khoa Thủy sản đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường.

Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn Huỳnh Phan Tuyên, Nguyễn Thị Long Châu và các em sinh viên đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn các anh, chị và các bạn Nghiên cứu sinh các Khóa 2010 và 2011 đã cùng tôi gắn bó, giúp đỡ nhau trong suốt thời gian học tập tại Khoa.

Cuối cùng xin được biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những người thân đã chia sẻ, giúp đỡ và động viên tinh thần để tôi có được kết quả ngày hôm nay.

NGÔ MINH DUNG

ii

ABSTRACT

The study on nutritional characteristics and application of bioenergetic modelling to determine the nutritional requirement of snakehead fish (Channa striata) was conducted as a basis to formulate diets for snakehead commercial aquaculture.

The

to describe

first experiment was

the development of histomorphology, digestive enzymes and the efficient weaning methods from trash fish to formulated diet for early stage of snakehead larval development. The experiment was conducted with two treatments: (i) Moina sp. and marine trash fish; and (ii) trash fish was replaced by formulated diet from the 17th day. The results showed that after three days of hatching, larvae did food uptake well, but the digestive tract was not differentiated. The gastric gland appeared on the 12th day revealing that the digestive tract was functional. Proteolytic enzymes were detected at low level as early as hatching and remained constant until the 12th day, except the trypsin which was significantly increased on the 21st day. Feeding trash fish treatment significantly increased enzyme activities of pepsin and trypsin (p<0.05) in comparison with formulated diet replacement, by contrast, α – amylase activity significantly increased with feeding formulated food (p<0.05).

The study of suitable fecal-collection for digestive studies in snakehead were conducted in two experiments: (i) feces was collected by way settlement at 2 hour intervals form 2h to 24h after feeding. The results showed that eight hours after feeding was the appropriate time for feces collection; and (ii) three different feces collection methods were compared in using either settlement, dissection or stripping. Settlement was considered the most suitable method for collecting feces to the determine of feed digestibility in snakehead.

The application of bioenergetic modelling for determination of protein, energy, digestive methionine and lysine requirements in snakehead was carried out in three experiments: (i) analysis of chemical composition of snakehead collected in different culture systems and growth evaluation at farm level; (ii) fasting experiment to determine energy and protein exponents and (iii) determination of the maintenance and efficiency of protein, energy, methionine, lysine utilization of snakehead. Snakehead growth in body weight was predicted by the equation: y = 0.468 BW0.391 (y: weight gain, g.day-1; BW: body weight, g). The exponents of energy metabolism were 0.82 and 0.76 for protein. The requirement of digestible energy and protein for maintenance was estimated at 43.7 KJ/BW (kg)0.82/day, and 0.41 g/ BW (kg)0.76/day. Digestive energy and protein utilization efficiency were 58.2% and 47.6%. The requirement for digestible

iii

methionine for maintenance was 0.015 g/BW (kg)0.76/day and lysine was 0.036 g/BW (kg)0.76/day. The efficiency of methionine utilization and lysine for growth was 60% and 64%. Protein digestibility requirements for snakehead fish at 16 MJ were 42% (fish size 5 g), 36% (50 g), 34% (100 g), 32% (200 g) and 30% (500 g), and digestible FCR was 1.22. Digestible protein/digestible energy (DP/DE) of snakehead determined at fish size of 5 g and 500 g was 26.4 and 18.6, respectively.

The study on the protein, energy and amino acid digestibility of raw materials for snakehead was conducted in two experiments: (i) protein ingredients (fish meal, defatted soybean meal, meat bone meal, blood meal), and (ii) Carbohydrate ingredients (rice bran, defatted rice bran, cassava meal and palm meal). The results showed that fish meal indicated the highest digestibility (85.8%), soybean meal 69.7%, blood meal 69.0% and the lowest – 52.3% in meat bone meal. In the second experiment, rice bran revealed the highest digestibility (70.7%) and the worst in palm meal (66.7%).

The on-farm experiment using formulated feed based on the fish requirements was set up in hapa (2x2x3m) placed in pond with initial fish weight of 9g. After five months, the weight reached 455 g and FCR was 1.27; whereas, in the control diet (using commercial feed), the weight was 399 g and FCR was 1.50.

In summary, the application of bioenergetic modelling to estimate the nutritional requirement of snakehead fish was effective and useful in producing commercial feed for snakehead culture.

iv

TÓM TẮT

Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng và ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc (Channa striata) được thực hiện nhằm làm cơ sở xây dựng công thức thức ăn cho các giai đoạn nuôi cá lóc thương phẩm.

Nghiên cứu sự phát triển về hình thái, cấu trúc và chức năng, cũng như ảnh hưởng của việc chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến (TĂCB) lên enzyme tiêu hóa ở cá lóc tiến hành với 2 nghiệm thức: (i) Nghiệm thức 1 sử dụng hoàn toàn thức ăn tươi sống là Moina và cá tạp (ii) nghiệm thức 2 cá tạp được thay thế dần bằng TĂCB từ ngày 17 trở đi. Kết quả vào ngày thứ 3 sau khi nở, cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài, ống tiêu hóa vẫn chưa phân hóa. Tuyến dạ dày xuất hiện vào ngày thứ 12 cho thấy sự hoàn thiện về chức năng của ống tiêu hóa cả về mặt hình thái và mô học. Enzyme tiêu hóa protein đều được phát hiện với mức thấp ở giai đoạn mới nở và duy trì liên tục cho đến ngày 12 ngoại trừ trypsin với mức tăng ý nghĩa ở ngày thứ 21. Đối với cá ăn thức ăn cá tạp hoạt tính enzyme pepsin và trypsin cao, trong khi đó cá ăn TĂCB cho hàm lượng α – amylase cao hơn.

Nghiên cứu phương pháp thu phân thích hợp áp dụng cho nghiên cứu độ tiêu hóa ở cá lóc được thực hiện 2 thí nghiệm về (i) xác định thời điểm thu phân bằng phương pháp lắng với nhịp thu phân mỗi 2 giờ một lần, bắt đầu thu phân tại thời điểm 2 giờ sau khi cho cá ăn và thu liên tục trong 24 giờ. Kết quả đã xác định thời điểm thu phân hiệu quả ở cá lóc là 8 giờ sau khi cho cá ăn; (ii) xác định phương pháp thu phân thích hợp được so sánh với 3 phương pháp khác nhau là phương pháp lắng, mổ và vuốt. Kết quả đã xác định thu phân bằng phương pháp lắng thích hợp nhất cho đối tượng cá lóc để xác định độ tiêu hóa, trong khi đó phương pháp mổ và vuốt thì không phù hợp để áp dụng thu phân.

Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học nhằm xác định nhu cầu protein, năng lượng, methionine, lysine tiêu hóa ở cá lóc được thực hiện với 3 thí nghiệm: (i) Thu mẫu tăng trưởng và thành phần hóa học của cá lóc trong các hệ thống nuôi, (ii), thí nghiệm bỏ đói nhằm xác định số mũ trao đổi năng lượng và protein, (iii) thí nghiệm xác định nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng, methionine, lysine tiêu hóa của cá lóc. Kết quả cho thấy tăng trưởng tuyệt đối theo khối lượng của cá lóc được xác định bởi phương trình: y=0,468*BW(g)^0,391 (trong đó y = tăng trưởng tuyệt đối–g/ngày, BW = khối lượng cá–g). Số mũ trao đổi năng lượng ở cá lóc là 0,82 và protein là 0,76. Nhu cầu năng lượng tiêu hóa cho duy trì ở cá lóc là 43,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày, protein là 0,41 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa là 47,6%, và protein tiêu hóa là 58,2%. Nhu cầu methionine

v

duy trì của cá lóc là 0,015 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày, lysine là 0,036 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Hiệu quả sử dụng methionine tiêu hóa là 60% và lysine tiêu hóa là 64%.

Nhu cầu protein tiêu hóa ở cá lóc với mức năng lượng là 16 MJ lần lượt là 42% (cá 5 g), 36% (50 g), 34% (100 g), 32% (200 g) và 30% (cá 500 g), FCR tiêu hóa ước tính là 1,22. Tỉ lệ protein tiêu hóa/ năng lượng tiêu hóa (DP/DE) của cá lóc được xác định với các kích cỡ cá 5 g đến 500 g trong nuôi thương phẩm lần lượt là 26,4 và 18,6.

Nghiên cứu xác định khả năng tiêu hóa protein, năng lượng, acid amin của nguyên liệu được thực hiện với 2 thí nghiệm: (i) nhóm cung cấp protein (bột cá, bột đậu nành ly trích dầu, bột thịt xương, bột huyết); (ii) nhóm cung cấp carbohydrate (cám gạo, cám ly trích dầu, cám mì, bột khoai mì lát, bột cọ). Kết quả cho thấy đối với nhóm protein, bột cá được cá lóc tiêu hóa tốt nhất (85,8%), kế đến bột đậu nành ly trích dầu (69,7%), bột huyết (69,0%) và bột thịt xương (52,3%). Trong nhóm cung cấp carbohydrat cám gạo được tiêu hóa tốt nhất (70,7%) và kém nhất là bột cọ (66,7%).

Thí nghiệm nuôi thực nghiệm từ công thức thức ăn được phát triển dựa vào nhu cầu của cá được thực hiện trong vèo (2x2x3 m) đặt trong ao, sau năm tháng nuôi cá đạt khối lượng 455 g, FCR là 1,27, trong khi nghiệm thức đối chứng (thức ăn công nghiệp) cá đạt 399 g, FCR là 1,50.

Từ kết quả nghiên cứu cho thấy ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để ước tính nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc là có hiệu quả và làm cơ sở tốt cho việc phát triển thức ăn cho nuôi cá lóc thương phẩm.

vi

MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT KẾT QUẢ ................................................................................ i

LỜI CẢM TẠ .................................................................................................... ii

ABSTRACT ...................................................................................................... iii

TÓM TẮT .......................................................................................................... v

MỤC LỤC ....................................................................................................... vii

DANH SÁCH BẢNG ...................................................................................... xii

DANH SÁCH HÌNH ...................................................................................... xiv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... xvi

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU................................................................................ 1

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 4

2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc ................................................................... 4

2.1.1 Phân loại ............................................................................................ 4

2.1.2 Đặc điểm phân bố .............................................................................. 4

2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng ........................................................................ 5

2.1.4 Đặc điểm sinh sản .............................................................................. 5

2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng ........................................................................ 5

2.2 Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến nuôi cá lóc ................................... 6

2.3 Tình hình nuôi cá lóc thương phẩm ở Đồng bằng sông Cửu Long ......... 8

2.4 Sự phát triển ống tiêu hóa của cá ............................................................. 9

2.5 Enzyme và sự phát triển enzyme .......................................................... 12

2.5.1 Enzyme ............................................................................................ 12

2.5.2 Enzyme tiêu hóa .............................................................................. 12

2.5.3 Sự phát triển enzyme tiêu hóa ở cá ................................................. 14

2.6 Phương pháp xác định độ tiêu hóa thức ăn ............................................ 15

2.7 Nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản ........................................... 17

2.7.1 Nhu cầu protein ............................................................................... 17

2.7.2 Nhu cầu acid amin ........................................................................... 20

2.7.3 Nhu cầu năng lượng ........................................................................ 22

2.8 Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học trong xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá ................................................................................................ 28

2.8.1 Các phương pháp xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá .................. 28

vii

2.8.2 Cách xác định một số nhân tố trong mô hình năng lượng sinh học 32

2.8.2.1 Tốc độ tăng trọng của cá .............................................................. 32

2.8.2.2 Nhu cầu trao đổi chất cơ sở .......................................................... 33

2.8.2.2 Nhu cầu protein, năng lượng duy trì ............................................ 33

2.8.2.3. Hiệu quả sử dụng protein, năng lượng ........................................ 34

2.8.3 Ứng dụng của mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu dinh dưỡng ........................................................................................................ 35

2.9 Một số nguồn nguyên liệu phổ biến sử dụng trong chế biến thức ăn cá 38

2.9.1 Nguồn nguyên liệu protein .............................................................. 38

2.9.2 Nguồn nguyên liệu carbohydrate .................................................... 43

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................. 46

3.1 Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 46

3.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................................... 46

3.3 Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 46

3.3.1 Nội dung 1: Nghiên cứu đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến. ................. 49

3.3.1.1 Nguồn cá lóc thí nghiệm .......................................................... 49

3.3.1.2 Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm ............................................... 49

3.3.1.3 Bố trí thí nghiệm .......................................................................... 50

3.3.2 Nội dung 2: Xác định phương pháp thu phân thích hợp đánh giá độ tiêu hóa của cá lóc .................................................................................... 52

3.3.2.1 Nguồn cá lóc thí nghiệm .......................................................... 52

3.3.2.2 Thức ăn thí nghiệm và hệ thống bể thí nghiệm ....................... 52

3.3.2.3 Bố trí thí nghiệm ...................................................................... 53

3.3.3 Nội dung 3: Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu protein, năng lượng và acid amin của cá lóc ............................................ 56

3.3.3.1 Khảo sát đặc điểm sinh trưởng và thành phần hóa học cá lóc nuôi thương phẩm ............................................................................................. 56

3.3.3.2 Thí nghiệm 4: Xác định protein và năng lượng tiêu hao ở cá lóc 57

3.3.3.3 Thí nghiệm 5: Khả năng tiêu hóa thức ăn và các dưỡng chất trong thức ăn của cá lóc ..................................................................................... 58

3.3.3.4 Thí nghiệm 6: Xác định nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin tiêu hóa của cá lóc............................................ 60

3.3.4 Nội dung 4: Khả năng tiêu hóa của cá lóc đối với một số nguyên liệu phổ biến làm thức ăn. ............................................................................... 62

viii

3.3.4.1 Thí nghiệm 7: Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu protein ..... 62

3.3.4.2 Thí nghiệm 8: Khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu carbohydrate ............................................................................................. 64

3.3.5 Nội dung 5: Xây dựng công thức thức ăn nuôi cá lóc thương phẩm ......................................................................................................... 66

3.3.6 Nuôi thử nghiệm .............................................................................. 67

3.4 Phương pháp xác định các chỉ tiêu ..................................................... 68

3.4.1 Phương pháp xác định một số yếu tố môi trường ........................... 68

3.4.2 Phương pháp xác định các chỉ tiêu sinh học ................................... 68

3.4.3 Phương pháp xác định các chỉ tiêu về độ tiêu hóa .......................... 69

3.4.5 Phương pháp xác định chỉ tiêu hóa học .......................................... 69

3.6 Phương pháp xử lý số liệu ...................................................................... 70

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................... 71

4.1 Đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến........................................................ 71

4.1.1 Sự phát triển của cá bột ............................................................... 71

4.1.1.1 Kích thước và khối lượng ........................................................ 71

4.1.1.2 Sự phát triển hình thái .............................................................. 73

4.1.2 Cấu trúc ống tiêu hóa của cá lóc .................................................. 75

4.1.2.1 Khoang miệng .......................................................................... 75

4.1.2.2 Thực quản................................................................................. 76

4.1.2.3 Dạ dày ...................................................................................... 76

4.1.2.4 Ruột .......................................................................................... 79

4.1.3 Hoạt tính của enzyme .................................................................. 81

4.1.3.1 Hoạt tính của nhóm enzyme phân giải protein ........................ 82

4.1.3.2 Hoạt tính enzyme amylase ....................................................... 85

4.1.4 Mối liên hệ giữa hàm lượng enzyme và sự phát triển ống tiêu hóa

86

4.2 Phương pháp xác định độ tiêu hóa của cá lóc .................................... 88

4.2.1 Thời điểm thu phân ..................................................................... 88

4.2.2 Phương pháp thu phân thích hợp ................................................. 89

4.3 Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc ...................................................................................................... 91

4.3.1 Khảo sát đặc điểm sinh trưởng và thành phần hóa học cá lóc nuôi thương phẩm ............................................................................................. 91

ix

4.3.1.1 Sinh trưởng của cá lóc nuôi thương phẩm ............................... 91

4.3.1.2 Thành phần hóa học của cá lóc nuôi thương phẩm .................. 93

4.3.2 Protein, năng lượng và acid amin tiêu hao .................................. 95

4.3.2.1 Tỉ lệ sống và khối lượng cá trước và sau quá trình bỏ đói ....... 95

4.3.2.2 Thành phần hóa học của cá lóc trước và sau quá trình bỏ đói . 96

4.3.2.3 Protein tiêu hao sau 28 ngày bỏ đói ......................................... 99

4.3.2.4 Năng lượng tiêu hao sau 28 ngày bỏ đói ............................... 100

4.3.3 Khả năng tiêu hóa thức ăn và các dưỡng chất trong thức ăn của cá lóc

102

4.3.4 Hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin của cá lóc 104

4.3.4.1 Tỷ lệ sống ................................................................................... 104

4.3.4.2 Tăng trưởng của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau ................ 105

4.3.4.3 Thành phần hóa học của cá lóc .................................................. 106

4.3.4.4 Hiệu quả sử dụng protein của cá lóc .......................................... 108

4.3.4.5 Hiệu quả sử dụng năng lượng của cá lóc ................................... 110

4.3.4.5 Hiệu quả sử dụng acid amin của cá lóc ...................................... 112

4.3.5 Xác định nhu cầu protein, năng lượng, methionine, lysine tiêu hóa của cá lóc ................................................................................................ 115

4.4 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu phổ biến .............................. 122

4.4.1 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu protein .......................... 122

4.4.1.1 Độ tiêu hóa thức ăn thí nghiệm .............................................. 122

4.4.1.2 Độ tiêu hóa của nguyên liệu protein ...................................... 124

4.4.2 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu carbohydrate .................... 127

4.4.2.1 Độ tiêu hóa thức ăn thí nghiệm .................................................. 127

4.3.2.2 Độ tiêu hóa của nguyên liệu carbohydrate ................................. 129

4.5 Xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc từng giai đoạn ................... 130

4.6 Nuôi thử nghiệm thức ăn cá lóc ....................................................... 131

4.6.1 Điều kiện chất lượng môi trường nước ao nuôi thực nghiệm ....... 131

4.6.2 Tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc sau 5 tháng nuôi thực nghiệm ............................................................................................ 132

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................. 134

5.1 Kết luận ................................................................................................ 134

5.2 Kiến nghị .............................................................................................. 134

x

DANH MỤC TỔNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................................................................. 136

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 137

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 158

xi

DANH SÁCH BẢNG

Bảng 2.1: Enzyme, vị trí tiết và sản phẩm tiêu hóa của cá .............................. 13

Bảng 2.2: Giá trị pH tối ưu của pepsin ở các loài cá ....................................... 13

Bảng 2.3: Nhu cầu acid amin đối với một số loài cá ....................................... 21

Bảng 2.4: Nhu cầu về năng lượng, protein và khẩu phần ăn của một số loài cá được xác định trên mô hình năng lượng sinh học ........................................... 36

Bảng 2.5: Tỷ lệ bột cá sử dụng trong thức ăn thủy sản ................................... 39

Bảng 2.6: Thành phần hóa học của một số lọai bột cá thành phẩm ................ 39

Bảng 2.7: Thành phần dinh dưỡng của lúa mì và các phụ phẩm (%) .............. 44

Bảng 3.1: Xuất xứ nguyên liệu sử dụng làm thức ăn trong các thí nghiệm .... 48

Bảng 3.2: Thành phần nguyên liệu của TĂCB ................................................ 49

Bảng 3.3: Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm .......................................................................................................................... 49

Bảng 3.4: Phương thức cho ăn của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1 ........ 50

Bảng 3.5: Công thức thức ăn và thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 52

Bảng 3.6: Thời điểm thu phân ......................................................................... 54

Bảng 3.7: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 5 ......................... 59

Bảng 3.6: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 5 ................................ 59

Bảng 3.7: Thành phần hóa học của nguyên liệu thí nghiệm 6 ......................... 62

Bảng 3.8: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 6 ......................... 63

Bảng 3.9: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 6 ................................ 63

Bảng 3.10: Thành phần hóa học của nguyên liệu thí nghiệm 7 ....................... 65

Bảng 3.11: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 7 ....................... 65

Bảng 3.12: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 7 .............................. 66

Bảng 3.13: Loại thức ăn và hàm lượng protein (%) sử dụng trong thời gian nuôi .......................................................................................................................... 67

Bảng 4.1: Chiều dài trung bình của cá lóc từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi . 71

Bảng 4.2: So sánh chiều dài và khối lượng cá lóc của hai nghiệm thức ......... 73

Bảng 4.3: Hoạt tính enzyme pepsin (mU/mg protein) trên cá lóc giai đoạn 1-35 ngày tuổi .......................................................................................................... 82

Bảng 4.4: Hoạt tính enzyme trypsin (mU/mg protein) trên cá lóc từ 1 đến 35 ngày tuổi .......................................................................................................... 83

Bảng 4.5: Hoạt tính enzyme chymotrypsin (mU/mg protein) trên cá lóc thí nghiệm ............................................................................................................. 85

xii

Bảng 4.6: Hoạt tính enzyme α-amylase (mU/mg protein) trên cá lóc giai đoạn 1-35 ngày tuổi .................................................................................................. 86

Bảng 4.7: Độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc với 3 phương pháp thu phân khác nhau .......................................................................................................................... 90

Bảng 4.8 : Khối lượng và tỉ lệ sống của cá trước và sau thí nghiệm ............... 95

Bảng 4.9: Thành phần hóa học của cá lóc trước và sau 28 ngày bỏ đói (tính theo khối lượng tươi của cá) .................................................................................... 97

Bảng 4.10: Độ tiêu hóa thức ăn và dưỡng chất của thức ăn thí nghiệm ........ 102

Bảng 4.11: Tỷ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau ................................................................................... 105

Bảng 4.12: Thành phần hóa học của cá lóc khi cho ăn với các mức khác nhau (tính theo khối lượng tươi của cá) ................................................................. 107

Bảng 4.12: Nhu cầu protein và năng lượng của cá lóc dựa trên sự tiêu hóa protein, năng lượng và acid amin trong thức ăn ............................................ 117

Bảng 4.13: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của thức ăn ........................................................................................................................ 122

Bảng 4.14: Độ tiêu hóa của nguyên liệu protein ........................................... 124

Bảng 4.15: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của thức ăn ........................................................................................................................ 127

Bảng 4.16: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của nguyên liệu.................................................................................................................. 129

Bảng 4.17: Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn cho cá lóc dựa trên độ tiêu hóa protein, năng lượng, methinine, lysine mức năng lượng 16MJ/kg thức ăn ........................................................................................................................ 130

Bảng 4.18: Công thức thức ăn nuôi cá lóc từng giai đoạn............................. 131

Bảng 4.19: Tỉ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng của cá lóc sau 5 tháng nuôi với 2 loại thức ăn ................................................................................... 132

xiii

DANH SÁCH HÌNH

Hình 2.1: Hình thái cá lóc (Channa striata) ...................................................... 4

Hình 2.2: Sơ đồ chuyển hóa năng lượng trong cơ thể động vật thủy sản. ....... 24

Hình 2.3: Sơ đồ tóm tắt quy trình ứng dụng mô hình tăng trưởng đa nhân tố xác định thành phần thức ăn của cá. ....................................................................... 32

Hình 2.4: Tương quan giữa tốc độ tăng trường và khối lượng cá ................... 32

Hình 2.5: Nhu cầu duy trì và trao đổi chất cơ sở của cá (NRC, 2011) ............ 34

Hình 3.1: Sơ đồ nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng và xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc (Channa striata). ............................................................................ 47

Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm thu phân (phương pháp thu phân lắng). .... 54

Hình 3.2: Phương pháp thu phân vuốt. ............................................................ 55

Hình 3.3: Phương pháp thu phân mổ (thu phân từ ruột cá). ............................ 55

Hình 3.4: Bố trí thí nghiệm 4 ........................................................................... 57

Hình 3.5: Hệ thống thí nghiệm cho cá ăn các mức khác nhau. ....................... 61

Hình 4.1: Tăng trưởng về chiều dài và khối lượng của cá lóc từ 1 đến 35 ngày tuổi. .................................................................................................................. 72

Hình 4.2: Sự phát triển hình thái của cá lóc (Channa striata) ......................... 74

Hình 4.3: Mặt cắt dọc của cá lóc một ngày tuổi (HE, 10x20). ........................ 75

Hình 4.4: Mặt cắt dọc khoang miệng của cá lóc ở ngày tuổi thứ 7 (HE, 10x20). .......................................................................................................................... 76

Hình 4.5: Mặt cắt dọc của thực quản ở cá lóc 7 ngày tuổi (HE, 10x40). ........ 76

Hình 4.6: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ngày tuổi thứ 3 (HE, 10x10). ................. 77

Hình 4.7: Mặt cắt dọc dạ dày cá ở ngày thứ 12 (HE, 10x10). ......................... 77

Hình 4.8: Mặt cắt dọc dạ dày cá ở ngày thứ 18 (HE, 10x40). ......................... 78

Hình 4.9: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ở ngày tuổi 12 (HE, 10x40) ................... 78

Hình 4.10: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ở ngày tuổi 30 (HE, 10x40). ................ 79

Hình 4.11: Ruột cá lóc ở giai đoạn 7 ngày tuổi (HE; 10x10). ......................... 79

Hình 4.12: Ruột cá lóc ở giai đoạn 3 ngày tuổi (HE; 10x40) .......................... 80

Hình 4.13: Mặt cắt ngang của ruột cá lóc ngày thứ 18 (HE, 10x10) ............... 80

Hình 4.14. Khối lượng phân và độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc tại các thời điểm khác nhau ......................................................................................................... 89

Hình 4.15: Mối tương quan giữa khối lượng cá và tăng trưởng tuyệt đối của cá lóc. .................................................................................................................... 91

Hình 4.16: Mối tương quan giữa thành phần hóa học và khối lượng cá. ........ 93

Hình 4.17: Mối tương quan giữa hàm lượng acid amin và khối lượng cá. ..... 94

xiv

Hình 4.18: Tương quan giữa protein tiêu hao và khối lượng cá lóc. ............... 99

Hình 4.19: Tương quan giữa năng lượng tiêu hao và khối lượng cá lóc. ...... 100

Hình 4.20: Tỷ lệ sống của cá lóc sau 28 ngày thí nghiệm. ............................ 104

Hình 4.21: Tương quan giữa protein tiêu hoá và protein tăng trưởng của cá lóc. ........................................................................................................................ 109

Hình 4.22: Tương quan giữa năng lượng tiêu hóa và năng lượng tăng trưởng của cá lóc. ............................................................................................................. 110

Hình 4.23 Tương quan giữa methionine tiêu hóa và methionine tăng trưởng của cá lóc. ............................................................................................................. 112

Hình 4.24: Tương quan giữa lysine tiêu hóa và lysine tăng trưởng của cá lóc. ........................................................................................................................ 113

Hình 4.25: Tăng trưởng của cá lóc sau 5 tháng nuôi thử nghiệm với 2 loại thức ăn khác nhau (TA-A và TA-B). ................................................... 132

xv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Digestibility Energy (Năng lượng tiêu hoá) Digestibility Protein (Protein tiêu hoá) Daily Weight Gain (Tăng trưởng tuyệt đối trên ngày) Đồng

Feed Conversion Ratio (Hệ số thức ăn) Feed Intake (Lượng thức ăn ăn vào)

Thí nghiệm Triệu Vật chất khô

AB: Chiều dài hàm trên ADC: Apparent digestibility coefficient (Độ tiêu hóa) CMC: Carboxylmethyl Cellulose (Chất kết dính) DAH: Day after hatching (Ngày sau khi nở) DE: DP: DWG: đ: ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long FAO: Tổ chức nông lương thế giới FCR: FI: LG: Chiều dài ruột NFE: Nitrogen free extract (Dẫn xuất không đạm) NT: Nghiệm thức Protein Efficiency Ratio (Hiệu quả sử dụng protein) PER: PUFA: Poly Unsaturated Fatty Acids (A-xít béo không no cao phân tử) RGL: Raletive Gut Length (Tương quan chiều dài thân và chiều dài ruột) SGR: Specific Growth Rate (Tăng trưởng tương đối trên ngày) TĂCB: Thức ăn chế biến TĂTS: Thức ăn tươi sống TL: Chiều dài tổng TN: tr: VCK: WG: Weight gain (Tăng trưởng)

xvi

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU

1.1 Giới thiệu

Trong sản xuất thủy sản, thức ăn luôn đóng vai trò rất quan trọng vì chi phí thức ăn chiếm 60-70% chi phí sản xuất. Bên cạnh vấn đề chi phí, chất lượng thức ăn còn ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, sức khỏe và môi trường nuôi. Để làm cơ sở cho việc xây dựng công thức thức ăn cho thủy sản, phù hợp với đối tượng nuôi thì việc xác định nhu cầu dinh dưỡng, đặc điểm dinh dưỡng của thức ăn là rất cần thiết.

Phương pháp xác định nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản thường được thực hiện ở một giai đoạn và chỉ thực hiện nghiên cứu trên một thông số cụ thể như xác định nhu cầu dinh dưỡng cho tăng trưởng, tỉ lệ sống hoặc sinh sản... Nhu cầu dinh dưỡng sẽ được định lượng dựa trên khả năng đáp ứng tối ưu của đối tượng (về tăng trưởng, tỉ lệ sống hoặc sinh sản, ...) đối với các khẩu phần ăn có chứa các mức dinh dưỡng khác nhau (Lupatsch, 2003), mối liên hệ sẽ được xác định bằng các mô hình đường thẳng, đường gẫy khúc (Broken-Line model), phương trình mũ (Exponenal model)… Vì vậy khi muốn xác định nhu cầu dinh dưỡng ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của đối tượng sẽ mất nhiều thời gian nghiên cứu.

Mô hình năng lượng sinh học là mô hình hiệu quả được sử dụng để dự đoán tăng trưởng, tỷ lệ cho ăn, FCR và sản phẩm thải của cá với các thành phần dinh dưỡng của thức ăn và điều kiện nuôi khác nhau (Cho and Bureau, 1998; Lupatsch and Kissil, 2005; Lupatsch et al., 2001a, 2003; Azevedo et al., 1998). Các nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã áp dụng những kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu này nhằm tối ưu hóa thức ăn cho động vật thủy sản. Hiện nay, ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu dinh dưỡng của loài cá đã được sử dụng phổ biến (NRC, 2011). Một số loài cá đã được các tác giả áp dụng mô hình này trong việc xác định nhu cầu dinh dưỡng như cá tráp (Sparus aurata), cá vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax) và cá mú trắng (Epinephelus aeneus) (Lupatsch et al., 2003; Lupatsch et al., 2010); cá cam (Seriola lalandi) (Mark et al., 2010); cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) (Glencross et al., 2010) và cá rô phi (Oreochromis niloticus) (Trung et al., 2011), cá kèo (Pseudapocryptes elongatus) (Trần Thị Bé, 2016). Mô hình năng lượng sinh học với ưu điểm là xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá trong suốt chu kỳ nuôi thương phẩm, giúp tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt phương pháp này xác định nhu cầu dựa trên độ tiêu hóa các dưỡng chất trong thức ăn. Ưu điểm của phương pháp này đã được ứng dụng để xác định

1

nhu cầu dinh dưỡng cho một số loài cá có giá trị kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Cá lóc (Channa striata) là đối tượng nuôi phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bởi chất lượng thịt ngon và giá cả hợp lý. Mô hình nuôi cá lóc đa dạng như nuôi ao, nuôi lồng, nuôi vèo, nuôi trong bể lót bạt (Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2010). Số liệu thống kê năm 2017 từ Chi cục Thủy sản của 5 tỉnh nuôi cá lóc chủ yếu ở ĐBSCL gồm An Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long và Cần Thơ cho thấy diện tích chủ yếu nuôi trong ao đất và sản lượng cá lóc nuôi tăng mạnh trong thập niên 2006-2016 từ 132,2 ha tăng lên 552,9 ha và từ 15,9 ngàn tấn tăng lên 85,6 ngàn tấn, điều này dẫn đến nhu cầu về sản lượng thức ăn công nghiệp cho cá lóc tăng theo từ 22,3 ngàn tấn tăng lên 119,9 ngàn tấn trong cùng thời gian. Chi phí thức ăn cũng chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng cơ cấu chi phí nuôi cá lóc, lên tới 88,4% năm 2015 (Ngô Thị Minh Thúy và Trương Đông Lộc (2015), trên 81% ở mô hình nuôi cá lóc trong ao đất (Huỳnh Văn Hiền và ctv, 2018).

Cá lóc là loài cá dữ, ăn động vật nên các nghiên cứu về sử dụng thức ăn chế biến trong nuôi cá lóc cũng được quan tâm nhằm tìm ra loại thức ăn chế biến phù hợp với đặc tính của loài, mang lại hiệu quả cao, chủ động được mùa vụ và giảm ô nhiễm môi trường. Một vài nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc đã được thực hiện, chủ yếu trên giai đoạn cá bột và cá giống như nghiên cứu về nhu cầu protein, lipid của Mohanty and Samantaray (1996, 1997); tỉ lệ protein/lipid (Aliyu-Paiko et al.,2010) hay khả năng sử dụng một nguồn protein thực vật thay thế cho bột cá (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2014). Tuy nhiên các nghiên cứu còn ít và chưa hoàn chỉnh nhu cầu dinh dưỡng cho một chu kỳ nuôi, vì vậy việc áp dụng áp dụng mô hình hóa để xác định nhu cầu dinh dưỡng cho cá lóc làm cơ sở xây dựng công thức thức ăn phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cá lóc là cần thiết, góp phần hoàn thiện quy trình nuôi đối tượng này. Xuất phát từ tình hình thực tế trên “Ứng dụng mô hình hóa xác định nhu cầu năng lượng và protein để phát triển thức ăn cho cá lóc (Channa striata)” được thực hiện.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Xác định nhu cầu dinh dưỡng (năng lượng, protein, acid amin) của cá lóc (Channa striata) và khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyện liệu phổ biến nhằm làm cơ sở xây dựng công thức thức ăn cho các giai đoạn nuôi cá lóc thương phẩm.

2

1.3 Nội dung nghiên cứu

1) Nghiên cứu đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc giai đoạn bột đến

35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến.

2) Xác định thời điểm thu phân và phương pháp thu phân thích hợp để xác

định độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc.

3) Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc bao gồm nhu cầu protein, năng lượng; methionine, lysine.

4) Đánh giá khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu phổ biến làm thức

ăn cho cá.

5) Xây dựng công thức thức ăn nuôi cá lóc thương phẩm dựa trên kết quả

nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cho từng giai đoạn.

6) Nuôi thử nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả của thức ăn nghiên cứu.

1.4 Ý nghĩa của nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu cung cấp dẫn liệu khoa học về đặc điểm phát triển ống tiêu hóa, phương pháp xác định độ tiêu hóa, khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu phổ biến cung cấp protein và carbohydrate. Cung cấp dẫn liệu khoa học về nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc bao gồm nhu cầu protein và năng lượng, hiệu quả sử dụng thức ăn, từ đó xây dựng được nhu cầu dinh dưỡng cho các giai đoạn nuôi cá lóc. Kết quả nghiên cứu chính là cơ sở cần thiết cho các nhà sản xuất lựa chọn nguồn nguyên liệu phù hợp để phát triển công thức thức ăn cho cá lóc hiệu quả. Người nuôi lựa chọn thức ăn phù hợp với các mức năng lượng, protein và xác định tỷ lệ cho ăn hợp lý trong từng giai đoạn nuôi cá lóc thương phẩm.

1.5 Điểm mới của luận án

Xác định được sự biến đổi về enzyme tiêu hóa khi cá chuyển từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến cho thấy khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc.

Xác định được thời điểm thu phân và phương pháp thu phân thích hợp, làm cơ sở cho việc xác định độ tiêu hóa thức ăn và nguyên liệu đối với cá lóc.

Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu năng lượng,

protein và acid amin cho từng giai đoạn phát triển của cá lóc.

Phát triển công thức thức ăn phù hợp để nuôi cá lóc thương phẩm cho từng

giai đoạn khác nhau.

3

CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc

2.1.1 Phân loại

Kết quả nghiên cứu hình thái học hiện nay đã công bố có 30 loài cá lóc họ Channidae, bao gồm 2 giống Channa và Parachanna, phân bố chủ yếu ở Châu Á (27 loài) và Châu Phi (3 loài) (http://fishbase.org). Trong đó cá lóc (Channa striata) được phân loại như sau:

Lớp: Osteichthyes

Bộ: Perciformes

Họ: Channidae

Giống: Channa

Loài: Channa striata (Block 1973)

Hình 2.1: Hình thái cá lóc (Channa striata)

(Nguồn: fishbase.org)

2.1.2 Đặc điểm phân bố

Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) cá lóc sống trong nước ngọt, có thể sống ở nước lợ với nồng độ muối nhỏ hơn 15‰. Chúng sống ở sông suối, ao đìa, đồng ruộng, kênh rạch, ao hồ, chịu đựng được môi trường thiếu oxy nhờ có cơ quan hô hấp khí trời. Cá lóc phân bố rộng ở các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Ấn Độ và Philippines. Ngoài ra cá lóc còn thích nghi được cả với môi trường nước đục, tù, có thể chịu đựng được ở nhiệt độ trên 30oC. Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ, đám bèo, vì ở nơi đây cá dễ ẩn mình rình mồi. Vào mùa hè cá thường hoạt động và bắt mồi ở tầng nước mặt. Mùa đông cá hoạt động ở tầng nước sâu hơn (Dương Nhựt Long, 2004).

4

2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng

Cá lóc có tốc độ sinh trưởng tương đối cao, giai đoạn còn nhỏ cá tăng chủ yếu về chiều dài. Cá lóc càng lớn sự tăng trọng lượng càng nhanh. Trong tự nhiên sức lớn của cá phụ thuộc vào thức ăn có sẵn trong thủy vực, do vậy tỉ lệ sống của cá trong tự nhiên khá thấp. Trong điều kiện nuôi có thức ăn và chăm sóc tốt cá lóc có thể lớn từ 0,8-1 kg/con sau 5-6 tháng nuôi, đạt tỉ lệ sống cao và ổn định. Khi nhiệt độ trên 20oC cá lóc sinh trưởng nhanh, dưới 15oC cá lóc sinh trưởng chậm (Dương Nhựt Long, 2004).

2.1.4 Đặc điểm sinh sản

Cá lóc 1-2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, mùa vụ sinh sản từ tháng 4-8, tập trung vào tháng 4-5. Cá thường đẻ vào lúc sáng sớm sau những trận mưa rào một hai ngày nơi yên tĩnh có nhiều thực vật thủy sinh. Ở nhiệt độ 25-35oC sau 3 ngày trứng nở thành cá bột, khoảng 3 ngày sau cá tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn được thức ăn tự nhiên bên ngoài (Dương Nhựt Long, 2004).

2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng

Cá lóc là loài cá dữ, thân tròn dài. Lược mang dạng hình núm. Thực quản ngắn, vách dầy, bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày to hình chữ Y. Đ â y là loài cá dữ, ăn động vật điển hình. Quan sát ống tiêu hóa của cá l ó c cho thấy cá chiếm 63,01%, tép 35,94%, ếch nhái 1,03% và 0,02% là bọ gạo, côn trùng và mùn bã hữu cơ (Dương Nhựt Long, 2004). Theo các nghiên cứu trước đây, cá lóc có sự lựa chọn thức ăn khác nhau ở từng giai đoạn phát triển, thức ăn của cá thay đổi khi kích cỡ cá tăng. Cá mới nở còn sử dụng dinh dưỡng từ khối noãn hoàng. Từ ngày thứ 4-5, khi noãn hoàng hết, cá bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Lúc này cá bột ăn được các loài động vật phù du vừa cỡ miệng chúng như luân trùng, trứng nước. Khi cá dài cỡ 5-6 cm chúng đã có thể rượt bắt các loài tép và cá có kích cỡ nhỏ hơn chúng. Khi cơ thể đạt chiều dài trên 10 cm, cá đã có tập tính ăn như cá trưởng thành (Phạm Văn Khánh, 2003). Theo Qin and Fast (1997), cá bột cá lóc có chiều dài 6-7 mm, độ mở của miệng là 0,55 mm sẽ chọn thức ăn là ấu trùng Artermia và không ăn TĂCB, khi cá đạt chiều dài 15-20 mm thì nhóm giáp xác râu ngành và giáp xác chân chèo chiếm 96% lượng thức ăn. Cá dài 30-40 mm thức ăn là động vật nổi giảm đáng kể và tăng thức ăn là động vật đáy. Cá có thể sử dụng TĂCB khi chiều dài thân 12 mm và cỡ miệng rộng đến 1 mm.

Ở cá lóc, tập tính ăn lẫn nhau là khá phổ biến trong quá trình ương nuôi, đây chính là một trong nhiều nguyên nhân làm giảm tỷ lệ sống trong nuôi cá lóc. Sự khác biệt về kích thước cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng ăn nhau, càng khác nhau về kích cỡ thì tỉ lệ ăn nhau càng tăng

5

(Hecht and Pienaar, 1993; Quin and Fast, 1996, 1997). Cá lóc có tỉ lệ ăn nhau là 100% khi tỉ lệ chiều dài của cá nhỏ so với cá lớn là 0,35, tỉ lệ ăn nhau sẽ giảm tới 43% khi tỉ lệ chiều dài của cá nhỏ so với cá lớn tăng đến 0,64. Việc cho ăn cũng làm giảm sự ăn lẫn nhau, nếu không cho ăn thì cá lóc ăn nhau là 83% nhưng sẽ giảm đến 43% khi cho ăn với tỉ lệ 15% khối lượng thân, có thể giảm bớt ăn lẫn nhau bằng nhiều cách như phân cỡ và cho ăn theo nhu cầu (Quin and Fast, 1996).

2.2 Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến nuôi cá lóc

Cá lóc là loài ăn động vật nên các nghiên cứu về sử dụng TĂCB trong nuôi cá lóc cũng được quan tâm nhằm tìm ra loại TĂCB phù hợp với đặc tính của loài, mang lại hiệu quả cao, chủ động được mùa vụ và giảm ô nhiễm môi trường. Việc cho cá lóc sử dụng TĂCB ngay từ giai đoạn bột cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, theo một số tác giả, trong những ngày đầu ăn ngoài, cá bột không có đủ men để tiêu hoá TĂCB nên các men bên ngoài được cung cấp từ thức ăn tự nhiên là cần thiết để giúp cho quá trình tiêu hoá ở giai đoạn này được dễ dàng hơn bởi vì TĂCB không chứa hệ men tự phân huỷ nên rất khó được tiêu hoá (Munilla-Marán et al., 1990, Walford and Lam, 1993). Cá lóc bột cho ăn hoàn toàn bằng TĂCB trong những ngày đầu ăn ngoài đã chết 100% sau khoảng 2 tuần thí nghiệm (Quin et al., 1997 ; Bui et al., 2004). Do vậy, trong quá trình chuyển đổi từ thức ăn tự nhiên sang TĂCB, một vài nghiên cứu cho thấy khi sử dụng kết hợp TĂCB với thức ăn tự nhiên với mức độ thay thế dần dần thì hiệu quả sẽ tốt hơn là thay thế hoàn toàn bằng TĂCB ngay từ ban đầu. Sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá cũng được cải thiện hơn khi kết hợp 2 loại thức ăn này so với chỉ sử dụng TĂCB. Qin et al. (1997) thử nghiệm trên cá lóc bột (0,2 g) cho thấy việc sử dụng kết hợp TĂCB và Artermia sống cho tỉ lệ sống cao nhất (82%). Nhóm tác giả này cũng chứng minh rằng có thể tập cho cá ăn TĂCB theo phương pháp sau: (i) Cho cá ăn ấu trùng Artermia có bổ sung TĂCB trong 30 ngày, sau đó loại bỏ dần ấu trùng Artermia trong giai đoạn 7- 10 ngày; (ii) Chỉ cho cá ăn ấu trùng Artermia sống trong 30 ngày, 7-10 ngày tiếp theo cho ăn kết hợp giữa Artermia sống với TĂCB và sau cùng chuyển hoàn toàn sang TĂCB. Trên cùng đối tượng cá lóc (Channa striata) bột, nghiên cứu phương thức thay thế TĂCB trong ương cá lóc với các thời điểm tập ăn TĂCB khác nhau là 10, 17 và 24 ngày tuổi và phương thức tập ăn khác nhau (thay thế thức ăn tươi sống bằng TĂCB với tỉ lệ TĂCB tăng dần 10% hoặc 20% TĂCB/ngày), kết quả cho thấy tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá đạt tốt nhất khi tập ăn ở 17 ngày tuổi với phương thức thay thế 10% TĂCB/ngày (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2011b). Tương tự ở cá lóc bông (Channa micropeltes), thức ăn tươi sống cũng không thể thiếu ở những ngày đầu ăn ngoài và cá bột có thể

6

sử dụng hoàn toàn TĂCB ở thời điểm 7 ngày tuổi, bên cạnh đó ở giai đoạn cá hương TĂCB cũng cho tăng trưởng và tỉ lệ sống cao hơn so với các loại thức ăn khác, đồng thời có hệ số thức ăn thấp nhất (Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004).

Với đặc tính ăn của loài, TĂCB cho cá lóc có nhu cầu protein cao. Theo nghiên cứu của Hashim (1994) trên cá lóc bột cho thấy tăng trưởng của cá lóc bột (0,58-0,95g) bị ảnh hưởng bởi hàm lượng protein trong thức ăn. Thử nghiệm trên cá lóc bột cho ăn TĂCB có hàm lượng protein khác nhau (350-600 g protein/kg ), kết quả cho thấy cá tăng trưởng tốt nhất và hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất ở thức ăn có hàm lượng protein 55% (nguồn protein là bột cá) (Mohanty and Samantaray, 1996). Nghiên cứu tương tự của Long et al. (2004) với TĂCB có các mức protein khác nhau (30%, 40% và 50%) trên cá lóc bột từ 1,13 g-1,8 g, kết quả cho thấy cá tăng trưởng tối ưu ở thức ăn có 50% protein sau 45 ngày nuôi. Trên cá lóc giống, thử nghiệm trên các mức protein (35%, 40%, 45% và 50%) và mức năng lượng khác nhau đã cho thấy nhu cầu protein tối ưu là 40%, với tỉ lệ P/E là 90,9 mg protein/kcal cho tăng trưởng tốt nhất, ngoài ra hiệu quả sử dụng protein của cá tăng khi mức năng lượng trong thức ăn tăng từ 400-480 Kcal/100 g ở tất cả các mức protein (Mohanty and Samantaray, 1997). Đồng nghiên cứu về nhu cầu protein của cá lóc giống, Trieu et al. (2001) thử nghiệm trên 3 mức protein 30%, 40% và 50% đã kết luận thức ăn chứa 50% protein cho tăng trưởng và tỉ lệ sống cao nhất. Cũng trên đối tượng này, Qin and Fast (1996) đã cho cá giống ăn TĂCB (50% protein) ở nhiệt độ 24±1oC với 6 khẩu phần ăn hàng ngày là 0%, 5%, 10%, 15%, 20% và 30% trọng lượng cơ thể cá. Sau 29 ngày ương, kết quả nghiên cứu cho rằng khẩu phần ăn 5% trọng lượng thân cho hiệu quả nhất với FCR 0,99. Quin and Fast (1998) tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, mật độ và kích cỡ lên tăng trưởng của cá lóc giống khi sử dụng TĂCB có hàm lượng 47% protein, 16% lipid và khẩu phần ăn là 5%/trọng lượng thân, kết quả cho thấy với cá có chiều dài lần lượt là 22,9 g và 13,9 cm tăng trưởng tốt ở nhiệt độ 27oC với tỷ lệ sống hơn 80%. Như vậy với cùng kích cỡ như nhau thì nhiệt độ cao sẽ làm cá chấp nhận TĂCB nhanh hơn vì cá bắt mồi ở nhiệt độ cao tốt hơn ở nhiệt độ thấp.

Với nhu cầu lipid, cá lóc giống có thể sử dụng tốt thức ăn với lượng lipid 13% mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng (Mohanty and Samantaray, 1997). Đối với cá lóc bột, thử nghiệm trên 3 mức protein (350, 400 và 450 g/kg) và 3 mức lipid (65, 90 và 115 g/kg) kết quả cho thấy cá có tỉ lệ sống cao ở nhóm thức ăn có mức lipid 65 g/kg và với tỉ lệ lipid/protein là 65/450 g/kg cho tỉ lệ sống và tăng trưởng tốt nhất, tuy nhiên hàm lượng lipid trong thức ăn lại không ảnh hưởng đến hàm lượng lipid trong cơ thể cá (Aliyu-Paiko et al., 2010). Với nhu cầu carbohydrate, tùy theo loài mà có khả năng sử dụng carbohydrate khác nhau,

7

nhóm cá ăn thực vật có enzyme tiêu hóa carbohydrate mạnh hơn so với cá ăn động vật (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Thử nghiệm trên cá lóc giống với các mức carbohydrate khác nhau (8%, 12%, 17%, 21%, 25%, 30% và 34%) kết quả cho thấy thức ăn có hàm lượng 12% cho tăng trưởng tối ưu, tuy nhiên tăng trưởng của cá sẽ giảm cùng với sự gia tăng hàm lượng carbohydrate trong khẩu phần (Arockiaraj et al., 1999). Nghiên cứu về khả năng sử dụng protein đậu nành ly trích dầu của cá lóc cho thấy với thức ăn cùng mức protein (45%) và năng lượng (4,2 Kcal/g), protein đậu nành ly trích dầu có thể thay thế protein bột cá ở mức 30% không có bổ sung phytase và 40% có bổ sung phytase trong thức ăn (Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2010).

Với các kết quả nghiên cứu trên cho thấy cá lóc tuy là loài ăn động vật nhưng vẫn có thể sử dụng tốt TĂCB nếu như ở giai đoạn tập ăn TĂCB được cho ăn kết hợp thức ăn tự nhiên (với phương thức tăng dần tỉ lệ TĂCB trong khẩu phần ăn) ở giai đoạn trước khi sử dụng hoàn toàn TĂCB. Bên cạnh đó, TĂCB cho cá lóc cần có hàm lượng protein chất lượng cao để có thể đảm bảo sinh trưởng tốt nhất.

2.3 Tình hình nuôi cá lóc thương phẩm ở Đồng bằng sông Cửu Long

Các mô hình nuôi cá lóc ở ĐBSCL phổ biến gồm nuôi trong ao đất, nuôi bể bạt, nuôi vèo trong ao, vèo trên sông và nuôi cá lóc trong bè (Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2010). Theo Đỗ Minh Chung và Lê Xuân Sinh (2011) thì qui mô diện tích bình quân các ao nuôi ở ĐBSCL là 993,8-1.514,5 m2/hộ. Trong đó, mỗi hộ có từ 1-6 ao/hộ, những hộ có số lượng 1 ao/hộ là phổ biến nhất (68,7% số hộ) và thả nuôi phổ biến là 2 vụ/năm (52,2% số hộ). Mật độ cá giống thả nuôi bình quân là 21,4-69,9 con/m2. Đối với những hộ nuôi cá lóc bằng thức ăn viên thả nuôi với mật độ khá cao hơn so với mật độ bình quân chung (91,5 con/m2) của mô hình nuôi cá lóc trong ao sử dụng thức ăn cá tạp (Huỳnh Văn Hiền và ctv., 2012). Hệ số FCR sử dụng thức ăn viên bình quân là 1,32-1,33, trong khi đó sử dụng cá tạp thì hệ số FCR là 3,9-4,2 (Huỳnh Văn Hiền và ctv., 2012). Trong năm 2012 thì có 53-65% số hộ sử dụng cá tạp để cho ăn bổ sung trong giai đoạn tập ăn trước khi chuyển sang hoàn toàn bằng thức ăn viên (tháng nuôi đầu tiên). Nhưng đến năm 2014 thì có 99% số hộ nuôi cá lóc trong ao tại An Giang và Trà Vinh sử dụng thức ăn viên để nuôi cá lóc (Trần Hoàng Tuân và ctv., 2014). Năng suất cá nuôi cá lóc trong ao đất bình quân là 161-193 tấn/ha/vụ, với kích cỡ thu hoạch bình quân 0,52-0,7 kg/con (Ngô Thị Minh Thúy và Lê Xuân Sinh, 2015). Số liệu điều tra năm 2014 cho thấy chi phí nuôi cá lóc là 5.716 triệu đồng/ha/vụ. Trong đó, chi phí biến đổi chiếm tỷ trọng ngày càng cao (từ 96,5 đến 99% trong tổng chi phí), trong đó thức ăn cho cá lóc chiếm từ 88 đến 95% do giá cá tạp và thức ăn viên ngày càng tăng cao (Ngô Thị Minh

8

Thúy và Trương Đông Lộc, 2015). Kết quả nghiên cứu của Huỳnh Văn Hiền và ctv., 2018 cho thấy trong tổng chi phí nuôi cá lóc thì chi phí thức ăn là quan trọng và chiếm tỷ lệ cao nhất từ 78,4 đến 81,5% tùy theo qui mô. Chi phí con giống chiếm tỉ trọng thứ hai 3,7- 4,2%, các khoản chi phí khác khoảng 5%, thuốc và hóa chất để phòng, trị bệnh và xử lý nước ao nuôi có tỉ lệ khá thấp 2,3% - 3,6%. Trong tổng chi phí nuôi cá lóc thì chi phí khấu hao chiếm tỷ lệ từ 4,9-5,3%. Ngoài ra, một số khoản chi phí như cải tạo ao và nhiên liệu chiếm tỷ lệ khá thấp ở cả ba quy mô nuôi. Từ đó cho thấy chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao, là khoản chi phí quan trọng ảnh hưởng tới giá thành nuôi cá lóc trong ao ở ĐBSCL. Giá thành 26,8 ngàn đồng/kg, lợi nhuận thu được khá cao 3,696 tỷ đồng/ha/vụ và có 81,4% hộ có lời (Hap et al., 2016).

Số liệu thống kê năm 2017 từ Chi cục Thủy sản của 5 tỉnh nuôi cá lóc chủ yếu ở ĐBSCL gồm An Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Vĩnh Long và Cần Thơ cho thấy diện tích chủ yếu nuôi trong ao đất và sản lượng cá lóc nuôi tăng mạnh trong thập niên 2006-2016 từ 132,2 ha tăng lên 552,9 ha và từ 15,9 ngàn tấn tăng lên 85,6 ngàn tấn dẫn đến nhu cầu về sản lượng thức ăn công nghiệp cho cá lóc tăng theo từ 22,3 ngàn tấn tăng lên 119,9 ngàn tấn trong cùng thời gian. Kết quả này cho thấy sản lượng cá lóc trong những năm gần đây tăng nhanh. Tuy nhiên tùy vào từng vụ mà người nuôi thu được lợi nhuận cao hoặc bị thua lỗ, nguyên nhân là do giá cả thị trường hoặc kỹ thuật nuôi chưa tốt nên chi phí sản xuất cao. Việc sử dụng thức ăn cá tạp hoặc thức ăn chưa đáp ứng nhu cầu cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của người nuôi (Huỳnh Văn Hiền và ctv., 2018).

2.4 Sự phát triển ống tiêu hóa của cá

Nghiên cứu về hệ thống tiêu hóa bằng phương pháp mô học được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như trên cá trê phi (Clarias gariepinus) (Verreth et al., 1992), cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) (Phạm Thanh Liêm và ctv., 2002), các nghiên cứu đều cho thấy cá bột sau khi nở có hệ thống tiêu hóa rất đơn giản, chỉ là một ống thẳng chưa phân hóa thành các phần khác nhau.

Ở giai đoạn bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài, cá bột của các loài cá xương có ống tiêu hóa dạng thẳng hay dạng xoắn và có sự thay đổi nhanh chóng về hình thái giống với cấu trúc tiêu hóa của cá trưởng thành (đối với các loài không có dạ dày) (Verreth et al., 1992). Nghiên cứu mô học về hệ thống tiêu hoá của cá vược măng (Sander lucioperca) cho thấy sau khi ăn thức ăn ngoài thì ống tiêu hóa có sự thay đổi như tăng tiết chất dịch, phân chia thành các vùng khác nhau, sau đó răng phát triển, dạ dày và manh tràng phát triển, ruột dài ra và cuộn lại (Stroband and Dabrowski, 1979). Trên một nghiên cứu khác, cá vược măng giống có thể tổng hợp và vận chuyển chất béo ở 12 ngày tuổi và thức ăn chế

9

biến chất lượng cao có thể được cá chấp nhận ở thời điểm này (Ostaszewska et al., 2005). Một nghiên cứu khác lại chứng minh cá vược măng sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến ở 19 ngày tuổi (Kestemont et al., 2007).

Đối với cá da trơn Châu Âu (Silurus glanis) ống tiêu hóa bắt đầu phân biệt khi cá từ 3 đến 5 ngày tuổi sau khi nở, noãn hoàng vẫn còn cho đến khi cá ở ngày tuổi thứ 5, đồng thời là sự xuất hiện của thực quản, ống tiêu hóa của cá hoàn chỉnh ở ngày tuổi thứ 11 sau khi nở (Kozarić et al., 2008). Ở cá bơn, cá bột ngày thứ 3 sau khi nở có ống tiêu hóa là đường thẳng, trong thời gian từ 3- 7 ngày sau khi nở, hệ thống tiêu hóa phân biệt được 5 phần: miệng, xoang miệng, thực quản, dạ dày và ruột, đến ngày thứ 10 trực tràng có thể được nhận ra từ ruột (Baglole et al., 1997). Mai et al., (2005) nghiên cứu sự phát triển ống tiêu hóa của cá lù đù vàng (Pseudoscianea crocea) cho thấy cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài ở ngày tuổi thứ 3, ống tiêu hóa của cá bao gồm hầu, thực quản và ruột chia làm 3 phần (ruột trước, ruột giữa và ruột sau). Cá sử dụng hỗn hợp thức ăn ngoài và noãn hoàng cho đến ngày thứ 6 sau khi nở, khi hết noãn hoàng, sự chuyển biến hình thái quan trọng xảy ra ở cuối giai đoạn bột chính là sự biến thái của cá. Các tuyến dịch vị xuất hiện đầu tiên ở cá 21 ngày tuổi, dạ dày chia làm 3 phần (tâm vị, hạ vị và môn vị), đây cũng là thời điểm hệ tiêu hóa của cá phát triển hoàn chỉnh (giống với hệ tiêu hóa của cá trưởng thành).

Kết quả phân tích mô học của ruột cá thát lát còm (Chitala chitala) giai đoạn bột cho thấy ở ngày tuổi thứ 3 sau khi nở, ống tiêu hóa bắt đầu phân hóa thành: khoang miệng, thực quản và ruột, đến ngày thứ 5 ống tiêu hóa được thành 4 phần: khoang miệng, thực quản, phần dạ dày và ruột. Giai đoạn này, dạ dày của cá giống như một phần kéo về phía sau và phình to ra của thực quản, tuy nhiên dạ dày chỉ phát triển hoàn chỉnh chức năng cùng với sự xuất hiện của các tuyến dạ dày vào ngày thứ 8 sau khi nở chứng tỏ ở giai đoạn này dạ dày cá mới bắt đầu phát triển hoàn chỉnh về chức năng tiêu hoá thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2007). Tuy nhiên đến ngày tuổi thứ 20 mới là thời điểm cá thát lát còm sử dụng hiệu quả thức ăn chế biến (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008).

Nghiên cứu về mô học của hệ tiêu hóa trên cá tráp bột (Sparus aurata) (Sarasquete et al., 1994) cho thấy khi cho cá ăn thức ăn ngoài thì ống tiêu hóa đã có sự phân chia làm 3 phần: phần trước bao gồm thực quản và một phần dạ dày nguyên thủy, phần giữa và phần cuối. Trong giai đoạn này chức năng của hệ tiêu hóa đã có, mặc dù dạ dày chưa phát triển hoàn thiện. Glycogen và những hạt nhỏ zymogen được dự trữ ở gan và tuyến tụy theo thứ tự vào ngày thứ 4 và thứ 6 sau khi nở. Nghiên cứu trên cá tầm trắng (Acipenser transmontatus) trong giai đoạn 11-36 ngày tuổi cho thấy là loài có khối noãn hoàng khá lớn, nó bắt

10

đầu sử dụng thức ăn ngoài từ ngày thứ 12, cá được cho ăn thức ăn công nghiệp trong vòng 24 ngày, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng rõ rệt của phosphatase, aminopeptidase M, dipeptidyl dipeptidase IV và γ – glutamyl transpeptidase ở vùng lông hút của nếp gấp ruột. Chức năng của môn vị xuất hiện ở ngày thứ 4 và xảy ra đồng thời với sự gia tăng hoạt động của vùng lông hút và enzyme trao đổi chất (Gawlicka et al., 1995).

Nghiên cứu ở cá bột Solea senegalesis (Ribeiro et al., 1999) đã chỉ ra rằng sự phát triển của hệ tiêu hóa có sự khác nhau xảy ra trong giai đoạn sớm. Ở giai đoạn bắt đầu ăn (2 ngày sau khi nở) cả miệng và hậu môn đã mở và hệ tiêu hóa có sự phân chia thành từng phần khác nhau: khoang miệng – hầu, thực quản, dạ dày, phần trước và phần sau của ruột, tuyến tụy và gan cũng có sự khác biệt ở giai đoạn này. Tuyến dạ dày cũng được quan sát trong vòng 27 ngày sau khi nở.

Cahu and Infante (2001) khi nghiên cứu về sự phát triển của ống tiêu hóa ở 3 loài cá: Cá chẽm, cá bơn, cá trống đỏ cho rằng sự phát triển dạ dày sớm hay muộn tùy thuộc vào loài. Về phương diện giải phẫu học sự phân chia giữa thực quản và dạ dày có thể quan sát được ở ngày thứ 7 ở cá chẽm bột, sự xuất hiện của tuyến dạ dày về mặt mô học được quan sát ở ngày thứ 25. Trong khi đó ở cá bơn, dạ dày có thể phân biệt được ở ngày thứ 10 sau khi nở, vào ngày thứ 22 tuyến dạ dày đầu tiên được quan sát. Về tuyến tụy ngoại tiết, ở cá chẽm bột có sự khác biệt của tế bào ngoại tiết và sự xuất hiện của ống bài tiết được tìm thấy ở ngày thứ 3 trước khi cá mở miệng.

Nghiên cứu về sự phát triển của ống tiêu hóa ở cá Paralabrax maculatofasciatus (Pẽna et al., 2002) thực hiện trong 30 ngày từ sau khi cá nở với các loại thức ăn: Brachionus plicatilis từ ngày thứ 2 đến ngày 13, ấu trùng Artemia ngày 12 đến 17, Artemia trưởng thành từ ngày 14 đến ngày 26 và thức ăn nhân tạo từ ngày thứ 20 trở đi. Khối noãn hoàng được duy trì từ sau khi nở cho đến ngày thứ 2, vào ngày thứ 5 ống tiêu hóa đã đầy đủ các bộ phận khác nhau: thực quản, dạ dày, ruột trước, ruột sau và trực tràng. Tuyến dạ dày và môn vị xuất hiện ở ngày thứ 16.

Trên cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus), khoang miệng bao gồm một lớp mỏng biểu mô phân tầng mà sau này bao gồm các tế bào niêm mạc và chồi vị giác xuất hiện vào ngày thứ 3 sau khi cá nở và thực quản xuất hiện ở ngày tuổi thứ 2, các lớp biểu mô và thực quản bắt đầu gấp nếp ở ngày tuổi thứ 3. Từ ngày 10-15 chỉ xác định được khối cơ tròn trong dạ dày, tuy nhiên đến ngày thứ 30 sau khi nở thì xuất hiện hai lớp cơ dọc. Ruột cá bắt đầu phát triển từ ngày tuổi thứ 1, lớp biểu mô ruột bắt đầu gấp nếp ở ngày tuổi thứ 2 và độ dày của lớp biểu mô gia tăng cùng với tuổi của cá, thể vùi protein xuất hiện ở trực

11

tràng vào ngày tuổi thứ 5, trong khi đó không bào lipid xuất hiện ở ngày tuổi thứ 7 (Phạm Thanh Liêm, 2002).

Trong khi đó, Khojasteh et al. (2009) khi nghiên cứu trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) đã chỉ ra rằng thành ruột ở loài cá này gồm có lớp màng nhầy, lớp dưới màng nhầy, lớp cơ, lớp màng huyết thanh. Trên lớp màng nhầy của ruột có nhiều lông hút và biểu mô hình cột đơn giản kết hợp với các tế bào hình cốc và các tế bào lympho ở bên trong. Tế bào bạch cầu được quan sát dọc theo ruột. Phân tích mô học cũng chỉ ra rằng các tế bào hình cốc có chứa lớp nhầy acid và trung tính.

2.5 Enzyme và sự phát triển enzyme

2.5.1 Enzyme

Enzyme là chất xúc tác sinh học có thành phần cơ bản là protein. Chúng là các protein xúc tác các phản ứng hóa học. Trong các phản ứng này, các phân tử lúc bắt đầu của quá trình được gọi là cơ chất (substrate), enzyme sẽ biến đổi chúng thành các phân tử khác nhau. Tất cả các quá trình trong tế bào đều cần enzyme. Enzyme có tính chọn lọc rất cao đối với cơ chất của nó. Hầu hết phản ứng được xúc tác bởi enzyme đều có tốc độ cao hơn nhiều so với khi không được xúc tác. Có trên 4000 phản ứng sinh hóa được xúc tác bởi enzyme (Nguyễn Văn Mùi, 2012). Enzyme có bản chất là protein nên có tất cả thuộc tính lý hóa của protein. Đa số enzyme có dạng hình cầu và không đi qua màng bán thấm do có kích thước lớn, tan trong nước và các dung môi hữu cơ phân cực khác, không tan trong eter và các dung môi không phân cực. Không bền dưới tác dụng của nhiệt độ, nhiệt độ cao thì enzyme bị biến tính. Môt trường axít hay bazơ cũng làm enzyme mất khả năng hoạt động. Enzyme có tính lưỡng tính: tùy pH của môi trường mà tồn tại ở các dạng: cation, anion hay trung hòa điện. Enzyme chia làm hai nhóm: enzyme một cấu tử (chỉ chứa protein) như pepsin, amylase... và các enzyme hai cấu tử (trong phân tử còn có nhóm không phải protein). Các cơ chất kết hợp với trung tâm hoạt động tạo phức hợp enzyme-cơ chất (ES) (Nguyễn Văn Mùi, 2012).

2.5.2 Enzyme tiêu hóa

Tiêu hóa là quá trình qua đó thức ăn trong ống tiêu hóa được thủy phân thành các hợp chất đơn giản để được hấp thu ở ruột và đi vào hệ thống mao mạch. Các enzyme tiêu hóa thực hiện sự phân cắt khi thức ăn đi qua ống tiêu hóa. Enzyme tiêu hóa có hoạt tính thay đổi theo tuổi cá, trạng thái sinh lý, mùa vụ và các yếu tố môi trường như nhiệt độ và pH dịch tiêu hóa (Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010).

12

Bảng 2.1: Enzyme, vị trí tiết và sản phẩm tiêu hóa của cá Enzyme Pepsin Trypsin Chymotrypsin Sản phẩm tiêu hóa Vị trí tác dụng Cơ chất Protein Dạ dày Peptides Protein/peptides Peptides Ruột Protein/peptides Peptides Ruột Vị trí tiết Dạ dày Tụy Tụy

Carboxypeptidase Tụy Ruột Protein/peptides

Aminopeptidase Ruột Ruột Protein/peptides Amino acids, peptides Amino acids, peptides Di-/tripeptidase Ruột Ruột

Lipase Tụy Ruột Triacylglycerols

Di-/tripeptides Amino acids Fatty acids, monoacylglycerols Alcohols, fatty acids Disaccharides Esterase Amylase Disaccharidase Ruột Ruột Ruột Esters Starches Disaccharides Monosaccharides

Chitinase Ruột Chitin N-Acetyl- Glucosamine

(Evans, 1995; trích dẫn bởi Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư 2010)

Pepsin là một enzyme có tiền chất là pepsinogen được sản sinh bởi các tế bào gốc trong dạ dày có tác dụng chuyển hóa các protein thành các peptid. Đó là enzyme đầu tiên được phát hiện và vào năm 1929 nó đã trở thành một trong các enzyme đầu tiên được kết tinh bởi Northrop. Pepsin là một protease tiêu hóa, một enzyme thuộc nhóm protease aspartate (Nguyễn Văn Mùi, 2012). Trong dạ dày, các tế bào gốc phóng thích ra tiền chất pepsinogen và nó được kích hoạt bởi HCl được tiết ra từ thành tế bào tạo ra pepsin ở dạng hoạt động. Pepsin chỉ có ở những loài cá có dạ dày thực sự và pepsin ở cá có tính chuyên biệt khác những động vật hữu nhũ và chim (Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010). pH thích hợp cho men pepsin thường khoảng từ 1,45-3; nhiệt độ thích hợp khảng 30-50C. Men pepsin có tác động lên những thành phần protein nguyên trạng, biến đổi protein trong thức ăn thành dạng albumose và peptose rồi sau đó những thành phần này sẽ đi xuống ruột để tiếp tục phân giải.

Cellulase Ruột Cellulose Saccharides Tụy Tụy Ruột Tụy và nhóm vi khuẩn ruột Nhóm vi khuẩn ruột

Giá trị pH tối ưu Tác giả

Bảng 2.2: Giá trị pH tối ưu của pepsin ở các loài cá Giống loài Oreochromis niloticus Tilapia rendalli Ictalurus sp. 1,5 Moriarty (1973) 1,5 Caulton (1973) 3-4 Smith (1980)

Salmo gairdneri 2,5-3,5 Kitamikado và Tachino (1960)

Trypsin là một trong những enzyme thuộc nhóm thủy phân protein được tìm thấy trong hệ thống tiêu hóa của nhiều loài động vật có xương sống. Trypsin

4 Lockson và Bourne (1972) Clarias mossambicus (Evans, 1995 trích dẫn bởi Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư 2010).

13

được sản sinh ở tuyến tụy ở dạng tiền chất trypsinogen không hoạt động. Dưới sự xúc tác của enzyme enterokinase có trong dịch ruột trypsinogen sẽ chuyển hóa thành trypsin ở dạng hoạt động. Sự biến đổi này sẽ nhanh hơn nếu có sự hiện diện của Ca2+. Khác với enzyme pepsin, trypsin chỉ hoạt động trong môi trường kiềm. Cá không có dạ dày vẫn có enzyme phân giải protein là dịch tiêu hóa chứa trypsin. Trypsin không có tác động lên protein nguyên trạng mà chỉ có tác động ở protein biến tính để cho ra thành phần đơn giản hơn và tiếp tục tiêu hóa để cá có thể hấp thu được (Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010).

Chymotrypsin là một endopeptidase serine sản xuất bởi tế bào acinar tuyến tụy. Tiền chất của nó là chymotrypsinogen dưới tác dụng của trypsin thì chuyển hóa thành chymotrypsin ở dạng hoạt động. Trong khi trypsin thủy phân ở lysine và arginine thì chymotrypsin chọn lọc cắt các liên kết peptid được hình thành bởi các vòng hydrocarbon thơm (tyrosine, phenylalanine, tryptophan) (Hedstrom et al., 1992). Có 2 dạng tồn tại của chymotrypsin là chymotrypsin A và chymotrypsin B đều được tìm thấy với một lượng bằng nhau ở trong tuyến tụy của gia súc. Chúng là những protein rất giống nhau (giống nhau khoảng 80%) nhưng có đặc điểm khác biệt đáng kể trong việc phân giải protein. Chymotrypsin được kích hoạt thông qua việc phân cắt các mối liên kết giữa arginine và isoleucine (R15 và I16) của chymotrypsinogen bởi trypsin. Chymotrypsin ưu tiên xúc tác thủy phân liên kết peptid liên quan đến đồng phân dạng L của tyrosine, phenylalanine và tryptophan (Nguyễn Văn Mùi, 2012). Sự tiêu hóa các carbohydrate lệ thuộc rất nhiều vào độ acid của dịch vị, nhưng các carbohydrase (bao gồm: amylase, chitinase, laminarinase, cellulase) đóng vai trò chính trong thủy phân các carbohydrate ở loài cá. α-amylase là enzyme thủy phân tinh bột thành glucose, được tìm thấy hầu hết các loài cá ăn tạp và cá ăn thực vật như: nhóm cá chép, cá rô phi và cá măng (Chanos chanos). Theo Guillaume et al. (2001) thì amylase được tìm thấy trong tất cả các loài cá, ngay loài cá biển ăn động vật mà thành phần thức ăn thiên nhiên rất ít carbohydrates. Amylase thủy phân nối đôi α-1,4 của đường amylose, các nhánh thẳng của amylosepeptin hay của glycogen, nhưng amylase không thủy phân được các nối α-1,6 của các nhánh ngang. So sánh hoạt tính amylase trên một số loài cá nuôi người ta thấy amylase ở cá ăn động vật thấp hơn.

2.5.3 Sự phát triển enzyme tiêu hóa ở cá

Nhu cầu về dinh dưỡng của động vật nói chung luôn thay đổi theo các giai đoạn phát triển trong vòng đời của chúng. Các thay đổi quan trọng về hình thái và sinh lý của động vật thủy sinh từ lúc mới nở đến khi trưởng thành được thể hiện qua các nhu cầu về dinh dưỡng và tính ăn ở giai đoạn ấu trùng, con giống

14

và trưởng thành. Sự thay đổi đó diễn ra ở các cơ quan tiêu hóa và trong tiến trình tiêu hóa (Silva and Anderson, 1995).

Golchinfar et al. (2011) khi đánh giá về hoạt động của enzyme trong quá trình phát triển của cá hồi vân giống (Oncorhynchus mykiss) đã xác định rằng enzyme có một vai trò đáng kể đối với quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Cũng trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng các enzyme như pepsin, trypsin, chymotrysin, α – amylase và lipase có sẵn trong cơ thể ở ngày đầu tiên sau khi nở nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê cho đến ngày thứ 12 (p>0,05). Kết quả này cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu trên cá chẽm sọc (Morene saxatilis) (Baragi and Lovell, 1986), cá dẹp (Scophthalmus maximus L.) (Cousin et al., 1987). Sự gia tăng hoạt động của enzyme từ trypsin, chymotrypsin, lipase cho đến α – amylase được phát hiện ở giai đoạn sớm và trước khi mở miệng bởi vì sự hiện diện của tuyến tụy (Ma et al., 2005). Sự hiện diện của một số enzyme tiêu hóa chính ở giai đoạn sớm của cá bột cũng được phát hiện ở một số loài cá như Acipenser fulvescens (Buddington, 1985).

Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một sự gia tăng có ý nghĩa của các loại enzyme tiêu hóa ở pha 2. Nghiên cứu trên cá hồi vân giống cho thấy sự gia tăng có ý nghĩa hoạt tính của enzyme tiêu hóa được thể hiện ở giai đoạn 12 -18 ngày sau khi nở (p<0,05) (Golchinfar et al., 2011). Đối với loài cá nheo xanh (Mystus nemunrus) hoạt tính của enzyme tăng chậm ở giai đoạn 1-25 ngày và tăng nhanh có ý nghĩa ở giai đoạn 30-45 ngày (p<0,05), mức cao nhất của pepsin được ghi nhận vào ngày thứ 45 sau khi nở (22,5±0,62 Unit/mg protein) và mức cao nhất của trypsin và chymotrypsin lần lượt là 566±29,1 và 79,1±0,03 mUnit/mg protein vào ngày thứ 35 (Manee et al., 2012).

Manee et al. (2012) khi nghiên cứu về hoạt động của enzyme tiêu hóa trong quá trình phát triển và ảnh hưởng của thức ăn tự nhiên trên cá chốt (Mystus nemurus) bột mô tả sự phát triển của enzyme tiêu hóa protein (pepsin, trypsin, chymotrypsin), carbohydrate (α – amylase), lipase và ảnh hưởng của thức ăn tự nhiên từ ngày 1-45 ngày tuổi đã chỉ ra rằng tất cả các enzyme được tìm thấy với nồng độ thấp ở giai đoạn đầu (cho đến ngày thứ 20), sự gia tăng có ý nghĩa hoạt động của các enzyme này được tìm ra ở ngày thứ 25-45. Có mối quan hệ giữa sự gia tăng kích thước cơ thể với hàm lượng enzyme tiêu hóa. Qua nghiên cứu này cũng cho biết cá bột Mystus nemunrus có khả năng sử dụng tốt protein và carbohydrate trong khi đó khả năng sử dụng lipid bị hạn chế.

2.6 Phương pháp xác định độ tiêu hóa thức ăn

Phương pháp đo độ tiêu hóa gián tiếp thông qua việc sử dụng chất đánh dấu được sử dụng phổ biến. Đặc điểm của chất đánh dấu là: (i) có tốc độ di

15

chuyển giống như dưỡng chất; (ii) không được tiêu hóa và tan trong nước; (iii) Không ảnh hưởng đến độ tiêu hóa và hấp thu các dưỡng chất. Chất đánh dấu không được tiêu hóa và hấp thụ nên tỉ lệ nồng độ chất đánh dấu trong phân và trong thức ăn chính là độ tiêu hóa thức ăn. Một số chất đánh dấu sử dụng trong nghiên cứu như: Cr2O3, HROM, HRA, Cs137, Cr51 trong đó Chrome oxide (Cr2O3) được sử dụng phổ biến nhất với tỉ lệ trộn vào thức ăn 0,5-1% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Hiệu quả của việc sử dụng Cr2O3 trong xác định độ tiêu hóa nguyên liệu trong thức ăn của cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar) đã được chứng minh trên nhiều nghiên cứu (Austreng, 1978; Windell et al., 1978). Gần đây nhất, Cr2O3 cũng được sử dụng để xác định độ tiêu hóa nguyên liệu trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) (Hien et al., 2010), cá cam (Seriola lalandi) (Booth et al., 2010) và trên cá rô phi (Trung et al., 2011).

Bên cạnh đó việc thu phân cá trong xác định đột tiêu hóa cũng rất quan trọng. Theo Vanderberg and Noüe (2001) thì các phương pháp thu phân có thể chia ra thành 3 nhóm chính: (i) thu phân trước khi phân tiếp xúc với nước; (ii) thu phân từ nước bằng cột lắng; (iii) thu phân liên tục từ lỗ thoát nước bằng sàng.

Ngoài ra, có thể chia thu phân ra làm 2 nhóm: (i) Phương pháp thu phân trực tiếp từ ống tiêu hóa: gây mê cá sau đó vuốt nhẹ phần phân từ ruột của cá hoặc dùng ống hút phân hoặc cắt phần ruột cuối để thu phân. Các phương pháp trên có nhược điểm như lẫn phần thức ăn chưa được hấp thu, lẫn dịch tiêu hóa, nước tiểu, cá chết hoặc bị sốc, lượng phân thu được ít dẫn đến sai số số lớn khi tính toán độ tiêu hóa thức ăn; (ii) Phương pháp thu phân trong hệ thống nuôi: để có thể xác định chính xác hơn độ tiêu hóa của thức ăn và hạn chế các nhược điểm của thu phân trực tiếp từ ống tiêu hóa, các nhà nghiên cứu áp dụng phương pháp thu phân bằng cách nuôi động vật thủy sản trong bể thí nghiệm. Đối với các loài thải phân dạng sợi thì áp dụng phương pháp siphon hoặc dùng vợt để vớt các sợi phân. Các loài khác có thể áp dụng hai phương pháp thu phân là phương pháp thu phân tự lắng và phương pháp thu phân liên tục (Guillaume et al., 2001).

Đã có nhiều nghiên cứu so sánh các phương pháp thu phân thông qua việc xác định độ tiêu hóa (ADC). Allan et al. (1999) so sánh giữa 2 phương pháp thu phân là lắng và mổ trên cá vược (Bidyanus bidyanus) dựa vào ADC, kết quả cho thấy ADC từ phương pháp thu phân lắng cao hơn so với ADC từ phương pháp mổ, nghiên cứu cũng cho rằng thời điểm thu phân thích hợp nhất là thu phân sau khi cho ăn 18 giờ.

16

Theo Amirkolaie et al. (2005), kết quả của 2 phương pháp thu phân gián tiếp là hệ thống thu phân của Choubert và thu phân lắng trên cá rô phi cho thấy thu phân bằng phương pháp lắng thì lượng phân thu hồi sẽ cao hơn. Trên cá tuyết (Gadus morhua), với phương pháp thu phân vuốt bụng và mổ thu phân từ đoạn ruột cuối của cá cho thấy ADC không có sự khác biệt giữa 2 phương pháp thu phân này (Hemre et al., 2003).

Nghiên cứu của Storebakken et al. (1998) về độ tiêu hóa của cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar) bằng 3 phương pháp thu phân khác nhau: phương pháp vuốt bụng để tống phân từ đoạn ruột cuối ra ngoài, phương pháp mổ cá cắt phần ruột cuối để thu phân và phương pháp thu phân qua sàng mắc lưới kim loại, kết thúc thí nghiệm cho thấy ADC của phương pháp thu phân qua sàng cao hơn so với 2 phương pháp còn lại. Glencross et al. (2005) thí nghiệm so sánh phương pháp thu phân lắng và thu phân vuốt bụng trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) trên các nhóm nguyên liệu thức ăn khác nhau, kết quả cho thấy thu phân bằng phương pháp vuốt bụng để lấy phân từ đoạn ruột cuối cho ADC cao hơn so với phương pháp thu phân lắng. Gần đây nhất, trên cá tra khi so sánh 3 phương pháp thu phân: thu phân lắng, vuốt bụng và phương pháp mổ, kết quả cho thấy phương pháp thu phân lắng thích hợp nhất đối với cá tra, nhóm tác giả cũng cho rằng loài cá này không thể áp dụng phương pháp vuốt do cấu trúc ống tiêu hóa và lớp mỡ bụng quá dày (Hien et al., 2010).

Qua các nghiên cứu cho thấy, phương pháp thu phân tối ưu sẽ khác nhau

tùy theo mỗi loài, tùy theo dạng phân cũng như cấu trúc cơ thể của loài.

2.7 Nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản

2.7.1 Nhu cầu protein

Trong thực tiễn sản xuất nhu cầu protein của một loài cá là 35%. Điều đó có nghĩa là trong 100 g thức ăn có chứa 35 g protein. Khái niệm này vẫn chưa đủ vì chỉ nói lên tính chất thức ăn mà không đề cập đến tính chất của cá (Lê Thanh Hùng, 2008). Khi lượng thức ăn cho cá ăn khác nhau (cho ăn tối đa hay cho ăn giới hạn theo khẩu phần), thì lượng protein cá lấy vào sẽ khác nhau. Vì những lý do trên người ta đưa ra khái niệm: (i) Nhu cầu protein tương đối là mức % protein có trong thức ăn. Trong thực tiễn sản xuất người ta thường sử dụng giá trị protein tương đối để chế biến thức ăn; (ii) Nhu cầu protein tuyệt đối là lượng protein động vật thủy sản lấy từ thức ăn trên một đơn vị thể trọng của động vật thủy sản (g protein trong thức ăn trên một kg động vật thủy sản). Nhu cầu protein tuyệt đối cũng được tính như là lượng protein cần thiết cho một đơn vị thể trọng trong một thời gian (gam protein trong thức ăn/kg ĐVTS/ngày).

17

Ngoài nhu cầu protein tương đối và tuyệt đối, trong dinh dưỡng còn có khái niệm protein cho duy trì và tăng trưởng.

Nhu cầu protein tối ưu của một loài nào đó phụ thuộc nguồn nguyên liệu làm thức ăn (tỉ lệ protein và năng lượng, thành phần amino acid và độ tiêu hóa protein), giai đoạn phát triển của cơ thể, các yếu tố bên ngoài khác. Nếu thức ăn không cung cấp đủ nhu cầu protein cho cá sẽ dẫn đến cá chậm lớn, hoặc ngừng tăng trưởng, thậm chí có thể giảm trọng lượng. Mặt khác, nếu lượng protein trong thức ăn vượt quá nhu cầu thì chỉ một phần được sử dụng để tạo protein mới, phần còn lại sẽ được chuyển sang dạng năng lượng, điều này sẽ làm tăng giá thành thức ăn không cần thiết. Chính vì vậy, các nhà khoa học rất chú ý và đã nghiên cứu nhu cầu protein và amino acid của cá, đến nay, phần lớn các đối tượng nuôi quan trọng và phân bố rộng trên toàn thế giới đã được nghiên cứu về lĩnh vực này. Nhu cầu protein của cá dao động trong khoảng từ 25-55%, trung bình 30%, giáp xác từ 30-60% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Tương tự nghiên cứu ở một số loài cá rô phi của El-sayed and Teshima (1992) có nhu cầu protein trong khẩu phần dao động trong khoảng 20- 56%.

Nhu cầu protein ở các loài cá có tính ăn khác nhau sẽ khác nhau, những loài cá ăn động vật có nhu cầu protein cao hơn các loài cá ăn tạp hay ăn thực vật. Hung et al. (2000) nghiên cứu trên cá basa, cá tra và cá hú cỡ 5-6g có nhu cầu protein lần lượt là 27,8%; 32,2% và 26,6%. Trong khi đó nhu cầu protein của cá tra và basa ở giai đoạn 2-3 g lần lượt là 38% và 35% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Cá da trơn Nam Mỹ (Silurus meridionalis) (6 – 18 g) cho tăng trưởng tối đa với thức ăn có hàm lượng protein 40% (Fu et al., 2006). Cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) (cỡ 14 g) có nhu cầu protein là 35% (Page and Andrew, 1973). Cá hú (5-6 g) có nhu cầu protein là 26,6% (Liem et al., 2000). Tương tự nghiên cứu ở một số loài cá rô phi (Oreochromis niloticus) của El- sayed and Teshima (1992) có nhu cầu protein trong khẩu phần dao động trong khoảng 20-56%. Trần Lê Cẩm Tú và Trần Thị Thanh Hiền (2006) thí nghiệm trên cá rô đồng giống (2-2,5 g/con) cho thấy hàm lượng protein thích hợp là 32%. Đối với cá ông tiên (Pterophyllum scalare) có nhu cầu protein là 26% ở giai đoạn cá 2-3 g (Zuanon et al., 2007). Tuy nhiên, đối với các loài cá ăn động vật thì nhu cầu protein trong thức ăn cũng cao hơn, cá mú chấm gai (Epinephelus coioides) có nhu cầu protein là 48% (Luo et al., 2004). Nhu cầu protein của cá hồi nâu (Salmo trutta) là 53% (Arzel et al., 1995). Cá chốt (Mystus nemurus) có khối lượng 7-18 g thì nhu cầu protein giúp cá tăng trưởng tốt nhất là 42% (Khan et al., 1992). Cá bơn (Solea senegalensis) ở mức protein 45% cá tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn cao nhất (Lee, 2002). Nghiên

18

cứu trên cá bơn Đại Tây Dương (Hippoglossus hippoglossus) giai đoạn giống cho thấy nhu cầu protein là 51% (Helland and Grisdale-Helland, 1998). Cá thát lát còm (Chitala Chitala) giai đoạn giống (2,42 g/con) cần mức protein từ 40- 45% trong công thức thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2013).

Cá lóc là loài ăn động vật điển hình nên cũng có nhu cầu protein trong thức ăn chế biến cao. Mohanty and Samantaray (1996) xác định cá lóc 0,55 g sau 8 tuần nuôi cho tăng trưởng tốt nhất ở thức ăn có hàm lượng protein 55%. Tương tự, nghiên cứu trên cá lóc bột từ 1,13-1,8 g cũng cho tăng trưởng tối ưu ở thức ăn có hàm lượng protein 50% (Long et al.,2004). Theo nghiên cứu của Hashim (1994) trên cá lóc bột cho thấy tăng trưởng của cá lóc bột (0,58-0,95 g) bị ảnh hưởng bởi hàm lượng protein trong thức ăn. Trên cá lóc giống có khối lượng trung bình 12 g, được thử nghiệm trên các mức protein (35%, 40%, 45% và 50%) và mức năng lượng khác nhau đã cho thấy nhu cầu protein tối ưu là 40%, với tỉ lệ P/E là 90,9 mg protein/kcal cho tăng trưởng tốt nhất, ngoài ra hiệu quả sử dụng protein của cá tăng khi mức năng lượng trong thức ăn tăng từ 400- 480 Kcal/100g ở tất cả các mức protein (Mohanty and Samantaray, 1997). Trieu et al. (2001) nghiên cứu về nhu cầu protein của cá lóc giống (4,3 g/con) đã kết luận thức ăn chứa 50% protein cho tăng trưởng và tỉ lệ sống cao nhất. Nghiên cứu tương tự trên cá lóc bột, kết quả cho thấy cá có tỉ lệ sống cao ở nhóm thức ăn có mức lipid 65 g/kg và với tỉ lệ lipid/protein là 65/450 g/kg cho tỉ lệ sống và tăng trưởng tốt nhất, tuy nhiên hàm lượng lipid trong thức ăn lại không ảnh hưởng đến hàm lượng lipid trong cơ thể cá (Aliyu-Paiko et al., 2010).

Ở cá lóc Châu Phi (Parachanna obscura) giai đoạn giống (4,08 g), khi cá được cho ăn 5 loại thức ăn có hàm lượng protein từ 30-60%; dựa vào kết quả tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá, nhóm tác giả kết luận nhu cầu protein của cá lóc Châu Phi dao động từ 42,5-63,5% (Kpogue et al., 2013). Ở cá Channa punctatus giai đoạn giống (4,58 g) khi được cho ăn theo nhu cầu bằng 6 loại thức ăn có hàm lượng protein từ 300 đến 550 g/kg và có cùng mức năng lượng (18,39 KJ/g), kết quả được phân tích bằng phương trình đường cong bậc hai cho thấy tăng trọng cao nhất, FCR tốt nhất ở mức protein 462-476 g/kg. Trong khi đó hàm lượng protein trong thức ăn (438-444 g/kg) thì hiệu quả sử dụng protein (PER), hiệu quả tích lũy protein và năng lượng (PRE và ERE) trong cơ có kết quả tối ưu (Zehra và Khan, 2012).

Mặt khác, nhu cầu protein của cá còn chịu ảnh hưởng của kích cỡ cá, cá nhỏ có nhu cầu protein cao hơn cá lớn, cá càng lớn nhu cầu protein sẽ càng giảm. Nhu cầu protein của đa số các loài cá da trơn bột là 40%, cá hương 30- 35%, cá 110 g trở lên là 25-30% (NRC, 1993). Theo nghiên cứu của Hardy (1989), nhu cầu protein tối ưu cho cá hồi Coho (Oncorhynchus kisutch) giai

19

đoạn bột là 45 đến 50%, giai đoạn giống là 40%, cá được nuôi sau một năm thì nhu cầu protein còn 35%. Ở cá lóc (Channa striata) có khối lượng cá 0,552 g/con thì có nhu cầu protein trong thức ăn 55% (Mohanty and Samantaray, 1996), ở giai đoạn lớn hơn 4,3 g/con thì nhu cầu protein là 50% (Trieu et al., 2001). Đối với cá lóc bông (Channa micropeltes) giai đoạn cá nhỏ 2,6 g/con là 50,8% và giai đoạn cá giống lớn (6,07 g/con) là 46,5% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2005). Tương tự, nhu cầu protein của cá basa (Pangasius bocourti) giai đoạn cá giống nhỏ là 41,6% và cá giống lớn là 34,3% (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 1997). Cá rô phi (O. niloticus) bột có nhu cầu protein là 40%, khi cá đạt khối lượng 30 g thì nhu cầu protein là 35%, khi cá lớn hơn 110 g thì nhu cầu protein giảm còn 25-30% (Wilson, 1991), tác giả cho rằng cá nhỏ có nhu cầu protein cao là do cá nhỏ có sức tăng trưởng lớn hơn cá trưởng thành. Tương tự nghiên cứu Al Hafedh (1999) đối với cá rô phi có khối lượng nhỏ hơn 1 g thì cần 35-50% protein trong khẩu phần, 1-5 g thì 30-40% và 5-25 g thì 25-35%. Nhu cầu protein trên cá basa giống cỡ nhỏ là 41,6% và cá giống lớn là 34,3% (Nguyễn Thanh Phương và ctv., 1997). Trên đối tượng cá hú với cỡ 6,5 g, Liem et al. (2000) cho biết cá hú tăng trưởng tối đa ở mức 37,9% protein trong thức ăn, nhu cầu protein của cá hú giai đoạn 0,86 g là 48,5%, giai đoạn 2-3 g là 48%. Trần Lê Cẩm Tú và ctv. (2014) xác định nhu cầu protein của cá kèo giống (3,55g/con) ở hai mức năng lượng 18 KJ/g là 42,8% và 20 KJ/g là 35,4%.

Qua các nghiên cứu cho thấy những loài cá ăn tạp hay ăn thực vật có nhu cầu protein khoảng 25-35%, thấp hơn nhu cầu protein của các loài cá ăn động vật với nhu cầu khoảng 40-52%. Nhu cầu protein của một loài cũng thay đổi tùy theo giai đoạn sinh trưởng, giai đoạn nhỏ nhu cầu protein sẽ cao hơn ở giai đoạn lớn.

2.7.2 Nhu cầu acid amin

Nhu cầu protein của của động vật tương ứng với yêu cầu về acid amin. Khi nói đến protein, người ta không chỉ quan tâm đến hàm lượng protein trong thức ăn mà còn chú ý đến các acid amin tham gia cấu tạo nên protein (đặc biệt là thành phần và cấu tạo của các acid amin thiết yếu trong protein. Khi xác định giá trị của protein người ta không chỉ xác định độ tiêu hóa mà còn xem xét thành phần acid amin (NRC, 2011). Ngoài nhiệm vụ chính là cấu tạo nên protein, acid amin có vai trò quan trọng cung cấp năng lượng cho tôm cá (Kaushik and Seiliez, 2010). Trong tự nhiên có 20 acid amin, AA thiết yếu là những AA mà cơ thể sinh vật không tự tổng hợp được từ thức ăn: Arginine, Histidine, Isoleucine, Leucin, Lysine, Methionine, Phenyllalanine, Threonine, Tryptophan và Valine (Halver and Hardy, 2002).

20

Cá hồi

Cá chép Cá rô phi Cá chình

Cá nheo Mỹ 1,0 0,4 0,6 0,8 1,2 0,6a 1,2 0,5 0,12 0,71

1,18 0,48 0,87 0,95 1,43 0,75 1,05 1,05 0,28 0,78

1,6 0,8 0,9 1,3 2,2 1,2a 2,5b 1,5 0,3 1,4

1,7 0,8 1,5 2,0 2,0 1,2a 2,2b 1,5 0,4 1,5

1,4 0,64 0,96 1,76 2,12 0,72 1,24 1,36 0,3 1,24

Nhu cầu EAA của cá đã được nghiên cứu hơn 50 năm. Các nghiên cứu ban đầu với cá hồi Chinook được tiến hành bởi Halver và các đồng nghiệp vào cuối những năm 1950, thông qua sự thay đổi hàm lượng acid amin trong thức ăn. Sau đó, các nghiên cứu dựa trên yêu cầu 10 EAA được nghiên cứu cùng một nhóm dựa vào mô hình cho các loài cá khác (Wilson, 1989).

Hiệu quả sử dụng protein trong thức ăn cho cá phụ thuộc rất lớn vào sự cân bằng giữa nhu cầu và thành phần các acid amin thiết yếu trong thức ăn. Trong khẩu phần, nếu chỉ cần một acid amin thiết yếu không được cân đối so với nhu cầu thì công thức đó sẽ dẫn đến thiếu hụt acid amin và không hiệu quả trong việc sử dụng protein trong thức ăn đó. Những nghiên cứu về nhu cầu acid amin thiết yếu cho rằng, trong nguồn nguyên liệu cung cấp thường thiếu methionin, lysine, threonine, tryptophan (Halver and Hardy, 2002).

Hầu hết các nghiên cứu về nhu cầu acid amin của động vật thủy sản đề tập trung nghiên cứu nhu cầu methionine và lysine. Lysine là một trong những acid amin không thể thiếu trong khẩu phần ăn của cá. Lysine thường xuất hiện giới hạn nhất trong amino acid của thức ăn thô, sử dụng thức ăn cho cá nước ấm (Robinson et al. 1980). Bên cạnh việc giảm tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn, thiếu lysine còn dẫn đến sức khỏe của cá (Guillaume et al, 1999). Methionine rất cần cho sự tăng trưởng, chuyển hóa và thực hiện chức năng bình thường của cơ thể. Methionine còn là thành phần sinh tổng hợp các chất choline, creatine… (Mai et al. 2006). Methionine có vai trò quan trọng trong chuyển hoá protein, lipid và quá trình oxy hóa khử ở các mô trong cơ thể. Methionine có tác dụng bảo vệ đặc hiệu tế bào gan, ngăn ngừa tế bào gan thoái hóa mỡ và chống nhiễm độc. Thiếu methionine dẫn đến giảm tăng trưởng, như ở cá hồi vân (Ghomi and Alizadehnajd, 2012). Đối với cá hồi (O.mykiss), sinh trưởng sẽ thỏa

Bảng 2.3: Nhu cầu acid amin đối với một số loài cá (tính % vật chất khô) (Halver and Hardy, 2002) Acid amin thiết yếu Arginine Histidine Isoleucine Leucine Lysine Methionine Phenylalanine Threonine Tryptophan Valine athức ăn không có Cystine; bthức ăn không có Tyrosine.

21

mãn khi khẩu phần chứa methionine + cystine ít nhất là 13- 15 g/kg khẩu phần. Thừa methionine cũng dẫn đến ức chế sinh trưởng (Corazon and B.Santiago, 1997).

Nhu cầu acid amin của các loài được xác định là bị ảnh hưởng do một số yếu tố bao gồm loài, tuổi, nguồn protein và mức protein trong thức ăn, acid amin tinh khiết hoặc bán tinh khiết và acid amin nguyên liệu, điều kiện môi trường và hệ thống thí nghiệm (Murthy and Varghese, 1998). Nhu cầu lysine của một số loài đã được xác định như: cá chốt (Mystus nemurus) là 31,4 g/kg protein (Tantikitti and Chimsung, 2001); cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella) 59,6 g/kg protein (Wang et al., 2005); cá tra là 53,5 g/kg protein (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2009); Lin et al. (2013) cho Myxocyprinus asiaticus là 55,2g/kg protein.

Nhu cầu methionine cho cá thường nằm trong khoảng từ 20-40 g methionine/kg protein, khác nhau tùy theo loài (Wilson et al., 1991). Nhu cầu methionine của cá tra là 26 g/kg protein (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2009), cá nục giống là 25 g/kg protein (Liao et al., 2014) và cá ăn tạp như cá diếc Phổ (Carassius auratus gibelio) là 23 g/kg protein (Wang et al., 2016), Myxocyprinus asiaticus là 32 g/kg protein (Chu et al., 2014) và nhóm cá biển như Sparus macrocephalus là 45,3 g/kg protein (Zhou et al., 2011).

2.7.3 Nhu cầu năng lượng

Các sinh vật sử dụng năng lượng sinh học để thực hiện các quá trình biến dưỡng cần cho sự sống. Trong thức ăn cho thủy sản, năng lượng là một giá trị quan trọng để quyết định khẩu phần và thiết lập công thức thức ăn cho từng giống loài cá và giai đoạn phát triển. Năng lượng từ thức ăn sẽ được động vật thuỷ sản sử dụng cho nhiều chức năng. Sự phân chia năng lượng sử dụng cho từng chức năng phụ thuộc vào năng lượng ăn vào, khả năng tiêu hoá và sự hấp thu năng lượng của động vật thủy sản (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Nhu cầu năng lượng của động vật thuỷ sản bao gồm nhu cầu năng lượng duy trì và nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng. Nhu cầu năng lượng duy trì và tăng trưởng của cá thay đổi tuỳ theo kích cỡ, môi trường sống và loại thức ăn sử dụng (Lê Thanh Hùng, 2008). Năng lượng thô là nhiệt năng sinh ra trong quá trình đốt cháy thức ăn ở bên ngoài cơ thể sinh vật bằng máy đo hóa học. Giá trị năng lượng thô phụ thuộc rất nhiều vào thành phần dinh dưỡng của thức ăn như: protein, lipid, carbohydrat (Halver and Hardy, 2002). Năng lượng thô có thể được đo trực tiếp bằng cách đốt cháy một lượng thức ăn trong calorie kế và đo nhiệt lượng sinh ra. Ngoài phương pháp đo trực tiếp năng lượng thô có thể đượctính toán dựa vào giá trị năng lượng của thành phần dinh dưỡng thức

22

ăn (Lê Thanh Hùng, 2008). Năng lượng thức ăn ăn vào khi cho động vật thủy sản ăn, một phần thức ăn không được cá ăn vào mà bị mất đi vào môi trường. Năng lượng thức ăn ăn vào là năng lượng thô của thức ăn được động vật thực sự ăn vào dạ dày. Năng lượng tiêu hóa khi vào cơ thể thức ăn được tiêu hóa và biến dưỡng sản sinh năng lượng, tuy nhiên một phần thức ăn không được tiêu hóa và thải ra ngoài. Do đó năng lượng tiêu hóa sẽ bằng năng lượng thức ăn ăn vào trừ đi phần năng lượng thải ra qua phân (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Theo Lê Thanh Hùng (2008) năng lượng tiêu hóa phụ thuộc vào giống loài, tuổi cá, trạng thái sinh lý, nhiệt độ môi trường, thành phần thức ăn, lượng cho ăn và tần số cho ăn. Để tính giá trị năng lượng tiêu hóa của một loại thức ăn, người ta dùng phương trình hồi quy, dựa vào thành phần hóa học của thức ăn và độ tiêu hóa của từng thành phần hóa cấu tạo nên thức ăn đó. Năng lượng trao đổi hay biến dưỡng là phần năng lượng tiêu hóa hấp thụ qua thức ăn, trừ đi phần năng lượng mất đi do bài tiết nitrogen qua mang và nước tiểu. Trong biến dưỡng động vật thủy sản lượng Ammonia bài tiết không chỉ phụ thuộc vào lượng protein ăn vào hay chất lượng protein mà còn lệ thuộc rất lớn vào tỉ lệ protein (DP) và năng lượng (DE).

Năng lượng từ thức ăn ngoài mất đi qua phân, bài tiết qua mang và nước tiểu còn mất đi do sự tỏa nhiệt, còn gọi là năng lượng tỏa nhiệt. Năng lượng tỏa nhiệt này liên quan đến chất lượng thức ăn và nhiệt độ môi trường. Năng lượng tỏa nhiệt tổn hao dưới dạng nhiệt do các hoạt động sau: (i) Năng lượng biến dưỡng cơ bản: năng lượng mất đi do quá trình trao đổi chất cơ sở (Basal metabolism - HeE) khi cá ở trạng thái bình thường, cũng bao gồm luôn năng lượng mất đi qua các hoạt động bơi lội, duy trì thăng bằng trong môi trường nước (Voluntary Activity – HjE) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009); (ii) Năng lượng biến dưỡng hay còn gọi là năng lượng trao đổi chất (HiE): là năng lượng mất đi do hoạt động cơ học (lấy thức ăn, nhai xé và di chuyển thức ăn trong ống tiêu hóa), cho hoạt động sinh hóa (phản ứng hóa học liên quan đến tiêu hóa thức ăn, hấp thụ, vận chuyển và trao đổi dưỡng chất), cũng bao gồm năng lượng mất đi trong quá trình bài tiết sản phẩm (như khử amin protein) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

Năng lượng tích lũy là phần năng lượng mà động vật thủy sản tích lũy được cho sinh trưởng hoặc tạo sản phẩm sinh dục. Năng lượng tích lũy là hiệu giữa năng lượng trao đổi (ME) và năng lượng tỏa nhiệt (HE) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

23

Năng lượng ăn vào - IE

Năng lượng trong phân - FE

Năng lượng tiêu hóa - DE

Năng lượng thải qua mang - ZE/ nước tiểu - UE

Năng lượng trao đổi - ME

Năng lượng tỏa nhiệt - ME

Năng lượng thực - NE

Vận động - HjE Năng lượng trao đổi chất cơ sở - HeE

Năng lượng tích lũy – RE (sinh trưởng/chất béo/sinh sản)

Nhu cầu năng lượng duy trì là nhu cầu năng lượng cần thiết để động vật thủy sản đạt trạng thái cân bằng giữa năng lượng hấp thu và tiêu thụ. Nghĩa là động vật thủy sản có trọng lượng không đổi trong khoảng thời gian thí nghiệm. Nhu cầu năng lượng duy trì thay đổi tùy theo loài, kích cỡ cá, môi trường sống và loại thức ăn sử dụng. Do đó năng lượng duy trì được diễn tả theo KJ/kg cá, trong 24 giờ, ở điều kiện nhiệt độ nhất định (Lê Thanh Hùng, 2008). Nhu cầu duy trì phụ thuộc vào loài và kích cỡ cá. Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2009) nhu cầu năng lượng duy trì của cá chép có kích cỡ 80 g ở nhiệt độ 20oC là 67 KJ/kg cá/ngày và cá nheo Mỹ 84 KJ/kg cá/ngày (cỡ cá 20 g, nhiệt độ 25oC). Theo Guillaume et al. (2001) nhu cầu năng lượng cho cá hồi có khối lượng 150 g ở 18oC dao động khoảng 85-100 KJ/kg cá/ngày và cá có khối lượng 300 g nhiệt độ là 15oC thì cần năng lượng duy trì là 60 KJ/kg cá/ngày. Nghiên cứu của Storebakken et al. (1991) trên cá hồi có kích cỡ 300 g thì có nhu cầu năng lượng cho duy trì cơ thể là 42 KJ/kg cá/ngày ở 15o C. Tương tự McGoogan et al. (1998) cho rằng trên cá hồng Mỹ (Sciaenops ocellatus) có khối lượng khoảng 50 g thì có nhu cầu năng lượng duy trì dao động trong khoảng 92-97 KJ/kg cá/ngày ở 25oC. Ở cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata) kích cỡ 700 g ở 15oC thì có nhu cầu năng lượng duy trì là 82 KJ/kg cá/ngày (Watanabe

Hình 2.2: Sơ đồ chuyển hóa năng lượng trong cơ thể động vật thủy sản. (Nguồn: Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009)

24

et al., 2000). Nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng là nhu cầu năng lượng cần thiết để sản sinh được 1 kg động vật thủy sản tăng trọng. Mức nhu cầu này thay đổi tùy theo thành phần của thức ăn, đặc biệt là tỉ lệ giữa năng lượng protein và năng lượng phi protein. Nói khác đi là tương quan giữa quá trình đồng hóa và dị hóa (Lê Thanh Hùng, 2008). Ở cá tráp (Sparus aurata) (1-250 g) khi được nuôi trong điều kiện nhiệt độ từ 23-24oC thì năng lượng cho cá tăng trưởng từ 5-11 MJ/kg và lượng protein là 179 g/kg thức ăn (Lupatsch et al., 1998). Nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng của cá đù (Argyrosomus japonicus) với khối lượng 10 g/con là 2,71 KJ/kg cá/ngày ở 20oC và 1,25 KJ/kg cá/ngày ở 26oC, ở khối lượng cá 800 g là 45,3 KJ/kg cá/ngày ở 20oC và 59,43 KJ/kg cá/ngày ở 26oC (Igor, 2009). Đối với cá vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax ) 68 g và 128 g có nhu cầu năng lượng tăng trưởng lần lượt là 320 và 221 KJ/kg cá/ngày (Edo and Lanari, 2003). Cá mú trắng (Epinephelus aeneus) có nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng là 2,61 KJ/kg cá/ngày ở khối lượng 5 g và 56,5 KJ/kg cá/ngày ở khối lượng 750 g (Lupatsch and Kisil, 2005). Cá cam (Seriola lalandi) khối lượng 50 g thì có nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng là 23,2 KJ/kg cá/ngày và ở khối lượng 1000 g thì là 185,4 KJ/kg cá/ngày (Mark et al., 2010). Một số loài cá ăn tạp có nhu cầu năng lượng thấp hơn, cá rô phi (Oreochromis niloticus) 10 g và 1.000 g có nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng là 7,09 và 88,43 KJ/kg cá/ngày (Trung et al., 2011). Cá tra có nhu cầu cho năng lượng tăng trưởng là 20,9 và 254,7 KJ/kg cá/ngày (Glencross et al., 2010).

Ngoài ra, tỷ lệ protein/ năng lượng (P/E) là một trong những chỉ số quan trọng của thức ăn để đánh giá sự ảnh hưởng của nó đối với cá. Nếu thức ăn cung cấp năng lượng vượt quá nhu cầu của cá sẽ làm giảm sự bắt mồi, ngược lại, nếu thức ăn thiếu năng lượng thì protein trước tiên được dùng để cung cấp năng lượng thoả mãn nhu cầu của cơ thể như vậy hiệu quả sử dụng protein của cá thấp. Tỷ lệ P/E tối ưu cho động vật thuỷ sản thay đổi tuỳ theo loài, tuy nhiên thường lớn hơn 20 mg/KJ (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

Acid amin đóng vai trò quan trọng trong đáp ứng nhu cầu chuyển hóa năng lượng của động vật thủy sản và nhìn chung là nguồn chuyển hóa năng lượng hiệu quả. Việc sử dụng protein như nguồn cung cấp năng lượng cho động vật là điều không mong muốn vì chi phí cao so với các nguồn cung cấp năng lượng khác như tinh bột hay chất béo và giải phóng ammonia do sự chuyển đổi của acid amin. Nhìn chung, nếu sử dụng tỷ lệ protein và năng lượng thích hợp có thể tiết kiệm chi phí và giảm thiểu sự giải phóng ammonia do sự chuyển đổi của acid amin. Nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng nghiên cứu về protein tiêu hóa và tỷ lệ năng

25

lượng tiêu hóa là phương thức tiếp cận hiệu quả trong nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng hơn là dựa trên nhu cầu protein thô, phần trăm protein thô trong thức ăn.

Việc giảm tỷ lệ protein tiêu hóa trên năng lượng tiêu hóa (DP/DE) thông qua giảm mức protein tiêu hóa kết hợp hay không kết hợp với việc tăng năng lượng tiêu hóa từ nguồn cung cấp không phải là protein đã được chứng minh là rất hiệu quả trong cải thiện hiệu quả sử dụng protein và làm giảm việc giải phóng nitơ ở một số loài cá (Hillestad et al., 1998; Steffens et al., 1999; Azevedo et al., 2004; Satoh et al., 2004). Tỷ lệ protein tiêu hóa trên năng lượng tiêu hóa DP/DE của các loài cá khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì khác nhau. Ở hầu hết các loài cá tỷ lệ tối ưu DP/DE dao động từ 84 đến 105 g/Mcal (20-25 g/MJ) (Winfree and Stickney, 1981; Cho and Woodward, 1989; Azevedo et al., 2004; Wang et al., 2006a). Đối với một số loài có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng từ chất béo, tỷ lệ DP/DE tối ưu có thể rất thấp, ở mức 84 g/Mcal (20 g/MJ) (Einen and Roem, 1997). Ở một số loài cá ăn động vật mà có khả năng tiêu hóa năng lượng từ chất béo kém như cá chẽm, cá bớp, cá tuyết, tỷ lệ DP/DE tối ưu dao động từ 117-134 g/Mcal (28-32 g/MJ) (Catacutan and Coloso, 1995; Kim et al., 2004; Tibbett et al., 2005; Webb et al., 2010). Ở một vài loài cá, cho cá ăn thức ăn có tỷ lệ DP/DE thấp (có hàm lượng chất béo cao) có thể cải thiện khả năng sử dụng protein nhưng có thể gây tích lũy chất béo trong cá (Tibbett et al., 2005), sự tích lũy chất béo này có thể dẫn đến giảm chất lượng sản phẩm hay ảnh hưởng đến sức khỏe của vật nuôi.

Các nghiên cứu cho thấy nhu cầu protein trong thức ăn cho cá giảm khi cá có kích cỡ lớn hơn. Chẳng hạn như, nhu cầu protein cho cá nheo Mỹ là 25% cho cá ở kích cỡ 114-500 g, nhưng nhu cầu protein cho cá có kích cỡ nhỏ 14- 100 g là 35% (Page and Andrews, 1973). Các nghiên cứu nhu cầu protein trên các đối tượng nuôi khác cũng cho kết quả tương tự như cá hồi, cá chép, cá rô phi (Wilson and Halver, 1986). Tỷ lệ DP:DE tối ưu cho cá hồi giống dao động từ 84-100 g/Mcal (20-24 g/MJ), trong khi đó, cá hồi có kích cỡ lớn hơn 2,5 kg có tỷ lệ DP:DE từ 67-71 g/Mcal (16-17 g/MJ) (Einen and Roem, 1997). Kết quả nghiên cứu tỷ lệ DP:DE tối ưu cho cá tráp là 119 và 82 g/Mcal (28,5 và 19,5 g/MJ) cho cá có kích cỡ 10 g và 250 g (Lupatsch et al., 2001b).

Khi nghiên cứu về tỷ lệ P/E cho thấy tăng trưởng của cá lóc giống cao nhất, hệ số thức ăn thấp nhất khi cho ăn thức ăn có chứa 40% protein và tỷ lệ P/E là 90,9 mg/Kcal (Mohanty and Samantaray, 1997). Cá chốt (Mystus nemurus) tăng trưởng tối đa với thức ăn chứa 44% protein và tỷ lệ P/E là 20 mg/KJ (Ng et al., 2001). Thức ăn chứa năng lượng ≥ 3.800 Kcal/kg và tỷ lệ P/E dao động từ 79–147 mg/KJ đảm bảo cung cấp đủ năng lượng và acid amin thiết

26

yếu cho cá tầm da vàng (Scaphirhynchus albus) giai đoạn giống (Kittel and Small, 2014). Thức ăn tối ưu cho tăng trưởng, tỷ lệ sống và thành phần hoá học cho cá chẽm (Lates calcarifer) chứa 42,5% protein, 10% lipid và tỷ lệ P/E là 128 mg/Kcal (Catacutan and Coloso, 1995). Đối với cá vàng (Carassius auratus) tỷ lệ protein tiêu hoá/năng lượng tiêu hoá (DP/DE) tối ưu là 119–125 mg/Kcal khi sử dụng thức ăn có hàm lượng protein dao động từ 38 đến 40% và mức năng lượng là 3.200 Kcal/kg (Souto et al., 2013). Tỷ lệ DP/DE của cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar ) càng giảm khi khối lượng của cá càng tăng, cá có khối lượng từ 1 đến 2,5 kg thì DP/DE tối ưu là 19 g/MJ và cá có khối lượng từ 2,5 đến 5 kg thì DP/DE tối ưu là 16–17 g/MJ (Einen and Roem, 1997). Thử nghiệm trên cá lóc (Channa striatus) giống (0,39 g) với các mức carbohydrate khác nhau (8%, 12%, 17%, 21%, 25%, 30% và 34%) kết quả cho thấy thức ăn có hàm lượng 12% với mức năng lượng và tỉ lệ P/E trong thức ăn là 4,3 Kcal/g và 100 mg/Kcal sẽ cho tăng trưởng tối ưu, tuy nhiên tăng trưởng của cá sẽ giảm cùng với sự gia tăng hàm lượng carbohydrate trong khẩu phần (Arockiaraj et al., 1999).

Nhu cầu năng lượng của các loài cá khác nhau không chỉ phụ thuộc vào thành phần loài mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ môi trường, thức ăn dùng thí nghiệm và cách chăm sóc cho ăn (Dương Thúy Yên, 2000). Dựa vào các hệ số chuyển hóa và ứng dụng mô hình hóa tăng trưởng, ở cùng mức năng lượng thức ăn như nhau, các tác giả đã đưa ra tỉ lệ DP/DE tối ưu cho từng giai đoạn sinh trưởng của loài. Mặc dù nhu cầu protein ở cá kích cỡ lớn thấp hơn so với cá nhỏ nhưng cá lớn có hiệu quả tích lũy protein (N tích lũy/N ăn vào) thấp hơn so với cá nhỏ. Nghiên cứu trên cá hồi nước ngọt cho thấy, hiệu quả tích lũy protein (protein retention efficiency) giảm có ý nghĩa thống kê và tỷ lệ tích lũy lipid và protein (LD:PD) tăng cao khi kích cỡ cá tăng (Azevedo et al., 2005; Dumas et al., 2007). Đối với cá lớn có nhu cầu protein và DP:DE thấp hơn nhưng hàm lượng protein tuyệt đối (g protein/kg tăng trọng) cao hơn.

Trung et al.(2011) cho rằng có sự thay đổi rõ rệt về nhu cầu protein ở cá rô phi từ giai đoạn bột đến giai đoạn 100 g, khi ở giai đoạn 10 g nhu cầu DP/DE là 32,7 g/MJ đã giảm còn 26,3 g/MJ ở giai đoạn 100 g và sự thay đổi ít hơn ở giai đoạn 1.000g (21,4 g/MJ), nhóm tác giả cũng cho rằng cá rô phi là loài có thể sử dụng thức ăn có hàm lượng tinh bột ở mức cao (> 20%). Tương tự, cá tra có nhu cầu DP/DE ở giai đoạn 100 g là 23,5 g/MJ và 18,1 g/MJ ở 1.000 g (Glencross et al., 2010). Trên cá chẽm (Lates calcarifer) nhu cầu DP/DE ở giai đoạn 100 g và 1000 g lần lượt là 30,2 g/MJ và 19,9 g/MJ (Glencross, 2008).

27

2.8 Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học trong xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá

2.8.1 Các phương pháp xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá

Trước đây, khi xác định nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản thường được thực hiện ở một giai đoạn xác định (cỡ cá nhất định hoặc tuổi cá nhất định) và chỉ thực hiện nghiên cứu trên một thông số cụ thể (xác định nhu cầu dinh dưỡng cho tăng trưởng, tỉ lệ sống hoặc sinh sản). Sau khi lựa chọn giai đoạn và thông số cần nghiên cứu của đối tượng, nhu cầu dinh dưỡng sẽ được định lượng bằng mối liên hệ hay khả năng đáp ứng tối ưu của đối tượng (về tăng trưởng, tỉ lệ sống hoặc sinh sản, ...) đối với các khẩu phần ăn có chứa các mức dinh dưỡng khác nhau (hàm lượng protein khác nhau, hàm lượng lipid khác nhau hoặc hàm lượng acid amin khác nhau) (Lupatsch, 2003), mối liên hệ sẽ được xác định bằng các mô hình đường thẳng (Broken-line model) (Takeshi and Jame, 1977; Hung et al., 2000; Luo et al., 2004; Martinez et al., 2004), mô hình phương trình mũ (Exponenal model) (Liem et al., 2000; Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004), mô hình xích ma (Sigmoidal response model). Nghiên cứu xác định nhu cầu protein và năng lượng của cá bơn vỉ (Paralichthys olivaceus) bằng cách cho cá ăn các khẩu phần có hàm lượng protein từ 41% đến 50%, tương ứng 2 mức năng lượng (19 KJ/g và 20 KJ/g). Sau 45 ngày thí nghiệm cho thấy cá tăng trưởng tốt nhất ở khẩu phần ăn (50% protein và mức năng lượng 20 KJ/g) (Yigit et al., 2004). Ở cá trôi Ấn Độ (Labeo rohita) 0,55 g được cho ăn bằng thức ăn (40% protein và mức năng lượng 3,61 kcal/g) với 6 mức cho ăn từ 2-12% khối lượng thân/ngày trong 8 tuần, tác giả kết luận rằng ở cá trôi Ấn Độ được cho ăn từ 6,5- 7% khối lượng thân/ngày với thức ăn có hàm lượng protein (26-28%) và mức năng lượng (23,5-25,3 kcal/100g) thì có kết quả tối ưu về tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn; protein và năng lượng cho cá duy trì hàng ngày là 0,8-1,6 g protein và 7,23-14,5 kcal năng lượng tương ứng lệ cho ăn 2-4% (Ahmed, 2007). Bằng phương pháp như trên, Mohamed et al., (2009) xác định cá rô phi (Oreochromis niloticus) có nhu cầu protein tối ưu trong thức ăn là 30%. Tuy nhiên, nhược điểm của các mô hình này là chỉ có thể xác định nhu cầu dinh dưỡng ở một giai đoạn (cỡ) nhất định của đối tượng, do vậy khi muốn xác định nhu cầu dinh dưỡng ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau của đối tượng sẽ mất nhiều thời gian nghiên cứu.

Hiện nay, mô hình năng lượng sinh học (Bioenergetic Modeling) là mô hình hiệu quả được sử dụng để dự đoán tăng trưởng, tỷ lệ cho ăn, FCR và sản phẩm thải của cá với các thành phần dinh dưỡng của thức ăn và điều kiện nuôi khác nhau (Cho and Bureau, 1998; Lupatsch and Kissil, 2005; Lupatsch et al., 2001a, 2003; Azevedo et al., 1998). Mô hình “Fish-PrFEQ” của Cho and

28

Bureau (1998) là mô hình lý thuyết đầu tiên về nhu cầu thức ăn dựa trên nhu cầu năng lượng (nhu cầu năng lượng duy trì và nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng...). Việc xác định nhu cầu năng lượng thông qua việc xác định tăng trưởng của cá đáp ứng với nhiệt độ và tăng trọng của cá ở bất kỳ thời điểm nào trong chu kỳ sinh trưởng. Nhu cầu năng lượng trong mô hình năng lượng sinh học của Cho and Bureau (1998) gồm nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng + nhu cầu năng lượng duy trì + năng lượng tỏa nhiệt + năng lượng tiêu hao do quá trình trao đổi chất (Glencross et al., 2002, 2007).

Mô hình của Lupatsch et al. (2001a) đơn giản hơn so với mô hình của Cho and Bureau (1998), năng lượng được chia thành hai phần gồm năng lượng cho tăng trưởng và năng lượng không phải cho tăng trưởng. Năng lượng không phải cho tăng trưởng bao gồm năng lượng cho duy trì, tỏa nhiệt và các hoạt động. Năng lượng cho tăng trưởng được tính toán chi tiết hơn mô hình của Cho and Bureau (1998), họ sử dụng hệ số trao đổi chất đặc trưng của loài để đánh giá nhu cầu năng lượng tương ứng ở các kích cỡ cá khác nhau. Mô hình xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá được Lupatsch et al. (2001a) và Lupatsch (2003) tính toán theo công thức tính sau: Nhu cầu = M x BW (kg)b + G x tăng trưởng; trong đó, BW (kg)b (Metabolic body weight) = khối lượng cơ thể trao đổi chất; M (maintenance requirement) = nhu cầu duy trì; G (coefficient describing the efficiency of utilisation of dietary energy or protein for growth) = hệ số thể hiện hiệu quả sử dụng protein hay năng lượng cho tăng trưởng.

Theo Lupatsch (2003), nhu cầu về protein và năng lượng cho cá tăng trưởng được xác định bằng tổng lượng protein và năng lượng tích lũy cho tăng trưởng + lượng protein và năng lượng của cơ thể cá tiêu hao. Trong đó: nhu cầu cho cơ thể cá tiêu hao là tiêu hao mất đi của cá ở các hoạt động trao đổi chất, duy trì, mối quan hệ này được thể hiện bằng số mũ, số mũ này quyết định sự mức độ trao đổi chất của cơ thể cá ở một cỡ cá bất kỳ, nhu cầu cho tích lũy là phần dưỡng chất còn lại cá tích lũy được cho tăng trưởng, sinh sản, …Mặt khác, nhu cầu cho tăng trưởng còn phụ thuộc vào mức cho ăn và thành phần hóa học của thức ăn. Do vậy, nhu cầu về protein và năng lượng của một đối tượng được xác định dựa vào hiệu quả sử dụng các dưỡng chất này của đối tượng cho mục đích duy trì và tăng trưởng. Vì vậy nhu cầu protein và năng lượng trong mô hình xác định nhu cầu dinh dưỡng sẽ không thể hiện ở phần trăm trong khẩu phần ăn mà là con số cụ thể của lượng thức ăn ăn vào hàng ngày trên một đơn vị khối lượng và khối lượng tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng đa nhân tố này đã được dùng để tính toán nhu cầu dinh dưỡng của cá chẽm (Glencross et al., 2002), cá hồi vân (Glencross et al., 2007), cá bớp (Tien et al., 2016) và cá kèo (Trần Thị Bé, 2016). Các nhân tố của mô hình này gồm:

29

(i) Công thức đa nhân tố dự đoán mối tương quan của tăng trưởng của cá

tương ứng nhiệt độ nước và kích cỡ cá khác nhau;

(ii) Công thức đa nhân tố xác định năng lượng và protein sử dụng của cá;

(iii) Thiết lập khẩu phần ăn dựa trên mối tương quan mô hình đa nhân tố

giữa tăng trưởng và năng lượng sử dụng của cá;

(iv) Xác định nhu cầu protein và năng lượng tối ưu trong khẩu phần ăn của cá ở các kích cỡ khác nhau. Tất cả các yếu tố này kết hợp lại với nhau và được xử lý dựa trên phần mềm Excel nhằm cung cấp một mô hình tương tác đa nhân tố có thể kiểm tra các giả thuyết đặt ra.

Mô hình tăng trưởng đa nhân tố có thể tóm tắt như sau:

30

Số liệu thu từ ao nuôi Xác định tốc độ tăng trọng (g/ngày)

Đáp ứng nhiệt độ Tốc độ tăng trọng và nhiệt độ

Tốc độ tăng trọng, nhiệt độ và khối lượng Tăng trưởng (g/ngày) = A x khối lượng tươiB A: ảnh hưởng do đáp ứng nhiệt độ (A) B: ảnh hưởng kích cỡ (số mũ/phương trình B)

Mô hình tăng trưởng kết hợp đa nhân tố (Nhân tố 1) Nhu cầu năng lượng (Nhân tố 2.1)

Nhu cầu năng lượng tích lũy Nhu cầu năng lượng trao đổi

Ảnh hưởng của khối lượng lên thành phần hóa học của cá Ảnh hưởng của khối lượng lên năng lượng (Nhân tố 2.1a) Ảnh hưởng của khối lượng lên protein (Nhân tố 2.1b)

Năng lượng tiêu hao do trao đổi Protein tiêu hao do bỏ đói Đáp ứng với nhiệt độ Nhiệt độ và năng lượng tiêu hao do nhiệt độ

Nhu cầu trao đổi chất (KJ/d) = A x khối lượngB

Mô hình trao đổi chất (Nhân tố 2.2) A: ảnh hưởng của nhiệt độ B: kích cỡ (số mũ B, thường là 0,8)

Nhân tố 2.2a: nhu cầu trao đổi năng lượng Nhân tố 2.2b: nhu cầu trao đổi protein

Hiệu quả sử dụng protein Nhân tố 3.2 Hiệu quả sử dụng năng lượng Nhân tố 3.1

31

Kết hợp nhu cầu năng lượng Nhân tố 1 + 2.1a + 2.2a + 3.1

Xác định lượng thức ăn

Xác định nhu cầu chất protein Nhân tố: 1 + 2.1b + 2.2b + 3.2

Tối ưu hóa: protein tiêu hóa

Tối ưu hóa: thành phần thức ăn

Hình 2.3: Sơ đồ tóm tắt quy trình ứng dụng mô hình tăng trưởng đa nhân tố xác định thành phần thức ăn của cá.

(Nguồn: Glencross et al., 2002, 2007).

2.8.2 Cách xác định một số nhân tố trong mô hình năng lượng sinh học

2.8.2.1 Tốc độ tăng trọng của cá

Tốc độ tăng trọng của cá thường được xác định bằng thu mẫu tăng trưởng ở ao nuôi thương phẩm (Glencross et al., 2010; Trần Thị Bé, 2016; Tien et al., 2016) trong suốt chu kỳ nuôi.

Hình 2.4: Tương quan giữa tốc độ tăng trường và khối lượng cá

32

Mối tương quan giữa khối lượng cá và tăng trưởng tuyệt đối của cá được thể hiện qua phương trình y = axb, trong đó y là DWG (g/ngày), x là khối lượng trung bình của cá, x = (khối lượng đầu * khối lượng sau)^0,5. Phương trình này sẽ được sử dụng để xác định tăng trưởng của cá ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

2.8.2.2 Nhu cầu trao đổi chất cơ sở

Cá sử dụng năng lượng cho các hoạt động của cơ thể như tuần hoàn máu, sự lưu thông khí trong quá trình hô hấp, tính nội cân bằng, việc thay thế các tế bào, vận chuyển các ion được gọi là các trao đổi chất cơ sở. Đối với động vật thủy sản, có hai cách để xác định trao đổi chất cơ sở là đo lượng oxy tiêu thụ hoặc năng lượng cơ thể cá tiêu hao trong suốt quá trình bỏ đói (Smith, 1976). Trao đổi chất cơ sở (kcal/cá thể/ngày) tăng cùng với khối lượng của cơ thể, qua quá trình bỏ đói, mối tương quan giữa khối lượng cơ thể và nhu cầu trao đổi chất được thể hiện bằng phương trình y = aWb, trong đó y là nhu cầu trao đối chất cơ sở, W: khối lượng cơ thể, a: hệ số phương trình và b là số mũ trao đổi chất của loài. Tổng hợp số liệu từ nhiều nghiên cứu cho thấy số mũ b trao đổi chất của hầu hết các loài cá là 0,8 (NRC, 2011). Nhiệt độ môi trường nước cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động trao đổi chất cơ sở của cá, tôm. Tùy vào mỗi loài, trong một khoảng nhiệt độ thích hợp, khi nhiệt độ tăng lên thì trao đổi chất cơ sở cũng tăng và có dạng đường cong, ngược lại trao đổi chất cơ sở của loài cũng giảm khi nhiệt độ giảm. Tuy nhiên, từ sự phân tích số liệu tổng quan từ 69 loài cá xương ở khu vực nhiệt đới Clarke and Johnson (1999) có nhận định đối với loài ở khu vực nhiệt đới thì nhiệt độ ảnh hưởng không rõ ràng đến trao đổi chất cơ sở của cá. Dựa trên kết quả tổng quan này, trong nghiên cứu xác định trao đổi chất cơ sở của cá lóc không sử dụng yếu tố nhiệt độ trong mô hình.

Một số nghiên cứu dựa trên năng lượng tiêu hao trong quá trình bỏ đói đã xác định được nhu cầu trao đổi chất của loài như Lupatsch et al., (2003) xác định năng lượng tiêu hao của tráp là 42 KJ/khối lượng cá (kg)0,82; cá vược Châu Âu là 35 KJ/khối lượng cá (kg)0,80; cá mú trắng là 25 KJ/khối lượng cá (kg) 0,79. Glencross (2008) xác định năng lượng tiêu hao của cá chẽm là 43 KJ/khối lượng cá (kg)0,80. Cá bớp có năng lượng tiêu hao là 4,9 KJ/khối lượng cá (g)0,82 và protein tiêu hao là 0,24 g/khối lượng cá (g)0,7 (Tien et al., 2016)

2.8.2.2 Nhu cầu protein, năng lượng duy trì

Xác định nhu cầu duy trì của cá bằng cách bố trí thí nghiệm cho cá ăn ở với các mức khác nhau và sử dụng kết quả hồi quy của năng lượng tăng trưởng

33

để tính năng lượng duy trì ở mức năng lượng tăng trưởng của cơ thể bằng 0. Nhu cầu duy trì của cùng một loài cá cũng có sự khác nhau giữa các nghiên cứu, nó phụ thuộc vào phương pháp xác định, thang đo các yếu tố tính toán trao đổi chất cơ sở, mô hình hồi quy, thành phần thức ăn sử dụng (NRC, 2011). Nhu cầu duy trì của cá được xác định ở Hình 2.4.

Duy trì

y = ax + b

) y à g n / ) g k ( á c g n ợ ư

g n ở ư r t g n ă t g n ợ ư

l g n ă N

Năng lượng tiêu hóa ăn vào KJ/khối lượng cá (kg)/ngày)

l i ố h k / J k (

Trao đổi chất cơ sở

Nhu cầu năng lượng duy trì của cá đù ở 20oC là 42,2 và ở 26oC là 49,6 KJ/khối lượng cá (kg)0,80/ngày (Igor, 2009). Cá chẽm có nhu cầu năng lượng duy trì là 42,6 KJ/khối lượng cá (kg)0,80/ngày (Glencross, 2008). Cá rô phi có nhu cầu năng lượng duy trì là 29,9 KJ/khối lượng cá (kg)0,85/ngày và nhu cầu protein duy trì là 0,45 g/ khối lượng cá (kg)0,85/ngày (Trung et al., 2011).

Hình 2.5: Nhu cầu duy trì và trao đổi chất cơ sở của cá (NRC, 2011)

2.8.2.3. Hiệu quả sử dụng protein, năng lượng

Từ phương trình y = ax + b của Hình 2.4, hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa hoặc protein tiêu hóa được xác định bằng hệ số “a”, hệ số a thay đổi tùy theo loài. Như vậy, năng lượng tiêu hóa (protein tiêu hóa) cần cung cấp để cá tăng trưởng (tích lũy) được 1 đơn vị cơ thể = (1/a) x năng lượng tiêu hóa (protein tiêu hóa). Cá cam có hiệu quả sử dụng năng lượng là 65% (Mark et al., 2010). Cá rô phi có hiệu quả sử dụng năng lượng là 44% và hiệu quả sử dụng protein là 51,7% (Trung et al., 2011). Trên cá bớp có hiệu quả sử dụng năng lượng là 65,1% và hiệu quả sử dụng protein là 45,6% (Tien et al., 2016). Hiệu quả sử dụng năng lượng là 46% và hiệu quả sử dụng protein là 44% đã được nghiên cứu trên cá kèo (Trần Thị Bé, 2016)

34

2.8.3 Ứng dụng của mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu dinh dưỡng

Đã có nhiều nghiên cứu sử dụng mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá tương đối chính xác. Ưu điểm của phương pháp này là có thể tối ưu hóa thức ăn cho đối tượng nuôi ở bất kỳ giai đoạn nuôi trong chu kỳ nuôi thương phẩm, giúp tiết kiệm được thời gian và chi phí cho việc thực hiện nhiều nghiên cứu để xác định nhu cầu dinh dưỡng của loài. Tuy nhiên, khi sử dụng mô hình này cần phải bố trí các yếu tố của mô hình yêu cầu một cách chặt chẽ, xác định chính xác lượng thức ăn ăn vào, độ tiêu hóa của thức ăn, thành phần hóa học của cơ thể cá và nhiệt độ nước ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi của cá (Cacho, 1990). Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nhu cầu về năng lượng, protein và khẩu phần ăn của cá được xác định dựa trên mô hình hóa được trình bày cụ thể ở Bảng 2.4.

35

Bảng 2.4: Nhu cầu về năng lượng, protein và khẩu phần ăn của một số loài cá được xác định trên mô hình năng lượng sinh học

Loài Nguồn trích dẫn

Lupatsch et al. (2001a)

Cá vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax)

Lupatsch and Kissil (2005)

Cá mú trắng (Epinephelus aeneus)

Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg) FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg) FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg)

Glencross et al. (2010)

Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

Trung et al. (2011)

Cá rô phi (O. niloticus) Nhu cầu protein và năng lượng theo giai đoạn 300 1,57 333-395 14-16 2,41-2,03 1,54-1,30 20,8-20,8 250 2,77 350-550 14-18 2,90-1,84 1,03-0,66 24,0-24,0 100 4,50 262-367 10-14 8,05-5,75 1,75-1,25 26,2-26,2 100 2,27 263-368 10-14 150 1,04 358-425 14-16 1,45-1,22 1,39-1,17 22,4-22,4 50 1,13 350-550 14-18 1,14-0,73 1,01-0,65 27,8-27,8 50 3,30 282-395 10-14 5,43-3,88 1,61-1,15 28,2-28,2 50 1,66 280-392 10-14 50 0,55 403-478 14-16 0,65-0,55 1,19-1,01 25,2-25,2 5 0,31 350-550 14-18 0,31-0,19 1,00-0,61 33,0-33,0 10 1,60 334-468 10-14 2,20-1,57 1,35-0,96 33,4-33,4 10 0,79 327-458 10-14 FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg) 750 5,12 350-550 14-18 5,46-3,49 1,06-0,68 21,5-21,5 500 9,29 219-306 10-14 20,4-14,6 2,15-1,54 21,9-21,9 500 4,75 22-317 10-14 1000 12,69 202-283 10-14 30,8-22,0 2,38-1,70 20,2-20,2 1000 6,53 214-299 10-14

36

Loài Nguồn trích dẫn

Tien et al. (2016)

1,95-1,39 1,18-0,84 28,0-28,0 500 5,62 294-489 12-20 Cá bớp (Rachycentron canadum)

Trần Thị Bé (2016)

Cá kèo (Pseudapocryptes elongatus)

FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg) FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Khối lượng (g) Tăng trưởng (g/cá/ngày) DP trong thức ăn (g/kg) DE trong thức ăn (MJ/kg) FI (g/cá/ngày) FCR DP/DE Nhu cầu protein và năng lượng theo giai đoạn 2,9-2,08 1,28-0,92 26,3-26,3 1000 8,37 262-437 12-20 9,13-5,48 15,55-9,33 1,86-1,11 1,62-0,97 22-22 24-24 15 10 0,23 0,20 270-310 280-320 12-14 12-14 0,29-0,25 0,25-0,21 1,34-1,14 1,26-1,04 22,3-22,3 22,9-22,9 0,70-0,55 0,98-0,70 32,7-32,7 100 2,23 383-511 12-20 2,66-1,6 1,19-0,72 32-32 5 0,15 290-340 12-14 0,19-0,16 1,14-0,98 24,2-22,9 7,54-5,38 1,59-1,13 22,7-22,7 2000 12,47 234-391 12-20 26,46-15,88 2,12-1,27 30-30 20 0,25 260-310 12-14 0,33-0,29 1,39-1,20 21,9-21,9 11,4-8,17 1,75-1,25 21,4-21,4

37

2.9 Một số nguồn nguyên liệu phổ biến sử dụng trong chế biến thức ăn cá

2.9.1 Nguồn nguyên liệu protein

2.9.1.1 Bột cá

Bột cá được xem như là thành phần then chốt, rất quan trọng để làm thức ăn đối với nhiều loài vật nuôi thủy sản. Bột cá cũng có nhiều tính ưu việt như cân đối hàm lượng protein chất lượng cao trong thức ăn, giúp vật nuôi tăng trưởng nhanh, hệ số chuyển đổi thức ăn thấp (Nguyễn Văn Nguyện và ctv., 2006). Bột cá có hàm lượng protein cao, trung bình từ 45-60%, có loại hơn 70% và chủ yếu được làm từ cá biển. Bột cá chứa đầy đủ các acid amin cần thiết cho động vật thủy sản (EAAI > 0,92). Trong thành phần lipid của bột cá còn có nhiều acid béo cao phân tử không no (HUFA). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cho thấy trong bột cá có chứa chất kích thích sinh trưởng, bột cá thường được bổ sung vào thức ăn của động vật để làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng trưởng thông qua việc làm thức ăn ngon hơn, kích thích vị giác hơn, nó còn giúp tăng cường hấp thu dinh dưỡng, tiêu hóa và hấp thụ (Mile and Chapman, 2006). Bột cá có giá trị cao do chất lượng của protein, các amino acid tạo nên protein cân bằng và phù hợp với dinh dưỡng của động vật của động vật (FAO, 2001; Balios, 2003). Thành phần các acid amin cân bằng của bột cá thúc đẩy vật nuôi tăng trưởng nhanh (Mile and Chapman, 2006). Tính sẵn có của acid amin thiết yếu, phospholipid và các acid béo cao trong bột cá giúp thúc đẩy phát triển và sinh sản tối ưu. Ngoài ra, bột cá có giá trị sinh học cao vì nó có hàm lượng acid amin tiêu hóa cao, chẳng hạn như lysine, methionine, leucine, các acid amin này thường thiếu trong thức ăn thực vật, đây là cơ sở hầu hết cho các loại thức ăn (Hall, 1992, FAO, 2001; Balios, 2003). Hơn nữa bột cá có hàm lượng chất xơ thấp và nguồn có giá trị cao các vitamin A, D, B1, B2, B6 và B12 ngoài canxi, photpho, magie, kali và các khoáng chất bao gồm kẽm, iod, sắt đồng, mangan, coban, selen, flo (FAO, 2001; Hall, 1992). Việc thiếu các chất ức chế dinh dưỡng trong bột cá cũng làm cho thức ăn hấp dẫn hơn việc dùng các protein thực vật trong thức ăn nuôi thủy sản. Thức ăn dùng trong nuôi thủy sản thường có một tỉ lệ phần trăm bột cá cao hơn thức ăn cho các loài động vật khác. Mức sử dụng bột cá trong xây dựng công thức thức ăn thùy thuộc vào loài (Ayoola, 2010). Bột cá có độ tiêu hóa cao từ 85–95% nên trong thức ăn sử dụng nuôi động vật thủy sản thường có một tỷ lệ phần trăm bột cá cao hơn thức ăn cho các loài động vật khác (Lê Thanh Hùng, 2008). Mức sử dụng bột cá trong xây dựng công thức thức ăn tùy thuộc vào loài cá ăn thịt hoặc ăn tạp. Ngoài ra còn tùy theo giai đoạn phát triển mà tỷ lệ sử dụng bột cá trong công thức thức ăn khác nhau. Thức ăn các loài cá biển thường có tỷ lệ bột cá rất cao so với cá nước

38

ngọt, đặc biệt là cá ăn động vật (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

Tuy nhiên một vấn đề gặp phải ở bột cá trong chế biến thức ăn là: trong một số bột cá có thể chứa chất kháng vitamin B1 (Thiaminase), giá thành cao và nguồn nguyên liệu rất biến động. Bột cá được chia làm hai loại: bột cá nhạt (độ mặn dưới 5%, protein > 50%) và bột cá mặn. Trong chế biến thức ăn cho động vật thủy sản chỉ sử dụng bột cá nhạt. Bột cá thường được làm từ cá trích, cá mòi và cá cơm. Chất lượng bột cá phụ thuộc vào loài, độ tươi của nguyên liệu tươi, phương thức chế biến và bảo quản (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

Tỷ lệ bột cá sử dụng (%) Tỷ lệ protein thực vật (%) 15-25 10-15 10-15 25-40 25-40 25-55 40-50 40-50 5-10 3-5 Bảng 2.5: Tỷ lệ bột cá sử dụng trong thức ăn thủy sản Giống loài thủy sản Tôm biển Cá biển ăn động vật Cá nước ngọt + Ăn động vật + Ăn tạp (cá rô phi) + Ăn tạp (cá da trơn Mỹ) Nguồn: Lê Thanh Hùng (2008).

Bảng 2.6: Thành phần hóa học của một số lọai bột cá thành phẩm (% khối lượng)

Nguyên liệu Độ ẩm (%) Protein thô (%) Lipit thô (%) Tro thô (%) Xơ thô (%)

8,01 9,42 10,10 8,65 9,17 8,88 9,64 10,11 9,08 7,58 7,22 65,26 60,40 55,67 55,13 60,44 55,56 55,30 60,03 65,04 61,06 65,94 6,19 6,94 7,89 7,37 6,42 6,80 7,13 6,97 6,10 4,98 4,92 19,08 20,50 24,23 22,72 21,20 23,35 24,16 20,72 18,25 19,97 18,96 1,01 1,89 1,88 2,33 1,54 1,80 0,83 1,15 1,50 1,47 1,48 Bột cá Kiên Giang 65% protein Bột cá Kiên Giang 60% protein Bột cá Kiên Giang 55% protein Bột cá Vũng Tàu 55% protein Bột cá Kisimex 60% protein Bột cá Kisimex 55% protein BC Nam Hương Chang 55% protein BC Nam Hương Chang 60% protein BC Phan Thiết 65% protein Bột cá Malaysia 60% protein Bột cá Peru 65% protein (Nguyễn Văn Nguyện và ctv., 2006).

2.9.1.2 Bột thịt xương

Trong thực tế có nhiều nguồn phụ phẩm trong chế biến động vật được sử dụng thay thế bột cá làm thức ăn cho động vật thủy sản như: bột thịt, bột thịt xương, bột gia cầm, bột huyết … nhằm giảm chi phí thức ăn cho thủy sản. Hầu hết các nguồn protein này có thành phần acid amin giống bột cá hơn nhóm protein thực vật. Ngoài ra còn chứa khoáng thiết yếu, photpholipid, cholesterol. Tuy nhiên chất lượng các nguồn này rất biến động.

39

Bột thịt xương thường được chế biến từ sản phẩm của lò mổ, bao gồm tất cả những phần không dùng làm thức ăn cho người như: ruột già, gân, móng, thức ăn trong dạ dày, gân, móng và lông. Tương tự như bột cá, bột thịt xương rất giàu protein và acid amin. Đặc điểm này làm cho bột thịt xương đặc biệt có giá trị cho những loại thức ăn cho tôm cá với hàm lượng protein tương đối cao. Mặc dù bột thịt xương có hàm lượng acid amin thấp hơn so với bột cá, nhưng nếu bổ sung acid amin tổng hợp hoặc protein động vật có hàm lượng protein cao như bột huyết... làm cho bột thịt rất hấp dẫn đối với thức ăn cho tôm cá. Hàm lượng chất dinh dưỡng thay đổi tùy theo nguồn nguyên liệu, đặc biệt hàm lượng methionine và isoleucine rất thấp khi so sánh với acid amin thiết yếu của bột cá hay các nguồn nguyên liệu cung cấp protein khác (Lê Thanh Hùng, 2008; Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Hàm lượng protein của bột thịt xương dao động 45,5-62,4%, lipid từ 8,3-12,8%, hàm lượng tro từ 21,8- 37,2% và xơ từ 2,1-3,4% (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000). Độ tiêu hóa protein, lipid, năng lượng của bột thịt xương thay đổi theo giống loài cá và thấp hơn so với độ tiêu hóa của bột cá và các nguồn nguyên liệu cung cấp protein khác (Lê Thanh Hùng, 2008). Mức độ thay thế bột thịt xương cho bột cá thay đổi tùy theo loài và nguồn bột thịt xương. Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn giống thể thay thế 67% protein từ bột cá bằng protein từ bột thịt xương mà không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá (Kader et al., 2011). Nghiên cứu ở cá vàng (Carassius auratus) chỉ có thể thay thế 20% bột cá bằng bột thịt xương cho tăng trưởng tốt nhất (Yang et al., 2006) hay ở cá rô phi là 25% (Lê Thanh Hùng, 2008). Độ tiêu hóa bột thịt xương trên cá lóc (Ophiocephalus argus) là 61,9% (Yu et al., 2013), cá kèo là 65,3% (Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2014).

2.9.1.3 Bột huyết

Bột huyết là sản phẩm của lò mổ gia súc. Chất lượng bột huyết, đặc biệt là độ tiêu hóa phụ thuộc vào công nghệ chế biến. Bột huyết có hàm lượng protein rất cao 72,3-96,6% trong khi hàm lượng lipid và khoáng thấp Bột huyết rất giàu lysine (9-11%), tuy nhiên thiếu isoleusine và methionine. Khả năng tiêu hóa proteinbột huyết của động vật thuỷ sản thấp từ 29,4-87%. Protein và acid amin trong bột huyết dễ bị phân hủy trong quá trình chế biến. Bột huyết rất dễ bị hư trong quá trình tồn trữ (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).

Hàm lượng bột huyết được đề nghị sử dụng trong thức ăn cho tôm không quá 10%. Một số nghiên cứu cho thấy sử dụng bột huyết 10-15% cho kết quả tốt hơn bột cá (Lê Thanh Hùng, 2008). Hàm lượng bột huyết đề nghị cho cá tra không quá 7% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

40

2.9.1.4 Đậu nành ly trích dầu

Đậu nành ly trích dầu là phụ phẩm sau khi ép dầu từ hạt đậu nành. Hiện nay đậu nành ly trích dầu là nguồn protein quan trọng nhất trong sản xuất thức ăn thủy sản, có thể thay thế một phần bột cá. Đậu nành ly trích dầu được xem là nguồn protein thực vật thay thế cho bột cá tốt nhất trong thức ăn cho động vật thuỷ sản. Đậu nành ly trích dầu được sử dụng làm thức ăn cho động vật hiện nay chủ yếu là đậu nành ly trích dầu ly trích dầu có hàm lượng protein khoảng 47-50%, lipid không quá 2% (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

Protein đậu nành ly trích dầu là một trong những protein có hàm lượng acid amin tốt nhất trong tất cả các nguồn nguyên liệu thực vật giàu protein để đáp ứng nhu cầu acid amin thiết yếu của cá. Tuy nhiên, hàm lượng các acid amin nhóm sulfur (methionine + cystine) trong đậu nành ly trích dầu thường bị giới hạn cho hầu hết các loài cá (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Hạn chế của đậu nành ly trích dầu là đậu nành ly trích dầu chứa nhiều loại độc tố đặc biệt là chất ức chế enzyme tiêu hóa protein: anti – trypsine, chất này ức chế hoạt động của enzime tiêu hóa protein là trypsin và chymontrypsine. (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Năng lượng tiêu hóa của đậu nành ly trích dầu cho hầu hết các loài cá từ 2.572-3.340 kcal/kg (10,8-14,0 MJ/kg). Độ tiêu hóa protein trung bình của đậu nành ly trích dầu ở các loài tôm (91,1%), cao hơn độ tiêu hóa trung bình của cá (84,9%). Độ tiêu hóa chất béo trong đậu nành ly trích dầu của các loài cá (88,6%) cao hơn độ tiêu hóa của tôm (70,4%) (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). đậu nành ly trích dầuđậu nành ly trích dầu

Đối với một loài ăn thiên về thực vật như cá rô phi giống có thể sử dụng thức ăn tốt và đạt tăng trưởng cao khi thức ăn có 47% protein bột cá được thay thế bởi protein đậu nành ly trích dầu (Ai-Ogaily, 2002). Trong một nghiên cứu khác, thức ăn chứa 30% protein trong đó 25% protein đậu nành ly trích dầu thay thế cho bột cá đã làm tăng tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá rô phi giống (Ashraf, 2007). Nghiên cứu của Lin and Luo (2011) cho thấy có thể thay thế 75% protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu mà không ảnh hưởng đến sinh trưởng đối với con lai của hai loài cá rô phi lai Oreochromis niloticus x Oreochromis aureus ở giai đoạn giống. Trên cá trôi Ấn Độ (Labeo rohita) giống có tốc độ tăng trưởng đặc biệt, hiệu quả sử dụng protein tốt khi thức ăn chủ yếu là protein đậu nành ly trích dầu có bổ sung methionine và lysine (Sardar et al., 2008). Nghiên cứu của Mukhopadhyay and Ray (2001) trên cá trôi Ấn Độ giống (Labeo rohita) (1,5 g) cũng cho kết quả tương tự.

41

Nghiên cứu thay thế các mức 0%, 50% và 100% protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu và bổ sung 0,5% methionine và lysine trên thức ăn (chứa 35% protein thô) sử dụng cho cá da trơn Châu Phi (Heterobranchus longifilis) cho thấy hệ số sử dụng thức ăn và hiệu quả sử dụng protein của cá giảm khi mức protein trong đậu nành ly trích dầu tăng lên (Atsé, 2008). Ai and Xie (2007) thí nghiệm tương tự trên cá da trơn Nam Phi (Silurus meridionalis) cho thấy protein đậu nành ly trích dầu có thể thay thế cho protein bột cá ở mức 39% và khi bổ sung methionine vào thức ăn có thể giúp cá sử dụng đậu nành ly trích dầu tốt hơn, kết quả là tốc độ tăng trưởng của cá được cải thiện và mức thay thế lúc này là 52%. Trên cá tra giống (6-6,2 g/con) sử dụng thức ăn chứa 30% protein và 12% lipid có thể sử dụng 45% protein đậu nành ly trích dầu để thay thế protein bột cá trong thức ăn mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá (Phumee et al., 2008). Khả năng chấp nhận protein đậu nành ly trích dầu của cá hồi vân (Onchorhyunchus mykiss) có khối lượng 34 g sau 7 ngày cho ăn ở mức 40% đậu nành ly trích dầu trong thức ăn và càng về sau thì tăng trưởng của cá khác biệt không có ý nghĩa so với cá ăn hoàn toàn thức ăn làm từ protein bột cá ngay cả khi mức protein đậu nành ly trích dầu tăng lên 60% (Refstie et al.,1997). Tăng trưởng của cá hồi vân giảm khi thay thế hoàn toàn protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu, tuy nhiên khi có bổ sung dầu cá và axít amin thiết yếu, có thể thay thế 75% protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).

Trên một số loài cá ăn động vật như trên cá lóc (Channa striata) ở giai đoạn giống (4-5 g) với thức ăn có hàm lượng protein 45%, cá có thể tăng trưởng tốt nhất khi thay thế 30% protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu trong thức ăn, tuy nhiên khi có bổ sung phytase vào thức ăn thì protein đậu nành ly trích dầu có thể thay thế đến 40% bột cá (Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2010). Thí nghiệm trên cá thát lát còm (Chitala chitala) giai đoạn giống (6,4 g/con) khi sử dụng thức ăn có cùng hàm lượng protein (42,5%) và năng lượng (18,5 KJ/g) có thể sử dụng 30% protein đậu nành ly trích dầu thay thế protein bột cá trong thức ăn mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá (Nguyễn Thị Linh Đan và ctv., 2013). Đối với cá lóc bông (Channa micropeltes, Cuvier, 1831) giai đoạn giống (trung bình 4,34 g) có thể sử dụng tốt thức ăn ở mức thay thế 40% protein bột cá bằng protein bánh dầu nành, đảm bảo tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2010).

Trong thức ăn của cá nếu được bổ sung thêm acid amin thiết yếu sẽ làm gia tăng mức độ thay thế của protein đậu nành ly trích dầu. Ví dụ, đối với cá hồi Đại tây dương (Salmon salar) khi bổ sung dầu cá và acid amin thiết yếu có thể

42

thay thế 75% protein bột cá (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000). Tuy nhiên, đa số các tác giả đều cho rằng hiệu quả sử dụng protein của cá giảm khi hàm lượng protein của đậu nành ly trích dầu trong thức ăn của cá tăng lên (Atsé, 2008; Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000). Việc bổ sung thêm dầu, lysine, methionine và vitamin vào thức ăn của cá rô phi làm tăng khả năng sử dụng protein đậu nành ly trích dầu của cá nhưng khi thay thế hoàn toàn protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu thì tăng trưởng của cá giảm đáng kể và hiệu quả sử dụng thức ăn thấp (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).

2.9.2 Nguồn nguyên liệu carbohydrate

2.9.2.1 Cám gạo

Cám gạo là nguyên liệu được sử dụng phổ biến nhất để làm thức ăn tự chế trong nuôi trồng thuỷ sản. Hàm lượng protein trong một số loại cám dao động trong khoảng từ 8,34- 16,3% tùy theo loại cám: cám gạo chưa li trích (cám tươi), cá lau, cám ly trích dầu, trong đó cám li trích dầu có hàm lượng protein cao nhất (16,3%). Một trở ngại khác thường gặp khi sử dụng cám là do cám có hàm lượng chất béo cao, dễ hút ẩm và dễ bị oxy hóa, trở nên đắng, nếu sử dụng cám bị oxy hóa làm thức ăn cho cá sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, sự sinh trưởng và chất lượng của cá nuôi. Để tăng thời gian lưu giữ chất béo trong cám được ly trích dầu nên mức lipid thấp nhất (2,76%) (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2006).

Cám gạo là nguồn cung cấp năng lượng rẻ tiền, tuy nhiên cám gạo có hàm lượng chất xơ khá cao và biến động theo từng loại cám. Độ tiêu hóa cám gạo đã được nghiên cứu bởi Hertrampf and Piedad-Pascual (2000), độ tiêu hóa cám gạo của cá chốt (Mystus nemurus) là 85,5%; cá mè vinh (Puntius gonionotus) có độ tiêu hóa protein 94,6%. (Mohanta et al., 2006), cá trê trắng (Clarias batratus) có độ tiêu hóa nguyên liệu là 61,9% và cá trê phi (C. gariepinus) là 66,5% (Usmani et al., 2003); cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idiella) khả năng tiêu hóa cám gạo cũng rất thấp, nhỏ hơn 50% (Law, 1986); cá chép có khả năng tiêu hóa protein của cám gạo là 89,5% và cá nheo Mỹ là 71% (Hepher, 1988). Hàm lượng cám gạo sử dụng 60% trong công thức thức ăn cho cá tra và cá rô phi mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2006). Trên cá kèo thì độ tiêu protein và lipid của cá đối với cám gạo và cám ly trích lần lượt là 72,1%; 71% và 84,0% và 84,8% (Trần Thị Bé, 2016).

2.9.2.2 Cám mì

Trong nuôi cá nheo Mỹ, cám mì được sử dụng với mức 15-30% trong khẩu phần ăn, các loại thức ăn cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long sử dụng tốt mức cám mì thay thế 40-70% cám, tấm, thức ăn viên được gia tăng độ kết dính và độ nổi, cá vẫn đạt hệ số tiêu tốn thức ăn và chất lượng thương phẩm. Cám mì

43

tiêu chuẩn có thành phần dinh dưỡng trung bình 89% vật chất khô; 16,5% protein thô; 9,75% xơ thô (Lê Thanh Hùng, 2008).

Cá chép, cá nheo Mỹ, thẻ chân trắng có khả năng tiêu hóa protein cám mì lần lượt là 92,0; 82,5 và 85,4% (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000). Cám mì được sử dụng trong thức ăn cá da trơn, cá hồi, cá chép… tại các quốc gia Châu Âu và Mỹ (Lê Thanh Hùng, 2008). Mohanta et al. (2006) cho thấy cá mè vinh (Puntius gonionotus) có độ tiêu hóa các nguồn cám gạo và cám mì rất tốt, độ tiêu hóa protein, lipid và năng lượng của cá đối với cám gạo và cám mì lần lượt là 94,6–88,5; 96,4–90,8 và 90–74,7%.

Hạt mì 87,7 13,5 1,9 2,6 1,8 80,2 Cám mì 88,7 15,6 4,7 12,3 5,6 61,8 Bảng 2.7: Thành phần dinh dưỡng của lúa mì và các phụ phẩm (%) Bột mì Thành phần dinh dưỡng 88,0 Vật chất khô 14,3 Protein thô 1,7 Béo thô 1,1 Muối khoáng 1,0 Xơ thô 81,9 NFE (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000).

2.9.2.3 Khoai mì lát

Khoai mì hiện đang được sử dụng khá phổ biến ở Thái Lan, Việt Nam, Indonesia làm thức ăn chăn nuôi và thủy sản. Khoai mì thường được sử dụng với tỷ lệ 5-20% để cung cấp năng lượng làm chất kết dính. Khoai mì lát là nguồn thức ăn có giá trị năng lượng và tinh bột cao (65% tinh bột) (David Allen, 2015). Cá tra có độ tiêu hoá vật chất khô, protein và năng lượng đối với khoai mì lát lần lượt là 83,2; 35,8 và 84,4% (Hien et al., 2010). Đối với cá chép (Cyprinus carpio) khi bổ sung 45% bột khoai mì lát hoặc cám gạo trong công thức thức ăn giúp cho cá tăng trưởng tốt, hiệu quả sử dụng thức ăn và protein của cá cũng được cải thiện (Ufodike and Maity, 1983). Khoai mì lát có độ tiêu hóa vật chất khô và năng lượng lần lượt là 57,1% và 42,5% thấp hơn so với cám gạo đối với cá kèo (Trần Thị Bé, 2016).

2.9.2.4 Bột cọ

Bột cọ là sản phẩm phụ của dầu hạt cọ chiết xuất từ các hạt của cây cọ. Sản lượng bột cọ ngày càng tăng do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp dầu hạt cọ ở Châu Á và châu Phi. Một vấn đề hạn chế khi sử dụng bột cọ làm thức ăn cho cá đó là bột cọ có hàm lượng protein tương đối thấp, thiếu hụt nhiều acid amin sulfur, lysine. Các nghiên cứu bước đầu về việc sử dụng bột cọ trong công thức thức ăn của cá rô phi và cá da trơn cho thấy cá vẫn tăng trưởng tốt khi có 20% bột cọ trong khẩu phần (Wing-Keong, 2003). Omoregie et al. (1993) cho

44

thấy rằng sự tăng trưởng tốt nhất được ghi nhận khi có 15% bột cọ, 25% bột cá trong thức ăn (28,56% protein thô và 13,49% chất xơ thô) của cá rô phi. Cá tăng trưởng thấp nhất khi sử dụng thức ăn 30% bột cọ/10% bột cá (27,86% prtein thô và 18,99% chất xơ thô), tác giả nhận định chất xơ cao trong bột cọ làm giảm khả năng tiêu hóa của cá.

Qua các tổng quan tài liệu cho thấy ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để ước tính nhu cầu dinh dưỡng là phương pháp nghiên cứu tổng hợp, giúp ước tính nhu cầu dinh dưỡng của động vật thủy sản ở tất cả các giai đoạn nuôi thương phẩm. Các nghiên cứu đặc điểm, nhu cầu dinh dưỡng cũng như sử dụng thức ăn của cá lóc còn hạn chế, chế. Vì vậy, cần có những nghiên cứu về các nội dung này để làm cơ sở phát triển công thức thức ăn nuôi cá lóc thương phẩm.

45

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Cá lóc (Channa striata) giai đoạn bột, giống và các giai đoạn nuôi thương

phẩm

3.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 11 năm 2017 tại Bộ môn Dinh dưỡng và Chế biến thủy sản, khoa thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.

3.3 Phương pháp nghiên cứu

46

Nội dung 4 Nội dung 2 Nội dung 1

Nội dung 3

cứu

Khả năng tiêu hóa của cá lóc đối với một số nguyên liệu phổ biến Ứng dụng mô hình sinh học xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc (protein, năng lượng, acid amin)

Xác định phương thu phân pháp thích hợp đánh giá độ tiêu hóa của cá lóc

Nghiên đặc điểm phát triển của ống tiêu hóa cá lóc giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến.

Khả năng tiêu hóa nguyên liệu protein Khả năng tiêu hóa nguyên liệu carbohydrate Protein và năng lượng tiêu hao của cá lóc Khả năng tiêu hóa thức ăn và các dưỡng chất trong thức ăn Hiệu quả sử dụng năng lượng, protein và acid amin Năng lượng, protein và acid amin duy trì Sinh trưởng và thành phần hóa học của cá lóc nuôi thương phẩm

Nội dung 5: Phát triển công thức thức ăn nuôi cá lóc thương phẩm

Nội dung 6: Nuôi thử nghiệm

Hình 3.1: Sơ đồ nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng và xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc (Channa striata).

47

 Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm

Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm (trừ thí nghiệm nuôi thương phẩm) được chế biến từ nhà máy chế biến thức ăn của Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Quy trình làm thức ăn: Nguyên liệu trước khi sử dụng làm thức ăn được phân tích thành phần hóa học  Xây dựng công thức thức ăn dựa trên phần mềm Solver trong Excel  Cân nguyên liệu  Trộn nguyên liệu khô  Trộn ướt  Ép viên  Sấy khô  Bảo quản trong tủ đông. Thức ăn được ép viên với kích thước mắt lưới là 2 mm, được sấy khô trong tủ sấy ở nhiệt độ 60oC trong 8-12 giờ và sau đó bảo quản ở nhiệt độ -20oC trong suốt thời gian thí nghiệm. Xuất xứ nguyên liệu dùng làm thức ăn được trình bảy ở Bảng 3.1.

Xuất xứ Kiên Giang – Việt Nam Arhentina Ý Brazil Cần Thơ – Việt Nam Cái Lân –Việt Nam Cần Thơ – Việt Nam Gentraco Feed –Việt Nam Dehues Dầu cá biển-Vemedim-Việt Nam Chất kết dính-Việt Nam Vemedim-Việt Nam

48

Bảng 3.1: Nguyên liệu sử dụng làm thức ăn trong các thí nghiệm (trừ thí nghiệm nuôi thử nghiệm) STT Nguyên liệu Bột cá 1 Đậu nành ly trích dầu 2 Bột thịt xương 3 Bột huyết 4 Cám gạo 5 Cám ly trích 6 Cám mì 7 Bột khoai mì lát 8 Bột cọ 9 Dầu cá 10 CMC (Carboxylmethyl Cellulose) 11 Premix vitamin 12 Thành phần Premix vitamin: vitamin A (400.000 IU), vitamin D3 (80.000 IU), vitamin E (12g), vitamin K3 (2,4g), vitamin B1 (1,6g), vitamin B2 (3g), vitamin B6 (1g), niacin (1g), vitamin B9 (0,8g), vitamin B12 (0,004g), acid folic (0,032g), biotin (0,17g), vitamin C (60g), choline (4,8g), inositol (1,5g), ethoxyquin (20,8g), Cu (10g), FeSO4 (20g), Mg (16,6g), Mn (2g), Zn (11g) (IU/kg; g/kg)

3.3.1 Nội dung 1: Nghiên cứu đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến.

Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu sự thay đổi về cấu trúc ống tiêu hóa, enzyme tiêu hóa của cá lóc khi cho ăn thức ăn chế biến (TĂCB), làm cơ sở cho việc khẳng định khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá lóc.

3.3.1.1 Nguồn cá lóc thí nghiệm

Cá lóc giai đoạn bột, 1 ngày tuổi xuất xứ từ trại sản xuất giống thuộc tỉnh

An Giang được sử dụng cho thí nghiệm này.

3.3.1.2 Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm

Thành phần TĂCB trong thí nghiệm được trình bày ở Bảng 3.2. Nguyên liệu được trộn đều và ép qua lưới có đường kính mắt lưới 1,2 mm. Thức ăn sau chế biến được sấy khô trong tủ sấy ở 60oC trong 8-12 giờ và bảo quản ở nhiệt độ -20oC trong suốt thời gian thí nghiệm.

Bảng 3.2: Thành phần nguyên liệu của TĂCB

Thức ăn tươi sống (TĂTS) bao gồm Moina sp., thịt cá tạp biển xay (cá nục và cá bạc má). Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn dùng trong thí nghiệm được trình bày ở Bảng 3.2.

Nguyên liệu Bột cá Kiên Giang (65% CP) Đậu nành ly trích dầu (47% CP) Cám gạo Bột khoai mì lát Premix vitamin Dầu cá Chất kết dính Tỉ lệ (%) 55,3 15 10 12,7 1 2,95 2

Bảng 3.3: Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm

Loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm

Thành phần dinh dưỡng (% vật chất khô)

Ẩm độ của Moina 92,7%; Cá biển xay 76,0%; Thức ăn chế biến 9,41%

49

Protein Lipid Tro Moina sp. 56,4 19,9 11,1 Cá biển xay 81,7 2,68 5,47 Thức ăn chế biến 49 6,81 12,5

3.3.1.3 Bố trí thí nghiệm

a. Thí nghiệm 1: Nghiên cứu đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến

Thí nghiệm gồm hai nghiệm thức với 3 lần lặp lại, cá lóc bột được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong 6 bể composite (1m3/bể) với mật độ ương 2000 con/m3. Thời gian thí nghiệm 35 ngày để theo dõi sự phát triển hình thái, mô học và đặc điểm biến đổi enzyme tiêu hóa. Phương thức tập ăn dựa vào nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc của Trần Thị Thanh Hiền và ctv. (2011b), bố trí 2 nghiệm thức như sau:

- Nghiệm thức TĂTS: khi bắt đầu ăn ngoài cá được cho ăn Moina sp., đến ngày tuổi thứ 10 Moina sp. được thay thế dần bằng cá tạp, với tỉ lệ thay thế tăng dần 20% cá tạp/ngày đến khi cá sử dụng 100% cá tạp (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2011b) (Bảng 3.4).

- Nghiệm thức TĂCB: giai đoạn ban đầu cá được cho ăn như nghiệm thức TĂTS, đến ngày tuổi thứ 17 TĂTS được thay thế dần bằng TĂCB, với tỉ lệ thay thế tăng dần 10% TĂCB/ngày đến khi cá sử dụng 100% TĂCB (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2011b) (Bảng 3.4).

Bảng 3.4: Phương thức cho ăn của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1

Thức ăn của nghiệm thức Ngày tuổi

- <1mg/L.

Cá được cho ăn theo nhu cầu 4 lần/ngày. Thức ăn thừa và phân cá được siphon 1 lần/ngày. Yếu tố môi trường nước bể ương duy trì ổn định trong khoảng tối ưu như pH từ 7,31-7,36 (sáng) và từ 8,35-8,36 (chiều), nhiệt độ dao động 28,1-30,6oC, TAN vào NO2

50

0 - 3 3 - 9 10 11 … 14 15-16 17 18 … 26 27 - 35 TĂTS Noãn hoàng Moina 20% Moina + 80% TĂTS 40% Moina + 60% TĂTS … 100% TĂTS 100% TĂTS 100% TĂTS 100% TĂTS 100% TĂTS 100% TĂTS 100% TĂTS TĂCB Noãn hoàng Moina 20% Moina + 80% TĂTS 40% Moina + 60% TĂTS … 100% TĂTS 100% TĂTS 10% TĂCB + 90% TĂTS 20% TĂCB + 80% TĂTS ….. 100% TĂCB 100% TĂCB

b. Phương pháp thu mẫu

Mẫu cá lóc được thu ngẫu nhiên vào buổi sáng trước khi cho cá ăn và nhịp thu mẫu vào các ngày tuổi thứ 1; 3; 5; 7; 9; 12; 15; 18; 21; 25; 30 và 35 sau khi nở.

 Thu mẫu phân tích hình thái

Chiều dài tổng (TL): Giai đoạn cá 1-9 ngày tuổi chiều dài tổng được quan sát và đo trên kính hiển vi soi nổi; từ 12 ngày trở đi đo trực tiếp bằng thước đo (độ lệch 1mm).

Chiều dài ruột (LG): Giai đoạn cá từ 5-25 ngày tuổi, tiến hành mổ cá lấy ống tiêu hóa, dùng kim mũi giáo để kéo thẳng ruột, chiều dài ruột được đo trực tiếp trên kính hiển vi soi nổi; ngày 30 và 35, đo bằng thước đo (độ lệch 1mm).

Chiều dài hàm trên (AB): Được đo bằng khoảng cách giữa điểm mút xương trước hàm (A) và điểm cuối của xương hàm trước (B). Tất cả mẫu cá từ 1-35 ngày tuổi đều được đo trên kính hiển vi soi nổi để xác định chiều dài hàm trên.

Tỉ lệ giữa chiều dài ruột và chiều dài thân (RLG) được tính theo công thức

(Al-Hussainy, 1949): RGL = LG/TL

Kích cỡ miệng được xác định theo công thức (Shirota,1970): M = AB√𝟐

Xác định khối lượng cá: ở giai đoạn 1-18 ngày tuổi, cân 0,15-0,25 g mẫu, sau đó đếm số lượng con để xác định trọng lượng trung bình của mỗi cá thể. Từ 21 ngày trở đi, cân xác định khối lượng từng cá thể. Số lượng mẫu thu mỗi đợt là 5 cá thể/bể. Mẫu được thu ngẫu nhiên, sau khi cân, đo sẽ lấy số liệu trung bình.

 Thu mẫu phân tích mô học và phân tích enzyme

Từ 1-15 ngày tuổi mẫu được thu nguyên con. Từ ngày thứ 18 trở đi, mẫu ống tiêu hóa được chia thành 2 phần riêng biệt là dạ dày và ruột để phân tích enzyme và so sánh sự khác nhau giữa hai nghiệm thức.

Thu mẫu mô học, mẫu cá sau khi thu được cố định trong dung dịch formol trung tính 10% và dung dịch Bouin’s. Đối với mẫu cá cố định trong dung dịch Bouin’s sau 24 giờ cần được rửa lại bằng cồn 70% cho đến khi dung dịch màu vàng chuyển hoàn toàn thành trong suốt. Tiêu bản mô học ống tiêu hóa được thực hiện theo phương pháp cắt mẫu đúc vùi trong paraffin và nhuộm với Haematoxyline và Eosin (H&E) và được quan sát tiêu bản dưới kính hiển vi quang học từ độ phóng đại nhỏ đến độ phóng đại lớn. Chụp hình để lưu lại kết quả.

51

Thu mẫu enzyme, mẫu sau khi thu được rửa sạch bằng nước cất, cho vào ống eppendorf và bảo quản ở -80°C. Khối lượng mẫu cho vào mỗi ống eppendorf là 0,2 g. Khi phân tích, mẫu được rã đông trong nước đá và nghiền trong dung dịch đệm pH 6,9. Sau đó ly tâm với tốc độ 4.200 vòng ở 4°C trong 30 phút, rút phần dịch trong phía trên trữ trong eppendorf ở -80°C cho đến khi phân tích hoạt tính enzyme. Phương pháp phân tích như sau (i) Phân tích Pepsin theo phương pháp của Worthington (1982); (ii) Phân tích Trypsin theo phương pháp của Tseng et al. (1982); Phân tích Chymotrypsin theo phương pháp của Worthington (1982); (iii) Phân tích Amylase theo phương pháp của Bernfeld (1951); (iv) Phân tích Protein theo phương pháp Bradford (1976).

3.3.2 Nội dung 2: Xác định phương pháp thu phân thích hợp đánh giá độ tiêu hóa của cá lóc

Mục tiêu nghiên cứu: xác định được phương pháp thu phân tích hợp đối với cá lóc, làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về xác định độ tiêu hóa của thức ăn, nguyên liệu chế biến thức ăn cho cá lóc.

3.3.2.1 Nguồn cá lóc thí nghiệm

Cá lóc có khối lượng trung bình 120 g/con, chọn cá lóc đồng đều kích cỡ, khỏe và được nuôi dưỡng trong bể composite 4m3 bằng thức ăn thí nghiệm một tuần trước khi tiến hành thí nghiệm.

3.3.2.2 Thức ăn thí nghiệm và hệ thống bể thí nghiệm

Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm được dựa theo kết quả nghiên cứu của Mohanty and Samantaray (1997) (Bảng 3.5), thức ăn được trộn với 1% chất đánh dấu chromic oxide (Cr2O3).

Thành phần hóa học

% 36,9 Protein 34,3 Lipid 18,9 Tro 2 Xơ 5,9 Năng lượng (KJ/g)

Hệ thống bể thí nghiệm, tất cả các thí nghiệm đều được tiến hành trên hệ thống thu phân lắng (170 L/bể) thiết kế chuyên cho nghiên cứu xác định độ tiêu hóa theo Hien et al. (2010). Nhiệt độ trong các bể sáng chiều dao động từ 28,3- 29,7 oC và pH dao động từ 7,8-7,9.

52

1 1 % 41,7 10,7 14,3 3,27 19,3 Bảng 3.5: Công thức thức ăn và thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm Thành phần nguyên liệu Bột cá (Kiên giang) Đậu nành ly trích dầu (Arhentina) Bột khoai mì lát Premix khoáng vitamin Dầu cá CMC Cr2O3

3.3.2.3 Bố trí thí nghiệm

a. Thí nghiệm 2: Nghiên cứu xác định thời điểm thu phân

Thí nghiệm nhằm tìm ra thời điểm thu phân thích hợp làm cơ sở cho thí

nghiệm xác định phương pháp thu phân thích hợp cho cá lóc (Thí nghiệm 3).

Cá được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với mật độ 15 con/bể, cá được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi ngừng ăn) 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng. Cá được cho ăn 7 ngày để quen dần với thức ăn trước khi tiến hành thu phân. Nhịp thu mẫu phân để xác định lượng phân và xác định độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc liên tục trong 24 giờ sau khi ngừng cho ăn với mỗi 2 giờ (thời điểm thu mẫu sau khi cho cá lóc ngưng ăn: 2; 4; 6; 8;10; 12; 14; 16; 18; 20; 22 và 24) và bắt đầu thu mẫu phân ở ngày nuôi thứ tám. Phân được thu vào các ống falcon nhựa qua van xả dưới bình lắng. Trong suốt thời gian thu phân, các ống falcon nhựa được được giữ lạnh trong hỗn hợp đá muối. Mẫu phân được để lắng và sấy khô ở nhiệt độ 60oC trong 24h, cân khối lượng. Giữ mẫu phân ở -20oC cho đến khi phân tích độ tiêu hóa. Các chỉ tiêu cần xác định: lượng phân thu được và độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc liên tục trong 24 giờ sau khi ngừng cho ăn với mỗi 2 giờ.

b. Thí nghiệm 3: Nghiên cứu xác định phương pháp thu phân thích hợp cho cá lóc

Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức tương ứng với 3 phương pháp thu phân khác nhau: phương pháp thu phân lắng, thu phân vuốt và thu phân mổ, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc được bố trí với mật độ 15 con/bể, được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi ngừng ăn) 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng. Cá được cho ăn 7 ngày để quen dần với thức ăn trước khi tiến hành thu phân. Thời gian thí nghiệm kéo dài 14 ngày.

Căn cứ vào kết quả của thí nghiệm xác định thời điểm thu phân thích hợp ở cá lóc là 8 giờ sau khi cá ăn thì tiến hành thu phân (Bảng 3.6) được mô tả như sau:

 Nghiệm thức 1: thu phân bằng phương pháp lắng được thực hiện từ ngày nuôi thứ 8, sau khi cá ngưng ăn 8 giờ phân và thức ăn thừa được loại bỏ ra khỏi hệ thống lắng sau đó tiến hành thu phân, thực hiện thu phân liên tục trong 7 ngày. Trong suốt thời gian thu phân thì bình lắng phân được giữ mát ở 4oC bằng đá muối (nước đá và muối). Mẫu phân thu được bảo quản và phân tích độ tiêu hóa tương tự thí nghiệm 2 (Hình 3.1).

 Nghiệm thức 2: thu phân bằng phương pháp vuốt được thực hiện từ ngày nuôi thứ 8, sau khi cá ngưng ăn 8 giờ bằng cách vuốt phần bụng cá lóc để ép phân từ đoạn ruột cuối ra ngoài, tổng số cá lóc để vuốt thu phân là

53

15 con/bể. Mẫu phân được sấy khô và giữ ở -20oC cho đến khi phân tích độ tiêu hóa (Hình 3.2).

 Nghiệm thức 3: thu phân bằng phương pháp mổ được thực hiện từ ngày nuôi thứ 8, sau khi cá ngưng ăn 8 giờ bằng cách mổ toàn bộ cá trong bể, cá sau khi mổ được tách riêng ống tiêu hóa, ở đoạn ruột sau được tách ra để thu phân. Mẫu phân được sấy khô và giữ ở -20oC cho đến khi phân tích độ tiêu hóa (Hình 3.3).

Bảng 3.6: Thời điểm thu phân

Nghiệm thức Ghi chú

Phương pháp lắng Thời gian nuôi (ngày) 7 Thời điểm thu phân (ngày nuôi) 8-14

 Các chỉ tiêu phân tích

Thành phần hóa học của thức ăn và mẫu phân cá lóc, Cr2O3, lượng phân

thu được và độ tiêu hóa của thức ăn và dưỡng chất trong thức ăn.

Phương pháp vuốt Phương pháp mổ 7 7 8 8 Thu phân 7 ngày liên tục (cá lóc vẫn cho ăn bình thường). Vuốt để thu phân. Mổ cá để thu phân.

54

Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm thu phân (phương pháp thu phân lắng).

Đoạn ruột cuối thu phân

Hình 3.2: Phương pháp thu phân vuốt.

55

Hình 3.3: Phương pháp thu phân mổ (thu phân đoạn ruột sau).

3.3.3 Nội dung 3: Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu protein, năng lượng và acid amin của cá lóc

3.3.3.1 Khảo sát đặc điểm sinh trưởng và thành phần hóa học cá lóc nuôi thương phẩm

Mục tiêu của khảo sát: Tìm ra mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng, thành phần hóa học và khối lượng cá, từ đó xác định phương trình tương quan để dự đoán tăng trưởng của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

a. Thời gian và địa điểm khảo sát

Chọn 30 ao nuôi cá lóc thâm canh tỉnh An Giang để tiến hành khảo sát

tháng 5 đến 10/2013.

b. Đối tượng nghiên cứu

Cá lóc nuôi thâm canh trong ao đất (diện tích ao từ 800-1000 m2, mật độ thả từ 60-75 con/ m2) sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp, thức ăn công nghiệp được sử dụng có hàm lượng protein công bố trung bình trong khoảng 40% cho suốt chu kỳ nuôi. Thu mẫu khảo sát 6 kích cỡ cá lóc khác nhau tương ứng với 6 thời điểm nuôi (mẫu cá giống, sau 1; 2; 3; 4 và 5 tháng nuôi). Số lượng mẫu thu để phân tích từ 10-20 con/ao/lần.

c. Chỉ tiêu khảo sát và thu mẫu

Thu mẫu chỉ tiêu tăng trưởng cá: Cỡ mẫu được khảo sát 20 con/ao. Mỗi cá

thể cá được cân khối lượng toàn thân.

Thu mẫu phân tích thành phần hóa học cơ thể cá: 500 – 800 g cá/ao/lần. Mẫu cá thu tại ao và được bảo quản bằng cách trữ lạnh trong thùng xốp từ địa điểm thu mẫu về Khoa Thủy Sản, Đại Học Cần Thơ, sau đó bảo quản đông lạnh (-200C)

d. Phương pháp phân tích mẫu

Mẫu cá lóc: phân tích thành phần hóa học của cá lóc ở các kích cỡ khác nhau, bao gồm ẩm độ, protein, lipid, tro và năng lượng theo phương pháp AOAC (2000).

56

3.3.3.2 Thí nghiệm 4: Xác định protein và năng lượng tiêu hao ở cá lóc

Mục tiêu của nghiên cứu: Tìm ra mối tương quan giữa protein tiêu hao, năng lượng tiêu hao và khối lượng cá, từ phương trình tương quan xác định được số mũ trao đổi protein cơ sở, số mũ trao đổi năng lượng cơ sở của cá lóc cho mô hình năng lượng sinh học.

a. Bố trí thí nghiệm

Hệ thống thí nghiệm gồm 15 bể nhựa (1.000 L/bể) và mỗi bể được bố trí 4 sọt nhựa (kích thước 50 cm x 40 cm x 35 cm). Tùy kích cỡ cá, mỗi sọt được ngăn bằng lưới chia ra 2; 3 hoặc 4 gian, mỗi gian thả 1 con cá để tránh hiện tượng ăn nhau trong quá trình thí nghiệm không cho ăn (Hình 3.4). Cá lóc được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, gồm 5 nghiệm thức tương ứng với 5 nhóm kích cỡ cá khác nhau, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần:

 Nghiệm thức 1: nhóm cá 10 g bố trí 16 con/bể, 4 con/sọt;

 Nghiệm thức 2: nhóm cá 50 g bố trí 12 con/bể, 3 con/sọt;

 Nghiệm thức 3: nhóm cá 100 g bố trí 8 con/bể, 2 con/sọt;

 Nghiệm thức 4: nhóm cá 200 g bố trí 8 con/bể, 2 con/sọt;

 Nghiệm thức 5: nhóm cá 500 g bố trí 4 con/bể, 1 con/sọt.

Thời gian thí nghiệm là 28 ngày, cá lóc ở tất cả các nghiệm thức không được cho ăn trong suốt thời gian thí nghiệm. Điều kiện nhiệt độ và pH trong các bể thí nghiệm duy trì lần lượt là 27,5-29,7oC và 7,3-7,5.

57

Hình 3.4: Bố trí thí nghiệm 4

b. Các chỉ tiêu phân tích

Các chỉ tiêu phân tích gồm tỷ lệ sống, khối lượng cá tiêu hao, năng lượng tiêu hao, protein tiêu hao và thành phần hóa học của cá lóc. Khối lượng cá tiêu hao, năng lượng tiêu hao và protein tiêu hao được xác định như sau:

 Khối lượng cá tiêu hao (g): Wth= W0 - Wt; ; Trong đó: W0: khối lượng cá

thí nghiệm (g); Wt: khối lượng cá kết thúc thí nghiệm (g);

 Năng lượng tiêu hao: Eth = (W0*E0 - Wt*Et)/T; Trong đó: Eth: năng lượng tiêu hao của cá (KJ/cá/ngày); E0: năng lượng của cá khi thí nghiệm (KJ/cá); Et: năng lượng cá khi kết thúc thí nghiệm (KJ/cá); T: thời gian thí nghiệm (ngày);

 Protein tiêu hao: Pth = (W0*P0 - Wt*Pt)/T; Trong đó: Pth: protein tiêu hao của cá (g/cá/ngày); P0: hàm lượng protein của cá khi thí nghiệm (g/cá); Pt: hàm lượng protein của cá khi kết thúc thí nghiệm (g/cá);

 Tương quan giữa năng lượng protein tiêu hao và khối lượng của cá theo Lupatsch et al. (2001a) được thể hiện bằng phương trình sau: y = axb; Trong đó: y là protein hoặc năng lượng tiêu hao; x: khối lượng trung bình nhân của cá (Geometric Mean Body Weight) GMW = (Wt x Wo)0,5 ; a: năng lượng, protein tiêu hao hàng ngày của cá ; b: hệ số trao đổi năng lượng/protein.

3.3.3.3 Thí nghiệm 5: Khả năng tiêu hóa thức ăn và các dưỡng chất trong thức ăn của cá lóc

Mục tiêu của nghiên cứu: Xác định được độ tiêu hóa thức ăn và dưỡng chất của thức ăn thí nghiệm, làm cơ sở xác định nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin tiêu hóa của cá lóc ở Thí nghiệm 6.

a. Thức ăn thí nghiệm

Thức ăn được được phối trộn từ các nguyên liệu gồm bột cá Kiên Giang, đậu nành ly trích dầu ly trích dầu, bột khoai mì lát, chất kết dính, dầu cá, vitamin, khoáng. Thức ăn được nghiền mịn, trộn chất đánh dấu chromic oxide (Cr2O3) với tỉ lệ 1% và được ép viên 4 mm phù hợp với kích cỡ miệng cá cho ăn (Bảng 3.6 và 3.7). Thức ăn được bảo quản kín ở (-20oC) trong suốt thời gian thí nghiệm.

58

Bảng 3.6: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 5 Thành phần nguyên liệu Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột khoai mì lát Premix vitamin Dầu cá CMC Cr2O3 Tổng % 36,9 34,3 18,9 2 5,9 1 1 100

Bảng 3.7: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 5 (khối lượng khô) Thành phần hóa học Protein Lipid Tro Xơ Năng lượng (KJ/g) Acid amin

Methionine Cystine Lysine Threonine Arginine Isoleucine Leucine Valine Histidine Phenylalanine % 41,7 10,7 14,3 3,27 19,3 0,85 0,46 2,70 1,71 2,76 1,65 3,04 1,82 0,81 1,97

b. Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại trong 3 hệ thống bể thu phân lắng (Hình 3.1). Điều kiện nhiệt độ trung bình của thí nghiệm từ 27,1-29,8oC, mật độ bố trí 20 con/bể, cá thí nghiệm có khối lượng 100 g/con.

c. Phương pháp thu và xử lý mẫu phân

Trước khi tiến hành thu phân, cá được cho ăn thức ăn thí nghiệm lần/ngày vào lúc 16 giờ trong 7 ngày để quen dần với thức ăn và điều kiện thí nghiệm. Mẫu phân được thu từ ngày nuôi thứ 8 bằng phương pháp lắng.

Cá được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi ngừng ăn), sau khi cho cá ăn 1 giờ, thức ăn thừa được loại ra khỏi hệ thống lắng và tiến hành thu phân, bình lắng phân được giữ lạnh bằng hỗn hợp đá muối (nước đá và muối) trong suốt thời gian thu phân. Mẫu phân sau thu được để yên bảo quản mát ở 4oC (trong 24 giờ) để phân lắng hoàn toàn, thu phần phân lắng ra cốc sứ và sấy khô ở nhiệt

59

độ 60oC trong 24 giờ, cân khối lượng mẫu và bảo quản mẫu ở -20oC cho đến khi phân tích độ tiêu hóa. Thời gian thu phân là 7 ngày.

d. Các chỉ tiêu phân tích

Chỉ tiêu phân tích gồm thành phần hóa học (ẩm độ, protein, lipid, tro, xơ, năng lượng, acid amin và Cr2O3) thức ăn và mẫu phân của cá lóc; xác định độ tiêu hóa vật chất khô, năng lượng, protein và acid amin trong thức ăn.

3.3.3.4 Thí nghiệm 6: Xác định nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin tiêu hóa của cá lóc

Mục tiêu của nghiên cứu: tìm được mối tương quan giữa protein, năng lượng, acid amin tiêu hóa và protein, năng lượng, acid amin cho tăng trưởng, từ đó xác định được các thông số nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin tiêu hóa của cá lóc trong mô hình năng lượng sinh học

a. Bố trí thí nghiệm

Cá lóc thí nghiệm có khối lượng trung bình 38,5±0,38 g, được bố trí trong hệ thống bể nhựa (500 L/bể) với mật độ 25 con/bể. Trước khi bố trí thí nghiệm chính thức, thí nghiệm thăm dò được thực hiện để xác định mức cho ăn tối đa của cá: cá được bố trí trong 3 bể nhựa 500 L (Hình 3.5). Cho cá ăn thức ăn thí nghiệm thỏa mãn theo nhu cầu trong 7 ngày, xác định được mức ăn tối đa của cá là 3% khối lượng thân/ngày.

Dựa vào kết quả mức ăn tối đa của cá (3% khối lượng thân/ngày), bố trí thí nghiệm hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 5 nghiệm thức tương ứng với các mức cho ăn: 0%; 0,75%; 1,5%; 2,25% và 3% khối lượng thân/ngày, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thời gian thí nghiệm là 28 ngày.

Thức ăn được sử dụng có thành phần hóa học giống thức ăn TN 5 (Bảng 3.6). Cá được cho ăn 2 lần/ngày với các mức cho ăn tương ứng với từng nghiệm thức. Trong quá trình thí nghiệm cá được thay nước định kỳ 3 ngày/ lần, mỗi lần thay 30% thể tích nước trong bể. Nước sử dụng là nước máy sinh hoạt. Nhiệt độ và pH trong các bể thí nghiệm duy trì lần lượt là 27,3-29,4oC và 7,2-7,4.

60

Hình 3.5: Hệ thống thí nghiệm cho cá ăn các mức khác nhau.

b. Các chỉ tiêu phân tích

Các chỉ tiêu cần xác định thành phần hóa học của thức ăn và cá lóc, tỷ lệ sống, tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng tương đối, hệ số thức ăn, nhu cầu protein (P), nhu cầu năng lượng (E) và nhu cầu acid amin (AA) duy trì, hiệu quả sử dụng P, hiệu quả sử dụng E và hiệu quả sử dụng acid amin (AA).

Nhu cầu protein (P), nhu cầu năng lượng (E) và nhu cầu acid amin (AA) duy trì, hiệu quả sử dụng P, hiệu quả sử dụng E và hiệu quả sử dụng acid amin (AA) được xác định như sau:

 Nhu cầu P, E và AA duy trì, hiệu quả sử dụng P, E và AA được xác định theo phương pháp của NRC (2011) dựa trên phương trình: y = ax + b; Trong đó, y: năng lượng, protein hoặc acid amin tích lũy; a: hiệu quả sử dụng năng lượng, protein, acid amin; x: năng lượng, protein hoặc acid amin tiêu hóa ăn vào; Nhu cầu năng lượng và protein duy trì được xác định tại y = 0 (tích lũy bằng 0), khi đó nhu cầu năng lượng và protein duy trì là x = b/a

 Xác định nhu cầu năng lượng, protein và acid amin của cá lóc: nhu cầu năng lượng, protein, acid amin của cá lóc được xác định dựa trên mô hình hóa bao gồm các yếu tố: khả năng tăng trưởng (y = axb), yêu cầu về năng lượng cho duy trì và tăng trưởng, hiệu quả sử dụng năng lượng và protein (y = ax+b) (Lupatsch et al., 2001a; Glencross, 2006; Glencross et al., 2010; Trung et al., 2011; Tien et al., 2016).

61

3.3.4 Nội dung 4: Khả năng tiêu hóa của cá lóc đối với một số nguyên liệu phổ biến làm thức ăn.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định khả năng tiêu hóa của cá lóc đối với một

số nguyên liệu phổ biến sử dụng trong phối chế thức ăn chế biến.

3.3.4.1 Thí nghiệm 7: Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu protein

a. Thức ăn thí nghiệm

Nghiệm thức thức ăn đối chứng được phối trộn 1% chất đánh dấu (Cr2O3) và 4 nghiệm thức thức ăn cần xác định độ tiêu hóa có chứa 30% lượng nguyên liệu (bột cá, đậu nành ly trích dầu, bột thịt xương hoặc bột huyết) và 70% lượng thức ăn đối chứng. Tỉ lệ nguyên liệu sử dụng trong thức ăn thí nghiệm, thành phần hóa học của nguyên liệu và thức ăn được trình bày ở Bảng 3.7; 3.8 và 3.9.

Bảng 3.7: Thành phần hóa học của nguyên liệu thí nghiệm 6 (% khối lượng khô)

Nguyên liệu Thành phần hóa học Bột cá Bột thịt xương Bột huyết

62

Độ khô (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%) Xơ (%) NFE Năng lượng (KJ/g) Acid amin (%) Methionine Cystine Lysine Threonine Arginine Isoleucine Leucine Valine Histidine Phenylalanine 85,4 64,5 5,42 23,7 0,61 5,86 18,5 1,98 0,65 5,50 2,97 4,15 3,13 5,39 3,61 1,72 2,89 Đậu nành ly trích dầu 91,6 47,2 2,64 8,89 5,39 35,9 19,3 0,70 0,72 3,25 2,05 3,95 2,44 4,06 2,52 1,39 2,71 86,8 50,7 8,07 37,7 3,23 - 15,8 0,17 0,23 1,08 0,62 2,06 0,67 1,34 1,01 0,15 0,96 92,6 92,5 0,56 2,59 3,33 1,03 22,9 2,12 0,94 6,20 3,60 6,88 4,10 7,16 5,52 1,91 4,31

Bảng 3.8: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 6 (% khối lượng khô)

Nghiệm thức Nguyên liệu Bột cá Bột thịt xương Bột huyết

Đậu nành ly trích dầu 25,8 Đối chứng 36,9 25,8 25,8 25,8

34,3 24,0 24,0 24,0 24,0

18,9 13,3 13,3 13,3 13,3

2,0 1,4 1,4 1,4 1,4

5,9 1,0 1,0 - 4,1 0,7 0,7 30,0 4,1 0,7 0,7 - 4,1 0,7 0,7 - 4,1 0,7 0,7 -

- - 30,0 - -

- - - 30,0 -

Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột khoai mì lát Premix vitamin5 Dầu cá6 CMC7 Cr2O3 Bột cá1 Đậu nành ly trích dầu Bột thịt xương Bột huyết Tổng - 100 - 100 - 100 - 100 30,0 100

Bảng 3.9: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 6 (% khối lượng khô)

Thức ăn nghiệm thức

Thành phần hóa học Bột cá Bột huyết Đối chứng Bột thịt xương

63

Độ khô (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%) Xơ (%) NFE Năng lượng (KJ/g) Acid amin (%) Methionine Cystine Lysine Threonine Arginine Isoleucine Leucine Valine Histidine Phenylalanine 83,3 44,2 8,98 13,4 1,44 31,9 19,8 0,82 0,39 2,41 1,55 2,59 1,80 2,96 1,87 0,73 1,89 Đậu nành ly trích dầu 87,4 46,5 7,02 12,7 2,78 31,0 19,6 0,78 0,49 2,66 1,70 3,00 1,99 3,29 2,07 0,93 2,14 87,6 51,4 7,85 17,4 1,19 22,1 19,3 1,17 0,47 3,34 1,97 3,06 2,20 3,69 2,39 1,03 2,19 89,8 46,2 8,64 22,5 1,28 21,4 18,3 0,62 0,34 2,01 1,27 2,43 1,46 2,47 1,61 0,55 1,61 89,4 58,7 6,4 11,1 2,01 21,8 20,5 1,21 0,56 3,55 2,16 3,87 2,49 4,22 2,96 1,08 2,62

b. Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm áp dụng phương pháp thu phân thích hợp đối với cá lóc từ kết

quả của Thí nghiệm 3 là phương pháp thu phân lắng.

Thí nghiệm gồm 5 NT: NT đối chứng và 4 NT tương ứng với 4 loại nguyên liệu cần xác định độ tiêu hóa (bột cá, đậu nành ly trích dầu, bột thịt xương và bột huyết). Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong hệ thống bể thu phân lắng, mỗi NT được lặp lại 3 lần. Điều kiện nhiệt độ trung bình của thí nghiệm từ 27,1- 29,8oC, mật độ bố trí 20 con/bể, cá thí nghiệm có khối lượng 100 g/con.

Trước khi tiến hành thu phân, cá được cho ăn thức ăn thí nghiệm một lần/ngày vào lúc 16 giờ trong 7 ngày để quen dần với thức ăn và điều kiện thí nghiệm. Cá được cho ăn theo nhu cầu (ăn no đến khi ngừng ăn). Mẫu phân được thu từ ngày nuôi thứ 8 bằng phương pháp thu phân lắng. Thời gian thu phân là 14 ngày.

c. Cách thu và xử lý phân: được thực hiện tương tự như phương pháp thu phân lắng ở Thí nghiệm 3.

d. Các chỉ tiêu phân tích

Các chỉ tiêu phân tích gồm thành phần hóa học (ẩm độ, protein, lipid, tro, xơ, năng lượng, acid amin và Cr2O3) của nguyên liệu, thức ăn và mẫu phân của cá lóc; xác định độ tiêu hóa thức ăn, dưỡng chất trong trong thức ăn, độ tiêu hóa của nguyên liệu.

3.3.4.2 Thí nghiệm 8: Khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu carbohydrate

a. Thức ăn thí nghiệm

Nghiệm thức thức ăn đối chứng được phối trộn 1% chất đánh dấu (Cr2O3) và 5 nghiệm thức thức ăn cần xác định độ tiêu hóa có chứa 30% lượng nguyên liệu (cám gạo, cám ly trích, cám mì, bột khoai mì lát, bột cọ) và 70% lượng thức ăn đối chứng. Tỉ lệ nguyên liệu sử dụng trong thức ăn thí nghiệm, thành phần hóa học của nguyên liệu và thức ăn được trình bày ở Bảng 3.10; 3.11 và 3.12.

64

Bảng 3.10: Thành phần hóa học của nguyên liệu thí nghiệm 7 (% khối lượng khô)

Nguyên liệu

Thành phần hóa học Cám gạo Cám ly trích Cám mì Bột cọ

Độ khô (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%) Xơ (%) NFE Năng lượng (KJ/g) 87,9 13,2 12,8 7,99 4,98 61,0 19,5 92,1 19,5 1,28 11,9 2,56 64,7 16,7 Bột khoai mì lát 87,2 3,52 2,36 4,52 3,32 86,3 17,1 92,0 18,7 2,22 7,88 9,95 61,3 17,6 88,5 16,9 9,12 5,97 36,4 31,6 19,3

Bảng 3.11: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 7 (% khối lượngkhô)

Nghiệm thức Nguyên liệu Cám gạo Cám mì Bột cọ

Cám ly trích 25,8 Bột khoai mì lát 25,8 25,8 25,8 25,8 Đối chứng 36,9

24,0 24,0 24,0 24,0 24,0

13,3 13,3 13,3 13,3 13,3 34,3 18,9

2,0 1,4 1,4 1,4 1,4 1,4

4,1 0,7 0,7 30

5,9 1,0 1,0 - - - - - 4,1 0,7 0,7 - - 30 4,1 0,7 0,7 - 30 - 4,1 0,7 0,7 - - - 4,1 0,7 0,7 - - -

- - - - 30 -

65

- 100 Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột mì Premix vitamin Dầu cá CMC Cr2O3 Cám gạo Cám ly trích Cám mì Bột khoai mì lát Bột cọ Tổng - 100 - 100 - 100 - 100 30 100

Bảng 3.12: Thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 7 (khối lượng khô)

Thức ăn nghiệm thức

Thành phần hóa học Cám mì Bột cọ Đối chứng Cám gạo Cám ly trích

Độ khô (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%) Xơ (%) NFE Năng lượng (KJ/g) 87,6 44,2 8,98 13,4 1,77 31,6 19,8 89,6 34,9 11,0 11,6 2,63 39,9 19,9 83,9 35,9 6,7 12,5 2,05 42,9 18,8 Bột khoai mì lát 84,2 31,7 7,0 11,3 2,21 47,8 18,9 81,3 36,7 7,0 11,0 4,25 41,1 19,3 84,2 36,4 9,0 11,6 12,1 30,9 19,6

b. Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm gồm 6 NT: NT đối chứng và 5 NT tương ứng với 4 loại nguyên liệu cần xác định độ tiêu hóa (cám gạo, cám ly trích, cám mì, bột khoai mì lát, bột cọ). Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên trong hệ thống bể thu phân lắng, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Điều kiện nhiệt độ trung bình của thí nghiệm từ 27,1- 29,8oC, mật độ bố trí 20 con/bể, cá thí nghiệm có khối lượng 100 g/con. Phương pháp thu phân và phân tích kết quả như thí nghiệm 7.

3.3.5 Nội dung 5: Xây dựng công thức thức ăn nuôi cá lóc thương phẩm

Công thức thức ăn của cá lóc được xây dựng dựa trên kết quả của nội dung 3 và nội dung 4 và các nghiên cứu trước về thức ăn cho cá lóc, cụ thể:

 Xác định nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc được thực hiện ở nội dung 3;

 Các nghiên cứu về khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu và các chất

bổ sung (Hien et al., 2015; Hien et al., 2016; Hien et al., 2018);

 Độ tiêu hóa của các nguồn nguyên liệu được thực hiện ở nội dung 4;

 Xây dựng nhu cầu thức ăn cho cá dựa trên những yêu cầu chung đảm bảo về dinh dưỡng bao gồm các nguyên liệu chính và nguyên liệu bổ sung (Guillaume et al., 2001);

 Ứng dụng chương trình Solver trên Excel version 5.0 được sử dụng để thiết lập công thức thức ăn với nhu cầu dinh dưỡng của cá đã được thiết lập cùng với nguồn nguyên liệu đã được đánh giá độ tiêu hóa.

66

3.3.6 Nuôi thử nghiệm

3.3.6.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thí nghiệm thực hiện từ tháng 3/2017 đến 8/2017 tại khu thực nghiệm của

Công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi Việt Thắng tại tỉnh Đồng Tháp.

3.3.6.2 Vật liệu nghiên cứu

Nguồn cá lóc giống thí nghiệm được sản xuất tại trại giống ở tỉnh Đồng Tháp, khối lượng ban đầu 7-9 g/cá lóc giống, cá khỏe và không có dấu hiệu bệnh lý.

Ao nuôi thực nghiệm có diện tích 3.000 m2, mức nước 3 m, có hệ thống cấp nước nổi và thoát nước chìm. Hệ thống vèo thí nghiệm gồm 8 vèo (12 m3/vèo) (Kích thước vèo 2x2x3 m), kích thước mắt lưới 8 mm.

3.3.6.3 Thức ăn thí nghiệm

Thức ăn thí nghiệm gồm 2 loại thức ăn:

 Thức ăn A (TA-A): thức ăn cá lóc công nghiệp, được sử dụng phổ biến cho cả quá trình nuôi thương phẩm, với hàm lượng protein 40%; lipid 7% (Tính theo khối lượng tươi);

 Thức ăn B (TA-B): thức ăn được sản xuất theo thí nghiệm đã nghiên cứu. Gồm 3 loại thức ăn có hàm lượng protein B1 (42% protein tiêu hóa) cho 1,5 tháng đầu; từ 1,5 – 2,5 tháng sử dụng B2 (36% protein tiêu hóa) từ 2,5 tháng đến thu hoạch là B3 (33% protein tiêu hóa) (Bảng 3.13)Thức ăn được chế biến dạng viên nổi, kích cỡ thức ăn tăng dần từ 2 mm lên 6 mm theo kích thước cá.

3.3.6.4 Bố trí thí nghiệm

Thí nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của 2 loại thức ăn khác nhau được bố trí gồm 2 nghiệm thức tương ứng với 2 loại thức ăn: TA-A; và TA-B (Bảng 3.13). Các nghiệm thức được lặp lại 4 lần, thời gian thí nghiệm là 5 tháng. Mật độ cá lóc thí nghiệm 50 con/m3 (600 con/vèo).

Nghiệm thức

67

Bảng 3.13: Loại thức ăn và hàm lượng protein (%) sử dụng trong thời gian nuôi Thời gian nuôi (tháng) 0-1,5 1,5-2,5 2,5-5,0 Thức ăn B TA-B1-42% protein tiêu hóa (~45,7 protein) TA-B2-36% protein tiêu hóa (~39,2 protein) TA-B3-33% protein tiêu hóa (~36,1 protein) Thức ăn A TA-A-40% protein TA-A-40% protein TA-A-40% protein

Khối lượng cá ban đầu (Wi) được xác định khi bố trí thí nghiệm. Tăng trưởng của cá được xác định bằng cách cân toàn bộ số cá trong mỗi vèo theo nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm và đếm số lượng cá còn lại.

3.3.6.5 Quản lý và chăm sóc thí nghiệm

Cá được cho ăn theo nhu cầu 2 lần/ngày (8 giờ và 16 giờ), sau 30 phút cho cá ăn, thức ăn thừa được vớt ra và xác định khối lượng nhằm xác định chính xác hệ số tiêu tốn thức ăn. Số lượng cá chết được ghi nhận hằng ngày. Yếu tố môi trường gồm nhiệt độ, pH và oxy hòa tan được đo 1 lần/tuần (7 giờ và 15 giờ) - được đo 1 lần/tuần bằng máy YSI 556 (USA) và các yếu tố TAN, NH3 và NO2 bằng test kit SERA (Germany).

3.3.6.6 Các chỉ tiêu phân tích

Thu mẫu hàng tháng: Cuối mỗi tháng, mỗi vèo của các nghiệm thức được

thu ngẫu nhiên 30 con, cân khối lượng và tính khối lượng trung bình/con.

Thu mẫu kết thúc thí nghiệm: Thu toàn bộ cá thí nghiệm để xác định các chỉ tiêu năng suất (Yf), tỷ lệ sống (SR), hệ số thức ăn (FCR), tốc độ tăng trưởng tương đối (SGR), hiệu quả sử dụng protein (PER).

3.4

Phương pháp xác định các chỉ tiêu

3.4.1 Phương pháp xác định một số yếu tố môi trường

 Nhiệt độ và pH được đo 2 lần/ngày bằng máy YSI 556 (USA);

- được đo 1 lần/tuần bằng bộ test Sera.

 Oxy hòa tan, NH3

+, NO2

3.4.2 Phương pháp xác định các chỉ tiêu sinh học

Cá đầu vào và sau khi kết thúc thí nghiệm đều được ghi nhận và cân khối

lượng toàn bộ trong từng bể để xác định các chỉ tiêu sinh học chung như sau:

 Tỷ lệ sống (%) = Số cá sau thí nghiệm x 100 / Số cá ban đầu;

 Tăng trưởng WG (Weight Gain) (g): WG = Wt – Wo;

 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối DWG (Daily Weight Gain) (g/ngày):

DWG = (Wt – Wo)/ t;

 Tốc độ tăng trưởng tương đối SGR (Specific Growth Rate) (%/ngày)

SGR =((ln(Wt) – ln(Wo))/t) x 100;

 Hệ số thức ăn (Feed Conversion Ratio - FCR)

Lượng thức ăn sử dụng (khối lượng khô)

FCR =

Khối lượng cá gia tăng (khối lượng tươi)

68

3.4.3 Phương pháp xác định các chỉ tiêu về độ tiêu hóa

 Độ tiêu hóa (ADC) thức ăn (%):

.

Trong đó: %A: % chất đánh dấu có trong thức ăn (% khối lượng khô); %B: % chất đánh dấu có trong phân (% khối lượng khô);

 Ðộ tiêu hóa của dưỡng chất (%):

.

Trong đó: %A’: % dưỡng chất có trong thức ăn (tính theo khối lượng khô); %B’: % dưỡng chất có trong phân (tính theo khối lượng khô);

 Độ tiêu hóa của nguyên liệu được xác định theo công thức của Bureau and Hua (2006): ADCnguyên liệu kiểm tra = ADCthức ăn kiểm tra+ [(ADCthức ăn kiểm tra– ADCthức ăn đối chứng) x (0,7 x Dđối chứng/ 0,3 x Dnguyên liệu)]; Trong đó: Dđối chứng: % dinh dưỡng của thức ăn đối chứng; Dnguyên liệu: % dinh dưỡng của nguyên liệu.

3.4.5 Phương pháp xác định chỉ tiêu hóa học

Thành phần hóa học gồm ẩm độ, tro, protein và lipid của nguyên liệu, thức

ăn, cá lóc và phân cá lóc được phân tích theo phương pháp AOAC (2000).

 Ẩm độ: được xác định bằng cách sấy mẫu trong tủ sấy ở nhiệt độ 105oC

khoảng 5-6 giờ đến khi khối lượng không đổi;

 Tro: được xác định bằng cách đốt cháy mẫu và nung mẫu trong tủ nung ở nhiệt độ 550-560oC trong khoảng 4 giờ đến khi mẫu có màu trắng;

 Protein: được xác định theo phương pháp Kjeldahl qua 3 giai đoạn gồm công phá, chưng cất và chuẩn độ. Mẫu được công phá protein trong 1,5 giờ ở nhiều mức nhiệt độ 110-370oC nhờ xúc tác H2O2 và H2SO4 đậm đặc. Sau khi công phá mẫu được chưng cất giải phóng N2 trong dung dịch kiềm (NaOH) và hấp thu trong dung dịch axít Boric có sự hiện diện của chất chỉ thị Methyl red. Sau đó chuẩn độ để xác định hàm lượng protein trong mẫu bằng H2SO4 0,1N;

 Lipid: được xác định bằng phương pháp Soxhlet. Lipid trong mẫu được chiết xuất ra nhờ quá trình rửa hoàn toàn trong dung dịch petrolium ether (nóng);

 Xơ: thủy phân trong dung dịch H2SO4 loãng (1,25%) và NaOH loãng

(1,25%);

 Carbohydrate và NFE: được xác định bằng cách loại trừ.

69

Carbohydrate = 100 – (Protein +Lipid + Tro)

NFE = 100 – (Protein +Lipid + Tro + xơ)

 Cr2O3 trong thức ăn và trong phân: Xác định theo phương pháp của

Furukawa và Tsukahara (1966);

 Acid béo: dựa theo AOAC 996.06 cho thức ăn và AOAC 969.33 cho dầu (AOAC, 2000). Chất béo được chiết tách ra khỏi mẫu, sau đó tiến hành xác định thành phần acid béo trên hệ thống GC/MS;

 Năng lượng: được xác định bằng cách tính toán

Năng lượng (KJ/g) = protein % x 23,7 + lipid % x 39,5 + NFE% x 17,2 + xơ % x 17,2

 Acid amin: gửi mẫu phân tích, phương pháp EC 152/2009 (Invivo Labs

Vietnam).

3.6 Phương pháp xử lý số liệu

Các số liệu về khảo sát tăng trưởng và thành phần hóa học của cá lóc nuôi thương phẩm được phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả và vẽ đồ thị bằng chương trình Microsoft Excel 5.0.

Các số liệu thí nghiệm và thực nghiệm được thu thập, tổng hợp và phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả và phương pháp thống kê ANOVA một nhân tố và phép thử Duncan ở mức ý nghĩa (p<0,05) bằng phần mền SPSS 21.0.

Mô hình hóa sử dụng theo mô hình toán học chung của Lupatsch et al. (2003); Glencross et al. (2010); Trung et al. (2011) và Tien et al. (2016). Khối lượng cá sử dụng trong tính toán ở các phương trình của mô hình là khối lượng trung bình nhân (khối lượng hình học – MBW = (W1xW2)^0,5). Xác định mối tương quan giữa khối lượng trung bình nhân của cá và tăng trưởng tuyệt đối trên ngày của cá theo phương trình y = axb. Xác định protein và năng lượng tiêu hao dựa vào phương trình y = axb. Xác định hiệu quả sử dụng protein và năng lượng dựa vào phương trình y = ax + b. Xây dựng nhu cầu protein và năng lượng của cá dựa trên nhu cầu duy trì, nhu cầu cho tăng trưởng.

70

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1 Đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc từ giai đoạn bột đến 35 ngày

tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến

4.1.1 Sự phát triển của cá bột

4.1.1.1 Kích thước và khối lượng

Chiều dài tổng, chiều dài ruột, kích thước miệng và tương quan chiều dài ruột tăng cùng với sự gia tăng tuổi của cá (Bảng 4.1). Kích thước miệng cá ở giai đoạn 5-9 ngày tuổi dao động trong khoảng 0,76-1,07 mm. Kích thước này cho phép cá lóc sử dụng được các loài động vật phù du như luân trùng (Rotifera), giáp xác râu ngành (Cladocera). Giai đoạn từ ngày tuổi thứ 12 trở đi kích thước miệng tăng đáng kể và đạt 3,42 mm vào ngày thứ 35 cho phép cá sử dụng con mồi có kích thước lớn hơn 1,45 mm. Trong thí nghiệm này sử dụng Moina sp. làm thức ăn cho cá từ 1-10 ngày tuổi, sau đó thay thế cá tạp ở ngày tuổi thứ 10 và thức ăn chế biến ở ngày 17 là hoàn toàn phù hợp với cỡ miệng và tập tính bắt mồi của cá.

Bảng 4.1: Chiều dài trung bình của cá lóc từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi

Ngày tuổi Chiều dài tổng (mm) Chiều dài ruột (mm) Kích thước miệng (mm)

- - 1,73±0,17 3,29±0,26 4,30±0,24 5,02±0,36 5,50±0,47 6,05±0,38 6,56±0,54 7,35±0,71 13,1±1,67 19,0±1,21 Chiều dài ruột/Chiều dài tổng (RGL) - - 0,26±0,02 0,36±0,01 0,41±0,02 0,42±0,02 0,44±0,03 0,44±0,02 0,45±0,02 0,47±0,02 0,54±0,04 0,55±0,02 - - 0,76±0,07 0,90±0,07 1,07±0,05 1,45±0,05 1,57±0,08 1,71±0,05 1,73±0,05 2,07±0,08 3,03±0,13 3,42±0,07

Một chỉ số thường được sử dụng để xác định tính ăn của cá là chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân (RLG). Ở cá lóc, RLG tăng từ 0,26 ở ngày tuổi thứ 5 và đạt 0,55 ở ngày 35. Trong nghiên cứu này, RGL ở cá lóc nhỏ hơn 1, điều này phù hợp với tập tính ăn động vật của loài (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004). Giá trị RLG không những thay đổi giữa các loài khác

71

4,16±0,14 1 5,86±0,16 3 6,70±0,36 5 9,11±0,56 7 10,5±0,60 9 11,9±0,91 12 12,7±1,05 15 13,8±0,96 18 14,5±1,30 21 15,6±1,26 25 24,2±2,51 30 34,6±4,27 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn

nhau mà còn thay đổi trong từng cá thể theo từng giai đoạn phát triển. Trong quá trình tăng trưởng, ống tiêu hóa của cá sẽ gia tăng về chiều dài và gia tăng các nếp gấp để giúp cá tiêu hóa và hấp thu các vật chất có nguồn gốc thực vật, điều này dẫn đến sự gia tăng giá trị RLG (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004).

Khối lượng và chiều dài của cá mới nở tương ứng là 1,31 mg và 4,16 mm, đạt 401 mg và 34,6 mm vào ngày thứ 35. Chiều dài cơ thể tăng chậm ở giai đoạn 1-25 ngày tuổi và sau đó tăng rất nhanh từ 25-35 ngày tuổi trong khi đó khối lượng thân của cá tăng chậm trong giai đoạn 1-15 ngày và sau đó tăng nhanh trong giai đoạn 18-35 ngày tuổi (Hình 4.1).

Khối lượng cá (mg) Chiều dài cá (mm)

Sự tăng trưởng của cá lóc tương tự sự tăng trưởng được khảo sát trên cá vược Châu Âu (Cahu and Infante, 1994), cá Pseudosciaema crocea (Ma et al., 2005), cá Pelteobagrus fulvidraco (Yang et al., 2010), cá chẽm trắng (Atractoscion nobilis) (Galaviz et al., 2011) và cá hồng (Lutjanus guttatus) (Galaviz et al., 2012). Trong nghiên cứu về sự phát triển trên cá tra (Wannapa et al., 2012) và trên cá chốt (Mystus nemurus) (Manee et al., 2012) cũng cho kết quả tương tự, cá tăng trưởng chậm ở pha thứ nhất và sau đó tăng nhanh ở pha thứ 2 (30-45 ngày). Kết quả tăng trưởng chiều dài được Ribeiro et al. (1999) nghiên cứu trên loài cá bơn (Solea senegalensis) cũng chỉ ra rằng cá tăng trưởng chậm vào giai đoạn đầu, chiều dài tại thời điểm cá nở đạt 2,81 mm và sau đó tăng nhanh ở giai đoạn sau, đạt 10,0 mm tại thời điểm kết thúc thí nghiệm.

72

Hình 4.1: Tăng trưởng về chiều dài và khối lượng của cá lóc từ 1 đến 35 ngày tuổi.

Bảng 4.2: So sánh chiều dài và khối lượng cá lóc của hai nghiệm thức

Ngày

Chiều dài (mm) TĂTS 4,11±0,22 5,94± 0,21 6,50±0,19 9,22±0,14 10,6±0,33 11,7±0,57 12,7±0,45 14,2±0,57 14,3±0,91 14,7±0,68 20,4±0,42 33,5±1,88 TĂCB 4,16±0,10 5,88±0,09 6,66±0,47 9,15±0,24 10,4±0,23 11,9±0,42 12,6±0,55 14,3±0,57 14,4±0,61 14,9±0,26 20,3±0,44 33,7±0,80 Khối lượng (mg) TĂTS 1,30±0,02 2,04±0,26 7,18±0,22 9,93±0,39 12,4±1,40 16,8±0,62 31,3±2,55 43,7±3,49 109±6,48 155±3,50 233±7,78 401±11,0 TĂCB 1,30±0,02 2,07±0,22 7,32±0,43 9,91±0,41 12,6±1,36 16,6±0,99 30,9±3,96 42,6±1,79 106±4,55 155±5,54 229±11,6 407±10,5

Tăng trưởng giữa nghiệm thức TĂTS và nghiệm thức TĂCB khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nguyên nhân là do thành phần dinh dưỡng trong thức ăn (thức ăn chế biến có hàm lượng protein đạt 49%) và thời điểm tập chuyển đổi thức ăn chế biến là phù hợp. Theo Cahu and Infante (2001) thì hoạt tính của enzyme tiêu hóa phụ thuộc vào tuổi của cá, tuy nhiên hoạt tính này có thể điều chỉnh nhờ một chế độ cho ăn với hàm lượng chất dinh dưỡng phù hợp, do đó cải thiện đáng kể tăng trưởng của cá.

1 3 5 7 9 12 15 18 21 25 30 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn

4.1.1.2 Sự phát triển hình thái

Hình thái của cá lóc được mô tả ở Hình 4.2. Cá bột mới nở chưa mở miệng và có khối noãn hoàng lớn, ống tiêu hóa có dạng thẳng, ngắn, nằm ở mặt lưng tiếp giáp với khối noãn hoàng và hậu môn đóng (Hình 4.2A). Từ ngày thứ 3 cá đã mở miệng và có thể sử dụng thức ăn ngoài (Hình 4.3B). Lúc này kích thước khối noãn hoàng giảm đáng kể, một số cá thể trong quần đàn đã sử dụng hết noãn hoàng. Vào thời điểm này dạ dày đã bắt đầu hình thành tuy nhiên chưa được quan sát một cách rõ ràng. Khối noãn hoàng được hấp thụ hoàn toàn vào ngày thứ 5 (Hình 4.2C) và ống tiêu hóa của cá bột có thể phân biệt được miệng, hầu, dạ dày, ruột và trực tràng một cách rõ rệt. Đến ngày thứ 7 kích thước ruột gia tăng cả về chiều dài và số lượng nếp gấp, tuy nhiên nếp gấp ruột vào thời điểm này chưa nhiều (Hình 4.2D). Theo thời gian cùng với sự gia tăng chiều dài ruột thì nếp gấp ruột cuộn ngày càng nhiều. Vào ngày thứ 12 sau khi nở, hình thái bên ngoài đã hoàn chỉnh cơ quan vận động (Hình 4.2E), ống tiêu hóa của cá bột đã hoàn thiện cả về mặt hình thái và cấu trúc. Dạ dày lúc này đã hình

73

thành lớp thành dày và có dạng hình chữ Y, ruột chứa nhiều nếp gấp và có hình chữ V (Hình 4.2F).

y

m

y

B

A

m

i D

C

s

i

d

E

F

Hình 4.2: Sự phát triển hình thái của cá lóc (Channa striata)

74

A: Cá 1 ngày tuổi; B: Cá 3 ngày tuổi; C: Cá 5 ngày tuổi D: Ống tiêu hóa ngày 7; E: Cá 12 ngày tuổi; F: Ống tiêu hóa ngày 12 d: vây; i: ruột; m: miệng; s: dạ dày; y: Noãn hoàng

4.1.2 Cấu trúc ống tiêu hóa của cá lóc

Ống tiêu hóa của cá lóc ở ngày tuổi thứ 1 sau khi nở có dạng ống thẳng nằm ở mặt lưng với khối noãn hoàng lớn. Khi quan sát tiêu bản mô học cho thấy khối noãn hoàng bắt màu với Eosin. Ống tiêu hóa chỉ mới là một ống thẳng nhỏ hẹp, chưa phân biệt rõ được các phần (Hình 4.3).

DT

Y

Hình 4.3: Mặt cắt dọc của cá lóc một ngày tuổi (HE, 10x20).

Vào ngày thứ 3, khi cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài thì ống tiêu hóa bắt đầu phân hóa thành 4 phần bao gồm khoang miệng, thực quản, dạ dày và ruột. Các phần của ống tiêu hóa bắt đầu có sự phát triển như sau:

DT: ống tiêu hóa; Y: khối noãn hoàng.

4.1.2.1 Khoang miệng

Khoang miệng của cá lóc vào ngày thứ 7 quan sát thấy nó bao gồm một lớp niêm mạc mỏng trong đó chứa đựng các tế bào dạng cốc (Hình 4.4). Độ dày của biểu mô và số lượng tế bào cốc gia tăng cùng với giai đoạn phát triển của cá bột.

75

A A

B

GC

Hình 4.4: Mặt cắt dọc khoang miệng của cá lóc ở ngày tuổi thứ 7 (HE, 10x20).

A: Khoang miệng; B: niêm mạc, GC: Tế bào cốc.

4.1.2.2 Thực quản

GC

Thực quản là một ống ngắn và phân biệt được khi cá bột bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài. Trong nghiên cứu này, các tế bào cốc được quan sát ở thực quản vào ngày thứ 7 (Hình 4.5). Số lượng nếp gấp của niêm mạc và lượng tế bào cốc được tăng lên cùng với sự phát triển của cá bột.

Hình 4.5: Mặt cắt dọc của thực quản ở cá lóc 7 ngày tuổi (HE, 10x40).

GC: Tế bào cốc.

4.1.2.3 Dạ dày

Kết quả quan sát cho thấy dạ dày xuất hiện vào ngày tuổi thứ 3 khi cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài (Hình 4.6) và được phân biệt với thực quản bởi sự vắng mặt của các tế bào dạng cốc. Dạ dày và nếp gấp niêm mạc chỉ bao gồm một biểu mô đơn giản chứa đựng các tế bào hình trụ đơn và lỏng lẻo.

76

A

Ce

B

Hình 4.6: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ngày tuổi thứ 3 (HE, 10x10).

Vào ngày tuổi thứ 12, đã quan sát được lớp cơ dạ dày nhưng chỉ có lớp cơ vòng nằm ngoài lớp niêm mạc (Hình 4.7). Cho đến ngày thứ 18 dạ dày của cá lóc mới hình thành thành 4 lớp: màng ngoài, lớp cơ trơn, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc (Hình 4.8).

C

A

B

A: Dạ dày; B: Ruột, Ce: Tế bào biểu mô hình trụ.

Hình 4.7: Mặt cắt dọc dạ dày cá ở ngày thứ 12 (HE, 10x10).

77

A: Lớp niêm mạc; B: Cơ trơn; C: Màng ngoài

D

C

B

A

Dạ dày được chia làm 2 phần: phần dạ dày cơ và phần dạ dày tuyến. Tuyến dạ dày là một thành phần quan trọng của dạ dày, thường có dạng tròn nhân to, giữ vai trò quan trọng trong việc tiết ra dịch vị hỗ trợ dạ dày tiêu hóa thức ăn. Ở cá lóc Channa striata, tuyến dạ dày xuất hiện ở ngày thứ 12 sau khi nở (Hình 4.9). Nó cho thấy trong giai đoạn này dạ dày đã hoàn thiện chức năng tiêu hóa. Vào ngày thứ 30 tuyến dạ dày được quan sát một cách rõ ràng (Hình 4.10).

GA

Hình 4.8: Mặt cắt dọc dạ dày cá ở ngày thứ 18 (HE, 10x40). A: Lớp niêm mạc; B: Lớp dưới niêm mạc; C: Lớp cơ trơn; D: Màng ngoài

78

Hình 4.9: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ở ngày tuổi 12 (HE, 10x40). GA:Tuyến dạ dày.

GA

Hình 4.10: Mặt cắt dọc dạ dày cá lóc ở ngày tuổi 30 (HE, 10x40).

GA: Tuyến dạ dày.

4.1.2.4 Ruột

Ruột cá lóc có thể xác định ở ngày tuổi thứ 3. Bao gồm một lớp đơn các tế bào biểu mô hình trụ giống với các tế bào biểu mô của dạ dày chưa được phân hóa được sắp xếp trên lớp màng mỏng dọc theo chiều dài ruột. Biểu mô mắt đầu hình thành nếp gấp vào ngày thứ 3 và sau đó độ dày của các tế bào biểu mô gia tăng cùng với tuổi của cá. Vào ngày thứ 7 sau khi nở, lớp cơ ở ruột chỉ là một lớp cơ trơn bao vòng quanh ruột (Hình 4.11). Lớp niêm mạc ruột thể hiện rất ít thay đổi trong suốt quá trình phát triển của cá bột. Không bào lipid được quan sát vào ngày tuổi thứ 3 và thể vùi protein tăng cùng với sự phát triển của cá (Hình 4.12).

C

A

B

Hình 4.11: Ruột cá lóc ở giai đoạn 7 ngày tuổi (HE; 10x10).

79

A: Nếp gấp niêm mạc, B: Lớp cơ, C: Không bào Lipid.

L

P

Hình 4.12: Ruột cá lóc ở giai đoạn 3 ngày tuổi (HE; 10x40)

Ruột cá thường chia làm 4 phần: Lớp niêm mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp cơ trơn và lớp màng ngoài. Tuy nhiên, lớp cơ trơn ở ruột mỏng hơn ở dạ dày và nếp gấp niêm mạc của ruột hẹp (Hình 4.13).

B

L: Không bào lipid, P: Thể vùi protein.

A

D

C

Hình 4.13: Mặt cắt ngang của ruột cá lóc ngày thứ 18 (HE, 10x10)

Như vậy sự thay đổi về mặt mô học của ống tiêu hóa ở cá bột xảy ra bắt đầu từ ngày thứ 3 sau khi cá nở, tức là tại thời điểm cá bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài. Kết quả tương tự cũng được mô tả trên các loài cá khác như Solea solea (Bouhlic and Gabaudan, 1992), P.dentatus (Bisbal and Bengtson, 1995),. Khoang miệng và tế bào cốc trên thực quản xuất hiện vào ngày thứ 7. Ma et al.

80

A: Lớp niêm mạc, B: Lớp dưới niêm mạc, C: Lớp cơ trơn, D: Màng ngoài.

(2005) khi nghiên cứu trên cá Pseudoscianea crocea đã chỉ ra rằng khoang miệng của cá xuất hiện vào ngày thứ 3 sau khi nở. Sự phát triển của dạ dày muộn hơn những phần khác của ống tiêu hóa. Mặc dù dạ dày xuất hiện khi cá bắt đầu sử dụng thức ăn ngoài (3 ngày tuổi) tuy nhiên cho đến ngày thứ 12 mới chỉ quan sát được lớp cơ vòng ở dạ dày và đến ngày thứ 18 dạ dày của cá lóc mới hình thành nên 4 lớp: màng ngoài, lớp cơ trơn, lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc. Tuyến dạ dày của cá lóc xuất hiện ở ngày 12 thể hiện sự hoàn thiện về chức năng của ống tiêu hóa. Vu (1983) khi nghiên cứu về sự phát triển của ống tiêu hóa trên loài cá vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax) đã mô tả sự phân biệt của tuyến dạ dày được ghi nhận vào ngày thứ 25 sau khi nở.

Ở cá lóc, ruột và một vài không bào lipid có thể xác định ở ngày tuổi thứ 3 cho thấy việc hấp thu chất dinh dưỡng từ thức ăn. Số lượng không bào lipid được quan sát tăng nhanh cùng với tuổi của cá. Trong khi đó ở loài cá bống tượng ruột cá bắt đầu phát triển từ ngày tuổi thứ 1, lớp biểu mô ruột bắt đầu gấp nếp ở ngày tuổi thứ 2 và độ dày của lớp biểu mô gia tăng cùng với tuổi của cá, thể vùi protein xuất hiện ở trực tràng vào ngày tuổi thứ 5, trong khi đó không bào lipid xuất hiện ở ngày tuổi thứ 7 (Phạm Thanh Liêm, 2002). Sự hiện diện của các không bào ở ruột trước như một chỉ số của sự hấp thu và tích lũy lipid trong suốt giai đoạn cá bột cũng được mô tả trên các loài cá khác (Iwai, 1969; Kjorsvik et al., 1991; Sarasquete et al., 1995), nó cải thiện tăng trưởng của cá bột (Loewe and Eckmann, 1988). Sự xuất hiện của không bào protein ở đoạn ruột sau có thể là kết quả của quá trình hấp thu protein, cũng được quan sát bởi các tác giả khác (Iwai, 1969; Walford and Lam, 1993; Saraqueste et al., 1994; Bisbal and Bengston, 1995).

Cùng với sự phát triển của cá thì càng về cuối thí nghiệm cho thấy sự gia tăng mạnh của các nếp gấp ở ống tiêu hóa, chủ yếu là dạ dày và ruột trước, thành dạ dày và thành ruột dày lên cho thấy sự gia tăng quá trình tiêu hóa và hấp thu ở các khu vực này. Nghiên cứu này cho thấy sau 12 ngày tuổi khi cá lóc xuất hiện tuyến dạ dày cá có khả năng tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng với ống tiêu hóa phát triển hoàn thiện.

4.1.3 Hoạt tính của enzyme

Hoạt tính của enzyme tiêu hóa trên cá lóc tăng chậm ở giai đoạn 1-9 ngày và sau đó tăng nhanh ở giai đoạn 12-35 ngày. Tất cả các enzyme tiêu hóa protein: pepsin, trypsin và chymotrypsin đều được tìm thấy với mức thấp ở giai đoạn mới nở và duy trì liên tục cho đến ngày thứ 12 ngoại trừ trypsin với mức tăng ý nghĩa ở ngày thứ 21.

81

4.1.3.1 Hoạt tính của nhóm enzyme phân giải protein

a. Pepsin

Hoạt tính enzyme pepsin ở cá lóc được tìm thấy ở giai đoạn cá mới nở và tăng chậm trong giai đoạn 1-9 ngày tuổi. Đến ngày thứ 12, hàm lượng pepsin tăng nhanh và đạt giá trị cao nhất vào ngày 25 ở nghiệm thức TĂTS với mức 1,44±0,26 mU/mg protein (Bảng 4.3).

TĂTS 0,09±0,04a 0,08±0,03a 0,29±0,09a 0,24±0,04a 0,17±0,01a 0,56±0,06b 0,78±0,13c 0,89±0,27c 1,41±0,10dB 1,44±0,26dB 1,28±0,08dB 1,33±0,04dB

Có sự khác biệt về hoạt tính của enzyme của cá ở 2 nghiệm thức thức ăn từ ngày 21 trở đi, nghiệm thức TĂTS có hàm lượng pepsin cao hơn so với nghiệm thức cho ăn TĂCB và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này có thể do mức protein cao trong thức ăn (TĂTS 81,7% protein; TĂCB 49% protein) đã ảnh hưởng đến việc tiết enzyme tiêu hóa hoặc enzyme có sẵn trong thức ăn tươi sống. Wang et al. (2006a) cũng cho rằng mức protein trong thức ăn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của enzyme tiêu hóa. Hoạt tính của pepsin được phát hiện sớm trên cá lóc mới nở trước khi xuất hiện tuyến dạ dày cũng tương tự ở một số loài cá khác như trên cá chốt (Mystus nemurus) (Manee et al., 2012); Pelteobagrus fulvidraco (Wang et al., 2006a). Perez et al. (2006) cho rằng việc phát hiện pepsin sớm là do sự xuất hiện của pepsine-like tiếp đến là pepsinogen từ tuyến dạ dày, đây là các acidic protease thuộc họ pepsin. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây khi cho rằng cathepsin (một loại enzyme thuộc họ pepsin) có liên quan đến quá trình hấp thu protein từ khối noãn hoàng (Lazo et al., 2007). Khi cá chưa hình thành dạ dày hoạt tính của enzyme pepsin cũng

82

Bảng 4.3: Hoạt tính enzyme pepsin (mU/mg protein) trên cá lóc giai đoạn 1-35 ngày tuổi TĂCB Ngày tuổi 0,10±0,06a 1 0,09±0,06a 3 0,27±0,12b 5 0,26±0,05b 7 0,18±0,02ab 9 0,56±0,07c 12 0,74±0,11d 15 0,61±0,08c 18 0,93±0,05fA 21 0,87±0,04efA 25 0,78±0,01deA 30 1,15±0,03gA 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi các chữ thường khác nhau và các giá trị trong cùng một hàng theo sau bởi chữ in hoa khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

được tìm thấy ở ruột có thể do enzyme ngoại sinh cung cấp từ thức ăn và một phần từ khối noãn hoàng (Buddington and Doroshov, 1986). Hoạt tính của pepsin ở cá lóc tăng nhanh có ý nghĩa từ ngày thứ 12 (p<0,05) sau khi nở. Điều này phù hợp với sự xuất hiện của tuyến dạ dày khi phân tích mô học của cá giai đoạn này. Tương tự, trên loài Acipenser persicus (Seyedeh et al., 2011), enzyme pepsin được phát hiện tăng có ý nghĩa ở ngày thứ 9 và kết quả nghiên cứu về mô học trước đó cho thấy ở loài này tuyến dạ dày xuất hiện trong khoảng từ 8 đến 10 ngày tuổi (Pahlevanyaly et al., 2004). Tuyến dạ dày liên quan đến việc phóng thích ra HCl để chuyển hóa pepsinogen thành pepsin tham gia vào quá trình tiêu hóa protein (Darias et al., 2007).

b. Trypsin

Hoạt tính enzyme trypsin của cá lóc bột tăng ở giai đoạn 1-18 ngày tuổi, sau đó tăng nhanh ở giai đoạn 21 ngày tuổi và đạt mức cao nhất là 333 mU/mg protein vào ngày 35 ở nghiệm thức TĂCB. Hoạt tính của trypsin ở nghiệm thức TĂCB trong giai đoạn 18-30 ngày tuổi thấp hơn so với nghiệm thức TĂTS (p<0,05). Tuy nhiên, đến ngày thứ 35, ở nghiệm thức TĂCB hoạt tính enzyme trypsin tăng cao hơn so với nghiệm thức TĂTS (Bảng 4.4).

TĂTS 5,35±0,10a 53,9±1,32b 115±12,5de 51,8±4,65b 48,9±6,92b 53,8±2,52b 81,9±16,5c 106±19,0dA 189±0,44fA 116±15,1deA 136±19,2eA 262±23,3gA

Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trên cá rô phi (Tengjaroenkul et al., 2002), cá tra (Wannapa et al., 2012), cá chốt (Manee et al., 2012). Hoạt tính của trypsin được tìm thấy ở giai đoạn cá mới nở có thể do trypsin là một enzyme tham gia vào quá trình nở của cá (Noting et al., 1999). Từ ngày thức 18 có sự

83

Bảng 4.4: Hoạt tính enzyme trypsin (mU/mg protein) trên cá lóc từ 1 đến 35 ngày tuổi TĂCB Ngày tuổi 5,30±0,05a 1 52,2±1,32b 3 108±6,11d 5 53,2±3,95b 7 45,9±3,11b 9 50,3±9,65b 12 86,2±12,7c 15 55,9±5,64bB 18 131±5,25eB 21 78±8,60cB 25 102±4,86dB 30 333±19,9fB 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi các chữ thường khác nhau và các giá trị trong cùng một hàng theo sau bởi chữ in hoa khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

khác biệt về hoạt tính của các enzyme ở nghiệm thức TĂTS và TĂCB là do sự tổng hợp của các enzyme tiêu hóa chính ở cá và phụ thuộc vào thức ăn (Suzer et al., 2007). Péres et al. (1996) khi cho cá vược Châu Âu bột ăn với khẩu phần chứa mức protein khác nhau (từ 30-60% trọng lượng khô) dẫn đến sự gia tăng hoạt tính enzyme trypsin vào ngày 35, tuy nhiên không có sự thay đổi hoạt tính enzyme vào ngày 18 hoặc 28. Từ đó đưa ra giả thuyết rằng cơ chế liên quan đến hoạt động của trypsin xảy ra muộn. Qua nghiên cứu này tác giả cũng khẳng định rằng hoạt tính của trypsin tăng lên trong quá trình phát triển ấu trùng khi được cho ăn do thức ăn có hàm lượng protein cao. Hoạt tính của trypsin ở nghiệm thức cho ăn thức ăn chế biến trong giai đoạn 18-30 ngày tuổi thấp hơn so với nghiệm thức cho ăn bằng cá tạp (p<0,05). Điều này có thể do trong thức ăn chế biến có chứa thành phần đậu nành ly trích dầu (15%). Một trong những hạn chế khi sử dụng đậu nành ly trích dầu làm thức ăn cho động vật thủy sản là trong đậu nành ly trích dầu chứa nhiều yếu tố kháng dinh dưỡng, đặc biệt là các chất ức chế enzyme tiêu hóa protein, chất này sẽ ức chế hoạt tính của enzyme trypsin ở ruột (Lê Thanh Hùng, 2008). Hart et al. (2010) nghiên cứu trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) cho thấy khi tăng tỉ lệ protein đậu nành ly trích dầu vượt mức 40% thì khả năng tiêu hóa của cá giảm do sự xuất hiện của chất ức chế trypsin. Nghiên cứu về khả năng thay thế bột cá bằng đậu nành ly trích dầu trên cá thát lát còm cũng kết luận rằng hoạt tính của enzyme trypsin giảm khi tăng tỉ lệ protein đậu nành ly trích dầu (Nguyễn Thị Linh Đan và ctv., 2013). Đến ngày thứ 35, ở nghiệm thức sử dụng thức ăn chế biến hoạt tính enzyme trypsin tăng cao hơn so với nghiệm thức sử dụng cá tạp (333 mU/mg protein so với 262 mU/mg protein) (p<0,05). Kết quả này có thể do sự thích ứng của cá lóc sau một thời gian chuyển đổi thức ăn, tuy nhiên, vấn đề này cần có những nghiên cứu trên một số loài cá để có kết luận chính xác hơn.

c. Chymotrypsin

Hoạt tính của enzyme chymotrypsin biến động trong giai đoạn 1-7 ngày tuổi và 15-25, tăng trong giai đoạn 7-15 và 25-35 ngày tuổi. Giai đoạn 25-35 ngày tuổi, hàm lượng enzyme chymotrypsin tăng đáng kể, đạt mức cao nhất vào ngày thứ 35 ở cả 2 nghiệm thức với hàm lượng tương ứng là 1,708±124 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂTS và 1,773 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂCB (Bảng 4.5).

84

TĂTS 100±2,17ab 216±1,68b 116±12,7ab 86,7±7,88a 222±28,2b 352±42,7c 556±48,4d 342±25,5c 420±12,5c 591±58,5d 1.379±290e 1.709±125f

Không có sự khác biệt về hoạt tính của enzyme chymotrypsin ở hai nghiệm thức thí nghiệm (p>0,05). Hoạt tính của enzyme chymotrypsin được phát hiện ngay cả khi cá chưa mở miệng là vì sự hiện diện của tuyến tụy (Ma et al., 2005). Trong khi đó, Walford and Lam (1993) cho rằng lượng nhỏ enzyme tìm thấy ở giai đoạn sau khi cá nở có thể đến từ hoạt động của lysosome tham gia vào quá trình tiêu hóa protein trong các biểu mô của ruột sau. Trypsin và chymotrypsin là hai loại enzyme của tuyến ruột giữ vai trò quan trọng nhất giúp cho việc tiêu hóa thức ăn có nguồn gốc protein (Hofer and Schiemer, 1981; Munilla – Moran et al., 1990). Hoạt tính của enzyme chymotrypsin giữa nghiệm thức sử dụng TĂTS và TĂCB không có sự khác biệt chứng tỏ thức ăn tươi sống và thức ăn nhân tạo không có ảnh hưởng đến chymotrypsin. Tương tự, Lazo et al. (2000) đã nghiên cứu trên ấu trùng cá Sciaenops ocellatus cũng cho thấy hoạt tính của chymotrypsin không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi cá được cho ăn thức ăn tự nhiên và thức ăn viên nhân tạo. Trên loài cá vược Châu Âu không tìm thấy sự khác biệt nào về ảnh hưởng của các enzyme tuyến tụy khi được cung cấp thức ăn nhân tạo (Kolkovski et al.,1997).

Bảng 4.5: Hoạt tính enzyme chymotrypsin (mU/mg protein) trên cá lóc thí nghiệm TĂCB Ngày tuổi 119±11,6a 1 223±7,47ac 3 103±14,3a 5 94,9±14,2a 7 213±36,4b 9 346±12,6c 12 543±18,8e 15 404±13,4cd 18 450±8,06d 21 583±49,2e 25 1.257±144f 30 1.773±62,3g 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

4.1.3.2 Hoạt tính enzyme amylase

Hoạt tính của enzyme α-amylase ở cá lóc được phát hiện ở ngày thứ 1 sau khi cá nở. Tương tự kết quả được tìm thấy trên các loài cá Sciaenops ocellatus (Lazo et al., 2000), Dentex dentex (Gisbert et al., 2009), cá tra (Wannapa et al., 2012). Hoạt tính enzyme amylase biến động trong suốt giai đoạn phát triển của cá, tăng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 9 (1,42 mU/mg protein và 1,43 mU/mg protein) sau đó giảm ở giai đoạn 15 đến 18 ngày tuổi. Giai đoạn 21 đến 35 ngày

85

tuổi, đạt 3,68 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂTS và 5,77 mU/mg protein ở nghiệm thức TĂCB vào ngày thứ 35 ở (Bảng 4.6).

TĂTS 0,66±0,13ab 0,47±0,06a 0,67±0,01ab 0,46±0,02a 1,42±0,05c 2,54±0,12e 3,24±0,24f 0,90±0,06bA 1,53±0,13cdA 2,66±0,27eA 1,72±0,03dA 3,68±0,17gA

Khi chuyển đổi sang thức ăn chế biến (từ ngày 17) thì hoạt tính của enzyme amylase ở nghiệm thức TĂCB cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức TĂTS (p<0,05) (Bảng 7). Kết quả này là do trong TĂCB có chứa carbohydrate cao hơn hẳn trong nghiệm thức cho ăn cá tạp. Carbohydrate sẽ kích thích hoạt động tiết enzyme α – amylase ở cá lóc. Hoạt tính của amylase cũng cao hơn khi cho cá bột ăn với khẩu phần ăn bổ sung 25% glucid so với chỉ bổ sung 5% glucid (Henning et al., 1994), tương tự hoạt tính của amylase ở cá chẽm bột khi được cho ăn kết hợp với một mức cao tinh bột ở ngày tuổi 18 sẽ cao hơn so với thức ăn không có sự kết hợp ở ngày tuổi thứ 35 (Cahu and Infante, 2001). Sự gia tăng hoạt tính của α – amylase có thể do sự phát triển của hệ tiêu hóa (Chakrabarti et al., 2006) và sự thích ứng của cá bột trong việc chuyển hóa carbohydrate (Chakrabarti and Rathore, 2009). Bởi vậy, việc sử dụng carbohydrate như một nguồn cung cấp năng lượng rẻ tiền có thể sẽ là phương pháp tiếp cận để giảm giá thành thức ăn.

Bảng 4.6: Hoạt tính enzyme α-amylase (mU/mg protein) trên cá lóc giai đoạn 1-35 ngày tuổi TĂCB Ngày tuổi 0,64±0,10a 1 0,48±0,04a 3 0,65±0,04a 5 0,46±0,01a 7 1,43±0,12b 9 2,67±0,15c 12 3,16±0,17d 15 1,46±0,07bB 18 2,80±0,16cB 21 3,86±0,23eB 25 4,07±0,10eB 30 5,77±0,14fB 35 Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột theo sau bởi các chữ thường khác nhau và các giá trị trong cùng một hàng theo sau bởi chữ in hoa khác nhau khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

4.1.4 Mối liên hệ giữa hàm lượng enzyme và sự phát triển ống tiêu hóa

Enzyme tiêu hóa ở cá lóc được phát hiện ở mức thấp ở giai đoạn cá mới nở cho đến khi tuyến dạ dày xuất hiện ở ngày 12, kết quả phân tích enzyme cho thấy hoạt tính của pepsin ở cá lóc được phát hiện là có ý nghĩa (p<0,05) và tăng mạnh ở giai đoạn cuối của thí nghiệm khi tuyến dạ dày được quan sát một cách

86

rõ ràng. Như vậy có thể nói rằng sự xuất hiện tuyến dạ dày có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tiết enzyme pepsin ở cá lóc. Khi tuyến dạ dày hình thành nó sẽ phóng thích HCl để chuyển hóa pepsinogen thành pepsin tham gia vào quá trình tiêu hóa sơ bộ protein (Darias et al., 2007; Yúfera and Darías, 2007), do đó nó tạo điều kiện cho quá trình thủy phân protein thành các peptid và các acid amin, sau đó nhờ hoạt động của trypsin, chymotrypsin và aminopeptidase ở ruột giữa và ruột sau để tiếp tục quá trình tiêu hóa và hấp thu protein (Govoni et al., 1986). Tuyến dạ dày đầu tiên có thể được phát hiện sau khi nở vài ngày hoặc vài tuần và tăng dần số lượng các biểu mô dạ dày một phần hoặc hoàn toàn tùy thuộc vào loài (Zambonino et al., 2008). Điều này cũng tương ứng với các nghiên cứu về mô học trong thời gian gần đây của Hag et al. (2012) trên loài cá chốt (Mystus nemurus) chỉ ra rằng có sự phân biệt về mô học của dạ dày ở ngày tuổi thứ 5 sau khi nở và khi tuyến dạ dày xuất hiện vào ngày tuổi thứ 7 cho thấy sự hiện diện của enzyme pepsin. Chen et al. (2002) cũng đã báo cáo về sự xuất hiện của tuyến dạ dày vào ngày thứ 5 trên loài Mytus macropterus trong khi đó hạt pepsinogen xuất hiện trong tuyến dạ dày ở ngày tuổi thứ 3 sau khi nở ở cá tra vàng (Yang et al., 2010). Cá trê phi, dạ dày xuất hiện vào ngày tuổi thứ 6 làm cho pH trong dạ dày thấp chỉ còn 3,3 vào ngày thứ 7 sau khi cá nở (Verreth et al., 1992). Kết quả tương tự cũng được tìm ra trên loài Acipenser persicus (Seyedeh et al., 2011) enzyme pepsin được phát hiện có ý nghĩa ở ngày thứ 9 trong khi đó các nghiên cứu về mô học trước đó cho thấy ở loài này tuyến dạ dày xuất hiện trong khoảng từ 8 đến 10 ngày tuổi (Pahlevanyaly et al., 2004).

Ở cá lóc, vào ngày tuổi thứ 3 một vài không bào lipid và thể vùi protein được quan sát ở ruột trước cho thấy việc hấp thu chất dinh dưỡng từ thức ăn. Do đó trong giai đoạn cá mới nở, mặc dù dạ dày và ruột chưa hoàn thiện về chức năng, nhưng kết quả phân tích vẫn cho thấy có sự hiện diện một lượng nhỏ của các enzyme tiêu hóa. Sự xuất hiện của không bào protein ở đoạn ruột sau có thể là kết quả của quá trình hấp thu protein, cũng được quan sát bởi các tác giả khác (Iwai, 1969; Walford and Lam, 1993; Saraqueste et al., 1994; Bisbal and Bengston, 1995). Sự hiện diện của protein trong các túi có thể giải thích cho hoạt động của acid phosphate trong suốt giai đoạn cá bột ở một phần ruột, bởi vì hoạt tính của enzyme cũng có mối quan hệ với hoạt tính của pinocytic và sự tiêu hóa nội bào. Vào ngày thứ 18, trên các mẫu mô học được quan sát cho thấy cấu trúc ruột cá lóc đã phân chia làm 4 phần: lớp niêm mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp cơ trơn và lớp màng ngoài. Điều đó cho thấy sự hoàn thiện về mặt cấu trúc của ruột từ giai đoạn này trở về sau. Kết quả phân tích α – amylase, trypsin và chymotrypsin cũng chỉ ra rằng hoạt tính của các enzyme này tăng mạnh sau ngày thứ 18 (p<0,05). Theo Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư (2010),

87

các enzyme α – amylase, trypsin và chymotrypsin được sản sinh từ tuyến tụy nhưng có vị trí tác động ở ruột. Trong khi đó, Zambonino Infante and Cahu (1994) cho rằng thành ruột dày lên và sự gia tăng của các nếp gấp giúp nâng cao hoạt động của các enzyme ở màng tế bào.

Trên loài vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax) vào ngày tuổi thứ 25, khi số lượng nếp gấp ở ruột tăng thì hoạt tính của enzyme tăng đột biến ở dưới lớp màng tế bào (Cahu and Infante, 1994), trong khi đó Saraquete et al. (1996) cho rằng ở loài bơn (Solea senegalensis) số lượng nếp gấp niêm mạc tăng đồng thời với sự tăng cao mạnh mẽ của một số enzyme tiêu hóa ở màng tế bào, từ ngày 10 đến ngày thứ 30 khi các nếp gấp ở ruột tăng về mặt số lượng và độ dày cho thấy sự gia tăng tiêu hóa và hấp thu ở ruột. Cùng với sự phát triển của cá thì càng về cuối thí nghiệm cho thấy sự gia tăng mạnh của các nếp gấp ở ống tiêu hóa, chủ yếu là dạ dày và ruột trước, thành dạ dày và thành ruột dày lên cho thấy sự gia tăng quá trình tiêu hóa và hấp thu ở các khu vực này. Sự gia tăng hoạt tính enzyme cùng với sự phát triển của cá bột cũng được mô tả ở các loài cá khác (Lauff and Hofer, 1984; Segner et al.,1989). Tuy nhiên theo Sergner et al. (1994) sự gia tăng này có mối quan hệ với sự gia tăng diện tích bề mặt của ruột.

Như vậy, phát triển của ống tiêu hóa có liên quan đến hoạt động tiết các enzyme tiêu hóa của cá lóc. Do đó những hiểu biết về mô học của ống tiêu hóa là rất quan trọng, nó cho phép chúng ta lựa chọn thời điểm thích hợp để chuyển đổi thức ăn một cách có hiệu quả nhất, từ đó khuyến cáo người nuôi phương thức cho ăn và loại thức ăn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá.

4.2 Phương pháp xác định độ tiêu hóa của cá lóc

4.2.1 Thời điểm thu phân

Lượng phân của cá lóc thu được sau 2 giờ cho ăn (0,15 g/bể) tăng dần đến 10h sau cho ăn (0,76 g/bể), sau đó giảm dần sau 12 giờ cho ăn (0,56 g/bể) giảm đến sau 24 giờ cho ăn (0,14 g/bể). Lượng phân thu được nhiều ở thời điểm 6- 16 giờ sau khi cá ăn dao động từ 0,63-0,76 g/bể, trong đó giai đoạn từ 6-10 giờ thu được lượng phân nhiều nhất. Độ tiêu hóa vật chất khô thu được cao nhất tại thời điểm 8 giờ sau khi cho ăn, thấp nhất 70% ở thời điểm 2 giờ sau khi cá ăn (Hình 4.14). Tuy nhiên, độ tiêu hóa vật chất khô ở cá lóc tại các thời điểm khác nhau trong 24 giờ khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) và dao động từ 70-73,2%.

88

Một số nghiên cứu chứng minh rằng thời điểm thu mẫu phân tùy thuộc vào loài cá khác nhau, kết quả nghiên cứu của Hien et al. (2010) cho thấy lượng phân thu được nhiều nhất ở cá tra là 14 giờ sau khi ăn; nghiên cứu của nhóm Allan et al. (1999) ở cá vược (Bidyanus bidyanus) là 18 giờ sau khi ăn; trong khi nghiên cứu của Hernández et al. (2015) ở cá hồng (Lutjiannus guttatus) là 3-4 giờ sau khi ăn. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về thời điểm thu phân thích hợp để xác định độ tiêu hóa thức ăn tùy thuộc lớn vào loài cá thí nghiệm. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy thời gian thu phân thích hợp cho nghiên cứu về độ tiêu hóa ở cá lóc là 8 giờ sau khi cá ăn.

Hình 4.14. Khối lượng phân và độ tiêu hóa thức ăn của cá lóc tại các thời điểm khác nhau (ADC: Apparent Digestibility Coefficients)

4.2.2 Phương pháp thu phân thích hợp

Độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc bằng 3 phương pháp thu phân khác nhau được trình bày ở Bảng 4.7. Lượng phân thu được bằng phương pháp vuốt rất ít, không đủ lượng phân để phân tích độ tiêu hóa, do cấu trúc ống tiêu hóa cá lóc gấp khúc, vách ruột dày nên khó vuốt phân. Phương pháp mổ thu được phân ít do ruột cá nhỏ, ngắn, thành ruột dầy, dễ lẫn thức ăn chưa tiêu hóa hoàn toàn, máu ... nên không thể xác định được độ tiêu hóa. Kết quả độ tiêu hóa vật chất khô và protein ở phương pháp thu phân mổ lần lượt là 21,0% và 41,1%, kết quả này thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với phương pháp thu mẫu phân bằng phương pháp lắng lần lượt là 70,8% và 89,9%.

89

Bảng 4.7: Độ tiêu hóa thức ăn ở cá lóc với 3 phương pháp thu phân khác nhau

Độ tiêu hóa Nghiệm thức

Vật chất khô (%) 70,8 ± 1,81a 21,0 ± 1,29b -* Protein thô (%) 89,8 ± 0,96a 41,1 ± 1,43b -*

Phương pháp thu phân tùy thuộc vào loài cá, nghiên cứu của Hien et al. (2010) chứng minh rằng ở cá Tra phương pháp thu phân lắng hoặc phương pháp mổ là thích hợp, phương pháp vuốt không thực hiện được trên cá Tra do thành bụng dày, ruột gấp khúc. ADC vật chất khô, protein và năng lượng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với phương pháp mổ. Điều này còn được chứng minh qua nghiên cứu của Allan et al. (1999) trên cá vược (Bidyanus bidyanus); Storebakken et al. (1998) trên cá hồi Đại Tây Dương (Salmom salar) với kết quả phương pháp thu phân lắng là thích hợp nhất. Tuy nhiên, nghiên cứu của Hemre et al. (2003) trên cá tuyết (Gadus morhua) thì phương pháp thu phân vuốt và mổ được sử dụng phổ biến nhất và ADC thu được khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tương tự, Glencross et al. (2005) thí nghiệm so sánh phương pháp thu phân lắng và vuốt trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) với nhóm nguyên liệu khác nhau, kết quả cho thấy thu phân bằng phương pháp vuốt cho kết quả ADC cao hơn so với phương pháp lắng. Nghiên cứu áp dụng phương pháp thu phân vuốt và mổ trên cá tầm vịnh (Acipenser oxyrinchus desotoi), cho kết quả ADC vật chất khô, năng lượng và protein thô của phương pháp vuốt lần lượt là 58%, 69% và 85%, cao hơn so với phương pháp mổ lần lượt là 54%, 64%, và 78% và phương pháp vuốt là phương pháp được lựa chọn cho loài cá này (Veneroa et al., 2006).

Phương pháp thu phân tối ưu sẽ khác nhau tùy theo mỗi loài (dạng phân, cấu trúc cơ thể). Từ kết quả của thí nghiệm này cho thấy thu phân bằng phương pháp vuốt và mổ không thể thực hiện được trên đối tượng cá lóc. Như vậy ở cá lóc thì phương pháp thu phân thích hợp nhất là phương pháp lắng.

90

Phương pháp lắng Phương pháp mổ Phương pháp vuốt Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). *Lượng phân thu được ít, không đáp ứng đủ lượng để phân tích.

4.3 Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu dinh dưỡng

của cá lóc

4.3.1 Khảo sát đặc điểm sinh trưởng và thành phần hóa học cá lóc nuôi

thương phẩm

4.3.1.1 Sinh trưởng của cá lóc nuôi thương phẩm

Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của (DWG) của cá lóc với

khối lượng cá được thể hiện ở Hình 4.15.

Mối tương quan giữa tăng trưởng tuyệt đối và khối lượng cá được thể hiện qua phương trình y = axb (Lupatsch, 2003; Glencross et al., 2010; Tien et al., 2016). Trong đó y là DWG (g/ngày), x là khối lượng trung bình của cá, x = (khối lượng đầu * khối lượng sau)^0,5. Trong nghiên cứu này, mối tương quan giữa DWG và khối lượng cá của cá lóc được thể hiện qua phương trình:

 y = 0,468x0,391 (R2 = 0,79)

(Phương trình 1)

Kết quả nghiên cứu (Hình 4.15) thể hiện cá lóc có khối lượng càng lớn thì có DWG càng cao, một số kết quả nghiên cứu trên các đối tượng khác cũng có khuynh hướng tăng trưởng tương tự. Như cá bớp, khi thu mẫu cá có khối lượng từ 25 g đến 2.013 g ở các ao nuôi thương phẩm thì tăng trưởng của cá được xác định qua phương trình y (g/ngày) = 0,157x (g)0,574 (R2=0,847) (Tien et al., 2016). Tương tự, Glencross et al. (2010) thu mẫu cá tra trong 10 tháng nuôi thương phẩm (cá từ 30 g đến 935 g/con) cũng được xác định mối tương quan

91

Hình 4.15: Mối tương quan giữa khối lượng cá và tăng trưởng tuyệt đối của cá lóc.

giữa DWG và khối lượng của cá với phương trình y (g/ngày) = 0,235x (g)0,53 (R2 = 0,77). Trên cá rô phi có phương trình y (g/ngày) = 0,276 x (g)0,46 (R2 = 0,73) được biểu diễn cho tăng trưởng của cá khi tiến hành thu mẫu lên tục trong 3 tháng tại các ao nuôi thương phẩm (Trung et al., 2011). Có thể thấy các loài đều có xu hướng tăng trưởng khi khối lượng cá càng lớn thì có DWG càng cao, cá lóc trong nghiên cứu có số mũ b thấp hơn các loài cá trên cho thấy cá lóc có DWG thấp hơn các loài này. Tuy nhiên, so với cá kèo, khi thu mẫu liên tục trong 4 tháng (cá có khối lượng từ 0,02 g đến 18,5 g) thì tăng trưởng của cá được thể hiện qua phương trình y (g/ngày) = 0,104x (g)0,278 (R2 = 0,701) (Trần Thị Bé, 2016) thì cá lóc có DWG cao hơn.

Một số nghiên cứu khác, ngoài ảnh hưởng của khối lượng cá thì còn nghiên cứu đến tác động của nhiệt độ lên tốc độ tăng trưởng và được thể hiện bằng phương trình y = axb*e^c*T (Lupatsch, 2003). Tăng trưởng của cá vược Châu Âu được nghiên cứu trong suốt một năm với các kích cỡ cá (từ 1 đến 1.600 g/ con) và các mức nhiệt độ khác nhau (từ 19-26oC) đã được xác định với phương trình tương quan như sau y (g/ngày) = 0,64 x (kg)0,587*e^0,07*T(Lupatsch et al., 2001a). Lupatsch (2003) nghiên cứu trên cá tráp (Sparus aurata) có khối lượng từ 1 đến 450 g được xác định tăng trưởng ở các mức nhiệt độ từ 20 đến 26oC với phương trình tương quan như sau: y (g/ngày) = 0,92 x (g)0,613*e^0,065*T. Nghiên cứu cá mú trắng trong suốt thời gian một năm đã xác định DWG và khối lượng của cá (từ 1 đến 1.600 g/con) dưới ảnh hưởng của nhiệt độ (từ 20–27 oC) thông qua phương trình tương quan như sau y (g/ngày) =0,062 x (g)0,558*e^0,03*T (Lupatsch and Kissil, 2005). Từ các kết quả phân tích của các phương trình tương quan trên cho thấy khi nhiệt độ càng cao thì tăng trưởng của cá càng tăng. Tuy nhiên, phân tích số liệu tổng quan từ 69 loài cá xương ở khu vực nhiệt đới thì Clarke and Johnson (1999) nhận định rằng ở khu vực nhiệt đới thì nhiệt độ ảnh hưởng không rõ ràng đến trao đổi chất cơ sở của cá. Do vậy, dựa trên kết quả tổng quan này, trong nghiên cứu xác định trao đổi chất cơ sở của cá lóc không sử dụng yếu tố nhiệt độ trong mô hình và phương trình 1 sẽ được sử dụng để tính tốc độ tăng trưởng của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

92

4.3.1.2 Thành phần hóa học của cá lóc nuôi thương phẩm

Thành phần hóa học của cá lóc trong suốt chu kỳ nuôi thương phẩm được

thể hiện qua Hình 4.16

N ă n g l

ư ợ n g (

K J / g )

Mối tương quan giữa cá thành phần hóa học và cơ thể cá được thể hiện ở

các phương trình sau:

 Ẩm độ (%) = 75,65 x(g)– 0,013 (Phương trình 2);  Protein (%) = 0,001 x(g)+ 17,85 (Phương trình 3);  Lipid (%) = 2,28 x(g)0,174 (Phương trình 4);  Tro (%) = -0,001 x(g) + 5,16 (Phương trình 5);  Năng lượng (KJ/g) = 4,9 x(g)0,059 (Phương trình 6).

Từ biểu đồ cho thấy, ẩm độ của cá lóc dao động từ 67,1-76,3% và có xu hướng giảm dần theo thời gian nuôi (cá càng lớn, hàm lượng nước trong cơ thể càng ít). Trong suốt chu kỳ nuôi, cá có sự thay đổi về hàm lượng lipid cao nhất so với các hàm lượng dinh dưỡng khác, dao động từ 1,94-7,78% và sự thay đổi hàm lượng lipid trong cơ thể cá có xu hướng tỉ lệ nghịch so với hàm lượng ẩm độ (cá càng lớn, hàm lượng lipid của cơ thể càng cao). Kết quả này có nghĩa là độ khô và lipid trong cơ thể cá là hai yếu tố thay đổi lớn trong chu kỳ nuôi. Năng lượng của cá lóc dao động từ 4,86 KJ/g-7,51 KJ/g và có xu hướng tăng dần theo

93

Hình 4.16: Mối tương quan giữa thành phần hóa học và khối lượng cá.

khối lượng cá. Hàm lượng protein dao động từ 16,3-19,8% và hàm lượng tro dao động từ 4,05-5,81% đều có xu hướng tăng dần theo thời gian nuôi nhưng sự biến đổi không nhiều và được thể hiện bằng phương trình đường thẳng.

Kết quả phân tích của nghiên cứu cho thấy thành phần hóa học của cá lóc có khuynh hướng biến đổi tương tự như sự biến đổi thành phần hóa học ở một số loài cá khác như cá vược Châu Âu (Lupatsch et al., 2001a), cá tráp (Lupatsch, 2003), cá mú trắng (Lupatsch and Kissil, 2005), cá tra (Glencross et al., 2010), cá rô phi (Trung et al., 2011), cá bớp (Tien et al., 2016) và cá kèo (Trần Thị Bé, 2016). Phần lớn năng lượng và protein được cá sử dụng cho tăng trưởng, vì vậy việc phân tích thành phần hóa học trong cơ thể cá sẽ là yếu tố chính để xác định nhu cầu năng lượng cho cá (Lupatsch, 2003).

Phương trình tuyến tính thể hiện mối tương quan giữa khối lượng cá và hàm lượng protein của cá lóc (Phương trình 3) và phương trình thể hiện mối tương quan giữa khối lượng cá và năng lượng của cá lóc (Phương trình 6) được sử dụng để xây dựng nhu cầu protein tăng trưởng cho các giai đoạn khác nhau của cá lóc trong mô hình năng lượng sinh học.

)

%

( á c a ủ c n i m a d i c a n ầ h p h n à h T

94

Hình 4.17: Mối tương quan giữa hàm lượng acid amin và khối lượng cá.

Hàm lượng các loại acid amin thiết yếu trong cơ thể cá lóc (Hình 4.17) không biến động nhiều trong suốt chu kỳ nuôi và được thể hiện bằng phương trình đường thẳng. Trong đó phương trình tuyến tính thể hiện mối tương quan giữa khối lượng cá và hàm lượng methionine, lysine được sử dụng để xây dựng nhu cầu methionine, lysine cho các giai đoạn của cá lóc trong mô hình năng lượng sinh học.

 Methionine (%) = 2.10-5x + 0,46 (Phương trình 7);

 Lysine (%) = 0,0002x + 1,22 (Phương trình 8).

4.3.2 Protein, năng lượng và acid amin tiêu hao

4.3.2.1 Tỉ lệ sống và khối lượng cá trước và sau quá trình bỏ đói

Kết quả thí nghiệm không cho cá ăn trong 28 ngày trên 5 nhóm kích cỡ cá khác nhau (10 g/con; 50 g/con; 100 g/con; 200 g/con; 500 g/con) có tỉ lệ sống, khối lượng của cá mất đi được thể hiện qua Bảng 4.8.

WG (g)

SR (%)

Wf (g)

Wi (g)

10,1±0,68

12,9±1,23

50g

59,4±0,48

50,7±1,76

100g

104±0,89

88,3±1,20

200g

170±0,83

500g

201±1,34 531±0,14

456±3,13

DWG (g/ngày) -0,10±0,03e -0,31±0,06d -0,56±0,05c -1,12±0,04b -2,69±0,12a

SGR (%/ngày) -0,88±0,14a -0,56±0,11b -0,58±0,06b -0,61±0,02b -0,55±0,03b

95,8±3,61a 97,2±2,78a 100±0,00a 95,8±7,21a 100±0,00a

-2,84±0,63e -8,66±1,63d -15,6±1,49c -31,4±1,02b -75,5±3,25a

Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trên cùng một cột có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Tỉ lệ sống của cá sau thí nghiệm ở các nghiệm thức dao động từ 95,8% đến 100%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nhau (p>0,05). Sau 28 ngày bỏ đói, cá chết rất ít, nhóm cá có kích cỡ 100g/con và nhóm 500g/con có tỉ lệ sống đến 100%, điều này cho thấy việc bỏ đói cá trong khoảng thời gian nhất định thì không gây ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ sống của cá.

Động vật thủy sản luôn hoạt động và tốn năng lượng cho các quá trình trao đổi chất như hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết … ngay cả khi được cho ăn hay không cho ăn. Khi không cho ăn, cá sử dụng nguồn năng lượng trong cơ thể bằng sự chuyển hóa các dưỡng chất lipid, protein tích lũy trong cơ thể để cung cấp cho các quá trình trao đổi chất cơ bản của cơ thể (NRC, 2011). Điều đó đồng nghĩa với việc khối lượng cá sẽ giảm dần theo thời gian bỏ đói. Trong thí nghiệm này cá có kích cỡ càng lớn thì có khối lượng giảm đi sau thời gian bỏ đó càng nhiều. Khối lượng cá giảm dao động trong khoảng 2,84-75,5 g và khối lượng của cá giảm trên ngày dao động trong khoảng 0,1-2,69 g/ngày và khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm kích cỡ cá (p<0,05), cá có khối

95

Bảng 4.8 : Khối lượng và tỉ lệ sống của cá trước và sau thí nghiệm Nhóm cá 10g

lượng giảm trên ngày cao nhất là 2,69 g/ngày ở kích cỡ cá 500 g/con và có khối lượng giảm thấp nhất là 0,1 g/ngày ở kích cỡ 10 g/con, như vậy cá có kích cỡ càng lớn thì có khối lượng giảm càng nhiều. Kết quả này tương tự như ở một số loài cá khác khi bị bỏ đói thì khối lượng của cá cũng giảm nhanh theo kích cỡ như trên cá cá vược Châu Âu với các kích cỡ khối lượng khác nhau cũng cho kết quả cá lớn thì khối lượng giảm cao hơn cá nhỏ 0,09 đến 0,32 g cá/ ngày (Lupatsch et al., 2001a), cá cam giảm 0,09-3,75 g/ngày tương ứng với khối lượng cá 39,8-60,1 g/con sau 12 ngày cá bị bỏ đói (Mark et al., 2010), cá kèo giảm 0,02-0,09 g/ngày tương ứng với kích cỡ cá 3,63-20 g/con (Trần Thị Bé, 2016).

Giá trị % khối lượng mất đi trên ngày biến động khoảng 0,55-0,88%/ngày, nhóm cá 10g/con có % khối lượng mất đi trên ngày cao nhất (0,88%/ngày) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nhóm cá còn lại. Nhóm cá có kích cỡ lớn nhất (500 g/con) có % khối lượng mất đi trên ngày nhỏ nhất (0,55 %/ngày). Kết quả thể hiện tỉ lệ % khối lượng mất đi trên ngày ở cá có kích cỡ nhỏ cao hơn cá có kích cỡ lớn, điều này cho thấy ở cá nhỏ có tốc độ tăng trưởng nhanh, nhu cầu dưỡng chất cho tăng trưởng cao nên khi bỏ đói, cá nhỏ sẽ sử dụng nhiều chất dinh dưỡng trong cơ thể hơn để duy trì hoạt động sống so với cá lớn. Nghiên cứu trên các đối tượng khác như cá vược Châu Âu (Lupatsch et al., 2001a), cá mú trắng (Lupatsch và Kissil, 2005), cá cam (Mark et al., 2010) cho kết quả % khối lượng mất đi trên ngày của cá nhỏ cao hơn cá lớn.

Như vậy, khi không cho cá ăn trong một khoảng thời gian nhất định thì không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống; khối lượng mất đi hàng ngày tỉ lệ thuận với khối lượng của cá; % khối lượng mất đi hàng ngày của cá nhỏ cao hơn so với cá lớn.

4.3.2.2 Thành phần hóa học của cá lóc trước và sau quá trình bỏ đói

Thành phần hóa học của cá lóc ở 5 nhóm kích cỡ cá cỡ cá khác nhau (10 g/con; 50 g/con; 100 g/con; 200 g/con; 500 g/con) trước và sau 28 ngày thí nghiệm được trình bày ở (Bảng 4.9).

96

Nhóm cá

Thành phần hóa học

10 g

50 g

100 g

200 g

500 g

Ẩm độ (%)

To

T

72,9±0,17 70,9±0,3 77,4±0,53a 70,6±0,67bc

69,2±0,68 71±0,68bc

67,6±0,56 70,4±0,71c

73,1±0,35 71,7±0,04b

Protein (%)

To

T

17,9±0,11 15,4±0,37c

18±0,19 18,6±0,43b

19,9±0,34 18,9±0,42 18,6±0,13b 19,1±0,53ab

18,4±0,01 19,3±0,07a

Lipid (%)

To

T

3,68±0,02 1,18±0,03c

5,01±0,05 4,16±0,05a

6,32±0,14 4,05±0,43a

6,81±0,12 4,1±0,09a

3,92±0,05 3,04±0,3b

Tro (%)

5,71±0,1

To

T

4,96±0,03 5,75±0,14c

5,66±0,06 6,55±0,23a

5,09±0,12 6,18±0,14ab

4,23±0,06 6,29±0,10a 5,89±0,32bc

Năng lượng

To

(KJ/g)

7,05±0,16 6,03±0,21ab

5,78±0,04 4,15±0,10c

7,39±0,13 6,15±0,16a

5,96±0,08 5,78±0,13b

T

6,31±0,07 6,06±0,12a Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)

Qua kết quả phân tích thành phần hóa học của cá ở 4 nhóm kích cỡ khác nhau trong Bảng 4.9 cho thấy ẩm độ của các nhóm cá sau khi bỏ đói đều tăng lên (nhóm10, 100 và 200 g) hoặc giảm không đáng kể (nhóm 50 và 500 g), trong đó cá nhóm 10 g có ẩm tăng nhiều nhất (6,2%) so với ban đầu và có hàm lượng ẩm sau bỏ đói cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nhóm còn lại. Hàm lượng lipid và năng lượng của cá đều giảm sau quá trình bỏ đói, trong đó cá nhóm 10 g có lipid giảm nhiều nhất so với ban đầu và có hàm lượng lipid sau bỏ đói thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nhóm còn lại, lipid của cá sau thí nghiệm ở các nhóm 10, 50, 100, 200 và 500g giảm lần lượt 67,9; 16,9; 35,9; 39,8 và 22,4% so với cá ban đầu bố trí. Tương tự, năng lượng của cá sau thí nghiệm giảm so với cá ban đầu lần lượt là 28,2; 3,96; 14,5; 16,8 và 3% tương ứng với cá ở nhóm 10, 50, 100, 200 và 500g. Hàm lượng tro trong cơ thể cá ở các nhóm đều tăng lên so với cá ban đầu, hàm lượng tro sau bỏ đói thấp nhất ở cá nhóm 10g và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nhóm còn lại. Protein trong cơ thể cá sau bỏ đói so với cá ban đầu thể hiện sự ổn định hơn các thành phần hoá học khác khi có sự tăng giảm không đáng kể, trừ protein của cá ở nhóm 10 g giảm nhiều so với cá ban đầu và có protein sau bỏ đói thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nhóm còn lại. Điều này thể hiện quy luật cân bằng giữa các thành phần hóa học trong cơ thể.

Nghiên cứu của Hung et al. (1997) về ảnh hưởng của việc bỏ đói lên thành phần hóa học của cá tầm trắng (Acipenser transmontanus) có khối lượng 30 g/con. Kết quả nghiên cứu cho thấy ẩm độ trong cơ thể cá tầm tăng theo thời gian bỏ đói (từ 79,4 đến 83,8%) ngược lại hàm lượng lipid giảm mạnh (từ 3,2%

97

Bảng 4.9: Thành phần hóa học của cá lóc trước và sau 28 ngày bỏ đói (tính theo khối lượng tươi của cá)

còn 1,8%), hàm lượng protein giảm không đáng kể sau 28 ngày cá bị bỏ đói. Ở cá kèo sau 28 ngày không cho ăn thì ẩm độ của cá tăng, hàm lượng lipid giảm rõ rệt, trong khi đó thì hàm lượng protein trong cơ thể cá giảm không đáng kể (Trần Thị Bé, 2016). Điều này cũng khẳng định được khi cá không được cung cấp thức ăn thì lipid trong cơ thể được xem là nguồn cung cấp năng lượng chính phục vụ cho hoạt động trao đổi chất cơ sở của cá. Tuy nhiên, khi thời gian bỏ đói kéo dài hơn thì hàm lượng protein trong cơ thể vẫn phải chuyển hóa thành năng lượng để duy trì sự sống của loài. Cụ thể, ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) có khối lượng 2,1 g/con trong nghiên cứu của Reinitz (1983) thì hàm lượng lipid và protein trong cơ thể giảm lần lượt là 93% và 60% sau 12 tuần cá không được cho ăn. Cũng ở cá hồi vân có khối lượng là 318 g bị bỏ đói trong 6 tuần thì hàm lượng protein và lipid trong cơ thể đều giảm (Storebakken et al., 1991). Trên cá Catla catla cho thấy rằng hàm lượng nước tăng nhanh, hàm lượng lipid và protein thì giảm sau khi cá bị bỏ đói 45 ngày (Salam et al., 2000).

Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy việc cá bị bỏ đói sẽ ảnh hưởng đến thành phần hóa học trong cơ thể, tiêu hao protein hay lipid trong quá trình trao đổi chất khi bị bỏ đói tùy thuộc vào loài. Theo Abdus và Davies (1994), cá chó miền Bắc (Esox lucius) sử dụng lipid trong cơ thể làm nguồn nguyên liệu chính cung cấp năng lượng cho cá khi bị bỏ đói, tương tự như cá tầm trắng (Acipenser transmontatus) (Silas et al., 1997) và cá chép (Rutilus rutilus) (Mendez và Wieser, 1993). Trong khi đó, dựa trên sự tổng hợp tài liệu của Salam et al. (2000) cho thấy một số loài cá sử dụng protein trong cơ thể như là nguyên liệu chính cung cấp năng lượng trong quá trình bỏ đói như cá Rutilus rutilus (Mendez and Wieser, 1993).

98

4.3.2.3 Protein tiêu hao sau 28 ngày bỏ đói

Protein tiêu hao ở cá lóc sau 28 ngày bỏ đói có sự khác biệt giữa các nhóm cá lóc có khối lượng khác nhau. Nhóm cá lóc có khối lượng càng lớn thì protein tiêu hao càng nhiều (Hình 4.18).

Tương quan giữa protein tiêu hao và khối lượng cá lóc được thể hiện thông

qua phương trình sau:

 y = 0,004x0,76 (R2 = 0,91) (Phương trình 9)

Trong đó, x: khối lượng cá (g) ; y: protein tiêu hao của cá (g/cá/ngày) ; Số

mũ trao đổi protein của cá lóc là 0,76.

Số mũ trao đổi protein là giá trị cho thấy sự khác biệt về nhu cầu protein trao đổi chất cơ sở giữa các kích cỡ cá, nếu số mũ càng thấp cho thấy cá nhỏ có nhu cầu protein trao đổi chất cơ sở cao hơn cá lớn càng nhiều. Kết quả nghiên cứu này cho thấy ở cá lóc có hệ số trao đổi protein là 0,76 phù hợp với các kết luận và nghiên cứu trên các đối tượng khác có cùng tính ăn động vật như cá tráp; cá cam; cá đù; cá mú trắng; cá chẽm, Lates calcarifer; cá bớp là 0,7 (Lupatsch et al., 1998; Booth et al., 2010; Pirozzi et al., 2010; Lupatsch and Kissil, 2005; Glencross, 2008; Tien et al., 2016), cá vược Châu Âu là 0,69 (Lupatsch et al., 2001a).

Tuy nhiên, trên cá kèo có hệ số mũ trao đổi protein là 0,83 (Trần Thị Bé, 2016); cá rô phi là 0,85 (Trung et al., 2011); cá tra là 0,83 (Glencross et al., 2010). Kết quả hệ số đổi protein ở các loài cá này đều cao hơn so với cá lóc,

99

Hình 4.18: Tương quan giữa protein tiêu hao và khối lượng cá lóc.

nhóm cá này không có cùng tính ăn với cá lóc. Sự khác biệt này do đặc tính ăn của loài cá ăn thiên về động vật có hệ số mũ trao đổi protein thấp hơn loài cá ăn tạp (Glencross et al., 2010; Trung et al., 2011).

Protein của cá tiêu hao cho quá trình duy trì, tiêu hao từ lớp da, từ ruột, từ oxy hóa và sự chuyển hóa acid amin từ nguồn protein. Tuy nhiên giữa các loài cá khác nhau thì việc tiêu hao protein phục vụ cho trao đổi chất cơ sở cũng khác nhau (Lupatsch, 2003). Hàm lượng protein tiêu hao của cá lóc là 0,004 g/khối lượng cá (g)0,76/ngày. So sánh với các loài cá đã nghiên cứu cho thấy cá lóc tiêu hao protein cao hơn so với cá kèo (0,001 g/ khối lượng cá (g)0,83/ngày (Trần Thị Bé, 2016), cá rô phi là 0,002 g/ khối lượng cá (g)0,85/ngày (Trung et al., 2011), và cá tra 0,0021 g/ khối lượng cá (g)0,83/ngày (Glencross et al., 2010), do các loài cá này nhóm cá ăn tạp. Tuy nhiên nếu so với loài cùng nhóm ăn động vật thì protein tiêu hao của cá lóc thấp hơn như protein tiêu hao của cá bớp là 0,011 g /khối lượng cá (g)0,7 (Tien et al., 2016). Như vậy ở cá ăn động vật thì protein mất đi hàng ngày cao hơn so với các loài cá ăn tạp hay thiên về thực vật. Số mũ 0,76 của phương trình 9 là số mũ trao đổi protein được sử dụng để xây dựng nhu cầu protein trao đổi chất cơ sở của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

4.3.2.4 Năng lượng tiêu hao sau 28 ngày bỏ đói

Năng lượng tiêu hao ở cá lóc sau 28 ngày bỏ đói có sự khác biệt giữa các nhóm cá lóc có khối lượng khác nhau. Nhóm cá lóc có khối lượng càng lớn thì năng lượng tiêu hao càng nhiều (Hình 4.19).

100

Hình 4.19: Tương quan giữa năng lượng tiêu hao và khối lượng cá lóc.

Tương quan giữa năng lượng tiêu hao và khối lượng cá lóc được thể hiện

thông qua phương trình mũ số sau:

y = 0,144 x0,82 (R2 = 0,92) (Phương trình 10)

Trong đó, x: khối lượng cá (g) ; y: năng lượng tiêu hao của cá (KJ/cá/ngày);

Số mũ trao đổi năng lượng của cá lóc là 0,82.

Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số mũ trao đổi năng lượng của cá lóc là 0,82, hệ số mũ này tương tự hệ số mũ của một số loài cá khác có cùng tính ăn động vật như cá tráp là 0,83 (Lupatsch et al., 1998); cá cam, cá đù, cá mú trắng và cá chẽm là 0,8 (Booth et al., 2010; Pirozzi et al., 2010; Lupatsch and Kissil, 2005; Glencross, 2008); cá hồi Đại tây dương, Salmon salar là 0,8 (Helland et al., 2010); cá hồi vân là 0,82 (Bureau et al., 2006); cá vược Châu Âu là 0,79 (Lupatsch et al., 2001a); cá bớp là 0,822 (Tien et al., 2016). Hệ số trao đổi năng lượng của cá có đặc tính ăn tạp như cá kèo là 0,81 (Trần Thị Bé, 2016), cá rô phi là 0,85 (Trung et al., 2011), cá tra là 0,84 (Glencross et al., 2010) và cá trê trắng, Clarias batrachus là 0,8 (Hasan and Jafri, 1994). Như vậy, hệ số mũ trao đổi năng lượng ở các loài cá dao động 0,79-0,85 và có sự khác biệt không đáng kể giữa các loài cá có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau. Theo NRC (2011) hệ số mũ trao đổi năng lượng ở hầu hết các loài cá trung bình là 0,8.

Năng lượng tiêu hao của cá lóc trong nghiên cứu là 0,144 KJ/ khối lượng cá (g)0,82/ngày. Kết quả này thấp hơn so với loài cùng nhóm ăn động vật như cá bớp là 0,23 KJ/khối lượng cá (g)0,82/ngày (Tien et al., 2016). Tuy nhiên lại cao hơn so với một số loài ăn tạp khác như cá kèo là 0,021 KJ/khối lượng cá (g)0,81/ngày (Trần Thị Bé, 2016) và cá cá rô phi là 0,105 KJ/khối lượng cá (g)0,84/ngày (Trung et al., 2011). Như vậy, năng lượng mất đi hàng ngày của loài cá ăn động vật cao hơn ở loài cá có tính ăn tạp, thực vật; sự khác nhau giữa các loài cá có cùng tính ăn còn phụ thuộc vào loài và môi trường (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Số mũ 0,82 của phương trình 10 là số mũ trao đổi năng lượng được sử dụng để xây dựng nhu cầu năng lượng trao đổi chất cơ sở của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

101

4.3.3 Khả năng tiêu hóa thức ăn và các dưỡng chất trong thức ăn của cá lóc

Kết quả độ tiêu hóa thức ăn và dưỡng chất của cá lóc đối với thức ăn thí

nghiệm được trình bày ở Bảng 4.10.

Bảng 4.10: Độ tiêu hóa thức ăn và dưỡng chất của thức ăn thí nghiệm Độ tiêu hóa ADCDM ADCProtein ADCNăng lượng ADCLipid ADCAcid amin

Bảng 4.10 cho thấy độ tiêu hóa thức ăn thí nghiệm của cá lóc 75,1%, độ tiêu hóa protein, năng lượng và lipid tương ứng là 88,6%; 86,1% và 95,1%, độ tiêu hóa các loại acid amin thiết yếu đều trên 90%. Kết quả này cho thấy thức ăn có chất lượng tốt và khả năng tiêu hóa thức ăn của cá lóc cũng tương tự so với một số loài cá khác cùng nhóm ăn động vật như độ tiêu hóa thức ăn phổ biến của cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar) là 77,6%, độ tiêu hóa protein và năng lượng là 89,9% và 83,9% (Cook et al., 2000). Một nghiên cứu khác trên cá hồi Đại Tây Dương cho kết quả là 66,7% tiêu hóa thức ăn công nghiệp; 83,1% tiêu hóa protein và 81,5% tiêu hoá năng lượng (Hillestad et al., 1998). Nghiên cứu trên cá vược Châu Âu (Dicentrarchus labrax) 74 g/con có độ tiêu hóa protein là 92% và năng lượng là 89,2% khi cho cá được cho ăn thức ăn có 47% protein và năng lượng là 21,7 KJ/g (Lupatsch et al., 2010). Tương tự, một nghiên cứu khác trên cá vược Châu Âu, với thức ăn có mức năng lượng là 23,9 KJ/g thì độ tiêu hóa thức ăn (89,1%), protein (96,7%), lipid (97,4%) và năng lượng là 95,2% ; còn thức ăn có mức năng lượng là 25,8 KJ/g thì có độ tiêu hóa là 90,9%; 97,1%; 97,6% và 96,8% tương ứng cho thức ăn, protein, lipid và năng lượng (Boujard et al., 2004). Độ tiêu hóa dưỡng chất của cá lóc trong thí nghiệm

102

Giá trị (%) 75,1 88,6 86,1 95,1 95,4 90,2 94,6 94,9 96,3 93,1 94,0 93,4 96,2 93,9 Methionine Cystine Lysine Threonine Arginine Isoleucine Leucine Valine Histidine Phenylalanine

cao hơn so với cá cam (Seriola lalandi) có độ tiêu hóa protein là 59,5% và năng lượng là 50,5% (Booth et al., 2010).

Một số loài cá thuộc nhóm khác như cá kèo có độ tiêu hóa thức ăn là 74,2%, độ tiêu hóa protein, năng lượng tương ứng là 87% và 74,1% khi thí nghiệm trên thức ăn có mức protein là 33,6%, năng lượng là 16,3 KJ/g và lipid là 5,37% (Trần Thị Bé, 2016). Ở cá rô phi (Oreochromis niloticus) với mức protein trong thức ăn là 37% và lipid 5% thì cho kết quả độ tiêu hóa protein là 80,4% và độ tiêu hóa năng lượng là 80% (Trung et al., 2010). Trên cá mè vinh (Puntius gonionotus) thì ở thức ăn thường dùng cho loài có độ tiêu hóa protein và năng lượng là 92,8% và 85,6% (Mohanta et al., 2006).

Nghiên cứu của Glencross et al. (2010) về hiệu quả sử dụng protein và năng lượng trên cá tra với thức ăn có chứa 35% protein thô, 10% lipid thì có độ tiêu hóa protein và năng lượng lần lượng là 93,1% và 90,4%. Cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) có độ tiêu hóa thức ăn và năng lượng là 66,5% và 72,8%; độ tiêu hóa protein khoảng (76,7-81,7%) (Kitagima and Fracalossi, 2010). Cá trê phi (Clarias gariepinus) có độ tiêu hóa thức ăn công nghiệp và protein khoảng 54–84% và 80–90% (Panagiotis and Neofitou, 2003).

Như vậy độ tiêu hóa thức ăn và dưỡng chất phụ thuộc vào loài, loại thức ăn sử dụng, nhiệt độ và phương pháp thí nghiệm. Đối với thức ăn trong thí nghiệm cá lóc có độ tiêu hóa protein (88,6%), độ tiêu hóa năng lượng (86,1%), độ tiêu hóa methionine (95,4%) và độ tiêu hóa lysine (94,6%) được áp dụng cho nghiên cứu này.

103

4.3.4 Hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin của cá lóc

4.3.4.1 Tỷ lệ sống

Tỷ lệ sống của cá lóc sau 28 ngày thí nghiệm với các mức cho ăn khác

nhau được thể hiện ở Hình 4.20.

Kết quả tỉ lệ sống của cá khi được cho ăn các mức từ 0% đến 3% khối lượng thân/ngày ở các nghiệm thức dao động trong khoảng từ 70,7-88%. Trong đó nghiệm thức cá lóc không được cho ăn (0%) nhưng tỷ lệ sống cao nhất (88%), khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức cho ăn 2,25% khối lượng thân nhưng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Điều này chứng tỏ cá lóc có khả năng sống sót và năng lượng dự trữ đủ đảm bảo cho các hoạt động trao đổi chất cơ sở của cá trong thời gian thí nghiệm. Ngoài ra, trong quá trình nuôi với các tỷ lệ cho ăn khác nhau từ 0,75% đến 3% khối lượng thân không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.

Kết quả này tương tự các nghiên cứu khác cho thấy khi cá được cho ăn các mức từ 0% đến mức cao thì không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống sau thí nghiệm. Như cá kèo, khi được cho ăn các mức từ 0% đến 6% khối lượng thân trong 28 ngày thì nghiệm thức 0% (bỏ đói) cũng có tỉ lệ sống cao nhất (97,8%) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Trần Thị Bé, 2016). Ở cá măng (Chanos chanos) được cho ăn khẩu phần có các hàm lượng protein là 25, 32 và 40% với các mức cho ăn từ 0% đến 4% khối lượng thân/ngày, sau 64 ngày thì tỉ lệ sống của cá ở tất cả các khẩu phần protein và mức cho ăn đều là 100% (Mwangamilo and Jiddawi, 2003). Tỉ lệ sống của cá

104

Hình 4.20: Tỷ lệ sống của cá lóc sau 28 ngày thí nghiệm.

tráp cũng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức cho ăn từ 0,5% đến 3% khối lượng thân/ngày (Mihelakakis et al., 2002).

4.3.4.2 Tăng trưởng của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau

Tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá sau 28 ngày thí nghiệm với các mức cho ăn từ 0 đến 3% khối lượng thân được trình bày trong Bảng 4.11

Bảng 4.11: Tỷ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau

Nghiệm thức Wi (g/con) Wf (g/con) DWG (g/ngày) -0,13±0,03e 0,20±0,02d 0,53±0,06c 0,70±0,12b 0,93±0,04a 35,0±1,49e 44,1±1,35d 52,8±1,67c 58,5±2,64b 64,4±1,29a 38,7±0,9a 38,7±0,94a 37,9±0,19a 38,8±0,96a 38,2±0,55a

Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG) của cá lóc tăng cùng với khẩu phần ăn của cá và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức. Khối lượng của cá ở nghiệm thức không được cho ăn (0%) giảm 0,13 g/con/ngày. Ở các nghiệm thức còn lại DWG dao động từ 0,20 đến 0,93 g/con/ngày. Cá lóc thí nghiệm có DWG cao hơn so với một số loài cá như trên cá kèo (-0,02 g/ngày đến 0,13 g/ngày) khi được cho ăn ở các mức từ 0% đến 6% khối lượng thân (Trần Thị Bé, 2016); cá vược Châu Âu (Lupatsch et al., 2001a); cá mú trắng (Lupatsch and Kissil, 2005) và thấp hơn so với cá chẽm được thí nghiệm trên 2 nhóm cá 14,67 g và 411 g được cho ăn các mức từ 0% đến tối đa trong 28 ngày, kết quả DWG ở nhóm cá nhỏ (-0,09 g/ngày đến 1,28 g/ngày) và nhóm cá lớn có DWG từ -1,14 g/ngày đến 5,89 g/ngày (Glencross, 2008).

Tương tự với DWG, SGR của cá cũng bị ảnh hưởng rõ rệt bởi mức cho ăn khác nhau, mức cho ăn càng lớn thì SGR càng cao. SGR bị giảm (-0,36%/ngày) ở nghiệm thức cá lóc không được cho ăn (0%), SGR cao nhất ở nghiệm thức 3% (1,86%/ngày) và SGR của các mức cho ăn có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nhau. SGR của cá lóc cũng tương tự trên một số đối tượng khác. Ở cá mú chấm gai (Epinephelus coioides) khi được cho ăn từ 0% đến 3,5% khối lượng thân/ngày, SGR của cá sau thí nghiệm từ -0,06%/ngày đến 1,44%/ngày trong 8 tuần (Luo et al., 2006). Nghiên cứu trên cá kèo có SGR tăng dần khi được cho ăn từ 0% đến 6% khối lượng thân/ngày (Trần Thị Bé, 2016). Cá rô phi có khối lượng từ 8,09 g đến 11,02 g được cho ăn 7 mức khác nhau từ 0% đến 4% khối lượng thân/ngày; sau thí nghiệm SGR của cá biến động từ - 0,67%/ngày đến 2,35%/ngày (Xie et al., 1997). Kết quả tương tự cũng được ghi

105

SGR (%/ngày) -0,36±0,08e 0% 0,47±0,03d 0,75% 1,18±0,12c 1,5% 1,46±0,23b 2,25% 1,86±0,05a 3% Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột mang cùng chữ cái thì khác biệt khác không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

nhận trên cá cá hồi Đại Tây Dương (Helland et al., 2010) và cá tráp (Sparus aurata) (Lupatsch et al., 2001b).

Như vậy, cá lóc cũng như các loài cá khác sẽ có tăng trưởng tăng dần theo mức cho ăn. Tuy nhiên, điều này xảy ra khi cá được cho cho ăn một lượng dưỡng chất phù hợp với nhu cầu cho tăng tưởng tối đa (nhu cầu tối ưu), khi cho cá ăn vượt mức nhu cầu tối ưu thì tăng trưởng của cá có thể chậm lại, do khi lượng thức ăn ăn vào càng lớn thì tốc độ tiêu hóa càng chậm và thức ăn không được sử dụng một cách triệt để, làm giảm sự hấp thu chất dinh dưỡng, đồng thời cá phải sử dụng nhiều năng lượng hơn cho sự tiêu hóa một lượng lớn thức ăn ăn vào (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).

4.3.4.3 Thành phần hóa học của cá lóc

Khi cá lóc được cho ăn với mức tăng dần thì ẩm độ của cá lóc có khuynh hướng giảm, ẩm độ của cá lóc cao nhất ở nghiệm thức không cho ăn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Bảng 4.12). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu tương tự như nghiên cứu trên cá đù (Argyrosomus japonicus) với 2 nhóm kích cỡ (40,2 g và 129,3 g), cá được cho ăn 4 mức tăng dần từ 0,25% khối lượng thân đến tối đa thì ẩm độ cá sau thí nghiệm của 2 nhóm cá đều giảm dần theo sự gia tăng của mức cho ăn (Pirozzi, 2009). Theo Bureau et al. (2006), cá hồi (Oncorhynchus mykiss) 158 g được cho ăn các mức (25-100%) so với mức ăn tối đa/ngày, sau thí nghiệm có ẩm độ của cá giảm dần so với mức cho ăn tăng dần (76,4-64,7%). Nghiên cứu trên cá hồi Đại Tây Dương được cho ăn các mức từ 0% đến 0,98% khối lượng thân/ngày, ẩm độ của cá giảm dần (74,1-70,4%) theo mức cho ăn sau 51 ngày thí nghiệm (Helland et al., 2010). Tương tự, ở cá kèo được cho ăn các mức từ 0% đến 4% khối lượng thân/ngày trong 28 ngày, kết quả ẩm độ của cá cũng có xu hướng giảm dần theo sự gia tăng của các mức cho ăn (Trần Thị Bé, 2016).

106

Nghiệm thức

Thành phần hóa học

0%

0,75%

1,50%

2,25%

3%

Cá đầu vào

Ẩm độ (%)

71,9*

72,3±0,38a

70,1±0,53b 69,4±0,32bc

68,8±0,17c

68,8±0,62c

Protein (%)

18,9*

18,4±0,55b

20,5±0,46a

20,6±0,44a

20,7±0,12a

20,9±0,49a

Lipid (%)

3,45*

1,52±0,27c

3,20±0,19b

3,89±0,13a

3,74±0,06a

4,05±0,42a

Tro (%)

5,55*

7,62±0,10a

5,87±0,02c

5,93±0,18c

6,52±0,15b 6,21±0,37bc

Năng lượng (KJ/g)

5,87*

4,97±0,07c

6,17±0,15b 6,44±0,10ab 6,41±0,01ab

6,55±0,30a

Acid amin (%)

Methionine

0,37*

0,37±0,01c

0,39±0,00bc

0,39±0,01b

0,43±0,01a

0,35±0,01d

Cystine

0,12*

0,13±0,00c

0,14±0,00bc

0,14±0,00b

0,16±0,00a

0,14±0,00c

Lysine

1,46*

1,57±0,04a

1,59±0,01a

1,56±0,03a

1,57±0,04a

1,37±0,04b

Threonine

0,65*

0,62±0,02c

0,64±0,00c

0,68±0,01b

0,74±0,02a

0,63±0,02c

Arginine

0,62*

0,69±0,02 c

0,70±0,00c

0,81±0,02b

0,90±0,02a

0,87±0,03a

Isoleucine

0,64*

0,63±0,02b

0,65±0,00ab 0,65±0,01ab

0,67±0,02a

0,53±0,02c

Leucine

1,13*

1,00±0,02 c

1,05±0,01b

1,07±0,02b

1,17±0,03a

0,95±0,03d

Valine

0,79*

0,76±0,02b

0,79±0,00a

0,75±0,02b 0,77±0,02ab

0,59±0,02c

Histidine

0,37*

0,40±0,01a

0,41±0,00a

0,40±0,01a

0,40±0,01a 0,26±0,01ab

Phenylalanine

0,53*

0,60±0,02c

0,59±0,00c

0,64±0,01b

0,69±0,02a 0,61±0,02bc

Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).*: Giá trị không được so sánh thống kê.

Hàm lượng protein của cá lóc ở các nghiệm thức có cho ăn khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với nghiệm thức không cho ăn. Hàm lượng một số acid amin của cá tăng dần theo mức cho ăn từ 0 đến 2,25% như methionine, threonine, arginine, isoleusine, leusine,valine, phennylalanine và khác biệt có ý nghĩa so với mức không cho ăn và mức cho ăn tối đa (p<0,05). Trong khi hàm lượng lysine, histidine không có sự khác biệt so với mức không cho ăn. Sự thay đổi này cũng được chỉ ra trong nghiên cứu của Helland et al. (2010) tỷ lệ Arg, Gly trong cơ thể giảm khi tăng mức cho ăn, trong khi đó, tỷ lệ cystine, histidine, methionine, lysine và threonine lại tăng. Methionine trong cơ thể cá cá có xu hướng tăng dần theo sự gia tăng mức cho ăn, kết quả tương tự ở cá rô phi (He et al., 2013), cá hồi Đại Tây Dương (Helland et al., 2010), cá đù (Pirozzi et al., 2010). Điều này cho thấy sự thay đổi này có thể tùy thuộc vào loài.

107

Bảng 4.12: Thành phần hóa học của cá lóc khi cho ăn với các mức khác nhau (tính theo khối lượng tươi của cá)

Nghiên cứu trên cá kèo khi được cho ăn từ 0% đến 4% khối lượng thân/ngày; sau 28 ngày thí nghiệm, kết quả phân tích protein trong cá không thấy sự khác biệt (p>0,05) (Trần Thị Bé, 2016).

Hàm lượng lipid có khuynh hướng ngược lại so với ẩm độ, cá lóc ăn với khẩu phần thức ăn càng cao thì hàm lượng lipid trong cơ thể càng cao, lipid trong thịt của cá lóc ở nghiệm thức 1,5%; 2,25% và 3% cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức 0,75%. Hàm lượng lipid của cá lóc ở nghiệm thức 0% và 0,75% (cá không được cho ăn và được cho ăn với khẩu phần ăn thấp) mất đi do sự chuyển hóa thành năng lượng phục vụ nhu cầu duy trì của cá lóc (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Kết quả tương tự như nghiên cứu của Bureau et al. (2006) trên cá hồi, kết quả hàm lượng lipid tăng rất nhiều với mức cho ăn từ 25% đến 100% mức ăn tối đa/ngày (4,2- 13,9%). Trên cá hồi Đại Tây Dương lipid trong cá tăng (7,0-10,4%) tương ứng với các mức cho ăn (0,2-0,98% khối lượng thân/ngày) (Helland et al., 2010). Cá kèo thì có hàm lượng lipid tăng từ 3,40% đến 5,57% tương ứng với các mức cho ăn từ 0% đến 4% khối lượng thân/ngày (Trần Thị Bé, 2016).

Tương tự lipid, năng lượng trong cá có xu hướng gia tăng ở các nghiệm thức được cho ăn và tăng dần từ mức cho ăn từ thấp đến cao, năng lượng cơ thể cá dao động từ 4,97 đến 6,55 KJ/g; năng lượng cơ thể cá cao nhất ở nghiệm thức 3% và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với cá được cho ăn với các mức 1,5% và 2,25% khối lượng thân. Hàm lượng tro trong cơ thể cá cao nhất ở nghiệm thức không cho ăn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05) so với các nghiệm thức còn lại.

4.3.4.4 Hiệu quả sử dụng protein của cá lóc

Tương quan giữa protein tích lũy cho tăng trưởng và protein tiêu hóa ăn

vào được thể hiện ở Hình 4.21 và Phương trình 11:

 Protein tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) = 0,582 × (Protein

tiêu hóa ăn vào) – 0,239 (R2 = 0,96). (Phương trình 11)

108

0,41

Hiệu quả sử dụng protein của cá được xác định dựa trên phương trình đường thẳng thể hiện mối tương quan giữa protein tăng trưởng và protein tiêu hóa đã được sử dụng trong các nghiên cứu của Lupatsch et al. (2001a); Lupatsch (2003); Glencross (2008); Glencross et al. (2010), Trung et al. (2011), Tien et al. (2016). Trong kết quả của nghiên cứu này cho thấy Protein tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) = 0,582 × (protein tiêu hóa ăn vào) – 0,239. Giá trị 0,582 (hay 58,2%) là hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa của cá lóc. Hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa cá lóc tương đương nhóm cá ăn động vật như cá mú là 54% (Lupatsch and Kissil, 2005), cá đù là 58% (Pirozzi, 2009), thấp hơn cá hồi Đại Tây Dương 64% (Helland et al., 2010). Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa cá lóc cao hơn cá bớp 45,6% (Tien et al., 2016); cá chẽm 49% (Glencross, 2008), cá vược Châu Âu là 52% (Lupatsch et al., 2001a). Qua đó cho thấy cá bớp và cá chẽm mặc dù là loài ăn động vật nhưng cá lóc sử dụng hiệu quả hơn nguồn protein từ thức ăn cho tích lũy. Tương tự khi so sánh với nhóm cá có tính ăn tạp như cá tra có hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa chỉ là 32% (Glencross et al., 2010); cá kèo là 44% (Trần Thị Bé, 2016).

Nhu cầu protein tiêu hóa cho duy trì là lượng protein cần thiết có trong thức ăn để cá đạt trạng thái cân bằng protein giữa hấp thu và protein tiêu thụ, khi đó cá có khối lượng không đổi trong khoảng thời gian nhất định. Ở thí nghiệm này, ta thấy nhu cầu protein tiêu hóa cho duy trì hàng ngày của cá lóc là lượng protein tiêu hóa ăn vào hàng ngày sao cho lượng protein tăng trưởng trong cơ thể cá bằng 0 (y=0) và được xác định bằng giao điểm giữa phương trình tương quan 4.21 với trục hoành (Hình 4.21), có giá trị là 0,41 g/khối lượng

109

Hình 4.21: Tương quan giữa protein tiêu hoá và protein tăng trưởng của cá lóc.

cá (kg)0,76/ngày. Nhu cầu protein tiêu hóa cho duy trì của cá lóc tương đương với cá đù là 0,47 g/khối lượng cá (kg)0,70/ngày (Pirozzi, 2009), cá chẽm là 0,45 g/khối lượng cá (kg)0,7/ngày (Glencross, 2008), cá tra 0,467 g/khối lượng cá (kg)0,83/ngày (Glencross et al., 2010). Tuy nhiên nhu cầu protein cho duy trì của cá lóc thấp hơn một số loài như cá mú trắng 0,56 g/khối lượng cá (kg)0,7/ngày (Lupatsch and Kissil, 2005), cá bớp là 0,99 g/khối lượng cá (kg)0,7/ngày (Tien et al., 2016), cá vược Châu Âu là 0,66 g/ khối lượng cá (kg)0,69/ngày (Lupatsch et al., 2001a) và cá kèo là 0,53 g/khối lượng cá (kg)0,83/ngày (Trần Thị Bé, 2016). Từ kết quả nghiên cứu trên cá lóc, hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa (0,582 hay 58,2%) và nhu cầu protein tiêu hóa cho duy trì của cá lóc (0,41 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) được sử dụng để xác định protein tiêu hóa tăng trưởng và protein tiêu hóa duy trì của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

4.3.4.5 Hiệu quả sử dụng năng lượng của cá lóc

Tương quan giữa năng lượng tích lũy cho tăng trưởng và năng lượng tiêu

hóa ăn vào được thể hiện ở Hình 4.22 và Phương trình 12.

 Năng lượng tăng trưởng (KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày) = 0,476 × (Năng lượng ăn vào) – 20,82; (R2 = 0,96) (Phương trình 12)

43,7

Tương tự như hiệu quả sử dụng protein, hiệu quả sử dụng năng lượng của cá lóc được xác định là 47,6% và nhu cầu năng lượng tiêu hóa cho duy trì là 43,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày. Báo cáo của Bureau et al. (2006) cho thấy

110

Hình 4.22: Tương quan giữa năng lượng tiêu hóa và năng lượng tăng trưởng của cá lóc.

hiệu quả sử dụng năng lượng của các loài cá dao động 40-70%. Như vậy, hiệu quả sử dụng năng lượng của cá lóc là 47,6% phù hợp với những nhận định trên. Hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa phụ thuộc vào khả năng tích lũy năng lượng của cá từ các nguồn dinh dưỡng trong thức ăn như protein, lipid và carbohydrat. Hiệu quả sử dụng năng lượng của cá lóc thấp hơn với một số loài cá ăn động vật. Nghiên cứu của Booth et al. (2010) trên cá cam là 55% cho hiệu quả sử dụng năng lượng, cá đù là 60% (Pirozzi, 2009), cá hồi Đại Tây Dương là 80% (Helland et al., 2010) và cá bớp là 65,1% (Tien et al., 2016). Điều này cho thấy cá lóc sử dụng hiệu quả năng lượng từ protein tốt hơn so với các nguồn dinh dưỡng khác trong thức ăn. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa của cá lóc cao hơn so với các loài cá ăn tạp như cá rô phi hiệu quả sử dụng là 44% (Trung et al., 2011), cá kèo là 46% (Trần Thị Bé, 2016). Trong khi hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa của cá tra là 51% (Glencross et al., 2010).

Năng lượng tiêu hóa cho duy trì của các loài cá phụ thuộc vào đặc điểm sinh học, môi trường sống của từng loài cá. Theo Lupatsch and Kissil (2005), nhu cầu năng lượng cho sự duy trì của các loài cá dao động 32-77 KJ/khối lượng cá (kg)0,8/ngày. Trong nghiên cứu này, nhu cầu năng lượng tiêu hóa cho duy trì của cá lóc là 43,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày tương đương cá đù là 49,6 KJ/khối lượng cá (kg)0,8/ngày (Pirozzi, 2009). Tuy nhiên, năng lượng cho duy trì của cá lóc thấp hơn cá cam 87,4 KJ/khối lượng cá (kg)0,86/ngày (Booth et al., 2010), cá bớp 74,3 KJ/khối lượng cá (kg)0,8/ngày (Tien et al., 2016). Tuy nhiên, năng lượng duy trì của cá lóc cao hơn nhiều loài đã được nghiên cứu như cá hồi Đại Tây Dương 31,5 KJ/khối lượng cá (kg)0,8/ngày (Helland et al., 2010); các loài cá ăn tạp như cá rô phi có nhu cầu năng lượng duy trì 25,9 KJ/khối lượng cá (kg)0,84/ngày (Trung et al., 2011); cá kèo 15,8 KJ/khối lượng cá (kg)0,81/ngày (Trần thị Bé, 2016) và cá tra có nhu cầu duy trì là 39,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,84/ngày (Glencross et al., 2010).

Kết quả thí nghiệm này cho thấy cá lóc có nhu cầu năng lượng tiêu hóa cho duy trì thấp hơn so với các loài cá ăn động vật khác. Điều này được quan sát trong quá trình thí nghiệm khi không cho ăn, cá ít khi hoạt động nên cá ít tiêu tốn năng lượng cho hoạt động bơi lội, phần lớn năng lượng trong cơ thể phục vụ cho các quá trình trao đổi chất cơ sở, vì vậy nhu cầu năng lượng cho duy trì của cá thấp. Hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa (0,476 hay 47,6%) và nhu cầu protein tiêu hóa cho duy trì của cá lóc (43,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày) được sử dụng để xác định protein tiêu hóa tăng trưởng và protein tiêu hóa duy trì của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

111

4.3.4.5 Hiệu quả sử dụng acid amin của cá lóc

Sự tương quan giữa methionine tích lũy cho tăng trưởng và methionine

tiêu hóa ăn vào được thể hiện ở Hình 4.23 và Phương trình 13 sau:

y = 0,599x - 0,009 (R2 = 0,92) (Phương trình 13); Trong đó, y: methionine tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày); x: methionine tiêu hóa ăn vào (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày).

Dựa vào phương trình tuyến tính Hình 4.23 kết quả nghiên cứu cho thấy khi methionine tiêu hóa ăn vào bằng 0 (cá bỏ đói), thì lượng methionine mất đi 0,009 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Methionine tiêu hóa ăn vào 0,015 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày thì cá không tích lũy methionine, tức là nhu cầu methionine duy trì của cá lóc được đáp ứng. Như vậy nhu cầu methionine duy trì của cá lóc là 0,015 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày.

Dựa theo phương trình tương quan, hiệu quả sử dụng methionine tiêu hóa cho cá lóc là y = 0,599 [Methionone tiêu hóa ăn vào] – 0,009, hiệu quả methionine tích lũy cho tăng trưởng từ lượng methionine tiêu hóa ăn vào là 0,599 (60%). So với một số loài cá thì hiệu quả sự dụng methionine tiêu hóa của cá lóc tương đượng cá cá rô phi từ 0,55-0,76 (He et al., 2013); cá hồi Đại Tây Dương là 0,64 (Grisdale-Helland et al., 2013), trong khi ở cá Tra là 82% (Glencross et al., 2010).

112

Hình 4.23 Tương quan giữa methionine tiêu hóa và methionine tăng trưởng của cá lóc.

Sự tương quan giữa lysine tích lũy cho tăng trưởng và lysine tiêu hóa ăn

vào được thể hiện ở Hình 4.24 và Phương trình 14.

y = 0,642x - 0,023 (R2 = 0,95) (Phương trình 14); Trong đó, y: lysine tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày); x: lysine tiêu hóa ăn vào (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày)

Dựa vào phương trình tuyến tính 4.24 kết quả nghiên cứu cho thấy khi lysine tiêu hóa ăn vào bằng 0 (cá bỏ đói), thì lượng lysine mất đi 0,0231 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Lysine tiêu hóa ăn vào 0,036 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày thì cá không tích lũy lysine cho tăng trưởng, tức là nhu cầu lysine tiêu hóa duy trì của cá lóc. Như vậy nhu cầu lysine tiêu hóa duy trì của cá lóc là 0,036 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày.

Dựa theo phương trình tương quan, hiệu quả sử dụng lysine tiêu hóa cho cá lóc là y = 0,642 [Lysine tiêu hóa ăn vào] – 0,023; hiệu quả lysine tích lũy cho tăng trưởng từ lượng lysine tiêu hóa ăn vào là 0,64 (64%).

Nhu cầu acid amin duy trì được định nghĩa như lượng acid amin cần thiết đáp ứng được sự duy trì hàm lượng protein trong cơ thể động vật ở mức cân bằng. Nhu cầu acid amin duy trì bao gồm lượng cần thiết đáp ứng cho sự mất đi của protein trong ruột, dịch nhầy ruột và sự bài tiết khác. Nhu cầu duy trì của một số acid amin đóng vai trò quan trọng trong tổng nhu cầu acid amin (duy trì và tăng trưởng) vì chúng tham gia vào các quá trình chuyển hóa vật chất bên cạnh việc tham gia tổng hợp protein hay đóng vai trò trong sự bài

113

Hình 4.24: Tương quan giữa lysine tiêu hóa và lysine tăng trưởng của cá lóc.

tiết (Rodehutscord et al., 1997). Nhu cầu methionine tiêu hóa duy trì của cá lóc 0,015 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày trong khi cá rô phi khối lượng từ 20,7-165 g, nhu cầu methionine cho duy trì từ 0,0032-0,017 g/khối lượng cá (kg)0,7/ngày (He et al., 2013), cá hồi Đại Tây Dương là 0,013 g/khối lượng cá (kg)0,7/ngày (Grisdale-Helland et al., 2013), cá tra là 0,011 g/khối lượng cá (kg)0,83/ngày (Glencross et al., 2010). Nhu cầu Lysine tiêu hóa duy trì của cá lóc 0,036 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày trong khi nhu cầu lysine tiêu hóa duy trì 0.012-0.058 g/kg/ngày cá rô phi (He et al., 2013). Rollin et al. (2006) và Abboudi et al. (2007) ước tính nhu cầu lysien và methionine duy trì của cá hồi giống (1-2 g/cá) là 5-7 mg/khối lượng cá (kg)0,75/ngày. Richard et al. (2010) ước tính nhu cầu duy trì lysine và methionine của tôm sú Penaeus monodon (2 g) là 40 và 20 mg/khối lượng cá (kg)0,75/ngày.

Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nhu cầu duy trì tối thiểu của các acid amin thiết yếu (EAA) thì khác với hàm lượng EAA trong protein trong cơ thịt (Rodehutscord et al., 1997). Các loài khác nhau có nhu cầu acid amin duy trì cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu của Fournier et al. (2002) và Kaushik and Seiliez (2010) kết luận rằng có sự khác nhau về số lượng và hàm lượng của 5 loại acid amin nội sinh bài tiết giữa cá hồi và cá bơn. Thêm vào đó, thành phần của thức ăn có thể ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của một số acid amin thiết yếu ngay cả khi thứ ăn có sự thiếu hụt một số loại acid amin thiết yếu (Encarnção et al., 2004, 2006). Ngoài ra sự khác biệt có ý nghĩa trong sự đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của động vật khi cho ăn thức ăn thiếu acid amin thiết yếu và cá cho ăn thức ăn có có sự cân bằng acid amin. Nhu cầu acid amin duy trì của các loại tôm cá nuôi đóng góp một phần nhỏ, khoảng 5-20% của tổng nhu cầu acid amin (Rodehutscord et al., 1997; Abboudi et al., 2009; Richard et al., 2010). Sự đóng góp của acid amin duy trì vào tổng nhu cầu acid amin ở các loại cá tăng trưởng chậm thì nhiều hơn so với các loài cá có mức tăng trưởng nhanh. Cá lóc trong nghiên cứu có hiệu quả tích lũy lysine (64%) cao hơn so với cá rô phi (52%) (He et al., 2013). Hiệu quả này thay đổi tùy theo giai đoạn ở cá loài cá tuyết Đại Tây Dương, từ 54–91% (Grisdale-Helland et al. 2011). Nang Thu et al. (2007) nghiên cứu trên cá hồi rainbow trout kết quả 63%-75%. Đối với cá hồi Đại Tây Dương, Grisdale-Helland et al. (2011) cho kết quả hiệu quả sử dụng 69% cho methionine và 85% cho lysine, cao hơn kết quả cá lóc ở nghiên cứu này (60% cho methionine và 64% cho lysine).

Nhu cầu protein và acid amin cho duy trì thường được cho là phụ thuộc nhiều vào khối lượng cơ thể và nhiệt độ, nhu cầu duy trì tỷ lệ thuận với trọng lượng cơ thể chuyển hóa, trong khi nhu cầu cho sự phát triển bị chi phối bởi số lượng và thành phần bổ sung cho tăng trưởng (Lupatsch and Kissil, 2005; Lupatsch et al., 2001a;

114

He et al., 2013). Hiệu quả sử dụng acid amin phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu và các acid amin bổ sung vào thức ăn (He et al., 2013). Từ kết quả nghiên cứu trên cá lóc, hiệu quả sử dụng methionine tiêu hóa (0,599 hay 60%), lysine tiêu hóa (0,642 hay 64,2%) và nhu cầu methionine tiêu hóa cho duy trì (0,015 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày), lysine tiêu hóa cho duy trì (0,036 g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) được sử dụng để xác định methionine, lysine tiêu hóa tăng trưởng và methionine, lysine tiêu hóa duy trì của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học.

4.3.5 Xác định nhu cầu protein, năng lượng, methionine, lysine tiêu hóa của cá lóc

Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học để xác định nhu cầu năng lượng, protein, acid amin của các lóc được dựa trên kết quả về khảo sát tăng trưởng, thành phần hóa học hiệu quả sử dụng năng lượng, protein và acid amin của cá lóc cụ thể như sau:

 Mối tương quan giữa tăng trưởng và khối lượng của cá được thể hiện qua phương trình : Tốc độ tăng trưởng (g/ngày) = 0,468x0,391 (Phương trình 1, trang 91 ). Phương trình 1 được sử dụng để dự đoán tăng trưởng của cá lóc ở các giai đoạn khác nhau trong mô hình năng lượng sinh học

 Mối tương quan giữa hàm lượng protein, năng lượng cơ thể cá và khối

lượng cá lóc được thể hiện qua 2 phương trình:

Protein (%) = 0,001 x(g)+ 17,85 (Phương trình 3, trang 93)

Năng lượng (KJ/g) = 4,9 x(g)0,059 (Phương trình 6, trang 93)

 Mối tương quan giữa protein tiêu hao, năng lượng tiêu hao và khối lượng

cá lóc được thể hiện qua 2 phương trình:

Protein tiêu hao (mg/cá/ngày) = 0,004x0,76 (Phương trình 9, trang 99)

Năng lượng tiêu hao (KJ/cá/ngày) = 0,144 x0,826 (Phương trình 10, trang

101)

Xác định được số mũ 0,76 và 0,82 của phương trình 9 và 10 lần lượt là số

mũ trao đổi protein và số mũ trao đổi năng lượng của cá lóc.

 Mối tương quan giữa protein tiêu hóa, năng lượng tiêu hóa và protein tăng

trưởng, năng lượng tăng trưởng của cá lóc:

Protein tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) = 0,582 × (protein tiêu

hóa ăn vào) – 0,239 (Phương trình 11, trang 108)

115

Năng lượng tăng trưởng (KJ/ khối lượng cá (kg)0,82/ngày) = 0,476 × (Năng

lượng tiêu hóa ăn vào) – 20,82 (Phương trình 12, trang 110)

Giá trị 0,582 (hay 58,2%) và 0,476 (hay 47,6%) lần lượt là hiệu quả sử

dụng protein tiêu hóa và năng lượng tiêu hóa của cá lóc.

 Mối tương quan giữa acid amin tiêu hóa và acid amin tăng trưởng :

Methionine tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) = 0,599 ×

(Methionine tiêu hóa ăn vào) - 0,009 (Phương trình 13, trang 112)

Lysine tăng trưởng (g/khối lượng cá (kg)0,76/ngày) = 0,642 × (Lysine tiêu

hóa ăn vào) - 0,023 (Phương trình 14, trang 113)

Giá trị 0,599 (hay 60%) và 0,642 (hay 64,2%) lần lượt là hiệu quả sử dụng

methionine tiêu hóa và lysine tiêu hóa của cá lóc.

Kết hợp các phương trình trên tính toán các thông số của mô hình năng lượng sinh học để ước tính nhu cầu protein, năng lượng và tỷ lệ protein/năng lượng, methionine, lysine tiêu hóa cũng như các chỉ tiêu chi tiết khác trong khẩu phần ăn của cá lóc được xây dựng trong Bảng 4.12.

Thức ăn được xây dựng với ba mức năng lượng tiêu hóa: 15, 16 và 17 MJ/kg để đáp ứng nhu cầu của cá trong thời gian nuôi thương phẩm. Tương ứng với từng mức năng lượng tiêu hóa xác định nhu cầu protein và methionine, lysine tiêu hóa. Nhu cầu protein và methionine, lysine tiêu hóa tăng dần theo mức năng lượng của thức ăn. Cụ thể với mức năng lượng là 16 MJ/kg thức ăn nhu cầu protein tiêu hóa của cá lóc giảm từ 42% (5 g) xuống 30% (cá 500 g) tương ứng với kích cỡ gia tăng của khối lượng cá.

116

(a)

200

200

500

100

500

100

50

50

5

5

5

50

100

200

500

(b)

Bảng 4.12: Nhu cầu protein và năng lượng của cá lóc dựa trên sự tiêu hóa protein, năng lượng và acid amin trong thức ăn Khối lượng cá (g)

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

Tăng trưởng (g/ngày)1

(c)

0,013

0,086

0,151

0,267

0,566

0,013

0,086

0,151

0,267

0,566

0,013

0,086

0,151

0,267

0,566

(d)

0,57

3,75

6,62

11,69

24,78

0,57

3,75

6,62

11,69

24,78

0,57

3,75

6,62

11,69

24,78

(e)

4,73

13,33

18,21

24,87

37,56

4,73

13,33

18,21

24,87

37,56

4,73

13,33

18,21

24,87

37,56

(f)

9,91

27,92

38,13

52,08

78,66

9,91

27,92

38,13

52,08

78,66

9,91

27,92

38,13

52,08

78,66

(g)

10,47

31,67

44,75

63,77 103,44

10,47

31,67

44,75

63,77 103,44

10,47

31,67

44,75

63,77 103,44

Nhu cầu năng lượng Năng lượng trao đổi chất cơ sở2 Năng lượng tiêu hóa duy trì (KJ/cá/ngày)3 Năng lượng tăng trưởng (KJ/cá/ngày)4 Năng lượng tiêu hóa tăng trưởng (KJ/cá/ngày)5 Tổng năng lượng tiêu hóa (KJ/cá/ngày)6

(h)

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

(i)

0,007

0,043

0,072

0,122

0,244

0,007

0,043

0,072

0,122

0,244

0,007

0,043

0,072

0,122

0,244

(j)

0,157

0,387

0,509

0,671

0,978

0,157

0,387

0,509

0,671

0,978

0,157

0,387

0,509

0,671

0,978

(k)

0,269

0,663

0,872

1,150

1,676

0,269

0,663

0,872

1,150

1,676

0,269

0,663

0,872

1,150

1,676

(l)

0,276

0,705

0,944

1,272

1,920

0,276

0,705

0,944

1,272

1,920

0,276

0,705

0,944

1,272

1,920

Nhu cầu Protein Protein trao đổi chất cơ sở7 Protein tiêu hóa duy trì (g/cá/ngày)8 Protein tăng trưởng (g/cá/ngày)9 Protein tiêu hóa tăng trưởng (g/cá/ngày)10 Tổng protein tiêu hóa (g/cá/ngày)11

(m)

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

(n)

0,0003 0,0016 0,0027 0,0045 0,0091 0,0003 0,0016 0,0027 0,0045 0,0091 0,0003 0,0016 0,0027 0,0045 0,0091

(o)

0,004

0,010

0,013

0,017

0,025

0,004

0,010

0,013

0,017

0,025

0,004

0,010

0,013

0,017

0,025

(p)

0,007

0,016

0,022

0,028

0,041

0,007

0,016

0,022

0,028

0,041

0,007

0,016

0,022

0,028

0,041

(q)

0,007

0,018

0,024

0,033

0,050

0,007

0,018

0,024

0,033

0,050

0,007

0,018

0,024

0,033

0,050

Nhu cầu Methionine Protein trao đổi chất cơ sở7 Methionine tiêu hóa duy trì (g/cá/ngày)12 Methionine tăng trưởng (g/cá/ngày)13 Methionine tiêu hóa tăng trưởng (g/cá/ngày)14 Tổng Methionine tiêu hóa (g/cá/ngày)15

(r)

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

0,018

0,103

0,174

0,295

0,591

(s)

0,0007 0,0037 0,0063 0,0106 0,0213 0,0007 0,0037 0,0063 0,0106 0,0213 0,0007 0,0037 0,0063 0,0106 0,0213

(t)

0,010

0,024

0,032

0,043

0,065

0,010

0,024

0,032

0,043

0,065

0,010

0,024

0,032

0,043

0,065

(u)

0,015

0,038

0,050

0,067

0,101

0,015

0,038

0,050

0,067

0,101

0,015

0,038

0,050

0,067

0,101

(v)

0,016

0,042

0,057

0,078

0,122

0,016

0,042

0,057

0,078

0,122

0,016

0,042

0,057

0,078

0,122

Nhu cầu Lysine Protein trao đổi chất cơ sở7 Lysine tiêu hóa duy trì (g/cá/ngày)16 Lysine tăng trưởng (g/cá/ngày)17 Lysine tiêu hóa tăng trưởng (g/cá/ngày)18 Tổng Lysine tiêu hóa (g/cá/ngày)19

117

(a)

5

50

100

200

500

50

100

200

500

50

100

200

500

5

5

(b)

Khối lượng cá (g)

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

0,878

2,160

2,833

3,715

5,315

Tăng trưởng (g/ngày)1

15

(w)

15

15

15

15

16

16

16

16

17

17

17

17

16

17

(x)

14,0%

4,2%

3,0%

2,1%

1,4%

13,1%

4,0%

2,8%

2,0%

1,3%

12,3%

3,3%

2,4%

1,7%

1,1%

(y)

0,70

2,11

2,98

4,25

6,90

0,65

1,98

2,80

3,99

6,46

0,62

1,67

2,36

3,36

5,44

(z)

40%

33%

32%

30%

28%

42%

36%

34%

32%

30%

45%

42%

40%

38%

35%

(aa)

1,00%

0,86%

0,81%

0,78%

0,73%

1,06%

0,91%

0,87%

0,83%

0,78%

1,13%

1,08%

1,03%

0,98%

0,92%

(bb)

2,29%

1,98%

1,90%

1,83%

1,77%

2,44%

2,11%

2,02%

1,95%

1,89%

2,60%

2,51%

2,40%

2,32%

2,25%

(cc)

0,80

0,98

1,05

1,14

1,30

0,75

0,92

0,99

1,07

1,22

0,70

0,77

0,83

0,90

1,02

(dd)

26,4

22,3

21,1

19,9

18,6

26,4

22,3

21,1

19,9

18,6

26,4

22,3

21,1

19,9

18,6

Thức ăn Năng lượng tiêu hóa trong thức ăn (MJ/kg)20 % khối lượng thức ăn cá ăn vào21 Lượng thức ăn ăn vào (g/ngày)22 Protein tiêu hóa (%)23 Methionine tiêu hóa (%)24 Lysine tiêu hóa (%)25 FCR26 Tỷ lệ DP-DE (g/MJ)27

Ghí chú :

(1) = 0,468*(a)^0,391 (Phương trình 1, trang 91)

(2) = ((a)/1000)^ số mũ năng lượng trao đổi chất (Số mũ 0,82 của phương trình 10, trang 101)

(20) = ( b) *1000/ (g)

(3) = (c)*nhu cầu năng lượng duy trì (Phương trình 12, trang 110)

(12) = (m)*nhu cầu Methionine duy trì (Phương trình 13, trang 112)

(4) = (b)* 4,9 (a)0,059 (Phương trình 6, trang 93)

(13) = (b)*0,00002 + 0,46 (Phương trình 7, trang 95)

(21) = (y)/(a)

(22) = (g)/(w)

(5) = (4)/ hiệu quả sử dụng năng lượng (Phương trình 12, trang 110)

(14) = (13)/ hiệu quả sử dụng Methionine (Phương trình 13, trang 112)

(6) = (3) + (5)

(15) = (12) + (14)

(23) = (l)/(y)

(24) = (q)/((y)

(7) = ((a)/1000)^ số mũ protein trao đổi chất (Số mũ 0,76 của phương trình 9, trang 99)

(25) = (v)/(y)

(8) = (7)*nhu cầu protein duy trì * (Phương trình 11, trang 108)

(16) = (q)*nhu cầu Lysine duy trì (Phương trình 14, trang 113)

(9) = (b)*0,001 + 17,85 (Phương trình 3, trang 93)

(17) = (b)*0,0002 + 1,22 (Phương trình 8, trang 95)

(26) = (y)/(b)

(27) = (l)*1000/(g)

(10) = (9)/ hiệu quả sử dụng protein (Phương trình 11, trang 108)

(18) = (18)/ hiệu quả sử dụng Lysine (Phương trình 14, trang 113)

(11) = (8) + (10)

(19) = (17) + (19)

118

Với khẩu phần thức ăn có mức năng lượng và protein tiêu hóa thấp cá cần được cung cấp một lượng thức ăn nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu cho duy trì và tăng trưởng. Việc xây dựng nhu cầu protein và năng lượng của cá lóc kế thừa từ các kết quả nghiên cứu của một số tác giả Lupatsch (2003) xây dựng nhu cầu cho cá tráp, Glencross et al. (2010) thực hiện trên cá tra; Trung et al. (2011) nghiên cứu trên cá rô phi và Trần Thị Bé (2016) trên cá kèo.

Nhu cầu năng lượng của các loài cá khác nhau không chỉ phụ thuộc vào thành phần loài mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ môi trường, thức ăn dùng thí nghiệm và cách chăm sóc cho ăn. Dựa vào các hệ số chuyển hóa và ứng dụng mô hình hóa tăng trưởng, ở cùng mức năng lượng thức ăn như nhau, các tác giả đã đưa ra tỉ lệ DP/DE tối ưu cho từng giai đoạn sinh trưởng của loài. Tỉ lệ P/E của cá lóc là 26,4 g/MJ cho cỡ cá 5 g và giảm xuống 18,6 g/MJ ở cá 500 g. Tỷ lệ protein tiêu hóa trên năng lượng tiêu hóa DP/DE của các loài cá khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau thì khác nhau. Ở hầu hết các loài cá tỷ lệ tối ưu DP/DE dao động từ 20-25 g/MJ (Azevedo et al., 2004; Wang et al., 2006a). Đối với một số loài có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng từ chất béo tỷ lệ DP/DE tối ưu có thể rất thấp dưới 20 g/MJ (Einen and Roem, 1997).

Trong nghiên cứu này tỉ lệ là 26,4 g/MJ cho cỡ cá 5 g tương ứng với tỉ lệ của một số loài ăn động vật như tỷ lệ DE/DP của cá vược Châu Âu trong trong mô hình hóa được xác định với các giá trị dao động từ 25,2 g/MJ (Lupatsch et al., 2001a), ở cá chẽm Nhật Bản (Lateolabrax japonicus) giai đoạn giống đã xác định tỷ lệ P/E thích hợp cho tăng trưởng của cá là 25,9 mg/KJ (Ai et al. 2004), cá mú điểm gai (Epinephelus malabaricus) giai đoạn giống tăng trưởng tối ưu khi sử dụng thức ăn chứa 55% protein, 12% lipid và tỷ lệ P/E là 28 mg/KJ (Tuan and Williams, 2007).

Tỷ lệ DP:DE tối ưu cho cá hồi giống dao động từ 84-100 g/Mcal (20- 24 g/MJ), trong khi đó, cá hồi có kích cỡ lớn hơn 2,5 kg có tỷ lệ DP:DE từ 67-71 g/Mcal (16-17 g/MJ) (Einen and Roem, 1997). Kết quả nghiên cứu tỷ lệ DP:DE tối ưu cho cá tráp là 119 và 82 g/Mcal (28,5 và 19,5 g/MJ) cho cá có kích cỡ 10 g và 250 g (Lupatsch et al., 2001b).

Khi nghiên cứu về tỷ lệ P/E cho thấy tăng trưởng của cá lóc giống (C. striatus) cao nhất, hệ số thức ăn thấp nhất khi cho ăn thức ăn có chứa 40% protein và tỷ lệ P/E là 90,9 mg/Kcal (Mohanty and Samantaray, 1997). Cá chốt (Mystus nemurus) tăng trưởng tối đa với thức ăn chứa 44% protein và tỷ lệ P/E là 20 mg/KJ (Ng et al., 2001). Trung et al., 2011 cho rằng có sự thay đổi rõ rệt về nhu cầu protein ở cá rô phi từ giai đoạn bột đến giai đoạn 100 g, khi ở giai

119

đoạn 10 g nhu cầu DP/DE là 32,7 g/MJ đã giảm còn 26,3 g/MJ ở giai đoạn 100 g và sự thay đổi ít hơn ở giai đoạn 1000 g (21,4 g/MJ), nhóm tác giả cũng cho rằng cá rô phi (Oreochromis niloticus) là loài có thể sử dụng thức ăn có hàm lượng tinh bột ở mức cao (> 20%). Tương tự, cá tra có nhu cầu DP/DE ở giai đoạn 100 g là 23,5 g/MJ và 18,1 g/MJ ở 1000 g (Glencross et al., 2010). Trên cá chẽm nhu cầu DP/DE ở giai .đoạn 100 g và 1000 g lần lượt là 30,2 g/MJ và 19,9 g/MJ ở 1.000 g (Glencross, 2008).

Trong mô hình cũng chỉ ra khi chung cấp thức ăn cho cá lóc với mức năng lượng tiêu hóa 14 MJ/kg thức ăn thì hàm lượng protein tiêu hóa cần cung cấp trong thức ăn từ khoảng 26-37% %, FCR từ 1,39 (Bảng 4.14). Tuy nhiên, nếu thức ăn chứa năng lượng tiêu hóa ở mức cao hơn (17 MJ/kg thức ăn) thì kết quả FCR thấp hơn so với cá sử dụng thức ăn chứa năng lượng tiêu hóa thấp nhưng protein tiêu hóa cần thiết cung cấp trong khẩu phần ăn tương ứng từ 35 đến 45%.

Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu trên một số loài khác như cá chẽm (Glencross, 2006), cá tra (Glencross et al., 2010), cá rô phi (Trung et al., 2011), cá kèo (Trần Thị Bé, 2016).

Sự lựa chọn khẩu phần ăn của cá tương ứng với mức năng lượng có trong thức ăn tác động đến mức cho ăn và FCR. Khi chọn chọn mức năng lượng cao, FCR thấp nhưng hàm lượng protein trong thức ăn sẽ cao. Nhu cầu protein của cá kích cỡ 5 g cao do sự thay đổi về năng lượng trong cơ thể và cá nhỏ cần nhiều năng lượng cho quá trình sinh trưởng cũng như tổng hợp protein. Các nghiên cứu cho thấy nhu cầu protein trong thức ăn cho cá giảm khi cá có kích cỡ lớn hơn. Nhu cầu protein cho cá nheo Mỹ là 25% cho cá ở kích cỡ 114 - 500 g, nhưng nhu cầu protein cho cá có kích cỡ nhỏ 14-100 g là 35% (Page and Andrews, 1973). Nhu cầu protein của cá tra từ 41% giảm xuống 25% khi kích cỡ cá 10 g tăng lên 1.000 g (Glencross et al., 2010), ở cá kèo từ 31% giảm xuống 28% (Trần Thị Bé, 2016).

Nhu cầu methionine tiêu hóa cho các giai đoạn của cá lóc từ 11,3 g/kg thức ăn (cỡ cá 5 g) giảm xuống 9,2 g/kg thức ăn cỡ cá 500 g tương ứng với sự giảm dần của nhu cầu protein tiêu hóa trong thức ăn từ 45% xuống 35%. Nhu cầu methionine của cá lóc giống (5 g) trong nghiên cứu này nếu tính trên hàm lượng protein là 25 g methionine tiêu hóa/kg protein thấp hơn kết quả nghiên cứu của Hien et al. (2018) là 28,4 g/kgprotein, do nghiên cứu này xác định là nhu cầu methionine tiêu hóa. Nhu cầu này cao hơn một số loài cá cá nục giống là 25 g/kg protein (Liao et al., 2014) và cá ăn tạp như cá giếc Phổ (Carassius auratus gibelio) là 23 g/kg protein (Wang et al., 2016a). Mặc khác, nhu cầu methionine

120

của cá lóc thấp hơn so với nhu cầu methionine của một số loài cá khác như Myxocyprinus asiaticus) là 32 g/kg protein (Chu et al., 2014) và nhóm cá biển như Sparus macrocephalus là 45,3 g/kg protein (Zhou et al., 2011). Nhu cầu methionine của cá tra là 26 g/kg protein (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2009).

Ước lượng về nhu cầu acid amin của các loài được xác định là bị ảnh hưởng do một số yếu tố bao gồm loài, tuổi, nguồn protein và mức protein trong thức ăn, acid amin tinh khiết hoặc bán tinh khiết và acid amin nguyên liệu, điều kiện môi trường và hệ thống thí nghiệm (Murthy and Varghese, 1998). Khi xác định nhu cầu acid amin trong nghiên cứu, sử dụng chế độ ăn sẽ khác thực tế, từ đó dẫn đến lượng thức ăn ăn vào sẽ khác nhau (Wang et al., 2016a). Ngoài ra, các kiểu gen khác nhau của cùng một loài cũng có thể ảnh hưởng đến nhu cầu dinh dưỡng của chúng. Nhu cầu methionine cho cá thường nằm trong khoảng từ 20-40 g methionine/kg protein, khác nhau tùy theo loài (Wilson et al., 1991). Kết quả nghiên cứu về nhu cầu methionine trong thức ăn của cá lóc phù hợp với phạm vi nghiên cứu này.

Nhu cầu lysine và tiêu hóa cho các giai đoạn của cá lóc từ 26 g/kg thức ăn (cỡ cá 5 g) giảm xuống 22,5 g/kg thức ăn, tương ứng với sự giảm dần của nhu cầu protein tiêu hóa trong thức ăn. Nhu cầu này cao hơn so với một số loài đã nghiên cứu. Nhu cầu lysine tiêu hóa ở cá rô phi là giống 15,21 g/kg thức ăn. Nhu cầu lysine tiêu hóa của cá lóc khoảng từ 58 g đến 63,7 g/kg protein tiêu hóa tương ứng với kết quả của Hien et al., (2016) ghi nhận nhu cầu lysine tối ưu trong thức ăn cho cá lóc giống là 73,1 g/kg protein khi hàm lượng protein trong thức ăn là 42%. Do là loài ăn động vật nên nhu cầu lysine của cá lóc lớn hơn nhu cầu lysine của một số loài đã được xác định như: cá chốt (Mystus nemurus) trắm cỏ là 31,4 g/kg protein (Tantikitti and Chimsung, 2001); cá (Ctenopharyngodon idella) 59,6 g/kg protein (Wang et al., 2005); cá Tra là 53,5 g/kg protein (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2009); Lin et al. (2013) cho Myxocyprinus asiaticus là 55,2 g/kg protein. Tuy nhiên nhu cầu lysine của cá lóc nhỏ hơn nhu cầu lysine của một số loài biển đã được xác định như: cá tráp đen (Sparus macrocephalus) là 86,4 g/kg protein (Zhou et al., 2010); cá vàng (Pelteobagrus fulvidraco) là 83,2 g/kg protein (Cao et al., 2012).

Nhu cầu acid amin phụ thuộc vào nhiều yếu tố là do sự khác biệt trong phương pháp nghiên cứu, nguồn protein trong thức ăn, hàm lượng protein, thành phần acid amin trong công thức, điều kiện nuôi và loài (Kim and Kaushik, 1992). Đặc biệt các nghiên cứu trước xác định là nhu cầu acid amin thô, trong nghiêu cứu này xác định nhu cầu lysine tiêu hóa.

121

4.4 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu phổ biến

4.4.1 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu protein

4.4.1.1 Độ tiêu hóa thức ăn thí nghiệm

Độ tiêu hóa (ADC) vật chất khô, protein thô, lipid thô, năng lượng và acid amin của các loại thức ăn thí nghiệm trên cá lóc được thể hiện trong Bảng 4.13.

Bảng 4.13: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của thức ăn

Vật chất khô

Protein

Lipid

Năng lượng

72,5±1,27b 91,7±0,68b 97,3±0,34a 81,9±0,99ab

76,5±1,65a 93,6±0,72a 94,7±0,59b 83,4±1,19a

ADC (%) Đối chứng Bột cá Bột huyết Bột thịt xương

66,5±1,55c 89,4±0,55c 91,7±1,02c 78,3±0,98c

71,5±2,23b 91,3±0,74b 96,8±0,09a 80,8±1,85b

Acid amin

Methionine

Cystine

Lysine

Threonine

Arginine

Isoleucine

Leucine

Valine

Histidine

Phenylalanine

95,6±0,06c 89,4±0,20b 96,0±0,05bc 94,8±0,06b 97,2±0,03b 96,3±0,05b 95,9±0,06b 95,6±0,06c 95,5±0,06b 94,5±0,07b

94,8±0,27d 87,4±0,69b 94,6±0,28d 93,7±0,33c 96,0±0,21c 95,8±0,22c 95,2±0,25c 94,6±0,28d 93,5±0,34c 93,1±0,37c

96,5±0,40b 92,8±0,81a 97,4±0,30a 96,1±0,45a 97,2±0,32b 97,1±0,33a 96,9±0,35a 96,7±0,38b 96,7±0,37a 95,2±0,55b

94,6±0,45d 92,0±0,65a 95,5±0,37c 93,4±0,55c 97,2±0,24b 95,1±0,41d 94,7±0,44c 94,4±0,46d 96,1±0,33b 93,6±0,53c

97,5±0,26a 92,0±0,85a 96,1±0,42b 96,2±0,41a 98,5±0,16a 97,5±0,26a 97,1±0,30a 97,3±0,29a 95,9±0,43b 96,2±0,41a Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Cá lóc có độ tiêu hóa tương đối cao ở các loại thức ăn thí nghiệm. ADC vật chất khô dao động từ 66,5-76,5%, ADC vật chất khô cao nhất ở nghiệm thức bột cá (76,5%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, ADC vật chất khô thấp nhất ở bột thịt xương (66,5%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Ở các nghiệm thức đối chứng, đậu nành ly trích dầu và bột huyết có ADC vật chất khô khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. Độ tiêu hóa protein của thức ăn ở cá lóc cũng khá cao, dao động từ 89,4-93,6%, cao nhất ở nghiệm thức bột cá (93,6%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, thức ăn nghiệm thức bột thịt xương có độ tiêu hóa protein (89,4%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Các nghiệm thức đối chứng, đậu nành ly trích dầu và bột huyết có ADC protein của thức ăn khác biệt

122

Thức ăn nghiệm thức Đậu nành ly trích dầu 71,7±0,77b 91,3±0,72b 95,0±0,40b 82,1±0,19ab

không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. ADC năng lượng của thức ăn bột cá (83,4%) cao nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với ADC năng lượng của nghiệm thức đối chứng (81,9%) và đậu nành ly trích dầu (82,1%). ADC năng lượng của thức ăn bột thịt xương (78,3%) là thấp nhất và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Độ tiêu hóa lipid của thức ăn của cá lóc khá cao ở các nghiệm thức, cao nhất ở nghiệm thức đối chứng (97,3%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, ngoại trừ nghiệm thức bột cá (94,7%).

Độ tiêu hóa acid amin của cá lóc ở các nghiệm thức thức ăn đều khá cao, dao động từ 94,6-97,5%. Methionine được tiêu hóa tốt nhất ở thức ăn bột huyết (97,5%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Methionine được tiêu hóa thấp nhất ở thức ăn đậu nành ly trích dầu (94,6%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, ngoại trừ bột thịt xương (94,8%). Thức ăn bột cá có ADC của methionine (96,5%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với bột huyết nhưng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Tương tự, độ tiêu hóa lysine trong thức ăn cũng dao động từ 94,6-97,4%, trong đó thức ăn bột cá có độ tiêu hóa lysine là cao nhất (97,4%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Độ tiêu hóa lysine ở thức ăn bột thịt xương là thấp nhất (94,6%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.

Qua kết quả thí nghiệm có thể thấy, khả năng tiêu hóa vật chất khô và các thành phần dinh dưỡng (protein, năng lượng, lipid và acid amin) của cá lóc đối với thức ăn bột cá cao hơn so với các loại thức ăn còn lại, thấp nhất là thức ăn bột thịt xương. Độ tiêu hóa của thức ăn bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như điều kiện môi trường, tình trạng sức khỏe cá, chế độ cho ăn, thành phần thức ăn và quá trình sản xuất thức ăn (NRC, 2011). Qua kết quả phân tích thành phần hóa học của thức ăn cho thấy chất lượng của thức ăn bột thịt xương thấp hơn so với các loại thức ăn còn lại, đặc biệt là hàm lượng protein thấp nhất (43,6%) (Bảng 3.9) nên khả năng tiêu hóa của cá lóc đối với nguyên liệu này kém hơn so với các nguyên liệu khác. Trong khi đó, bột cá được xem là nguồn nguyên liệu cung cấp đầy đủ các acid amin thiết yếu và là yếu tố kích thích sinh trưởng cho động vật thủy sản nói chung và cá nói riêng (Lê Thanh Hùng, 2008). ADC các dưỡng chất trong thức ăn đậu nành ly trích dầu và bột huyết cũng được cá lóc sử dụng tương đối tốt, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức thức ăn đối chứng. Vì vậy, ngoài việc sử dụng nguồn nguyên liệu là bột cá có thể sử dụng đậu nành ly trích dầu và bột huyết là nguồn nguyên liệu protein trong xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc.

123

4.4.1.2 Độ tiêu hóa của nguyên liệu protein

Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của cá lóc từ các

nguồn nguyên liệu thí nghiệm được thể hiện ở Bảng 4.14.

Bảng 4.14: Độ tiêu hóa của nguyên liệu protein

Nguyên liệu

ADC (%) Bột cá Bột thịt xương Bột huyết

Vật chất khô 85,8±5,50a 52,3±5,17c 69,0±7,42b Đậu nành ly trích dầu 69,7±2,56b

96,7±1,87a 90,4±2,29b 85,3±1,42c 90,8±1,57b Protein

86,2±1,56a 76,7±3,54b 77,4±3,68b 79,1±3,39b Lipid

Năng lượng 86,9±4,16a 82,5±0,65ab 67,8±3,83c 78,4±5,58b

Acid amin

Methionine Cystine Lysine Threonine Arginine Isoleucine Leucine Valine Histidine Phenylalanine 85,7±3,28c 79,5±3,29b 87,5±1,75c 87,4±2,22c 92,4±0,83c 92,5±1,60b 91,5±1,55b 90,6±1,49b 71,2±4,21b 86,6±2,04c 97,3±0,78a 97,7±1,93a 98,8±0,60a 97,6±0,98a 97,2±0,77b 98,1±0,78a 98,2±0,79a 98,0±0,84a 98,0±0,73a 96,2±1,38a 91,9±1,66b 95,3±1,50a 94,6±1,02b 90,9±1,51b 97,1±0,59b 92,9±1,11b 92,7±1,18b 92,5±1,26b 96,8±0,72a 92,1±1,40b

Khả năng tiêu hóa vật chất khô của cá lóc đối với nguyên liệu dao động từ 52,3% - 85,8%, trong đó bột cá (85,8%) là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. ADC vật chất khô của đậu nành ly trích dầu (69,7%) và bột huyết (69%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau, ADC vật chất khô thấp nhất ở nguyên liệu bột thịt xương (52,3%) và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. Trong bột cá hàm lượng của acid amin thiết yếu như lysine, methionine, leucine khá cao, trong khi các acid amin này thường thiếu trong thức ăn thực vật, bột cá là nguồn nguyên liệu bắt buộc của hầu hết các loại thức ăn, đồng thời với hàm lượng cao của phospholipid và các acid béo giúp thúc đẩy vật nuôi tăng trưởng nhanh (Hall, 1992, FAO, 2001; Balios, 2003; Miles and Chapman, 2006). Hàm lượng xơ trong thức ăn có ảnh hưởng đến độ tiêu hóa của động vật thủy sản, chất xơ có tác dụng gia tăng tốc độ thức ăn đi qua đường tiêu hóa nên nó tác dụng làm tăng lượng thức ăn động vật thủy sản ăn vào, tuy nhiên hàm lượng xơ

124

99,3±0,50a 94,6±1,66a 96,1±0,79b 97,5±0,81a 99,6±0,30a 98,7±0,53a 98,3±0,60a 98,7±0,51a 96,3±0,82a 97,9±0,82a Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn. Các giá trị trong cùng một hàng có các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

trong thức ăn cao sẽ làm giảm độ tiêu hóa thức ăn, động vật thủy sản sinh trưởng chậm (Lê Thanh Hùng, 2008; Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Ở thí nghiệm này, hàm lượng xơ trong nguyên liệu bột cá (0,61%) thấp hơn nhiều so với hàm lượng xơ trong các nguồn nguyên liệu đậu nành ly trích dầu (5,39%), bột thịt xương (3,23%) và bột huyết (3,33%) nên độ tiêu hóa của cá đối với bột cá cao hơn 3 loại nguyên liệu còn lại. Do vậy, động vật thủy sản nói chung hay cá nói riêng, có khả năng sử dụng nguồn nguyên liệu bột cá tốt hơn so với nguồn nguyên liệu khác. Kết quả của thí nghiệm cũng chứng minh nhận định trên, ADC vật chất khô của cá lóc đối với bột cá cao hơn so với các nguyên liệu còn lại. Kết quả thí nghiệm cũng tương tự nghiên cứu trên cá lóc (Ophiocephalus argus) giống khi so sánh ADC vật chất khô của bột cá Peru, đậu nành ly trích dầu và bột thịt xương cũng có ADC vật chất khô cao nhất ở bột cá Peru (81,5%) và thấp nhất ở bột thịt xương (61,9%) (Yu et al., 2013). Nghiên cứu trên cá kèo (Pseudapocryptes Elongatus) cũng cho thấy ADC vật chất khô của bột cá (70,1%) cao hơn so với bột thịt xương (65,3%), bột canola (59,9%) và đậu nành ly trích dầu (56,2%) (Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2014). Hernández et al. (2015) nghiên cứu khả năng sử dụng một số nguồn nguyên liệu (bột cá, đậu nành ly trích dầu, canola, bột phụ phẩm cá ngừ, bột gia cầm) của cá hồng (Lutjanus guttatus) cũng cho kết quả bột cá là loại nguyên liệu có ADC tốt nhất. Đối với cá Pseudobagrus ussuriensis, ADC vật chất khô của bột cá Peru cao hơn và khác biệt có ý nghĩa so với các nguồn nguyên liệu còn lại (bột thịt xương, bột Daphnia, đậu nành ly trích dầu, đậu nành ly trích dầu nguyên béo, bột hạt cải, bột hạt bông, bột ngô) (Che et al., 2017).

Độ tiêu hóa protein từ các nguồn nguyên liệu giàu protein thường dao động từ 75–95% (NRC, 2011). Kết quả ADC protein ở Bảng 4.14 cho thấy độ tiêu hóa protein từ các nguồn nguyên liệu của cá lóc khá cao, dao động từ 85,3- 96,7% cho thấy khả năng sử dụng protein từ nguyên liệu của cá lóc (C. striata) khá tốt. ADC protein từ bột cá cao nhất (96,7%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các nguyên liệu còn lại (p<0,05). Độ tiêu hóa protein của bột thịt xương thấp nhất (85,3%) và khác biệt có ý nghĩa so với 3 nguồn nguyên liệu thí nghiệm còn lại (p<0,05). Trong khi đó, độ tiêu hóa protein của đậu nành ly trích dầu (90,4%) và bột huyết (90,8%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Mặc dù hàm lượng protein trong bột huyết (92,5%) cao hơn nhiều so với bột cá (64,5%) nhưng ADC protein của bột huyết lại thấp hơn ADC protein của bột cá điều này là do chất lượng protein của bột huyết không tốt bằng chất lượng protein của bột cá do bột huyết thiếu isoleusine và methionine, protein và acid amin trong bột huyết dễ bị phân hủy trong quá trình chế biến điều này dẫn đến khả năng tiêu hóa bột huyết của động vật thuỷ sản thấp (Trần Thị Thanh

125

Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Kết quả thí nghiệm tương tự với nghiên cứu trên cá lóc (Ophiocephalus argus) giống, ADC protein của bột cá cao nhất (92,8%) và thấp nhất ở bột thịt xương (77,4%). Tuy nhiên, ADC protein của bột cá, đậu nành ly trích dầu, bột thịt xương và bột huyết của cá lóc trong thí nghiệm (lần lượt là 96,7% ; 90,4% ; 85,3% và 90,8%) đều cao hơn ADC protein của cá lóc (Ophiocephalus argus) giống (Yu et al., 2013), cho thấy khả năng sử dụng protein từ nguyên liệu của cá lóc Channa striata tốt hơn so với cá lóc Ophiocephalus argus. Đồng thời khả năng tiêu hóa protein từ nguyên liệu bột cá của cá lóc cũng cao hơn so với một số loài cá khác như: cá hồng (Lutjanus guttatus) là 84,3% (Hernández et al., 2015), cá trôi giống là 80,2% (Hussain et al., 2011), cá Misgurnus anguillicaudatus là 66,9% (Chu et al., 2015) và cá Pseudobagrus ussuriensis là 87,1% (Che et al., 2017). Điều này cho thấy cá lóc sử dụng hiệu quả protein từ nguồn nguyên liệu bột cá.

Khả năng tiêu hóa lipid thô của cá lóc dao động từ 76,7% đến 86,2%. Trong đó, ADC lipid từ bột cá (86,2%) là cao nhất và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. ADC lipid từ các nguyên liệu này của cá lóc thấp hơn so với ADC lipid của cá lóc (Ophiocephalus argus) giống (Yu et al., 2013). Độ tiêu hóa năng lượng từ nguồn nguyên liệu bột cá của cá lóc là tốt nhất (86,9%) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nguyên liệu còn lại (p<0,05). ADC năng lượng đậu nành ly trích dầu (82,5%) và bột huyết (78,4%) của cá lóc khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) nhưng cao so với ADC năng lượng của bột thịt xương (67,8%). Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy ADC năng lượng từ nguyên liệu bột cá của cá lóc cũng tương đương với ADC năng lượng từ bột cá của cá lóc (Ophiocephalus argus) giống là 86,3% (Yu et al., 2013), cao hơn so với cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella) là 83,4%, (Hertrampf and Piedad-Pascual, 2000). Tuy nhiên lại thấp hơn ADC năng lượng từ bột cá của cá kèo là 91,8% (Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2014), cá tra là 93,9% (Hien et al., 2010) và cá (Pseudobagrus ussuriensis) là 90,09% (Che et al., 2017).

Khả năng tiêu hóa acid amin của cá lóc đều cao, đạt trên 90% ở các loại nguyên liệu bột cá, đậu nành ly trích dầu và bột huyết. Trong đó, ADC methionine cao nhất ở bột huyết (99,3%) và bột cá (97,3%) và không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau, đồng thời cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,5) so với các nghiệm thức còn lại, ADC methionine thấp nhất ở nguyên liệu bột thịt xương (85,7%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,5) so với các nghiệm thức còn lại, cá lóc có ADC methionine từ bột đầu nành (91,9%) thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với bột huyết và bột cá nhưng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nguyên liệu bột thịt xương. Tương tự, độ tiêu

126

hóa lysine của cá lóc cao nhất ở nguyên liệu bột cá (98,8%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, ADC lysine thấp nhất ở bột thịt xương (87,5%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Trong khi đó ADC lysine của bột huyết (96,1%) và đậu nành ly trích dầu (94,6%) và không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. Có thể thấy, bột cá cũng là loại nguyên liệu mà cá có thể tiêu hóa acid amin tốt nhất, ngoài việc bột các có chất lượng protein tốt, các amino acid tạo nên protein cân bằng và phù hợp với dinh dưỡng của động vật của động vật (FAO, 2001; Balios, 2003) thì bột cá cũng là loại nguyên liệu có giá trị sinh học cao vì nó có hàm lượng acid amin tiêu hóa cao, chẳng hạn như lysine, methionine, leucine, các amino acid này thường thiếu trong thức ăn thực vật, đây là cơ sở hầu hết cho các loại thức ăn (Hall, 1992, FAO, 2001; Balios, 2003). Tóm lại, khả năng tiêu hóa vật chất khô và các thành phần dinh dưỡng protein, năng lượng, lipid và acid amin của cá lóc đối với bột cá cao hơn so với các loại nguyên liệu còn lại, thấp nhất là bột thịt xương. Điều này cũng phù hợp với đặc tính ăn thiên về động vật của loài. Do đó, bột cá là nguồn nguyên liệu không thể thiếu trong xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc.

4.4.2 Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu carbohydrate

4.4.2.1 Độ tiêu hóa thức ăn thí nghiệm

Cá lóc có độ tiêu hóa (ADC) vật chất khô, protein, lipid và năng lượng có trong thức ăn đối chứng (đối chứng giống thí nghiệm đánh giá độ tiêu hoá nguyên liệu protein) và thức ăn từ các nguồn nguyên liệu carbohydrate được trình bày trong (Bảng 4.15).

Bảng 4.15: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của thức ăn

Độ tiêu hóa (%) Thức ăn Vật chất khô Protein Lipid Năng lượng

91,7±0,70a 86,4±0,06b 83,9±0,55c 83,3±0,58cd 82,6±0,06d 81,0±0,21e 97,3±0,32a 90,3±0,12b 89,8±0,58b 88,7±0,06c 85,1±0,64d 84,5±0,12d 72,5±1,27a 70,7±0,1b 69,9±0,06b 68,6±0,01c 67,9±0,06c 66,7±0,1d

Khả năng tiêu hóa vật chất khô của cá lóc đối với thức ăn thí nghiệm dao động từ 66,7% - 72,5%. Thức ăn đối chứng có ADC vật chất khô cao nhất (72,5%) và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại thức ăn còn lại. Độ tiêu hóa của cá lóc đối với thức ăn bột cọ là thấp nhất (66,7%) và thấp

127

81,9±0,98a Đối chứng 80,3±0,55b Cám gạo 77,1±0,06c Cám ly trích 77,1±0,67c Cám mì 76,2±0,06c Bột khoai mì lát 73,4±0,23d Bột cọ Các giá trị trong cùng một cột mang cùng chữ cái thì sai khác không có ý nghĩa (p>0,05). Giá trị thể hiện là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.

hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Thức ăn cám gạo (70,7%), cám ly trích (69,9%) có ADC khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau nhưng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với cám mì, bột khoai mì lát và bột cọ. Độ tiêu hóa của cám mì (68,6%) và bột khoai mì lát (67,9%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với thức ăn bột cọ.

Tương tự, độ tiêu hóa protein, lipid và năng lượng thức ăn đối chứng của cá lóc tốt hơn và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại thức ăn còn lại và thức ăn từ nguyên liệu bột cọ có ADC dưỡng chất thấp nhất trong các loại thức ăn. Độ tiêu hóa protein từ thức ăn cám gạo (86,4%) cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. Bột cọ (81%) có ADC protein thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nguyên liệu còn lại. Cám ly trích (83,9%) và cám mì (83,3%) có ADC protein khác biệt không có ý nghĩa thống kê với nhau (p<0,05), tương tự cám mì (83,3%) và bột khoai mì lát (82,6%) khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. ADC lipid của cám gạo (90,3%) và cám ly trích (89,8%) khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) với nhau, nhưng cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với thức ăn làm từ 3 loại nguyên liệu còn lại, thức ăn bột khoai mì lát (85,1%) và thức ăn bột cọ (84,5%) có độ tiêu hóa lipid khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. Cám gạo có ADC năng lượng (80,3%) cao nhất và cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các loại thức ăn làm từ các nguyên liệu còn lại, độ tiêu hóa năng lượng của thức ăn cám ly trích (77,1%), cám mì (77,1%), bột khoai mì lát (76,2%) có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) với nhau. Thức ăn bột cọ có ADC năng lượng (73,4%) thấp nhất và thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.

Tóm lại, cá lóc có khả năng tiêu hóa tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng (vật chất khô, protein, lipid và năng lượng) từ thức ăn cám gạo và cám ly trích khá tốt và cao hơn so với thức ăn cám mì, bột khoai mì lát và bột cọ. Thức ăn từ bột cọ cá lóc có độ tiêu hóa kém hơn so với các loại thức ăn còn lại. ADC các dưỡng chất trong thức ăn cám gạo được cá sử dụng tương đối tốt do đó có thể chọn cám gạo hoặc cám ly trích làm nguồn nguyên liệu carbohydrate trong chế biến thức ăn cho cá lóc.

128

4.3.2.2 Độ tiêu hóa của nguyên liệu carbohydrate

Độ tiêu hóa (ADC) của cá lóc đối với các nguồn nguyên liệu carbohydrate

được thể hiện ở Bảng 4.16

Bảng 4.16: Độ tiêu hóa vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của nguyên liệu

Nguyên liệu

Vật chất khô 66,4±0,30a 63,6±0,21b 59,4±0,10c 57,2±0,32d 53,1±0,40e 78,8±0,36a 76,5±0,10b 70,9±0,64c 59,9±0,53d 58,3±0,42e Độ tiêu hóa (%) Protein 71,2±0,35a 64,0±0,23b 61,2±0,35c 57,2±0,85d 51,2±1,57e

Kết quả thí nghiệm cho thấy cá lóc độ tiêu hóa vật chất khô của cám gạo (66,4%) là cao nhất và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại nguyên liệu còn lại. Bột cọ có ADC vật chất khô thấp nhất (53,1%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 4 loại nguyên liệu còn lại. Tương tự cám gạo cũng có độ tiêu hóa dưỡng chất (protein-71,2%, lipid-78,8% và năng lượng- 76,3%) cao nhất và cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại nguyên liệu còn lại. Bột khoai mì lát với hàm lượng dinh dưỡng thấp có độ tiêu hóa protein (56,1%) là thấp nhất và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại nguyên liệu còn lại. Độ tiêu hóa dưỡng chất của bột cọ là thấp nhất (63,1%) và thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các loại nguyên liệu còn lại. Cám ly trích có độ tiêu hóa các dưỡng chất (protein, lipid, năng lượng) cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với cám mì, bột khoai mì lát và bột cọ nhưng thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với cám gạo.

Kết quả thí nghiệm cho thấy các dưỡng chất trong nguồn nguyên liệu cám gạo được cá lóc tiêu hóa tốt hơn so với các nguồn nguyên liệu khác, kế đó là nguồn nguyên liệu cám ly trích. Độ tiêu hóa dưỡng chất của 2 loại nguyên liệu này cũng cao hơn so với cám mì và bột khoai mì lát. Cá lóc có tiêu hóa bột cọ kém nhất trong 4 loại nguyên liệu nghiên cứu. So sánh với một số loài cá ăn động vật khác thì cá lóc có độ tiêu hóa của cám gạo khá cao, như đối với cá ăn động vật như cá mú dẹt (Cromileptes altivelis) độ tiêu hóa vật chất khô cám gạo chỉ là 22,2% và độ tiêu hóa protein, năng lượng lần lượt là 59,5% và 44,3% (Laining et al., 2003), những loài cá ăn tạp thiên về động vật như cá trê trắng (Clarias batratus) ADC vật chất khô cám gạo là 61,9% và cá trê phi (C. gariepinus) là 66,5% (Usnami et al., 2003). Khi so sánh với một số loài ăn thực vật thì cá lóc có độ tiêu hóa cám gạo thấp hơn như cá rô phi (Oreochromis

129

Lipid Năng lượng 76,3±1,72a Cám gạo 67,8±0,12b Cám ly trích 65,6±0,35c Cám mì 64,4±0,12c Bột khoai mì lát 53,0±0,72d Bột cọ Các giá trị trong cùng một cột mang cùng chữ cái thì sai khác không có ý nghĩa (p>0,05). Giá trị thể hiện là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.

niloticus) (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2006). Đối với cám gạo và mì lát thì cá tra có độ tiêu hóa vật chất khô và năng lượng (81,5–84,2 và 83,2–84,4%) (Hien et al., 2010) cao hơn so với cá lóc. Nghiên cứu của Mohanta et al. (2006) cho thấy cá mè vinh (Puntius gonionotus) có độ tiêu hóa các nguồn cám gạo và cám mì rất tốt, ADC protein (94,6–88,5%), lipid (96,4–90,8%) và năng lượng (90– 74,7%). Trên cá kèo thì độ tiêu protein và lipid của cá đối với cám gạo và cám ly trích lần lượt là 72,1%; 71% và 84,0% và 84,8% (Trần Thị Bé, 2016). Tuy nhiên, như cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idiella) là loài ăn thực vật nhưng khả năng tiêu hóa cám gạo của cá cũng rất thấp, nhỏ hơn 50% (Law, 1986).

Kết quả thí nghiệm cho thấy, khả năng tiêu hóa của cá đối với một loại nguyên liệu còn phụ thuộc vào đặc tính ăn của loài, những loài ăn thực vật thì có khả năng tiêu hóa nguồn liệu carbohydrate tốt hơn các loài cá ăn động vật. Trong xây dựng công thức thức ăn cho đối tượng, để đánh giá giá trị dinh dưỡng của nguyên liệu làm thức ăn không chỉ dựa vào thành phần hóa học của nguyên liệu mà còn phụ thuộc vào khả năng tiêu hóa, hấp thu các chất dinh dưỡng và năng lượng của đối tượng từ nguồn nguyên liệu đó. Ngoài ra, khả năng tiêu hóa một loại nguyên liệu của động vật thủy sản phụ thuộc vào đặc điểm tiêu hóa của từng loài, thành phần hóa học của nguyên liệu, mùa vụ sản xuất, khả năng bảo quản nguyên liệu (NRC, 2011). Từ kết quả của nghiên cứu, cám gạo là loại nguyên liệu carbohydrate được lựa chọn để đưa vào xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc.

4.5 Xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc từng giai đoạn

Căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc (Bảng 4.17) và các nguồn nguyên liệu phổ biến để xây dựng công thức thức ăn cho cá lóc từng giai đoạn như sau:

Bảng 4.17: Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn cho cá lóc dựa trên độ tiêu hóa protein, năng lượng, methinine, lysine mức năng lượng 16MJ/kg thức ăn

Khối lượng cá (g) Thành phần dinh dưỡng

5 90 42 9 50 90 36 9,25 100 90 34 9,5 200 90 32 9,75 500 90 30 10

tiêu hoá 1,06 2,45 16 0,91 2,11 16 0,87 2,03 16 0,83 1,95 16 0,78 1,89 16

130

Vật chất khô (%) Protein tiêu hoá (%) Lipid (%) Methionine tiêu hóa (%) Lysine tiêu hóa (%) Năng lượng (MJ/kg) DP/DE 26,4 22,3 21,1 20,0 18,6

Về tỉ lệ các nguyên liệu trong công thức dựa vào các kết quả nghiên cứu phát triển thức ăn cho cá lóc như tỷ lệ protein đậu nành ly trích dầu thay thế bột cá 60% khi có bổ sung enzyme phytase, chất tạo mùi, vitamin C, …(Hien et al., 2015; Hien et al., 2016; Hien et al., 2018). Dựa vào nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn và khả năng thực tế sản xuất chế biến 3 công thức thức ăn để nuôi thử nghiệm.

Bảng 4.18: Công thức thức ăn nuôi cá lóc từng giai đoạn

Khối lượng cá (g) Nguyên liệu (%)

Bột cá (65% CP) Bánh dầu nành Bột thịt xương Bột Huyết Mì lát Cám sấy Dầu Premix vitamin – khoáng Phytase Tạo mùi Vitamin C Tổng cộng Thành phần hóa học (%) Protein thô Protein tiêu hóa Lipid Khoáng Carbohydrate Methionine Lysine Năng lượng tiêu hóa (MJ/ kg) 50-150 27,9 23,8 2,0 4,2 18,9 16,9 4,3 0,88 0,02 1,0 0,1 100 39,2 36 9,25 11,45 39,1 1,51 2,31 16 >150 25,3 21,6 0,4 4,2 21,1 21,0 4,4 0,88 0,02 1,0 0,1 100 36,1 33 9,5 10,6 42,8 1,44 2,11 16 <50 g 30,7 26,2 9,3 4,8 11,7 11,1 4,2 0,88 0,02 1,0 0,1 100 45,7 42 9 14,2 30,2 1,64 2,57 16

4.6 Nuôi thử nghiệm thức ăn cá lóc

4.6.1 Điều kiện chất lượng môi trường nước ao nuôi thực nghiệm

Điều kiện chất lượng môi trường nước ao nuôi thực nghiệm được quản lý và kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo môi trường nước nuôi tốt cho sự tăng trưởng của cá lóc. Nhiệt độ, pH và oxy hòa tan môi trường nước lần lượt dao động là 29,2oC; 8,1; 1,8 mg/L vào buổi sáng và 31,3 oC; 8,2; 3,7 mg/L vào buổi -; NH3 lần lượt dao động là 0,55 chiều. Một số yếu tố thủy hóa gồm TAN; NO2 mg/L; 0,06 mg/L; 0,005 mg/L.

131

4.6.2 Tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc sau 5 tháng nuôi thực nghiệm

Sau 5 tháng nuôi, tăng trưởng của cá lóc khi cho ăn bằng 2 loại thức ăn

TA-A và TA-B được thể hiện ở Hình 4.25.

Hình 4.25: Tăng trưởng của cá lóc sau 5 tháng nuôi thử nghiệm với

Cá ở nghiệm thức cho ăn bằng thức ăn thí nghiệm B đạt 455 g cao hơn

nghiệm thức cho ăn bằng thức ăn A (399 g) và khác biệt có ý nghĩa (p <0,05).

2 loại thức ăn khác nhau (TA-A và TA-B).

NT

FCR

PER

SR (%)

Yf (kg/vèo)

SGR (%/ngày)

TA-A TA-B

1,50±0,07a 1,27±0,03b

1,60±0,06b 1,91±0,05a

2,23±0,07b 2,39±0,03a

71,9±3,04b 80,6±2,80a

172,1±18,2b 219,9±10,1a

Giá trị thể hiện là số trung bình ± độ lệch chuẩn; giá trị trong cùng một cột có chữ cái a, b khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Hệ số tiêu tốn thức ăn ở thức ăn thí nghiệm là 1,27 tương ứng với kết quả ước tính từ mô hình năng lượng sinh học là 1,22 (hệ số thức ăn tiêu hóa) trong khi thức ăn đối chứng là 1,5. Hiệu quả sử dụng protein (PER) là lượng tăng trọng trên mỗi đơn vị trọng lượng protein ăn vào, chỉ số này ở nghiệm thức TĂ- B đạt cao hơn so với nghiệm thức TĂ-A. Hiệu quả sử dụng protein của thức ăn

thí nghiệm cao 1,91 cao hơn hơn so với thức ăn đối chứng 1,6 có thể là do sự khác nhau về nguồn protein sử dụng.

132

Bảng 4.19: Tỉ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng của cá lóc sau 5 tháng nuôi với 2 loại thức ăn

Kết quả về FCR, PER cho thấy việc sử dụng thức ăn thí nghiệm với các

thành phần dinh dưỡng thích hợp qua từng giai đoạn phát triển của cá lóc. Đặc

biệt là thức ăn thí nghiệm được xây dựng dựa vào độ tiêu hóa các nguồn nguyên

liệu và nhu cầu tiêu hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cá. Theo Trần Thị Thanh Hiền (2014) chỉ số này thay đổi theo loại và lượng peotein ăn vào.

Hàm lượng protein trong thức ăn nuôi cá lóc giảm dần theo giai đoạn phát triển, không nên duy trì cùng một mức trong suốt chu kỳ nuôi. Quan trọng là đảm bảo nhu cầu protein tiêu hóa và năng lượng thức ăn cho từng giai đoạn sinh trưởng của cá.

133

CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1 Kết luận

Ống tiêu hóa của cá lóc hoàn thiện cả về mặt hình thái và mô học vào ngày thứ 12 khi xuất hiện tuyến dạ dày. Có sự thay đổi về hoạt tính của enzyme tiêu hóa khi chuyển đổi từ thức ăn tươi sống sang thức ăn chế biến đặc biệt là amylase. Thời gian thu phân thích hợp ở cá lóc là 8 giờ sau khi cá ăn và phương pháp thu phân thích hợp là phương pháp lắng.

Nhu cầu năng lượng tiêu hóa cho duy trì ở cá lóc là 43,7 KJ/khối lượng cá (kg)0,82/ngày, hiệu quả sử dụng năng lượng tiêu hóa là 47,6%. Nhu cầu protein tiêu hóa duy trì của cá là 0,41 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày với hiệu quả sử dụng protein tiêu hóa là 58,2%. Nhu cầu methionine duy trì của cá lóc là 0,015 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Hiệu quả sử dụng methionine tiêu hóa là 60%. Nhu cầu Lysine tiêu hóa duy trì là 0,036 g/ khối lượng cá (kg)0,76/ngày. Hiệu quả sử dụng Lysine tiêu hóa là 64%.

Nhu cầu protein tiêu hóa thay đổi tùy theo mức năng lượng trong thức ăn. Với mức năng lượng tiêu hóa là 16 MJ/kg, nhu cầu protein tiêu hóa lần lượt là 42, 36, 34, 33 và 30% tương ứng với kích cỡ cá có khối lượng 5, 50, 100, 200 và 500 g/ con. Nhu cầu protein tiêu hóa/ năng lượng tiêu hóa (DP/DE) của cá lóc được xác định với các kích cỡ cá 5 g, đến 500 g trong nuôi thương phẩm lần lượt là 26,4 và 18,6 g/MJ. Nhu cầu methionine tiêu hóa của cá lóc ở cá lóc 5 g là 1,06 g/kg thức ăn và giảm 0,78 g/kg thức ăn ở cỡ cá 500 g, nhu cầu lysine tiêu hóa của cá 5 g là 2,44 g/kg thức ăn và cá 500 g là 1,89 g/kg thức ăn tương ứng mức protein tiêu hóa là 42% và 30%.

Đối với nguồn nguyên liệu cung cấp protein, cá lóc tiêu hóa bột cá tốt nhất, kế đến là bột đậu nành, bột thịt xương được tiêu hóa thấp nhất. Cám gạo là nguồn carbohydrat được cá lóc tiêu hóa tốt nhất trong nhóm carbohydrat.

Xây dựng công thức thức ăn nuôi cá lóc dựa vào nhu cầu dinh dưỡng ở các giai đoạn, độ tiêu hóa các nguồn nguyên liệu của cá lóc. Kết quả nuôi thử nghiệm, cá tăng trưởng tốt đạt khối lượng 455 g, FCR là 1,27 sau 5 tháng nuôi, trong khi nghiệm thức đối chứng (thức ăn công nghiệp) cá đạt 399 g, FCR là 1,50.

5.2 Kiến nghị

Tiếp tục nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng dinh dưỡng của cá lóc như acid béo, một số vitamin và khoáng, tỉ lệ lipid/carbohydrat để hoàn thiện công thức thức ăn cho cá lóc.

134

Mô hình nuôi cá lóc hiện đang mở rộng ra nhiều vùng địa lý và tác động của biến đổi khí hậu nên cần nghiên cứu về ảnh hưởng các yếu tố môi trường lên đặc điểm sinh trưởng và nhu cầu dinh dưỡng của cá lóc.

135

DANH MỤC TỔNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ

Bài báo xuất bản từ công trình nghiên cứu

1. Ngô Minh Dung, Nguyễn Thị Long Châu, Bùi Minh Tâm, Phạm Thị Tú Nga và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Nghiên cứu sự thay đổi hoạt tính một số enzyme tiêu hóa của cá lóc (Channa striata) từ giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi với thức ăn khác nhau. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 49b: 84- 90. 2. Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Phương pháp thu phân và khả năng tiêu hóa của cá lóc (Channa striata) với nguồn nguyên liệu protein khác nhau. Tạp chí Khoa học công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, số 8 (81): 114- 120. 3. Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền, 2017. Nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng của cá lóc (Channa striata). Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 53b: 1-9.

136

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. R. Koumi and P. Kouamé, 2008. Growth and cannibalism of the African catfish (Heterobranchus longifilis) fingerlings (Valenciennes, 1840) fed isoproteic diets with partial or total subtitution of fish protein with soya protein. Journal of fisheries international, 3: 68-74.

Abboudi, T., M. Mambrini, Y. Larondelle, and X. Rollin, 2009. The effect of dispensable amino acids on nitrogen and amino acid losses in Atlantic salmon (Salmo solar L.) fry fed a protein-free diet. Aquaculture 289: 327-333.

Abboudi, T., W. Ooghe, Y. Larondelle, and X. Rollin, 2007. Determination of the threonine requirement for maintenance in Atlantic salmon (Salmo solar) fry with the diet dilution procedure. Aquacult. Nutr. 13: 281-290.

Abdus, S. and P.M.C. Davies, 1994. Body composition of northern pike Esox lucius L. in relation to body size and condition factor. Fiheries Research 19 (3-4): 193- 204.

Abu, O.M.G., L.O. Sanni, E.S. Erondu and O.A. Akinrotimi, 2010. Economic viability of replacing maize with whole cassava root meal in the diet of hybrid cat-fish. Agric. J., 5: 1-5.

Ahmed, I., 2007. Effect of ration size on growth, body composition and energy and protein maintanence requirement of fingerling Indian major carp, Labeo rohita (Hamilton). Fish Physiol Biochem 33: 203-212.

Ai, Q. and X. Xie, 2007. Effects of replacement of fish meal by soybean meal and supplementation of methionine in fish meal by soybean meal –based diets on growth performance of the southern catfish (Silurus meridionalis). National Natural Science Foundation of China, 30: 498-507.

Ai-Ogaily, S.M., 2002. Substitution of fish meal with soybean meal in practical diets for Nile tilapia (Oreochromis niloticus). Saudi. J. Biol. Sci. 9: 57-68.

Al Hafedh, Y.S., 1999. Effects of dietary protein on growth and body composition of Nile tilapia (Oreochromis niloticus). Aquaculture, 30. 385 – 393.

Al-Hussainy, A.H., 1949. On the functional morphology of the alimentary tract of some fishes in relation to differences in their feeding habits. Quart. J. Micr. Sci. 9(2): 190-240.

Aliyu-Paiko, M., R. Hashim and A.C. Shu-Chien, 2010. Influence of dietary lipid/protein ratio on survival, growth, body indices and digestive lipase activity in Snakehead (Channa striatus, Bloch 1793) fry reared in recirculating water system. Aquaculture Nutrition, 16: 466-474.

Allan, G.L., S.J. Rowland, S. Parkinson, D.A.J Stone and W. Jantrarotai, 1999. Nutrient digestibility for juvenile silver perch Bidyanus bidyanus: development of methods. Aquaculture, 170: 131-145.

Amirkolaie, A.K., S.A. El-Shafai, E.H. Eding, J.W. Schrama and J.A. Verreth, 2005. Comparison of faecal collection method with high and low-quality diets regarding digestibility and faecal characteristics measurements in Nile tilapia. Aquacult. Res., 36 : 578-585.

137

AOAC, 2000. Official Methods of Analysis. Association of Official Analytical Chemists Arlington.

Arockiaraj, A.J., M. Muruganandam, K. Marimuthu and M.A. Haniffa, 1999. Utilization of carbohydrates as a dietary energy source by Striped Murrel Channa striatus fingerlings. Acta Zoologica Taiwanica, 10: 103-111.

Arzel, J., R. Métailler, C. Kerleguer, H. LeDelliou and J. Guillaume, 1995. The protein requirement of brown trout (Salmo trutta) fry. Aquaculture, 130: 67-78.

Ashraf, M. and A.S. Goda, 2007. Effect of dietary soybean meal and phytase leves on growth, feed utilization and phosphorus discharge for Nile tilapia (Oreochromis niloticus). In Journal of Fisheries and Aquatic Science, 2: 248-263.

Atsé, B. C., A. R. Koumi and P. Kouamé, 2008. Growth and cannibalism of the African catfish (Heterobranchus longifilis) fingerlings (Valenciennes, 1840) fed isoproteic diets with partial or total subtitution of fish protein with soya protein. Journal of fisheries international. 3: 68-74.

Austreng.E., 1978. Digestibility determination in fish using chromic oxide marking and analysis of contents fromdifferent segments of the gastrointestinal tract. Aquaculture 13: 265–272

Ayoola, A. A., 2010. Replacement of Fish Meal and Alternative Protein source in Aquaculture Diets. A thesis submitted to the Graduate Faculty of North Carolina State University in partial fulfillment of the requirements for the Degree of Master of Science, 129p.

Azevedo, P.A., C.Y. Cho, S. Leeson and D.P. Bureau, 1998. Effects of feeding level and water temperature on growth, nutrient and energy utilization and waste outputs of rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquat. Living Resour., 11: 227-238.

Azevedo, P.A., J. van Milgen, S. Leeson, and D.P. Bureau, 2005. Comparing efficiency of metabolizable energy utilization by rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) and Atlantic salmon (Salmo solar) using factorial and multivariate approaches. J. Anim. Sci. 83: 842-851.

Azevedo, P.A., S. Leeson, C.Y. Cho, and D.P. Bureau, 2004. Growth, nitrogen and energy utilization of juveniles from four salmonid species: Diet, species and size effects. Aquaculture 234: 393-414.

Baglole, C.J., H.M Murray, G.P. Goff and G.M. Wright, 1997. Ontogeny of the digestive tract during larval development of yellowtail flounder: a light microscopic and mucous histochemical study. J. Fish Biol, 51: 120-134.

Balois, J., 2003. Nutritional value of fish by-product and their utilization as fish silage in the nutrition of poultry. In Proceedings of the 8th International Conference on Environmental Science and Technology, Lemnos Island, Greece, 8-10 September 2003. Full paper Vol. B, pp. 70-76 130.

Baragi, V. and R.T. Lovell, 1986. Digestive enzyme activities in striped bass from first feeding through larval development. American Fisheries Society 115: 478-484.

Bernfeld, P., 1951. Enzymes of starch degradation and synthesis. Advan. Enzymol, 12: 379- 428.

138

Bisbal, D.A. and D.A. Bengtson, 1995. Development of digestive tract in larval summer flounder. J. Fish Biol., 47: 277-291.

Booth, M.A., G.L. Allan and I. Pirozzi, 2010. Estimation of digestible protein and energy requirements of yellowtail kingfish Seriola lalandi using a factorial approach. Aquaculture, 307: 247-259.

Boujard, T., A. Gelineau, D. Coves, G. Corraze, G. Dutto, E. Gasset and S. Kaushik, 2004. Regulation of feed intake, growth, nutrient and energy utilisation in European sea bass Dicentrarchus labrax fed high fat diets. Aquaculture 231: 529-545.

Boulhic, M. and J. Gabaudan, 1992. Histological study of the organogenesis of the digestive system and swimbladder of the Dover sole, Solea solea (Linnaeus 1758). Aquaculture 102: 373-396.

Bradford, M.M., 1976. A rapid sensitivemethod for the quantification of microgram quantities of protein utilizing the principle of protein-dye binding. Analytical Biochemistry, 72: 248-254.

Buddington, R. K., 1985. Digestive secretions of lake sturgeon, Acipenser fulvescens, during early development. J. Fish Biol 26: 715-723.

Buddington, R.K. and S.I. Doroshov, 1986. Digestive enzyme complement of white sturgeon (Acipenser transmontanus). Comp. Biochem. Physiol., 83A: 561-567.

Bui, M.T., A.B. Abol-Munafi, M.A. Ambak and P. Ismail, 2004. Effect of different diets on growth and survival rates of snakehead (Channa striata, Bloch 1797) larvae. Korean J. Biol Sci., 8: 313-317.

Bureau, D. P., H. Katheline and C. Y. Cho, 2006. Effect of feeding level on growth and nutrient deposition in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss Walbaum) growing from 150 to 600. Aquaculture Research, 37(11): 1090-1098.

Cacho, O.J., 1990. Protein and fat dynamics in fish. A bioenergetic model applied to aquaculture. Ecol. Modell., 50: 33–56.

Cahu, C.L. and J.L. Infante, 1994. Influence of diets on pepsin and some pancreatic enzymes in seabass (Dicentrarchus labrax) larvae. Comparative Biochemistry and Physiology Part A: Molecular and Intergrative Physiology 109: 209-212.

Cahu, C.L. and J.L. Infante, 2001. Ontogeny of the gastrointestinal tract of marine fish larvae. Comparative Biochemistry and Physiology Part C: Toxicology & Pharmacology 130: 477-487.

Cao, J.M., Y. Chen, X. Zhu, Y.H. Huang, H.X. Zhao, G.L. Li, H.B. Lan, B. Chen and Q. Pan, 2012. A study on dietary L-lysine requirement of juvenile yellow catfish Pelteobagrus fulvidraco. Aquaculture Nutrition, 18: 35-45.

Catacutan, M.R. and R.M. Coloso, 1995. Effect of dietary protein to energy ratios on growth, survival, and body composition of juvenile Asian seabass, Lates calcarifer. Aquaculture, 131(1-2): 125-133.

Chakrabarti, R. and R.M. Rathore, 2009. Ontogenic changes in the digestive enzyme patterns and characterization of proteases in Indian major carp Cirrhinus mrigala. Aquaculture Nutrion. Doi: 10.1111/j.1365-2095.2009.00694.x.

139

Chakrabarti, R., R.M. Rathore and S. Kumar, 2006. Study of digestive enzyme activities and partial characterization of digestive protease in a freshwater teleost, Labeo rohita, during early ontogeny. Aquaculture Nutrion 12: 35-43.

Che.J., B.Su, B.Tang, X.Bu, J.Li, Y.Lin, Y.Yang and X.Ge, 2017. Apparent digestibility coefficients of animal and plant feed ingredient for juvenile Pseudobagrus ussuriensis. Aquaculture Nutrition 2017: 1-8.

Chen, X.X., C.B. Jin, J.S. Xu and D.S. Wang, 2002. Histology studies on the post embryonic development of the digestive system in Mystus macropterus. Journal of Southwest China Normal University (Natural Science) 27: 239-243.

Chhay, T., K. Borin, N. Sopharith, T.R. Preston and T.M. Aye, 2010. Effect of sun- dried and fresh cassava leaves on growth of Tilapia (Oreochromis niloticus) fish fed basal diets of rice bran or rice bran mixed with cassava root meal. Livestock Research for Rural Development 22:3.

Cho C. Y. and W. D. Woodward, 1989. Studies on the protein-to-energy ratio in diets for rainbow trout (Salmo gairdneri). Pp. 37-40 in Energy Metabolism of Farm Animals. Y. Van der Honing and W. H. Close, eds. Proceedings of the 11th Symposium, 18-24 September 1988, Lunteren, Netherlands. Wageningen, The Netherlands: Pudoc.

Cho, C.Y. and D.P. Bureau, 1998. Development of bioenergetic models and the Fish- PrFEQ software to estimate production, feeding ration and waste output in aquaculture. Aquat. Living Resour., 11: 199-210.

Chu Z. J., Y. Gong, Y.C. Lin, Y.C. Yuan, W.J. Cai, S.Y. Gong, Z.Luo, 2014. Optimal dietary methionine requirement of juvenile Chinese sucker, Myxocyprinus asiaticus. Aquaculture Nutrition 20: 253-264.

Chu Z.J., D.H. Yu, Y.C. Yuan, Y. Qiao, W.J. Cai, H. Shu and Y.C. Lin. 2015. Apparent digestibility coefficients of selected protein feed ingredients for loach Misgurnus anguillicaudatus. Aquaculture Nutrition, 21: 425-432.

Clarke, A. and N.M. Johnson, 1999. Scaling of metabolic rate with body mass and temperature in teleost fish. Journal of Animal Ecology, 68 (5): 893-905.

Cook, J.T., M.A. McNiven , G.F. Richardson and A.M. Sutterlin, 2000. Growth rate, body composition and feed digestibility conversion of growth-enhanced transgenic Atlantic salmon (Salmo salar). Aquaculture 188: 15-32.

Corazon, B and Santiago, 1997. Nutrient Requirement/Deficencies: protein and amino acid. Training course on fish Nutrition. FAO, 1980.

Cousin, J.C.B., F. Baudin – Laurencin, and J. Gabaudan, 1987. Ontogeny of enzymatic activities in fed and fasting turbot Scophthalmus maximus L. Journal of Fish Biology 30: 15-33.

Da, C.T., T. Lundh and J.E. Lindberg, 2012. Evaluation of local feed resources as alternatives to fish meal in terms of growth performance, feed utilisation and biological indices of triped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) fingerlings. Aquaculture 364–365: 150–156.

Darias, M.J., J.B. Ortiz-Delgado, C. Sarasquete, G. Martínez-Rodríguez and M. Yúfera, 2007. Larval organogenesis of Pagrus pagrus L., 1758 with special attention to the digestive system development. Histol Histopathol., 22: 753-768.

140

David Allen (2015). Feed and Feeding in Aquaculture. Woodhead Publishing Series in Food Science, Technology and Nutrition. 319 pp

Đỗ Minh Chung và Lê Xuân Sinh, 2011. Phân tích chuỗi giá trị cá lóc (Channa sp.) nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ lần 4: 512-523.

Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010. Một số vấn đề về sinh lý cá và giáp xác. NXB Nông nghiệp TP HCM, 153 trang.

Dongmeza E., S. Steinbronn, G. Francis, U. Focken and K. Becker, 2009. Investigations on the nutrient and antinutrient content of typical plants used as fish feed in small scale aquaculture in the mountainous regions of Northern Vietnam. Animal Feed Science and Technology 149: 162–178.

Dumas, A., C.F.M. de Lange, J. France, and D.P. Bureau, 2007. Quantitative description of body composition and rates of nutrient deposition in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquaculture 263: 165-181.

Dương Nhựt Long, 2004. Giáo trình kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa Thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ.

Dương Thúy Yên, 2000. Tổng quan về nhu cầu dinh dưỡng của một số loài cá trơn. Báo cáo chuyên đề. 19 trang.

Edo, D. A and D. Lanari, 2003. Effects of dietary energy content on the voluntary feed intake and blood parameters of sea bass (Dicentrarchus labrax L.). Paper received May 19, 2003; accepted August 29, 2003

Einen, O. and A.J. Roem, 1997. Dietary protein/energy ratios for Atlantic salmon in relation to fish size: growth, feed utilization and slaughter quality. Aquaculture Nutrition, 3(2): 115-126.

El-Sayed, A.M. and S. Teshima, 1992. Protein and energy requirement of Nile tilapia. Aquaculture 103: 55-63.

Encarnção, P., C. de Lange and D.P. Bureau, 2006. Diet energy source affects lysine utilization for protein deposition in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquaculture 261: 1371-1381.

Encarnção, P., C. de Lange, M. Rodehutscord, D. Hoehler, W. Bureau and D.P. Bureau, 2004. Diet digestible energy content affects lysine utilization, but not dietary lysine requirements of rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) for maximum growth. Aquaculture 235: 569-586.

FAO, 2001. By M.L. Windsor. Fishmeal. Department of trade and industry, Torry Research Station. Torry advisory note No. 49 (FAO in partnership with Support unit for International Fisheries and Aquatic Research, SIFAR, 2001).

Fournier, V., M.F. Gouillou-Coustans and R. Me´tailler, 2002. Protein and arginine requirements for maintenance and nitrogen gain in four teleosts. Br J Nutr 87: 459-469.

Fu, J. S., Z.D. Cao and J.L. Peng, 2006. Effect of meal size on postprandial metabolic response in Chinese catfish (Silurus asotus Linaeus).

141

Furukawa, A., H. Tsukahara, 1966. On the acid digestion method for the determination of chromic oxide as the index substance in the study of fish feed. Bull. Jpn. Soc. Sci. Fish 32: 502-506.

Galaviz, M., A. García – Gasca, M. Drawbrigde, Álvarez – C.A. González and L López, 2011. Ontogeny of the digestive tract and enzymatic activity in white seabass, Atractoscion nobilis, larvae. Aquaculture, 318: 162-168.

Galaviz, M., A. García – Ortega, E. GisbertL, M. López and A. García – Gasca, 2012. Expression and activity of trypsin and pepsin during larval development of the spotted rose snapper (Lutjanus guttatus). Comparative Biochemistry and Physiology Part B: Biochemistry and Molecular Biology 161: 9-16.

Gawlicka, G., S.J. The, S.S.O. Hung, D.E. Hinton and D.L. Noue, 1995. Histological and histochemical changes in the digestive tract of white sturgeon larvae during ontogeny. Fish physiology and biochemistry, 14:357-371.

Ghomi, M.R and A. Alizadehnajd, 2012. Dietary lysine and methionine requirement of bream (Abramis Brama Orientalis) Juvenile. Braz. J. Aquat. Sci. technol, 16 (1): 79-82

Gisbert, E., G. Giménez, I. Fernández, Y. Kotzamanis and A. Estévez, 2009. Development of digestive enzymes in common dentex Dentex dentex during early ontogeny. Aquaculture 287: 381-387.

Glencross, B.D, T.T.T. Hien, N.T. Phuong and T.L.C. Tu, 2010. A factorial approach to defining the energy and protein requirements of Tra Catfish, Pangasianodon hypothalamus. Aquaculture Nutrition, 17: 177-233.

Glencross, B.D., 2006. The nutritional management of barramundi, Lates calcarifer – a review. Aquaculture Nutrition, 12(4): 291-309.

Glencross, B.D., 2008. A factorial growth and feed utilization model for barramundi (Lates calcarifer) base on Australian production conditions. Aquaculture Nutrition 14(4): 360-373.

Glencross, B.D., N.Rutherford and W.E. Hawkins, 2002. Determining waste excretion parameters from barramundi aquaculture. Final Report to the Aquaculture Development Fund. Perth, Australia. pp 65.

Glencross, B.D., W.E. Hawkins, D. Evans, P. McCafferty, K. Dods and S. Sipsas, 2007. Evaluation of the influence of Lupinus angustifolius kernel meal on dietary nutrient and energy utilisation efficiency by rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquaculture Nutrition.

Glencross, B.D., W.E. Hawkins, D. Evans, P. McCafferty, K. Dods, R. Maas and S. Sipsas, 2005. Evaluation of the digestible value of lupin and soybean protein concentrates and isolates when fed to rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) using either stripping or settlement fecal collection methods. Aquaculture, 245: 211- 220.

Golchinfar, F., A. Zamani, A. Hajimoradloo and R. Madani, 2011. Assassment of digestive enzymes activity during the fry development of Rainbow Trout, Oncorhynchus mykiss: from hatching to primary stages after yolk sac absorption. Iranian Journal of Fisheries Sciences 10 (3): 403-414.

Govoni, J.J., G.W. Boehlert and Y. Watanabe, 1986. The physiology of digestion in fish larvae. Env. Biol. Fish. 16(1-3): 59-77.

142

Grisdale-Helland B., A. Lemme and S.J. Helland, 2013. Threonine requirement for maintenance and efficiency of utilization for threonine accretion in Atlantic

salmon smolts determined using increasing ration levels. Aquaculture, 372-375: 158-166.

Grisdale-Helland, B., B. Hatlen, H. Mundheim and S.J. Helland, 2011. Dietary lysine requirement and efficiency of lysine utilization foe growth of Atlantic cod. Aquaculture, 315: 260-268.

Guillaume, J., S. Kaushik, P. Bergot and R. Me1tailler, 1999. Nutrition et Alimentation des Poissons et Crustaces. Paris: INRA Edition.

Guillaume, J., S.Kaushik, P.Bergot and R.Métailler, 2001. Nutrition and Feeding of fish and crustaceans, Chichester,UK, Praxis-Springer, 408 pp

Hag, G.A.E., Kamarudin, M.S., Saad, C.R. and Daud, S.K., 2012. Gut Histology of Malaysian River Catfish, Mystus nemurus (C&V) Larvae. Life Science Journal 9, 342-347.

Hall, G.M., 1992. Fish processing technology. In Ockerman, H.W. ed. Fishery by products, pp. 155-192. New York: VCH publishers.

Halver, J.E. and R.W. Hardy, 2002. Fish nutrition. International standard book, 824pp.

Hap, N., T.H. Minh and R. Pomeroy, 2016. Impacts of climate change on snakehead fish value chains in the lower Mekong Basin of Cambodia and Vietnam. Aquaculture economics & management, 1-22.

Hardy, R.W., 1989. Diet preparation. In: Halver, J.E. Zed., Fish Nutrition Academic Press, San Diego, CA, 475-548.

Hart, S.D., A.S. Bharadwaj and P.B. Brown, 2010. Soybean lectins and trypsin inhibitors, but not oligosaccharides or the interactions of factors, impact weight gain of rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquaculture, 306: 310-314.

Hasan, M.A. and A.K. Jafri, 1994. Optimum feeding rate, and energy and protein maintenance requirements of young Clarias batrachus (L.), a cultivable catfish species. Aquaculture Research, 25 (25): 427-438.

Hashim, R, 1994. The effect of mixed feeding schedules of varying dietary protein content on the growth performance of Channa striata fry. Asian Fisheries Sciences, 7: 149-155.

Hashim, R. and N.A.M. Saat, 1992. The utilization of seaweed meals as binding agents in pelleted feeds for snakehead Channa striata fry and their effects on growth. Aquaculture 108: 299-308.

He, J.Y., L.X. Tian, A. Lemme, W. Gao, H.J. Yang, J. Niu, G.Y. Liang, P.F. Chen and Y.J. Liu, 2013. Methionine and Lysine requirements for maintenance and efficiency of utilization for growth of two sizes of tilapia (Oreochromis niloticus). Aquaculture Nutrition, 19(4): 629-640.

Hecht, T. and A.G. Pienaar, 1993. A review of cannibalism and its implications in fish larvaculture. World Aquaculture Society, 24: 246-261.

Hedstrom, L., L. Szilagyi and W. Rutter, 1992. Converting trypsin to chymotrypsin. Science 255: 1249-1253.

143

Helland, S.J., B. Hatlen and B.G. Helland, 2010. Energy, protein and amino acid requirements for maintenance and efficiency of utilization for growth of Atlantic

salmon post-smolts determined using increasing ration levels. Aquaculture 305: 150-158.

Helland.S.J and B.Grisdale-Helland, 1998. Growth, feed utilization and body composition of juvenile Atlantic halibut (Hippoglossus hippoglossus) fed diets differing in the ratio between the macronutrients. Aquaculture 166 (1-2): 49-56

Hemre, G.I., Ø. Karlsen, A.M. Jensen and G. Rosenlund, 2003. Digestibility of dry matter, protein, starch, and lipid by cod, Gadus morhua: comparison of sampling methods. Aquaculture, 225: 225-232.

Henning, S.J., D.C. Rubin and R.J. Shulman, 1994. Ontogeny of the intestinal mucosa. In Physiology of Gastrointestinal Tract. pp. 571-610. Edited by L.R. Johnson. Raven Press, New York.

Hepher, B., 1988. Nutrition of pond fishes. Cambridge University Press.

Hernández, C., R.W. Hardy, D.G. Márquez-Martínez, P.V. Domínguez-Jimenez and B. González-Rodríguez, 2015. Evaluation of apparent digestibility coefficient of individual feed ingredient in spotted rose snapper (Lutjanus guttatus). Aquaculture Nutrition, 21: 835-842.

Hertrampf J.W. and F. Piedad-Pascual, 2000. Handbook on ingredients for aquaculture feeds. Kluwer academic publishers Dordrecht/Boston/London, The Netherlands. 573pp.

Hien, T.T.T., N.T. Phuong, T.C. Tu and B.D. Glencross, 2010. Assessment of methods for the determination of digestibilities of feed ingredients for Tra catfish, Pangasinodon hypothalamus. Aquaculture Nutrition, 16: 351-358.

Hien, T.T.T., N.T.C. Duyen, T.L.C. Tu, N.V. Khanh and T.M Phu, 2018. Dietary methionine and lysine requirement of snakehead (Channa striata) fingerlings. International Journal of Scientific and Research Publication, 8(8) (Unpublished)

Hien, T.T.T., T.T. Be, C.M. Lee and D.A. Bengtson, 2015. Development of formulated diets for snakehead (Channa striata and Channa micropeltes): Can phytase and taurine supplementation increase use of soybean meal to replace fish meal. Aquaculture 448: 334-340.

Hien, T.T.T., N.H.D. Trung, B.M. Tam and D.A. Bengtson, 2016. Replacement of freshwater small-size fish by formulated feed in snakehead (Channa striata) aquaculture: Experimental and commercial-scale pond trials, with economic analysis. Aquaculture Reports 4: 42-47.

Hien, T.T.T., P.M. Duc, N.T. Khanh, N.V. Khanh, T.T.T. Hoa, T.M. Phú and D.A. Bengtson, 2018. Pellet feed improvements through vitamin C supplementation for snakehead, Channa striata (Bloch 1793) culture. Asian Fisheries Science (in press).

Hillestad, M., F. Johnsen and E. Austreng, 1998. Long-term effects of dietary fat level and feeding rate on growth, feed utilisation and carcass quality of Atlantic salmon. Aquacult. Nutr., 4: 89-97.

Hofer, R. and F. Schiermer, 1981. Proteolytic activity in the digestive tract of several species of fish with different feeding habits. Oecologia 48: 342-345.

144

http://www.fishbase.org/Summary/SpeciesSummary.php?ID=343&AT=channa%20 striata. Ngày truy cập 27/6/2013.

Hung, L. T., P.T. Liem and H.T. Tu, 2000. Comparing growth and protein requirement of three Asian catfishes of the Mekong river Pangasius bocourti, P. hypophthalmus, P. conchophilus, Paper presented at the final meeting of Catfish Asia project. Biodiversity and aquaculture of South East Asian Catfishes. Bogo, Indonesia, 15-20.

Hung, S.S.O., W. Liu, H. Li, T. Storebakken and Y. Cui, 1997. Effect of starvation on some morphological and biochemical parameters in white sturgeon (Acipenser transmontanu).

Hussain, S.M., M. Afzal, M. Salim, A. Javid, T.A.A. Khichi, M. Hussain and S.A. Raza, 2011. Apparent digestibility of fish meal, blood meal and meat meal for Labeo Rohita fingerling. The Journal of Animal & Plant Sciences, 21(4): 807- 811.

Huỳnh Văn Hiền, Nguyễn Hoàng Huy và Nguyễn Thị Minh Thúy, 2012. So sánh hiệu quả kinh tế - kỹ thuật giữa sử dụng thức ăn cá tạp và thức ăn viên cho nuôi cá lóc (Channa striata) thương phẩm trong ao tại An Giang và Đồng Tháp. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản, 480-487.

Huỳnh Văn Hiền, Trần Thị Thanh Hiền, Phạm Minh Đức và Robert S.Pomeroy, 2018. Phân tích hiệu quả sản xuất mô hình nuôi cá lóc (Channa striata) trong ao ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam 3(88)

japonicus): optimising

Igor.P., 2009. A factorial approach to defining the dietary protein and energy feed (Argyrosomus requirements of mulloway formulations and feeding strategies. PhD thesis, James Cook University. Page 206.

Iwai, T., 1969. Fine structure of gut epithelium cells of larval and juvenile carp during absorption of fat and protein. Arch. Histol. Jpn., 30: 183-199.

Kader, M.A., M. Bulbul, S. Yokoyama, M. Ishikawa, S. Koshio, M.S. Hossain, G.U. Ahmed and M.A. Hossain,, 2011. Evaluation of Meat and Bone Meal as Replacement for Protein Concentrate in the Practical Diet for Sutchi Catfish, Pangasius hypophthalmus (Sauvage 1878), Reared under Pond Condition. Journal of the World Aquaculture Society 42(3): 287-296.

Kaushik, S. J., and I. Seiliez, 2010. Protein and amino acid nutrition and metabolism in fish. Aquae. Res. 41: 322-332.

Kestemont P., X. Xueliang, N. Hamza, J. Maboudou and I.I. Toko, 2007. Effect of weaning age and diet on pikeperch larviculture. Aquaculture 264: 197-204.

Khan, M.S., K.J. Ang, M.A. Ambak and C.R. Saad, 1992. Optimum dietary protein requirement of a Malaysian freshwater catfish (Mystus nemurus).

Khojasteh, S.M., F. Sheikhzadeh, D. Mohammadnejad and A. Azami, 2009. Histological, Histochemical and ultrastructural study of the intestine of Rainbow Trout (Oncorhynchus mykiss). World Applied Sciences Journal 6 (11): 1525- 1531.

Kiên Thị Trang, 2015. Nghiên cứu nhu cầu duy trì và hiệu quả sử dụng methionine của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus). Luận văn cao học. Đại học Cần Thơ, 55 trang.

145

Kim, J.D and S.J. Kaushik, 1992. Contribution of digestible energy from carbohydrates and estimation of protein/energy requirements for growth of

rainbow trout oncorhynchusmykiss. Aquaculture 106:161-169.

Kim, K.-W., X. Wang, S.M. Choi, G.J. Park and S.C. Bai, 2004. Evaluation of optimum dietary protein-to-energy ratio in juvenile olive flounder Paralichthys olivaceus (Temminck at Schlegel). Aquae. Res. 35: 250-255.

Kitagima, R. E and D. M. Fracalossi, 2010. Validation of a methodology for measuring nutrient digestibilityand evaluation of commercial feeds for channel catfish. Sci. Agric. Piracicaba, Braz. vol.67 no.5.

Kittel, E.C. and B.C. Small, 2014. Effect of Altering Dietary Protein: Energy Ratios on Juvenile Pallid Sturgeon Growth Performance. North American Journal of Aquaculture76 (1): 28-35.

Kjorsvik, E., T. van der Meeren, H. Kryvi, J. Arnfinnson and P.G. Kvenseth, 1991. Early development of the digestive tract of cod larvae, Gadus morhua L., during start – feeding and starvation. J. Fish Biol., 38: 1-15.

Kolkovski, S., A. Tandler and M. Izquierdo, 1997. Effects of live food and dietary digestive enzymes on the efficiency of microdiets for sea bass (Dicentrarchus zabrax) larvae. Aquaculture, 161: 491-499.

Kozarić, Z., S. Kužir1, Z. Petrinec, E. Gjurčević and M. Božić, 2008. The Development of the Digestive Tract in Larval European Catfish (Silurus glanis L.). Anatomia, Histologia, Embryologia, 37: 141-146.

Kpogue, D.N.S., G.A. Ayanou, I.I. Toko, G.A. Mensah and E.D. Fiogbe, 2013. Influence of dietary protein levels on growth, feed utilization and carcass composition of snakehead, Parachanna obscura (Gunther, 1861) fingerlings. International Journal of Fisheries and Aquaculture 5 (5): 71-77.

Laining A., Rachmansyah, T. Ahmad and K. Williams, 2003. Apparent digestibility of selected feed ingredients for humpback grouper, Cromileptes altivelis. Aquaculture, 218: 529-538.

Lauff, M. and R. Hofer, 1984. Proteolytic enzymes in fish development and the importance of dietary enzymes. Aquaculture, 37: 335-346.

Law. A.T, 1986. Digestibility of low cost ingredients pelleted feed of Grass carp (Ctenopharyngodon idella). Aquaculture, 51(2): 97-103.

Lazo, J., M. Dinis, G. Holt, C. Faulk and C. Arnold, 2000. Co-feeding microparticulate diets with algae: toward eliminating the need of zooplankton at first feeding in larval red drum (Sciaenops ocellatus). Aquaculture, 188: 339-351.

Lazo, J.P., R. Mendoza, G.J. Holt, C. Aguilera and C.R. Arnold, 2007. Characterization of digestive enzymes during larval development of red drum (Sciaenops ocellatus). Aquaculture, 265: 194-205.

Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 299 trang.

Lê Xuân Sinh và Đỗ Minh Chung, 2010. Hiện trạng và những thách thức cho nghề nuôi cá lóc ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Nông nghiệp phát triển nông thôn, 2: 56-63.

146

Lee, S.M., 2002. Apparent digestibility coefficients of various feed ingredients for juvenile and grower rockfish (Sebastes schlegeli). Aquaculture, 207: 79-95.

Liao, Y.J., M.C. Ren, B. Liu, S.M. Sun, H.H. Cui, J. Xie, Q.L. Zhou, L.K. Pan, R.L. Chen and X.P. Ge, 2014. Dietary methionine requirement of juvenile blunt snout bream (Megalobrama amblycephala) at a constant dietary cystine level. Aquaculture Nutrition, 20 (6): 741-752.

Liem, P.T., P.T. Tu, L.T. Hung and N.T. Phuong, 2000. Effect of dietary protein level feed conversion efficiency and body composition of Pangasius conchophilus fingerling.

Lin, Y., Y. Gong, Y. Yuan, S. Gong, D. Yu, Q. Li and Z. Luo, 2013. Dietary L-lysine requirement of juvenile Chinese sucker, Myxocyprinus asiaticus. Aquaculture Research 44 (10): 1539-1549

Lin. S and L. Luo, 2011. Effects of different levels of soybean meal inclusion in replacement for fish meal on growth, digestive enzymes and transaminase activities in practical diets for juvenile tilapia, Oreochromis niloticus×O. aureus. Animal Feed Science and Technology, 168: 80-87.

Liti. D.M., R.M. Mugo, J.M. Munguti and H. Waidbacher, 2006. Growth and economics performance of Nile tilapia (Oreochromis niloticus L.) fed on three brans (maize, wheat and rice) in fertilized pond. Aquaculture Research 34: 1279- 1292.

Loewe, H. and R. Eckmann, 1988. The ontogeny of the alimentary tract of coregonid larvae: normal development. J. Fish Biol., 33: 841-850.

Long, D.N., N.A. Tuan, N.V. Trieu, L.S. Trang, L.M Lan and J.C Micha, 2004. Aritificial reproduction, larvae rearing and market production techniques of a new species for fish culture: snakehead (Channa striata, Bloch 1795). Acad. R. Sci. Outre-Mer 50, 4: 497-517.

Lou, Z., Y.Z. Lui, K.S. Mai, L.X. Tian, D.H. Lui and X.Y. Tan, 2004. Optimal dietary protein requirement of grouper (Epinephelus coiodes) juveniles fed isoenergytic diets in floating net cages. Aquaculture nutrition, 10: 247-252.

Luo, Z., Y.J. Liu, K.S. Mai, L.X. Tian, X.Y. Tan and J.F. Shi, 2006. Effects of Feeding Level on Growth Performance, Feed Utilization, Body Composition and Apparent Digestibility Coefficients of Nutrients for Grouper Epinephelus coioidi Juveniles. Journal of The World Aquaculture Society, 37 (1): 32-40.

Lupatsch, I. and G.W. Kissil, 2005. Feed formulations based on energy and protein demands in white grouper (Epinephelus aeneus). Aquaculture, 248: 83-95.

Lupatsch, I., 2003. Factorial Approach to Determining Energy and Protein Requirements of Gilthead seabream (Sparus aurata) for Optimal Efficiency of Production. Degree of Doctor of Philosophy in Agriculture. 123pp.

Lupatsch, I., G.W. Kissil and D. Sklan, 2001a. Optimization of feeding regimes for European sea bass Dicentrarchus labrax: a factorial approach. Aquaculture, 202: 289-302.

147

Lupatsch, I., G.Wm. Kissil and D. Skalan, 2003. Comparison of energy and protein efficiency among three fish species gilthead sea bream (Sparus aurata), European sea bass (Dicentrarchus labrax) and white grouper (Epinephelus aeneus): energy expenditure for protein and lipid deposition. Aquaculture 225: 175-189.

Lupatsch, I., G.Wm. Kissil, D. Skalan and E. Pfeffer, 1998. Energy and protein requirements for maintenance and growth in gilthead seabream Sparus aurata L. Aquaculture nutrition 4: 165-173.

Lupatsch, I., G.Wm. Kissil, D. Sklan and E. Pfeffer, 2001b. Effects of varying dietary protein and energy supply on growth, body composition and protein utilization in gilthead sea bream Sparus aurata L. Aquaculture nutrition, 7: 71-80.

Lupatsch,I., G.A. Santos, J.W. Schrama and J.A.J. Verreth, 2010. Effect of stocking density and feeding level on energy expenditure and stress responsiveness in European sea bassDicentrarchus labrax. Aquaculture, 298: 245–250

Ma, H., C.Cahu, J.Zambonino, H.Yu, Q.Duan, M.M.L.Gall and K.Mai, 2005. Activities of selected digestive enzymes during larval development of large yellow croaker (Pseudosciaena crocea). Aquaculture, 245: 239 – 248.

Mai, K., H. Yu, H. Ma, Q. Duan, E. Gisbert, J.L. Zambonino Infante and C. L. Cahu, 2005. A histological study on the development of the digestive system of Pseudosciaena crocea larvae and juveniles. Journal of Fish Biology, 67: 1094- 1106.

Mai, K., L. Zhang, Q. Ai, Q. Duan, C. Zhang, H. Li, J. Wan and Z. Liufu, 2006. Dietary lysine requirement of Japanese seabass, Lateolabrax japonicus. Aquaculture 258: 535-542.

Manee, S., C. Tantikitti, V. Vantanakul and P. Musikarune, 2012. Digestive enzyme activities during ontogenetic development and effect of live feed in green catfish larvae (Mystus nemurus Cuv. & Val.). Songklanakarin Journal of Science and Technology, 34 (3): 247-254.

Mark, A.B., G.L. Allan and I. Pirozzi, 2010. Estimation of digestible protein and energy requirements of yellowtail kingfish (Seriola lalandi) using a factorial approach. Aquaculture 307 (3-4): 247-259.

Martinez, J. B., S. Chatzifotis, P. Divanach, and T. Takeuchi, 2004. Effect of dietary taurine supplementation on growth performance and feed selection of sea bass Dicentrarchus labrax fry fed with demand-feeders. Fish. Sci. 70: 74-79.

McGoogan, B.B. and D.M. Gatlin, 1998. Metabolic requirements of red drum (Sciaenops ocellatus) for protein and energy based on weight gain and body composition. J. Nutr. 128: 123-129.

Mendez, G. and G. Wieser, 1993. Metabolic responses to food deprivation and re feeding in juveniles of Rutilus rutilus (Teleostei: Cyprinudae). Environmental Biology of Fishes 36: 73-81.

Mihelakakis, A., C. Tsolkas and T. Yoshimatsu, 2002. Optimization of feeding rate for hatchery-produced juvenile Gilthead sea bream Sparus aurata. Journal of the World Aquaculture Society 33(2): 169-175.

Miles, R.D. and F.A. Chapman, 2006. The benefits of fish meal in aquaculture diets. University of Florida Extension.

148

Mohamed, S.A., W. Kammoun, A. Abdelmouleh and M.M. Kraϊem, 2009. Growth performance, feed utilization, and body composition of Nile tilapia (Oreochromis niloticus L.) fed with differently heated soybean-meal-based diets. Aquaculture International.Volume 17, Issue 6, pp 507-521

Mohanta K.N, S.N.Mohanty, J.K. Jena and N.P. Sahu, 2006. Apparent protein, lipid and energy digestibility coefficients of some commonly used feed ingredients in formulated pelleted diets for silver barb, Puntinus gonionotus. Aquaculture Volume 55(3); 115-125.

Mohanty, S.S and K. Samantaray, 1996. Effect on varying levels of the dietary prot ei n on the growth perfprmance and feed conversion efficiency of snakehead ( Channa striatus) fry. Aquaculture nutrition (United Kingdom), 2: 89-94.

Mohanty, S.S and K. Samantaray, 1997. Interactions of dietary levels of protein and energy on fingerling snakehead, Channa striata. Aquaculture, 156: 241-249.

Mukhopadhyay, N. and A.K. Ray, 2001. Effects of amino acid supplementation on the nutritive quality of fermented linseed meal protein in the diets for Rohu, (Labeo rohita), fingerlings. J. Appl. Ichthyol., 7: 220-226.

Munilla-Morán, R., J.R. Stank and A. Brabour, 1990. The role of exogenous enzymes on the digestion of the cultured turbot larvae, Scophthalmus maximus L. Aquaculture, 88: 337-350.

Murthy, H. S. and T.J. Varghese, 1998. Total sulphur amino acid requirement of the Indian major carp, Labeo rohita (Hamilton). Aquaculture Nutrition, 4: 61–65

Mwangamilo, J.J and N.S. Jiddawi, 2003. Nutritional Studies and Development of a Practical Feed for Milkfish Chanos chanos Culture in Zanzibar, Tanzania. Western Indian Ocean J. Mar. Sci. 2 (2): 137-146.

Nang Thu, T.T., C. Parkouda, S.D. Saeger, Y. Larondelle and X. Rollin, 2007. Comparison of the lysine utilization efficiency in different plant protein sources supplemented with L-lysine HCl in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) fry. Aquaculture, 272 (1-4): 477-488

Ng, W. K., F.L. Liew, L.P.Ang and K.W.Wong, 2001. Potential of mealworm (Tenebrio molitor) as an alternative protein source in practical diets for African catfish, Clarias gariepinus. Aquaculture 32 (Supplement 1): 273-280.

Ngô Thị Minh Thúy và Lê Xuân Sinh, 2015. So sánh kết quả sử dụng thức ăn cho nuôi cá lóc (Channa striata) và sự chấp nhận của người nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 38: 66-72.

Ngô Thị Minh Thúy và Trương Đông Lộc, 2015. Phân tích hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá lóc và nhận thức của người nuôi ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 36: 108-115.

Nguyễn Thanh Phương, Trần Thị Thanh Hiền và Trần Tuyết Hoa, 1997. Xác định nhu cầu chất protein của hai cỡ basa giống (Pangasius bocourti). Tuyển tập công trình khoa học công nghệ đại học Cần Thơ (1993 – 1997). NXB Nông Nghiệp.

Nguyễn Thị Linh Đan, Trần Thị Thanh Hiền, Trần Lê Cẩm Tú và Lam Mỹ Lan, 2013. Đánh giá khả năng thay thế bột cá bằng đậu nành ly trích dầu làm thức ăn cho cá thát lát còm (Chitala Chitala Hamilton, 1822). Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần thơ, 109-117.

149

Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004. Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để ương nuôi cá lóc bông (Channa micropeltes). Luận văn Cao học ngành nuôi trồng thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.

Nguyễn Văn Mùi, 2012. Enzyme học. Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, 443 trang.

Nguyễn Văn Nguyện, Nguyễn Văn Hào và Lê Xuân Hải, 2006. Một số đặc tính của bột cá dùng trong sản xuất thức ăn nuôi thủy sản. Hội nghị Khoa học và Phân ban công nghệ thực phẩm.

Noting, M., B. Ueberchar and H. Rosenthal, 1999. Trypsin activity and physiological aspects in larval rearing of European seabass (Dicentrachus labrax) using live prey and compound diets. Journal of Applied Ichthyology, 15: 138-142.

NRC (Nation Reseach Council), 1993. Nutrient requirements of fishes. National Academic Press, Washington, USA.

NRC (National Research Council), 2011. Nutrient Requirements of Fish and Shrimp. The National Academy Press, Washington, D.C., USA. 375 pp.

Omoregie, E. and F.I. Ogbemudia, 1993. Effect of substituting fishmeal with palm kernel meal on growth and food utilization of the Nile tilapia (Oreochromis niloticus). Ieraeli Journal of Aquaculture – Bamidgeh, 45(3): 113-119.

Ostaszewska, T., K. Dabrowski, K. Czuminska, W. Olech and M. Olejniczak, 2005. Rearing of pike-perch larvae using formulated diets, first success with starter feeds. Aquaculture Research, 36: 1167-1176.

Page, L.W. and J.W. Andrews, 1973. Interactions ofdietary levels of protein and energy on channel catfish (Ictalurus punctatus). Journal of Nutrition 103:1339- 1346.

Pahlevanyaly, M., B.M. Amiri, A. Posty and M. Bahmani, 2004. Study of histological development in Persian sturgeon (Acipenser persicus) during early ontogeny. Iran Fisheries J., 2: 33-50.

Panagiotis A.P. and C.N. Neofitou, 2003. Feeding Frequency and feed intake in the african catfish (Clarias gariepinus)(Burchell 1822). The Israeli Journal of Aquaculture Volume 55 (3): 160-168.

Pẽna, R., S. Dumas, M. V. Fuerte and J.L.O. Galindo, 2002. Ontogenetic development of the digestive tract in reared spotted sand bass Paralabrax maculatofasciatus larvae. Aquaculture 62: 1-12.

Péres, C.L., J.L. Cahu, Z. Infante, M.M. Le Gall and P. Quazuguel, 1996. Amylase and trypsin responses to intake of dietary carbohydrate and protein depend on the developmental stage in sea bass (Dicentrarchus labrax) larvae. Fish Physiology and Biochemistry 15: 237-242.

in

Perez, C.J.C., H.M. Murray, J.W. Gallant, N.W. Ross, S.E. Douglas and S.C. Johnson, 2006. Development of larvae of haddock the digestive capacity (Melanogrammus aeglefinus) and Atlantic cod (Gadus morhua). Aquaculture 251: 377-401.

Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004. Giáo trình Phương pháp nghiên cứu sinh học cá. Tủ sách trường ĐHCT.

150

Pham Thanh Liem, 2002. Study on the early development and rearing of the Marble Goby (O. marmoratus) larvae. Thesis Master of Science Kolej Universiti Terengganu, Universiti Putra Malaysia, 144pp.

Phạm Thanh Liêm, A.M.A. Bolong, M.A. Ambak, A.Hassan và A.Z. Abidin, 2002. Sự phát triển ống tiêu hóa của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn cá bột. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 4: 332-337.

Phạm Văn Khánh, 2003. Kỹ thuật một số loài cá xuất khẩu. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 33 trang.

Phumee, P., W.Y. Wei, S.Ramachandran and R. Hashim, 2008. Replacement of fish meal by soybean meal in the formulated diet for uvenile Pangasianodon hypophthalmus. Laboratory of Aquafeedand feeding Management, Aquaculture Research Group, School of Biological Sciences, UniversitiSainsMalaysia, 11800 Penang, Malaysia.

Phuong, N.T. and T.T.T. Hien, 2007. Developing alternative to fish product use in feed for catfish. Paper presented at the world aquaculture society Conference, August 5-8.

Pirozzi, I., 2009. A factorical approach to defining the dietary protein and energy requirements of mulloway, Argyrosomus japonicus: optimizing feed formulation and feeding strategies. PhD thesis, James Cook University. 183 pages.

Pirozzi, I., M.A. Booth and G.L. Allan, 2010. Protein and energy utilization and the requirements for maintenance in juvenile mulloway Argyrosomus japonicus. Fish Physiology and Biochemistry 36(1): 109-121.

Quin, J., A.W. Fast, D. D. Anda and R.P. Weidebach, 1997. Growth and survival of larval snakehead Channa striatus fed different diets. Aquaculture 148: 105-113.

Quin, J.G. and A.W. Fast, 1998. Effects of temperature, size and density on culture performance of snakehead, Channa striatus (Bloch), fed formulated feed. Aquaculture Research, 29: 299-303.

Quin, J.G. and A.W.Fast, 1996. Size and feed dependent cannibalism with juvenile snakehead (Channa striatus). Aquaculture, 144: 313-320

Quin, J.G. and A.W.Fast, 1997. Food selection and growth of young snakehead Channa striatus. Journal of Applied Ichthyology, 13: 21-26.

Refstie. S., S.J. Helland and T. Storebakken, 1997. Adaptation to soybean meal in diets for rainbow trout, Oncorhynchus mykiss. Aquaculture 153: 263-272.

Reinitz, G., 1983. Relative effect of age, diet and feeding rate to the body composition of young rainbow trout Salmo gairneri. Aquaculture volume 35: 19-27.

Ribeiro, L., C. Sarasquete and M.T. Dinis, 1999. Histological and histochemical development of the digestive system of Solea senegalensis (Kaup, 1858) larvae. Aquaculture 171: 293-308.

Richard, L., P. P. Blanc, V. Rigolet, S. J. Kaushik, and I. Geurden, 2010. Maintenance and growth requirements for nitrogen, lysine and methionine and their utilisation efficiencies in juvenile black tiger shrimp, Penaeus monodon, using a factorial approach. Brit. J. Nutr. 103: 984-995.

Robinson, E.H., R.P. Wilson and W.E. Poe, 1980. Re-evaluation of the lysine requirement and lysine utilization by fingerling channel catfish. J. Nutr. 110: 2313-2316

151

Rodehutscord, M., A. Becker, M. Pack and E. Pfeffer, 1997. Response of rainbow trout (Onchorhynchus mykiss) to supplements of individual essential amino acids in a

semi purified diet, including an estimate of the maintenance requirement for essential amino acids. Nutrition, 127: 1166-1175.

Rollin, X., I.B. Wauters, N. Bodin, Y. Larondelle, W. Ooghe, B. Wathelet and T. Abboudi, 2006. Maintenance threonine requirement and efficiency of its use for accretion of whole-body threonine and protein in Atlantic salmon (Salmo salar L.) fry. Brit. J. Nutr. 95: 234-245.

Salam, A., M. Ali and S. Masud, 2000. Effect of various food deprivation regimes on body composition dynamics of thaila, Catla catla. Journal of Research (Science) Bahauddin Zakariya University, Multan, Pakistan, Vol. 11, No. 1, pp.26-32.

Sarasquete, C., A. Polo and M. Yufera, 1994. Histological and histochemical development of the digestive system of larval gilthead seabream, Sparus aurata L. Aquaculture, 79-92.

Sarasquete, C., M.L.G.D. Canales, J.M. Arellano, J.A. Munoz-Cueto, L. Ribeiro and M.T. Dinis, 1996. Histochemical aspects of the yolk-sac and digestive tract of larvae of the Senegal sole, Solea senegalensis Kaup. Histopathol 11: 881-888.

Sarasquete, M.C., A. Polo and M. Yúfera, 1995. Histology and histochemistry of the development of the digestive system of larval gilthead seabream, Sparus aurata L. Aquaculture,130: 79-92.

Sardar, P., M. Abid, S.H Randhwa and K.S Prabhakar, 2008. Effect of dietary lysine and methionine supplemention on growth, nutrient utilization, carcass composition and haemato-biochemical status in Indian major carp, rohu (Labeo rohita) fed soy protein-based diet. Aquaculture Nutrition 2008.

Satoh, S., M. A. Alam, K. I. Satoh and V. Kiron, 2004. Effects of dietary lipid and phosphorus levels on nitrogen and phosphorus excretion in young yellowtail Seriola quinqueradiata: A preliminary observation. Fisheries Sci. 70: 1082-1088.

Segner, H., R. Rosch, H. Schmidt and K.J.V. Poeppinghausen, 1989. Digestive enzymes in larval Coregonus lavaretus L. J. Fish Biol 35: 249-263.

Segner, H., V. Storch, M. Reinecke, W. Kloas and W. Hanke, 1994. The development of functional digestive and metabolic organs in turbot Scophthalmus maximus. Mar. Biol 119: 471-486.

Seyedeh S.B., A.A. Kenari, R. Nazari and E. Gisbert, 2011. Developmental changes of digestive enzymes in Persian sturgeon (Acipenser persicus) during larval ontogeny. Aquaculture 318: 138-144.

Shirota, A., 1970. Studies on the mouth size of fish larvae. Method and conclusions only. Japanese Society of Scientific Fisheries, 36: 353-368.

Silas, S.O.H., W. Liu, H. Li, T. Storebakken and Y. Cui, 1997. Effect of starvation on some morphological and biochemical parameters in white sturgeon, Acipenser transmontanu. Aquaculture 151: 357-363.

Silva, S.S.D. and T.A. Anderson, 1995. Fish nutrition in aquaculture. Published by Chapman & Hall, 2-6 Boundary Row, London SE1 8HN. Chapman & Hall Aquaculture Series 1, 143pp.

152

Smith, R.R., 1976. Metabolization energy or feedstuff for trout. Feedstuff, 48: 16–21.

Souto, C.N, M.V.A. Lemos, G.P. Martins, J.G. Araújo, K.L.A.M Lopes and I.G. Guimarães, 2013. Protein to energy ratios in goldfish (Carassius auratus) diets. Animal science and veterinary medicine. ISSN 1413-7054, Vol 37.

Steffens, W., B. Rennert, M. Wirth and R. KrUger, 1999. Effect of two lipid levels on growth, feed utilization, body composition and some biochemical parameters of rainbow trout, Oncorhynchus mykiss (Walbaum 1792). J. Appl. Ichthyol. 15: 159-164.

Storebakken, T., I.S. Kvien, K.D. Shearer, B.G. Helland, S.J. Helland and G.M. Berge, 1998. The apparent digestibility of diets containing fish meal, soyabean meal or bacterial meal fed to Atlantic salmon (Salmo salar): evaluation of different faecal collection methods. Aquaculture, 169: 195-210.

Storebakken, T., S.O.H. Silas., C.C. Calvert and E.M. Plisetskaya, 1991. Nutrient partitioning in rainbow trout at different feeding rates. Aquaculture 96: 191-203.

Stroband, H.W.J and K.R Dabrowski, 1979. Morphological and physiological aspects of the digestive system and feeding in freshwater fish larvae. In Fontaine, M. (Ed). Nutrition des Poissons, CNRS, Paris: 335-378.

Suzer, C., S. Aktulun, D. Coban, H.O. Kamac, S. Saka, K. Firat and A. Alpbaz, 2007. Digestive enzyme activities in larvae of sharpsnout seabream (Diplodus puntazzo). Comp. Biochem. Phiysiol 148A: 470-477.

Takeshi, M and W.A. James, 1977. Thiamin Requirement of Channel Catfish Fingerlings. University of Georgia College of Agiculture, Skidaivay Institute of Oceanography, and Coastal Plain Station, P.O. Box 13687, Savannah, Georgia 3140.

Tantikitti, C and N.Chimsung, 2001. Dietary lysine requirement of freshwater catfish (Mystus nemurus Cuv. & Val.). Aquaculture Research, 32: 135-141

Tengjaroenkul, B., B.J. Smith, S.A. Smith and U. Chatreewongsin, 2002. Ontogenic development of the intestinal enzymes of cultured Nile Tilapia, Oreochromis niloticus L. Aquaculture, 211: 241-251.

Tibbetts, S. M., S. P. Lail, and J. E. Milley, 2005. Effects of dietary protein and lipid levels and DP DE) 1 ratio on growth, feed utilization and hepatosomatic index of juvenile haddock, Melanogrammus aeglefinus L. Aquacult. Nutr. 11: 67-75.

Tien, N.V., D.T.M. Chinh, T.T.M. Huong, T.H. Phuong, S. Irvin and B. Glencross, 2016. Development of a nutritional model to define the energy and protein requirements of cobia (Rachycentron canadum). Aquaculture 463: 193-200.

Trần Hoàng Tuân, Nguyễn Tuấn Lộc, Huỳnh Văn Hiền, Trương Hoàng Minh, Trần Ngọc Hải và Robert S. Pomeroy, 2014. Đánh giá hiệu quả sản xuất và tác động của thay đổi thời tiết đến nuôi cá lóc (Channa striata) trong ao ở tỉnh An Giang và Trà Vinh. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, 2: 141-149.

Trần Lê Cẩm Tú và Trần Thị Thanh Hiền, 2006. Đánh giá khả năng chia sẻ năng lượng của lipid cho protein trong thức ăn của cá rô đồng (Anabas testudineus) ở giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 169-174.

153

Trần Lê Cẩm Tú, Dương Kim Loan, Trang Tuấn Nhi và Trần Thị Thanh Hiền, 2014. Xác định nhu cầu protein của cá kèo giống (Pseudapocryptes elongatus, Cuvier 1816) ở hai mức năng lượng. Tạp chí Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề Thuỷ sản (1): 302 – 309.

Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2010. Thay thế protein bột cá bằng protein đậu nành ly trích dầu có bổ sung phytase trong thức ăn nuôi cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 14b: 147-157.

Trần Thị Bé và Trần Thị Thanh Hiền, 2014. Đánh giá khả năng tiêu hóa một số nguồn nguyên liệu làm thức ăn cho cá kèo (Pseudapocryptes Elongatus). Tạp chí khoa học trường Đại học Cần thơ, 30: 72-80.

Trần Thị Bé, 2016. Nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng và xây dựng công thức thức ăn nuôi cá kèo (Pseudapocryptes lanceolatus) (Cuvier, 1816). Luận văn tiến sĩ. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. 110 trang.

Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 191 trang.

Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy, 2008. Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống. Tạp chí Khoa học 2008, 1: 134-140. Trường Đại học Cần Thơ.

Trần Thị Thanh Hiền, 2014. Nghiên cứu xây dựng công thức thức ăn cho cá thát lát còm (Chitala chitala) trong giai đoạn nuôi thương phẩm. Báo cáo đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ.

Trần Thị Thanh Hiền, Bùi Minh Tâm, Trần Lê Cẩm Tú, Nguyễn Hoàng Đức Trung, Bùi Vũ Hội, Trịnh Mỹ Yến, 2011a. Giai đoạn cho ăn thích hợp của phương thức thay thế cá tạp bằng thức ăn chế biến trong ương cá lóc bông Channa micropeltes. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 22a: 261-268.

Trần Thị Thanh Hiền, Dương Thúy Yên và Nguyễn Thanh Phương, 2004. Nghiên cứu nhu cầu protein, chất bột đường và phát triển thức ăn cho ba loài cá trơn phổ biến: cá basa (Pangasius bocourti), cá hú (Pangasius conchophilus) và cá tra (Pangasius hypothalmus) giai đoạn giống. Đề tài cấp bộ, 60 trang.

Trần Thị Thanh Hiền, Dương Thúy Yên, Trần Lê Cầm Tú, Lê Bão Ngọc, Hải Ðăng Phương và Lee Swee Heng, 2006. Ðánh giá khả năng sử dụng cám gạo ly trích dầu làm thức ăn cho cá. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, 175-183.

Trần Thị Thanh Hiền, Ngô Minh Dung và Bùi Minh Tâm, 2011b. Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc (Channa striata). Kỷ yếu Hội nghị khoa học Thủy sản lần 4, Trường Đại học Cần Thơ: 381-394

Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Hữu Bon, Lam Mỹ Lan và Trần Lê Cẩm Tú, 2013. Nghiên cứu xác định nhu cầu protein và lipid của cá thát lát còm (Chitala chitala) giai đoạn giống. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Trường Đại học Cần Thơ: 196- 204.

Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Dương Thúy Yên và Nguyễn Anh Tuấn, 2005. Nhu cầu protein của cá lóc bông (Channa micropeltes Cuvier, 1831) giai đoạn giống. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 3: 58-65.

Trần Thị Thanh Hiền, Phạm Thanh Liêm và Nguyễn Hương Thùy, 2007. Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng và khả năng sử dụng thức ăn chế biến để ương cá thát lát còm (Chilata chilata) từ bột lên giống. Đề tài cấp bộ.

154

Trần Thị Thanh Hiền, Thái Thị Thanh Thúy, Nguyễn Hoàng Đức Trung và Trần Lê Cẩm Tú, 2009. Xác định nhu cầu về Methionine trong thức ăn của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus). Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc. Đại học Nông Lâm.

Trần Thị Thanh Hiền, Trần Lê Cẩm Tú, Nguyễn Vĩnh Tiến, Nguyễn Bảo Trung, Trần Minh Phú, Phạm Minh Đức và Bengston David, 2014. Thay thế bột cá bằng một số nguồn bột đậu nành trong thức ăn cho cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Số chuyên đề: Thủy sản (1): 310-318

Trần Thị Thanh Hiền, Trần Thị Bé, Lê Quốc Toán và Nguyễn Hoàng Đức Trung, 2010. Thay thế bột cá bằng bánh dầu nành làm thức ăn cho cá lóc bông (Channa micropeltes). Tạp chí ĐHCT (15a): 207-213.

Trieu, N.V., D.N. Long and L.M. Lan, 2001. Effects of dietary protein levels on the growth and survival rate of Snakehead (Channa striatus, Bloch) fingerling. In Development of new technologies and their practice for sustainable farming in Mekong Delta, Cuu Long rice research institute Omon, Cantho, Vietnam.

Trung, D.V., N.T. Diu, N.T. Hao and B.D. Glencross, 2011. Development of a nutritional model to define the energy and protein requirements of tilapia (Oreochromis niloticus). Aquaculture, 320: 69-75.

Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định lại các loài cá nước ngọt vùng ĐBSCL. 361 trang.

Tseng, H.C., J.H. Grendell and S.S. Rothman, 1982. Food, deodenal extracts, and enzyme secretion by the pancreas. American Journal of Physiology, 243: 304- 312.

Tuan, L.A., and K.C. William, 2007. Optimum dietary protein and lipid specifications for juvenile malabar grouper (Epinephelus malabaricus). Aquaculture 267:129– 138

Ufodike E.B.C. and A.J. Matty, 1983. Growth responses and nutrient digestibility ain mirror carp (Cyprinus carpio) fed different lebels of cassava and rice. Aquaculture, 31: 41-50

Usmani, N., A.K. Jafri and M.A. Khan. 2003. Nutrient digestibility studies in Heteropneustes fossilis (Bloch), Clarias batrachus (Linnaeus) and C. gariepinus (Burchell). Aquaculture Research, 34: p. 1247.

Vandenberg, G.W and J.D.L. Noüe, 2001. Apparent digestibility comparison in rainbow trout (Oncorhynchus mykiss) assessed using three methods of feces collection and three digestibility markers. Aquaculture Nutrition, 7: 237-245.

Veneroa, J.A., R.D. Milesb and F.A. Chapmana, 2006. Validation of a Fecal Collection Method for Determination of Apparent Digestibility Coefficients of Diets in Gulf of Mexico Sturgeon. Aquaculture Nutrition, 90-94.

Verreth, J.A.J., E. Torreele, E. Spazier, A.V.D. Sluiszen, J.H.W.M. Rombout, R. Booms and H. Segner, 1992. The Development of a Functional Digestive System in the African Catfish Clarias gariepinus (Burchell). Journal of the World Aquaculture Society, 23: 286-298.

Vu, T.T., 1983. Étude histoenzymologique des activities proteasiques dans le tube digestif des larves et des adultes de bar Dicentrarchus labrax (L.). Aquaculture, 32: 57-69.

155

Walford, J. and T.J. Lam, 1993. Development of the digestive tract and proteolytic enzyme activity in sea bas (Lates calcarifer) larvae and juveniles. Aquaculture, 109: 187-205.

Wang, C., S. Xie, X. Zhu, W. Lei, Y. Yang and J. Liu, 2006a. Effects of age and dietary protein level on digestive enzyme activity and gene expression of Pelteobagrus fulvidraco larvae. Aquaculture 254: 554-562.

Wang, S., Y.Liu, L. Tian, M. Xie, H. Yang, Y. Wang and G. Liang, 2005. Quantitative dietary lysine requirement of juvenile grass carp Ctenopharyngodon idella. Aquaculture, 249: 419-429.

Wang, X., M. Xue, C. Figueiredo-Silva, J. Wang, Y. Yang, X. Wu, F. Han ang K. Mai, 2016. Dietary methionine requirement of the pre-adult gibel carp (Carassius auratus gibeilo) at a constant dietary cystine level. Aquaculture nutrition, 22: 509-516

Wang, Y., J. Guo, D.P. Bureau and Z. Cui, 2006b. Replacement of fish meal by rendered animal protein ingredients in feeds for cuneate drum (Nibea miichthioides). Aquaculture 252(2–4): 476-483.

Wannapa, R., A. Nontawith and Y. Ruangvit, 2012. Digestive enzyme activities during larval development of Striped catfish, Pangansianodon hypophthalmus (Sauvage, 1878). Kasetsart Journal, 46: 217-228.

Watanabe, K., K. Ura, T. Yada, V. Kiron, S. Satoh and T. Watananbe, 2000. Energy and protein requirements for yellowtail for maximum growth and maintenance of body weight. Fish. Sci., 66: 1053-1061.

Webb, K. A., L. T. Rawlinson and G. J. Holt, 2010. Effects of dietary starches and the protein to energy ratio on growth and feed efficiency of juvenile cobia (Rachycentron canadum). Aquacult. Nutr. 16: 447-456.

Wilson R.P, 1991. Amino acid nutrition of fish: a new method of estimating requirement values. In: Proceedings of the US Japan Symposium on Aquaculture Nutrition, 20, Newport, OR, USA, 1991 (ed. By M.R. Collie & J.P.Mc Vey), pp. 49 – 54.

Wilson, R. P. and J. E. Halver, 1986. Protein and amino acid requirements of fish. Annu. Rev. Nutr. 6: 225-244.

Wilson, R.P, 1989. Amonio acids and proteins. Fish Nutrition, Second Edition, J. E. Halver, ed. New York: Academic Press. 377 – 399

Wilson, R.P, 1991. Amino acid nutrition of fish: a new method of estimating requirement values. In: Proceedings of the US Japan Symposium on Aquaculture Nutrition, 20, Newport, OR, USA, 1991 (ed. By M.R. Collie & J.P.Mc Vey), 49- 54.

Windell, J.T., J.W.Foltz and J.A.Sarokan, 1978. Methods of fecal collection and nutrient leaching in digestibility studies. Progressive Fish Culturist, 49: 51–55.

Winfree, R. A., and R. R. Stickney, 1981. Effects of dietary protein and energy on growth, feed conversion efficiency and body composition of Tilapia aurea. J. Nutr. 111: 1001-1012.

Wing-Keong N., 2003. The potential use of palm kernel meal in aquaculture feeds. Aquaculture Asia, 38-39.

156

Worthington T.M., 1982. Enzymes and Related Biochemicals. Biochemical Products Division, Worthington Diagnostic System, Freehold, NJ, USA.

Xie, S., Y. Cui, Y. Yang and J. Lui, 1997. Energy budget of Nile tilapia Oreochromis niloticus in relation ration size. Aquaculture 154: 57-68.

Yang, R., C. Xie, Q. Fan, C. Gao and L. Fang, 2010. Ontogeny of the digestive tract in yellow catfish Pelteobagrus fulvidracolarvae. Aquaculture 302: 112-123.

Yang, Y., S. Xie, Y. Cui, X. Zhu, W.Lei and Y. Yang, 2006. Partial and total replacement of fishmeal with poultry by-product meal in diets for gibel carp, Carassius auratus gibelio Bloch. Aquaculture Research: 40–48.

Yigit, M., S. Koshio, S. Teshima and M. Ishikawa, 2004. Dietary protein and energy requirements of juvenile Japanese flouder, Paralichthys olivaceus. Journal of Applied Sciences 4(3): 486-492.

Yu, H.R., Q. Zhang, H. Cao, X.Z. Wang, G.Q. Huang, B.R. Zhang, J.J. Fan, S.W. Liu, W.Z. Li and Y. Cui, 2013. Apparent digestibility coefficient of selected feed ingredients for juvenile snakehead (Ophiocephalus argus). Aquaculture Nutrition, 19: 139-147.

Yúfera, M. and M.J. Darias, 2007. Changes in the gastrointestinal pH from larvae to adult in Senegal sole (Solea senegalensis). Aquaculture 267: 94-99.

Zambonino lnfante, J.L. and C.L.Cahu, 1994. Development and response to a diet change of some digestive enzymes in sea bass (Dicentrarchus labrax) larvae. Fish Physiol. Biochem 12: 399-408.

Zambonino, I.J.L., E. Gisbert, C. Sarasquete, I. Navarro, J. Gutiérrez and C.L. Cahu, 2008. Ontogeny and Physiology of the Digestive System of Marine Fish Larvae (Chap. VII). In: Feeding and Digestive Functions of Fishes, Oxford & IBH Publishing Co. Pvt. Ltd, New Delhi, 281-348.

Zehra, S. and M.A. Khan, 2012. Dietary protein requirement for fingerling Channa punctatus based on growth, feed conversion, protein retention and biochemical composition. Aquacult Int 20: 383-395.

Zhou, F., J. Shao, R. Xu, J. Ma and Z. Xu, 2010. Quantitative L‐lysine requirement of juvenile black sea bream (Sparus macrocephalus). Aquaculture Nutrition 16 (2): 194-204.

Zhou, F., J. X. Xiao, Y. Hua, B. O. Ngandzali and Q. J. Shao, 2011. Dietary L- methionine requirement of juvenile black sea bream (Sparus macrocephalus) at a constant dietary cystine level. Aquaculture Nutrition, 17: 469-481

157

Zuanon, J.A.S., A.L. Salaro, S.S. Moraes, M.L. de Oliveira Alves, E. Márcio and E.S. Araújo, 2007. Dietary protein and energy requirements of juvenile freshwater angelfish.

PHỤ LỤC

Phụ lục A: Nghiên cứu đặc điểm phát triển ống tiêu hóa của cá lóc giai đoạn bột đến 35 ngày tuổi khi sử dụng thức ăn chế biến.

Phụ lục A1 : Phương pháp làm tiêu bản mô

Cắt tỉa định hướng

Đối với cá nhỏ thì cố định nguyên con, cá 20 ngày tuổi trở đi cắt bỏ phần thân lấy từ hệ tiêu hóa trở về trước để tránh khi cá được đúc khối cắt không bị vỡ.

Xử lý mẫu

Sau khi cắt tỉa định hướng mẫu được xử lý trong máy Sproceeding tissue (MICROM, STP 120-2) theo các bước sau:

Khử nước

Mục đích của khử nước là loại nước hoàn toàn trong mô mà không làm mô và

tế bào bị biến dạng hoặc vị trí của các thành phần cấu tạo trong mô bị thay đổi. Vì thế, mẫu sẽ được chuyển qua các lọ cồn có nồng độ tăng dần từ 80%, 90%, 95%, 100% để quá trình khử nước không xảy ra quá nhanh.

Làm trong mẫu

Mẫu được ngầm qua cồn theo từng bước cồn 80%, 95%, 95%, 100%, 100%, 100%. Sau đó ngâm qua 3 lọ có chứa dung dịch xylen mỗi lọ ngâm từ 1-2 giờ.

Ngấm paraffin

Theo qui trình xử lý mô được cài đặt trong máy xử lý mô tự động theo các bước sau (Coolidge & Howard, 1997, có điều chỉnh): Kích thước khối mô/ Thời gian STT Hóa chất sử dụng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cồn 80% Cồn 95% Cồn 95% Cồn 100% Cồn 100% Cồn 100% Xylen Xylen Xylen Paraffin+Sáp ong+Xylen(3:2:5) Paraffin+Sáp ong+Xylen(3:2:5) Paraffin+Sáp ong+Xylen(3:2:5) >=5µm 30 phút 60 phút 30 phút 60 phút 18 phút 18 phút 18 phút 30 phút 30 phút 60 phút 60 phút 60 phút <5 µm 20 phút 20 phút 30 phút 40 phút 40 phút 40 phút 60 phút 20 phút 20 phút 60 phút 60 phút 60 phút <3 µm 10 phút 10 phút 10 phút 20 phút 20 phút 20 phút 30 phút 20 phút 20 phút 20 phút 30 phút 30 phút <1 µm 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút 5 phút Cho các casset vào sọt chứa mẫu đặt lên vị trí lọ 1 của máy xử lý mô tự động và tiến hành qui trình xử lý (mẫu được chạy qui trình 8).

Đúc khối

Sau khi mẫu được xử lý ta tiến hành đúc khối bằng máy MICROM EC350 1.

158

Mẫu được đặt vào giữ khuôn inox, cho paraffin nóng chảy ở 600C vào. Sau đó để khuôn qua máy làm lạnh nhanh MICROM EC350 2 cố định vị trí mẫu. Khi mẫu được cố định ta cho khuôn mẫu vào ngăn lạnh.

Cắt mẫu

Chuẩn bị máy cắt: sử dụng máy microtome (Yamato PR 50) để cắt mẫu. Độ lệch của lưỡi dao với mặt cắt của khối mẫu tạo thành một góc khoảng 15 – 390.

Cắt mẫu: bắt đầu bằng những lát cắt 4 - 6µm, khi cắt mẫu đến vị trí mong muốn, điều chỉnh lát cắt có độ dày là 2 µm. Cho lát cắt vào chậu nước ấm, dùng kim mũi giáo tách phần mẫu đạt yêu cầu.

Dán mẫu lên lame

Dùng lame sạch cho 1 giọt Haris’ albumin lên, tạo thành một màng mỏng trên

lame. Nhúng lame vào bên dưới lát cắt và nâng từ từ lên. Mẫu được dán xong sẽ được sấy khô bằng bàn sấy ở nhiệt độ 350C trong 4 giờ để lát cắt dính vào lame.

Nhuộm mẫu

Phương pháp nhuộm mẫu bằng Haematoxylin và Eosin (H&E) theo qui trình

của phòng thí nghiệm Bệnh Học Thủy Sản: STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 Hóa chất sử dụng Xylen Xylen Cồn 100 Cồn 100 Cồn 90 Cồn 80 Cồn 70 Nước cất Haematoxylin Nước máy 1% acid alcohol 2% Potassium acetate Nước máy Eosin Cồn 70 Cồn 80 Cồn 90 Cồn 100 Cồn 100 Xylen Xylen Thời gian 10 phút 10 phút 1 phút 1 phút 1 phút 1 phút 1 phút 1 phút 8 phút 1 phút 10 giây 4 phút 1 phút 1 phút 30 giây 1 phút 1 phút 1 phút 1 phút 1 phút 5 phút 5 phút

Với phương pháp nhuộm này, nhân tế bào sẽ bắt màu xanh dương. Vùng tế bào với lưới nội chất (tế bào gan, tuyến tụy ngoại tiết) có màu xanh nhạt hay tím. Phần tế bào chất còn lại sẽ dao động quanh màu hồng sậm.

Dán lamella vào lame

Sử dụng keo Entellan để dán tiêu bản vĩnh viễn.

Đọc kết quả

159

Quan sát tiêu bản dưới kính hiển vi quang học từ độ phóng xạ nhỏ đến độ phóng xạ lớn. Ghi chú và mô tả những biểu hiện về màu sắc, hình dạng, cấu trúc, của tế bào/mô hoặc các biểu hiện mô học nếu có (xung huyết, xuất huyết,…)

Phụ lục A2: Phương pháp phân tích Enzyme

Phụ lục A.2.1: Phân tích Protein (Bradford, 1976)

Pha loãng dung dịch Bradford 5 lần bằng nước cất (Sử dụng trong 24h) Pha dung dịch BSA 1 mg/ml H2O (Trữ lạnh -200C)

Chuẩn bị đường chuẩn: Cho 1mL thuốc thử Bradfordvào từng cuvet riêng biệt;

thêm vào dung dịch chuẩn BSA như bảng dưới đây và so màu ở bước sóng 595 nm bằng máy so màu quang phổ

Khi phân tích mẫu lấy 2µL mẫu cho vào Cuvet đã có cho 1mL dung dịch

Bradford lắc đều sau đó 5 phút tiến hành so màu ở bước sóng 595 nm , hàm lượng protein trong mẫu được tính toán dựa vào đường chuẩn y=ax+b (trong đó y là hệ số hấp thu của mẫu và x/2 là hàm lượng protein cần tính)

Cuvet Bradford (ml) BSA (µl)

Blank 1 0

1 1 2

2 1 5

3 1 10

4 1 15

5 1 20

Phụ lục A.2.2: Phân tích Amylase (Bernfeld, 1951)

Chuẩn bị các dung dịch sau:

1. Sodium phosphate buffer pH 6.9:

-NaH2SO4 20 mM (M=137,99 Cân 2,76g)

-NaCl 6 mM (Cân 0,351g)

Sau đó hòa tan (định mức) 2 chất trên trong cùng 1lít nước cất (sử dụng trong 2 tuần).

2. NaOH 2M (Cân 8g định mức lên 100mL)

3. Substrate (chất nền sử dụng trong 2 tuần):

Hòa tan 1g chất 3,5 - dinitrosalicylic acid trong 50ml nước cất

Thêm 30g Sodium potassium tartrate tetrahydrate (NaKC4H4O6).

Thêm 20ml NaOH 2M.

Pha loãng (định mức) để được thể tích cuối cùng là 100ml.

4. Starch 1% (sử dụng trong 48h): Hòa tan 100mg tinh bột trong 10ml Sodium phosphate buffer pH 6.9. Đun nhẹ để dung dịch được hòa tan. Để nguội và thêm nước nếu cần để được 100ml. Đem ủ ở 250C trong vòng 4 – 5 phút trước khi phân tích.

160

5. Standard: Maltose 5µM: Cân 18mg Maltose pha với 10mL nước cất

Chuẩn bị đường chuẩn:

Maltose concentration (µM) 0 1 2 3 4 5 Maltose 5µL (µL) - 40 80 100 160 200 H2O (µL) 200 160 100 80 40 -

Mẫu 10 (µL) 90 (µL) Blank - 100 (µL) Standard - -

100 (µL) 100 (µL) 100 (µL)

200 (µL) 200 (µL) 200 (µL)

2 (mL) 2 (mL) 2 (mL) Phân tích mẫu: Dung dịch mẫu H2O Ủ ở 250C trong 5 phút Starch 1% Ủ ở 250C trong 5 phút Chất nền Ủ ở 1000C trong 5 phút H2O Đo ở bước sóng 540 nm

Men amylase: mU/min/mg protein=(x*1000/50)/hàm lượng protein

Trong đó:

x: maltose, nồng độ maltose thủy phân được tính dựa vào đường chuẩn y= ax + b, với y là DO của mẫu (y=ax + b).

Phụ lục A.2.3: Phân tích Pepsine (Worthington, 1982)

Chuẩn bị các dung dịch sau:

- Dung dịch HCl 1N: lấy 20ml HCl định mức bằng nước cất lên 240mL

- TCA 5%: 5g Trichloroacetic acid định mức lên 100ml bằng nước cất - Substrate: Hemoglobin 2% : (2,6g + 100ml H2O) ủ trong 5 phút ở 600C rồi lọc qua giấy lọc. Lấy 80ml dung dịch vừa lọc pha với 6ml HCl 1N. Bảo quản ở 0 – 40C.

Phân tích mẫu:

Chemical Test Blank Test

Blank Spectrophotometer 500µL 500µL 500µL

30µL 30µL H2O

1000µL 30µL 1000µL - 1000µL -

161

Substrate Ủ 5 phút ở 370C Sample (Hemogenase) Ủ 10 phút ở 370C Thời gian cho mẫu cách nhau khoảng 10 giây/mẫu, thời gian ủ phải chính xác, 10 phút mới cho TCA TCA 5% Sample (Hemogenase) Ly tâm 5980 vòng, ở 40C trong vòng 10 phút Đo độ hấp thu quang phổ bằng cuvet UV ở bước sóng 280 nm

(hshtmẫu – hshtBlank)*1000*1000

/ protein

1250*10*Vmẫu(µL)

Men pepsine: mU/mL/mg protein =

Phục lục A.2.4: Phân tích Chymotrypsine (Worthington, 1982)

Chuẩn bị các dung dịch sau:

+ Methanol 50%: 63ml Methanol + 50ml H2O

Buffer pH 7.8:

+ Tris HCl 80mM (cân 0,9688g)

+ CaCl2 100mM (cân 1,11g)

Trộn chung hai chất này và định mức lên 100mL bằng nước cất chuẩn pH 7,8

BTEE (Benzoyl tyrosine ethyl ester): 16,8mg / 50mL Methanol 50%.

- Phương pháp thực hiện:

Mẫu 700µL 700µL 20µL - Blank 700µL 700µL - 20µL Dung dịch đệm pH 7,8 BTEE Dung dịch mẫu H2O Đo ở bước sóng 256 nm trong 5 phút bằng cuvet UV

hshtmẫu*1,42*1000*1000

Men Chymotrypsine: mU/mL = /protein

Mẫu 1 mL 10 µL 20 µL Blank 1 mL - -

964*10^-6*1000*20 Phụ lục A.2.5 : Phân tích Trypsine Dung dịch đệm pH 8,2 BAPNA Dung dịch mẫu Đo ở bước sóng 407 nm trong 5 phút

Hoạt tính trypsin = ∆OD/min x 6,2850 x 1000/P (mU/min/mg protein) với P là hàm

162

lượng protein của mẫu

Phụ lục A.3: Chiều dài (mm) của cá lóc (Channa striata) trong quá trình thí nghiệm.

Ngày

NT2 L1 4,24 5,76 6,80 9,04 10,4 11,5 12,5 14,5 14,7 14,5 20,5 33,5 L2 4,16 6,08 6,24 9,36 10,8 11,0 12,0 13,5 14,0 15,5 20,0 34,0 L3 3,76 5,68 6,4 9,12 10,1 12,0 13,0 14,5 15,0 14,0 20,5 30,5 L5 4,32 6,00 6,48 9,36 10,6 12,5 13,0 15,0 13,5 14,0 20,0 35,0 L3 4,24 5,84 6,72 9,20 10,5 12,5 12,5 14,0 13,9 14,8 19,7 33,2 L4 4,08 5,76 6,72 9,20 10,6 11,5 12,5 14,0 15,5 15,1 20,4 33,0 L2 4,16 5,92 6,88 9,44 10,2 12,0 13,5 13,5 15,2 14,8 20,8 33,0 L4 4,00 6,00 7,04 9,28 10,2 11,5 12,0 14,5 14,5 15,0 20,5 34,0 L5 4,16 5,84 5,84 8,80 10,8 12,0 12,5 15,0 13,7 15,2 20,0 35,0

NT1 L1 4,24 1DAH 6,16 3DAH 6,64 5DAH 9,04 7DAH 11,0 9DAH 12DAH 11,5 15DAH 13,0 18DAH 14,0 21DAH 13,5 25DAH 15,0 30DAH 21,0 35DAH 35,0 Phụ lục A.4: Khối lượng (mg) của cá lóc (Channa striata) trong quá trình thí nghiệm.

Ngày

1DAH 3DAH 5DAH 7DAH 9DAH 12DAH 15DAH 18DAH 21DAH 25DAH 30DAH 35DAH NT1 L1 1,33 1,80 6,82 10,0 11,3 16,0 31,3 47,5 102 153 235 403 L2 1,30 2,45 7,39 10,5 11,2 17,7 33,8 40,0 112 153 221 399 L3 1,28 2,12 7,27 10,0 14,7 17,0 27,8 45,0 112 154 242 383 L4 1,29 1,93 7,27 9,52 12,4 16,6 33,8 40,0 116 153 235 410 L5 1,30 1,89 7,13 9,61 12,6 16,8 30,0 46,0 101 161 229 410 NT2 L1 1,33 2,45 7,39 10,5 11,2 18,2 35,7 42,5 101 155 242 421 L2 1,28 2,12 7,27 9,52 14,7 15,7 26,3 45,0 110 149 225 402 L3 1,30 1,90 8,00 10,0 11,7 16,9 27,8 40,0 101 162 232 393 L4 1,29 1,89 7,01 9,53 13,0 16,0 33,8 42,5 110 158 236 411 L5 1,30 2,00 6,93 10,0 12,4 16,3 31,0 43,1 106 150 212 408

Phụ lục A.5: Hoạt tính enzyme Pepsin trên cá lóc (mU/ml/mg protein) trong quá trình thí nghiệm.

Ngày L3 L2 L3 L2 TB TB NT2 L1

163

NT1 L1 0,134 0,076 0,068 0,093±0,036 0,068 0,068 0,176 0,104±0,062 0,062 0,118 0,068 0,082±0,031 0,073 0,039 0,157 0,090±0,061 0,202 0,257 0,385 0,287±0,092 0,342 0,129 0,342 0,271±0,123 0,205 0,225 0,289 0,240±0,044 0,252 0,313 0,213 0,259±0,051 0,165 0,183 0,180±0,016 0,174±0,012 0,168 0,191 0,505 0,622 0,563 0,563±0,059 0,512 0,636 0,535 0,561±0,066 0,809 0,891 0,643 0,781±0,126 0,794 0,613 0,801 0,736±0,107 0,705 1,083 0,894±0,267 0,684 0,518 0,617 0,606±0,083 1,515 1,344 1,358 1,405±0,095 0,913 0,892 0,987 0,931±0,050 1,191 1,712 1,429 1,444±0,261 0,850 0,915 0,839 0,868±0,041 1,244 1,227 1,374 1,282±0,081 0,782 0,765 0,785 0,777±0,011 1,329 1,368 1,286 1,328±0,041 1,161 1,172 1,118 1,150±0,028 1 3 5 7 9 12 15 18 21 25 30 35

Phụ lục A.6: Hoạt tính enzyme α - Amylase trên cá lóc Channa striata (mU/min/mg protein) trong quá trình thí nghiệm.

Ngày L3 L2 L3 L2 TB TB NT2 L1

1 3 5 7 9 12 15 18 21 25 30 35 NT1 L1 0,520 0,786 0,686 0,664±0,134 0,547 0,631 0,736 0,638±0,095 0,521 0,406 0,476 0,468±0,058 0,477 0,514 0,440 0,477±0,037 0,675 0,653 0,669 0,666±0,012 0,605 0,679 0,653 0,646±0,038 0,434 0,450 0,480 0,455±0,023 0,448 0,456 0,471 0,458±0,012 1,463 1,423 1,368 1,418±0,048 1,321 1,407 1,560 1,430±0,121 2,470 2,679 2,470 2,540±0,121 2,836 2,587 2,571 2,665±0,149 3,451 3,291 2,984 3,242±0,237 3,351 3,022 3,110 3,161±0,170 0,854 0,864 0,970 0,896±0,064 1,511 1,490 1,382 1,461±0,069 1,378 1,583 1,622 1,528±0,131 2,947 2,622 2,826 2,798±0,164 2,947 2,622 2,402 2,657±0,274 3,749 4,131 3,707 3,862±0,234 1,717 1,683 1,751 1,717±0,034 4,067 3,963 4,172 4,067±0,104 3,850 3,511 3,681 3,681±0,170 5,917 5,755 5,644 5,772±0,137

Ngày

Phụ lục A.7: Hoạt tính enzyme Trypsin trên cá lóc Channa striata (mU/mg protein) trong quá trình thí nghiệm. NT1 L1 5,24 67,2 128 57,2 55,6 51,1 67,0 91,5 189 131 146 289 TB 5,35±0,10 54,0±1,32 115±12,5 51,8±4,65 48,9±6,92 53,8±2,52 81,9±16,4 106±19,0 189±0,44 116±15,1 136±19,2 262±23,3 TB 5,30±0,05 52,2±1,32 108±6,11 53,2±3,95 45,9±3,12 50,3±9,65 86,2±12,7 55,9±5,64 131±5,25 77,6±8,60 102±4,86 333±19,9 NT2 L1 5,34 49,3 105 48,7 46,9 50,9 73,0 50,6 131 86,1 97,2 353 L3 5,44 48,0 103 49,3 41,8 56,0 79,3 98,8 188 101 114 244 L2 5,36 46,7 113 49,0 49,4 54,3 99,6 127 189 116 149 254 L2 5,31 60,7 115 54,7 42,4 59,6 87,4 55,4 126 68,9 102 333 L3 5,25 46,7 103 56,2 48,5 40,4 98,3 61,8 137 77,7 107 313 1 3 5 7 9 12 15 18 21 25 30 35

Phụ lục A.8: Hoạt tính enzyme Chymotrypsin trên cá lóc Channa striata (mU/ml/mg protein) trong quá trình thí nghiệm.

Ngày

NT2 L1 TB 100±2,17 132 216±1,68 269 116±12,71 110 86,7±7,88 100 222±28,2 193 352±42,8 360 556±48,4 555 342±25,5 472 420±12,5 450 591±58,5 536 L2 102 216 128 82,1 204 310 590 325 407 608 L2 112 181 87,0 78,8 190 334 522 487 458 634 L3 97,8 217 103 82,1 255 395 577 330 432 639 L3 112 217 111 106 255 345 554 254 441 579

164

NT1 L1 TB 119±11,6 100 223±7,47 214 103±14,4 116 95,0±14,2 95,8 213±36,4 208 346±12,6 352 543±18,8 500 404±130 371 450±8,06 420 583±49,2 526 1.597 1.240 1.339 1.379±290 1.244 1.280 1.248 1.257±144 1.840 1.662 1.600 1.709±125 1.746 1.758 1.859 1.774±62,4 1 3 5 7 9 12 15 18 21 25 30 35

Phụ lục A.9: Các yếu tố nhiệt độ và pH trong quá trình thí nghiệm

Ngày

- trong quá trình thí nghiệm

pH Sáng 7,22±0,11 7,35±0,26 7,31±0,11 7,37±0,20 7,39±0,22 7,47±0,22 7,31±0,24 7,59±0,26 7,21±0,09 7,10±0,26 7,19±0,16 7,57±0,25 7,70±0,06 7,77±0,28 7,25±0,26 7,40±0,13 7,21±0,06 7,24±0,07 7,21±0,11 7,31±0,17 7,42±0,15 7,41±0,26 7,15±0,32 7,15±0,08 7,26±0,19 7,37±0,28 7,29±0,31 7,45±0,22 7,36±0,25 7,27±0,22 7,51±0,30 7,17±0,10 7,21±0,16 7,32±0,37 7,30±0,31 7,34 0,20 Chiều 8,20±0,13 8,42±0,21 8,28±0,11 8,15±0,13 8,05±0,18 8,35±0,26 8,42±0,21 8,40±0,19 8,35±0,15 8,33±0,17 8,35±0,18 8,27±0,11 8,21±0,10 8,32±0,25 8,41±0,16 8,41±0,25 8,43±0,21 8,46±0,12 8,37±0,22 8,44±0,17 8,43±0,19 8,39±0,21 8,31±0,14 8,28±0,11 8,24±0,20 8,38±0,21 8,46±0,20 8,42±0,08 8,44±0,22 8,37±0,27 8,32±0,19 8,36±0,25 8,37±0,17 8,48±0,21 8,51±0,17 8,35 0,18 Nhiệt độ Sáng 28,0±0,05 28,1±0,15 28,1±0,24 28,1±0,21 28,2±0,26 27,5±0,23 28,1±0,10 28,5±0,23 28,4±0,37 28,5±0,32 27,9±0,22 28,5±0,18 27,9±0,10 28,1±0,28 28,1±0,11 28,0±0,34 27,9±0,32 28,0±0,40 28,0±0,15 28,2±0,26 28,2±0,20 28,0±0,40 27,9±0,38 28,2±0,36 28,3±0,22 28,1±0,29 28,1±0,44 28,2±0,15 28,2±0,20 27,9±0,25 28,0±0,24 28,1±0,35 28,0±0,44 28,1±0,38 28,2±0,29 28,1 0,26 Chiều 29,9±0,20 30,3±0,38 30,4±0,22 30,1±0,20 30,3±0,21 30,3±0,23 30,4±0,28 30,5±0,45 30,7±0,27 31,8±0,36 31,2±0,41 30,8±0,55 30,1±0,20 30,2±0,23 30,4±0,32 30,3±0,40 30,2±0,23 30,5±0,61 30,6±0,55 30,3±0,27 30,4±0,21 30,2±0,22 30,5±0,39 30,5±0,26 30,6±0,22 30,3±0,25 30,4±0,58 32,3±0,34 30,7±0,52 30,2±0,23 30,5±0,04 30,2±0,24 30,5±0,52 30,8±0,69 30,9±0,71 30,5 0,52 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 Trung bình Độ lệch chuẩn

Phụ lục A.10: Các yếu tố TAN và NO2

Tuần

-

165

Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Chỉ tiêu TAN 0,029±0,008 0,041±0,011 0,133±0,027 0,159±0,059 NO2 0,059±0,020 0,082±0,006 0,171±0,120 0,182±0,008

Phụ lục B: Ứng dụng mô hình năng lượng sinh học xác định nhu cầu protein, năng lượng và acid amin của cá lóc

Phụ lục B.1: Khảo sát đặc điểm sinh trưởng và thành phần hóa học cá lóc nuôi thương phẩm

Phụ lục B.1.1: Tăng trưởng cá lóc nuôi thương phẩm

Ao W1 W1 W2 Ao W2

166

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 0,95 167 264 344 0,50 10,4 52,3 141 0,91 148 240 404 592 0,83 138 286 0,91 160 274 0,91 90,1 235 348 0,90 150 265 1,80 41,8 86,1 263 425 3,88 97,0 203 306 3,88 2,55 25,0 107 222 2,55 21,0 90,0 202 2,55 22,0 91,0 187 2,34 57,5 127 2,34 38,9 122 2,34 31,0 97,0 2,00 22,1 80,6 245 9,00 47,1 110 178 289 9,00 46,2 110 180 311 9,00 25,0 107 222 315 21,0 90,0 202 302 22,0 91,0 187 292 57,5 127 277 38,9 122 228 31,0 97,0 236 22,1 80,6 245 425 47,1 110 178 289 409 46,2 110 180 311 370 39,2 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 167 264 344 470 10,4 52,3 141 304 148 240 404 592 760 138 286 476 160 274 421 90,1 235 348 512 150 265 383 41,8 86,1 263 425 551 97,0 203 306 440 64,0

Ao W1 W2 Ao W1 W2

64,0 162 269 3,88 78,0 177 317 3,88 87,0 182 295 3,88 100 215 349 2,55 27,0 97,0 210 2,55 23,0 182 39,2 102 180 257 9,00 41,1 107 182 312 9,00 46,0 117 209 343 9,00 48,3 122 213 367 9,00 46,6 123 227 400 9,00 45,1 127 209 360 26 27 28 29 30

167

102 162 180 269 257 400 453 78,0 11 41,1 177 107 317 182 469 312 87,0 12 363 182 46,0 295 117 448 209 100 13 343 215 466 349 48,3 461 122 27,0 14 213 97,0 367 210 444 302 46,6 23,0 15 123 79,0 227 292 400 474 45,1 127 209 360 435 Ghi chú: W1: khối lượng cá trung bình của đợt thu lần (n-1). W2: khối lượng cá trung bình của đợt thu lần n.

Phụ lục B.2: Protein, năng lượng và acid amin tiêu hao trong thí nghiệm bỏ đói

Ẩm (%) Lipid (%) Tro (%)

Phụ lục B.2.1: Thành phần hóa học của cá lóc sau 28 ngày bỏ đói Khối lượng cá (g) 10 10 10 50 50 50 100 100 100 200 200 200 500 500 500 Protein (%) 15,3 15,0 15,8 18,1 18,7 18,9 18,6 18,7 18,4 19,3 18,5 19,4 19,2 19,3 19,3 77,5 77,9 76,8 71,3 70,4 70,0 70,2 71,2 71,4 70,2 71,2 69,9 71,7 71,6 71,7 1,18 1,15 1,21 4,16 4,21 4,11 4,51 3,67 3,97 4,12 4,00 4,17 2,75 3,34 3,04 5,73 5,62 5,89 6,40 6,43 6,82 6,19 6,32 6,04 6,26 6,21 6,41 6,21 5,58 5,89 Năng lượng (KJ/g) 4,14 4,06 4,26 5,93 6,13 6,13 6,27 5,88 5,95 6,22 5,96 6,26 5,65 5,91 5,78

Phụ lục B.3: Hiệu quả sử dụng protein, năng lượng và acid amin của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau Phụ lục B.3.1: Tỷ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc ở các mức cho ăn khác nhau

NT Wf (g/con) SR (%) Wi (g/con) DWG (g/ngày) SGR (%/ngày)

168

0% 0% 0% 0,75% 0,75% 0,75% 1,5% 1,5% 1,5% 2,25% 2,25% 2,25% 3% 3% 3% 92,0 88,0 84,0 72,0 72,0 68,0 68,0 72,0 76,0 84,0 84,0 80,0 80,0 76,0 76,0 -0,16 -0,13 -0,11 0,21 0,20 0,18 0,60 0,49 0,49 0,84 0,65 0,62 0,90 0,92 0,97 -0,45 -0,33 -0,30 0,49 0,48 0,44 1,32 1,11 1,10 1,72 1,35 1,31 1,83 1,83 1,92 37,8 39,6 38,8 39,6 38,7 37,7 37,8 38,1 37,9 37,9 39,8 38,8 37,7 38,8 38,2 33,3 36,1 35,7 45,4 44,2 42,7 54,7 52,0 51,6 61,3 58,1 56,1 62,9 64,7 65,4

Phụ lục B.3.2: Thành phần hóa học của cá lóc khi cho ăn với các mức khác nhau (tính theo khối lượng tươi của cá)

NT Ẩm độ (%) Protein (%) Lipid (%) Tro (%) Năng lượng (KJ/g)

Đầu vào 0% 0% 0% 0,75% 0,75% 0,75% 1,5% 1,5% 1,5% 2,25% 2,25% 2,25% 3% 3% 3% 71,9 72,6 71,9 72,5 70,5 70,3 69,5 69,8 69,3 69,2 69,0 68,7 68,7 68,6 68,3 69,5 18,9 17,8 18,9 18,4 20,1 20,4 21,0 20,1 20,9 20,8 20,6 20,8 20,8 21,2 21,1 20,3 3,45 1,83 1,39 1,33 3,15 3,05 3,41 3,94 3,99 3,74 3,80 3,68 3,73 4,19 4,38 3,58 5,55 7,73 7,56 7,56 5,88 5,87 5,85 6,00 5,72 6,06 6,35 6,65 6,56 6,04 5,94 6,65 5,87 4,94 5,05 4,91 6,07 6,10 6,35 6,34 6,53 6,44 6,42 6,40 6,42 6,66 6,77 6,21

Phụ lục B.3.3: Thành phần acid amin của cá lóc khi cho ăn với các mức khác nhau (tính theo khối lượng tươi của cá)

MET 0,37 0,38 0,38 0,36 0,39 0,39 0,39 0,38 0,40 0,40 0,42 0,43 0,44 0,34 0,36 0,35 LYS 1,46 1,60 1,59 1,53 1,58 1,59 1,59 1,52 1,58 1,57 1,54 1,56 1,61 1,32 1,40 1,37 THR ARG 0,62 0,65 0,70 0,63 0,70 0,63 0,67 0,60 0,69 0,64 0,70 0,65 0,70 0,64 0,79 0,66 0,82 0,69 0,82 0,69 0,88 0,72 0,89 0,73 0,92 0,75 0,84 0,61 0,90 0,65 0,87 0,63 ILE LEU VAL HIS 0,64 1,13 0,79 0,37 0,64 1,01 0,77 0,41 0,64 1,01 0,77 0,41 0,61 0,97 0,73 0,39 0,65 1,05 0,78 0,41 0,66 1,05 0,79 0,41 0,65 1,05 0,79 0,41 0,64 1,04 0,73 0,39 0,66 1,08 0,76 0,40 0,66 1,08 0,76 0,40 0,66 1,14 0,75 0,39 0,67 1,16 0,77 0,40 0,69 1,20 0,79 0,41 0,51 0,92 0,57 0,26 0,54 0,98 0,60 0,27 0,53 0,95 0,59 0,26 PHE GLY CYS 0,53 1,52 0,12 0,61 1,53 0,14 0,61 1,53 0,14 0,59 1,47 0,13 0,59 1,52 0,14 0,59 1,54 0,14 0,59 1,53 0,14 0,62 1,48 0,14 0,65 1,53 0,14 0,65 1,53 0,14 0,68 1,51 0,16 0,69 1,53 0,16 0,71 1,58 0,17 0,59 1,39 0,13 0,63 1,48 0,14 0,62 1,44 0,14

169

NT Đầu vào 0% 0% 0% 0,75% 0,75% 0,75% 1,5% 1,5% 1,5% 2,25% 2,25% 2,25% 3% 3% 3%

Phụ lục C: Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu phổ biến

Phụ lục C.1: Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu protein

1 1 1 Protein 98,1 94,6 97,5 Năng lượng 90,1 82,2 88,4 Vật chất khô 90,5 79,7 87,0 Lipid 87,7 86,2 84,6

Phụ lục C.1.1: Độ tiêu hóa (%) vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của nguyên liệu thí nghiệm NT Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột thịt xương Bột Huyết 72,5 69,2 67,5 56,2 54,2 46,4 62,3 77,0 67,8 83,2 82,2 81,9 71,2 68,6 63,6 72,6 83,7 79,0 92,6 90,5 88,0 86,7 83,8 85,3 89,2 92,4 90,8 2 2 2 3 3 3 4 4 4 78,0 79,3 72,7 74,7 81,6 75,8 81,3 75,2 80,9

Phụ lục C.1.2: Độ tiêu hóa (%) acid amin của thức ăn thí nghiệm

MET LYS THR ARG 1 1 1 2 2 2 95,6 96,0 94,8 95,7 96,1 94,9 95,6 96,0 94,8 96,8 97,6 96,4 96,0 97,0 95,6 96,6 97,5 96,2 ILE LEU VAL HIS PHE GLY 95,4 94,4 93,8 95,5 94,5 94,0 95,4 94,4 93,8 97,0 95,6 94,9 96,3 94,5 93,7 96,9 95,4 94,7 97,2 96,3 95,9 97,3 96,4 96,0 97,2 96,3 95,9 97,4 97,3 97,2 96,8 96,7 96,5 97,3 97,2 97,1 95,5 95,6 95,5 96,9 96,2 96,8

3 3 3 95,1 95,8 93,9 94,6 95,5 93,4 94,2 95,1 92,8 97,4 95,5 95,1 97,2 95,1 94,7 97,0 94,7 94,3 94,9 94,5 94,0 96,4 94,1 93,4 96,1 93,6 92,8 95,7 93,0 92,2 NT Đối chứng Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột thịt xương

170

Bột Huyết 4 4 4 5 5 5 95,1 94,9 94,1 94,6 94,5 93,6 94,6 94,4 93,5 97,3 95,7 95,8 97,8 96,5 96,6 97,5 96,0 96,1 96,2 96,1 95,5 95,9 95,7 95,0 95,9 95,7 95,0 98,3 97,3 96,8 98,6 97,8 97,4 98,5 97,5 97,1 95,0 94,5 94,5 97,0 97,6 97,3 93,9 93,5 93,4 93,3 92,9 92,8 93,3 92,8 92,7 95,5 95,8 96,0 96,4 96,6 96,8 95,9 96,1 96,4

Phụ lục C.1.3: Độ tiêu hóa (%) acid amin của nguyên liệu thí nghiệm

MET LYS THR ARG 1 1 1 97,8 99,2 98,3 96,4 98,1 96,5 97,6 99,0 98,0 ILE LEU VAL HIS PHE GLY 98,5 97,3 95,9 97,1 94,7 93,5 98,3 96,8 95,5 97,7 98,6 98,8 96,3 97,2 97,3 97,5 98,4 98,5 98,6 97,0 98,3

2 2 2 93,5 95,6 92,3 92,0 94,6 91,0 90,2 93,5 89,3 97,7 94,0 93,9 97,2 93,0 92,8 96,5 91,8 91,5 93,7 92,5 91,2 97,5 93,5 92,2 96,9 92,2 90,4 96,1 90,7 88,2 NT Bột cá Đậu nành ly trích dầu Bột thịt xương

Bột Huyết 3 3 3 4 4 4 89,5 89,5 90,0 84,0 86,5 86,2 83,7 86,4 86,1 98,8 95,4 96,7 99,8 97,0 98,4 99,2 96,1 97,4 93,3 94,3 93,3 91,9 91,6 90,6 91,8 91,5 90,5 99,3 98,2 97,7 99,9 99,3 98,9 99,5 98,7 98,2 92,3 89,8 89,6 98,2 99,2 98,6 76,0 88,9 92,8 69,0 85,5 91,4 68,6 85,3 91,4 95,5 97,1 97,4 97,2 98,7 98,7 96,2 97,8 97,9

Phụ lục C.2: Khả năng tiêu hóa một số nguyên liệu carbohydrate

1 1 1 2 2 2 3 3 3 Vật chất khô 66,1 66,4 66,7 63,7 63,4 63,8 59,3 59,5 59,4 Protein 71,2 70,8 71,5 64,1 63,7 64,1 61,4 61,4 60,8 Lipid 78,5 78,7 79,2 76,5 76,4 76,6 70,5 71,6 70,5 Năng lượng 75,1 75,6 78,3 67,7 67,9 67,7 65,6 65,9 65,2

171

Phụ lục C.2.1: Độ tiêu hóa (%) vật chất khô, protein, lipid và năng lượng của nguyên liệu thí nghiệm NT Cám gạo Cám ly trích Cám mì Bột khoai mì lát Bột cọ 57,1 57,0 57,6 52,7 53,1 53,5 60,3 59,3 60,1 58,0 58,8 58,2 56,3 57,3 58,0 50,9 52,9 49,8 4 4 4 5 5 5 64,3 64,5 64,5 52,2 53,4 53,5