YOMEDIA
ADSENSE
Ung thư đường mật vùng rốn gan: Đặc điểm hình thái học quyết định tiên lượng sống còn
59
lượt xem 1
download
lượt xem 1
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nhóm nghiên cứu ung thư gan của Nhật Bản-LCSGJ-(2000) phân loại u klatskin thành 3 dạng: dạng nhú (dạng polyp), dạng khối, dạng thâm nhiễm và cho rằng mỗi dạng u có tiên lượng khác nhau. Liệu tại Việt Nam có kết quả tương đồng hay không là điều chưa được biết, đơn giản vì tỉ lệ có thể mổ triệt để quá thấp và giải phẫu bệnh không mô tả dạng đại thể sau mổ, nhiên cứu này nhằm giải đáp câu hỏi trên.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ung thư đường mật vùng rốn gan: Đặc điểm hình thái học quyết định tiên lượng sống còn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
UNG THƯ ĐƯỜNG MẬT VÙNG RỐN GAN:<br />
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỌC QUYẾT ĐỊNH TIÊN LƯỢNG SỐNG CÒN<br />
Đỗ Hữu Liệt*, Nguyễn Tấn Cường**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Ung thư đường mật vùng rốn gan- u Klatskin- là một loại ung thư hiếm gặp (chiếm 2% ung<br />
thư đường tiêu hóa), tiên lượng xấu, tỉ lệ có thể phẫu thuật triệt để thấp (tỉ lệ này tại châu Âu và Mỹ từ 5-18%,<br />
tại Việt Nam từ 0-14,5%). Nhóm nghiên cứu ung thư gan của Nhật Bản- LCSGJ- (2000) phân loại u Klatskin<br />
thành 3 dạng: dạng nhú(dạng polyp), dạng khối, dạng thâm nhiễm và cho rằng mỗi dạng u có tiên lượng khác<br />
nhau. Liệu tại Việt Nam có kết quả tương đồng hay không là điều chưa được biết, đơn giản vì tỉ lệ có thể mổ triệt<br />
để quá thấp và giải phẫu bệnh không mô tả dạng đại thể sau mổ. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm giải<br />
đáp câu hỏi trên.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, đánh giá mức độ xâm lấn của khối u (theo từng dạng đại thể) trên<br />
đường mật, tĩnh mạch cửa, động mạch gan, nhu mô gan sau khi mổ triệt để (cố gắng cắt u đến khi 2 đầu phẫu<br />
thuật không còn tế bào ác tính, cắt ống mật chủ, kèm theo cắt gan trái, cắt gan phải hoặc cắt gan trung tâm và cắt<br />
thùy đuôi của gan cộng với nạo hạch vùng rốn gan). Ghi nhận tai biến, biến chứng, tử vong và thời gian sống<br />
liên quan đến từng dạng đại thể của u theo phân loại của LCSGJ.<br />
Kết quả: Từ tháng 8/2008 đến tháng 12/2013, chúng tôi thực hiện 46 trường hợp (TH) gồm 32 nam<br />
(69,6%), 14 nữ (30,4%); tuổi trung bình 51,1±9,9 (35-74), đã được mổ triệt để điều trị ung thư đường mật vùng<br />
rốn gan. Về đại thể, có 31 trường hợp (TH) dạng thâm nhiễm chiếm 67,4%, 12 TH dạng khối (26,1%), 3 TH<br />
dạng polyp (6,5%).Tai biến trong mổ gồm rách tĩnh mạch cửa 10 TH (21,7%), rách động mạch gan 5 TH<br />
(10,9%), rách động mạch gan và tĩnh mạch cửa 5 TH (10,9%), rò mật sau mổ điều trị bảo tồn thành công 17 TH<br />
(37%). Có 4 TH tử vong sau mổ do nhiễm trùng huyết và suy gan. Các tai biến, biến chứng này hầu hết ở dạng<br />
thâm nhiễm. Trong số bệnh nhân theo dõi có 2 TH mất liên lạc sau 3 tháng. Có 1 TH dạng nhú sống sau 5 năm.<br />
Kết luận: Đa số u Klatskin có dạng thâm nhiễm, là loại có tai biến, biến chứng sau mổ cao hơn và thời gian<br />
sống ngắn hơn so với dạng khối và dạng polyp.<br />
Từ khoá: U Klatskin, dạng đại thể khối u, cắt đường mật rộng rãi, thời gian sống còn.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
HILAR CHOLANGIOCARCINOMA: MORPHOLOGIC CLASSIFICATION PATTERN HAD IMPACTS<br />
ON SURVIVAL AFTER EXTENSIVE RESECTION<br />
Do Huu Liet, Nguyen Tan Cuong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 249 - 255<br />
Background: Hilar cholangiocarcinoma- Klatskin’s tumor- is a rare type of bile duct cancer (comprises of<br />
2% of overall malignancies of GI tract) with poor prognosis and low rate of radical resection (around 5-18% in<br />
Europe and America, 0-14.5% in Vietnam). The Liver Cancer Study group of Japan (2000)- LCSGJ- had<br />
advocated classification of Klatskin’s tumor into 3 types according to morphologic aspects: papillary type, nodular<br />
type and infiltrative type with different prognosis between them. Whether similar results will be found in Vietnam<br />
is unknown, simply because of low radical resection rate and no pathologic morphology has been mentioned. This<br />
study has been set up in order to answer this question.<br />
* Khoa Ngoại Gan Mật Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy ** Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược TPHCM<br />
ĐT: 0913 849 434<br />
E-mail: dohuuliet73@yahoo.com<br />
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Hữu Liệt<br />
<br />
Ngoại Tổng Quát<br />
<br />
249<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
Methods: Prospective analysis of the invasiveness of Klatskin’s tumor- according to various tumor type- into<br />
bile duct, portal vein, hepatic artery, liver parenchyma. CBD was resected together with the tumor and R0<br />
resection confirmed with frozen section. Left or right lobe, or central part of the liver plus the caudate lobe were<br />
removed, completed by regional lymph nodes dissection. Morbity, complication, mortality and survival were<br />
recorded subject to various pathologic morphology according to LCSGJ classification<br />
Results: From August 2008 to December 2013, 46 patients (32 males-69.6%, and 14 females – 30.4%);<br />
median age 51.1±9.9 (range, 35-74) with Klatskin’s tumor were radically operated, By gross morphology, 31<br />
(67.4%) had infiltrative type and 12 (26.1%) had nodular type, 3 (6.5%) papillary type has been noted. There<br />
were incidental laceration of portal vein in 10 patients (21.7%), hepatic artery laceration in 5 patients (10.9%),<br />
portal vein and hepatic artery laceration in 5 patients (10.9%). 17 patients (43.5%) had bile leakage which were<br />
treated conservatively . There were 4 patients (8.7%) for post-op mortality due to septicemia and acute liver<br />
failure. The morbidities and mortalities were almost occured in infiltrative group. One patient in papillary roup<br />
was living for 5 years. Two patients dropped of from follow-up after 3 months.<br />
Conclusion: Most Klatskin’s tumors were infiltrative type, which had higher rate of morbidities and<br />
mortalities comparing to the nodular and papillary type. Survival time in infiltrative type was shorter than<br />
nodular and papillary group.<br />
Key words: Klatskin’s tumor, gross tumor morphology, extensive resection of bliver resection, survival rate.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
<br />
Phương pháp tiến hành<br />
<br />
Ung thư đường mật xuất phát từ biểu mô<br />
đường mật, chiếm khoảng 2% trong tất cả ung<br />
thư của đường tiêu hóa(3). Dựa vào vị trí, nó được<br />
phân chia thành ung thư đường mật trong gan<br />
và ung thư đường mật ngoài gan. Ung thư<br />
đường mật ngoài gan lại được chia thành 3 loại:<br />
ung thư đoạn gần, đoạn giữa và đoạn xa. Trong<br />
bài viết này chúng tôi đề cập đến ung thư đoạn<br />
gần (ung thư vùng rốn gan) của đường mật, là<br />
loại ung thư chiếm khoảng 60% của ung thư<br />
đường mật ngoài gan. Hình thái bệnh học về<br />
mặt đại thể của u vùng này rất quan trọng vì ảnh<br />
hưởng đến yếu tố tiên lượng của bệnh nhân(3).<br />
<br />
Chúng tôi thực hiện phẫu thuật triệt để tùy<br />
theo phân độ của Bismuth-Corrlette kèm theo<br />
nạo hạch. Đánh giá mức độ xâm lấn của khối u<br />
(theo từng dạng đại thể) trên đường mật, tĩnh<br />
mạch cửa, động mạch gan, nhu mô gan. Cố gắng<br />
cắt u đến khi 2 đầu phẫu thuật không còn tế bào<br />
ác tính hoặc đến khi không còn cắt tiếp tục được<br />
nữa thì ngưng lại (sinh thiết tức thì trong mổ<br />
được thực hiện 100% trường hợp), cắt ống mật<br />
chủ, kèm theo cắt gan trái, cắt gan phải hoặc cắt<br />
gan trung tâm và cắt thùy đuôi của gan (tùy theo<br />
phân loại của Bismuth-Corlette) cộng với nạo<br />
hạch vùng rốn gan). Sau mổ bệnh phẩm được cố<br />
định với formol gởi làm giải phẫu bệnh theo<br />
từng loại bệnh phẩm có đánh số gồm toàn bộ<br />
đường mật ngoài gan kèm u (± gan), hạch, bờ<br />
phẫu thuật (có thể cắt nhiều lần đến khi giải<br />
phẫu bệnh trả lời không còn tế bào ung thư).<br />
<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
Khảo sát đặc điểm hình thái bệnh học về mặt<br />
đại thể (dạng thâm nhiễm, dạng khối hoặc dạng<br />
nhú (polyp)) của u đường mật vùng rốn gan<br />
theo phân loại của LCSGJ. Đánh giá mối tương<br />
quan của từng dạng đại thể của u với tai biến,<br />
biến chứng, tử vong và thời gian sống sau mổ.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Tiền cứu mô tả cắt ngang<br />
<br />
250<br />
<br />
Sau khi có kết quả sinh thiết tức thì từ phòng<br />
giải phẫu bệnh, hỗng tràng sẽ được cắt đôi và<br />
đưa lên nối với ống mật gan (P) hoặc (T) hoặc<br />
ống gan trung tâm theo kiểu Roux-en-Y. Ghi<br />
nhận và phân tích số liệu dựa vào phần mềm<br />
SPSS 18.0 được thiết kế theo mẫu định sẵn.<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
KẾT QUẢ<br />
Từ tháng 8.2008 đến tháng 12/2013, chúng tôi<br />
thực hiện cắt đường mật rộng rãi triệt để trên 46<br />
trường hợp ung thư đường mật vùng rốn gan .<br />
Có 32 nam (69,6%) và 14 nữ (30,4%), tuổi trung<br />
bình 51,1±9,9 (35-74).<br />
Bảng 1. Phân loại Bismuth-Corlette<br />
Phân loại<br />
<br />
Trước mổ<br />
N%<br />
5<br />
10,9<br />
8<br />
17,3<br />
5<br />
10,9<br />
27<br />
58,7<br />
1<br />
2,2<br />
<br />
Loại I<br />
Loại II<br />
Loại IIIA<br />
Loại IIIB<br />
Loại IV<br />
<br />
Sau mổ<br />
N%<br />
5<br />
10,9<br />
7<br />
15,2<br />
4<br />
8,7<br />
27<br />
58,7<br />
3<br />
6,5<br />
<br />
Bảng 2. Phân giai đoạn theo AJCC/UICC lần 7<br />
Giai đoạn<br />
II<br />
IIIA<br />
IIIB<br />
<br />
N<br />
31<br />
1<br />
14<br />
<br />
%<br />
67,4<br />
2,2<br />
30,4<br />
<br />
Bảng 3. Dạng sang thương - Phân loại theo LCSGJNhật Bản (2000): có 3 dạng<br />
Hình thái u<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
Dạng khối<br />
Dạng polyp<br />
<br />
N<br />
31<br />
12<br />
3<br />
<br />
%<br />
67,4<br />
26,1<br />
6,5<br />
<br />
Bảng 4. Phương pháp phẫu thuật<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Phương pháp mổ<br />
N<br />
Cắt đường mật ngoài gan kèm u<br />
9<br />
+ nạo hạch(*)<br />
Cắt đường mật ngoài gan kèm u<br />
3<br />
+ cắt thùy đuôi + nạo hạch(*)<br />
Cắt đường mật ngoài gan kèm u + cắt gan (P) + 2<br />
cắt thùy đuôi + nạo hạch(*)<br />
Cắt đường mật ngoài gan kèm u + cắt gan (T) + 24<br />
cắt thùy đuôi + nạo hạch(*)<br />
Cắt đường mật ngoài gan kèm u + cắt gan (T) + 3<br />
nạo hạch(*)<br />
Cắt gan trung tâm + cắt thùy đuôi<br />
3<br />
+nạo hạch(*)<br />
Cắt gan trung tâm+ nạo hạch(*)<br />
2<br />
<br />
%<br />
19,6<br />
6,5<br />
4,3<br />
52,3<br />
6,5<br />
6,5<br />
4,3<br />
<br />
(*) Tất cả các trường hợp đều được nối ống gan với hỗng<br />
tràng theo kiểu Roux-en-Y kèm dẫn lưu mật ra da (kiểu<br />
mật- ruột- da).<br />
<br />
Bảng 5. Kết quả phẫu thuật<br />
Tỷ lệ phẫu thuật<br />
<br />
N<br />
<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
Dạng khối<br />
Dạng polyp<br />
Tổng số<br />
<br />
31<br />
12<br />
3<br />
46<br />
<br />
Thành công<br />
N%<br />
25<br />
80,6<br />
11<br />
91,7<br />
3<br />
100<br />
39<br />
84,8<br />
<br />
Thất bại<br />
N%<br />
6<br />
19,4<br />
1<br />
8,3<br />
0<br />
0<br />
7<br />
15,2<br />
<br />
Trong 7 trường hợp thất bại có 4 trường hợp<br />
tử vong sau mổ, cả 4 trường hợp này đều thuộc<br />
dạng thâm nhiễm. Các trường hợp còn lại có mặt<br />
cắt còn tế bào ung thư dưới dạng vi thể (R1).<br />
<br />
Bảng 6. Đặc điểm di căn<br />
Sang Thương<br />
Dính tĩnh mạch cửa<br />
Dính động mạch gan<br />
Di căn hạch<br />
Di căn gan<br />
Xâm nhiễm thùy đuôi<br />
Di căn thần kinh<br />
<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
(31 TH)<br />
22<br />
20<br />
14<br />
7<br />
2<br />
1<br />
<br />
Trong tất cả các trường hợp u dính vào tĩnh<br />
mạch cửa và động mạch gan được phẫu tích chỉ<br />
có 1 trường hợp giải phẫu bệnh cho kết quả di<br />
căn tĩnh mạch cửa ở dạng thâm nhiễm. Các<br />
trường hợp di căn gan và di căn thùy đuôi được<br />
tính dựa trên tổng số trường hợp cắt gan (34<br />
trường hợp) và cắt thùy đuôi (32 trường hợp).<br />
<br />
Ngoại Tổng Quát<br />
<br />
Dạng khối<br />
(12 TH)<br />
3<br />
0<br />
5<br />
1<br />
3<br />
2<br />
<br />
Dạng polyp<br />
(3 TH)<br />
0<br />
0<br />
0<br />
1<br />
1<br />
0<br />
<br />
Cả 3 dạng (46 TH)<br />
N%<br />
25<br />
54,3<br />
20<br />
43,5<br />
19<br />
41,3<br />
9<br />
26,5<br />
6<br />
23,1<br />
3<br />
6,5<br />
<br />
Bảng 7. Tai biến trong mổ<br />
Sang Thương N TT động<br />
TT tĩnh<br />
TT Tổng số<br />
mạch gan mạch cửa cả 2<br />
Dạng thâm 31<br />
3<br />
7<br />
5 15(48,4%)<br />
nhiễm<br />
Dạng khối 12<br />
2<br />
1<br />
0<br />
3(25%)<br />
Dạng polyp 3<br />
0<br />
2<br />
0<br />
2(66,7%)<br />
Cả 3 dạng 46<br />
5<br />
10<br />
5 20(43,5%)<br />
<br />
251<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
Bảng 8. Biến chứng sau mổ<br />
Sang Thương<br />
<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
(31 TH)<br />
<br />
-Rò mật<br />
-Áp xe tồn lưu<br />
-Viêm phúc mạc<br />
-Nhiễm trùng vết mổ<br />
-Tử vong<br />
<br />
12<br />
2<br />
1<br />
2<br />
4<br />
<br />
Dạng khối<br />
(12 TH)<br />
4<br />
0<br />
0<br />
2<br />
0<br />
<br />
Dạng polyp<br />
(3 TH)<br />
1<br />
0<br />
0<br />
0<br />
0<br />
<br />
Cả 3 dạng<br />
(46 TH)<br />
17(37%)<br />
2(4,3%)<br />
1(2,2%)<br />
4(8,7%)<br />
4(8,7%)<br />
<br />
Xử trí<br />
Nội khoa<br />
Chọc hút<br />
Phẫu thuật<br />
Chăm sóc tại chỗ<br />
Hồi sức<br />
<br />
Đánh giá chung về mối liên quan giữa thời gian sống còn của 3 nhóm theo Log Rank Test:<br />
Bảng 9. Tần suất thời gian sống còn của từng dạng<br />
Sang thương<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
Dạng khối<br />
Dạng polyp<br />
Tổng số<br />
<br />
N<br />
31<br />
12<br />
3<br />
46<br />
<br />
Số trường hợp tử vong<br />
23<br />
3<br />
0<br />
26<br />
<br />
Số trường hợp còn sống<br />
N<br />
%<br />
6<br />
20,7<br />
9<br />
75<br />
3<br />
100<br />
20<br />
43,5<br />
<br />
Bảng 10. Thời gian sống còn của từng dạng<br />
Sang thương<br />
<br />
N<br />
<br />
Dạng thâm nhiễm<br />
Dạng khối<br />
Dạng polyp<br />
<br />
29<br />
12<br />
3<br />
<br />
Thời gian bệnh nhân sống thêm<br />
(số bệnh nhân) (ngày)<br />
23<br />
603,5 (3-1368)<br />
3<br />
812,7 (83-1276)<br />
0<br />
<br />
Thời gian bệnh nhân còn sống<br />
(số bệnh nhân) (ngày)<br />
6<br />
686 (68-1239)<br />
9<br />
636 (87-714)<br />
3<br />
613 (280-1885)<br />
<br />
Chúng tôi không tính 2 trường hợp ở dạng thâm nhiễm bị mất liên lạc trong thời gian theo dõi.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Ung thư đường mật vùng rốn gan chiếm<br />
khoảng 60% ung thư đường mật ngoài gan.<br />
Phẫu thuật triệt để ung thư vùng này đã được<br />
thực hiện từ năm 1965 bởi Klatskin(1), tuy nhiên<br />
đến nay ung thư đường mật vùng này vẫn còn là<br />
một thách thức đối với phẫu thuật viên gan mật<br />
do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật hơn cả<br />
ngoài đặc tính giải phẫu phức tạp của vùng rốn<br />
gan đó là dạng bệnh học của khối u.<br />
Ung thư vùng rốn gan có 3 dạng dựa trên<br />
phân loại mới của nhóm nghiên cứu ung thư gan<br />
của Nhật Bản(LCSGJ) năm 2000(6,7):<br />
Biểu đồ 1. Đường cong biểu diễn thời gian sống còn<br />
của 3 nhóm<br />
Tuy nhiên, với phép kiểm Log Rank (MantelCox) thì sự khác biệt về thời gian sống còn của 3<br />
nhóm không có nghĩa thống kê với p =<br />
0,07>0,05.<br />
<br />
252<br />
<br />
Ung thư đường mật dạng thâm nhiễm: khối<br />
u thâm nhiễm và phì đại quanh đường mật gây<br />
ra dầy thành đường mật. U xâm lấn vào khoảng<br />
cửa làm vùng này dầy lên, hầu hết các trường<br />
hợp có xâm nhiễm nhu mô gan dưới dạng hình<br />
cành cây và có tiên lượng xấu nhất(7). Không may<br />
ung thư đường mật vùng rốn gan đa phần ở<br />
dạng thâm nhiễm.Trong nghiên cứu của chúng<br />
tôi hầu hết là dạng thâm nhiễm 31 trường hợp<br />
<br />
Chuyên Đề Ngoại Khoa<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015<br />
(67,4%). Có 22 trường hợp (71%) u dính vào tĩnh<br />
mạch cửa và 20 trường hợp (64,5%) u dính vào<br />
động mạch gan. Mặc dù giải phẫu bệnh sau mổ<br />
chỉ phát hiện 1 trường hợp xâm nhiễm mạch<br />
máu, nhưng tính chất dính gây viêm xơ hóa bao<br />
quanh đường mật sẽ gây rất nhiều khó khăn cho<br />
phẫu thuật viên trong việc phẫu tích và cắt bỏ u.<br />
Với đặc tính xâm nhiễm mạnh theo chiều ngang<br />
sang các cơ quan lân cận cho nên việc phẫu thuật<br />
triệt để ung thư đường mật vùng rốn gan chứa<br />
nhiều nguy cơ, tỷ lệ biến chứng là (37-85%) và tử<br />
vong cao (10-20%)(1)(tính chung cho 3 dạng).<br />
Chúng tôi có 10 trường hợp (21,7%) bị rach tĩnh<br />
mạch cửa, 5 trường hợp (10,9%) rách động mạch<br />
gan và 5 trường hợp (10,9%) tổn thương cả động<br />
tĩnh mạch trong khi cố gắng tách khối u khỏi các<br />
mạch máu lớn này. Nếu tính chung cho cả 3<br />
trường hợp như trên thì có 20 trường hợp<br />
(43,5%) tỷ lệ này khá cao và phù hợp với các tác<br />
giả khác như Hasegawa 46,8%, Neuhaus 59%(4).<br />
Có 4 trường hợp tử vong, tất cả đều ở dạng<br />
thâm nhiễm, mặc dù chúng tôi đã cố gắng cắt xa<br />
khối u đến mức có thể nhưng cuối cùng mặt cắt<br />
vẫn tồn tại tế bào ung thư (R1). Điều này càng<br />
chứng tỏ việc ung thư dạng thâm nhiễm không<br />
những xâm lấn mạnh ra các cơ quan lân cận mà<br />
còn phát triển theo chiều dọc.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi<br />
không đo chiều dài của mặt cắt theo từng dạng<br />
như trên mà dùng phương pháp sinh thiết tức<br />
thì trong mổ, chúng tôi sinh thiết lạnh liên tục<br />
đến khi mặt cắt không còn tế bào ung thư hoặc<br />
không còn khả năng cắt bỏ được nữa thì dừng lại<br />
(chấp nhận R1). Cả 4 trường hợp tử vong đều ở<br />
dạng thâm nhiễm chứng tỏ ở nhóm dạng thâm<br />
nhiễm nguy cơ phẫu thuật cao hơn các nhóm<br />
còn lại. Qua các trường hợp này chúng tôi nhận<br />
thấy rằng việc chọn bệnh nhân cho phẫu thuật<br />
triệt để rất quan trọng nếu không thể phẫu thuật<br />
để đạt bờ phẫu thuật không còn tế bào ác tính<br />
trên vi thể (R0) thì biến chứng và tử vong sẽ cao<br />
và không cải thiện nhiều thời gian sống còn của<br />
bệnh nhân.<br />
Thời gian sống thêm và thời gian bệnh nhân<br />
còn sống tương ứng trung bình 603,5 ngày và<br />
686 ngày (gần 2 năm) là chấp nhận được. Tuy<br />
nhiên, trong 31 trường hợp dạng thâm nhiễm<br />
đến thời điểm kết thúc nghiên cứu thì số bệnh<br />
nhân còn sống chỉ là 6 trường hợp (20,7%), đều<br />
này chứng tỏ tiên lượng của ung thư đường mật<br />
dạng thâm nhiễm là không tốt.<br />
<br />
Theo Sakamoto(9):<br />
U dạng thâm nhiễm ăn lan chủ yếu dưới<br />
niêm mạc, chiều dài trung bình 6mm<br />
U dạng nhú và dạng khối ăn lan chủ yếu lớp<br />
niêm mạc, chiều dài trung bình 20mm<br />
Ebata(2) khảo sát 80 bệnh phẩm có mặt cắt vi<br />
thể (+) R1:<br />
Thâm nhiễm dưới niêm mạc trong phạm vi<br />
10mm: 100%<br />
Ăn lan theo niêm mạc trong phạm vi 20mm:<br />
90%<br />
Như vậy, với u dạng thâm nhiễm: về đại thể<br />
nên cắt quá giới hạn u >10mm<br />
Đối với u dạng nhú và dạng khối: về đại thể<br />
nên cắt quá giới hạn u> 20mm<br />
<br />
Ngoại Tổng Quát<br />
<br />
Hình 1. Ung thư đường mật dạng xâm nhiễm<br />
Ung thư đường mật dạng khối: một khối<br />
kích thước thường từ 1-2cm dạng nốt màu trắng<br />
ngà. U xuất phát từ trong niêm mạc, phát triển<br />
dọc theo lòng ống mật xâm lấn vào thành ống và<br />
ra ngoài thành ống thành một khối. Chính vì thế<br />
u dạng này dễ gây hẹp và tắc lòng ống dẫn đến<br />
vàng da tắc mật. Chúng tôi gặp 12 trường hợp<br />
(26,1%) dạng này, cả 12 trường hợp bệnh nhân<br />
đều có tắc mật, tuy nhiên việc phẫu tích vùng<br />
rốn gan không gặp nhiều trở ngại vì khối ung<br />
thư không hoặc ít xâm nhiễm với cơ quan xung<br />
quanh (quan trong nhất là tĩnh mạch cửa và<br />
<br />
253<br />
<br />
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn