intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của một số chủ thể đối với việc xây dựng nền giáo dục thực chất ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Vai trò của một số chủ thể đối với việc xây dựng nền giáo dục thực chất ở Việt Nam" nhằm khắc phục những bất cập, xây dựng nền giáo dục thực chất đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của các cơ sở giáo dục, của cả thầy và trò, gia đình và xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của một số chủ thể đối với việc xây dựng nền giáo dục thực chất ở Việt Nam

  1. VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT Ở VIỆT NAM ThS. Đỗ Thị Khánh Nguyệt* 1 Tóm tắt: “Giáo dục là tương lai của dân tộc”, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Trong thời gian qua, nền giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Vấn đề dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật là vấn đề có tính thời sự, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Để khắc phục những bất cập, xây dựng nền giáo dục thực chất đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò của các cơ sở giáo dục, của cả thầy và trò, gia đình và xã hội. Từ khóa: Giáo dục phức chất, chủ thể, xây dựng. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Vấn đề “học thật, thi thật, nhân tài thật” đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm. Giải quyết vấn đề này là cả một quá trình lâu dài, cần có sự vào cuộc quyết liệt của Đảng, Nhà nước, các cơ sở giáo dục, đội ngũ thầy cô giáo, gia đình, xã hội, đặc biệt của chính bản thân người học. Sự đồng thuận và quyết tâm cao trong nhận thức cũng như hành động của các chủ thể nhất định sẽ xây dựng được một nền giáo dục thực chất, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ đất nước và bắt kịp sự tiến bộ của các quốc gia khác trên thế giới. II. NỘI DUNG 1. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng nền giáo dục thực chất V.I. Lênin đã xác định chức năng của giáo dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện. Những con người phát triển toàn diện ấy là sản phẩm quá trình tác động của xã hội, là kết quả sự giáo dục của nhà trường, gia đình, đoàn thể và sự tự giáo dục của người học. Vì vậy, V.I. Lênin nhắc nhở phải “học, học nữa, học mãi”. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục, Hồ Chí Minh khẳng định việc xây dựng nền giáo dục cách mạng của nước Việt Nam độc lập phải Trường Đại học Hải Phòng. 1
  2. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 365 được coi là một mặt trận quan trọng, là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Hồ Chí Minh xác định nền giáo dục mới sẽ “…làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” [7; tr.8]. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của giáo dục. Người cho rằng: “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn,  Phần nhiều do giáo dục mà nên” [6; tr. 413]. Tuy nhiên, Người nhấn mạnh học không phải để lấy bằng cấp mà phải là thực học, “học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” [8; tr. 684]. Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn để xây dựng nền giáo dục nước nhà. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định, cùng với khoa học công nghệ, “giáo dục là tương lai của dân tộc”, là “quốc sách hàng đầu”. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ XI nhấn mạnh: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”[4]. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu quan trọng mà lĩnh vực giáo dục đã đạt được, Hội nghị đã chỉ ra những yếu kém cần khắc phục, đồng thời xác định nguyên nhân của những hạn chế, trong đó “Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn”[1]. Với quyết tâm cao, Hội nghị đã xác định mục tiêu tổng quát: “Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc”[1]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò của giáo dục: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy
  3. 366 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế” [5; tr.231]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta cũng không ngừng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho sự phát triển giáo dục. Cùng với việc ban hành và sửa đổi Luật Giáo dục, hệ thống giáo dục Việt Nam liên tục được cải cách, thay đổi. Các cuộc cải cách giáo dục này có ý nghĩa to lớn trong việc đào tạo các thế hệ trẻ góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước và xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp kéo dài đã ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống giáo dục Việt Nam. Thông qua các chỉ thị, chỉ tiêu cấp trên đề ra, các cơ sở giáo dục phải thực thi và thực hiện cơ chế báo cáo bằng các số liệu cụ thể như tỷ lệ học sinh khá giỏi, giáo viên giỏi, học sinh đỗ tốt nghiệp, các cuộc “thi đua”, các “phong trào”... Mặt khác, cơ chế “Một chương trình - một sách giáo khoa” là một gánh nặng chi phối hoạt động của cả giáo viên và học sinh. Sổ đầu bài, sổ báo giảng là những công cụ để cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát giáo viên có thực hiện theo đúng phân phối chương trình hay không. Để hoàn thành chương trình, để an toàn khi bị kiểm tra, giáo viên đã biến mình thành “thợ dạy” thuần túy, không phát huy được sự sáng tạo trong thực tiễn giáo dục của mình. Bên cạnh đó nhiều cơ quan quản lý giáo dục buông lỏng quản lý, mang nặng tính hình thức, tạo kẽ hở để một số cơ sở giáo dục vi phạm pháp luật trong khâu tuyển sinh, tổ chức thi và chấm thi tốt nghiệp, dẫn đến tình trạng “học giả, bằng thật”, “nhân tài giả” gây bức xúc dư luận xã hội. Khi phát hiện và khắc phục hậu quả của tình trạng trên đã làm tốn kém, lãng phí tiền của của nhà nước và nhân dân, đúng như Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI nhấn mạnh: “Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém”[1]. Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta tiến hành cải cách sâu sắc, toàn diện hệ thống giáo dục từ bậc phổ thông đến bậc đại học. Từ năm học 2020-2021, chương trình giáo dục phổ thông mới đã được triển khai, giáo dục không phải để truyền thụ kiến thức mà nhằm giúp học sinh hoàn thành công việc, vận dụng hiệu quả, sáng tạo kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề trong học tập, trong cuộc sống. Luật Giáo dục (2019), Luật số 34/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2019 là những văn bản pháp lý quan trọng, tạo bước đột phá trong việc xây dựng nền giáo dục thực chất. Luật Giáo dục đại học chỉ rõ: “Phát triển giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước”[13]. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ trọng trách của giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đồng thời cũng
  4. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 367 tạo cơ hội cho các trường đại học phát huy năng lực, cạnh tranh bình đẳng trên cơ sở quyền tự chủ của mình. Vấn đề đặt ra là các cơ sở giáo dục phải nhận thức được trọng trách mà Đảng, Nhà nước giao phó, phát huy được mọi năng lực của mình để góp phần xây dựng nền giáo dục thực chất, đáp ứng được sự kỳ vọng của nhân dân. 2. Các cơ sở giáo dục Luật Giáo dục (2019) đã xác định: “Cơ sở giáo dục là tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân gồm nhà trường và cơ sở giáo dục khác” [12]. Công tác quản trị, điều hành hoạt động giáo dục là chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục. Trên cơ sở được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong công tác quản trị, các cơ sở giáo dục đã chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường, xây dựng chương trình đào tạo; chuyển đổi cách thức quản lý hành chính, mệnh lệnh sang quản lý chất lượng, phát huy dân chủ, tính sáng tạo, xây dựng thương hiệu của mình. Nhiều cơ sở giáo dục đã trở thành địa chỉ tin cậy trong việc đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Bên cạnh những thành tựu quan trọng mà các cơ sở giáo dục đã đạt được, thực tiễn giáo dục ở nước ta còn bộc lộ một số thiếu sót, bất cập. Vì chạy theo thành tích, nhiều cơ sở giáo dục phổ thông có tình trạng cắt xén chương trình, chỉ tập trung vào các môn thi chuyển cấp, tốt nghiệp, xu hướng “ôn sát”, “ôn tủ” để đảm bảo tỷ lệ đỗ tốt nghiệp cao. Từ khi có quy định điểm tổng kết được tham gia tính điểm tốt nghiệp 12, nhiều trường trung học phổ thông đã “mở rào” để xảy ra hiện tượng cho điểm dễ dãi. Điều đó dẫn đến tình trạng chất lượng ảo, lực học thật và điểm số không ăn nhập với nhau. Bên cạnh đó tình trạng “chạy điểm”, sửa điểm đã xảy ra, nhiều học sinh, sinh viên “ngồi không đúng chỗ” làm mất đi cơ hội của các em học sinh, sinh viên khác, gây mất niềm tin trong xã hội. Điểm tổng kết trong học bạ của học sinh, điểm tốt nghiệp không thực chất lại là cơ sở để các trường đại học sử dụng làm phương thức xét tuyển đại học. Chính chất lượng ảo từ bậc phổ thông đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tuyển sinh đầu vào của các trường đại học. Do được trao quyền tự chủ, một số trường đại học tìm mọi cách để giữ chỉ tiêu, giữ sinh viên, thậm chí tuyển sinh tràn lan không dựa trên tiềm năng, thế mạnh của mình, nên không đảm bảo chất lượng đầu ra, mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, gây lãng phí tiền của của nhà nước và nhân dân. Đây là cái vòng luẩn quẩn trong công tác giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Để khắc phục tình trạng trên, các cơ sở giáo dục không chỉ dạy những gì mình có, mà phải dạy những gì thị trường cần, rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường và nhà tuyển dụng, phải cung cấp được nguồn nhân lực vừa có những phẩm chất, năng lực cần thiết, vừa có những kỹ năng cơ bản để làm việc hiệu quả. Trong điều kiện phát
  5. 368 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, “hàng hóa” mà các cơ sở giáo dục “đem bán” cũng phải đảm bảo những tiêu chí quan trọng như mọi hàng hóa thông thường khác (chất lượng, hình thức mẫu mã, giá cả). Muốn vậy, các cơ sở giáo dục phải thấm nhuần triết lý cơ bản mà Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã xác định là “Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo”[1]. 3. Người dạy Trong nhà trường, quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa ba yếu tố cơ bản: nội dung môn học, người dạy, người học. Sau khi đã xử lý đầy đủ, chính xác thông tin của môn học, người dạy tìm ra phương thức chuyển giao thông tin đó phù hợp với khả năng tiếp nhận thông tin của người học. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa”[10; tr. 345]. Người dạy cũng đồng thời là nhà giáo dục với hai nhiệm vụ cốt lõi là giáo dục và dạy học. Điều này cho thấy người dạy có trọng trách trang bị cho học sinh kiến thức, định hướng cho học sinh cách học để không ngừng phát triển nhận thức, trí tuệ, sức khỏe thể chất và tinh thần, những xúc cảm và kỹ năng cần thiết, cơ bản. Muốn vậy, người dạy phải dạy thật, tức là dạy đúng, dạy đủ những kiến thức cần cung cấp cho người học. Mục đích của dạy là làm cho học sinh biết học đúng cách, tức là hiểu, hiểu đúng, bởi có hiểu mới thực hành được. Hành là mục đích của học. Do đó, người dạy phải tận tâm, hỗ trợ nhiệt tình, kịp thời giải đáp những thắc mắc của người học. Việc hỗ trợ một cách hiệu quả cho học tập và phát triển của học sinh là điều kiện tiên quyết đánh giá sự thành công của người thầy. Trong thời gian qua, người dạy đã có những đóng góp to lớn trong việc đào tạo, giáo dục các thế hệ học sinh, sinh viên có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI chỉ rõ: “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp”[1]. Bởi, một bộ phận giáo viên đã dạy cho học sinh cách “học giả”, cách học đối phó. Trước áp lực về chỉ tiêu phổ cập giáo dục, lên lớp thẳng, tỷ lệ tốt nghiệp, học sinh khá giỏi, giáo viên giỏi, các giải phong trào mũi nhọn… giáo viên không thể dạy thật, nên đã lựa chọn cách dạy để học sinh đạt chỉ tiêu như cho đề cương ôn tập sát với nội dung thi, mớm đề kiểm tra, coi kiểm tra dễ… Điều đó đã triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người học, không phân hóa
  6. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 369 được chất lượng học tập của học sinh, đánh đồng giữa học sinh chăm chỉ, tích cực với học sinh lười nhác, thụ động. Để khắc phục tình trạng trên, Nghị quyết số 29-NQ/TW khóa XI nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực” [1]. Muốn vậy, người dạy phải thực sự mô phạm, là tấm gương sáng, có sức lôi cuốn, lan tỏa, ảnh hưởng tích cực đến thái độ và hành vi của người học. Thầy cô giáo phải thay đổi tư duy, lối mòn trong công tác giảng dạy, luôn làm mới bài giảng của mình bằng cách không ngừng bổ sung kiến thức hiện đại, cập nhật thông tin. Người dạy cần thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội” [9; tr.489]. Người dạy cần chuyển mạnh từ việc trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất của người học, chú trọng chất lượng và hiệu quả; luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy người học “cách học”, “cách nghiên cứu”, cách vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, trong công tác chuyên môn. Chỉ khi làm được điều đó thì người dạy mới xứng đáng với vai trò người thầy mẫu mực, góp phần xây dựng nền giáo dục thực chất của nước nhà. 4. Người học Người học – thành tố thứ ba của quá trình dạy học, đóng vai trò là chủ thể của hoạt động học tập, đòi hỏi phải tích cực, chủ động tiếp cận thông tin do người dạy chuyển giao, phải luôn tạo ra nhu cầu khát khao tri thức khoa học mới. Sau khi đã tiếp nhận thông tin do người dạy chuyển giao, người học phải xử lí thông tin đó, biến tri thức khoa học thu nhận được thành tri thức của bản thân. Hoạt động học là hoạt động làm biến đổi bản thân chính chủ thể. Ngoài yếu tố ngoại lực bên ngoài (sự hướng dẫn của thầy cô, sự giúp đỡ của bạn bè, sách, vở, giáo trình…), thì sự tự thân vận động của chính chủ thể (yếu tố nội lực) đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học của người học. Học, cốt lõi là tự học, là quá trình chủ thể tự tìm cách thu nhận, xử lí thông tin, lấy từ môi trường sống xung quanh mình nhằm biến đổi và làm phong phú giá trị của bản thân mình.
  7. 370 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Nếu rèn luyện được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, giúp người học thích ứng với sự phát triển như vũ bão của thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Mục đích của việc học là phải hiểu. Muốn hiểu thì phải bỏ thói học vẹt, học nhồi nhét kiến thức, học theo bài mẫu để phục vụ thi, không nắm vững bản chất, không gắn với thực tiễn. Để học hiểu, bản thân người học phải thay đổi suy nghĩ, có động cơ học tập đúng đắn. Trong quá trình học, nếu hiểu sai thì phải sửa cách hiểu; nếu đã hiểu đúng, thì phải hiểu sâu hơn, hiểu rộng hơn. Học không chỉ dừng ở biết mà phải hiểu, khi đó mới thực sự biết đồng thời cũng thực sự học. Học thật là học vì sự đam mê, không tự bằng lòng với vốn hiểu biết của bản thân, luôn có nhu cầu tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh, khát khao chinh phục đỉnh cao tri thức, dùng hết tâm huyết để tiếp thu kiến thức trong lĩnh vực mà mình theo đuổi, biến kiến thức đó thành kỹ năng để vận dụng trong công việc và cuộc sống, chứ không phải học thuần túy để lấy điểm số cao, lấy thành tích. Học thật còn thể hiện bản lĩnh, danh dự, lòng tự trọng của người học trước sự cám dỗ của danh lợi. Học thật sẽ tạo ra nhân tài thật, thể hiện chất lượng sản phẩm đầu ra của các cơ sở giáo dục, uy tín nghề nghiệp của người dạy, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, của nhà tuyển dụng. 5. Gia đình Một trong những môi trường hình thành nhân cách con người chính là gia đình. Gia đình có chức năng quan trọng trong việc giáo dục con cái, góp phần hình thành công dân có ích cho xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, điều kiện chăm sóc, dạy dỗ con cái của các gia đình không ngừng được nâng cao. Nhiều gia đình đầu tư tiền bạc, thời gian, công sức, tìm những phương pháp giáo dục, nội dung giáo dục phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình, của đất nước và thế giới. Chính sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ của gia đình đồng hành cùng nhà trường đã góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước, đạt giải cao trong các kỳ thi trong nước và quốc tế, thi đỗ đầu vào điểm số cao tại các cơ sở giáo dục tốp đầu của cả nước. Bên cạnh đó, do kỳ vọng vào thành tích học tập của con cái, nhiều gia đình đã gây áp lực cho con, đăng ký học thêm tràn lan. Đây sẽ là điều kiện cho việc dạy không thật và học sinh học không thật, là cơ hội để giáo viên “ém” kiến thức trên lớp, hút học sinh về lớp học thêm. Học sinh cần điểm, cần danh hiệu nên không thể bỏ học thêm. Một bộ phận phụ huynh học sinh tiếp tay cho hiện tượng tiêu cực trong thi cử, sửa điểm,
  8. Phần 2: DẠY THẬT, HỌC THẬT - BÀI HỌC TỪ THỰC TIỄN 371 chạy điểm. Điều đó đã làm méo mó nhân cách của chính con cái mình. Các em không đủ thực lực nhưng ngồi “nhầm chỗ”, “nhầm lớp”. Một số ít gia đình có tư tưởng ỷ lại, phó mặc việc giáo dục, dạy dỗ con cái cho các thầy cô giáo, các cơ sở giáo dục... Tỷ lệ ly hôn, ly thân, ngoại tình ngày càng gia tăng đã làm giảm sút đáng kể vai trò của gia đình trong việc thực hiện chức năng xã hội hóa, giáo dục con cái. Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm… cho thấy phần nào sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục con cái, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của xã hội.  Như vậy, giáo dục của gia đình là bước đầu tiên và rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Cách giáo dục đúng đắn của gia đình chính là nền tảng hạnh phúc cho mỗi gia đình, là cơ sở hình thành thái độ và động cơ học tập trong sáng, góp phần xây dựng nền giáo dục cách mạng và sự phát triển bền vững của đất nước. 6. Xã hội Cùng với gia đình và nhà trường, xã hội là môi trường phát triển nhân cách của con người. Xã hội không ngừng biến đổi đòi hỏi sự thay đổi, đáp ứng kịp thời của nhà trường. Xã hội luôn “đặt hàng”, là động lực thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở giáo dục. Người nào có tài năng thực sự, sẽ được xã hội ghi nhận, được trọng dụng; ngược lại, người nào học giả sẽ bị đào thải, lên án, phê phán. Xã hội trở thành khâu cuối của quá trình giáo dục: đo lường, đánh giá chất lượng đào tạo con người của các cơ sở giáo dục. Uy tín, thương hiệu của các cơ sở giáo dục sẽ được xã hội tôn vinh, là địa chỉ tin cậy người học sẽ tìm đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cần kết hợp và liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Người nhắc nhở: “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy Đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”[11; tr. 620]. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn từng kêu gọi sự chung tay của xã hội: “Học thật, thi thật trước hết và luôn luôn là việc của ngành Giáo dục, nhưng cũng là của toàn xã hội. Nếu mọi người cùng đồng lòng vì nền giáo dục thực chất, vì cuộc sống chất lượng và sự phát triển của đất nước, thì một trong những việc đầu tiên cả xã hội chung tay hành động là tất cả cùng vì thực học!”[15]. III. KẾT LUẬN Sự nghiệp “trồng người” là một công việc lâu dài, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đang tạo ra những cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt cho ngành giáo dục. Vấn đề dạy thật, học thật, thi thật, nhân tài thật
  9. 372 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP đang là vấn đề nóng bỏng được dư luận xã hội quan tâm. Để thực hiện được nhiệm vụ chiến lược này cần có sự chung tay góp sức của nhiều chủ thể: sự lãnh đạo sâu sát của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ sở giáo dục, sự tận tâm nhiệt huyết của người dạy, tinh thần và quyết tâm thực học của người học, sự quan tâm đồng lòng của gia đình và xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, IX, XI, XIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.10, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.11, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Giáo dục. 13. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Giáo dục đại học. 14. Nguyễn Thị Xuân Thuỷ, “Rèn luyện kỹ năng tự học cho sinh viên đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” - Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Lý luận – khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo,  Số đặc biệt 3/2012. 15. https://laodong.vn/giao-duc
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0