Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n --------(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:3)(cid:3)--------
L£ QUANG §øC
VAI TRß NHµ N¦íC §èI VíI PH¸T TRIÓN C¢Y TRåNG D¦îC LIÖU TR£N §ÞA BµN MéT Sè TØNH MIÒN B¾C VIÖT NAM
CHUY£N NGµNH: KINH TÕ CHÝNH TRÞ CHUY£N NGµNH: KINH TÕ CHÝNH TRÞ CHUY£N NGµNH: KINH TÕ CHÝNH TRÞ CHUY£N NGµNH: KINH TÕ CHÝNH TRÞ M· Sè: 62310102 M· Sè: 62310102 M· Sè: 62310102 M· Sè: 62310102
Ng−êi h−íng dÉn khoa häc: GS.TS. MAI NGỌC CƯỜNG
Hµ Néi - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Nghiên cứu sinh Lê Quang Đức Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Mai Ngọc Cường
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1 1.1. Sự cần thiết và tổng quan nghiên cứu của chủ đề luận án ............................ 1 1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu của chủ đề luận án ................................................. 1 1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ............................................................................................... 3
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu ....... 22 1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 22 1.2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 22 1.2.3. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 30 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU ............................. 31 2.1. Phát triển cây trồng dược liệu và ý nghĩa của nó đối với phát triển kinh tế xã hội ..................................................................................................................... 31 2.1.1. Phát triển cây trồng dược liệu: Khái niệm và phân loại ............................. 31 2.1.2. Nội dung phát triển cây trồng dược liệu .................................................... 33
2.1.3. Các điều kiện phát triển cây trồng dược liệu ............................................. 38 2.1.4. Ý nghĩa của phát triển cây trồng dược liệu trong phát triển kinh tế - xã hội ... 40
2.2. Vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu: Thực chất, nội dung và nhân tố ảnh hưởng .......................................................................................... 43 2.2.1. Thực chất vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................ 43 2.2.2. Nội dung vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................. 48 2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng
dược liệu. ........................................................................................................... 58
2.3. Kinh nghiệm thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu và bài học rút ra cho các tỉnh miền Bắc Việt Nam ...................................... 62 2.3.1. Thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ................ 63
2.3.2. Bài học kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ............................................................................................................ 70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 72
3.1. Khái quát tình hình phát triển cây trồng dược liệu qua điều tra, khảo sát ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ........................................................................... 73 3.1.1. Tình hình phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát .................. 73 3.1.2. Đất đai trồng cây dược liệu của các tỉnh khảo sát ...................................... 74
3.1.3. Lao động của các tỉnh khảo sát ................................................................. 75 3.1.4. Cơ sở hạ tầng trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát .................................. 76 3.1.5. Thị trường tiêu thụ dược liệu của các tỉnh khảo sát ................................... 76
3.2. Phân tích thực trạng vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu qua điều tra, khảo sát .................................................................................... 78 3.2.1. Thực trạng vai trò nhà nước trong xây dựng hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu ............................................................................................. 78
3.2.2. Thực trạng công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu ............................................................................................................ 86 3.2.3. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những
vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu. ........................................................................................................... 94
3.3. Đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ........................................................................... 95 3.3.1. Những thành tựu và hạn chế trong hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu chung của cả nước ............................................................................... 95 3.3.2. Những thành tựu và hạn chế trong tổ chức quản lý nhà nước .................. 105
3.3.3 Thành tựu và hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu ................................................................................... 113
3.4. Phân tích nguyên nhân hạn chế về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ............................................ 120 3.4.1. Nguyên nhân liên quan đến các chủ trương, chính sách, quan điểm phát triển cây trồng dược liệu ................................................................................... 120
3.4.2. Nguyên nhân liên quan đến năng lực quản lý, điều hành của bộ máy quản lý nhà nước các cấp .............................................................................................. 123 3.4.3. Nguyên nhân liên quan đến công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện ... 124 3.4.4. Nguyên nhân liên quan đến năng lực của các hộ và doanh nghiệp trồng
dược liệu .......................................................................................................... 125
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 127
Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM ............................................................. 128 4.1. Bối cảnh phát triển, dự báo nhu cầu về và mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam những năm tới ................................................................ 128 4.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội Việt Nam những năm tới .................... 128 4.1.2. Dự báo nhu cầu và khả năng phát triển về cây trồng dược liệu ở Việt Nam
những năm tới .................................................................................................. 129 4.1.3. Mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu đến năm 2020, tầm nhìn 2030 .... 130
4.2. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở các tỉnh miền Bắc những năm tới ......................... 133 4.2.1. Quan điểm hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam ................................................................................................ 133 4.2.2. Phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược
liệu ở Việt Nam ................................................................................................ 137
4.3. Giải pháp hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam .......................................................................................................... 152 4.3.1. Đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả trong các chủ trương,
chính sách, quan điểm phát triển bền vững cây trồng dược liệu ............................ 152 4.3.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý, năng lực điều hành của nhà nước các cấp trong phát triển cây trồng dược liệu ............................................................ 154
4.3.3. Tăng cường sự phối hợp trong quản lý nhà nước để phát triển trồng cây dược liệu .......................................................................................................... 156 3.3.4. Tăng cường phối hợp bốn nhà trong trồng cây dược liệu......................... 160 4.3.5. Nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của các hộ gia đình và các cơ sở
trồng và chế biến sản phẩm từ cây dược liệu ..................................................... 163
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ........................................................................................ 164 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 165 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ......................................... 167 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 168
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
ASXH An sinh xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BYT Bộ Y tế
CP Chính Phủ
ĐBQ Điểm bình quân
DN Doanh nghiệp
ĐTB Điểm trung bình
ĐVT Đơn vị tính
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HGD Hộ gia đình
KH&CN Khoa học và công nghệ
KT-XH Kinh tế xã hội
NĐ Nghị định
NHTM Ngân hàng thương mại
SXKD Sản xuất kinh doanh
TB Trung bình
UBND Ủy ban nhân dân
WHO Tổ chức y tế thế giới
YHCT Y học cổ truyền
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Thang đánh giá Likert ............................................................................. 26
Bảng 1.2: Phân bổ điều tra, phỏng vấn .................................................................... 29
Bảng 3.1: Tình hình trồng cây dược liệu của tỉnh Hưng Yên, Bắc Giang và tỉnh Hà Gang ... 73
Bảng 3.2: Kết quả khảo sát về tiếp cận các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp/cá nhân trồng dược liệu của địa phương ............................................................... 78
Bảng 3.4: Tổng hợp tình hình kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, bổ sung và xử lý vi phạm thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh điều tra những năm 2010-2015 ......................................................... 95
Bảng 3.5: Điểm bình quân chung đánh giá tác động của các chính sách đến phát triển cây trồng dược liệu .......................................................................... 98
Bảng 3.6: Đánh giá mức độ đạt được trong tổ chức quản lý của nhà nước tác động đến phát triển trồng dược liệu ................................................................ 109
Bảng 3.7: Quy mô phát triển cây trồng dược liệu tại các tỉnh khảo sát .................. 115
Bảng 3.8: Biến đổi về cơ cấu cây trồng dược liệu .................................................. 117
Bảng 3.9: Hiệu quả các hộ và doanh nghiệp trồng cây dược liệu ........................... 118
Bảng 3.10: Đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến đến vai trò nhà nước trong
phát triển cây dược liệu ......................................................................... 121
Bảng 3.11: Những khó khăn của các hộ trồng cây dược liệu trong tiếp cận nguồn lực . 126
Bảng 4.1: Dự báo một số chỉ tiêu phát triển cây trồng dược liệu ............................ 131
Bảng 4.2: Thứ tự mức độ ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện chính sách phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn những năm tới .............................................. 137
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Số liệu số đăng ký cấp mới qua các năm 2011-2016 ............................. 84
Biểu đồ 3.2: Số lượng các dạng bào chế được cấp đăng ký giai đoạn 2010-2016 ...... 85
Biểu đồ 3.3: Đánh giá tác động của Quản lý nhà nước đến phát triển cây trồng dược
liệu qua điều tra khảo sát. ................................................................... 114
Biểu đồ 4.1: Tỉ lệ dân số dùng dược liệu một số nước trên thế giới ......................... 133
1
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết và tổng quan nghiên cứu của chủ đề luận án
1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu của chủ đề luận án
Việt Nam là quốc gia có sự đa dạng của khí hậu, thổ nhưỡng nên các loại cây
con có thể làm thuốc được phân bố rộng khắp trên cả nước, vùng phân bố chịu nhiều ảnh hưởng yếu tố khí hậu và đặc tính sinh trưởng phát triển của các loài cây thuốc. Tập trung nhiều nhất vẫn là nơi có địa hình núi cao, nơi tập trung nhiều quần thể rừng (khu vực miền núi phía Bắc; các tỉnh đồng bằng sông Hồng, phía tây các tỉnh Nghệ An,
Thanh Hóa, ...; Các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, An Giang; ...).
Theo kết quả điều tra đến năm 2016 Việt Nam đã ghi nhận được trên 5000 loài cây thuốc và nấm làm thuốc, trong đó có khoảng 70 loài có tiềm năng khai thác và
phát triển trồng tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc phục vụ nhu cầu sử dụng trong nước và hướng tới xuất khẩu với trữ lượng ước tính là 18.372 tấn / năm. Trong đó, 45/70 loài/nhóm loài có tiềm năng khai thác lớn, như: Diếp cá (5.000 tấn), Cẩu tích (1.500 tấn), Lạc tiên (1.500 tấn), Rau đắng đất (1.500 tấn), Ngũ gia bì chân chim (1.000 tấn),
Thiên niên kiện, Bọ mắm khô (1.000 tấn), Bình vôi (800 tấn), Râu hùm (500 tấn), Cỏ xước (500 tấn), Kê huyết đằng (500 tấn), Thiên niên kiện (500 tấn), Ngải cứu dại (300 tấn), Câu đằng (300 tấn), Bách bộ (200 tấn), Hà thủ ô trắng (200 tấn), Hy thiêm (200 tấn), Sa nhân (200 tấn), Tắc kè đá (200 tấn)… (Cục Y Dược cổ truyền, 2017)
Trong đó các loài cây thuốc đã biết, chỉ có hơn 500 loài là cây thuốc đã được trồng với các mức độ khác nhau, nhiều loài là cây lương thực, thực phẩm, gia vị làm thuốc. Trên thực tế, hiện có khoảng 92 loài cây dược liệu được trồng phục vụ nhu cầu
thị trường, một số loài đã và đang có vùng trồng lớn, như: Hồi, Quế, Hòe, Actiso, Thanh hao hoa vàng, Đinh lăng, Kim tiền thảo, Diệp hạ châu, Trinh nữ hoàng cung, Gấc, Nghệ, Bụp giấm. Diện tích trồng và sản lượng của một số dược liệu đã tăng lên
khá nhiều nhằm đáp ứng như cầu dược liệu.
Mặc dù có khả năng trồng nhiều loại dược liệu nhưng do cách làm manh mún, tự phát, thiếu liên kết và thị trường dược liệu không ổn định nên việc trồng cây dược liệu gặp nhiều khó khăn. Việc kiểm soát chặt chẽ chất lượng dược liệu lưu hành, kiểm soát chặt chẽ dược liệu không rõ nguồn gốc, xuất xứ, dược liệu nhập lậu là giải pháp trực tiếp giúp cho dược liệu nuôi trồng, khai thác trong nước phát triển, chiếm lĩnh được thị trường.
2
Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm phát triển cây trồng dược liệu như; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học theo định hướng ứng dụng các kết quả nghiên cứu, tạo sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường; xây dựng các vùng trồng dược liệu nhằm phát triển kinh tế xã hội; bảo tồn, lưu giữ nguồn gen dược liệu và tri thức bản địa. Các chương trình cấp nhà nước và những nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ của các cấp trong công tác bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen và phát triển cây trồng dược liệu từ các nguồn vốn khác đã được triển khai nhằm nâng cao kỹ thuật trồng trọt, phát triển, khôi phục và thuần hóa các giống cây dược liệu bản địa, xây dựng quy trình sản xuất giống và tiêu chuẩn giống, quy trình kỹ thuật ứng dụng và triển khai chuyển giao công nghệ ở các địa phương, nâng cao kỹ thuật kiểm nghiệm, kiểm tra chất lượng dược liệu, xây dựng được bộ dữ liệu về dấu vân tay hóa học của dược liệu ,….Mặc dù vậy, nhưng đến nay nguồn dược liệu của nước ta mới đáp ứng được khoảng 25%, số còn lại phụ thuộc vào nguồn dược liệu ở nước ngoài với khoảng 75% nhu cầu cần thiết là nhập khẩu từ Trung quốc, Ấn Độ và một số nước khác (Cục Y Dược cổ truyền, 2017).
Có nhiều nguyên nhân hạn chế đến sự khai thác tiềm năng để phát triển nuôi, trồng dược liệu ở nước ta, trong đó có nguyên nhân từ vai trò nhà nước trong phát triển
cây trồng dược liệu.
Những năm qua, mặc dù nhà nước có chủ trương đúng đắn, đã ban hành luật
Dược năm 2005 và sửa đổi đã được Quốc hội thông qua ngày 06 tháng 04 năm 2016
và trong Nghị định số 79/2006/NĐ-CP ngày 08/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật dược, trong đó có đoạn: “Phát triển ngành dược thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, ưu tiên phát triển công nghiệp dược...”. Riêng với việc phát triển nuôi, trồng dược liệu cũng có rất nhiều quyết định của Đảng
và Nhà nước, kể từ Nghị định đến các thông tư, các quyết định của Chính phủ và các bộ ngành có liên quan được ban hành, đã tạo khung chính sách để phát triển nuôi, trồng dược liệu.
Tuy nhiên, những chính sách này còn nhiều bất cập trong thực tiễn, kể từ hệ thống các chính sách, đến tổ chức quản lý và kiểm tra giám sát phát triển cây trồng dược liệu. Điều dễ thấy nhất là tình trạng phân công phân cấp và phối hợp trong quản lý phát triển cây trồng dược liệu còn trùng chéo; công tác kiểm tra, giá, sát thực hiện
quy hoạch, kế hoạch nhiều lúc nhiều nơi, nhiều địa phương còn buông lỏng …Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu chủ đề: “Vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam” là có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
3
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về phát triển cây trồng dược liệu
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu được thực hiện về ngành dược, những
chính sách phát triển ngành dược, vai trò của chính phủ trong chế biến dược liệu, công nghệ sinh học thể hiện trong các nghiên cứu của Edward.B.Barbier (1996), Micheal (1994), của Han Joong Kima và cộng sự (2004)… Trong những nghiên cứu này, các tác giả phân tích thực trạng phát triển của ngành công nghiệp dược phẩm ở các quốc
gia đang phát triển, chỉ ra những lợi ích đạt được nếu phát triển nguồn dược phẩm tự nhiên ( Edward (1996) phân tích những chính sách về dược phẩm đã áp dụng ở Bangladesh – những thất bại và thành công của chính sách này (Micheal (1994)) , chính sách ở Hàn Quốc (Han Joong Kima và cộng sự (2004) để từ đó đưa ra những khuyến nghị cho các nước đang phát triển về những chính sách liên quan đến ngành công nghiệp dược này.
Đối với ngành công nghiệp dược phẩm, có những nghiên cứu khác nhau về lĩnh
vực này, các nghiên cứu đang chủ yếu khai thác tới khía cạnh chính sách phát triển ngành dược phẩm, chủ yếu nghiên cứu tại các nước đang phát triển. Một số nghiên cứu điển hình được thực hiện như nghiên cứu về sự thận trọng với các chính sách dược liệu ở Bangladesh- từ đó đưa ra những khuyến nghị cho các nước đang phát triển khi đưa
ra bất cứ chính sách nào liên quan đến ngành ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân này của Micheal R Reich (1994). Nghiên cứu đã phân tích chính sách về dược phẩm ở Bangladesh trong hai giai đoạn: những năm 1980 và những năm 1990.
Khi phân tích về chính sách liên quan đến dược phẩm của Bangladesh năm 1982, tác giả đã chỉ ra rằng việc chính phủ thay đổi chính sách công theo hướng không thuận lợi cho các tập đoàn đa quốc gia- những tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp dược phẩm này có ảnh hưởng rất xấu đến thị trường dược phẩm của quốc gia. Trong
khi sự thất bại trọng việc cải cách chính sách y tế của năm 1990 cho thấy rằng những cải cách bất lợi cho nhóm doanh nghiệp trong nước có thể làm sụp đổ chính sách của chính phủ. Những phân tích về chính sách liên quan đến ngành công nghiệp dược
phẩm này cho thấy những cải cách chính sách y tế quan trọng ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào điều kiện chính trị cả trong và ngoài nước. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp diễn dịch kết quả thông qua việc phân tích chính sách, xác định những hạn chế và nguyên nhân, đưa ra giải pháp và
khuyến nghị cho bản thân quốc gia được phân tích chính sách nói riêng và các nước đang phát triển nói chung. Một chính sách khác liên quan đến dược phẩm và y tế đã
4
đươc phân tích tại Hàn Quốc trong nghiên cứu của Han Joong Kima và cộng sự (2004). Trong nghiên cứu này, tác giả đã chỉ ra những cải cách trong ngành y tế của đất nước Hàn Quốc và phân tích điển hình một chính sách ở quốc gia này. Chính sách được tác giả lựa chọn là chính sách ma túy được thực hiện những năm 2000. Chính
sách này đã gặp phải những lời chỉ trích và phản đối, thậm chí là các cuộc đình công của các bác sĩ đã xảy ra do những vấn đề bất hợp lý của chính sách. Dựa vào việc phân tích những chính sách này, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp các quốc gia
có thể tránh những bất ổn liên quan đến chính sách y tế, chính sách dược phẩm ở mỗi quốc gia. Trong những nghiên cứu này có điểm chung là việc xuất phát từ phân tích những chính sách- cụ thể hơn là những chính sách khi thực hiện đã bị thất bại, để từ đó đưa ra những khuyến nghị và gợi ý cho các quốc gia- cụ thể là các quốc gia đang phát
triển khi thực hiện các chính sách liên quan đến dược phẩm, y tế.
Việc nghiên cứu về phát triển nguồn dược liệu ở nước ta còn khá hạn chế, một số nghiên cứu đã được thực hiện nhưng những nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở việc phản ánh
thực trạng nguồn dược liệu trên cả nước thể hiện qua các báo cáo tổng kết hàng năm của các địa phương và của Bộ Y tế. Một số nghiên cứu đã được thực hiện về phát triển riêng lẻ từng loại cây thuốc và chiến lược phát triển loại cây thuốc cũng như tìm kiếm thị trường cho các loại cây thuốc đó như nghiên cứu của Phạm Hồng Hải (2013),
David.L.Martin (2000), Võ Hồng Thi và cộng sự (2012). Cùng với đó là một số nghiên cứu về vai trò của nhà nước với các lĩnh vực khác nhau như vai trò của nhà nước với tăng trưởng kinh tế Vũ Hải Nam ( 2014), Vai trò của nhà nước trong quy hoạch và phát
triển các khu công nghiệp Đặng Xuân Phong ( 2012)… Cụ thể, các nghiên cứu được thực hiện đã khai thác các khía cạnh khác nhau của lĩnh vực dược liệu, một số nghiên cứu thực hiện theo hướng nghiên cứu về giải pháp phát triển cây dược liệu, thực trạng phát triển cây trồng dược liệu ở các địa phương khác nhau… Tuy nhiên, những nghiên
cứu về lĩnh vực này còn khá hạn chế và đang dừng lại phần lớn là mô tả thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các khuyến nghị cụ thể cho từng địa phương.
a. Về nội dung phạm trù phát triển cây trồng dược liệu
Về phạm trù phát triển cây trồng dược liệu, một số nghiên cứu đã thực hiện theo hướng phân tích thực trạng phát triển cây dược liệu của các địa phương, hay chỉ ra sự cần thiết phải bảo tồn và phát triển cây dược liệu thông qua phân tích thực trạng nhu cầu sử dụng cũng như thực trạng cây dược liệu…. Cụ thể, nghiên cứu của Trương Việt
Bình (2013), Trần Thế Hùng và Đinh Thị Lệ Giang (2014)… Trong nghiên cứu Thực trạng và giá trị sử dụng nguồn cây dược liệu tại xã Quy Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, nhóm tác giả đã tiến hành điều tra thực địa để xác định thực trạng cây
5
dược liệu tại khu vực nhóm tác giả nghiên cứu, với 50 hộ gia đình được nhóm tác giả lựa chọn phỏng vấn để thu thập dữ liệu, cùng với việc phỏng vấn chuyên gia và các nhà đông y hoạt động trên địa bàn để thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu. Kết quả phân tích của nghiên cứu đã chỉ rõ vai trò cụ thể của nguồn dược liệu trong cuộc sống
của người dân địa phương, đồng thời tác giả cũng đã phân tích rõ thực trạng phát triển cây dược liệu tại Huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình . Với kết quả nghiên cứu đó, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển cây dược liệu tại địa phương, góp
phần đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân bản địa, cũng như xác định phương hướng biến cây dược liệu thành phương thức sinh kế mới cho người dân địa phương. Trong những giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra, nhóm nhấn mạnh tới giải pháp: địa phương cần kết hợp với các các hộ gia đình xây dựng các mô hình vườn bảo tồn có
thể kinh doanh sản phẩm dược liệu, và có thể coi đây là phương pháp bảo tồn khả thi. Như vậy, các hộ nông dân trồng cây dược liệu trong vườn nhà hay trong vườn rừng vừa hỗ trợ bảo tồn nguồn gen cây thuộc, vừa tạo thu nhập, nâng cao đời sống cho
người dân địa phương. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tổ chức các lớp tập huấn cho các hộ đang sản xuất và kinh doanh về dược liệu, hướng dẫn cách chế biến, bảo quản, thu hái để phát triển hơn nữa việc trồng dược liệu tại địa phương. Như vậy, không thể không nhắc đến vai trò của nhà nước với sự phát triển của cây dược liệu tại
các địa phương . Hay như trong nghiên cứu của Trương Việt Bình (2015), tác giả cũng đã xác định vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của bảo tồn và phát triển dược liệu, và nhấn mạnh vấn đề này đang trở thành vấn đề cấp thiết do tình trạng phụ thuộc nguồn
dược liệu của nước ta từ nguồn nhập từ bên ngoài trong khi tiềm năng phát triển dược liệu của nước ta là vô cùng lớn. Trong nghiên cứu tác giả cũng chỉ ra việc phát triển lệch về cây trồng dược liệu ở nước ta hiện nay, khi quá coi trọng phát triển các cây thuốc có giá trị cao mà bỏ qua các thuốc nam chữa bệnh thông thường, chính điều này
đã làm tốn kém và lãng phí, điều quan trọng là không đáp ứng được yêu cầu bảo tồn nguồn dược liệu ở nước ta. Trong nghiên cứu tác giả cũng đã chỉ ra thực trạng phát triển cây trồng dược liệu, các chế phẩm từ cây dược liệu được sử dụng ở các địa
phương,cụ thể địa phương được lựa chọn nghiên cứu là Lào Cai, nghiên cứu này cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Hoàng Thị Hường (2012) về thực trạng phát triển và sử dụng dược liệu tại Sapa- Lào Cai. Với nghiên cứu này, tác giả cũng đã hướng đến vấn đề thực trạng bảo tồn nguồn thuốc nam ở nước ta, xây dựng định
hướng và một số khuyến nghị nhằm bảo tồn nguồn thuốc nam này tại các địa phương, một số khuyến nghị được tác giả đưa ra để phát triển cây dược liệu: cần chú trọng bảo tồn nguyên vị, bảo tồn nguồn gen và giống cây thuốc Việt Nam có sự tham gia của toàn
xã hội chứ không nên chỉ coi là nhiệm vụ của ngành dược và tạm thời chưa chú trọng
6
đến tính lợi nhuận trong vấn đề bảo tồn nguồn dược liệu. Thêm vào đó, để có thể bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu cần đánh giá thực trạng một cách chính xác phát triển dược liệu ở các địa phương, từ đó hoạch định chính sách, kế hoạch bảo tồn và khôi phục các nguồn cây, con dược liệu, đặc biệt những loại đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Trong khi đó, theo Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 (2013) của Chính phủ, đã chỉ rõ, Việt Nam sẽ có 8 vùng trồng nguyên liệu trên cả nước để trồng 54 loài dược liệu, lựa chọn và khai thác hợp lý
24 loài dược liệu tự nhiên. Hiện nay, trên cả nước đã có một số trung tâm được gây dựng để thu thập và bảo tồn các loại dược liệu của Việt Nam như Vườn cây thuốc Yên Tử (Do ĐH Dược Hà Nội phối hợp cùng các đơn vị sở tại tổ chức), ra đời từ năm 2012, sau hơn một năm hoạt động đã sưu tập, bảo tồn được hơn 500 loài dược liệu,
diện tích trên 5 ha, 512 loài cây thuốc được thu thập từ 14 tỉnh phía Bắc, là vườn thực vật, vườn cây thuốc lớn nhất ở Việt Nam. Một đơn vị khác là Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội (thuộc quản lý của Viện Dược liệu - Bộ Y tế), là
một trong ba đơn vị có vườn thuốc lớn nhất cả nước, đang lưu giữ gần 400 cây thuốc từ những thuốc di thực nhập nội, các cây thuốc nguyên sinh của các tỉnh đưa về và các giống cây thuốc từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản.
Tác giả Trần Công Kỷ (2005) trong nghiên cứu của mình về “Một số giải pháp
chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam đến năm 2010” đã đề cập đến phạm vi sản xuất thuốc với quy mô công nghiệp nhưng không đề cập đến thuốc y học cổ truyền và việc quy hoạch, phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành dược liệu
Việt Nam. Nội dung luận án chỉ đánh giá thực trạng ngành công nghiệp Dược Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của các nước và từ đó đề xuất các giải pháp có tính chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam đến năm 2010.
Trong nghiên cứu về cây trồng dược liệu của VCBS (2008), nghiên cứu đã chỉ
rõ trong Y học Việt Nam, thuốc đông y đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, thuốc đông y được sử dụng lâu đời và rộng rãi. Tuy nhiên theo thống kê, đông dược chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ từ 0,5%- 1% giá trị thuốc sử dụng hàng
năm. Số liệu thống kê về giá trị sử dụng cũng như nhu cầu sử dụng của đông dược là kém chính xác khi lĩnh vực này hầu như chưa được quản lý chặt chẽ . Do vậy trên số liệu thực tế còn cao hơn nhiều. Trong thói quen sử dụng đông dược của người Việt Nam, thuốc Bắc (nguyên liệu là các thảo dược bắt nguồn từ Trung Quốc) được tin
dùng rộng rãi nhất . Điều này được phản ánh qua việc 85% nguyên liệu chế biến đông dược được nhập từ Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu trung bình 1 triệu USD/ năm. Hiện nay, Việt Nam đã trồng được một số dược liệu nhưng giá trị cũng như khối
7
lượng không đáng kể, hệ thống sản xuất, phân phối thuốc đông dược rộng lớn và không được kiểm soát đầy đủ . Do đặc trưng của thuốc đông dược chế biến không đòi hỏi công nghệ cao nên thuốc đông dược được sản xuất và phân phối bởi các nhà máy lớn cũng như các cơ sở tư nhân nhỏ lẻ. Theo thống kê sơ bộ, cả nước có 45 Viện y học
dân tộc, 242 Bệnh viện đa khoa, 4000 tổ chẩn trị, 10.000 cơ sở Y dược học cổ truyền. Tuy nhiên, hiện nay chưa có sản phẩm thuốc đông dược của Việt Nam đăng ký tiêu chuẩn GMP-WHO. Điều này cho thấy các cơ sở sản xuất thuốc đông dược đạt tiêu
chuẩn còn rất thiếu, thị trường đông dược rất cần một sự chuẩn hóa . Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời gian gần đây làm tăng thu nhập cá nhân là nguyên nhân làm gia tăng nhu cầu sử dung đông dược. Người Việt Nam sử dụng đông dược không chỉ để chữa bệnh mà còn để bồi bổ sức khỏe và phần lớn cho rằng sử dụng đông
dược lâu dài có lợi chứ không có hại như Tây y. Chính vì vậy, tiềm năng cho đông dược nhất là đông dược chất lượng cao rất lớn
Một số công trình nghiên cứu lại khai thác khía cạnh khác của phát triển cây
dược liệu đó là hiệu quả phát triển cây trồng dược liệu . Tại Hội nghị xúc tiến đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ phát triển sản xuất thuốc dược liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014, Trương Quốc Cường - Cục trưởng Cục Quản lý Dược - Bộ Y tế, với bài tham luận “Đưa dược liệu trở thành thế mạnh của ngành dược Việt Nam”
cho rằng: “Theo thống kê, trong năm 2012, doanh thu sản xuất thuốc từ dược liệu tại Việt Nam đạt 3.500 tỷ đồng (gấp hơn 1,75 lần so với doanh thu năm 2010). Trong số 20 loại dược liệu có nhu cầu dùng cho sản xuất thuốc lớn nhất năm 2011, Artiso đứng
đầu danh sách với số lượng tiêu thụ lên tới 2000 tấn/năm, tiếp theo là Đinh lăng với hơn 900 tấn/năm…Như vậy, có thể nói dược liệu chính là nguồn nguyên liệu của nền công nghiệp tân dược trong tương lai, chứ không phải là nguồn nguyên liệu hóa dược mà chúng ta đang mất nhiều thời gian và công sức để theo đuổi trong nhiều năm qua”.
Mặc dù có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế cây dược liệu tại Việt Nam, tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu ở quy mô hẹp, do các Viện nghiên cứu hoặc các địa phương thực hiện trên địa bàn của mình, và các nghiên cứu cũng
chưa thực sự chuyên sâu, chưa được mô hình hóa với các con số cụ thể, mà đơn thuần chỉ ở dạng thống kê.
Theo nghiên cứu của Viện dược liệu Trung ương, cây dược liệu trồng tại Tam Đảo phát triển tốt, thích nghi với điều kiện khí hậu thời tiết và có hàm lượng vật chất
khô tương đối cao, chất lượng dược liệu tốt. Đánh giá hiệu quả kinh tế từ mô hình cho thấy, sau một năm trồng, cây đã cho thu hoạch đạt năng suất, chất lượng tương đối cao. Các hộ dân trồng cây dược liệu đều được Bệnh viện y học cổ truyền tỉnh Vĩnh
8
Phúc ký hợp đồng thu mua toàn bộ. Với cây lá lốt, trong điều kiện vườn có độ râm mát cao, ẩm độ tốt, sau 4 tháng trồng cây phát triển tốt, đẻ nhánh nhiều, chiều cao cây từ 40-50 cm, ngăn chặn cỏ dại trong vườn, đất không bị rửa trôi, sau khi trừ chi phí lợi nhuận thu được đạt 72,5 triệu/ha/năm với 5 lượt thu hoạch. Với cây lạc tiên, phù hợp
trồng tại những nơi có độ ẩm cao, dễ thoát nước và có độ che phủ dày, cho lợi nhuận xấp xỉ 55,5 triệu/ha/năm. Với cây kim tiền thảo, thích hợp trồng dưới tán vườn có độ che phủ vừa phải nhằm tăng cường quá trình quang hợp cho lợi nhuận khoảng 50
triệu/ha/năm.
Theo tác giả Phùng Hà (2014), trong nghiên cứu của mình về “ Trồng và chế biến dược liệu tại Hà Giang gắn với xóa đói giảm nghèo và góp phần phát triển ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam” nhận định: Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát
triển đa dạng các loại dược liệu, với trên 1000 loại trong tổng số gần 4000 loại được phát triển và nuôi trồng tại Việt Nam, Hà Giang có tiềm năng phát triển trồng và chế biến cây dược liệu như một thế mạnh nhằm tăng doanh thu, cải thiện đời sống của bà
con địa phương, giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn người lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Dược liệu là tài nguyên di truyền - tài nguyên tái tạo, dùng thế mạnh dược liệu đẩy mạnh công nghiệp hóa dược và công nghiệp dược trở thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, làm cho nhân dân ta có đủ thuốc tốt, khỏe mạnh và
giàu có, làm cho các vùng kinh tế còn khó khăn, tiến và đuổi kịp các vùng khác trong cả nước.
Bên cạnh những nghiên cứu về thực trạng, hiệu quả phát triển cây trồng dược
liệu, một số nghiên cứu đã khai thác khía cạnh khác đi của phát triển cây dược liệu, đó là việc xác định và phân tích các điệu kiện phát triển cây dược liệu. Cụ thể:
b. Các nghiên cứu liên quan đến điều kiện phát triển cây trồng dược liệu
Trong Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030 của Bộ Y tế
(2013) đã đánh giá thực trạng và xác định rõ các phân vùng nuôi trồng dược liệu truyền thống như của nước ta như sau:
Vùng dược liệu Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu): Là vùng có điều
kiện tự nhiên thích hợp với các loại dược liệu ôn đới, là vùng trồng và nhân giống các dược liệu đặc hữu: thảo quả, vân mộc hương, đương qui, bạch truật, hoàng bá... Tuy nhiên những năm qua, nguồn dược liệu từ Trung Quốc nhập khẩu về nhiều với giá rẻ hơn dược liệu sản xuất trong nước, vì vậy, một số cây thuốc như Đương qui, Bạch
truật, Đỗ trọng, Xuyên khung, Độc hoạt... chỉ có thể phát triển ở mức độ vừa phải kể cả những cây thuốc có nhu cầu lớn như lão quan thảo, hoàng bá, đương qui (giống
9
Nhật Bản), cũng chưa được phát triển theo yêu cầu. Tuy nhiên, Sa Pa vẫn là vùng giữ được các cây dược liệu quí cho tương lai.
Vùng dược liệu thuộc các tỉnh vùng núi phía Bắc: Trong vùng có các tiểu vùng với các đặc trưng khí hậu khác nhau để trồng một số loài cây thuốc khác nhau như Tam
thất ở Thông Nông và Hà Quảng (Cao Bằng); Ba kích ở Hoành Bồ (Quảng Ninh), Đoan Hùng (Phú Thọ); Huyền sâm, Đương quy ở Đà Bắc (Hòa Bình); Địa liền và Hoài Sơn ở Hoành Bồ (Quảng Ninh), Kỳ Sơn (Hòa Bình); Ý dĩ ở Mộc Châu (Sơn La)…
Vùng dược liệu các tỉnh đồng bằng Sông Hồng: Đây là vùng hiện vẫn duy trì ở mức vừa phải diện tích trồng cây dược liệu như Văn Giang (Hưng Yên); Gia Lộc, Vĩnh Trụ (Hải Dương). Các cây thuốc nam truyền thống đang được trồng ở đây như: Cúc hoa, Mã đề, Kinh giới, Tía tô, Hoắc hương, Nga truật, Nghệ, Đinh lăng, Cốt khí
củ, Húng quế…. Bên cạnh đó vùng này cũng đang trồng một số cây thuốc nhập nội như: Ngưu tất, Đương quy, Bạch chỉ, Bạc hà, Thanh cao (Vĩnh Phúc và ngoại thành Hà Nội), Hoài sơn, Sắn dây....
Vùng dược liệu Đà Lạt: Có điều kiện khí hậu cận nhiệt đới, đã từng trồng sản xuất một số loài cây thuốc di thực, nay còn Artisô với vài chục ha và hiện đang sản xuất thử nghiệm: Thông đỏ, Đảng sâm, Kim ngân…
Vùng dược liệu đồng bằng Sông Cửu Long: Ngoài cây Tràm mọc tự nhiên,
vùng này còn trồng một số cây thuốc như: Đu đủ (lấy lá), Trinh nữ hoàng cung, Bạc hà, Xuyên tâm liên, Râu mèo, Hoắc hương nhưng diện tích không lớn.
Thực hiện Đề án của Chính phủ, đến nay nhiều địa phương trong các khu vực
được quy hoạch đã triển khai hoạt động dựa vào các điều kiện thuận lợi về tự nhiên xã hội của mình. Năm 2011, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã phê duyệt Dự án “Xây dựng mô hình kinh tế hộ trồng một số loại cây dược liệu tại Sa Pa - Lào Cai” để thúc đẩy và duy trì một cách bền vững nghề trồng cây thuốc tại Sa Pa. Trạm Nghiên cứu
trồng cây thuốc Sa Pa được lựa chọn là cơ quan Chủ trì thực hiện nghiên cứu và Đinh Văn Mỵ là chủ nhiệm Dự án nhằm phát triển nguồn dược liệu của Sapa.
Để phục vụ cho nuôi trồng dược liệu đạt kết quả tốt các vấn đề cơ bản liên quan
đến cơ sở hạ tầng cần giải quyết đó là: giao thông đi lại, hệ thống các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào như cây giống, phân bón, vật tư, các tổ chức nghiên cứu sản xuất nuôi trồng dược liệu chuyên nghiệp… Về giao thông, hiện nay việc nền tảng giao thông tại các được phương được quy hoạch vùng dược liệu cơ bản đạt yêu cầu, đi lại thuận tiện,
việc vận chuyển nguyên vật liệu, phân bón, thành phẩm không gặp nhiều khó khăn.
10
Đối với mạng lưới cung cấp vật tư nông nghiệp, hiện nay mỗi tỉnh đều có các đơn vị chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực cung cấp vật tư nông nghiệp, phân bón, giống cây trồng…do vậy, đảm bảo các yếu tố đầu vào này cho các hộ nông dân không gặp nhiều khó khăn.
Về các công ty, tổ chức, cơ sở hoạt động sản xuất nuôi trồng dược liệu, theo thống kê của Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, hiện nay, nhiều địa phương, công ty kinh doanh, các đơn vị nghiên cứu đã trực tiếp đầu tư xây dựng
vùng trồng một số loài cây thuốc để tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất như: Tỉnh Kon Tum và Quảng Nam đầu tư phát triển Sâm ngọc linh; quy hoạch vùng trồng tràm (Melaleuca anternifolia) để chưng cất tinh dầu của Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát triển dược liệu Đồng Tháp Mười; nghiên cứu xây dựng qui trình trồng cây
thuốc theo tiêu chuẩn GAP-WHO 5 loài cây thuốc Đương qui, Artisô, Ngưu tất, Cúc hoa, Bạch chỉ của Viện dược liệu; xây dựng vùng trồng Bạc hà Nhật bản tại Hưng Yên và Nam Định của Công ty cổ phần dược Mediplantex; xây dựng vùng trồng Kim tiền
thảo tại Bắc Giang của Công ty OPC; xây dựng vùng trồng Artisô và Chè dây tại Sa Pa-Lào Cai, trồng Đinh lăng tại Hưng Yên của Công ty Traphaco; xây dựng vùng nguyên liệu Trinh nữ hoàng cung của Công ty Thiên Dược; trồng Lô hội, Diệp hạ châu, Râu mèo ở Phú Yên của Trung tâm phát triển dược liệu Nam Trung Bộ; trồng
Bụp giấm, Dừa cạn, Diệp hạ châu ở Bình Thuận, Ninh Thuận...
Đối với ngành công nghiệp dược phẩm, có những nghiên cứu khác nhau về lĩnh vực này, các nghiên cứu đang chủ yếu khai thác tới khía cạnh chính sách phát triển
ngành dược phẩm, chủ yếu nghiên cứu tại các nước đang phát triển.
Nhà nghiên cứu Edward (1996) đã chỉ ra những giá trị có được từ quá trình đa dạng sinh học trong quá trình phát triển ngành công nghiệp dược phẩm ở các nước đang phát triển . Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ rõ việc bảo tồn đa dạng sinh học được định nghĩa là một quá trình gồm ba thành phần - tiết kiệm, nghiên cứu và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Nghiên cứu đã tập trung vào những nỗ lực trong một đất nước đang phát triển để nắm bắt được tiềm năng dược phẩm của quốc gia, thông qua việc tìm kiếm, bảo tồn và phát triển các cây, con- là nguồn dược liệu. Nguồn dữ liệu được thu thập từ Costa Rica về các thông tin liên quan đến nguồn dược liệu. Kết quả cho thấy rằng việc bảo vệ đa dạng sinh học sẽ mang đến lợi ích cho các quốc gia. Nghiên cứu đã chỉ ra một giải pháp mới cho phát triển nguồn dược liệu cho các quốc gia đang phát triển- hướng đi tạo ra giá trị mới. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ đề cập đến phương diện đa dạng hóa các loài, cây- là nguồn nguyên liệu, bảo tồn nguồn nguyên liệu tự nhiên ở các quốc gia, mà nghiên cứu chưa đề cập đến nguồn
11
nguyên liệu mới- nguyên liệu được trồng mới từ các doanh nghiệp, hộ gia đình. Thực tế cho thấy, nguồn nguyên liệu tự nhiên rất khó có thể bảo tồn và sử dụng lâu dài, việc tìm hướng đi- từ phát triển nguồn nguyên liệu nhờ vào quá trình nuôi trồng – quá trình sử dụng bàn tay con người- “nhân tạo” ra nguồn nguyên liệu cho quá trình phát triển nguồn dược liệu ở mỗi quốc gia là việc làm cần thiết.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Hoàng Hiếu Tri (2014), đã phần nào hệ thống lại khái quát con đường phát triển cua ngành công nghiệp dược phẩm Việt Nam. Tác giả đã chỉ ra: Hiện nay, nhu cầu sử dụng các sản phẩm bổ sung dinh dưỡng và các thuốc thay thế (dùng để điều trị cùng 1 loại bệnh) đang tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà sản xuất đến sau và làm gia tăng mức độ cạnh tranh trong ngành. Tác giả cũng đưa ra nhận định: Hướng về tương lai, các nguyên liệu sản xuất dược phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên và chiết xuất từ thực vật đang nổi lên như một trào lưu mới nhằm tạo ra các loại thuốc mới thân thiện với sức khỏe con người và ít tác dụng phụ hơn. Tóm lại, xu hướng phát triển chung của ngành dược phẩm là không ngừng tìm kiếm các loại thuốc điều trị các căn bệnh mới và các căn bệnh ác tính hiện hữu. Hiệu quả của thuốc và mức độ thân thiện với con người ngày càng được chú trọng .
Trong nhiều năm qua, nền nông nghiệp Việt Nam nói chung vẫn giữ lối sản xuất nhỏ, chưa có bước đột phá công nghiệp hóa nông nghiệp rõ rệt. Đối với riêng hoạt động nuôi trồng dược liệu, theo nhận định của Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, việc nuôi trồng dược liệu, thu hoạch còn manh mún, tự phát theo hướng tự cung tự cấp chưa có công ty chuyên sản xuất kinh doanh dược liệu nên chưa có vùng nguyên liệu với diện tích lớn. Nghiên cứu khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn (giống cây thuốc không chuẩn, thoái hóa, năng suất dược liệu trồng trong nước còn thấp); Tình hình quản lý chất lượng dược liệu còn rất nhiều tồn tại . Việc trồng trọt dược liệu trong nước phát triển tự phát, không có quy hoạch, nhiều cơ sở trồng trọt còn sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật không đúng qui định làm ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu; Ngoài ra, quá trình bảo quản dược liệu cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dược liệu.
Vấn đề tồn tại cơ bản đối với các hộ gia đình nuôi trồng dược liệu là: thiếu vốn
đầu tư, thiếu kiến thức về khoa học kỹ thuật, và giải quyết đầu ra cho sản phẩm.
Đối với các tổ chức, trang trại, công ty nuôi trồng dược liệu thì các rào cản là: Vốn, công nghệ nuôi trồng, thị trường tiêu thụ, các chính sách hỗ trợ và khuyến khích sản xuất nuôi trồng dược liệu từ phía Nhà nước.
Từ năm 1988, Viện dược liệu đã được Ủy ban KHKT Nhà nước (nay là Bộ KH&CN) giao nhiệm vụ là đầu mối thực hiện công tác Bảo tồn nguồn gen và giống cây
12
thuốc Việt Nam. Công tác bảo tồn, khai thác, và phát triển nguồn cây thuốc đã được nhiều cơ quan trong và ngoài ngành Y tế tham gia thực hiện như: Viện Dược liệu, Trường Đại học Dược Hà Nội, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện điều tra quy hoạch rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Quân Y, Bệnh
viện Y học cổ truyền quân đội... Sau hơn 20 năm thực hiện, công tác bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn cây thuốc đã đạt được những kết quả nhất định .
Một số nghiên cứu xem xét ý nghĩa của việc phát triển cây trồng dược liệu
trong phát triển kinh tế xã hội, cụ thể:
c. Một số nghiên cứu về ý nghĩa của phát triển cây trồng dược liệu trong phát triển kinh tế - xã hội
Theo nghiên cứu của tác giả Hoàng Hiếu Trí (2014), về Chuỗi giá trị ngành dược
thì nuôi trồng dược liệu trong thuộc nhóm Nhà sản xuất và cụ thể là Cung ứng nguyên vật liệu. Nghiên cứu tác giả cũng chỉ rõ, Việt Nam vẫn chưa phát triển công nghệ hóa dược, do đó hầu hết nguyên liệu sản xuất dược phẩm tại Việt Nam đều phải nhập khẩu. Theo
các số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, Bộ Y tế và Cục quản lý dược, 90% nguyên liệu sản xuất dược phẩm tại Việt Nam đang phải nhập khẩu. Trong đó, Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có kim ngạch xuất khẩu nguyên liệu dược phẩm vào Việt Nam lớn nhất trong nhiều năm, lần lượt chiếm 51,4% và 18,3% tổng giá trị nhập khẩu năm 2013.
Theo báo cáo của Cục quản lý dược và Bộ Y tế, đến 90% nguồn nguyên liệu đông dược sử dụng tại Việt Nam được nhập khẩu từ Trung Quốc do nguồn cung tại Việt Nam không đủ đáp ứng và nhiều loại thảo dược không thể trồng tại Việt Nam do khí hậu không phù
hợp. 10% nguyên liệu còn lại chủ yếu tập trung vào các loại thảo dược khá phổ biến tại Việt Nam như Artiso, Đinh Lăng, Cam Thảo, Cao Ích Mẫu, Diệp Hạ Châu…
Theo Bộ Y tế, trong đề án Quy hoạch phát triển ngành dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, xây dựng một số dự báo chiến lược cho ngành dược nói chung và
dược liệu nói riêng như sau: Thị trường dược phẩm Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ tăng trưởng khoảng 25% mỗi năm và đạt giá trị (sản xuất trong nước và xuất khẩu) trên 2 tỷ USD vào năm 2013 theo nghiên cứu của hãng nghiên cứu thị
trường Business Monitor International Ltd (BMI) của Anh Quốc.
Trồng dược liệu là hoạt động mang lại rất nhiều lợi ích, có giá trị kinh tế cao, hoạt động hiệu quả sẽ mang lại thu nhập lớn hơn nhiều so với một số loại cây trồng khác. Thống kê của Đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, tại một số vùng nuôi
trồng sản xuất dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng, phục thì nuôi trồng cây dược liệu có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực phẩm nào (có thể thu nhận trên 100
13
triệu đồng/ha). Phát triển trồng cây thuốc đã giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Một số điển hình về trồng cây thuốc trên cả nước: Ở SaPa – Lào Cai: đã thực hiện trồng cây Artisô từ khi trồng đến khi thu hoạch đã cho doanh thu khoảng 115 triệu đồng/vụ/năm. Ở huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang, mô hình trồng cây Kim tiền thảo là hướng mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở tỉnh Bắc Giang và nó đã thực sự góp phần giảm nghèo cho người dân nơi đây. Ở vùng Bảy Núi – An Giang: Nhiều cá nhân, hộ gia đình đã tổ chức trồng dược liệu
xen kẽ dưới tán rừng. Theo tính toán thực tế 1 công đất trồng dược liệu cho thu hoạch cao gấp 2 - 3 lần trồng lúa, trong khi việc chăm sóc lại nhàn hạ hơn.
Các nghiên cứu cụ thể về mức đóng góp giá trị của lĩnh vực nuôi trồng dược liệu và ngân sách nhà nước là rất hạn chế . Tuy nhiên, giá trị kinh tế của việc nuôi
trồng dược liệu cao hơn nhiều so với các loại cây trồng khác . Từ chuỗi giá trị ngành dược, có thể thấy khi hoạt động nuôi trồng dược liệu phát triển góp phần thúc đầy ngành công nghiệp hóa dược phát triển, đây là điều kiện để phát triển thị trường hàng
hóa ngành dược, khuyến khích xuất khẩu . Từ đây, ngân sách nhà nước sẽ được bổ sung đáng kể thông qua thuế và các loại phí khác. Như vậy có thể thấy phát triển dược liệu đã góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Về khía cạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, những năm gần đây sự nhận
thức về chăm sóc sức khỏe và nhu cầu về y tế ngày càng tăng của người dân Việt Nam, doanh thu ngành thuốc không ngừng tăng. Tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình giai đoạn 2009-2013 đạt 18.8%/năm. Sự tăng trưởng này ngược chiều so với các
ngành kinh tế khác trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008-2013 vừa qua, do mặt hàng dược phẩm là mặt hàng thiết yếu và không thể thay thế . Theo Báo cáo của ngành Dược 2014, BMI đã dự báo lượng tiêu thụ thuốc sẽ tăng lên 117,802.35 tỷ VND vào năm 2017, tương ứng với tốc độ tăng trưởng trung bình là 15.5%. Hơn nữa, tỉ lệ đóng
1.1.2.2. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
Thứ nhất, các nghiên cứu về nội dung vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
góp của ngành cho GDP của cả nước cũng tăng qua các năm và được dự đoán tiếp tục giữ xu hướng này trong vòng 5 năm tới .
Vai trò quản lý của nhà nước đã được nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau. Cụ thể, vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam của tác giả
Phan Thị Kim Oanh ( 2014), trong nghiên cứu tác giả đã chỉ rõ bốn nhóm nhân tố ảnh
14
hưởng đến vai trò của nhà nước với anh sinh xã hội đối với nông dân là nhóm nhân tố về quan điểm của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân, khả năng tài chính của nhà nước và thu nhập của nông dân, năng lực hệ thống quản lý an sinh xã hội đối với nông dân và nhận thức xã hội về an sinh xã hội đối với nông dân. Vai trò nhà nướ đối về ASXH
đối với nông dân được tác giả phân tích trên các khía cạnh như i) vai trò nhà nước trong xây dựng hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, ii) tổ chức phối hợp chính sách và tổ chức quản lý, iii) kiểm tra giám sát nhằm thiết lập hệ thống và tạo các điều kiện đảm bảo
cho hệ thống ASXH vận hành. Đồng thời trong nghiên cứu này tác giả cũng đã khẳng định mức độ bao phủ và mức độ tác động của an sinh là kết quả việc thực hiện vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân. Nguồn số liệu phân tích trong nghiên cứu được tác giả thu thập thông qua khảo sát 258 hộ nông dân và 197 cán bộ quản lý nhà nước
các cấp tại ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, từ số liệu thu thập và phân tích tác giả đã chỉ rõ thực trạng và chỉ ra kết quả đạt được, những hạn chế chủ yếu, nguyên nhân của những hạn chế và những khuyến nghị, phương hướng, giải pháp tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước với an sinh xã hội đối với nông dân Việt Nam trong những năm tới.
Sally P. Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng (2007) trong nghiên cứu: “Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam: Tóm tắt chính sách”, đã tóm tắt những kết quả nghiên cứu chính của Dự án ACIAR ADP 1/1997/092 “Ảnh
hưởng của một số phương án chính sách chủ yếu đến lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam”. Mục tiêu chính của Dự án – nguồn cung cấp thông tin cho những tóm tắt chính sách này là đánh giá ảnh hưởng của các chính sách của Chính phủ Việt Nam đến nông
nghiệp và xây dựng các mô hình kinh tế thích hợp cho việc phân tích chính sách. Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội và Nhóm Kinh tế Nông nghiệp và Tài nguyên, Đại học Sydney là những cơ quan thực hiện các hoạt động nghiên cứu của Dự án. Những kết quả nghiên cứu của Dự án đã được xuất
bản bằng hai thứ tiếng Anh và Việt trong sách của ACIAR với tiêu đề “Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai ở Việt Nam” . Trước kia, thuế sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam dựa trên Sắc lệnh 031/SL (1951) và được coi là Thuế hoa lợi đất. Từ khi ban
hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp (1983) và Thuế Sử dụng đất nông nghiệp (1993), thuế này đã được thay đổi và chuyển sang cả hai loại thuế là thuế đất và hoa lợi đất (nghĩa là gồm cả thuế sở hữu tài sản và thu nhập từ đất). Theo luật hiện hành, thuế được thu theo thuế suất cố định tính theo hạng đất nhưng nông dân trả thuế bằng thóc
tính thành tiền theo giá thóc hàng năm. Tổng lượng thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay chiếm tỷ lệ nhỏ trong GDP và trong tổng thu ngân sách quốc gia. Mức chi phí để thu thuế chiếm phần lớn trong tổng số thuế thu được. Vào cuối năm 2003, Trung Quốc
15
cải cách thuế nông nghiệp nhằm giảm nhẹ khó khăn cho nông dân, và cùng với việc Việt Nam tham gia WTO, thuế nông nghiệp nói chung sẽ phải giảm trong trung hạn. Đây là xu hướng hội nhập quốc tế và thương mai hoá toàn cầu của WTO. Thực hiện Nghị quyết 15/2003/QH11 của Quốc hội và Nghi định 129/2003/NĐ-CP của Chính
phủ, phần lớn các hộ nông dân và tổ chức nông nghiệp được miễn thuế nông nghiệp hoặc lượng thuế mà họ phải trả sẽ giảm .
Một hướng nghiên cứu khác của Nguyễn Mạnh Tuân (2004) với đề tài “Chính
sách đất đai nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Thực trạng và những vấn đề đặt ra”, được tác giả thực hiện 2003 -2004. Bằng các phương pháp điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp đề tài đã cho thấy: - Khẳng định vai trò quản lý Nhà nước đối với đất đai nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng ở nước ta hiện nay. - Khái
quát đầy đủ, hệ thống chính sách đất đai trong công tác quản lý của Nhà nước trước đây và đặc biệt từ năm 1986 đến nay. - Đưa ra những nội dung cơ bản về chính sách đất đai trong nông nghiệp và những vấn đề đang đặt ra.
Trong nghiên cứu: “Những đột phá cần có về tín dụng cho nông nghiệp”của tác giả Nguyễn Minh Phong (2013) tác giả đã chỉ rõ đẩy mạnh cho vay tín dụng nông nghiệp đáp ứng yêu cầu thị trường và hội nhập quốc quốc tế ngày càng trở thành xu hướng và nhiệm vụ chung cho toàn ngành, cũng như cho mỗi ngân hàng thương mại
(NHTM). Tuy nhiên, quá trình này, bên cạnh những kỳ vọng lớn lao, cũng có không ít trở ngại không dễ vượt qua. Để phát triển mạnh và bền vững thị trường tín dụng nông nghiệp rất cần động lực mới, có tính đột phá được cộng hưởng bởi sự nhận thức thấu
đáo và các giải pháp thích ứng từ nhiều phía .
Việt Nam về cơ bản hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp, dù nhiều năm qua đã có nhiều thành tựu to lớn về sản xuất nông nghiệp. Do đó, về mặt chủ trương, các chính sách về thuế, các loại phí ưu đãi nông nghiệp nói chung và các ngành thuộc
nông nghiệp riêng luôn được khuyến khích, tạo điều kiện áp dụng và thực thi. Điển hình là thuế nông nghiệp và thủy lợi phí . Nuôi trồng dược liệu là một lĩnh vực trong sản xuất nông nghiệp, do vậy cũng chịu sự tác động và nằm trong phạm vi áp dụng của
các chính sách về thuế, thủy lợi phí nông nghiệp.
Về thuế nông nghiệp, đã có một vài công trình nghiên cứu, trong đó phải kể đến Luận án tiến sĩ kinh tế: “Chính sách thuế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Lan (2007).
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Quá trình cải cách thuế đã tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với nông nghiệp. Tuy nhiên, chính sách thuế cũng bộc lộ một số hạn chế trong thời gian vừa qua, đó là chưa đảm bảo tận dụng hết các nguồn thu; Chưa đảm bảo tính công
16
bằng trong chính sách thuế; Làm tăng gánh nặng thuế cho người nông dân; Làm tăng giá thành và giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam; Chưa đảm bảo tính đơn giản rõ ràng và ổn định; Gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các đơn vị kinh doanh nông sản và ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân. Tác giả cũng đề xuất một số
giải pháp để hoàn thiện chính sách thuế đó là: Điều chỉnh thuế sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; Điều chỉnh căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp dựa trên lý thuyết về địa tô; Đưa các
loại hàng hóa, dịch vụ đầu vào của sản xuất nông nghiệp vào diện không chịu thuế Giá trị gia tăng; Loại bỏ dần cách tính thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp…
Nghiên cứu về thủy lợi phí, Nguyễn Văn Song (2007) với công trình nghiên cứu: “Những mặt tích cực và hạn chế của quá trình thực thi miễn thủy lợi phí đến chi phí sản
xuất của hộ nông dân ở đồng bằng sông Hồng”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính sách miễn thủy lợi phí làm giảm khoảng 3% tổng chi phí sản xuất, đồng thời tăng thu nhập cho các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp (dao động từ 17.000 – 20.000 đ/sào). Tuy nhiên
chính sách này cũng đã bộc lộ một số hạn chế trong quá trình thực thi như giảm ý thức của người dân trong việc sử dụng tiết kiệm nước, giảm ý thức bảo vệ công trình thủy lợi và ý thức trong thanh toán nợ đọng thủy lợi phí; mất công bằng giữa các hộ có nhiều diện tích canh tác ở đầu hệ thống và cuối hệ thống, giảm diện tích một số cây trồng vụ đông
(28% tổng số hộ điều tra bỏ cây trồng vụ đông) do tính phức tạp về lịch tưới của cây vụ đông, kết quả này chỉ ra rằng chính sách Thủy lợi phí cần rõ ràng hơn cho các mùa vụ, cây trồng và đối tượng được hưởng lợi. Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác của Nguyễn
Văn Song (2010) đã tập trung vào việc nghiên cứu: Cơ sở kinh tế của chính sách miễn thuế nông nghiệp, miễn thủy lợi phí, thực tiễn và mối quan hệ với vấn đề tam nông”. Vấn đề tam nông đang được Đảng, Nhà nước và ngành nông nghiệp triển khai thực hiện nhằm tăng cường đầu tư cho lính vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, chính sách miễn
thuế nông nghiệp, chính sách miễn thủy lợi phí là những chính sách hướng tới vấn đề này. Bài viết phân tích cơ sở kinh tế của chính sách miễn thuế nông nghiệp, chính sách miễn thủy lợi phí đồng thời phân tích các thuận lợi, khó khăn của quá trình thực thi hai chính
sách này liên quan tới chủ trương về vấn đề tam nông.
Đề cập đến vai trò của chính phủ trong công nghệ sinh học- một phần trong quá trình chế biến dược phẩm, trong nghiên cứu của mình Susanne (2000) đã so sánh về vai trò của chính phủ giữa hai quốc gia Mỹ và Đức. Kết quả so sánh cho thấy, ở Đức,
vai trò Chính phủ Đức tập trung vào việc phát triển công nghệ sinh học- một nhánh quan trọng và là công việc đầu tiên của quy trình sản xuất dược liệu. Chính phủ Đức đã bắt đầu thực hiện các chính sách cho hoạt động này vào cuối năm 1960, khi trong
17
báo cáo của OECD đã xác định rằng, công nghệ sinh học được dự đoán sẽ đóng vai trò quan trọng quá trình phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của ngành dược liệu nói riêng. Bởi vậy, công nghệ sinh học đã được sự hỗ trơ của chính phủ sử dụng vốn đầu tư công để phát triển ngành này. Chính phủ Đức đã thành công trong việc thúc đẩy
sự phát triển của ngành công nghệ sinh học, Đức đã trở thành quốc gia có sự phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh . Và Chính phủ liên bang đã thực hiện các quyết định để đạt được các kết quả để có thể tiếp tục mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia này. Ở Mỹ,
vai trò chính phủ hướng vào vấn đề chăm sóc sức khỏe nhiều hơn khi họ quan tâm đến trực tiếp kết quả khám chữa bệnh, kết quả xét nghiệm. Đồng thời ở Mỹ, dược liệu được xem xét như một ngành công nghiệp, trong đó công nghệ sinh học là một ngành mà cũng buộc phải cạnh tranh như những ngành khác trên thị trường, cũng phải đối
mặt với những khó khăn về tài chính, sự thâm nhập thị trường, khó khăn nhất mà các đơn vị phải đối mặt vào khoảng những năm 1993 và 1994. Khi có nhiều công ty mới về ngành dược ra nhập thị trường và khu vực chăm sóc sức khỏe đối mặt với những
thất bại trong quá trình điều trị, kết quả xét nghiệm có sự sai lệch, khi đó, chính phủ Mỹ dần quan tâm đến ngành dược liệu đặc biệt trong quá trình nghiên cứu dược phẩm. Kết quả cho thấy, ngành dược liệu ở quốc gia này đã ổn định trở lại sau những thời điểm khó khăn chung của cả ngành. Đồng thời, trong nghiên cứu tác giả đã chỉ ra sự
khác biệt trong chính sách của hai quốc gia này. Đồng thời, tác giả cũng phân tích các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội- những yếu tố quyết định đến việc lựa chọn con đường khác nhau trong các chính sách liên quan đến ngành này.
Maria das Graças Lins Brandão và cộng sự (2013) có bài viết “Changes in the trade in native medicinal plants in Brazilian public markets” đăng tải trên Environ Monit Assess năm 2013 đã trình bày những nghiên cứu và chỉ ra những thay đổi của việc buôn bán các loại cây thuốc bản địa ở Braxin. Nhóm nghiên cứu đã khảo sát 15
vùng thị trường khác nhau của Brazil, tìm kiếm 40 đơn vị hoạt động trong lĩnh vực y học cổ truyền có sản phẩm được mua bán trên thị trường. Kết quả cho thấy có nhiều cây thuốc, dược liệu quý nguồn gốc bản địa đang có xu hướng giảm dần, cần có chiến
lược bảo tồn và đa dạng sinh học .
Nghiên cứu về chính sách phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam có một số công trình đáng chú ý. Trần Văn Trung (2015) với luận án tiến sĩ “Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc Việt Nam”, tác giả đã đưa ra những phân tích
đánh giá thực trạng các chính sách liên quan đến nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc, chỉ ra những ưu, nhược điểm tồn tại trong tổ chức triển khai chính sách. Đồng thời, luận án cũng cung cấp các định hướng và giải pháp xây dựng nhằm hoàn thiện chính sách
18
phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc, góp phần giúp cho các cơ quan hoạch định, xây dựng và tổ chức triển khai chính sách có hiệu quả.
Về phát triển cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nói chung, tác giả Nguyễn Ninh Tuấn (2006) với công trình “Định hướng đổi mới đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục
vụ sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá”, trên cơ sở phân tích và đánh giá về thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước do Bộ Nông nghiệp và PTNT trực tiếp
quản lý từ năm 1996 đến nay đã đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp thực hiện đổi mới trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm phát huy được hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn, góp phần vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Tác giả cũng đề xuất các giải pháp đổi mới công tác đầu tư phát triển phục vụ
sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, kinh tế nông thôn đến năm 2020: đổi mới phương thức phân bổ vôn đầu tư, đổi mới phương thức huy động vốn đối ứng, đổi mới quản lý nhà nước các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…
Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc về phát triển dược liệu Việt Nam ngày 12/4/2017, Bộ Y Tế đã tổng kết thực trạng công tác phát triển dược liệu của nước ta từ những năm 2005, những vấn đề thuộc bảo tồn và khai thác nguồn gen, nuôi trồng và khai thác cây thuốc đã được trình bày chi tiết trong báo cáo. Cụ thể, kết quả của báo
cáo cho thấy: Theo kết quả điều tra giai đoạn 2013 - 2015, hiện có khoảng 70 loài/nhóm loài cây dược liệu có tiềm năng khai thác, với trữ lượng ước tính là 18.372 tấn/năm. Trong đó, 45/70 loài/nhóm loài có tiềm năng khai thác lớn, như: Diếp cá
(5000 tấn), Cẩu tích (1500 tấn), Lạc tiên (1500 tấn), Rau đắng đất (1500 tấn), Ngũ gia bì chân chim (1000 tấn), Thiên niên kiện, Bọ mắm khô (1000 tấn), Bình vôi (800 tấn), Râu hùm (500 tấn), Cỏ xước (500 tấn), Kê huyết đằng (500 tấn), Thiên niên kiện (500 tấn), Ngải cứu dại (300 tấn), Câu đằng (300 tấn), Bách bộ (200 tấn), Hà thủ ô trắng
(200 tấn), Hy thiêm (200 tấn), Sa nhân (200 tấn), Tắc kè đá (200 tấn) … Thêm vào đó diện tích trồng và sản lượng trồng dược liệu của một số dược liệu đã tăng lên khá nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu dược liệu như: Nghệ (5.000 tấn), Táo mèo (gần 5.000
tấn), Thảo quả (hơn 2.000 tấn), Actiso (2.400 tấn), Chùm ngây (1.200 tấn), Ba kích (840 tấn), Diệp hạ châu (800 tấn), Thanh hao hoa vàng (500 tấn), Bạch chỉ (450 tấn), Kim tiền thảo (330 tấn), Địa liền (200 tấn), Đinh lăng (100 tấn), Đương qui (100 tấn), Sa nhân (gần 100 tấn), Ý dĩ (100 tấn)...
Nghiên cứu cũng đã chỉ ra những vùng lợi thế để phát triển dược liệu của nước ta: Vùng Đông Bắc (Một số tỉnh như Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Giang, Hà
19
Giang…), vùng Tây Bắc (Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên…), Vùng Đồng Bằng Sông Hồng ( Hưng Yên, Thái Bình, Vĩnh Phúc…),…
Từ những năm 1990, nhiệm vụ bảo tồn và sử dụng tài nguyên dược liệu ở Việt Nam đã được tiến hành lồng ghép trong các chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu
trong nông nghiệp, y tế, công nghiệp thực phẩm. Ngày 24/12/2010, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định việc quản lý nhiệm vụ khoa học công nghệ về quỹ gen tại Thông tư 18/2010/TT-BKHCN, nội dung Nhiệm vụ KH&CN về Quỹ gen sẽ được
thực hiện với 2 cấp quản lý: cấp Nhà nước và cấp Bộ, Tỉnh, bao gồm 3 loại hình: i) Bảo tồn nguồn gen; ii) Khai thác và phát triển nguồn gen; iii) Đánh giá di truyền nguồn gen. Đến hết năm 2015, nhiệm vụ Quỹ gen được phát triển thành Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm
2030 tại Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ. Tại văn bản này quy định nội dung nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen gồm: (1) Thu thập
lưu giữ an toàn nguồn gen; (2) Đánh giá, tư liệu hóa nguồn gen có giá trị khoa học và giá trị ứng dụng; (3) Đánh giá di truyền nguồn gen; (4) Khai thác và sử dụng bền vững nguồn gen có giá trị ứng dụng.
Ngoài ra, các Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước
nghiên cứu về dược liệu, như: “Nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học” mã số KC.04/11-15, có nội dung: Nghiên cứu và phát triển công nghệ tế bào nhân sinh khối cây dược liệu quý phục vụ công nghiệp dược. KC.04/11-15 phê duyệt triển khai 03 nhiệm vụ KH&CN cho dược liệu; “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ phục vụ sản xuất các sản phẩm chủ lực”, mã số KC.06/11- 15. Trong đó có nội dung:Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến trong sản xuất cây dược liệu và sản phẩm có nguồn gốc từ cây dược liệu chủ lực của Việt Nam. KC.06/11-15 phê duyệt triển khai 04 nhiệm vụ KH&CN cho dược liệu; “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sau thu hoạch”, mã số KC.07/11- 15. Trong đó có nội dung:Ứng dụng và phát triển thành công một số công nghệ bảo quản tiên tiến và
giải pháp phù hợp nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch một số sản phẩm nông-lâm-thủy sản và dược liệu chính của Việt Nam. KC.07/11-15 phê duyệt triển khai 11 nhiệm vụ KH&CN cho dược liệu; “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng”, mã số KC.10/11- 15. Trong đó có nội dung: Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để sản xuất thuốc từ dược liệu đạt tiêu chuẩn các nước tiên tiến. KC.10/11-15 phê duyệt triển khai 12 nhiệm vụ KH&CN cho dược liệu
20
Chương trình Hóa dược của Bộ Công thương có nội dung: Khai thác, sử dụng hợp lý nguồn nguyên liệu tự nhiên trong nước, kết hợp nghiên cứu tổng hợp và bán tổng hợp các hoạt chất từ dược liệu tạo ra các sản phẩm đặc thù Việt Nam.
Mặt khác, Bộ Y tế tích cực triển khai các đề tài KH&CN bằng nguồn sự nghiệp
khoa học công nghệ hàng năm cùng với các nguồn vốn xã hội hóa do các doanh nghiệp thực hiện trên tất cả các lĩnh vực nghiên cứu: Điều tra tài nguyên cây thuốc ; Điều tra tri thức bản địa; Bảo tồn, lưu giữ nguồn gen; Khai thác và phát triển nguồn
gen; Nghiên cứu di thực; Nghiên cứu vùng trồng, tạo nguồn nguyên liệu;Nghiên cứu sàng lọc, đánh giá tác dụng của vị thuốc, bài thuốc, nhóm hoạt chất chiết từ dược liệu; Nghiên cứu sản xuất chế phẩm thuốc từ dược liệu; Nghiên cứu xây dựng quy trình, tiêu chuẩn;.....
Thứ hai, các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
Theo Đề án Quy hoạch phát triển dược liệu từ nay đến năm 2020 tầm nhìn 2030
thì quan điểm của Đảng và Nhà nước là: Bảo tồn các nguồn gen dược liệu duy trì đa dạng sinh học và nhập nội các dược liệu cần cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe trong nước. Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, kiến thức bản địa để quy hoạch các vùng sản xuất dược liệu hàng hóa có quy mô lớn, công nghệ chế biến hiện đại .Phát
triển toàn diện: trồng trọt, chế biến và từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sản xuất dược liệu, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về GACP-WHO. Đa dạng sản phẩm từ dược liệu, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường, sản phẩm có thương
hiệu, đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu, thay thế dần các nguyên liệu dược liệu, thuốc và thực phẩm chức năng nhập khẩu bằng sản phẩm sản xuất trong nước. Đề xuất các chính sách, biện pháp hỗ trợ phát triển bền vững ngành dược liệu và biện pháp quản lý nhà nước hiệu quả cho ngành dược (nhằm ngăn chặn hàng giả, hàng
kém chất lượng nhập khẩu vào Việt Nam, gây phá giá, kiềm chế sản xuất dược liệu trong nước) . Phát triển dược liệu phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và của vùng, trong đó gắn với công nghiệp chế biến, dịch vụ, du lịch và bảo vệ
môi trường .
Tạo sự liên kết 4 nhà: Người nông dân thu hái, nuôi trồng dược liệu – Doanh nghiệp - Nhà khoa học và Cơ quan Quản lý Nhà nước. Đó là điều kiện quyết định để tạo lập được một thị trường lành mạnh, thuận lợi cho việc phát huy tiềm năng sản xuất dược
liệu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu của ngành dược liệu, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư để phát triển dược liệu.
21
Theo Đề án Phát triển Dược liệu đến năm 2020 tầm nhìn 2030, căn cứ, chức năng nhiệm vụ được giao hiện nay, Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong đó có lĩnh vực dược. Theo quy định của Luật dược thì dược là thuốc và hoạt động liên quan đến
thuốc; Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức
năng. Như vậy, dược liệu dùng làm thuốc thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế. Tuy nhiên trong thực tế việc quản lý nhà nước về “Dược liệu” không đơn thuần thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế mà còn liên quan đến nhiều Bộ, ngành khác, cụ thể như: Tổng Cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, có chức năng quản lý nhà
nước về lâm nghiệp trong phạm vi cả nước (Quyết định số 04/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Tổng Cục Lâm nghiệp) trong đó có nhiệm vụ quản lý rừng, trong các vùng
rừng có các cây, con dùng làm thuốc sống và mọc tự nhiên trong cả nước. Khi cây và con đang sinh trưởng và phát triển trong tự nhiên, được thu hái (thu hoạch), sơ chế và chế biến, bảo quản để làm nguyên liệu phục vụ cho các ngành nghề khác nhau thì vẫn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, khi nguyên
liệu này được lưu thông trên thị trường (không sử dụng để làm thuốc) thì thuộc thẩm quyển quản lý của Bộ Công Thương, chỉ khi nguyên liệu đó được sử dụng vào mục đích chữa bệnh, sản xuất thuốc chữa bệnh dùng cho người theo quy định của Luật
1.1.2.3. Khoảng trống nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án
dược được gọi chung là “Dược liệu” thì thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế.
Mặc dù đã có nhiêu nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau về quản lý
nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu, nhưng đến nay, về thực tiễn, công tác quản lý nhà nước về dược liệu cũng như phát triển cây trồng dược liệu vẫn đang có sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn và Bộ Công Thương, điều này đã gây rất nhiều khó khăn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về dược liệu nói chung và hiện chưa có Bộ ngành nào nhận trách nhiệm làm đầu mối để quản lý dược liệu thống nhất trong cả nước. Hệ thống văn bản pháp qui đã ban hành nhưng chưa cụ thể hóa bằng hành động do thiếu các văn bản dưới luật để cụ thể hóa và phối hợp thực hiện trong thực tế. Đồng thời, thiếu các văn bản pháp qui hỗ trợ về tài chính, thuế, hỗ trợ sản phẩm mới từ thiên nhiên . Do vậy, cần thiết và đòi hỏi phải có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ, thống nhất giữa Bộ Y tế,
22
Bộ Nông nghiệp phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính (Tổng Cục Hải quan), Bộ Công Thương (Cục Quản lý thị trường), Bộ Quốc phòng (Bộ đội Biên phòng).
Nhìn chung, những nghiên cứu đã được thực hiện trên hoặc là mới dừng lại ở việc phân tích phát triển ngành công nghiệp dược liệu, hoặc để quy hoạch phát triển
ngành dược liệu nói chung mà chưa đi sâu phân tích nhà nước có vai trò như thế nào trong phát triển ngành dược liệu, quản lý nhà nước có tác động ra sao tới sự phát triển cây trồng dược liệu trồng dược liệu?.
Vấn đề đặt ra là những nội dung nào thể hiện vai trò của nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu? Thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ở nước ta những năm qua đạt được những gì? Còn tồn tại và hạn chế gì? Nguyên nhân nào dẫn đến tồn tại và hạn chế đó? Làm thế nào để hoàn thiện vai trò nhà nước
trong phát triển cây trồng dược liệu ở nước ta nhữung năm tới?
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là trên cơ sở thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu hiện nay, đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện vai
trò nhà nước đối với phát triển trồng cây dược liệu ở nước ta những năm tới
Nhiệm vụ của luận án:
(i) Làm rõ cở sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong phát triển cây
trồng dược liệu
(ii) Phân tích thực trạng vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế
(iii) Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò nhà nước
đối với phát triển cây trồng dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam những năm tới
1.2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vai trò nhà nước với phát triển cây trồng dược liệu. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vai trò nhà nước. Dưới góc độ kinh tế chính trị học luận án tiếp cận vai trò nhà nước trong việc xây dựng hệ thống luật pháp và cơ chế
chính sách; xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoach và kiểm tra giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu.
23
Thêm nữa, nhà nước bao gồm nhà nước trung ương và nhà nước địa phương (tỉnh, thành phố, quận huyện thị xã và xã phường). Trong luận án này, tác giả chủ yếu tiếp cận vai trò nhà nước cấp địa phương. Tuy nhiên việc thực hiện vai trò nhà nước cấp địa phương không thể tách rời sự tham gia quản lý của các bộ ngành trung ương,
vì thế trong luận án đã chú ý đến vai trò các bộ ngành trong phối hợp với các địa phương để phát triển cây trồng dược liệu.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu. Tuy nhiên phát triển cây trồng dược liệu bao gồm nhiều nội dung, trong luận án này chỉ nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với trồng dược liệu mà không nghiên cứu việc thu hái và chế biến dược liệu.
Về không gian: Nghiên cứu tại một số tỉnh miền Bắc Việt Nam, cụ thể, tác giả thực hiện điều tra, khảo sát tại ba tỉnh Miền Bắc Việt Nam là tỉnh Bắc Giang, tỉnh Hưng Yên, và tỉnh Hà Giang đại diện cho vùng dược liệu Đồng Bằng Sông Hồng, cho
vùng núi cao có khí hậu khá nhiệt đới và vùng Trung du miền núi Bắc Bộ
Đây cũng là các địa phương đại diện cho các vùng dược liệu được quy hoạch
theo đề án quốc gia về quy hoạch dược liệu
Về thời gian: Thông tin tài liệu thu thập phân tích thực trạng những năm 2011-
2015 khuyến nghị đến năm 2025
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
1.2.3.1. Xây dựng khung phân tích của luận án
Trong nghiên cứu này, tác giả hướng tới việc giải quyết vấn đề nghiên cứu vai
trò nhà nước với sự phát triển cây trồng dược liệu theo quy trinh sau đây.
+ Về nội dung vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu, luận án tập trung vào việc xệ thống luật pháp và cơ chế chính sách của nhà nước về phát triển cây trồng dược liệu; Nhà nước tổ chức quản lý thực hiện chính sách: quy hoạch, kế
hoạch, triển khai, chỉ đạo thực hiện; Kiểm tra, giám sát việc thực hiện phát triển cây trồng dược liệu
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển trồng cây dược liệu bao gồm : Chủ trương và quan điểm phát triển cây trồng dược liệu; Bộ máy quản
lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà nước các cấp; Năng lực, trình độ cán bộ quản lý địa phương; Sự phối hợp các cơ quan, tổ chức (bốn nhà) trong phát triển trồng cây dược liệu.
24
+ Nhà nước tác động đến các điều kiện phát triển cây trồng dược liệu như khai thác điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương; Phát triển cơ sở hạ tầng trồng cây dược liệu, khuyến khíc sự phát triển của ngành công nghiệp dược liệu tạo nhu cầu phát triển cây trồng dược liệu; Năng lực của đối tượng tiếp nhận (Người nuôi trồng
dược liệu: Tổ chức, cá nhân);;;
+) Phát triển cây trồng dược liệu: Tác giả sử dụng lý thuyết phát triển để nghiên cứu sự phát triển cây trồng dược liệu là: Quy mô phát triển (Diện tích trồng các loại
dược liệu, sản lượng các loại dược liệu); cơ cấu các loại dược liệu chủ yếu; Hiệu quả phát triển (doanh thu, chi phí; lợi nhuận từ việc trồng các loại dược liệu để đo lường sự phát triển của nguồn dược liệu).
Cụ thể khung phân tích như sau:
Khung phân tích vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu
Tác động đến điều kiện phát triển
Nhân tố ảnh hưởng vai trò nhà nước
- Khai thác điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương;
- Xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển cây trồng dược liệu
- Nhu cầu phát triển ngành công nghiệp dược liệu - Nâng cao năng lực của tổ chức, cá nhân trồng cây dược liệu
- Chủ trương và quan điểm phát triển cây trồng dược liệu - Bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà nước các cấp - Phối hợp trong thực hiện - Năng lực và ý thức của người trồng dược liệu
Nội dung vai trò Nhà nước về phát triển cây trồng dược liệu 1) Hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách của nhà nước về phát triển cây trồng dược liệu; 2) Công tác tổ chức quản lý thực hiện chính sách: quy hoạch, kế hoạch, triển khai, chỉ đạo thực hiện 3) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện phát triển cây trồng dược liệu
Phát triển cây trồng dược liệu 1. Quy mô phát triển 2. Cơ cấu phát triển 2. Hiệu quả phát triển .
Giải pháp nâng cao vai trò nhà nước
Khung phân tích của luận án
1.2.3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
25
Thứ nhất, thu thập dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các công trình khoa học đã được công bố từ
các nhà xuất bản, các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước có liên quan đến lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu.
Đồng thời tác giả cũng tiến hành thu thập các báo cáo tình hình phát triển cây
trồng dược liệu, vai trò của nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu từ dữ liệu của các bộ, ngành, các địa phương có liên quan.
Ngoài ra còn sử dụng dữa liệu từ một số trang mang để tăng độ cập nhật của
nguồn tài liệu
Trên cơ sở các dữ liệu thứ cấp, luận án xây dựng lên cơ sở dữ liệu về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở các địa bàn nghiên cứu của luận án
Bộ dữ liệu này phản ánh
i) Số lượng các đơn vị (Hộ gia đình, doanh nghiệp) có trồng dược liệu tại các địa phương
ii) Quy mô sản xuất, diện tích, sản lượng, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thu
nhập của các đơn vị
iii) Quy mô lao động và thu nhập của người lao động
Thứ hai, thu thập dữ liệu sơ cấp
Để thu thập dữ liệu sơ cấp tác giả sẽ tiến hành điều tra khảo sát và phỏng vấn các đơn vị (Hộ, Doanh nghiệp) nuôi trồng dược liệu và cán bộ quản lý nhà nưóc các
cấp về quản lý phát triển nuôi trồng dược liệu
i)Xây dựng bảng hỏi
Luận án thiết kế hai loại bảng hỏi: bảng hỏi đối với đơn vị trồng dược liệu và
bảng hỏi đối với cán bộ quản lý và các nhà nghiên cứu.
- Bảng hỏi đối với đơn vị trồng dược liệu
Bảng hỏi đối với đơn vị trồng cây dược kiệu được thiết kế nhằm ba mục tiêu: i)Thu thập được những dữ liệu cơ bản về người trồng cây duwọc liệu như tuổi tác, nam nữ, độ tuổi, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật; ii) Tình hình sản xuất kinh doanh trồng cây dược liệu như diện tích, sản lượng, doanh thu, chi phí, lợi nhuận,
thuế, thu nhập và đời sống của người lao động trồng cây dược liệu; iii) Những ý kiến cảm nhận của người trồng cây dược liệu về thuận lợi, khó khăn,hạn chế; nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong phát triển cây dược liệu; những mong muốn và
26
nguyên vọng của người trồng cây dược liệu về cơ chế, chính sách của nhà nước về phát triển cây dược liệu.
- Bảng hỏi đối với bộ phiếu dành cho cán bộ quản lý nhà nước:
Đề tài hướng đến nhóm đối tượng đang đảm nhiệm các chức vụ quản lý tại các
cơ quan quản lý nhà nước các cấp từ tỉnh đến huyện, xã và các cán bộ nghiên cứu phát triển nông nghiệp nông thôn.
Các thông tin thu thập trong bảng hỏi này nhằm thu thập được đánh giá cảm
nhận của các đối tượng có liên quan về sự phát triển về quy mô, cơ cấu và hiệu quả của phát triẻn cây dược liệu tại các địa phương, cũng như môi trường luật pháp, cơ chế chính sách của nhà nước, về tổ chức quản lý, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý các cấp và khả năng của các đơn vị trồng dược liệu trong việc phát triển cây trồng dược liệu.
ii) Thang đo. Để thực hiện đánh giá mức độ cảm nhận, trong các bảng hỏi, luận án sử dụng thang đo Likert 5 điểm. Việc nhận xét khi sử dụng giá trị trung bình (Mean) đánh giá đối với từng yếu tố tác giả quy ước:
Bảng 1.1: Thang đánh giá Likert
Mức 5 Khoảng điểm 4.2 - 5.00 Ý nghĩa Tốt
4 3.40 - 4.19 Khá
3 2.60 - 3.39 Trung bình
2 1.80 - 2.59 Yếu
1 1.00 - 1.79 Kém
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Thang đo likert 5 điêm được luận án sử dụng để đánh giá mức độ cảm nhận của người được hỏi về vấn đề nghiên cứu bởi lẽ, thang đo này cho thấy 5 mức độ đánh giá là tốt, khá, trung bình, yếu và kém là các đánh giá khá thông dụng trong điều tra xã hội
học sử dụng. Nếu sử dụng thang đo 3 mức độ thì khoảng cách quá rộng sẽ không phản ánh được thực tế giữa tổ và trung bình, hoặc giữa trung bình và kém vấn còn một khoảng chen giữa; còn nếu sử dụng thang đo 7 điểm quá chi tiết, rất khó để tổng hợp
và phân tích sự khác biệt giữa các mức độ đánh giá về vấn đề của người được hỏi khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu.
iii)Kỹ thuật thiết kế bảng hỏi
- Căn cứ vào lý thuyết Điều tra xã hội học của Trần Thị Kim Thu (2012) khi
thiết kế bảng hỏi này tác giả xây dựng trình tự câu hỏi đi theo từng nhóm câu hỏi:
27
Nhóm thứ nhất: câu hỏi lọc nhằm giúp tác giả xác định được nhóm đối tượng điều tra theo tuổi, giới tính, ngành nghề, trình độ, nơi làm việc,… của người trả lời điều tra, phỏng vấn.
Nhóm thứ hai: câu hỏi sự kiện, nhóm câu hỏi này nhằm giúp tác giả thu nhận những thông tin cụ thể, nội dung cụ thể về tình hình sản xuất kinh doanh, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, tình hình sản xuất và đời sống của người trồng cây dược liệu những năm 2011-2016,….
Nhóm câu hỏi thứ ba: câu hỏi đóng, các câu hỏi này giúp cho tác giả có được các nhận định cụ thể nhóm đối tượng được điều tra về tình hình phát triển trồng cây dược liệu về quy mô, cơ cấu, hiệu quả, tác động của môi trường luật pháp, cơ chế chính sách tổ chức quản lý,… .
Nhóm câu hỏi thứ tư: câu hỏi mở, các câu hỏi này đễ xem xét thái độ, phản ứng của đối tượng được trả lời về nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn về phát triển cây trồng dược liệu
- iv) Về cấu trúc bảng hỏi:
Đối với phiếu điều tra đơn vị trồng cây dược liệu (Mẫu M1), bảng hỏi được
chia thành 3 phần chính:
- Các thông tin chung về đơn vị trồng cây dược liệu. Ở phần này, các câu hỏi tập trung thu thập những thông tin cơ bản như tên, tuổi, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật của chủ đơn vị trồng cây dược liệu,..
- Các thông tin liên quan đến tình hình sản xuất kinh doanh, doanh thu, chi phí,
lợi nhuận và đời sống của người trồng cây dược liệu;
- Nhóm câu hỏi thứ ba, trả lời phỏng vấn bảng hỏi được thiết kế để thu thập những thông tin về nhận định của người trồng cây dược liệu đánh giá về sự phát triển, những thuận lợi khó khăn mà họ đang phải đối mặt trong quá trình phát triển cây trồng dược liệu; cảm nhận của họ về luật pháp, chính sách, tổ chức quản lý, cũng như những
mong muốn của họ về phát triển cây trồng dược liệu trong giai đoạn sắp tới.
Đối với phiếu điều tra cán bộ quản lý (mẫu M2), thì bảng hỏi được thiết kế với
hai hợp phần chính:
- Thu thập những thông tin cơ bản của đối tượng cán bộ quản lý trả lời phỏng vấn
như: họ tên, giới tính, đơn vị công tác, trình độ...
- Những thông tin liên quan đến đánh giá của cán bộ quản lý đối với tình trạng
phát triển cây trồng dược liệu, sự biến đổi quy mô, cơ cấu và hiệu quả của cây trồng
28
dược liệu; về môi trường luật pháp, cơ chế chính sách, tổ chức quản lý, trình độ của đơn vị trồng cây dược liệu, cũng như quan điểm của họ đối với việc hoàn thiện môi trường chính sách, tổ chức quản lý,… đối với phát triển cây trồng dược liệu những năm tới
Tác giả sẽ tiến hành điều tra khảo sát phỏng vấn 100 cán bộ quản lý nhà nước,
các doanh nghiệp công nghiệp chế biến dược liệu và các nhà khoa học trên phạm vi các tỉnh miền Bắc Việt Nam để đánh giá tình hình nuôi trồng dược liệu và nắm bắt nhu cầu phát triển dược liệu.
Đồng thời tác giả sẽ tiến hành điều tra khảo sát phỏng vấn khoảng 238 đơn vị
và hộ gia đình đang trồng các loại dược liệu khác nhau.
Trong số 238 đơn vị, hộ gia đình được khảo sát, phỏng vấn đó, lọc ra những đơn vị, hộ gia đình được đã thành công trong việc trồng dược liệu (Việc thành công thể hiện
qua: thu nhập từ trồng dược liệu đáp ứng các yêu cầu của cuộc sống, ổn định, đầu ra của các sản phẩm có thể tiêu thụ dễ dàng…), và những đơn vị và hộ gia đình chưa thành công trong việc trồng dược liệu. Các phỏng vấn đươc thực hiện với các đại diện của hộ
gia đình, là chủ hộ hoặc người nắm rõ về việc trồng dược liệu của gia đình mình.
Các câu hỏi phỏng vấn là câu hỏi mở, tập trung vào các câu hỏi như nhận thức của hộ gia đình về phát triển nguồn dược liệu, có chính sách nào cụ thể của nhà nước để hỗ trợ cho hộ gia đình khi trồng dược liệu không? Thu nhập từ dược liệu của hộ gia
đình anh chị bình quân/ năm là bao nhiêu? Bao nhiêu diện tích các anh chị sử dụng cho trồng dược liệu?
Đánh giá của các đơn vị trồng dược liệu về vai trò của nhà nước với phát triển
nuôi trồng dược liệu, mức độ ưu tiên theo quan điểm của các hộ gia đình/doanh nghiệp về mức độ hỗ trợ của địa phương, chính quyền với phát triển dược liệu. Anh ( chị) đã trồng dược liệu bao nhiêu thời gian rồi? Từ đâu, các anh chị biết đến và trồng dược liệu? Việc tiêu thụ nguồn dược liệu trồng được với các anh chị có khó khăn không?
Chính quyền địa phương có hỗ trợ các anh chị khi trồng dược liệu không?...
v) Địa bàn khảo sát:
Địa bàn khảo sát phỏng vấn: Tiến hành điều tra, khảo sát phỏng vấn tại ba tỉnh
Miền Bắc là Bắc Giang, Hưng Yên, và Hà Giang. Lý do tác giả lựa chọn ba địa phương trên là:
Tỉnh Hưng Yên: Đại diện cho vùng dược liệu Đồng Bằng Sông Hồng
Tỉnh Hà Giang, đại diện cho vùng dược liệu núi cao có khí hậu khá nhiệt đới.
Tỉnh Bắc Giang: Đại diện cho vùng dược liệu Trung du miền núi Bắc Bộ
29
Đây là các địa phương đại diện cho các vùng dược liệu được quy hoạch theo đề án quốc gia về quy hoạch dược liệu. Việc tác giả lựa chọn các địa phương đảm bảo tính đại diện cho mẫu nghiên cứu .
Sau đây là kết quả phiếu điều tra, phỏng vấn của đề tài luận án.
Bảng 1.2: Phân bổ điều tra, phỏng vấn
Chung
Trong đó Hưng Yên Bắc Giang Hà Giang 88 88 62 238
10 10 10 10
1. Điều tra Đơn vị trồng M1 2. Điều tra cán bộ quản lý các cấp M2 Cán bộ tỉnh, huyện Cán bộ xã Các doanh nghiệp chế biến thuốc 100 30 30 20 10 10
20
Các nhà khoa học Cộng 338
1.2.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Thứ nhất, phương pháp so sánh
Luận án sử dụng phương pháp so sánh để xem xét tình hình trồng cây dược liệu
giữa các đơn vị (công ty, hợp tác xã với gia đình hộ nông dân) và giữa các địa phương là Hưng Yên là tỉnh có truyền thống trồng cây dược liệu và Hà Giang và Bắc Giang là địa phương trong những năm gần đây có nhiều chính sách phát triển cây dược liệu để
đánh giá vai trò nhà nước đối với các mô hình sản xuất trồng cây dược liệu trên địa bàn các tỉnh từ đó có khuyến nghị cụ thể với từng loại mô hình và từng địa phương.
Thứ hai, phương pháp thống kê mô tả
Luận án đã sử dụng phương pháp này để mô tả vai trò nhà nước trong phát triển
cây trồng dược liệu thể hiện ở sự biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng và hiệu quả phát triển cây trồng dược liệu. Các chỉ tiêu phân tích sự biến động này là diện tích cây trồng dược liệu, quy mô, tỷ lệ các loại cây trồng, lợi nhuận, thu nhập, tiền lương… của người trồng dược liệu tại ở các địa phương nghiên cứu.
Đồng thời phương pháp này cũng được sử dụng để làm rõ ý kiến đánh giá của các doanh nghiệp, người dân trồng cây dược liệu cũng như cán bộ quản lý nhà nước để phát triển cây trồng dược liệu thông qua tổng hợp, xử lý và phân tích các bàng hỏi điều
30
tra phỏng vấn. Sự mô tả này được biểu diễn bằng các đồ thị, bảng biểu mô tả dữ liệu hoặc giúp so sánh dữ liệu.
Thứ ba, phương pháp xử lý tài liệu.
Tác giả sử dụng Exel để xử lý tài liệu điều tra và phỏng vấn để rút ra nhận xét,
đánh giá về thực trạng vai trò nhà nước và những mong muốn tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam những năm tới; đồng thời so sánh các trường hợp, tìm ra sự tương đồng và khác biệt,
giữa các đối tượng trả lời để so sánh, tổng hợp ý kiến và rút ra kết quả.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 luận án đã phân tích được những vấn đề chủ yếu sau đây
Phân tích rõ sự cần thiết của vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược
liệu ở nước ta
Đã hệ thống hóa được những nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề
tài nghiên cứu về phát triển cây trồng dược liệu và vai trò của nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu; đã phân tích, so sánh các nghiên cứu liên quan đến vai trò của nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu để từ đó có thể chỉ ra những mặt đạt được và khoảng trống để lựa chọn cho nghiên cứu của luận án.
Trên cơ sở đó đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án và phương pháp dụng trong nghiên cứu của luận án kết từ thu thập dữ liệu thứ cấp, lựa chọn mẫu phục vụ thu thập số liệu sơ cấp, pháp phân tích dữ liệu.
31
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU
2.1. Phát triển cây trồng dược liệu và ý nghĩa của nó đối với phát triển kinh tế xã hội
2.1.1. Phát triển cây trồng dược liệu: Khái niệm và phân loại
2.1.1.1. Khái niệm cây trồng dược liệu
Trong tất cả các nền văn hóa của nhân loại từ thời thượng cổ đến nay,
con người vẫn luôn coi trọng cây cỏ như là một nguồn thuốc chủ yếu để chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe. Việc tìm ra cây thuốc đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ trong chữa bệnh bảo vệ sức khỏe thông qua các bài thuốc cổ truyền mà còn trở thành các
hàng hóa cung cấp cho thị trường khác nhau giúp cải thiện đời sống người dân khai thác và trồng nó.
Ở Việt nam, cây dược liệu giữ vị trí quan trọng trong việc xây dựng nền y học . Từ lâu việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển cây dược liệu đã được khẳng định trong
đường lối xây dựng nền y học dân tộc. Chỉ thị 210/TTg ngày 06/12/1966 của Thủ tướng chính phủ đã xác định vị trí và giá trị của cây dược liệu : “ Dược liệu ở nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật có ở nước ta. Chẳng những là cơ sở của nền y học dân tộc mà còn có vị trí trong nền y học hiện đại, chẳng những là
nguồn tự cung tự cấp về thuốc Nam, thuốc Bắc và thuốc tây mà còn là loại hàng hóa xuất khẩu có giá trị phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp”
Trong lịch sử phát triển có rất nhiều khái niệm về cây dược liệu được đưa ra :
Xuất phát từ định nghĩa của y học cổ truyền được thực hiện bởi một nhóm các chuyên gia từ các khu vực châu Phi năm 1976 thì cây dược liệu một được hiểu “Là nguyên liệu tự nhiên có nguồn gốc thực vật, động vật, khoáng vật và vi sinh vật dùng để điều chế thành thuốc chín và các dạng bào chế, cung cấp nguyên liệu cho ngành dược.”
Cũng có một số tài liệu cho rằng : “Cây dược liệu là loại cây thuốc thuộc đông y, là một nguyên liệu không thể thiếu trong y học cổ truyền, và hơn thế, trong bối cảnh hội nhập, cây dược liệu còn là đầu vào của các công nghệ sản xuất thuốc tây y.
Trong giáo trình cây dược liệu,Vũ Tuấn Minh lại lý giải về khái niệm cây dược liệu : “Cây dược liệu là những loài thực vật có tác dụng dùng để chữa bệnh hoặc bồi bổ cơ thể khi con người sử dụng”. Việc dùng thuốc trong nhân dân ta đã có từ
32
lâu đời. Từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên chúng ta trong lúc tìm kiếm thức ăn, có khi ăn phải chất độc phát sinh nôn mửa hoặc rối loạn tiêu hoá, hoặc hôn mê có khi chết người, do đó cần có nhận thức phân biệt được loại nào ăn được, loại nào có độc không ăn được”.
Kinh nghiệm dần dần tích lũy, không những giúp cho loài người biết lợi dụng tính chất của cây cỏ để làm thức ăn mà còn dùng để dùng làm thuốc chữa bệnh, hay dùng những vị có chất độc để chế tên thuốc độc dùng trong săn bắn hay trong lúc tự vệ
chống ngoại xâm. Lịch sử nước ta cho biết ngay từ khi lập nước nhân dân ta đã biết chế tạo và sử dụng tên độc để chống lại kẻ thù.
Như vậy, việc phát minh ra thuốc đã có từ thời thượng cổ, trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, tìm tòi thức ăn mà có được. Nguồn gốc tìm ra thức ăn,
thuốc và cây có chất độc chỉ là một. Về sau dần dần con ngư ời mới biết tổng kết và đặt ra lý luận. Hiện nay đi sâu và tìm hiểu những kinh nghiệm trong nhân dân Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, con ngư ời đã sử dụng hàng vạn loài
thực vật để làm thuốc. Trong quá trình chữa bệnh bằng kinh nghiệm và hiểu biết của con người, đến ngày nay đã hình thành các khuynh hướng khác nhau, chúng ta có thể phân biệt hai loại ngư ời làm thuốc. Một loại chỉ có kinh nghiệm chữ a bệnh, không biết hoặc ít biết lý luận. Kinh nghiệm đó cứ cha truyền con nối mà tồn tại,
mà phát huy. Những người có khuynh hướng này chiếm chủ yếu tại các vùng dân tộc ít người . Khuynh hướng thứ hai là những người có kinh nghiệm và có thêm phần lí luận, những ngư ời này chiếm chủ yếu ở thành thị và những người có cơ sở lí luận cho
rằng vị Thần Nông là người phát minh ra thuốc. Truyền thuyết kể rằng: “Một ngày ông nếm 100 loài cây cỏ để tìm thuốc, ông đã gặp phải rất nhiều loài cây có độc nên có khi một ngày ngộ độc đến 70 lần”, rồi soạn ra sách thuốc đầu tiên gọi là “Thần Nông bản thảo”. Trong bộ này có ghi chép tất cả 365 vị thuốc và là bộ
sách thuốc cổ nhất Đông Y (chừng 4000 năm nay).
Như vậy, các khái niệm trên đều thống nhất với nhau là i) cây trồng dược liệu là một loại cây thuốc; Nó được sử dụng cho việc chế biến thành các loại thuốc cho đông y và
2.1.1.2. Phân loại cây trồng dược liệu
cả tây ý;iii) nó được sử dụng để làm thuốc chữa bênh và chăm sóc sức khỏe của con người. Vì thê có thể nói: Cây dược liệu là những loài thực vật dùng để làm thuốc chữa bệnh hoặc bồi bổ cơ thể khi con người sử dụng.
Việc phân loại cây dược liệu đều dựa trên quy luật chung, được thịnh hành trong thời kỳ tiến hành phân loại và tất nhiên sẽ được bỏ qua sau đó với sự phát triển
33
của khoa học. Ðiểm qua các cách phân loại được vật từ trước đến nay, có thể phân loại theo một số cách như: Phân theo các học thuyết âm dương, ngũ hành và bát pháp, phân theo dược lý đông dương, phân theo đặc điểm thực vật, dược liệu, phân theo dược lý trị liệu kết hợp Ðông - Tây y và phân loại theo thời gian trồng và thu hoạch
Trong luận án này, tác giả dựa trên cách phân loại cây trồng theo thời gian để
xem xét sự biến đổi của cơ cấu cây trồng dược liệu và đề xuất các biện pháp quản lý
Phân loại theo thời gian trồng và thu hoạch dược liệu là việc phân chia các giống cây
trồng vật liệu theo thời gian trồng để có thể thu hoạch, có kết quả cho các đơn vị trồng.
Cụ thể, theo thời gian trồng và thu hoạch cây trồng dược liệu có thể phân loại thành các bộ phận nhỏ như sau : Cây trồng ngắn ngày ( thời gian cho thu hoạch khoảng từ một đến ba năm), và cây trồng dài ngày ( Thời gian có thể thu hoạch được
từ trên ba năm). Mỗi nhóm cây trồng có những đặc điểm cụ thể khác nhau :
Thứ nhất, Cây dài ngày ( lâu năm) là loại cây có thời gian trồng để thu hoạch tương đối dài, khoảng thời gian trung bình để có thể thu hoạch khoảng năm năm trở
lên, một số cây trồng lâu năm thường là những cây lấy vỏ và thân gỗ, lấy củ ở miền bắc nước ta hiện nay một số loại cây lâu năm như cây đỗ trọng hay tam thất…
Việc chăm sóc các cây dược liệu lâu năm dường như là dễ hơn so với các cây ngắn ngày, yêu cầu kỹ thuật trồng không quá phức tạp và việc chăm sóc cũng không
quá khó khăn. Đơn cử như việc chăm sóc cây đỗ trọng ở một số tỉnh miền bắc, chủ yếu người dân trồng và chăm sóc rất đơn giản, và gần như bỏ dài, đến thời gian thu hoạch sẽ thu hoạch, thường những vườn trồng đỗ trọng thường chỉ tưới nước cho cây.
Thứ hai, cây ngắn ngày ( cây hàng năm là những cây trồng có thời gian trồng và thu hoạch tương đối ngắn từ một đến hai năm, và thu hoạch là thu hoạch một lần) như cây gừng, nghệ, nhân trần….
Tuy nhiên, việc chăm sóc và thu hoạch cây ngắn ngày thường khó khăn hơn các
cây lâu năm vì cây ngắn ngày đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc cẩn thận, và những cây này phụ thuộc tương đối nhiều vào điều kiện thời tiết, nếu thu hoạch sớm hay muộn hơn so với thời vụ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm.
2.1.2. Nội dung phát triển cây trồng dược liệu
2.1.2.1. Phát triển về quy mô cây trồng dược liệu
Quy mô của cây trồng dược liệu phản ánh độ lớn của khu vực (hộ, doanh nghiệp) trồng cây dược liệu. Chỉ tiêu phản ánh quy mô cây trồng dược liệu được đo bằng giá trị và hiện vât,
34
Quy mô về giá trị cây trồng dược liệu được đo lường thông qua chỉ tiêu giá trị
sản lượng, tính bằng đơn vị tiền tệ
Quy mô về hiện vât được đo lường thông qua diện tích trồng cây dược liệu, sản
lượng cây dược liệu thu hoạch được .v.v.
Phát triển về quy mô cây trồng dược liệu thể hiện sự gia tăng về giá trị sản lượng hoặc gia tăng diện tích, gia tăng sản lượng cây trồng dược liệu năm sau so với năm trước, thời kỳ sau so với thời kỳ trước
Các hộ, doanh nghiệp có quy mô trồng dược liệu lớn thường có ưu điểm về khả năng áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, về tính chất chuyên môn hóa trong kinh doanh và khả năng cạnh tranh của khu vực (hộ, doanh nghiệp) đó . Tuy nhiên, các ưu việt của khu vực (hộ, doanh nghiệp) chỉ phát huy trong điều kiện
trình độ của chủ khu vực (hộ, doanh nghiệp) ở mức độ thích ứng, các hoạt động quản trị kinh doanh được triển khai bài bản. Các hộ, doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường có ưu việt trong sự thích ứng của nền kinh tế thị trường và phù hợp với trình độ phát triển
ở mức độ thấp, trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của các khu vực (hộ, doanh nghiệp) quy mô nhỏ ở mức độ thấp; khả năng áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ hạn chế.
Một là , với quy mô canh tác nhỏ, thì yêu cầu đầu tư cho đầu vào thấp nhưng lại
tạo thu nhập thấp và chỉ cung cấp cho thị trường khu vực. Theo các nghiên cứu trước, đối với nông dân trồng canh tác cây dược liệu, nên kết hợp việc trồng cây dược liệu với nuôi trồng các loại cây con khác phù hợp nhằm đa dạng hóa sinh thái, tạo ra điều
kiện phát triển tốt, phù hợp hơn cho sự phát triển của cây dược liệu nâng cao sản lượng và chất lượng, đồng thời, cũng có thêm thu nhập từ các loại cây trồng kết hợp nhằm tăng thu nhập để từ đó mở rộng quy mô.
Hai là , canh tác theo qui mô lớn, trồng và phát triển cây dược liệu trên diện
rộng, phát triển quy mô lớn trồng dược liệu cho thị trường xuất khẩu. Nguồn vốn đầu tư sẽ khá lớn nhưng lại tạo ra được hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần cải thiện đời sống cho người dân nông thôn.
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO), trong số khoảng 250.000 loài thực vật đã biết, hiện có 35.000 loài thực vật được sử dụng làm thuốc ở các mức độ khác nhau tại các quốc gia. Có khoảng 2500 cây thuốc được buôn bán trên thế giới, có ít nhất 2000 cây thuốc được sử dụng ở Châu Âu, 1543 cây thuốc được sử dụng ở Đức,
1700 cây ở Ấn Độ, 5000 cây ở Trung Quốc. có đến 90% loài thảo dược được thu hái
35
hoang dại, nhưng nguồn cây thuốc tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Các bộ phận dùng của cây thuốc cũng đa dạng. Tỷ lệ các bộ phận dùng được thể hiện ở biểu đồ sau:
Hình 2.1: Tỷ lệ các bộ phận được sử dụng của cây thuốc
Nguồn: Cục quản lý y dược cổ truyền, Bộ Y tế (2017)
Hiện nay, chỉ có vài trăm loại cây thuốc được trồng trọt, khoảng 20 - 50 loài được trồng ở Ấn độ, 100-250 loài ở Trung Quốc, 40 loài ở Hungari, 130 - 140 loài ở Châu Âu.
Phương pháp trồng truyền thống đang dần được thay thế bởi phương pháp trổng công nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nguồn nguyên liệu này.
Theo thống kê của Viện Dược liệu - Cây thuốc Việt Nam, rừng Việt Nam với hơn 7.000 loài được mô tả thì có tới 3.830 loài có dược tính được sử dụng làm thuốc.
Trong đó, có những cây thuốc và một số động vật loài quí hiếm chữa được những bệnh nan y và cũng là nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển công nghiệp dược phẩm. Trong gần 1.000 loài được khai thác thì có tới 500 - 700 loài là sản phẩm từ rừng
thuộc các tỉnh miền núi. Trong y học cổ truyền đã sử dụng 136 vị thuốc thì đã có 52 vị thuốc chủ yếu sử dụng nguồn dược liệu trong nước và khai thác từ rừng tự nhiên.
Hầu hết các quốc gia đã biên soạn các chuyên khảo về cây thuốc trên quy mô toàn quốc hoặc vùng lãnh thổ. Nhiều công trình nghiên cứu cây thuốc của các nước
được sử dụng rộng rãi và có giá trị khoa học thực tiễn lớn. Điều tra, đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc được coi là có nhiệm vụ trọng tâm của tất cả các quốc gia.
36
Cho đến nay nhiều tài liệu quý ghi chép kinh nghiệm sử dụng của người xưa vẫn còn lưu truyền tại Trung Quốc - quốc gia có truyền thồng lâu đời trong việc sử dụng cây cỏ để trị bệnh. Trong tập “Thần nông bản thảo” chỉ rõ khoảng 5000 năm trước đây người Trung Hoa cổ đại đã sử dụng 365 vị thuốc và cây thuốc để phòng
và chữa bệnh. Vào đời nhà Hán (năm 168 trước CN) trong cuốn sách “Thủ Hậu cấp phương”, tác giả thống kê 52 đơn thuốc trị bệnh từ các loài cây cỏ. Tới giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân thống kê 1.200 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”.
Các tài liệu cổ xưa về sử dụng cây thuốc cũng được người Ai Cập cổ đại ghi chép cách đây khoảng 3600 năm trước với 800 cây thuốc và trên 700 bài thuốc. Nguời Ấn Độ cổ đại cách đây 2000 năm để lại tài liệu về công dụng của cây cỏ làm thuốc của người Hindu. Các nhà thực vật người Pháp được coi là những người đầu tiên của
Châu Âu nghiên cứu về thực vật Đông Nam Á, với họ sau những cánh rừng nhiệt đới còn tiềm ẩn rất nhiều giá trị. Vào những năm đầu thế kỷ XX, trong chương trình nghiên cứu về thực vật Đông Dương, Perry công bố 1.000 loài cây và dược liệu tại
2.1.2.2. Phát triển về cơ cấu cây trồng dược liệu
Đông Nam Á đã được kiểm chứng và gần đây (1985) tổng hợp thành cuốn sách “Medicinal Plants of Eats and Southeast Asia”,..v.v.
Về khái niệm, cơ cấu cây trồng dược liệu là tỷ lệ các loại cây trồng dược liệu.
Việc đo lường cơ cấu cây trồng dược liệu được thực hiện bằng cách tính tỷ lệ phần trăm giữa quy mô diện tích, sản lượng, đóng góp GDP của một loại cây dược liệu
với tổng quy mô diện tích, sản lượng, đóng góp GDP trồng cây dược liệu.
Sự phát triển cơ cấu cây trồng dược liệu là sự thay đổi về tỷ lệ phần trăm các loại
cây trồng dược liệu.
Như phần trên đã nói, có thể phân loại cây trồng dược liệu theo nhiều cách khác
2.1.2.3. Chất lượng, hiệu quả cây trồng dược liệu
nhau. Do có tới hàng ngàn loại cây trồng dược liệu khác nhau nêntrong luận án này tác giả dựa vào thời gian trồng và thu hoạch cây dược liệu để phân loại cơ cấu cây trồng dược liệu thành cây trồng lâu năm và cây trồng ngắn ngày.
Phát triển cây trồng dược liệu không chỉ là sự tăng về quy mô, biến đổi cơ cấu
mà còn là quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả của cây trồng dược liệu.
Chất lượng" là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau.Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất lượng được thừa nhận ở phạm
37
vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế. Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005 định nghĩa chất lượng là: "Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có"
Chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có hiện đại đến đâu đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm người tiêu dùng. Cùng một
mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cao hơn thì có chất lượng cao hơn. Yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm hay dịch vụ thường là: tốt, đẹp, bền, sử dụng lâu dài, thuận lợi, giá cả phù hợp.
Trên quan niệm đó, chất lượng cây trồng dược liệu là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng cây trồng dược liệu vào việc sản xuất, chế biến dược liệu, phục vụ cho hoạt động chữa bệnh. Tùy đặc tính cây trồng dược liệu, người sử dụng có thể sử dụng trực tiếp cho nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, cũng có thể sử dụng cây
trồng dược liệu để chế biến thành dược phẩm. Dù thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng như thế nào chất lượng cây trồng duwọc liệu cũng phải có đặc tính thỏa mãn nhu câu với giá cả phù hợp.
Cùng với chất lượng, phát triển cây trồng dược liệu còn bao hàm tính hiệu quả.
Theo Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) hiệu quả của chính sách là những lợi ích mà một chính sách mang lại cho toàn hệ thống. Lợi ích mà một chính sách đem lại cho toàn hệ thống thể hiện trên 2 mặt (i) kết quả dương tính với mục tiêu và (ii) biến đổi xã
hội dương tính. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có nhiều cách tiếp cận xem xét hiệu quả của chính sách như hiệu quả kinh tế, hiệu quả văn hóa và hiệu quả xã hội:
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả có thể tính được thành tiền. Quan điểm này tương đồng với quan điểm mà Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Đoàn Thị Thu Hà (2010) đưa ra -
hiệu quả là kết quả so với chi phí. Tuy nhiên một số học giả khác lại sử dụng quan điểm chi phí/lợi ích để phản ánh hiệu quả kinh tế (Bùi Tôn Hiến, 2015).
Hiệu quả xã hội là loại hiệu quả thể hiện trên lối sống, phong tục tập quán, quan
hệ giữa con người trong xã hội. Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) thừa nhận rằng đánh giá hiệu quả văn hóa chỉ có thể phân tích định tính. Hiệu quả văn hóa xem xét, phản ánh những hệ lụy về biến đổi xã hội của chính sách. Hiệu quả xã hội là một loại hiệu quả xem xét tới những hệ lụy của biến đổi xã hội rộng hơn về cấu trúc, trật tự xã
hội, hiệu quả an ninh và quốc phòng...
38
Đối với sự phát triển cây trồng dược liệu, hiệu quả có thể xem xét dưới góc độ kinh tế- xã hội. Nó không chỉ thể hiện ở kết quả so với chi phí mà còn được xem xét dưới góc độ giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người trồng cây dược liệu. Vì thế, hiệu quả phát triển cây trồng dược liệu là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh, thu nhập, đời sống và việc làm của các người dân trồng cây dược liệu.
Kết quả sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, thu nhập từ trồng cây dược liệu ngày càng tăng, đời sống của người trồng cây dược liệu ngày càng tăng và việc làm của người trồng cây dược liệu ngày càng được bảo đảm sẽ phản ánh sự phát triển cây trồng dược liệu về mặt hệu quả.
2.1.3. Các điều kiện phát triển cây trồng dược liệu
2.1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương
Điều kiện tự nhiên : Là tiền đề cơ bản để tổ chức nuôi trồng và phân bố nuôi
trồng cây dược liệu. Mỗi loại dược liệu chỉ có thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Cây dược liệu sinh trưởng và phát triển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Các điều kiện tự nhiên quan trọng hàng đầu là đất, nước, khí hậu, thời tiết, địa hình, môi trường sinh thái…. Điều kiện tự nhiên sẽ quyết
định khả năng phát triển của các loại cây dược liệu. Có thể nói điều kiện tự nhiên là những yếu tố đầu vào quan trọng hàng đầu quyết định đến đầu ra chất lượng sản phẩm dược liệu. Trong tổ chức và quản lý nuôi trồng dược liệu đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ những điều kiện tự nhiên. Bởi đây là những nhân tố liên quan trực tiếp đến việc quy
hoạch vùng nuôi trồng, bố trí cơ cấu cây trồng dược liệu…
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về vị trí địa lý, thời tiết, khí hậu, các tài nguyên khoáng sản, tài nguyên sinh vật, quỹ đất .v.v. Sự ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên đến sự phát triển nuôi trồng dược liệu còn biểu hiện ở sự tác động trực tiếp của các biến động về thời tiết, khí hậu, sự biến động của nguồn tài nguyên .v.v.
Khí hậu và nguồn nước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới việc xác định cơ cấu dược liệu,
thời vụ, khả năng xen canh, luân canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất dược liệu ở từng địa phương. Sự phân mùa của khí hậu quy định tính mùa vụ trong nuôi trồng dược liệu và nó có sự ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm dược liệu tiêu thụ ở trên thị trường.
Các điều kiện thời tiết có tác dụng kìm hãm hay thúc đẩy sự phát sinh và lan tràn dịch bệnh cho các loại cây trồng dược liệu. Những tai biến thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, bão, núi lửa, động đất, sóng thần… gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
nông nghiệp nói chung và trồng cây dược liệu nói riêng, làm cho ngành nuôi trồng dược liệu thường tiềm ẩn tính rủi ro cao, bấp bênh, không ổn định. Do đó, chúng ta cần phải tìm ra các biện pháp tổ chức và quản lý ngành nuôi trồng dược liệu sao cho
39
phù hợp nhất nhằm hạn chế rủi ro đồng thời nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý ngành nuôi trồng dược liệu phát triển bền vững lâu dài.
Điều kiện về kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng dược liệu được xem xét theo nhiều nhân tố: đất đai, nguồn lao động, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách .v.v.
Về đất đai, các yếu tố về thổ nhưỡng, địa hình được xem xét dưới góc độ của các yếu tố tự nhiên. Dưới góc độ kinh tế, đất đai được xem xét dưới góc độ về quỹ đất
theo số lượng đất đai. Quỹ đất đai của địa phương có tác động đến sự hình thành của các khu vực nuôi trồng dược liệu, đặc biệt là quy mô nuôi trồng cây dược liệu.
Về lao động, số lượng và chất lượng lao động đều có tác động đến sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng dược liệu. Số lượng nguồn lao động tạo khả năng huy động sức lao động đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp nói chung, phát triển bền
vững ngành nuôi trồng dược liệu nói riêng. Nguồn lao động dồi dào về số lượng sẽ tác động thuận, ngược lại nguồn lao động thiếu hụt sẽ tác động tiêu cực.
Chất lượng nguồn lao động được biểu hiện qua trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, ý thức pháp luật, sức khỏe, độ tuổi và gia cảnh... Chất lượng nguồn lao động tác động đến sự bền vững của ngành nuôi trồng dược liệu khi nó đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của ngành trong điều kiện sản xuất hàng hóa và
2.1.3.2 Cơ sở hạ tầng nuôi trồng dược liệu
khống chế sự tác động tiêu cực của các điều kiện tự nhiên, nâng cao sức cạnh tranh của ngành và ngược lại.
Cơ sở hạ tầng bao gồm hạ tầng kinh tế (giao thông, thủy lợi, điện,...) và hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa...). Ngành nuôi trồng dược liệu chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo và đồng bộ. Hệ thống giao
thông vận tải, hệ thống cung cấp điện, nước, thoát nước, bưu chính viễn thông v.v… cũng có ảnh hưởng rất lớn tới phát triển của ngành, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, những hạ tầng này tạo điều kiện cho áp
2.1.3.3. Sự phát triển thị trường và ngành công nghiệp dược liệu
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, giảm thiểu ô nhiễm mỗi trường, góp phần phát triển KT-XH bền vững.
Sự phát triển thị trường và ngành công nghiệp dược liệu là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của nuôi trồng dược liệu. Đó là căn cứ quan trọng nhất cho sự phát triển trồng cây dược liệu cả về quy mô, cơ cấu sản phẩm, chủng loại cây trồng dược liệu cũng như về tốc độ tăng trưởng, là cơ sở để có các quyết định của nhà
40
quản lý. Sự phát triển thị trường và ngành công nghiệp dược liệu sẽ tạo ra sự phát triển của cầu về sản phẩm từ trồng cây dược liệu. Cầu về sản phẩm dược liệu ngày một phát triển, đó là một cơ hội lớn cho sự lựa chọn hướng đầu tư, quy mô đầu tư, cũng như các biện pháp tổ chức quản lý phù hợp nhằm phát triển cây trồng dược liệu. Khi
công nghiệp dược liệu phát triển thì sẽ có nhiều doanh nghiệp sản xuất dược liệu ra đời và phát triển mạnh mẽ, nhu cầu về sản phẩm từ cây trồng dược liệu ngày càng tăng cao đặc biệt là các loại cây trồng chất lượng cao. Các doanh nghiệp này ngoài việc quan
tâm đến số lượng, chất lượng, giá cả… của mặt hàng từ cây trồng dược liệu họ còn quan tâm đến các vấn đề như vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ của mặt hàng dược liệu, hình thức, mẫu mã, tiêu chuẩn về lao động, tiêu chuẩn về môi trường, các tiêu chuẩn của ngành dược liệu…
Sự phát triển thị trường và ngành công nghiệp dược liệu cũng tạo điều kiện thuận lợi để tạo ra sự hoàn thiện trong việc đưa ra thông tin thị trường, các tín hiệu giá cả hợp lý .Các thông tin thị trường, các tín hiệu giá cả phát ra từ thị trường là nhân tố
có vai trò quan trọng, tạo điều kiện để hỗ trợ cho các hoạt động của ngành trồng dược liệu được hiệu quả hơn. Nếu thông tin thị trường được cập nhật và thông suốt sẽ giúp công tác tiêu thụ thuận lợi, tạo điều kiện để hoạt động tiêu thụ dược liệu trở nên linh hoạt, hiệu quả hơn. Thông tin thị trường giúp người trồng dược liệu biết được nhu cầu
về các loại cây dược liệu, giá cả chất lượng của các loại cây trồng dược liệu. để từ đó đưa ra được những phương án kỹ thuật sản xuất hợp lý, nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của các doanh nghiệp kinh doanh dược liệu, nâng cao hiệu quả của cây trồng dược
2.1.3.4 Năng lực của tổ chức, cá nhân nuôi trồng
liệu. Góp phần phát triển cây trồng dược liệu đúng hướng.
Tổ chức, cá nhân nuôi trồng là người trực tiếp quyết định sự phát triển của cây
trồng dược liệu. Năng lực sản xuất kinh doanh của họ quyết định đến quy mô, chất lượng của nguồn dược liệu được trồng cũng như khả năng bảo tồn những loại dược liệu quý hiếm của tự nhiên. Năng lực quản lý, kinh nghiệm nuôi trồng và nhận thức
của tổ chức và cá nhân nuôi trồng càng cao thì sản lượng và chất lượng đầu ra của các sản phẩm từ cây trồng dược liệu sẽ càng tăng. Góp phần phát triển cây trồng dược liệu.
2.1.4. Ý nghĩa của phát triển cây trồng dược liệu trong phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, cung cấp nguyên liệu để phát triển ngành dược liệu
“Dược liệu là nền tảng của ngành Dược” đã là chủ trương của Bộ Y tế từ nhiều năm qua. Một trong những điều kiện cần thiết tất yếu để phát triển ngành dược liệu là nguồn nguyên liệu đầu vào. Quy mô và chất lượng phát triển ngành dược liệu phụ
41
thuộc rất nhiều vào sản lượng và chất lượng cây dược liệu. Nguyên liệu này phần lớn được lấy từ tự nhiên. Tuy nhiên, thời gian gần đây thì nguồn nguyên liệu tự nhiên đã dần cạn kiệt, điều tất yếu là cần phải bảo tồn và duy trì nguồn nguyên liệu ổn định để phát triển ngành dược liệu.
Mặc dù số lượng và chất lượng dược liệu tự nhiên của đất nước ta khá phong phú. Tuy nhiên, trong những năm qua, nước ta còn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu, dược liệu nước ngoài. Vì vậy, phát triển cây trồng dược liệu sẽ là nguồn
cung cấp nguyên liệu đáng kể cho ngành dược.
Không chỉ bổ sung nguồn dược liệu của ta đang thiếu, phải nhập từ nước ngoài, mà nó còn góp phần xuất khẩu, đem lại ngoại tệ cho nhà nước và đương nhiên cho cả người dân.
Hiện nay, các địa phương đang tích cực triển khai quy hoạch để hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 đáp ứng được 60% và đến năm 2030 là 80% tổng nhu cầu sử dụng dược liệu trong nước, tăng cường khả năng xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm
từ dược liệu trong nước bởi nguồn nguyên liệu chính là nền tảng vững chắc để ngành dược Việt Nam có thể phát triển trong tương lai.
Thứ hai, tạo việc làm, tăng thu nhập cho các đơn vị, cá nhân trồng dược liệu
Quản lý Nhà nước tốt ngành nuôi trồng dược liệu đi đôi với việc tạo công ăn
việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn và thành thị, giảm thời gian nông nhàn ở khu vực nông thôn. Góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn, tăng số việc làm được tạo ra do
tổ chức và quản lý tốt ngành trồng dược liệu…
Việc phát triển ngành nuôi trồng dược liệu góp phần tăng sản lượng thu hoạch từ cây thuốc tạo cơ hội cho những người nghèo tăng thu nhập. Đặc biệt là những người không trồng các loại cây nông nghiệp khác mà chỉ trông chờ vào nguồn thu từ cây
dược liệu. Tuy nhiên, giá thu mua nguyên liệu từ cây trồng dược liệu chưa qua chế biến hiện nay còn khá thấp. Ví dụ, qua một nghiên cứu, mặc dù thu nhập từ vỏ cây Prunus africana là một nguồn thu quan trọng cho người dân ở Madagascar, phần lớn
chiếm hơn 30 % thu nhập của cả làng, giá trả cho người trồng cây Prunus africana là không đáng kể so với người trung gian (Walter và Rakotonirina 1995). Tại Mexico, Hersch-Martinez (1995) thấy rằng người trồng cây thuốc chỉ nhận được trung bình khoảng 6,17 phần trăm của giá tiêu dùng cây thuốc.
Mặt khác, theo các kết quả nghiên cứu trước đó, Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thích hợp cho sự phát triển của cây trồng nói chung. Một số vùng cao lại có khí hậu á nhiệt đới, phù hợp với việc trồng cây thuốc ưa khí hậu mát. Đất đai ở miền
42
núi nước ta, đặc biệt trên dãy Trường Sơn rộng lớn, còn rất nhiều đất hoang chưa được khai thác sử dụng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề không phải là thiếu đất trồng cây thuốc, mà phải hướng dẫn và tổ chức cho người dân, đặc biệt đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa biết nên trồng cây gì, hiệu quả kinh tế thế nào, kỹ thuật trồng
cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm ở đâu? Khi người dân nhận thấy việc trồng cây thuốc mang lại hiệu quả hơn so với cây sắn, ngô, khoai, vv. thì người ta sẽ làm theo.
Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây thuốc dân tộc cổ truyền
(CREDEP), từ trước đến nay, nhiều địa phương trong nước ta đã có truyền thống trồng cây thuốc, như Quế (ở Yên Bái, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi…), Hồi (ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu), Hòe (ở Thái Bình), vv. Có những làng chuyên trồng cây thuốc như Đại Yên (Hà Nội), Nghĩa Trai (Văn Lâm, Hưng Yên).
Gần đây, nhiều loài cây thuốc ngắn ngày cũng được trồng thành công trên quy mô lớn như Ác ti sô, Bạc hà, Cúc hoa, Địa liền, Gấc, Hương nhu, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Mã đề, Sả, Thanh cao hoa vàng, Ý dĩ, vv.
Những thống kê trên cho thấy việc phát triển trồng cây thuốc ở nước ta có nhiều
tiềm năng và cho hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay, ở Việt Nam đang có một nghịch lý là các vùng dân tộc thiểu số ở miền núi nói chung, đặc biệt dãy Trường Sơn nói riêng, nơi rất giàu nguồn tài nguyên thiên
nhiên và tri thức bản địa thì lại nghèo hơn so với miền xuôi. Vì nghèo nên lạc hậu, và vì lạc hậu nên lại nghèo? Đây là mối tương tác ảnh hưởng lẫn nhau. Nếu ta biết sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, khai thác thế mạnh của miền núi, vận dụng khoa học kỹ thuật
để canh tác hợp lý, trong đó có việc trồng cây thuốc thành hàng hóa, thì chắc chắn những sản phẩm này không chỉ góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta, mà nó còn làm cho con người có cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc hơn, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Thứ ba, góp phần tăng thu NSNN, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển
Xây dựng chiến lược và tổ chức thực hiện quản lý tốt ngành nuôi trồng dược liệu đi kèm với công tác xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và tăng
nguồn thu NSNN. Sự quản lý Nhà nước một cách hiệu quả về trồng cây dược liệu làm số hộ đói nghèo giảm đi, số hộ giàu tăng lên. Điều này sẽ góp phần đáng kể cải thiện nhận thức và đời sống của người dân, giúp họ phát huy có hiệu quả trồng cây dược liệu, tăng doanh thu; tạo tiền đề cải thiện môi trường sống, đẩy nhanh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Thế kỉ 21 là thế kỉ sinh học và công nghệ sinh học. Dược liệu là tài nguyên di truyền - tài nguyên tái tạo. Nắm được, phát huy được tài nguyên di truyền là nắm kinh
43
tế, nắm tương lai. Dùng thế mạnh dược liệu đẩy mạnh nuôi trồng dược liệu và công nghiệp dược trở thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, làm cho nhân dân ta có đủ thuốc tốt, khỏe mạnh và giàu có, đất nước ta kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên hình ảnh Việt Nam - một cường quốc về dược liệu, tiềm năng ngành dược.
Nuôi trồng, sản xuất dược liệu theo hướng hàng hóa cũng giúp địa phương tạo được các vùng/làng nghề, các mô hình tổ hợp, hợp tác xã, công ty và giúp tăng cường trình độ sản xuất, phát triển được các điều kiện gia tăng hoạt động du lịch, thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển.
Mặt khác, theo nghiên cứu của các nhà khoa học hiện đại, xu hướng của Việt Nam hiện nay là “Trở về thiên nhiên” nhu cầu về dược liệu cũng như thuốc từ dược liệu (thuốc được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật
hoặc khoáng chất) có xu hướng ngày càng tăng.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số tại các quốc gia đang phát triển chăm sóc sức khỏe bằng các thuốc y học cổ truyền. Theo thống kê của thế
giới, ở Trung Quốc doanh số thị trường thuốc từ dược liệu đạt 26 tỷ USD (2008, tăng trưởng hàng năm đạt trên 20%), Mỹ đạt 17 tỷ USD (2004), Nhật Bản đạt 1,1 tỷ USD (2006), Hàn Quốc 250 triệu USD (2007), châu Âu đạt 4,55 tỷ Euro (2004)... Tính trên toàn thế giới, hàng năm doanh thu thuốc từ dược liệu ước đạt khoảng trên 80 tỷ USD.
Do đó, đóng góp của cây dược liệu ở Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực phẩm nào. Theo thống kê của WHO, những năm gần đây, nhiều công
ty, nhà sản xuất đã có hướng đi mới là sản xuất các thuốc bổ trợ, các thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, hương liệu… từ dược liệu. Chính vì vậy, dược liệu đã và đang mang lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế ngoài việc cung cấp nguyên liệu cho sản xuất thuốc. Theo kết quả điều tra đánh giá tại một số vùng trong cả nước, nuôi trồng sản xuất dược liệu
nói chung, cây thuốc nói riêng có thể thu nhận trên 100 triệu đồng/ha. Phát triển trồng cây thuốc đã giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, góp phần tăng thu ngân sách nhà
nước, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
2.2. Vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu: Thực chất, nội dung và nhân tố ảnh hưởng
2.2.1. Thực chất vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
2.2.1.1. Khái niệm về vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, quản lý nhà nước ra đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. “Quản lý nhà nước, hiểu theo nghĩa
44
rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, hoặc một số tổ chức xã hội trong
trường hợp được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước”. (Uông Chu Lưu, 2001)
Vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu thuộc khuôn khổ lý luận về vai trò nhà nước quản lý phát triển kinh tế xã hội. Trong mỗi cơ chế quản lý khác
nhau, nhà nước có vai trò khác nhau trong quản lý và phát triển kinh tế- xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể với hai loại hình doanh nghiệp chủ yếu là xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã, nhà nước không chỉ là người quản lý mà
còn là người trực tiếp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn trong việc phát triển cây trồng dược liệu, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bên cạnh hoạt động quản lý như quy hoạch vùng sản xuất, triển khai thực hiện quy hoạch, tổ chức kiểm tra
giám sát,… thì nhà nước còn trực tiếp là người sản xuất, thông qua việc đầu tư vốn, lao động, đất đai để xây dựng các doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh trồng cây dược liệu, tiến hành sản xuất, chế biến, tiêu thụ cây trồng dược liệu.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều loại hình doanh nghiệp thì vai trò của nhà nước cũng có sự thay đổi. Trong điều kiện này, nhà nước như là một người điều quản lý hành chung cho sự phát triển của mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp. Từ trực tiếp là người sản xuất
kinh doanh, nhà nước chuyển sang người quản lý hoạt động kinh doanh của toàn xã hội, của mọi hình thức sở hữu và mọi loại hình doanh nghiệp, chứ không chỉ doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn xã hội, mọi loại hình
doanh nghiệp, đưa nhà nước trở thành người trọng tài điều khiển chung cho cuộc chơi sản xuất, kinh doanh. Ở đây, nhà nước phải thực sự công bằng trong việc đối xử với các loại hình doanh nghiệp. Sự công bằng này được thể hiện trong toàn bộ hệ thống
công cụ quản lý của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội.
Trước hết là nhà nước phải tạo ra khuôn khổ luật pháp chung cho sự hoạt động sản xuất kinh doanh của người sản xuất. Hệ thống luật pháp này sẽ tạo môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Yêu cầu là phải
tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp. Dựa vào hệ thống luật pháp, doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu biết minh được làm gì,
45
không được làm gì trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh; đồng thời họ sẽ cạnh tranh bình đẳng với nhau để phát triển sản xuất kinh doanh nhằm các mục tiêu cho bản thân họ.
Để thực hiện vai trò quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn xã hội, của
mọi hình thức sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Các công cụ này bao gồm các quy hoạch, kế hoạch phát triển cho tới các chính sách để mọi doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực như chính
sách đất đai, chính sách tài chính, tín dung, chính sách đầu tư, chính sách khoa học kỹ thuật, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách thị trường…. Các chính sách này là công cụ vĩ mô để nhà nước điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đối với người sản xuất nó như những đòn bẩy kích thích sự phát triển sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Cũng theo yêu cầu chung của quản lý nhà nước, hệ thống các chính sách này phải đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn lực phát triển.
Với tư cách là người quản lý điều hành chung, nhà nước phải thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Đây là chức năng quan trọng thể hiện vai trò của nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát nhà nước thể hiện quyền lực của mình đối với việc tuân thủ luật pháp, chinh sách trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nói tóm lại, khi chuyển sang kinh tế thị trường, thực chất vai trò nhà nước là ở chỗc nhà nước xây dựng hệ thống luât pháp, quy hoạch, kế hoạch, các công cụ chính
sách và tổ chức kiểm tra giám sát việc tuân thủ của toàn xã hôi trong phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Điều này được vận dụng vào việc xác định vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu. Theo đó, vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu là việc nhà nước sử dụng các công cụ chính sách tổ chức quản lý việc phát triển cây trồng dược liệu của các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh và các hộ gia đình theo quy hoạch kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu đã được phê duyệt.
Các công cụ chính sách đó bào gồm: i)Hệ thống các văn bản pháp quy kể từ luật, đến pháp lệnh, nghị định, thông tư, các quyết định tuỳ theo phạm vi thẩm quyền ra văn bản pháp quy của nhà nước các cấp; ii) Xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển cây trồng dược liệu theo
phạm vi quản lý được quy định;iii)Tổ chức kiểm tra, giám sát để đảm việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu.
2.2.1.2. Phân cấp vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
46
Quản lý nhà nước cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tượng bị quản lý. Để làm rõ thêm thực chất vai trò nhà nước trong
phát triển cây trồng dược liệu chúng ta cần nghiên cứu về phân cấp vai trò nhà nước trong lĩnh vực này.
Hiện nay, ở nước ta, căn cứ vào cách phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ mà hình thành các cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Phân cấp quản lý nhà nước, trước hết được hiểu là phân cấp giữa trung ương với chính quyền cấp tỉnh; đồng thời, còn bao hàm cả phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau (Uông Chu Lưu, 2001). Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi
chủ yếu đề cập đến phân cấp giữa trung ương và chính quyền cấp tỉnh.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước Việt Nam là một Nhà nước đơn nhất, quyền lực nhà nước được tập trung, thống nhất; Nhà nước là chủ thể duy nhất mang chủ quyền quốc gia và các cơ quan nhà nước được tổ chức theo thứ bậc và hoạt động theo trật tự hiến định, luật định. Từ đây, việc xác định, mối quan hệ giữa trung ương - địa phương phải bảo đảm tuân thủ nguyên tắc về chủ quyền quốc gia là nơi thể hiện tính tối cao của quyền lực nhà nước trong quan hệ đối nội và tính độc lập của nó trong
quan hệ đối ngoại. Bên cạnh đó, mối quan hệ trung ương - địa phương phải được xác định sao cho phù hợp với nhu cầu, nguyên tắc dân chủ, bảo đảm quyền tự chủ, sáng tạo của địa phương và phát huy tối đa năng lực, tiềm năng của địa phương nhằm góp
phần vào sự phát triển toàn diện và vững mạnh của cả nước. (Uông Chu Lưu, 2001).
Theo các văn kiện của Đảng, phân cấp được tiến hành theo hướng “phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ và trên cơ sở nguyên tắc “chính quyền trung ương quản lý tập trung một số lĩnh vực theo ngành dọc
được xác định từ yêu cầu thực tế. Đối với một số lĩnh vực khác, trung ương trực tiếp quản lý một phần, còn một phần phân cấp cho địa phương quản lý”. Cũng với tinh thần đó mà hiện nay, phân cấp được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm quyền từ
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý cấp dưới nhằm đạt mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả quản lý (Bộ nội vụ, 2003).
Về thực chất, dù ở cấp nào, chính quyền trung ương hay chính quyền cấp địa phương, trong điều kiện kinh tế thị trường vai trò nhà nước đều tập trung ở những điểm then chốt là i)Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp;ii) Tổ chức xây dựng triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng và thực hiện các chính sách tạo cơ hội cho mọi loại hình doanh nghiệp tiếp cận
được các nguồn lực phát triển;iii) Và tổ chức kiểm tra, giám sát, tổng kết danh giá, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy và thực hiện quy hoạch, kế
47
hoạch và chính sách phát triển. Tuy vậy, ở mỗi cấp chính quyền việc thực hiện các nội dung vai trò nhà nước trên đây có sự khác nhau về phạm vi và mức độ quy định pháp lý. Về phạm vi, vai trò nhà nước trung ương có phạm vi rộng hơn là trong phạm vi cả nước, còn vai trò nhà nước cấp địa phương là giới hạn trọng phạm vi mỗi địa phương
(tỉnh, hoặc huyện xã). Về mức độ quy định pháp lý, vai trò nhà nước cấp trung ương được thực hiện chủ yếu thông qua những quy định mang tính pháp lý được tuân thủ một cách nghiêm ngặt dựa trên sức cưỡng chế của Nhà nước như Luật, Pháp lệnh,
Nghị định, thông tư; còn vai trò nhà nước cấp địa phương chủ yếu được thực hiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước dưới hình thức các quyết định của chính quyền địa phương.
Đặc điểm phân cấp quản lý nhà nước nói trên thể hiện trong vai trò nhà nước
đối với việc phát triển cây trồng dược liệu trên các khía cạnh sau đây.
Thứ nhất, đối với nhà nước trung ương i)Nhà nước trung ương tập trung xây dựng cơ sở pháp lý cho việc phát triển cây
trồng dược liệu. Cơ sở pháp lý này được thể hiện ở các văn bản pháp luật như luật, pháp lện, nghị định, thông tư về phát triển cây trồng dược liệu
ii) Nhà nước xây dựng các quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu cho từng vùng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng cũng như truyền
thống, tập quán của từng địa phương trong cả nước
iii)Nhà nước xây dựng hệ thống các chính sách tạo điều kiện chung cho mọi doanh nghiệp, các hộ gia đình trồng cây dược liệu được tiếp cận nguồn lực một cách
bình đẳng về đất đai, tài chính, tín dụng, đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thị trường….
iv) Nhà nước tổ chức, quản lý, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các vùng thực hiện
quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu trên phạm vi cả nước
Thứ hai, đối với chính quyền địa phương i)Trên cơ sở quy hoạch trồng cây dược liệu chung của cả nước, các địa phương
xây dựng quy hoạch và triển khai kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của địa phương mình
ii) Thông qua các quyết định, chủ trương, chình quyền các địa phương xây dựng các chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho người trồng cây dược liệu tiếp cận được
các nguồn lực phát triển cây trồng dược liệu một cách bình đẳng
iii)Chính quyền địa phương tổ chức triển khai, tiến hành kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, bổ sung và xử lý các tình huống xẩy ra trong quá trình thực hiện quy hoạch
và kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của địa phương.
48
2.2.2. Nội dung vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
2.2.2.1. Nhà nước xây dựng hệ thống chính sách để phát triển cây trồng dược liệu
Hệ thống chính sách có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế xã hội
nói chung, trong phát triển cây trồng dược liệu.
Thứ nhất, chính sách đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng, có tính quyết định đến việc hình thành và phát triển trồng cây dược liệu, nhất là khi nuôi trồng dược liệu đang ở giai đoạn đầu,
phát triển chủ yếu dựa theo chiều rộng. Vì vậy, để hình thành và phát triển bền vững ngành nuôi trồng dược liệu, cần khắc phục tình trạng mong muốn về ruộng đất và tạo điều kiện cho nông dân được thực hiện các quyền về ruộng đất.
Chính sách về đất đai nhằm mục tiêu cho người trồng dược liệu tiếp cận một cách dễ dàng với đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao đất, thuê đất để phát
triển cây trồng dược liệu, sử dụng đất hiệu quả, bền vững, công bằng giữa các loại hình cây trồng, thành phần kinh tế, đồng thời cũng phải tạo điều kiện cho người dân trồng cây dược liệu sử dụng đất đai như một nguồn lực tài chính đủ cơ sở pháp lý để tiếp cận với tín dụng, và các cơ hội thị trường, liên doanh, liên kết khác…
Để tạo quỹ đất, khuyến khích tích tụ ruộng đất phát triển cây trồng dược liệu, chính quyền địa phương có thể ban hành một số chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng mô
hình “giao đất giao rừng” trên địa bàn địa phương.
Hình thức quan trọng của chính sách đất đai cho phát triển trồng cây dược liệu là cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
một văn bản có tính pháp lý đảm bảo quyền của người dân trong việc khai thác, sử dụng diện tích đất đai được cấp giấy chứng nhận. Giấy chứng nhận này có thể thế chấp để vay vốn tại các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, chính sách vốn
Vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên... được sử dụng vào quá trình sản xuất. Nói một cách khái quát, vốn là toàn bộ tài sản được sử dụng để sản xuất, kinh doanh.
Vốn tồn tại dưới hai hình thức: vốn tài chính và vốn hiện vật. Vốn tài chính tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay cổ phiếu, vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức vật chất của quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...
Nguồn lực về vốn luôn là nhân tố quan trọng đối với tất cả các ngành nuôi
trồng, sản xuất, kinh doanh. Cũng như các ngành sản xuất khác, nguồn vốn cho phát
49
triển trồng cây dược liệu bao gồm: Nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn tự có của các hộ nông dân, nguồn vốn trong dân, nguồn vốn nước ngoài có thể huy động và các nguồn vốn hợp pháp khác.
- Mục tiêu của chính sách hỗ trợ vốn, đầu tư, tín dụng nhằm huy động có hiệu
quả mọi nguồn vốn để đầu tư phát triển cây trồng dược liệu, hài hòa giữa các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước và các nguồn vốn khác. Chính sách hỗ trợ vốn, đầu tư, tín dụng còn nhằm mục tiêu cho các hộ nông dân trồng cây dược liệu tiếp
cận một cách dễ dàng với các nguồn vốn tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ được vay vốn để tổ chức, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Nội dung của chính sách vốn: Chính sách đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng là cần thiết để đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn và phát triển ngày nuôi trồng dược liệu. Các nội dung và nhiệm vụ của chính sách đầu tư và tín dụng phục vụ phát triển trồng cây dược liệu bao gồm:
+ Tạo điều kiện để các hộ nông dân trồng dược liệu tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Nhà nước sử dụng công cụ hỗ trợ lãi suất nhằm tạo điều kiện cho nông hộ tiếp cận được nguồn vốn vay và lãi suất thích hợp.
+ Tăng mức đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước cho phát triển nông nghiệp,
nông thôn nói chung và trồng cây dược liệu nói riêng. Nguồn ngân sách này dành để đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó ưu tiên đầu tư thủy lợi, giao thông kết nối các vùng; ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản,
chế biến dược liệu,…
+ Thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án trên từng địa bàn để xây dựng hệ thống hạ tầng bên ngoài và hệ thống hạ tầng dẫn đến khu vực trồng cây dược liệu như: hệ thống giao thông, hệ thống đường điện,... Các hộ dân trồng dược liệu với quy
mô lớn được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông nội đồng, hồ đập, kênh mương tiêu thoát nước để phục vụ sản xuất.
Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các hộ nông dân được
vay vốn thuộc các chương trình hỗ trợ việc làm, chương trình giảm nghèo, tham gia các dự án phát triển nông, lâm nghiệp để mở rộng quy mô trồng.
+ Tăng dần vốn vay trung hạn và dài hạn cho các nông hộ, thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất, có thời hạn trả nợ riêng đối với tín dụng cho các chương trình ưu
tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thời hạn vay trả vốn phải phù hợp với chu kỳ sản xuất của cây trồng và thời gian khấu hao cơ bản trong nông nghiệp.
50
Tiêu chí cơ bản để đánh giá chính sách đầu tư, tín dụng là mức độ đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư và sản xuất của nông hộ trồng cây dược liệu. Nông hộ còn gặp khó khăn về vốn để đầu tư hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, và cây giống thì chính sách đầu tư tín dụng cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
Thứ ba, chính sách thuế
Trồng dược liệu hiện nay đang được chú trọng phát triển, tuy nhiên, việc trồng cây dược liệu phần lớn diễn ra ở các địa phương khó khăn, điều kiện phát triển kinh tế
xã hội còn hạn chế. Thêm nữa, việc xuất khẩu dược liệu ngày càng phải đối mặt với nhiều hình thức bảo hộ thương mại của các nước nhập khẩu. Bên cạnh các rào cản về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, trợ cấp xuất khẩu với sản phẩm ,... những quy định về xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn môi trường cũng sẽ ngày càng nhiều và khó khăn hơn đối
với các nước xuất khẩu. Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của dược liệu, quốc gia nào cũng cố gắng dựng lên các hàng rào kỹ thuật ở mức tối đa có thể. Thực chất đây là những rào cản kỹ thuật, là những hành vi bảo hộ thương mại mà các nước nhập khẩu
này dựng lên một cách tinh vi, nhằm hạn chế nguồn hàng của các nước vào thị trường nước họ, nhằm bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa.
Chính vì vậy, để phát triển cây trồng dược liệu, điều cần thiết là cần có những chính sách ưu đãi, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế như thuế đất nông nghiệp, thuế
sản xuất kinh doanh… nhằm tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích hộ nông dân nuôi trồng dược liệu mở rộng quy mô diện tích, phát triển kinh tế; đồng thời, có như thế mới thu hút sự đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào nuôi
trồng các loại cây dược liệu, góp phần cải tiến kĩ thuật công nghệ, tăng quy mô cả về số lượng và chất lượng cho ngành nuôi trồng dược liệu.
Chính sách thuế để phát triển cây trồng dược liệu phái đáp ứng yêu cầu sau:
+ Hỗ trợ người dân/doanh nghiệp nhằm khuyến khích họ tích cực cũng như có
động lực nhằm phát triển cây trồng dược liệu cả về quy mô và chất lượng của cây trồng dược liệu
+ Thu hút được đầu tư của không chỉ các doanh nghiệp trong và các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực trồng cây dược liệu trên địa bàn các tỉnh trong cả nước nói chung và các tỉnh thuộc phạm vi nghiên cứu của tác giả nói riêng.
Nội dung chủ yếu của chính sách thuế đối với phát triển cây trồng dược liệu là cần hướng vào: Hỗ trợ thuế đât sử dụng nông nghiệp cho người dân/doanh nghiệp
canh tác trên đất nong nghiệp để trồng cây dược liệu. Với thuế thu nhập của doanh nghiệp/hộ gia đình: có thể miễn thuế trong năm năm đầu khi thực hiện trồng cây dược
51
liệu để khuyến khích người dân/doanh nghiệp trồng cây dược liệu. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm năm tiếp theo với các doanh nghiệp/hộ gia đình trồng cây dược liệu
Thứ tư, chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
Khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế. KHCN được coi là "chiếc đũa thần mầu nhiệm" để tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ
đã làm cho chi phí về lao động, vốn, tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống, hay nói cách khác, hiệu quả sử dụng của các yếu tố này tăng lên. Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, khoa học và công nghệ là một yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Chính sách ứng dụng khoa học công nghệ vào trồng cây dược liệu có mục tiêu thúc đẩy, khuyến khích, tạo điều kiện nhằm giúp người trồng ứng dụng kịp thời tiến bộ
khoa học công nghệ vào trồng cây dược liệu để nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, giảm thiểu ảnh hưởng xấu tới môi trường. Chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào trồng cây dược liệu được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Phổ biến kịp thời các tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất và chế
biến cho các hộ nông dân;
+ Hỗ trợ đào tạo nhân lực cho chuyển giao công nghệ mới; Hỗ trợ vốn để đầu tư trang thiết bị, công nghệ mới; Hỗ trợ trực tiếp giống cây con mới có năng suất, chất lượng; Hỗ trợ lãi suất cho các khỏan vay của chủ trang trại để ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ .v.v.
Thứ năm, chính sách phát triển nguồn nhân lực
Trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất, sức lao động là yếu tố quyết định, mang tính sáng tạo, là nguồn lực không cạn kiệt. Có thể nói: "nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực", là "tài nguyên của mọi tài nguyên". Vì
vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, kinh nghiệm cao, có động lực được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản cho phát triển sản xuất. Nguồn nhân lực trước hết biểu hiện ở số lượng lao động, nhưng chất lượng lao động lại có yếu tố quyết định đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trình độ chuyên môn, năng lực quản lý của người trồng dược liệu có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của cây trồng này. Những nông hộ có
52
trình độ chuyên môn, học vấn cao, có trình độ quản lý tốt sẽ dễ dàng áp dụng các công nghệ tiến bộ vào sản xuất, dám đầu tư và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý và sử dụng các nguồn lực vào sản xuất một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
- Mục tiêu của chính sách phát triển nguồn nhân lực cho ngành nuôi trồng dược
liệu là đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được các yêu cầu nhân lực cho phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển cây trồng dược liệu. Trước hết là đảm bảo kiến thức và kỹ năng quản lý của các nông hộ, hợp tác xã và chủ doanh nghiệp thông
qua tổ chức có hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, các lớp tập huấn, các đợt tham quan các mô hình trồng cây dược liệu điển hình trong và ngoài tỉnh, thậm chí tham quan các mô hình phát triển cây dược liệu ở nước ngoài. Các nguồn nhân lực ngoài chủ doanh nghiệp, hợp tác xã cũng cần có chính sách đào tạo, phát triển để khu vực trồng cây
dược liệu có nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong nuôi trồng dược liệu thời kinh tế thị trường. Cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý là đối tượng chính sách phát triển nguồn nhân lực cho phát triển trồng cây dược liệu
hướng đến.
- Nội dung chính sách phát triển nguồn nhân lực cho trồng cây dược liệu là
+ Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng. Ở đây, không những chú ý đến chương trình đào tạo, bao gồm nội dung đào tạo, hình thức đào tạo và kinh phí cho
đào tạo. Nội dung chương trình đào tạo phù hợp sẽ có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cây trồng, tiến hành trồng và chăm sóc. Tuy nhiên, kinh phí đào tạo cũng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, xu hướng nhà nước và
người dân cùng đóng góp cho quá trình đào tạo là tất yêu. Tuy nhiên, đối tượng nông dân nghèo thì nhà nước cần hỗ trợ kinh phí đào tạo các lớp kỹ thuật trồng cây dược liệu. Các lớp bồi dưỡng cho cán bộ quản lý khu vực trồng cây dược liệu có thể nhận được một phần hoặc toàn bộ kinh phí hỗ trợ của Nhà nước.
+ Các chế độ, chính sách đối với người lao động trong khu vực trồng cây dược liệu cũng là một nội dung của chính sách phát triển nguồn nhân lực phát triển cây trồng dược liệu. Chính sách tiền lương, bảo hiểm, hợp đồng lao động… là những chính
sách mà nhờ đó, các chủ doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân có điều kiện thuận lợi để thuê mướn nhân công. Người lao động được đảm bảo quyền lợi, có động lực và gắn bó với công việc trồng dược liệu.
+ Cùng với đào tạo đối với các đơn vị và cá nhân trồng cây dược liệu, việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế ngành dược liệu từ Trung ương đến địa phương cũng nằm trong phạm vi đào tạo nguồn nhân lực phát triển cây trồng dược liệu của địa phương.
53
Tiêu chí đánh giá chính sách phát triển nguồn nhân lực phát triển cây trồng dược liệu là số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông hộ trồng cây dược liệu, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động trực tiếp tham gia trồng cây dược liệu. Chất lượng nguồn nhân lực chủ yếu thể hiện
qua trình độ đào tạo và kinh nghiệm.
Thứ sáu, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Để tổ chức và quản lý Nhà nước được thực sự tốt đối với ngành nuôi trồng
dược liệu thì Nhà nước hay chính quyền các địa phương cần chú trọng đến công tác đầu tư và quản lý xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu. Trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cần trên cơ sở quy hoạch của ngành nuôi trồng dược liệu, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
nói chung của địa phương, đầu tư phát triển gắn với yếu tố hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, gắn phát triển hạ tầng với bảo vệ môi trường. Đầu tư xây dựng hạ tầng ngành nuôi trồng dược liệu cần có chiến lược lâu dài và bền bỉ. Nhà nước có các chính sách
khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngành nuôi trồng dược liệu, xây dựng và thực hiện các dự án phát triển hạ tầng ngành nuôi trồng dược liệu.
Tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng ngành nuôi trồng dược liệu bao gồm rất nhiều các hạng mục công trình đầu tư, đó có thể là sự đầu tư vào hệ thống đường giao
thông, hệ thống đường điện, hệ thống thủy lợi, hệ thống chợ và siêu thị, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống sân kho, kho mát. Đầu tư vào việc mua sắm máy móc, trang thiết bị, công cụ dụng cụ, phương tiện vận chuyển… phục vụ sản xuất, chế biến
và tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất dược liệu thường đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Vì vậy, cần có vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước và cần có chính sách huy động thêm sự đóng góp bằng lao động hay nguồn vốn đối ứng của dân cư nông thôn và của các cơ sở SXKD dược liệu trong
từng vùng sản xuất, thực hiện xã hội hóa đầu tư vào ngành nuôi trồng dược liệu. Để giải quyết vấn đề này, các địa phương cần ưu tiên tập trung vốn đầu tư cho các vùng chuyên canh sản xuất dược liệu, trồng cây dược liệu chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Thứ bảy, chính sách thị trường sản phẩm
Phát triển thị trường là yếu tố quan trọng để ổn định và phát triển các ngành sản xuất, bao gồm cả ngành nuôi trồng dược liệu. Thị trường nói chung bao gồm cả thị trường các yếu tố đầu vào sản xuất như: nguồn nguyên vật liệu, nguồn vốn, nguồn
nhân lực; thị trường đầu ra bao gồm thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và thị trường xuất khẩu. Trong đó, thị trường các yếu tố đầu vào là yếu tố quyết định của quá
54
trình sản xuất, còn thị trường đầu ra có ý nghĩa quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngành nuôi trồng dược liệu thông qua việc tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm từ cây trồng dược liệu nói riêng luôn là vấn đề được đặt ra. Vì vậy, chính sách thị trường có ý nghĩa quan
trọng để phát triển cây trồng dược liệu theo hướng bền vững ở bất kỳ địa phương nào. Chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu được thực hiện theo một số hướng chủ yếu sau:
- Chính quyền một mặt khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp đặc biệt là đầu tư vào cây trồng dược liệu, mặt khác tạo điều kiện và giúp các nông hộ trồng dược liệu liên kết với nhau ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm ổn định, lâu dài cho các nhà máy chế biến, các doanh nghiệp chuyên tiêu thụ sản phẩm, giúp
người trồng dược liệu tìm kiếm thị trường mới trong nước và nước ngoài.
- Các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông hộ trồng cây dược liệu chủ động tham gia các hội chợ chuyên ngành được tổ chức trong nước cũng như ở nước ngoài để tìm
kiếm thị trường mới cũng như nắm bắt kịp thời xu thế tiêu dùng đối với các loại sản phẩm chủ yếu và có thế mạnh của địa phương như: đỗ trọng, đương quy, atiso, vv...
- Các cơ quan của địa phương khuyến khích đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu các thị trường, xúc tiến thương mại gắn với từng sản phẩm, hàng hóa cụ
thể của địa phương; tăng cường cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại nhằm cung cấp kịp thời cho người trồng dược liệu về giá cả và nhu cầu thị trường.
- Hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm từ cây trồng dược liệu
của địa phương. Đẩy mạnh hệ thống chế biến dược liệu ở địa phương để góp phần tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu ngay tại địa phương.
- Đẩy mạnh việc xúc tiến thị trường xuất khẩu. Đối với các sản phẩm đã có thị trường thì cần giữ vững và mở rộng thêm thị trường mới, đối với sản phẩm chưa có thị
trường cần tích cực tìm kiếm và phối hợp nhiều hình thức như quảng cáo, tham gia hội chợ, giới thiệu sản phẩm từ các loại cây trồng dược liệu trên Website.
- Thực hiện các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các doanh nghiệp,
hợp tác xã và nông hộ trồng cây dược liệu, phát triển loại hình hợp tác xã dịch vụ, các tổ chức thu mua sản phẩm từ cây trồng dược liệu một cách đồng bộ, tránh sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu vực trồng dược liệu và tránh bị ép giá do các thương lái.
Mục tiêu và tiêu chí đánh giá chính sách tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược
liệu là mức độ thuận lợi và khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu.
55
2.2.2.2. Nhà nước tổ chức quản lý thực hiện chính sách phát triển cây trồng dược liệu
Tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu còn khó khăn có nghĩa là chính sách tiêu thụ còn có vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện.
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu là đặt ra các mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu lâu dài, xây dựng kế hoạch phát triển dược liệu một cách khoa học, bố trí sắp xếp cây trồng dược liệu cho một tương lai dài hạn. Cho phép chủ thể quản lý cũng như mọi bộ phận trong hệ thống quản lý nhận thức thống
nhất về hướng đi, cách đi thích hợp để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu giúp các nhà quản lý ngành nuôi trồng dược liệu chủ động thích ứng với những thay đổi trong quá trình phát triển của
thực tiễn do có những dự đoán trước, chủ động tạo ra những biến đổi có lợi cho quá trình phát triển và hướng các nhà quản lý tập trung vào những nhiệm vụ trọng yếu.
Chính sách quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn có mục tiêu hình thành các vùng chuyên canh, định hình cho một thời kỳ dài về nguồn lực cho phát
triển cây dược liệu nhằm đạt mục tiêu phát triển ngành dược liệu.
- Nguyên tắc của chính sách quy họach phát triển cây trồng dược liệu của địa phương là tuân thủ quy họach của Trung ương; phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương; khai thác hiệu quả cao nhất các nguồn lực của địa phương cho
phát triển kinh tế xã hội .
-Yêu cầu của việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cây trồng dược
liệu cần phải chú ý:
+ Quy họach, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của địa phương phải quán triệt các quan điểm, mục tiêu định hướng và nguồn lực chủ yếu phát triển cây trồng dược liệu của địa phương.
+ Quy hoạch, kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu phải xuất phát từ thực tế, không nên định mục tiêu trong một thời gian quá ngắn, kế hoạch xây dựng các nhà máy chế biến dược liệu cần phải gắn với quy hoạch vùng trồng cây dược liệu, quy hoạch mạng lưới tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu để đáp ứng được nguồn nguyên
liệu đầu vào và giải quyết được vấn đề đầu ra cho sản phẩm dược liệu chế biến. Kế hoạch xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu phải gắn với quy hoạch vùng sản xuất, kế hoạch phát triển nhà máy chế biến và phải
56
phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng giai đoạn nhất định để đáp ứng được một cách thuận tiện cho thị trường trong và ngoài nước.
- Nội dung cơ bản của việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cây
trồng dược liệu gồm:
+ Xây dựng chiến lược và quy hoạch trồng cây dược liệu là sự bố trí về thời gian, không gian, diện tích vùng trồng dược liệu, cơ cấu trồng dược liệu, loại cây dược liệu, sản lượng dược liệu trồng, đội ngũ lao động … các điều kiện vật chất để hình thành nên vùng
cây trồng dược liệu chuyên canh cho tương lai. Quy hoạch vùng trồng dược liệu là để có thể phát triển cây trồng dược liệu thành sản xuất hàng hóa lớn, phát triển các vùng trồng dược liệu chuyên canh với những sản phẩm từ cây trồng dược liệu có chất lượng cao phục vụ thị trường nội địa và hướng tới xuất khẩu.
+ Xây dựng chiến lược và quy hoạch các nhà máy chế biến dược liệu, khu công nghiệp chế biến dược liệu là kế hoạch phát triển công nghiệp dược liệu, sự sắp xếp bố trí về thời gian, không gian, số lượng các nhà máy, diện tích nhà máy, công suất hoạt
động chế biến của nhà máy, khả năng tiêu dùng nguyên liệu dược liệu đầu vào phục vụ chế biến, cơ cấu dược liệu chế biến, loại sản phẩm dược liệu chế biến, sản lượng dược liệu chế biến,… các điều kiện về hạ tầng cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, máy móc, đội ngũ cán bộ kỹ thuật để hình thành các nhà máy chế biến dược liệu, khu công
nghiệp chế biến dược liệu cho tương lai.
+ Xây dựng chiến lược và quy hoạch hệ thống phục vụ tiêu thụ sản phẩm từ cây trồng dược liệu là kế hoạch phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu, sự
sắp xếp về thời gian, không gian, số lượng các nhà máy chế biến dược liệu, xây dựng và thiết kế các kênh phân phối tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu, kế hoạch đầu tư các phương tiện vận chuyển phục vụ tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu,… các điều kiện về kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất, hệ thống giao thông vận tải, đội ngũ cán bộ quản lý
thị trường để hình thành nên hệ thống mạng lưới cơ sở phục vụ tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu cho tương lai.
Tóm lại, xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu tạo ra
cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và quản lý nhà nước đối với ngành nuôi trồng dược liệu trên một địa bàn. Từ chiến lược phát triển và quy hoạch sẽ tạo ra sự thu hút các tổ chức và cá nhân tham gia về nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, công nghệ… dưới các loại hình khác nhau để phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu.
Quy hoạch tổng thể về phát triển trồng cây dược liệu phải gắn kết được các khâu sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu với nhau trở thành một thể thống
57
nhất và đồng bộ, trong khi tổ chức thực hiện quy hoạch chúng ta cần phải chú ý đến tổng thể tất cả các vấn đề về lao động, xã hội và môi trường tại địa phương.
Thứ hai, tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển
cây trồng dược liệu
Để phát triển cây trồng dược liệu bền vững thì điều đầu tiên là cần có quy hoạch và kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu hợp lý. Tuy nhiên, sẽ là vô nghĩa nếu chúng ta không có lộ trình và cách thức để biến những quy hoạch và kế hoạch trên giấy được thực
hiện trong thực tiễn. Chính vì vậy, công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu là rất quan trọng
- Yêu cầu của công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế
hoạch phát triển cây trồng dược liệu là:
+ Công tác tổ chức triển khai thực hiện phải có lộ trình cụ thể, quản lý gắt gao từ trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng quy hoạch và kế hoạch đã đề ra; đồng thời, cũng xem xét điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch cho phù
hợp hơn với thực tiễn nếu trong quá trình triển khai nhận thấy những hạn chế bất cập chưa phù hợp với thực tiễn địa phương.
+ Cơ quan quản lý nhà nước cần liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân trồng cây dược liệu để thực hiện các phương án đã đề ra với phương
châm “cùng làm, cùng giám sát, tạo hiệu quả”
- Nội dung của công tác triển khai thực hiện quy hoạch , kế hoạch phát triển cây
trồng dược liệu bao gồm những hợp phần chính sau:
+ Phổ biến rộng rãi quy hoạch, kế hoạch đến từng địa phương. Xây dựng các phương án triển khai hợp lý cho từng địa phương cụ thể, tránh tình trạng phương án thực hiện xa rời thực tế, không phù hợp với thực tiễn địa phương, làm giảm tính khả thi của phương án.
+ Giao nhiệm vụ trực tiếp cho cán bộ quản lý nhằm giám sát và thực hiện các
2.2.2.3. Nhà nước kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
phương án đề ra một cách hợp lý và hiệu quả.
Quy hoạch và kế hoạch được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, song đối với từng địa phương cụ thể thì có những đặc trưng khác nhau. Chính vì vậy, trong quá trình
58
thực hiện quy hoạch, kế hoạch đề ra không thể tránh khỏi những vấn đề nảy sinh. Do đó, việc xây dựng các phương án kiểm tra , giám sát, điều chỉnh , bổ sung , xử lý khi có các vấn đề nảy sinh là hết sức cần thiết, góp phần hạn chế những rủi ro và nâng cao chất lượng quy hoạch và kế hoạch đã đề ra.
- Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát là
+ Thường xuyên kiểm tra, thực hiện song song với công tác triển khai thực hiện quy hoạch kế hoạch nhằm phát hiện sớm những vấn đề nảy sinh để kịp thời đưa ra các
phương án xử lý.
+ Công tác kiểm tra , giám sát, điều chỉnh bổ sung , xử lý quy hoạch kế hoạch cần chú trọng đến tính chính xác, khả thi , kịp thời; tránh những thủ tục rườm rà không cần thiết gây lãng phí và làm mất thời gian trong việc triển khai thực hiện quy hoạch,
kế hoạch đã đề ra từ trước.
Nội dung của công tác kiểm tra, giám sát là:
-Kiểm tra việc tuân thủ quy hoạch về trồng cây dược liệu theo các chỉ tiêu đã
được phê duyệt như diện tích, cơ cấu cây trồng,
- Phát hiện ra những vấn đề, nội dung còn bất hợp lý, chưa sát với thực tiễn. Đưa ra phương án kiểm định phù hợp; nếu nhận thấy cần phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn cần nhanh chóng đưa ra phương án, đề xuất để chỉnh sửa bổ
sung kịp thời góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch; tiết kiệm chi phí triển khai.
- Khi có vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện cần sớm đưa ra phương án
xử lý phù hợp, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn hại về kinh tế - xã hội của địa phương.
Đồng thời, Nhà nước ban hành các danh mục cây trồng dược liệu, những hành vi kinh doanh dược liệu bị cấm, cụ thể trong luật dược, các Nghị định, thông tư, các
quy định của Chính phủ, các Bộ ngành và các quyết định của địa phương…
2.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu.
2.2.3.1. Nhận thức, quan điểm, chủ trương phát triển cây trồng dược liệu
Nhu cầu phát triển cây trồng dược liệu là tất yếu khách quan của phát triển kinh tế xã hội, vừa đem lại lợi ích cho xã hội, vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân trồng cây dược liệu trên cơ sở khai thác hiệu quả nhất nguồn lực
59
kinh tế của đất nước, của địa phương. Nhu cầu này có được thực hiện nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào vai trò của Nhà nước. Nếu nhận thức được vai trò của phát triển cây trồng dược liệu đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương thì Nhà nước sẽ có vai trò thúc đẩy, tạo điều kiện cho loại hình kinh tế này phát triển và
ngược lại sẽ hạn chế.
Xã hội ngày càng phát triển, tình trạng kiểm soát chưa chặt chẽ về các loại thực phẩm chứa hóa chất, môi trường ô nhiễm… là các tác nhân dẫn đến suy giảm sức khỏe
của người dân và làm quá tải hệ thống bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh khắp cả nước, làm gánh nặng cho ngành y tế dự phòng trong tương lai, và tình trạng nhập siêu các loại dược liệu, dược phẩm từ nước ngoài đang là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và an ninh ngành dược liệu ở việt nam. Vì vậy, vấn đề phát triển cây dược liệu
hiện nay đang được đưa lên hàng đầu.
Cũng như các ngành khác, cây trồng dược liệu cũng cần đỏi hỏi rất nhiều điều kiện để phát triển như vấn đề về điều kiện tự nhiên, thị trường, sự phát triển của công
nghiệp dược liệu... Để tạo ra những điều kiện thuận lợi đó thì vai trò của nhà nước là cực kì quan trọng. Chính vì vậy, những quan điểm, những chủ trương, của Nhà nước có tác động rất lớn đến việc phát triển cây trồng dược liệu. Chủ trương, quan điểm đúng đắn sẽ có những chính sách phù hợp để phát huy được vai trò của nhà nước trong
phát triển dược liệu
Để có chủ trương, quan điểm đúng đòi hỏi lãnh đạo các địa phương phải
i)Nắm chắc những định hướng phát triển kinh tế cây trồng dược liệu trên phạm
vi cả nước
ii) Nắm được nhu cầu về phát triển dược liệu cả trong nước và ngoài nước trong
điều kiện có sự biến đổi của quốc tế
iii) Đặc biệt là phải nắm vững thế mạnh của địa phương về tiềm năng, điều
thích ứng đối với sự phát triển cây trồng dược liệu ở các vùng khác nhau. Sự thay đổi của các chủ trương, chính sách, quan điểm buộc vai trò nhà nước phải thay đổi theo, thích ứng với những thay đổi trong các chủ trương, chính sách để có thể phát triển mô
2.2.3.2. Bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà nước các cấp
hình cây dược liệu một cách hiệu quả nhất.
Để thực hiện tốt những chủ trương, chính sách phát triển cây trồng dược liệu thì vai trò của bộ máy quản lý và năng lực điều hành trong quản lý nhà nước các cấp là cực kì quan trọng. Chủ trương chính sách được xây dựng có hợp lý hay không?, có
60
được hiểu đúng hay không? Tính khả thi trong công tác triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch, hoàn thành chủ trương, thực thi chính sách có tốt hay không? Tất cả đều phụ thuộc vào năng lực của cán bộ quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, khả năng điều hành của bộ máy quản lý nhà nước. Chính vì vậy, nhà nước
muốn thực hiện tốt vai trò quản lý trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong phát triển cây trồng dược liệu nói riêng thì cần phải kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lược quản lý nhằm nâng cao năng lực điều hành trong quản
lý nhà nước các cấp.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới và hội nhập, nền kinh tế không ngừng phát triển, cơ chế thị trường đang ngày càng biến đổi tiến gần hơn với xu thế phát triển của thế giới. chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì việc khai thác và thu hái dược liệu trong tự nhiên, thu hái nhiều năm không có ý thức bảo tồn, tái sinh đã làm suy giảm nghiêm trọng tài nguyên cây thuốc. Hơn nữa, việc nuôi trồng, khai thác, sản xuất
còn manh mún, tự phát, có nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng chưa thật sự được thực thi một cách nghiêm túc từ nguyên liệu đến thành phẩm. Điều này xuất phát từ cách nhìn thiểm cận, chỉ vì cái lợi trước mắt của đa số người dân thiếu hiểu biết gây nên.
Vì vậy, để thực hiện thành công và giải quyết được các mục tiêu đã đề ra trong quy hoạch kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu thì cần quan tâm thỏa đáng đến khâu tổ chức thực hiện và được bắt đầu từ nguồn nhân lực cần thiết cho công việc này. Nhà nước
cần phải rà soát lại bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương về tất cả các lĩnh vực nói chung và về quản lý phát triển cây dược liệu nói riêng sao cho gọn nhẹ, hiệu quả. Cần sắp xếp, tổ chức lại bộ máy và cơ chế quản lý theo hướng gắn với nhu cầu thực tiễn, giảm chồng chéo, cồng kềnh; các hợp tác xã, hộ trang trại, doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực
trồng cây dược liệu theo hướng “chuỗi giá trị sản phẩm” đảm bảo mọi thành phần tham gia đều có lợi nhuận thỏa đáng.
Chính vì lẽ đó, vai trò của nhà nước là cực kì quan trọng trong việc định hướng
phát triển của nền kinh tế nói chung và trồng cây dược liệu nói riêng. Nhà nước cần phải đi trước một bước trong công tác quy hoạch, đề ra chiến lược phát triển cây trồng dược liệu theo hướng bền vững. quản lý các cấp cần phải được nâng cao để giúp bộ máy quản lý nhà nước hoạch định ra những chiến lược phát triển cây dược liệu hợp lý,
có tầm nhìn góp phần phát triển cây trồng dược liệu của nước ta. Đưa ngành này phát triển tương xứng với tiềm năng của nó.
2.2.3.3. Công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện
61
Để phát triển cây trồng dược liệu thì cần thống nhất phương án và phối hợp thực hiện của các tổ chức , cá nhân từ trung ương đến địa phương. Cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa 3 bên Nhà nước, Doanh nghiệp và người dân. Trong đó Nhà nước đóng vai trò là người “xây móng”. Với vai trò định hướng, việc đẩy mạnh nghiên cứu nuôi trồng cây Dược liệu phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của từng vùng miền có tính chất
quyết định, song cần phải thống nhất xuyên suốt và phải có lộ trình cụ thể, tránh lãng phí. Cần có những chính sách khuyến khích các địa phương quan tâm đầu tư đến việc nuôi trồng Dược liệu bởi giá trị kinh tế và vấn đề an sinh xã hội mang lợi rất lớn.
Bên cạnh đó, công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen dược liệu cũng cần phải đẩy mạnh nhằm đảm bảo nguồn dược liệu chất lượng cao. Tổ chức nuôi trồng Dược liệu cần nghiên cứu theo mô hình nông trường trước đây nhằm đảm bảo quyền lợi và
tăng tính hiệu quả cho Doanh nghiệp và người nuôi trồng. Nếu giải quyết triệt để, chắc chắn ngành Dược liệu sẽ còn nhiều cơ hội phát triển, vừa góp phần chăm sóc sức khỏe, vừa cải thiện mạnh mẽ đời sống của nhân dân
Để phát triển cây trồng dược liệu thì rất cần có tổ chức thích hợp, đổi mới quản lý, coi phát triển dược liệu và công nghiệp dược là một mặt trận kinh tế quan trọng, có
sự chỉ đạo, đầu tư mạnh mẽ của Chính phủ. Không đầu tư chất xám, không quyết liệt chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức việc phát triển dược liệu có qui mô lớn và ổn định, bền vững, thì rất khó phát triển cây trồng dược liệu như mong muốn. Điều này dẫn đến:
nước ta sẽ mãi mãi phụ thuộc vào nguyên liệu dược của nước ngoài; công nghệ dược chỉ dừng ở gia công, bao gói; nền y học cổ truyền, bản sắc văn hóa y dược học cổ truyền sẽ ngày càng mai một.
Để thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch phát triển cây dược liệu thì trước hết cần phải xác định những ngành nào, địa phương nào, cơ quan, cá nhân nào tham gia vào việc thực hiện chương trình, dự án phát triển cây trồng dược liệu, trách nhiệm, nghĩa
vụ, quyền lợi của mỗi thành phần đó ra sao. Mỗi thành phần này phải nắm được mình làm gì, khối lượng công việc, khi nào bắt đầu làm, khi nào kết thúc, công việc diễn ra ở đâu? Trình tự thực hiện như thế nào? Đồng thời những người này phải nắm bắt được
công việc của họ có quan hệ như thế nào đến công việc của các cơ quan khác.
Để phối hợp hoạt động của các cơ quan nói trên một cách nhịp nhàng và trôi chảy thì cần phải thành lập cơ quan Quản lí chương trình. Cơ quan này vạch ra kế hoạch triển khai thực hiện chương trình, có trách nhiệm chủ trì phối hợp hoạt động giữa các đối tác liên quan đến việc tổ chức thực hiện các dự án, mô hình trồng và phát
triển cây trồng dược liệu nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
62
2.2.3.4. Năng lực trình độ và ý thức chấp hành của các hộ và doanh nghiệp trồng dược liệu
Tóm lại, công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện có tốt thì vai trò của nhà nước mới được phát huy. Nhà nước mới thật sự tạo ra được nền móng vững chắc cho sự phát triển của cây trồng dược liệu. Đưa cây trồng dược liệu trở thành một trong những cây trồng mũi nhọn mang lại giá trị kinh tế cao.
Năng lực trình độ và ý thức chấp hành của các hộ và doanh nghiệp trồng dược
liệu ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu bởi:
Trước hết, hoạt động trồng cây dược liệu là hoạt động mang tính đặc thù riêng, với cả yêu cầu chăm sóc cũng như đầu ra của sản phẩm, sản phẩm yêu cầu độ chất lượng sản phẩm rất lớn. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp/hộ gia đình không đủ năng
lực sẽ rất khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước để có thể hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của cây trồng dược liệu.
Thêm vào đó, hộ gia đình/ doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp tham gia vào việc phát triển cây trồng dược liệu- bản thân họ là những người trực tiếp trồng dược liệu, nếu doanh nghiệp/hộ gia đình không có ý thức chấp hành và chiến lược phát triển cây trồng
dược liệu phù hợp với chiến lược xây dựng chung của các cơ quan quản lý nhà nước thì vai trò của nhà nước với phát triển cây trồng dược liệu cũng không thể thực hiện.
Năng lực trình độ và ý thức chấp hành của các hộ và doanh nghiệp trồng dược liệu ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu dưới những hình thức:
- Năng lực về đất đai, vốn, lao động, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật của
Doanh nghiệp/hộ gia đình
- Ý thức chấp hành những quy định của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu; chấp hành tốt quy định về phát
triển cây trồng dược liệu, về chất lượng và quy mô phát triển cây trồng dược liệu.
2.3. Kinh nghiệm thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu và bài học rút ra cho các tỉnh miền Bắc Việt Nam
Thế kỷ 21 là thế kỷ sinh học và công nghệ sinh học, dược liệu là tài nguyên di truyền-tài nguyên tái tạo, cần tạo điều kiện để phát triển thế mạnh của dược liệu,
thúc đẩy nó trở thành nhân tố làm cho nhân dân có đủ thuốc để chăm sóc sức khỏe, người dân có được nguồn thu nhập từ dược liệu, những điều đó sẽ góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vai trò của dược liệu là rất quan trọng vì vậy nhà nước quan tâm đến sự phát triển của lĩnh vực này là điều tất yếu. Nhà nước cần xác
63
định mục tiêu, phương hướng và đề ra giải pháp nhằm định hướng sự phát triển cây trồng dược liệu.
2.3.1. Thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
2.3.1.1. Thực tiễn một số nước trên thế giới
Nhà nước ưu tiên các nghiên cứu để thúc đẩy và phát triển cây trồng dược liệu. Mỗi quốc gia khác nhau thì có các quyết định nghiên cứu, các phương pháp tiếp cận, định hướng khác nhau nhằm phát triển cây trồng dược liệu bền vững
Kinh nghiệm của Mexico
Tại Mexico, Nhà nước ưu tiên cho công tác phổ biến, kiểm chứng và điều chỉnh
các kiến thức về y học cổ truyền với sự tham gia hỗ trợ của các nhà nghiên cứu khoa học. Cách tiếp cận này tạo ra sự hợp tác chặt chẽ với các thầy lang trong hệ thống y học cổ truyền, đặc biệt chú ý đến các phương thuốc đã được sử dụng trong y học cổ
truyền để đưa ra định hướng phát triển loại dược liệu nào cho phù hợp với sự phát triển của ngành y học cổ truyền.
Quan tâm đến việc phát triển nguồn nguyên liệu, xây dựng các mô hình phát triển cây dược liệu.Điều đó cho phép phản hồi tới các người dân, nhà nghiên cứu và
các y, bác sĩ và cho cộng đồng nói chung. Nhà nước đề xuất việc thiết kế các nghiên cứu dược lý thực nghiệm để kiểm tra chất lượng và điều kiện sống cần thiết của các loại dược liệu như nước, điều kiện khí hậu, đất đai… được sử dụng trong y học cổ truyền, trong phát triển nguồn nguyên liệu dược liệu, nhằm tìm ra các phương pháp
nuôi trồng hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả của nuôi trồng dược liệu. Việc xây dựng một hệ thống các loại thảo dược cơ bản thường dùng trong y học cổ truyền được đề xuất nhằm đưa ra các định hướng bảo tồn và phát triển các loại dược liệu quý hiếm.
Việc phát triển cây trồng dược liệu được ưu tiên theo hướng phục vụ các định hướng ngành y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe quốc gia.
Nhà nước Mexico cũng đưa ra nhiều chính sách đãi ngộ, khuyến khích cá nhân
đề xuất mô hình nghiên cứu trồng cây dược liệu một cách hiệu quả. Vì vậy, có nhiều nhóm người Mexico bắt đầu tìm tòi và nghiên cứu phát triển các loại cây thuốc, tích lũy những kiến thức về các loại cây thuốc trong suốt ba thế kỉ qua, sau đó tiến hành các nghiên cứu và xây dựng nên hệ thống học liệu về dược liệu của Mexico. Trên cơ
sở đó, đưa ra các chính sách cụ thể để phát triển mô hình trồng cây dược liệu. Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các loại dược liệu sẽ được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp người dân cập nhật thông tin nhanh chóng.
64
Các nhóm làm việc mang tính đa ngành, bao gồm các bác sĩ, nhà nhân chủng học, thực vật học, hóa học, dược học, và nhân viên hỗ trợ khác. Cách tiếp cận này đã tỏ ra rất hiệu quả và nhà nước Mexico đã phát huy được vai trò của mình trong lĩnh vực này.
Kinh nghiệm Nigeria
Khác với nhà nước Mexico, nhà nước Nigeria lại đặt ra các nguyên tắc, các
chuẩn mực đề nghị mọi người làm theo.
Qui định việc phát triển mô hình trồng cây dược liệu phải dựa trên các cơ sở
văn hóa xã hội của y học cổ truyền trong nghiên cứu thì mới được công nhận
Việc nghiên cứu mô hình trồng cây dược liệu phải thỏa mãn các mục tiêu của
ngành y
Ba lực lượng đặc nhiệm đã được đề xuất ở cấp quốc gia để thu thập thông tin, nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu và cung cấp thông tin cho sự phát triển của cây trồng dược liệu, phục vụ đắc lực cho y học cổ truyền.
Tuy nhiên, với sự bất cập trong quản lí, gò bó, bắt ép thực hiện theo, không phân cấp ngành phối hợp với địa phương hỗ trợ người dân trồng và phát triển cây trồng dược liệu nên việc phát triển ngành y ở khu vực này còn hạn chế.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong phát triển dược liệu, Trung Quốc đã xây dựng quy hoạch chi tiết phát triển dược liệu với dung lượng 350 trang, trong đó trình bày các nội dung khác nhau: (1) Qui hoạch phát triển nguồn nguyên liệu, bao gồm nguyên liệu mọc tự nhiên và
vùng trồng; (2) Qui hoạch hệ thống sản xuất Trung dược; (3) Qui hoạch hệ thống kinh doanh và hợp tác quốc tế; (4) Qui hoạch NCKH và phát triển công nghệ; (5) Qui hoạch đào tạo nguồn nhân lực và phát triển hệ thống khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Như vậy có thể thấy bản quy hoạch của Trung Quốc gắn chặt chẽ giữa phát triển
nguồn nguyên liệu và đầu ra, trong đó hợp tác quốc tế cũng là biện pháp tạo đầu ra
(1) Về quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu
Trung Quốc hiện có 12807 dược liệu gồm 11146 loài cây thuốc, 1581 loài
động vật dùng làm thuốc và 80 khoáng chất . Hiện đang trồng trên 300 loài cây thuốc tại 600 vùng, đang sử dụng khoảng 100000 ha đất, năng suất hàng năm đạt khoảng 350000 tấn khô, tạo việc làm cho 340000 người chuyên sinh sống bằng nghề trồng cây thuốc, đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu.
65
Trong quy hoạch, Trung Quốc chủ yếu tập trung ở 100 vùng tại 8 tỉnh: Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Cát Lâm, Vân Nam, Ninh Hạ, Sơn Tây, Quí Châu và Quảng Tây. Năm 2015 có 60 vùng cung cấp đủ nhu cầu trong nước 523000 tấn và 240000 tấn xuất khẩu, trong đó 200000 tấn là dược liệu thô .
(2) Về Quy hoạch hệ thống sản xuất thuốc trung dược
Hiện tại Trung Quốc có 4000 cơ sở sản xuất trung dược, đang sản xuất khoảng 4000 loại thuốc, thuộc 30 dạng bào chế khác nhau, trong đó 1500 cơ sở sản xuất thuốc
phiến, doanh thu đạt 54327 tỷ nhân dân tệ, chiếm 18 % doanh thu toàn ngành công nghiệp, lợi nhuận đạt 5471 tỷ nhân dân tệ, chiếm 31% lợi nhuận công nghiệp, trong đó có 16 công ty đạt doanh số trên 1 tỷ.
Trong qui hoạch, ưu tiên phát triển 15 tập đoàn công nghiệp Trung dược quy
mô lớn, 5 tập đoàn mũi nhọn có doanh số trên 5 tỷ nhân dân tệ và 10 tập đoàn đạt doanh số trên 3 tỷ, tập trung ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Vân Nam, Tứ Xuyên, Nam Ning như tập đoàn: Tongrengtang, Zhongxin, Tianxin, Yuannan, Baiyao, Nanjing medical company limited...
(3) Qui hoạch hệ thống kinh doanh và hợp tác quốc tế
Hiện tại Trung Quốc có 11360 cơ sở kinh doanh, 35339 cửa hàng, 17 chợ chuyên kinh doanh dược liệu, tổng doanh số ức tính 110,3 tỷ nhân dân tệ vào năm
2010 (khoảng 11 tỷ bảng Anh), và 18,8 tỷ vào năm 2015. TQ đang xuất khẩu sang 130 nước, doanh số 600 triệu USD, chiếm 3-5 % doanh số kinh doanh dược liệu và thuốc Y học cổ truyền toàn thế giới
(4) Qui hoạch về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Hiện tai Trung Quốc có 17 phòng thí nghiệm hoặc trung tâm nghiên cứu trọng điểm về Trung dược, 90 tổ chức nghiên cứu cấp vùng hoặc địa phương với 110000 cán bộ NCKH, trong đó một số labo đạt GLP hoặc GCP (good chemical practice ), 37 loại
Trung dược đạt huy chương vàng quốc gia, phân lập 120 loại hóa chất tinh khiết, xây dựng tiêu chuẩn 220 dược liệu, đã cấp 1141 số đăng ký cho Trung dược, đưa dược liệu tham gia thành công trong phòng chống dịch SARS và cúm gia cầm
Trong qui hoạch Trung Quốc xác định 4 mục phải đạt là (1) phát triển trung dược; (2) đổi mới công nghệ; (3) hiện đại hóa Trung dược ở một số lĩnh vực và (4) mở rộng HTQT
(a) Nhà nước đầu tư xây dựng 2 chương trình phát triển dược liệu và Trung
dược (ngắn và dài hạn
66
(b) Qui hoạch đổi mới và công nghiệp hóa Trung dược
(c) Qui hoạch đào tạo và phát triển hệ thống khám chữa bệnh bằng Y học
2.3.1.2. Thực tiễn vai trò nhà nước trong phát triển cây trông dược liệu ở một số tỉnh ở nước ta
cổ truyền
Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
Là một tỉnh miền Trung Việt Nam, so với các địa phương khác trong cả nước, Nghệ An là tỉnh có sự đa dạng sinh học rất cao, trong đó khu vực miền Tây được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thiên nhiên thế giới. Sự đa dạng về tiềm
năng đất đai và khí hậu khiến nguồn tài nguyên thực vật nói chung và dược liệu nói riêng tại các địa phương trên địa bàn tỉnh rất phong phú và đa dạng. Để khai thác lợi thế này, nhất là tại các huyện miền Tây, nhà nước đã chỉ đạo rằng “việc phát triển dược liệu gắn
với công nghiệp dược là hướng đi đúng đắn, vừa góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển rừng bền vững, vừa tạo cơ sở để người dân có điều kiện làm giàu.”
Với chủ trương khai thác các tiềm năng về dược liệu và vốn kinh nghiệm trong y học cổ truyền, phục vụ nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, Nhà nước đã sớm có
kế hoạch đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu, sưu tầm dược liệu. Trong đó, Nghệ An là một trong những tỉnh có nguồn cây thuốc phong phú nhất miền Bắc nên được Chính phủ và Bộ Y tế điều tra, khảo sát từ năm 1977.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia, Nghệ An có gần 1.000 loài có giá trị dược
liệu khác nhau. Trong đó có rất nhiều loài có giá trị cao như: Sâm Puxailaileng, đẳng sâm, tam thất, lan kim tuyến, nấm linh chi đỏ, hà thủ ô đỏ, mú từn, đinh lăng… Trên thực tế, nhiều cây dược liệu cho thu nhập lớn hơn nhiều so với các cây công nghiệp
trên địa bàn. Một số loài vừa sử dụng trong sản xuất thuốc vừa có thể dùng trong ngành thực phẩm, mỹ phẩm (các loại tinh dầu, gia vị).
Tuy nhiên, trong thời gian qua, nguồn cây thuốc đang bị suy giảm nhiều. Hầu
hết các loại cây thuốc có giá trị sử dụng và giá trị kinh tế cao đang mất dần khả năng khai thác lớn. Nguyên nhân chính là do tình trạng khai thác tràn lan, thiếu ý thức bảo vệ sự tái sinh, nạn phá rừng làm nương rẫy. Kết quả điều tra cũng xác định, Nghệ An có 31 loài cây thuốc thuộc diện quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng, có tên trong Danh
sách đỏ Việt Nam, Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam. Việc xây dựng kế hoạch lâu dài nhằm khai thác và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc quý là nhiệm vụ quan trọng, cần được thực hiện nhanh chóng và lâu dài.
67
So với các loại cây công nghiệp và lương thực khác, cây dược liệu có đặc điểm
riêng biệt cả về mô hình sản xuất, vấn đề thị trường cũng như quy trình chế biến, tiêu
chuẩn chất lượng. Vì thế, việc kết nối giữa doanh nghiệp với người dân có vai trò cực
kỳ quan trọng để phát triển bền vững ngành công nghiệp dược liệu.Tuy nhiên, theo ý
kiến của nhiều chuyên gia, cây dược liệu là cây bản địa được khai thác tại địa phương
nhưng khi đưa vào trồng trọt, cần được nghiên cứu đánh giá trên quy mô nhỏ trước khi
nhân rộng thành quy mô công nghiệp để hạn chế rủi ro khi cây chưa thích nghi được với
điều kiện canh tác; năng suất, chất lượng chưa đảm bảo yêu cầu.
Nắm bắt được vấn đề này chính quyền tỉnh đã chỉ đạo việc chọn trồng trọt nên
căn cứ vào các cây thế mạnh của địa phương hoặc cây bản địa của địa phương có khả
năng thương mại và phát triển tốt.
Bên cạnh đó, trong thời gian khởi động chương trình phát triển dược liệu của
tỉnh, chính quyền khuyến cáo nên chọn các loại cây ngắn ngày để người dân làm quen
với kỹ thuật mới và đánh giá hiệu quả của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ đó sẽ
tham gia tích cực hơn vào việc phát triển dược liệu, làm tiền đề cho việc triển khai cây
trồng ngắn ngày. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh đã tổ chức nhiều buổi tọa đàm thu
hút các nhà đầu tư vào công nghiệp dược liệu, ký kết hợp tác giữa UBND tỉnh và 8
doanh nghiệp sẽ đầu tư nhằm phát triển công nghiệp dược Nghệ An, với nhiều tên tuổi
lớn như: Công ty Traphaca, Nam Dược, Công ty Vật tư Nông nghiệp… Trong đó, sẽ
có 3 doanh nghiệp đăng ký triển khai trong năm nay và năm sau.
Tuy nhiên, từ thực tiễn của tỉnh cho thấy, sự quản lí của nhà nước chỉ đạt hiệu
quả tương đối, xác định đúng chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh, định hướng phát
triển của ngành.xong các định hướng phát triển, cũng như công tác qui hoạch, thực
hiện mô hình trồng cây dược liệu chưa thực sự khả thi. Bên cạnh đó, công tác quản lí
còn nhiều hạn chế chẳn hạn như không quán triệt được việc khai thác tràn lan, hay
chăm sóc vườn cây thuốc không tốt dẫn đến nhiều loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Kinh nghiệm của tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh được thiên nhiên ưu ái có nguồn dược liệu tự nhiên phong phú
và đa dạng về chủng loại, tập trung chủ yếu ở vùng Bảy Núi như Đinh lăng, nghệ đen,
hà thủ ô đen, hà thủ ô trắng, nghệ xà cừ,… Ngoài ra còn có một loài cây nằm trong
sách đỏ Việt Nam như: Kim giao, ba gạc, bình vôi lá nhỏ, ngũ gia bì, trầm hương. Tuy
nhiên, nguồn dược liệu tỉnh An Giang đang đứng trước nguy cơ bị đe dọa do sự khai
thác quá mức hoặc bị huỷ hoại bởi môi trường sống. Chính vì vậy, tỉnh An Giang nói
68
riêng và Bộ Y tế nói chung đã có những chính sách, quy định nhằm khai thác bảo tồn
nguồn dược liệu này cho bền vững, cụ thể như sau:
Thời gian qua, được sự quan tâm của Bộ Y tế, An Giang đã vận động người dân
trồng cây thuốc đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh tại cộng đồng với tổng diện tích
trồng cây thuốc ước đạt khoảng 476 ha. Các cây thuốc được trồng nhiều như: Đinh
lăng lá nhỏ, ngải, nghệ, gừng, dừa cạn, tứ quý,trâm bầu, ké đầu ngựa... Tuy nhiên,
dược liệu thu hoạch từ vườn thuốc nam hằng năm đều tăng nhưng chưa nhiều, tổng số
lượng dược liệu nhập kho ước đạt khoảng 1663115 kg, trong đó, dược liệu sưu tầm từ
tự nhiên 1.345.277kg, từ vườn thuốc nam 317.838 kg.
Năm 2016, để phát huy giá trị của cây trồng dược liệu tự nhiên cũng như mở
rộng trồng dược liệu của địa phương, hoạt động nghiên cứu khoa học được tỉnh An
Giang quan tâm, cụ thể Sở Khoa học và Công nghệ đã đề xuất và thông qua Hội đồng,
trình UBND tỉnh An Giang phê duyệt 12 đề tài nghiên cứu khoa học trong tỉnh liên
quan đến phát triển dược liệu. Sở Y tế cũng kết hợp Hội Đông y tỉnh đã hỗ trợ Chi cục
Kiểm lâm, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tịnh Biên triển khai
thực hiện đề tài sưu tập cây thuốc quý và đề tài xây dựng mô hình trồng dược liệu quý
ở vùng Bảy Núi, làm cầu nối giới thiệu Công ty Cổ phần DOMESCO Đồng Tháp nhận
đất lập vườn trồng dược liệu ở xã An Cư, huyện Tịnh Biên.
Bên cạnh đó, Sở Y tế phối hợp với các Sở, Ban ngành thực hiện chương trình khoa
học và công nghệ về phát triển dược liệu và y học cổ truyền trên địa bàn tỉnh An Giang
giai đoạn 2016 – 2020, bên cạnh những mặt đạt được như vậy nhưng trong công tác phát
triển y dược cổ truyền trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh cũng gặp một số khó khăn
như: Nguồn dược liệu chủ yếu được sử dụng ở các cơ sở khám chữa bệnh nhân đạo miễn
phí chưa tìm được đầu ra để tạo nguồn kinh phí tái nuôi trồng và khai thác có tính liên tục.
Kinh phí từ nguồn khoa học, công nghệ còn hạn chế nên việc triển khai thực
hiện các đề tài, dự án có liên quan đến bảo tồn và phát triển dược liệu chỉ mang tính
định hướng, chưa tạo động lực phát triển và chưa thể thực hiện nhiều trên tất cả các
đối tượng dược liệu chủ lực của tỉnh. Việc triển khai các kết quả nghiên cứu còn hạn
chế do thiếu doanh nghiệp lớn thu mua và chế biến các sản phẩm dược liệu giúp việc
duy trì sản xuất ổn định. Bên cạnh đó, còn thiếu sự quan tâm đúng mức của các ngành
chức năng trong vấn đề bảo tồn, thu hái và phát triển các loại dược liệu hiện nay,
người dân còn thiếu ý thức trong việc thu hái gây ra hiện tượng tận thu, tận diệt làm
mai một nguồn dược liệu quý.
69
Thêm vào đó, việc chưa có cơ chế cho vay vốn để trồng cây dược liệu,
trình độ người dân còn thấp nên việc triển khai các tiến bộ mới hỗ trợ nhân giống, gieo
trồng, chăm sóc và thu hái dược liệu chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của các công ty
nên làm giảm giá trị cây dược liệu.
Việc xây dựng nhãn hiệu hàng hóa còn khó khăn, người dân làm ra sản phẩm
nhỏ, lẻ không thể đăng ký nhãn hiệu mà đòi hỏi phải có Công ty hoặc có thành lập tổ
hợp tác thì mới có thể đăng ký được. Thiếu cơ chế hợp tác, liên kết trong sản xuất và
kinh doanh dược liệu nên người dân còn gặp khó khăn trong việc trồng và cung ứng
cây dược liệu
Trong kế hoạch phát triển dược liệu đến năm 2020, tỉnh An Giang định hướng
quan tâm nghiên cứu thực hiện chính sách ưu đãi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước đầu tư phát triển nuôi trồng dược liệu quy mô công nghiệp, sản
xuất thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và khai thác dược liệu tự nhiên hợp lý đảm bảo,
bảo tồn, tái sinh các nguồn dược liệu trong tỉnh. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa y dược
cổ truyền, thực hiện đa dạng hóa các loại hình dịch vụ trong lĩnh vực y dược cổ truyền,
mở rộng liên kết, hợp tác giữa các cơ sở y dược cổ truyền Nhà nước với các cơ sở y
dược cổ truyền ngoài công lập.
Đồng thời, khuyến khích và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng các cơ sở
sản xuất thuốc đông y, thuốc từ dược liệu đạt tiêu chuẩn sản xuất thuốc tốt theo
khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (GMP - WHO) theo lộ trình Bộ Y tế đề ra.
Xây dựng Đề án quy hoạch vùng phát triển dược liệu và xây dựng thương hiệu
dược liệu An Giang; khuyến khích phát triển thị trường kinh doanh dược liệu để
đáp ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Thành lập cơ sở nghiên cứu,
nuôi trồng dược liệu nhằm cung cấp giống dược liệu đạt tiêu chuẩn chất lượng cao,
bảo tồn và phát triển nguồn gen dược liệu, chú trọng tái sinh và phát triển nhân
giống các dược liệu có giá trị cao. Tăng cường phối hợp, tuyên truyền, phổ biến
kiến thức pháp luật, chủ trương của Nhà nước cho nhân dân, người hành nghề
YDCT; giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các chủ trương, chính sách của
Nhà nước về phát triển y dược cổ truyền.
Tỉnh An Giang cũng đã quan tâm xây dựng đề án công tác kế thừa, bảo tồn và
phát triển y dược cổ truyền theo quy định của pháp luật, nhằm phát huy tốt hơn nữa lợi
thế y dược cổ truyền địa phương và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
70
2.3.2. Bài học kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng
dược liệu
Thứ nhất, việc phát triển cây trồng dược liệu muốn thành công phải có sự quản
lý của nhà nước
Với hàng ngàn loài cây thuốc, dược liệu là thế mạnh làm nền tảng để phát triển
mạnh mẽ công nghiệp dược, công nghiệp hóa dược thành ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, đảm bảo nhu cầu to lớn về thuốc chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ta và xuất khẩu. Do đó rất cần có tổ chức thích hợp, đổi mới quản lý, coi phát triển
dược liệu và công nghiệp dược là một mặt trận kinh tế quan trọng, có sự chỉ đạo, đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước. Không đầu tư chất xám, không quyết liệt chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức việc phát triển dược liệu có qui mô lớn và ổn định, bền vững, thì rất khó phát triển công nghiệp dược, công nghiệp hóa dược như mong muốn. Điều này dẫn
đến nước ta sẽ mãi mãi phụ thuộc vào thuốc từ nước ngoài, nguyên liệu dược của nước ngoài; công nghệ dược chỉ dừng ở gia công, bao gói; nền y học cổ truyền, bản sắc văn hóa y dược học cổ truyền sẽ ngày càng mai một.
Thứ hai, cần phải xác định đúng chiến lược phát triển ngành dược là phát triển ngành kinh tế mũi nhọn,làm tiền đề cho việc đưa ra định hướng phát triển, qui hoạch và sử dụng một cách hiệu quả cây dược liệu, kết hợp với đưa ra các chính sách, cơ chế quản lí phù hợp
Sự chỉ đạo có định hướng của các cơ quan liên ngành sẽ giúp được việc tránh đầu tư theo phong trào như đã từng xảy ra hoặc thiếu kỹ thuật nuôi trồng – canh tác dẫn tới giảm hiệu quả đầu tư hoặc gây thiệt hại cho người nông dân.
Đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các Viện, Công ty nguyên liệu để có đủ năng lực nghiên cứu, thử nghiệm và nhân giống mới nhằm phát triển vùng nguyên liệu tự nhiên có chất lượng cao.
Nhà nước có chính sách ưu đãi cho việc đầu tư nuôi, trồng dược liệu tại các
vùng sâu, vùng xa, góp phần xóa đói giảm nghèo như: xây dựng hệ thống thuỷ lợi, giao thông nông thôn, cho vay vốn lãi suất ưu đãi...
Cần thực hiện việc quy hoạch vùng dược liệu, lựa chọn một số loại cây thích hợp có hiệu quả kinh tế cao, dựa trên yếu tố thị trường của sản phẩm, gắn chặt việc trồng với việc chế biến dược liệu theo các điều kiện và tiêu chuẩn được kiểm soát nghiêm ngặt, cần nắm được khả năng cung ứng thực tế.
71
Để phát huy tiềm năng của các địa phương nhằm phát triển cây dược liệu cần chú trọng đến công tác quy hoạch với quan điểm cách nhìn tổng thể nhằm bảo tồn, phát triển bền vững các vùng dược liệu trọng điểm; Khắc phục sự chồng ché trong công tác quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước các cấp Bộ, tạo nên sự phối hợp trung ương,
địa phương; Chú ý đến công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng từ nguyên liệu đến thành phẩm nhằm kiểm soát để giảm thiểu hiện tượng khai thác cạn kiệt;
Nhà nước cần nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách đột phá, tạo đầu ra cho
dược liệu và các sản phẩm thuốc từ dược liệu, tạo cơ chế gắn kết giữa cung và cầu, trước mắt cần có hàng rào kỹ thuật trong nhập khẩu dược liệu. Đồng thời các chính sách, Nghị quyết, Nghị định của Nhà nước phải được thể chế hóa và đầu tư mạnh mẽ vào một chương trình quốc gia dài hạn với các hoạt động cụ thể, đồng bộ:
Đổi mới tổ chức và cán bộ; Có các chính sách, chế độ đãi ngộ, khuyến khích phát triển cây dược liệu chưa thực sự hấp dẫn.. đối với các doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nông nhằm thu hút được nhiều người dân tham gia. Đầu tư cơ sở vật chất và
nguồn vốn vào các chương trình hành động, các cơ sở nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp và công nghệ, đào tạo và huấn luyện, truyền thông và xuất bản,...Các doanh nghiệp có đủ điều kiện được thành lập Viện nghiên cứu và Trường đại học, trung học. Chỉ đạo, đầu tư cho một số doanh nghiệp dược thí điểm xây dựng mô hình hợp tác bốn
nhà để xây dựng vùng dược liệu, sản xuất thuốc từ nguyên liệu trong nước để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
Thứ ba, công tác quản lý cần phải có sự phân công, rành mạch, rõ ràng giữa
các Bộ, ngành, phối hợp trung ương – địa phươngmột cách sâu sắc
Có sự phân công rõ ràng thì hiệu quả cũng như kết quả đạt được của các dự án, chương trình trồng cây dược liệu sẽ khả thi hơn. Mà để được như vậy thì nhà nước ta nên sớm có cơ quan chuyên trách của Nhà nước, Cục Quản lý Dược liệu, để chỉ đạo,
phối hợp các Bộ, Ngành, Chính quyền các Tỉnh, Thành phố trong công tác dược liệu.
Tổ chức tốt việc khai thác, phát triển cây con làm thuốc cần phải quản lý, điều hành tốt hệ thống 4 khâu R-D-P-M (Nghiên cứu - Phát triển - Sản xuất - Thị trường)
với sự phối hợp 4 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp, cần thiết thành lập “Cơ quan chuyên trách về Dược liệu Việt Nam”.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên thành lập các Viện cây thuốc và Trung tâm dược liệu, nghiên cứu chuyên sâu các loài cây thuốc về sinh học, nông học, di truyền
và chọn giống, công nghệ sinh học, bảo tồn nguồn gen, hóa sinh học, thổ nhưỡng, dược học, khí hậu và môi trường sinh thái, thực vật dân tộc học, công nghệ trước và
72
sau thu hoạch, v.v.. (Ta đã có các Viện ngô, Viện chè, Viện cà phê, Viện lúa, Viện rau,...Những năm 60, nước ta đã có Viện nghiên cứu Cây công nghiệp, Cây ăn quả và Cây làm thuốc, do GS.Vũ Công Hậu làm Viện trưởng, các nước Nga, Ấn Độ,... đã có Viện cây thuốc cách đây nhiều năm...)
Như vậy, cần tập hợp cán bộ hiện có trong cả nước, sắp xếp lại, đào tạo lại, đổi mới tổ chức mạnh mẽ và đầu tư toàn diện để đưa Công nghiệp dược thành ngành kinh tế - kĩ thuật mũi nhọn phát triển kinh tế xã hội.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 2 luận án đã hệ thống hóa được các cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến. Luận án đã trình bày khái niệm, đặc điẻm phát triển cây trồng dược liệu,
vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu. Luận án chỉ ra nội dung vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu thể hiện trên các khía cạnh như: xây dựng hệ thống chính sách để phát triển cây trồng dược liệu; tổ chức quản lý thực hiện
chính sách phát triển cây trồng dược liệu; kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu. Các nội dung trên chịu sự tác động của các nhân tố về chủ trương, quan điểm phát triển cây trồng dược liệu; bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong
quản lý nhà nước các cấp; công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện; năng lực trình độ và ý thức chấp hành của các hộ và doanh nghiệp trồng dược liệu.
Tác giả cũng đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu sử dụng trong nghiên
cứu này thể hiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu
Nghiên cứu cũng trình bày kinh nghiệm vai trò nhà nước trong phát triển dược liệu ở một số nước trên thế giới và một số địa phương, từ đó có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu vận dụng cho nghiên cứu này.
73
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM
3.1. Khái quát tình hình phát triển cây trồng dược liệu qua điều tra, khảo sát ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
3.1.1. Tình hình phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả lựa chọn một số tỉnh đại diện cho các vùng
quy hoạch dược liệu của miền Bắc Việt Nam làm địa phương tiến hành khảo sát nhằm thu thập các dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu. Cụ thể các điều kiện về đất đai, lao động, và các điều kiện liên quan đến phát triển cây trồng dược liệu như bảng 3.1 sau:
Bảng 3.1: Tình hình trồng cây dược liệu của tỉnh Hưng Yên, Bắc Giang và tỉnh Hà Gang
2011
2012
2013
2014
2015
ĐVT
179093,00
192972,10
198092,12 200682,46
214137,76
1.Diện tích đất nông nghiệp Nghìn ha
1.1.DT trồng cây dược liệu
Ha
2770,95
3069,08
3465,33
3812,94
4316,08
0,015
0,016
0,017
0,019
0,02
%
1.2.DT trồng cây dược liệu /DT đất nông nghiệp
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
%
2. Cơ cấu diện tích trồng cây dược liệu
49,50
43,36
39,73
37,49
32,94
Cây ngắn ngày
%
40,50
46,64
60,27
62,51
67,06
Cây lâu năm
%
1420,99
1430,626
1410,45
1426,012
1431,12
3.Lao động nông nghiệp
Nghìn người
141,756
166,29
212,265
220,998
265,824
3.1.Số lao động (LĐ) trồng cây dược liệu
Nghìn người
%
9,98
11,85
15,05
15,49
18,57
3.2. Tỷ lệ LĐ trồng cây trồng dược liệu/ tổng số LĐ nông nghiệp
4734
5079
5432
5599
6014
4. Tổng số doanh nghiệp D Nghiệp
DN
25
35
39
46
52
4.1.Số doanh nghiệp trồng cây dược liệu
%
0,53
0,69
0,72
0,82
0,86
4.2.Tỷ lệ DN trồng cây dược liệu/tổng số DN
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
74
Một số cây dược liệu chính trên địa bàn các tỉnh khảo sát thuộc nhóm cây lâu năm, cây hai năm và cây hàng năm, cụ thể cây lâu năm có đỗ trọng, quế, nhân sâm… Một số cây trồng hai năm ở trên địa bàn một số tỉnh phía Bắc như Ba kích, mạch môn, cát cánh,… Một số cây hàng năm như sinh khương (gừng), nhân trần, nghệ, đương
quy, atiso…
Về diện tích cây trồng dược liệu: Diện tích cây trồng dược liệu có thay đổi theo
hướng tích cực trong kỳ nghiên cứu, năm 2011 diện tích cây trồng dược liệu khoảng
2770,5 ha thì con số này tăng gần gấp đôi trong kỳ nghiên cứu tới khoảng 4316,08 ha
năm 2015. Nguyên nhân của sự gia tăng về mặt số lượng của diện tích cây trồng dược
liệu là do những lợi ích về mặt kinh tế mà các hộ dân trồng dược liệu hay các doanh
nghiệp trồng dược liệu thu được trực tiếp, về mặt giá trị kinh tế cũng như những lợi ích
mang lại cho xã hội khi trồng dược liệu mang lại.
Về cơ cấu cây trồng dược liệu: cây dược liệu ngắn ngày có xu hướng giảm dần
diện tích trong kỳ nghiên cứu, trong khi đó cây dược liệu dài ngày có xu hướng tăng
dần. Nguyên nhân của hiện tượng này là do cây trồng dược liệu ngắn ngày được trồng
cùng với các cây trồng dài ngày góp phần hỗ trợ thu nhập của các hộ gia đình, các
doanh nghiệp trong thời gian chờ thu nhập của các cây trồng dược liệu lâu năm. Đồng
thời, cây trồng ngắn ngày góp phần hỗ trợ quay vòng vốn cho các đơn vị trồng dược
liệu trong điều kiện vốn đầu tư cho cây trồng dược liệu là tương đối lớn, sau một thời
gian cây trồng dài hạn đến kỳ thu hoạch, diện tích cây trồng ngắn hạn sẽ giảm sút về tỷ
lệ so với cây trồng dài hạn.
3.1.2. Đất đai trồng cây dược liệu của các tỉnh khảo sát
Việt Nam nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng có điều
kiện tự nhiên và khí hậu tương đối đặc thù và phù hợp cho việc phát triển của các loại
cây dược liệu. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm nên có
nguồn tài nguyên thực vật hết sức phong phú với hơn 10.000 loài thực vật bậc cao,
khoảng 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2000 loài tảo. Theo kết quả điều tra thì có
khoảng gần 4000 loài thực vật và nấm có thể sử dụng làm thuốc và trong đó có hàng
chục loại có giá trị chữa bệnh cao.
Đối với các tỉnh được khảo sát, diện tích trồng cây dược liệu chiếm một tỷ
trọng khá lớn trong tổng diện tích cây trồng của cả vùng (khoảng 42.55%). Điều đó
cho thấy được điều kiện khí hậu, đất đai của tại các tỉnh được khảo sát rất phù hợp với
việc phát triển các loại cây trồng dược liệu phục vụ cho nhu cầu thị trường đang ngày
75
càng gia tăng. Trong khi đó, gần với khu vực được khảo sát, tỉnh Vân Nam – Trung
Quốc là khu vực có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tương đối giống với các tỉnh miền
núi phía Bắc của Việt Nam và Vân Nam hiện nay là một vùng nguyên liệu dược liệu
lớn, nổi tiếng không chỉ với trong nước mà cả trong khu vực và trên thế giới. Điều này
càng khẳng định lại những thuận lợi về khí hậu, thổ nhưỡng để phát triển cây trồng
dược liệu ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam là rất lớn.
Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có đặc thù về địa hình, đó là địa hình đa dạng,
núi đất, núi đá xen kẽ, nhiều vực, nhiều thung lũng, hiểm trở và gây ra nhiều rủi ro như
sạt lở đất. Do đó, để phát triển trồng cây dược liệu tại khu vực này gặp rất nhiều khó
khăn như rủi ro có thể gặp phải khi thiên tai xảy ra, khó quy hoạch để sản xuất tập
trung trên diện rộng và áp dụng các biện pháp kĩ thuật, cơ giới hóa để tăng năng suất
lao động. Việc các doanh nghiệp tiến hành đầu tư cũng sẽ gặp không ít khó khăn khi
phải mất nhiều chi phí để cải tạo và việc quản lý gặp nhiều thách thức.
Bên cạnh đó, ngoài những điều kiện khí hậu thuận lợi cho việc phát triển các
loại cây trồng dược liệu, khi tiến hành đầu tư sản xuất dược liệu thì doanh nghiệp cũng
như các hộ gia đình cũng gặp phải những khó khăn khi khu vực này có thể gặp phải
những điều kiện thời tiết như sương muối, mưa đá, ngập lụt, lũ quét, hạn hán… gây
ảnh hưởng đến năng suất dược liệu. Ngoài ra, thời tiết thất thường của khu vực này
cũng có thể khiến cho nguy cơ sâu bệnh đối với các loại cây dược liệu cao.
3.1.3. Lao động của các tỉnh khảo sát
Những thuận lợi cho việc phát triển cây trồng dược liệu. Khu vực miền núi
phía Bắc tập trung rất nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với thu nhập bình quân đầu
người thấp, ví dụ như tỉnh Hưng Yên có mức thu nhập bình quân đầu người trên một
tháng năm 2014 là khoảng 2,144 triệu đồng/ người, trong đó nhóm 1 là nhóm có thu
nhập thấp nhất chỉ đạt 0,742 triệu đồng (Theo Niên giám thống kê Hưng Yên năm
2014). Trong khi hiệu quả kinh tế khi trồng cây dược liệu rất cao, ví dụ như tại huyện
Bát Xát tỉnh Lào Cai Các mô hình trồng cây dược liệu đang cho tín hiệu tích cực như:
Cây sa nhân tím mang lại nguồn thu 120 triệu đồng/ha, cây đương quy gần 200 triệu
đồng/ha, cây gừng 90 triệu đồng/ha, chè dây 75 triệu đồng/ha cao hơn nhiều so với việc
chuyên canh các loại cây trồng khác, vì vậy mà sẽ dễ dàng hơn đối với người lao động
khi đưa ra quyết định chuyển đổi sang cây trồng dược liệu.
Một số vùng đồng bào đã có kinh nghiệm trồng cây dược liệu từ lâu đời nên sẽ
dễ dàng hơn khi triển khai các dự án trồng dược liệu tại khu vực này.
76
Theo kết quả khảo sát thì số lao động trong một hộ gia đình trồng cây dược liệu ở đây khá lớn, trung bình khoảng 4,36 người. Điều này tạo thuận lợi trong việc cung cấp lao động cho việc áp dụng trồng cây dược liệu tại khu vực này theo quy mô hộ gia đình.
Những khó khăn cho việc phát triển cây trồng dược liệu. Khu vực miền núi phía Bắc tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số với phong tục tập quán lạc hậu, phương thức canh tác còn thô sơ, chưa quen áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật để tăng năng suất và đảm bảo chất lượng cây trồng; ý thức kỷ luật lao động cũng như tinh
thần trách nhiệm trong công việc chưa cao sẽ gây khó khăn trong việc phát triển kinh tế nói chung và việc áp dụng cây trồng dược liệu nói riêng.
Người lao động thường phân bố rải rác, không tập trung nên nếu áp dụng việc trồng nguyên liệu với quy mô lớn sẽ gặp khó khăn trong việc huy động lao động đảm
bảo chất lượng cũng như số lượng.
3.1.4. Cơ sở hạ tầng trồng dược liệu của các tỉnh khảo sát
Về giao thông: Do đất đai bị chia cắt nhiều nên hệ thống giao thông của khu vực khảo sát còn thiếu đồng bộ; nhiều địa bàn, khu vực còn rất khó khăn trong việc di
chuyển với những con đường hẹp, hiểm trở và một số nơi có nguy cơ sạt lở đất. Điều này gây cản trở cho việc vận chuyển cây giống, vật tư, nông cụ và sản phẩm cây trồng khi tiến hành trồng dược liệu.
Về thủy lợi: Trong những năm qua, Nhà nước đã tiến hành đầu tư cho các tỉnh miền núi phía bắc về thủy lợi để hỗ trợ người dân trong việc chủ động nguồn nước tưới tiêu. Tuy nhiên, do đặc điểm thủy văn ở khu vực này thường là lòng sông sâu, độ dốc lớn và phân bố các phụ lưu không đều nên vấn đề phát triển hệ thống thủy lợi gặp
không ít khó khăn. Điều này dẫn đến nơi thiếu nước, nơi thừa nước và đây cũng là thách thức đối với việc cung cấp đủ nước cho cây trồng dược liệu.
Về điện: Dân cư ở khu vực miền núi phía bắc ngoài những khu đô thị thì hầu
như sống rải rác thành các cụm làng nhỏ lẻ ở vùng núi vùng sâu vùng xa, Chính vì
vậy, việc cung cấp điện gặp không ít khó khăn, hơn nữa, Cây dược liệu được trồng chủ
yếu ở vùng rừng núi, do đó, việc cung cấp đủ điện để phát triển dược liệu không phải
là vấn đề giải quyết. Điều này cũng gây cản trở rất lớn cho việc phát triển cây dược
liệu theo hướng hiện đại hóa ở khu vực này.
3.1.5. Thị trường tiêu thụ dược liệu của các tỉnh khảo sát
Hiện nay, các nhà khoa học đang quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các loại
dược liệu thay vì hóa chất để bào chế thuốc trị bệnh cho con người. Thay vì việc tổng hợp
77
hóa học trong phòng thí nghiệm để tìm ra các loại thuốc mới, các nhà khoa học đang tập
trung vào việc tìm ra và chiết xuất các hoạt chất sinh học mới từ dược liệu với đặc điểm:
dược tính mạnh hơn, ít độc hơn và phù hợp hơn với quy luật sinh lý của cơ thể.
Hiện tại, Việt Nam có khoảng 50 bệnh viện y học cổ truyển và hàng nghìn
phòng chuẩn trị đông y tư nhân phân bố hầu khắp các tỉnh thành và hàng chục nhà
máy có dây chuyền sản xuất dược liệu. Từ bao đời nay, một bộ phận lớn dân cư Việt
Nam đã hình thành thói quen sử dụng các bài thuốc dân gian với các vị thuốc bắc,
thuốc nam để chữa bệnh. Chính vì vậy mà nhu cầu dược liệu trong nước hiện nay rất
lớn với khoảng 25 ngàn tấn/ năm đối với dược phiến (chủ yếu là các vi bắc) để cung
cấp cho các bệnh viện, phòng chuẩn trị và trên 65 tấn/ năm với 50% là các vị nam để
cung cấp cho các nhà máy.
Nhu cầu trong nước là rất lớn, nhưng hiện tại dược liệu ở Việt Nam vẫn phải nhập
khẩu rất nhiều từ các quốc gia khác như Trung Quốc, Triều Tiên. Lấy ví dụ như một số
dược liệu chủ lực Việt Nam có thể trồng nhưng hiện Traphaco phải nhập hằng năm từ
Trung Quốc có Đẳng sâm bắc (10 tấn), Đan sâm (2 tấn), Đỗ trọng (8 tấn), Bạch truật (6
tấn), Xuyên khung (11 tấn), Độc hoạt (6 tấn). Nhiều giống cây thuốc nước ngoài từng đưa
vào sản xuất đại trà ở nước ta như Bạch chỉ, Bạch truật, Đương quy, Xuyên khung… nay
lại phụ thuộc vào nhập khẩu, và chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc. Tổng khối lượng
dược liệu thuốc bắc hiện nay Việt Nam phải nhập khẩu mỗi năm lên đến 20.000 tấn, với
giá trị nhập khẩu khoảng 16-18 triệu USD/năm, và tương lai còn tăng lên. Hoặc là dược
liệu của Việt Nam được các thương lái Trung Quốc thu gom rồi đem về Trung Quốc chế
biến, chiết xuất và Việt Nam phải nhập khẩu thuốc trở lại với giá thành cao và nhiều
trường hợp chất lượng không đảm bảo.(Cục quản lý dược, Bộ Y tế)
Như vậy có thể thấy rằng thị trường thuốc của Việt Nam có nhiều cơ hội để
phát triển, xu hướng sử dụng dược liệu để bào chế thuốc đang ngày càng tăng lên
trong khi khả năng cung cấp của nguồn dược liệu trong nước còn rất hạn chế, nguồn
dược liệu nhập khẩu nước ngoài nhiều nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ về chất
lượng và nguồn cung. Đó sẽ là cơ hội để dược liệu ở các tỉnh khảo sát tiếp cận thị
trường trong nước một cách dễ dàng hơn.
Trong khi nhu cầu sử dụng dược liệu là rất lớn thì Việt Nam nói chung và các
tỉnh khảo sát nói riêng lại có tiềm năng rất lớn với khí hậu rất phù hợp để trồng nhiều
loại dược liệu quý. Như vậy có thể thấy rằng thị trường dược liệu thế giới cũng đầy
tiềm năng đối với các tỉnh khảo sát.
78
3.2. Phân tích thực trạng vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược
liệu qua điều tra, khảo sát
3.2.1. Thực trạng vai trò nhà nước trong xây dựng hệ thống chính sách phát
triển cây trồng dược liệu
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản chính sách pháp luật về phát triển có liên quan dến cây trồng dược liệu (Xem phụ lục 4). Để nghiên cứu
thực trạng vai trò nhà nước trong việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu, đề tài đã tiến hành điều tra việc tiếp cận các chính sách đất đai, chính sách vay vốn, chính sách chính sách thuế, chính sách về hỗ trợ ứng dụng tiến bộ
KHCN, chính sách đào tạo nhân lực. Kết quả cho thấy có từ 96,22% người trả lời trở lên cho rằng họ dã tiếp cận được các chính sách nay. (bảng 3.2)
Bảng 3.2: Kết quả khảo sát về tiếp cận các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp/cá nhân trồng dược liệu của địa phương
Tổng số ý Số trả lời Tỷ lệ % kiến trả lời CÓ
Được thụ hưởng chính sách đất đai 238 238 100,00
Được vay vốn từ ngân hàng 238 238 100,00
Được thụ hưởng chính sách Thuế 238 238 100,00
Được ứng dụng tiến bộ KHCN 238 229 96,22
Được thụ hưởng chính sách đào tạo nhân lực 238 230 96,64
3.2.1.1. Thực trạng về chính sách đất đai
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Để phát triển cây trồng dược liệu thì đất đai là điều kiện không thể thiếu. Do đó
các chính sách về đất đai sẽ có tác động không nhỏ đến hoạt động này.
Trên cơ sở Luật đất đai và các văn bản như nghị định, thông tư có liên quan đến
đất đai cho phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung, cây trồng dược liệu nói riêng của nhà nước, các tỉnh đã thực hiện một số các chính sách về đất đai nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cũng như các hộ gia đình trong việc tiếp cận đất đai để trồng dược liệu. Một số các chính sách như: Cho phép các công ty tiến hành lập
các dự án về trồng và sản xuất dược liệu, tỉnh có những thông báo cụ thể về địa điểm để các công ty thuê đất trồng và triển khai các hoạt động sản xuất dược liệu.
79
Tỉnh có các biện pháp hỗ trợ trong công tác giải phóng mặt bằng để giao đất cho các công ty. Các tỉnh có chính sách hỗ trợ để đẩy nhanh quá trình tiến hành các thủ tục cho thuê đất. Miễn giảm tiền thuê đất trong những năm đầu tiến hành các dự án dược liệu. Hỗ trợ người dân trong việc cải tạo đất, chuyển đổi đất trồng từ các loại cây
trồng khác sang trồng dược liệu hoặc từ đất trống, hoang hóa nay được triển khai trồng dược liệu; một số vùng còn chuyển đổi từ đất rừng không thuộc rừng đặc chủng, rừng phòng hộ sang trồng dược liệu.
Những chính sách về đất đai đã phần nào hỗ trợ được các doanh nghiệp cũng như người dân. Trong đó một số chính sách như hỗ trợ giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến trình thực hiện các thủ tục cho thuê đất tạo một cơ chế tốt cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư. Việc giao đất rừng cho người dân có thể khiến cho Nhà nước khó
kiểm soát được diện tích trồng cây dược liệu thay thế có đảm bảo việc không gây ảnh hưởng đến môi trường hay không, tuy nhiên nếu có những quy hoạch thích hợp và chuyển đổi một cách hợp lý thì việc chuyển đổi này mang tính kinh tế cao trong khi
không gây tác động nhiều đến môi trường.
Qua điều tra khảo sát thì tất cả các hộ gia đình cũng như các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực trồng dược liệu tại khu vực này đều được hưởng các chính sách ưu đãi về đất đai. 100% hộ được hỏi ý kiến đều cho biết họ được thu hưởng
3.2.1.2. Thực trạng về chính sách vốn
nhưunxg ưu đãi về chính sách đất đai (bảng 3.2). Điều đó cho thấy đất đai là một yếu tố quan trọng để phát triển loại cây trồng này tại địa phương.
Một đặc điểm của cây trồng dược liệu so với các loại cây trồng khác hiện cũng đang được trồng tại địa phương đó là yêu cầu về vốn khá lớn. Bởi muốn tiến hành đầu tư vào trồng dược liệu, nhất là trên diện rộng phải có hoạt động nghiên cứu, thử ngiệm
và nhân giống để tìm ra những đặc tính sinh học của dược liệu có thể thực sự phát huy hiệu quả trong công tác chữa bệnh. Điều này thường cần một thời gian nghiên cứu dài và cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, không như những loại cây trồng dùng làm lương thực
thực phẩm hay làm nguyên liệu chế biến khác có thể dễ thấy rõ được những công dụng và lợi ích. Bên cạnh đó, khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc lại có nhiều đồng bào nghèo, nhiều nơi cái đói còn đeo đuổi. Do đó khi chuyển đổi sang trồng dược liệu yêu cầu một lượng vốn nhất định để phục vụ cho nhu cầu lương thực thực phẩm của người dân trong khoảng thời gian chưa thu hoạch dược liệu. Chính vì vậy mà những chính sách ưu đãi về vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc đưa dược liệu trở thành một loại cây trồng góp phần phát triển kinh tế ở khu vực này.
80
Trên cơ sở chính sách về vốn của nhà nước các địa phương đã áp dụng để hỗ
trợ về vốn cho trồng dược liệu như sau:
Nhà nước hỗ trợ về vốn để đầu tư cho công tác nghiên cứu, tuyển chọn và sản xuất giống cây thuốc phục vụ công tác nuôi trồng và phát triển dược liệu ở quy mô lớn
tại một số tỉnh như Bắc Giang, Hà Giang, Hưng Yên. Để trồng dược liệu thì trước hết phải nắm rõ được đặc tính của dược liệu. Công tác nghiên cứu đòi hỏi một lượng vốn khá lớn. Với quy mô của một hộ gia đình hay hợp tác xã thì gần như không thể triển
khai. Đối với một doanh nghiệp thì hiện nay ở Việt Nam cũng chỉ có một số ít các doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư cho công tác nghiên cứu với quy mô lớn và thời gian dài. Chính vì vậy việc Nhà nước hỗ trợ vốn cho hoạt động này sẽ giải quyết được khó khăn về vốn cho hoạt động nghiên cứu.
Nhà nước khuyến khích hoạt động vay vốn để trồng dược liệu bằng việc cho
vay dài hạn không lãi suất tùy từng dự án cụ thể. Điều này rất có ý nghĩa bởi điều
doanh nghiệp quan tâm nhất đó là lợi nhuận, việc cho vay dài hạn không lãi suất giúp
các doanh nghiệp mạnh dạn tiếp cận với nguồn vốn vay và tiến hành đầu tư sản xuất
trên một quy mô lớn hơn. Đối với người dân, đặc biệt là người dân nghèo ở miền núi
phía Bắc và một số khu vực các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ thì việc cho vay dài hạn và
không lãi suất trong một khoảng thời gian giúp họ yên tâm trồng dược liệu, có thể triển
khai trồng các loại dược liệu lâu năm cho thu nhập cao.
Khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tín dụng cho các cơ sở sản xuất cũng như
người dân vay vốn để trồng dược liệu.
Qua điều tra khảo sát thì 100% các hộ và doanh nghiệp được hỏi cho biết họ
được vay vốn từ ngân hàng để tiến hành hoạt động trồng dược liệu (bảng 3.2). Điều
này cho thấy việc triển khai hoạt động hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong việc
3.2.1.3. Thực trạng về chính sách thuế
tiếp cận vấn tại các tỉnh được điều tra khảo sát là rất tốt.
a). Nhà nước có chính sách hỗ trợ rõ ràng về quỹ đất, thuế, nguồn vốn nhằm giúp các doanh nghiệp, nông dân hình thành và phát triển các vùng nuôi trồng dược
liệu theo nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt nuôi trồng” GAP-WHO đối với các dược liệu trong quy hoạch.
Đối với các chính sách về thuế, Nhà nước cũng như các địa phương có chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình khi triển khai trồng
dược liệu.
3.2.1.4. Thực trạng về chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
81
Hoạt động nghiên cứu các đặc tính sinh học của thuốc, tìm hiểu các điều kiện phát triển dược liệu như khí hậu, thổ những, điều kiện chăm sóc; nhân giống thuốc;
hướng dẫn áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật.. vào việc trồng dược liệu đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi lẽ trồng dược liệu là một hoạt động đặc thù, nó ảnh hưởg rất lớn đến sức khỏe của những người tiêu thụ các sản phẩm từ ngành này mà
chủ yếu là những người bệnh với khả năng miễn dịch đã không còn tốt như khi khỏe mạnh. Do đó mà chất lượng các sản phẩm từ trồng dược liệu phải được đề cao. Vì vậy mà việc ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng, khẳng định thương hiệu của dược liệu Việt để đáp ứng nhu cầu
ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước; đồng thời dần tăng lượng cung ứng để không bị phụ thuộc quá nhiều vào nguồn dược liệu nhập khẩu là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức.
Hiện nay, Nhà nước có nhiều chính sách để hỗ trợ trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực dược liệu: i) Thành lập mới hoặc đầu tư nâng cấp thành lập cơ sở nghiên cứu phát triển giống cây thuốc ở Trung ương dựa trên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực tại các cơ sở nghiên cứu, các Trung tâm giống quốc gia theo
hướng đồng bộ, hiện đại; ii)Xây dựng hoàn thiện khung pháp lý về giống cây thuốc theo tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Từng bước hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận với nguồn giống cây thuốc đảm bảo thực hiện được khung pháp
lý đó; iii)Bảo vệ và phát triển nguồn giống cây thuốc sinh sản tự nhiên, đảm bảo tài nguyên thực vật làm thuốc phát triển bền vững. Nhập nội nguồn gen, bản quyền tác giả và những giống cây thuốc mới cần thiết để tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới; iv) Triển khai, ứng dụng các thành tựu của công tác
nghiên cứu vào hoạt động trồng dược liệu.
Theo các số liệu khảo sát được thì 229/238 chiếm 96,21% (bảng 3.2) ý kiến cho rằng họ được hưởng các chính sách về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Điều
3.2.1.5. Thực trạng về chính sách phát triển nguồn nhân lực
này cho thấy một số nơi vẫn chưa có những điều kiện tốt về khoa học công nghệ để họ có thể yên tâm trong công tác trồng dược liêu.
Để có thể tạo ra được những vùng trồng dược liệu để có thể cung ứng cho thị trường trong và ngoài nước đầy tiềm năng thì việc phát triển nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng:
82
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác nghiên cứu: Có được một đội ngũ các nhà khoa học trình độ cao để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai công tác trồng dược liệu thì cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề ưu tiên cho cán bộ đi học hỏi ở nước ngoài, cung cấp trang thiết bị cần thiết cho công tác nghiên
cứu và tạo các điều kiện khác để họ có thể yên tâm với công tác khoa học, nghiên cứu ra được những loại thuốc mới sử dụng nguồn dược liệu thiên nhiên, hay nghiên cứu đặc tính sinh học của cây thuốc phục vụ cho công tác trồng trên diện rộng.
Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác trồng dược liệu: Để có thể tạo ra những vùng trồng dược liệu với năng suất cao, chất lượng đảm bảo thì đạo tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là những người nông dân trực tiếp tiến hành công tác trồng dược liệu là một vấn đề hết sức quan trọng. Với tập quán trồng trọt lạc hậu từ lâu đời thì
việc hướng dẫn cho bà con những cách thức trồng trọt một cách khoa học là một vấn đề khó khăn và cần sực quan tâm đúng mức của các cơ quan chức năng cũng như phía doanh nghiệp.
Trên cơ sở tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, theo Quyết định số 1976/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” thì nhóm giải pháp về phát triển và đào tạo nguồn nhân lực đã được thông qua như sau:i)Chú trọng đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác dược liệu từ khâu nuôi trồng đến khai thác đến chế biến, sử dụng. Đào tạo chuyên ngành sau đại học hoặc các chương trình đào tạo phù hợp với nhiệm vụ, yêu cầu c ủa doanh nghiệp, tổ chức; ii) Đào tạo và sử dụng
hợp lý nguồn nhân lực dược, thực hiện cử tuyển và đào tạo theo địa chỉ để khắc phục sự mất cân đối nguồn nhân lực dược giữa các vùng, đặc biệt chú ý bảo đảm đủ nhân lực cho các vùng khai thác dược liệu lớn, các dự án trọng điểm phát triển; iii)Tăng cường giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực biển phục công tác điều tra, nghiên cứu và quản lý tài nguyên, môi trường; Nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư về biển để khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; iv) Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, đào tạo kĩ năng cho các hộ nông dân về triển khai hoạt động trồng dược liệu sạch, đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế và mang lại năng suất cao.
Qua điều tra khảo sát thì 230/238 chiếm 96,64% (bảng 3.2) số hộ và doanh nghiệp được hỏi trả lời họ được thụ hưởng các chính sách về đào tạo nhân lực. Như vậy có thể thấy chính sách đào tạo nhân lực hiện nay vẫn chưa thực sự đến được với
tất cả các hộ gia đình hay doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực trồng dược liệu tại khi vực khảo sát.
3.2.1.6. Thực trạng về chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
83
Cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế là khó khăn cho khu vực phía Bắc khi tiến
hành trồng dược liệu trên diện rộng.
3.2.1.7 Thực trạng về chính sách thị trường cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm
Hiện nay, Nhà nước cũng đã có những chính sách về phát triển cơ sở hạ tầng cho khu vực này nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Một số các chính sách như : i) Xây dựng mới hoặc nâng cấp, cải tạo đồng bộ về hệ thống đường sá, nhằm giải quyết những khó khăn trong công tác vận chuyển giống, thuốc bảo vệ thực vật cũng như vận chuyển dược liệu sau khi thu hoạch. Lấy ví dụ như tại Hà Giang, tỉnh có thể đầu tư xây dựng những con đường đến các dự án cụ thể như đoạn đường dài 7,5 km với tổng mức đầu tư 60 tỷ đồng đến khu vực dự án đầu tư trồng rau – hoa, cây dược liệu kết hợp du lịch sinh thái tại huyện Bắc Quang; ii) Xây dựng, cải tạo hệ thống kênh nương nhằm đảm bảo khả năng tưới tiêu tốt hơn cho hoạt động trồng dược liệu; iii)Hoàn thiện hệ thống điện để đảm bảo nguồn điện về tới thôn xóm bản làng và các khu vực triển khai các dự án trồng dược liệu; iv)Đổi mới công nghệ, đổi mới trang thiết bị các cơ sở sơ chế, chế biến, chiết xuất, bảo quản dược liệu đạt tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo mỗi vùng có từ 01- 02 nhà máy sơ chế, chế biến, chiết xuất cao dược liệu đạt tiêu chuẩn.; v) Thành lập một số Trung tâm phát triển dược liệu tại một số vùng, miền: nuôi trồng (bao gồm cả gen, giống, chế biến), sử dụng (bao gồm sử dụng cho các sản phẩm thuốc, thực phẩm chức năng, thực phẩm, hóa mỹ phẩm).
Hiện tại, Nhà nước đã có một số những chính sách để phát triển thị trường cung ứng nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vât cho các hộ trồng cây dược liệu.
Vấn đề có ý nghĩa hàng đầu là quan tâm đến thị trường đầu ra cho sản phẩm cây trồng dược liệu. Những năm qua, nhà nước đã quan tâm đến chính sách này nhằm ổn định đầu ra cho hộ và doanh nghiệp trồng dược liệu, đồng thời tạo uy tín cho dược liệu Việt Nam trên thị trường quốc tế:
Đối với thị trường trong nước, để có thị trường tiêu thụ ổn định, trước hết nhà nước quan tâm phát triển các cơ sở chế biến dược liệu. Theo Bộ y tế (2017) tính đến tháng 12/2016, tổng cả nước có khoảng 226 cơ sở sản xuất thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền, 95 cơ sở sản xuất thuốc loại hình hộ kinh doanh cá thể, 131 cơ sở sản xuất thuốc loại hình công ty, trong đó có 52 cơ sở sản xuất đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt sản xuất thuốc” (GMP). Số lượng các cơ sở sản xuất thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền đạt GMP tăng dần theo các năm. Năm 2014 cả nước có thêm 06 cơ sở
84
sản xuất thuốc dược liệu mới đạt GMP gồmCông ty Quế Lâm, Hoa Việt, OPC Bắc Giang, Phúc Hưng, Hoa Linh, Fitopharrma.- Năm 2015 có thêm 20 cơ sở sản xuất thuốc dược liệu mới đạt GMP gồm Công ty Nhất Nhất, Diệu Vinh, Hoàng Thành, Quảng Ninh, Phúc Vinh, Sao Thái Dương, Vĩnh Hoàn, Cơ sở đông dược Cửu Long, Công ty cổ phần Trung ương 3, Bắc Ninh, Vạn Xuân, An Thiên, Phước Sanh. Năm 2016 có thêm 06 nhà máy đạt GMP gồm Đông Nam Dược Bảo Long, Hà Nam, Cơ sở sản xuất thuốc YHCT Đại Hồng Phúc, Cơ sở sản xuất đông dược 408, Công ty TNHH Đông dược An Triệu, Công ty TNHH Tùng Lộc II. (trong đó có 02 cơ sở YHCT).
Các cơ sở sản xuất thuốc đã đầu tư nghiên cứu các công nghệ chiết xuất, bào chế cao dược liệu, hoạt chất dược liệu. Trong số 52 cơ sở sản xuất đạt GMP có 28 dây
chuyền chiết xuất cao, 01 dây chuyền chiết xuất Curcumin, 16 dây chuyền sơ chế, chế biến dược liệu và 16 dây chuyền sản xuất hoàn cứng hoàn mềm ( xem bảng 3.3).
Bảng 3.3. Cơ cấu đầu tư các dây chuyền sản xuất dược liệu, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền
STT
Dây chuyền
Tổng số dây chuyền Dược liệu
1 2 3 4 5
Viên, cốm, bột Cao dược liệu Hoàn cứng, hoàn mềm Dược liệu đã chế biến Dầu xoa
Năm 2015 46 43 25 16 14 10
Năm 2016 52 47 28 16 16 11
Nguồn: Bộ y tế (2017) Song song quá trình đầu tư dây chuyền, kỹ thuật công nghệ, các cơ sở đã chú trọng
mở rộng cấp số đăng ký lưu hành thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền. Từ năm 2011 đến nay, số đăng ký lưu hành được cấp mới có xu hướng tăng qua các năm (Xem Biểu đồ 3.1)
Biểu đồ 3.1: Số liệu số đăng ký cấp mới qua các năm 2011-2016
Nguồn: Bộ y tế (2017)
85
Trong tổng số đăng ký lưu hành thuốc, các dạng bào chế viên nang, viên nén chiếm khoảng gần 50% đối với thuốc dược liệu (Chi tiết tại Biểu đồ 2). Các dạng bào chế cổ truyền như viên hoàn (hoàn cứng, hoàn mềm), cao lỏng, cao xoa và dùng ngoài (bột, cồn thuốc, cao dán...) hiện đang là dạng bào chế phổ biến được bào chế tại
các cơ sở sản xuất thuốc YHCT. Do thuốc từ dược liệu thường có nhiều thành phần và thường chưa được tiêu chuẩn hóa từng chất trong hỗn hợp nên loại thuốc này hầu như không có dạng bào chế công nghệ cao như giải phóng kéo dài, tác dụng tại đích, sử
dụng tiêm truyền...
Biểu đồ 3.2: Số lượng các dạng bào chế được cấp đăng ký giai đoạn 2010-2016
Nguồn: Bộ y tế (2017)
Theo thống kê báo cáo từ các doanh nghiệp sản xuất thuốc từ dược liệu cho thấy, trong những năm gần đây doanh thu sản xuất thuốc từ dược liệu trong nước liên tục tăng cao, năm 2012 tăng 35%, năm 2011 tăng 33%, và năm 2010 tăng 25%. Năm
2012, doanh thu thuốc từ dược liệu sản xuất trong nước đạt trên 3.500 tỷ đồng (tương đương khoảng 175 triệu USD) tăng 35% so với năm 2011 và chiếm tỷ lệ khoảng 14,6% tổng doanh thu thuốc sản xuất trong nước. (Bộ y tế, 2017)
Cùng với việc phát triển các cơ sở sản xuất chế biến dược liệu là sự phát triển của hoạt động kinh doanh, bán buôn dược liệu. Hiện nay, hệ thống buôn bán, kinh doanh dược liệu trong nước tập trung chủ yếu là các cơ sở kinh doanh dược liệu ở Hà Nội (Phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm và xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), Tp. Hồ Chí Minh (chủ yếu ở quận 5, quận 6, nơi tập trung cộng đồng người Hoa); xã Bình Minh,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hương Yên; một số cửa khẩu biên giới giáp ranh với Trung Quốc và rải rác ở các địa phương trong nước. Tính đến nay có khoảng 200 cơ sở cung
86
ứng dược liệu trên toàn quốc, trong đó chỉ có 18 doanh nghiệp có kho bảo quản dược liệu đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt bảo quản thuốc” đối với dược liệu.
3.2.2. Thực trạng công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu
3.2.2.1. Thực trạng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
Theo Bộ Y tế, hiện Việt Nam đã thống kê được trên 4.000 loài cây trong rừng
tự nhiên có thể sử dụng làm thuốc (Bộ y tế, 2017). Không chỉ một số dược liệu chữa được bệnh thông thường mà hiện nay đã nghiên cứu, phát triển thành những loại thuốc có tác dụng chữa các bệnh nan y như thuốc kim tiền thảo chữa sỏi thận, thuốc crila chiết xuất từ cây trinh nữ hoàng cung chữa bệnh u xơ tử cung…
Nhà nước ta đã có những chủ trương cụ thể về quy hoạch phát triển dược liệu trên cả nước, tiến hành quy hoạch nhiều vùng trồng dược liệu quy mô lớn trên cơ sở khai thác các vùng có lợi thế về điều kiện tự nhiên, thích hợp với sinh trưởng và phát
triển của cây dược liệu; Phù hợp với nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu kỹ thuật mới ứng dụng vào sản xuất dược liệu; Dựa vào lợi thế các vùng truyền thống của các cộng đồng miền núi của Việt Nam và các nghiên cứu của các nhà khoa học. Bên cạnh đó nhà nước đã đẩy mạnh công tác bảo tồn và phát triển nguồn gen dược liệu. Để đảm bảo
nguồn dược liệu chất lượng cao, cần đẩy mạnh triển khai thực hiện GACP (thực hành tốt trồng cây dược liệu (GAP) và thực hành tốt thu hái cây dược liệu hoang dã (GCP). Hiện Bộ Y tế đang triển khai xây dựng Danh mục 40 dược liệu có tiềm năng khai thác và phát
triển thị trường để làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các chính sách hỗ trợ, đầu tư, khuyến khích phát triển dược liệu trong giai đoạn từ nay đến năm 2030
Những vần đề trên đã được thể hiện cụ thể trong Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (được ban
hành theo Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 10/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ): phát huy thế mạnh, tiềm năng của Việt Nam để phát triển sản xuất thuốc từ dược liệu, trong đó mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu
cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm, trong đó thuốc từ dược liệu chiếm 30%. Đặc biệt, chương trình phát triển dược liệu cũng đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương quy hoạch 10.000ha
Cùng với xu hướng phát triển nuôi trồng dược liệu của cả nước, các tỉnh miền núi phía bắc cũng đã có những chủ trương, chính sách hợp lý nhằm phát huy lợi thế và
87
tiềm năng của địa phương trông nuôi trồng dược liệu. Được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu và địa hình phù hợp với điều kiện phát triển của các loại dược liệu quý hiếm, các tỉnh miền núi phía bắc đã chủ trương đúng đắn trong việc định hướng phát triển dược liệu ở khu vực trong thời gian tới. Cụ thể, trong công tác quy hoạch, các tỉnh đã tập
trung xây dựng quy hoạch các vùng dược liệu quy mô vừa và lớn, phù hợp với điều kiện địa hình và đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của địa phương; góp phần khắc phục tình trạng nuôi trồng manh mún, tự phát trước đây của người dân địa phương. Ví dụ như Hà
Giang, hiện Hà Giang đã đầu tư gần 2.000ha ở 3 huyện nghèo với trên 1.000 loại dược liệu, phấn đấu đáp ứng đủ 300 vị thuốc y học cổ truyền cho cả nước. Ngoài ra, một số tỉnh khác cũng đã chủ trương quy hoạch phát triển các loại cây trồng dược liệu có tiềm năng như cây thìa canh (dùng để sản xuất thuốc diabetna trị bệnh tiểu đường) ở huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên…
Công tác quy hoạch và kế hoạch của các địa phương ở vùng núi phía bắc được
tập trung vào các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, quy hoạch các vùng phát triển cây trồng dược liệu
Quy hoạch vùng trồng cây dược liệu hàng hóa bao gồm quy hoạch về diện tích cây dược liệu theo mức độ thích nghi; quy hoạch chủng loại, diện tích và sản lượng cây dược liệu. Các tỉnh miền núi phía bắc đã cơ bản hoàn thành quy hoạch về diện tích
cây dược liệu theo mức độ thích nghi, điều này đã cơ bản định hướng cho hướng phát triển đúng đắn của các tỉnh về nuôi trồng và phát triển dược liệu. Theo quan điểm quy hoạch, công tác này được tiến hành phù hợp với điều kiện từng vùng như sau:
i)Vùng núi cao có khí hậu nhiệt đới như SaPa - Lao Cai, Sìn Hồ - Lai Châu và Đồng Văn – Hà Giang. Đây là vùng khí hậu á nhiệt đới núi cao điển hình, nhiệt độ trung bình năm 15,2 - 15,9°C, mùa đông lạnh nhiệt độ trung bình dưới 10°C có nhiều ngày sương muối và đôi khi có tuyết rơi ở độ cao 1.600 m trở lên. Mưa vào mùa hè từ tháng 6 đến tháng 9, lượng mưa trung bình năm 2.783 – 2.833mm/năm, đai cao 1.800m trở lên lượng mưa trên 3.000mm/năm. Độ ẩm cao bình quân năm 85 - 87%, đất chủ yếu thuộc nhóm Feralis dầu mùn, dưới tán rừng có thảm cây mục chậm phong hoá dầy. Khu vực SaPa – Lào cai, Đồng Văn – Hà Giang độ dốc lớn và chia cắt mạnh, nằm trên vùng du lịch nên tập trung sản xuất giống cây thuốc đáp ứng cho nhu cầu trong nước; Khu vực Sìn Hồ - Lai Châu có diện ích đất khá bằng phẳng, ít bị chia cắt, độ dốc thấp phù hợp cho phát triển vùng nguyên liệu hàng hoá
Quy hoạch cho vùng này là sẽ trồng 13 loài cây thuốc, trên diện tích 2.500 ha, trong đó quy hoạch vùng trồng tập trung để tạo nguyên liệu cho các nhà máy sơ chế,
88
chiết suất như các loài: Artisô, Đương quy, Đảng sâm với quy mô khoảng 1.000 ha. Đây là vùng có khả năng sản xuất giống của các loài nhập nội từ phương Bắc nên có thể xây dựng vùng giống cây dược liệu. Cây nhập nội 9 loài: Artisô, Đỗ trọng, Độc hoạt, Đương quy, Hoàng bá, Mộc hương, Ô đầu, Tam thất, Xuyên khung. Cây bản địa gồm 4 loài: Bình vôi núi đá, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn.
ii) Vùng núi trung bình có khí hậu á nhiệt đới như Bắc Hà - Lào Cai, Mộc Châu - Sơn La. Đây là vùng khí hậu núi cao có mùa đông lạnh nhiệt độ trung bình năm 18,2°, mưa mùa hè với lượng mưa không cao trung bình năm 1700mm, độ ẩm trung bình năm 86%. Đây là vùng có nền đất đỏ bazan ( Mộc Châu, Sơn La) độ dốc thấp, diện tích rộng, khá bằng phẳng, là vùng thích ứng cho phát triển nhiều loại cây công nghiệp trong đó có cây thuốc theo hướng sản xuất hàng hoá; Khu vực Bắc Hà Lao cai có nền đất feralis trên nền đá Macma, đất có độ dốc cao, bị chia cắt đây là vùng phù hợp cây thuốc ưa khí hậu mát và khô hoặc ẩm vừa phải.
Quy hoạch cho vùng sẽ trồng 12 loài cây thuốc, trên diện tích 2.400 ha, trong đó quy hoạch vùng trồng tập trung để tạo nguyên liệu cho các nhà máy sơ chế như các loài: Bạch Truật, Đỗ trọng và cây Artisô với quy mô khoảng 900 ha. Cây nhập nội 7 loài: Artisô, Bạch truật, Bạch chỉ, Dương cam cúc, Đỗ trọng, Đương quy, Huyền sâm. Cây bản địa 5 loài: Bình vôi núi đá, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn, Ý dĩ.
iii) Vùng trung du gồm Bắc Giang – Yên Bái - Quảng Ninh – Lạng Sơn. Đây là vùng khí hậu điển hình Trung du - núi thấp phía Bắc, khí hậu nhiệt đới gió mùa đông
lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong đó từ tháng 12 đến tháng 2 nhiệt độ trung bình tháng thường không quá 20°C. Độ ẩm trung bình năm 84%. Mùa mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 9, nền đất chủ yếu đất sỏi đỏ vàng trên núi phần lớn đã bị rửa trôi nên bạc màu, độ pH thấp.
Quy hoạch cho vùng này sẽ trồng 16 loài cây thuốc, trên diện tích 4.600 ha, trong đó quy hoạch vùng trồng tập trung để tạo nguyên liệu cho các nhà máy sơ chế,
chiết suất như các loài: Quế và Ba Kích, Hồi với quy mô khoảng 1.700 ha. Cây nhập nội 3 loài: Bạch chỉ, Bạch truật, Địa hoàng. Cây bản địa 13 loài: Ba kích, Đinh lăng, Địa liền, Gấc, Giảo cổ lam, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Hồi, Quế, Sả, Sa nhân tím, Thanh
cao hoa vàng, Y dĩ.
iv)Vùng đồng bằng Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định. Đây là vùng châu thổ đồng bằng Bắc bộ điển hình, khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình năm 23,3°C, có 4-5 tháng mùa đông xuân (tháng 12 đến tháng 3) nhiệt độ trung bình tháng không quá 20°C nên có thể trồng được nhiều loài cây ưa mát
89
có thời gian sinh trưởng dưới 5 - 6 tháng. Lượng mưa của vùng trung bình năm 1650mm/năm, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9, độ ẩm trung bình năm 84%. Đây là vùng đất được hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi tụ phù sa, chủ yếu là đất phù sa cổ, đất phù sa bồi tụ ven sông. Nhân dân trong vùng có trình độ canh tác cao,
nhanh nhạy chuyển đổi cơ cấu cây trồng và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nên nhiều cây thuốc bắc đã được trồng trên diện tích lớn, thâm canh cao.
Quy hoạch cho vùng sẽ trồng 20 loài cây thuốc, trên diện tích 6.240 ha, trong
đó quy hoạch vùng trồng tập trung để tạo nguyên liệu cho các nhà máy sơ chế, chiết suất như các loài: Ngưu tất, Bạc hà và Thanh cao hoa vàng với quy mô khoảng 2.000 ha. Cây nhập nội 8 loài: Bạc hà, Bạch chỉ, Bạch truật, Cát cánh, Địa hoàng, Đương quy, Ngưu tất, Trạch tả. Cây bản địa 12 loài: Cúc hoa, Diệp hạ châu, Địa liền, Đinh
lăng, Gấc, Hoa hòe, Hoài sơn, Hương nhu trắng, Râu mèo, Ích mẫu, Thanh cao hoa vàng, Mã đề.
Bên cạnh đó các tỉnh cũng đã đề ra quy hoạch phát triển chủng loại diện tích
cũng như sản lượng nuôi trồng dược liệu trên địa bàn địa phương. Tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình thuộc vùng Tây Bắc, Dược liệu tự nhiên của vùng có khả năng cho khai thác gồm 17 loài bao gồm: Bách bộ, Cầu đằng, Cẩu tích, Chân chim, Chè dây, Cốt khí củ, Củ mài, Củ chóc, Hạ khô thảo, Hy thiêm, Kim ngân,
Nhân trần, Quế rừng, Sa nhân, Táo mèo, Thảo quyết minh, Thổ phục linh và Khúc khắc với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 540 tấn/năm. Các tỉnh vùng Đông Bắc như Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai và một phần của
Thái Nguyên, Bắc Giang, Dược liệu tự nhiên của vùng có khả năng cho khai thác gồm 22 loài bao gồm: Bách bộ, Bình vôi, Bồ bồ, Cầu đằng, Cẩu tích, Chân chim leo, Chè dây, Củ mài, Củ chóc, Dây đau xương, Hoàng đằng, Hy thiêm, Kim ngân, Nhân trần, Quế rừng, Sa nhân, Táo mèo, Thảo quyết minh, Thiên niên kiện, Thạch và thủy xương
bồ, Thổ phục linh và Kim cang với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 555 tấn/năm. Ở một số tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định và Vĩnh Phúc thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng, dược liệu tự nhiên của vùng có khả
năng cho khai thác gồm 4 loài bao gồm: Bồ công anh, Cà gai leo, Chè vằng, Dây đau xương với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 80 tấn/năm
Thứ hai, quy hoạch hệ thống tiêu thụ, chế biến sản phẩm: Cùng với quy hoạch
sản xuất, các tỉnh cũng đã quy hoạch hệ tống tiêu thụ và chế biến sản phảm.
Quy hoạch tiêu thụ sản phẩm qua hệ thống thu gom, sơ chế, bảo quản và chế biến sản phẩm dược liệu; Phương án quy hoạch hệ thống tiêu thụ sản phẩm qua hình thức tổ chức thực hiện
90
Khâu sơ chế dược liệu là khâu quan trọng trong việc sản xuất thuốc từ dược liệu, vì thế để kịp thời sơ chế dược liệu sau khi thu hoạch tại các vùng sản xuất thì các nhà máy, cơ sở sơ chế biến phải gắn liền với vùng nguyên liệu dược liệu. theo quy hoạch trong giai đoạn tới sẽ xây dựng mới hoặc nâng cấp cải tạo hệ thống các cơ sở
chế và sản xuất chế biến dược liệu, đảm bảo có từ 01- 02 nhà máy sơ chế, chế biến dược liệu theo tiêu chuẩn GMP
Công nghệ chiết xuất dược liệu có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc quyết
định đến chất lượng, độ an toàn và hiệu quả của thuốc thành phẩm. Tuy nhiên để xây dựng nhà máy chiết xuất đạt tiêu chuẩn thì chi phí đầu tư lớn. Tại Quyết định 81/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình phát triển ngành công nghiệp hóa dược đã dự kiến xây dựng 01 nhà máy chiết xuất tại miền Bắc
hoặc miền Trung.
Quy mô mỗi khu sơ chế, đóng gói và bảo quản sản phẩm cây dược liệu: khoảng 500 – 1000 m2, tuỳ theo quy mô vùng sản xuất để làm nhiệm vụ: tập kết, thu gom sản phẩm dược liệu sau thu hoạch; xây dựng khu sơ chế, đóng gói và bảo quản sản phẩm, tránh ẩm mốc, hao hụt và giảm chất lượng dược liệu; đón tiếp khách tham quan mô hình, quảng bá và bán sản phẩm.
Việc định hướng phương án tiêu thụ sản phẩm trong các giai đoạn thực hiện
quy hoạch giúp cho việc xây dựng vùng quy hoạch cây dược liệu được hiệu quả hơn. Để việc tiêu thụ sản phẩm cây dược liệu được hiệu quả, các địa phương đã đề ra các hình thức tiêu thụ sản phẩm như sau:
Hình thức tiêu thụ sản phẩm qua các kênh: các tổ chức kinh tế là các Công ty kinh doanh dược liệu; các hình thức liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; Công ty thương mại… với việc hợp đồng, bao tiêu sản phẩm đây được coi là hình thức đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho vùng quy hoạch. Hình thức này giúp cho vùng quy
hoạch được chuyên môn hóa trong từng khâu, từng lĩnh vực sản xuất, từ đó giúp cho thị trường sản xuất và tiêu thụ phát triển ổn định và bền vững. Đây cũng là hình thức tiêu thụ giúp cho vùng sản xuất cây dược liệu dần đi vào chuẩn hóa để quản lý được
chất lượng sản phẩm đầu ra khi tiêu thụ trên thị trường.
Thị trường tự do (qua các tiểu thương bán buôn, bán lẻ): đây là hình thức tiêu thụ dược liệu chủ yếu hiện nay, hình thức này được hình thành chủ yếu tự phát do các cá nhân, tiểu thương tự thu mua và cung ứng ra thị trường. Hình thức này sẽ khó quản lý về
chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ, tuy nhiên đây là hình thức phát huy rất tốt nguồn lực của xã hội. Chính vì vậy, trong tương lai hình thức này dự kiến vẫn được khuyến khích
91
phát triển, tuy nhiên cần có sự quản lý của nhà nước bằng cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp kinh doanh dược liệu để hoạt động có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, hiện nay kinh doanh dược liệu hiện tập trung chủ yếu ở Hà Nội (Phố Lãn Ông, quận Hoàn Kiếm và xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm), tại một số cửa khẩu
biên giới giáp ranh với Trung Quốc (chủ yếu ở Lạng Sơn) và rải rác ở các địa phương trong vùng. Thực tế cho thấy các cơ sở kinh doanh buôn bán dược liệu là các hộ kinh doanh với địa điểm kinh doanh chật chội, không đáp ứng đủ diện tích và các điều kiện
bảo quản dược liệu, không có kho bảo quản hoặc kho bảo quản được xây dựng không đạt tiêu chuẩn và không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, người tham gia trực tiếp buôn bán dược liệu chưa có bằng cấp chuyên môn theo quy định, kinh doanh chủ yếu theo kinh nghiệm. Dược liệu thường được chất đống, không đủ giá kệ và có khi không được ghi
nhãn mác trên bao bì theo quy định. Việc sơ chế và chế biến dược liệu cũng còn nhiều bất cập do không đủ diện tích để phơi sấy, quá trình sơ chế và chế biến không đúng quy trình gây ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu và hiệu quả điều trị của thuốc.
Trung tâm kinh doanh, cung ứng dược liệu được tổ chức như mô hình chợ, tuy nhiên tập trung thành khu vực chung có đủ điều kiện để sơ chế, chế biến dược liệu. Các quầy kinh doanh dược liệu phải đạt tiêu chuẩn để bảo quản dược liệu. Đây là một giải pháp mang tính đột phá và cần thiết hiện nay, nhằm đảm bảo chất lượng dược liệu
và kiểm tra được nguồn gốc dược liệu. Từ đó tạo được lòng tin cho khách hàng, thúc đẩy kinh doanh dược liệu phát triển.
Quy hoạch nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất cây dược liệu bao gồm Quy
hoạch nguồn cung ứng giống cây dược liệu vùng quy hoạch; Quy hoạch nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất
Việc quản lý được nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất cây dược liệu trên địa bàn tỉnh là yêu cầu cần thiết để xây dựng các vùng sản xuất cây dược liệu đạt tiêu
chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP – WHO)
Để thực hiện thành công quy hoạch phát triển dược liệu ở các tỉnh, mỗi địa phương cũng đã chủ động tính toán nhu cầu về giống nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển
của địa phương, đồng thời, cũng chủ động xây dựng các phương án đối phó nhằm cung cấp chủ động kịp thời nguồn giống cho bà con địa phương. Cụ thể:
Cây dược liệu có chủng loại đa dạng, đa số đều có thể tự để giống hoặc nhân nhanh trong tự nhiên. Tuy nhiên khi triển khai quy hoạch với quy mô và diện tích lớn,
nhu cầu về giống cây dược liệu sẽ tăng lên và các phương thức nhân giống hiện tại của người dân sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất. Chính vì vậy việc kiểm soát
92
được nguồn giống đầu vào trong sản xuất là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm dược liệu, đây cũng là yêu cầu bắt buộc với vùng dược liệu đạt tiêu chuẩn GACP-WHO. Để thực hiện được mục tiêu trên các địa phương đã đề xuất phương án quy hoạch nguồn cung ứng giống cây dược liệu như sau:
Nguồn cung ứng giống qua hệ thống quản lý, giám sát của nhà nước: đây là những đơn vị, tổ chức kinh doanh giống có đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật trong việc cung ứng giống dược liệu có chất
lượng tốt cho thị trường. Dự kiến đến năm 2020 sẽ có khoảng 30% lượng giống cây dược liệu được cung ứng qua hệ thống trên và đến năm 2030 sẽ là 60% lượng nhu cầu giống của vùng quy hoạch.
Nguồn cung ứng giống tự do, chủ yếu do người dân tự để giống: dự kiến đến
năm 2020 sẽ chiếm khoảng 70% nhu cầu giống của vùng quy hoạch và đến năm 2030 sẽ giảm xuống còn khoảng 40% lượng giống sử dụng. Do cây dược liệu chủ yếu là cây thuần, cây bản địa nên việc để giống từ vụ sản xuất trước của người dân khá dễ dàng
nên người sản xuất chỉ phải mua giống vụ đầu hoặc mua bổ sung do yếu tố thời tiết và nhu cầu sản xuất phát sinh, còn các vụ sau thường sử dụng giống tự để từ vụ sản xuất trước.
Quy hoạch nguồn cung ứng đầu vào cho sản xuất cũng là vấn đề quan trọng góp
phần thực hiện thành công các quy hoạch của địa phương, bao gồm:
Nguồn phân hữu cơ vi sinh: dự kiến 100% nguồn phân này được quản lý bằng hình thức khuyến cáo hoặc cung cấp phương pháp ngâm ủ phân chuồng và các chất thải hữu cơ để làm phân bón cho cây.
Phân hóa học (N,P,K); phân sinh học và thuốc BVTV: 100% được nhà nước quản lý
thông qua hệ thống các cửa hàng, công ty cung cấp vật tư nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Nguồn lao động: Đây là yếu tố quyết định đến sự thành công của quá trình thực hiện quy hoạch, dự kiến đến năm 2020 sẽ có 30% lực lượng lao động được nhà nước
3.2.2.2. Thực trạng công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
quản lý thông qua hình thức đào tạo, tập huấn về sản xuất, thu hái, bảo quản và chế biến dược liệu an toàn và xây dựng vùng đủ điều kiện theo tiêu chuẩn GACP – WHO. Đến năm 2030 lực lượng lao động tham gia sản xuất cây dược liệu được qua đào tạo, cấp chứng nhận đạt khoảng 80%.
Về công tác chuẩn bị xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược
liệu của các tỉnh
93
Để thực hiện định hướng quy hoạch trên, các địa phương đã chủ động tổ chức xây dưng quy hoạch kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu, hầu hết các dịa phương đều tiến hành điều tra, khảo sát xác định điều kiện phát triển cây trồng và dự kiến quy mô sản xuất,chuẩn bị các điều kiện về vật chất, tài chính và nhân lực để tiến hành xây
dựng kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu với địa phương mình.
Đối với việc khai thác dược liệu tự nhiên, các tỉnh đã tổ chức điều tra, đánh giá lại hiện trạng nguồn tài nguyên dược liệu trên cả nước, ưu tiên dược liệu trọng điểm để
làm cơ sở quy hoạch, khai thác, nuôi trồng mới phục vụ mục tiêu bảo tồn, phát triển bền vững dược liệu. Lập bản đồ quy hoạch vùng phát triển dược liệu và phân bố dược liệu tự nhiên làm cơ sở cho việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tổ chức khoanh vùng bảo vệ các loại cây thuốc quý, hiếm, nằm trong danh mục
cần bảo vệ, trong vùng rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên.
Tổ chức triển khai khai thác bền vững các loại dược liệu mọc hoang trong tự nhiên không thuộc các vùng rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên. Khi khai thác đã
cố gắng chủ trương tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc “Thực hành tốt thu hái cây thuốc (GCP)” theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO), đảm bảo khả năng tái sinh và phát triển của cây thuốc sau khi khai thác; có kế hoạch và phương pháp khai thác hợp lý đảm bảo tái sinh và phát triển bền vững cây thuốc tại vùng khai thác.
Các địa phương cũng đã tổ chức tập huấn cho các tổ chức và cá nhân tham gia khai thác dược liệu tự nhiên về kỹ thuật thu hái, sơ chế, bảo quản dược liệu nhằm bảo đảm chất lượng dược liệu khai thác và đảm bảo khả năng tái sinh bền vững của cây
thuốc tại vùng khai thác.
Đối với về triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nuôi trồng cây thuốc. các tỉnh đã cơ bản kiện toàn, củng cố và phục hồi các vùng nuôi trồng dược liệu truyền thống có thế mạnh trong vùng phục vụ công tác bảo tồn và khai thác, phát triển bền vững,
từng bước và chủ động đảm bảo đủ nhu cầu dược liệu trong nước và hướng tới xuất khẩu.
Bên cạnh đó cũng đã chú trọng xây dựng và triển khai các phương án phát triển các vùng nuôi trồng dược liệu có nhu cầu sử dụng lớn trong nước, trong đó tập
trung ưu tiên phát triển các nhóm dược liệu đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất thuốc, chiết xuất và tinh chế hoạt chất tinh khiết, xuất khẩu và dùng cho nhu cầu khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền,
Công tác triển khai cũng đã chú trọng đầu tư phát triển bền vững các vùng nuôi
trồng dược liệu có nhu cầu sử dụng lớn và có giá trị kinh tế cao theo các nguyên tắc,
94
tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng và thu hái dược liệu” của Tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO).
Đối với việc triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch nghiên cứu, tạo giống cây thuốc. i)Xây dựng các chương trình định hướng nhằm tăng nhanh tỷ lệ sử dụng giống tiến bộ kỹ thuật cao cho sản xuất đại trà phù hợp với điều kiện của từng vùng, nhằm tạo ra đột phá mới về năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần cung cấp đủ giống cây thuốc có chất lượng phục vụ công tác nuôi trồng và phát triển dược liệu ở quy mô công nghiệp; ii)
Đưa ra các đề xuất thực hiện nhằm nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, áp dụng công nghệ sản xuất giống, ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học trong chọn tạo, để tạo ra nhiều giống cây thuốc mới có năng suất và chất lượng cao, đặc tính tốt cho sản xuất đại trà; phục tráng giống cây thuốc đặc sản địa phương gắn với việc xây dựng
thương hiệu và chỉ dẫn địa lý; iii)Triển khai các phương án cụ thể nhằm bảo vệ và phát triển nguồn giống cây thuốc sinh sản tự nhiên, đảm bảo tài nguyên dược liệu phát triển bền vững. Tập trung phục hồi và nâng cao chất lượng các giống cây thuốc có tiềm năng
và thế mạnh của vùng; iv)Các tỉnh cũng đã chú trọng xây dựng và phát triển hệ thống lưu thông phân phối và cung ứng dược liệu từ trung ương đến địa phương nhằm chủ động cung ứng đủ dược liệu, đảm bảo kiểm soát được chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ dược liệu; v) Đặc biệt, cũng đã đề xuất các cơ chế chính sách và các chương trình hành
động cụ thể để khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống cây thuốc, tham gia phát triển nuôi trồng dược liệu, đầu tư cơ sở sơ chế, chế biến, chiết xuất cao dược liệu định chuẩn, bảo quản dược liệu ứng
dụng công nghệ cao, tiên tiến.
3.2.3. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu.
Đây là một công tác rất quan trọng trong quá trình phát triển cây trồng dược liệu,
bởi vì thực trạng xây dựng quy hoạch, kế hoạch và thực hiện quy hoach kế hoạch ở các địa phương còn nhiều hạn chế, thiếu kinh nghiệm và còn xa rời với thực tiễn địa phương. Chính vì vậy, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh , bổ sung và xử lý những vấn đề nảy sinh
trong quá trình thực hiện quy hoạch và kế hoạch có tầm quan trọng rất lớn trong việc thực hiện thành công định hướng phát triển cây trồng dược liệu.
Trong những năm 2010-2015 các tỉnh đã tiến hành kiểm tra giám sát điều chỉnh bổ
sung và xử lý việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệ như sau:
95
Bảng 3.4: Tổng hợp tình hình kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, bổ sung và xử lý vi phạm thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh điều tra những năm 2010-2015
ĐV tính: đợt
Tổng số
Từng tỉnh Hưng Yên Hà Giang Bắc Giang 25 1 2 32 1 5 22 1 2 79 3 9 1.Số lần kiểm tra, giám sát 2. Số lần điều chỉnh bổ sung quy hoạch 3. Số lần xử lý các vi phạm trong thực hiện quy hoạch, kế hoạch
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ báo cáo của các tỉnh
Các đợt kiểm tra liên quan đến điều chỉnh thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu được thực hiện theo nhu cầu thực tế phát sinh, cụ thể, có thể phát sinh những điều chỉnh sau khi có quyết định hoặc quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu của
cả nước, hay định hướng phát triển của vùng/khu vực… chính vì vậy, tỉnh đã thực hiện kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với định hướng chung của cả nước
Thêm vào đó, sau những thời điểm tổng kết cuối năm hoặc quý, địa phương có những điều chỉnh để có thể có kết quả tốt nhất trong phát triển cây trồng dược liệu dựa
vào thực tế phát sinh các vấn đề của địa phương
Quá trình kiểm tra, giám sát cũng sẽ có tác dụng ngược lại khi giúp địa phương kịp thời nhận biết những vấn đề mới phát sinh để có thể điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện và nhu cầu thực tế. Cụ thể, việc kiểm tra giám sát thường xuyên giúp địa phương loại bỏ hoặc điều chỉnh những dự án treo, quy hoạch treo, những dự án chậm tiến độ so với đăng ký ban đầu…
3.3. Đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
3.3.1. Những thành tựu và hạn chế trong hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu chung của cả nước
Thực hiện luật dược 2005, từ năm 2009 đến năm 2016 nhà nước đã ban hành 11 thông tư, 3 quyết định, 1 chỉ thị liên quan trực tiếp tạo khuôn khổ pháp lý cơ chế chính sách cho phát triển cây dược liệu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu nhiều chính sách «hoặc đã có nhưng chưa được triển khai kịp thời ở Trung ương và địa phương: quản lý khai thác
dược liệu tự nhiên; chính sách ưu đãi; chính sách ưu đãi cụ thể về kinh phí, tạo điều kiện trong việc phát hiện, bảo tồn và ứng dụng khoa học, công nghệ trong nghiên cứu,
96
phát triển nguồn gen dược liệu quý, hiếm, đặc hữu; quy định đặc thù về giống cây dược liệu; chính sách ưu đãi cụ thể về đất đai, vốn, giống, công nghệ trong nuôi trồng dược liệu” (Báo cáo Bộ Y tế, 2017). Để khắc phục tình trạng này, năm 2017, chính phủ ban hành Nghị định 65/2017/NĐ-CP quy định Chính sách đặc thù về giống, vốn và công nghệ trong phát triển nuôi trồng, khai thác dược liệu. Tuy nhiên việc triển khai các quy định này còn chậm. Trên địa bàn các tỉnh, UBND nhiều tỉnh đã chủ động xây dựng một số chính
sách đặc thù tạo hành lang pháp lý cho phát triển cây trồng dược liệu. Chẳng hạn như tỉnh Quảng Ninh chủ trương nuôi trồng quy mô lớn dược liệu dần được hình thành thông qua Chương trình “Mỗi xã phường một sản phẩm” (OCOP). Đến nay đã củng cố các vùng sản xuất dược liệu tập trung như: vùng trồng cây Hồi với diện tích 4.600 ha
với sản lượng năm 2016 đạt 500 tấn hoa khô; vùng trồng Quế 2.997 ha, sản lượng đạt 1.442 tấn; Hình thành các vùng trồng mới cây Ba Kích 322 ha, Cây trà hoa vàng 120 ha và bước đầu hình thành vùng trồng các loại cây Kim Ngân, Đinh lăng, Địa liền, Cà
gai leo, Kim tiền Thảo, Xuyên tâm, Diệp hạ châu, Dây thìa canh...với diện tích 192,2ha. Đến cuối năm 2016, Chương trình OCOP đã có 180 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở hộ sản xuất tham gia sản xuất các sản phẩm, trong đó có 20 tổ chức tham gia vào chương trình sản xuất thảo dược, chiếm 11%; bao gồm 06 doanh nghiệp (03 công ty cổ phàn, 03 công ty TNHH), 13 hợp tác xã và 01 tổ hợp tác xã. Có 10 tổ chức chiếm 50% trong số đó đạt điều kiện nhà sản xuất, trong đó có 03 tổ chức đạt tiêu chuẩn sản xuất thực phẩm chức năng cho Cục VSATTP quản lý và 07 tổ chức đạt tiêu chuẩn vệ sinh
thực phẩm thông thường. Các đơn vị này sản xuất 70 sản phẩm dược liệu (chiếm 35% tổng số sản phẩm OCOP của tỉnh), thuộc 8 dạng bào chế: Dược liệu đóng gói, trà túi lọc, cao dược liệu, tinh dầu, viên nang cứng, rượu thuốc, bột thuốc và dầu xoa. Các đơn vị đã tạo cơ sở nền tảng quan trọng trong sản xuất và kinh doanh dược liệu của tỉnh, bao gồm
sản xuất sơ cấp, thứ cấp và thương mại; trên cơ sở này ngành Y tế Quảng Ninh đã quy hoạch “Thung lũng phát triển dược liệu xanh Ngọa Vân – Yên Tử” phân bố ở các huyện miền núi phía Tây của tỉnh, bao gồm các huyện, thị xã, thành phố: Đông Triều, Uông Bí,
Hoành Bồ, Ba Chẽ, Bình Liêu nhằm mục tiêu phát triển chuỗi giá trị dược liệu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của vùng. (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2017)
Tại Bắc Giang có nhiều lợi thế về đất đai, khí hậu để phát triển cây dược liệu quý hiếm như: Hà thủ ô, ba kích, sâm nam, linh chi… Tỉnh đã có chủ trương chuyển
đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng mới cho thu nhập cao, khuyến khích người dân lựa chọn cây dược liệu thay thế các loại cây trồng truyền thống.được đưa về tỉnh trồng thử nghiệm và nhân rộng thành công. Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 500 ha
sản xuất loại cây trồng dược liệu quý hiếm trên đây. (Hoàng Phương, 2016)
97
Tại Hà Giang, là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc có nguồn cây dược liệu
tự nhiên phong phú và đa dạng, với trên 1.100 loài cây dược liệu quý hiếm khác nhau.
Các loài dược liệu sống chủ yếu ở độ cao từ 1.000 - 1.600m so với mực nước biển như hồi, thảo quả, ý dĩ, ấu tẩu, nghệ đen, đỗ trọng, óc chó, sa nhân, hương thảo, giảo cổ lam, bạch chỉ… Là những loài cây có giá trị kinh tế cao góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vì vậy, từ năm 2012, tỉnh Hà Giang đã triển khai Dự án
phát triển cây dược liệu tại 6 huyện thuộc Chương trình 30a của Chính phủ (gồm 4 huyện vùng cao nguyên đá: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ và 2 huyện vùng cao phía tây: Hoàng Su Phì, Xín Mần).Dự án Phát triển cây dược liệu tỉnh Hà Giang đã
được Chính phủ phê duyệt và được các Bộ, ngành chức năng của Trung ương thẩm định với quy mô 12.581ha, trong đó diện tích trồng mới là 5.180ha. Tổng số vốn thực hiện dự án là 2.932 triệu đồng, trong đó vốn Nhà nước 1.409 triệu đồng (chiếm 48,05 %); vốn các doanh nghiệp 708 triệu đồng (24,14%); vốn của các tổ chức kinh tế 576 triệu đồng (19,64%) và vốn của các hộ nông dân 237 triệu đồng (8,08%). (Văn Phú, 2017)
Tại tỉnh Bắc Cạn, trong những năm 2008-2010, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương chính sách nhằm bảo tồn và nuôi trồng, phát triển dược liệu, như Ngày 08/9/2008 Tỉnh uỷ Bắc Kạn ban hành kế hoạch số 57 /KH –TU thực hiện Chỉ thị số 24 - CT /TW ngày 04 tháng 7/ 2008 của Ban bí thư Trung ương Đảng ( khoá X ) về phát triển
nền đông y Việt Nam và Hội đông y Việt Nam trong tình hình mới; Ngày 16/12/ 2009 Uỷ ban nhân nhân tỉnh Bắc Kạn ra quyết định số: 3808/QĐ - UBND phê duyệt Chương trình phát triển dược liệu tỉnh Bắc Kạn giai đoạn từ năm 2010 đến 2015 và tầm nhìn 2020; Ngày 12/3/2010 UBND tỉnh Bắc Kạn Ban hành Quyết định số: 435/2010/QĐ-UBND
Về việc ban hành Quy chế quản lý khai thác, kinh doanh và sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (UBND tỉnh Bắc cạn, 2017)
Tuy vậy, đến nay các cơ chế, chính sách ban hành vẫn chưa đủ mạnh hoặc đã
có nhưng chưa được triển khai kịp thời ở Trung ương và địa phương: quản lý khai thác dược liệu tự nhiên; chính sách ưu đãi; chính sách ưu đãi cụ thể về kinh phí, tạo điều kiện trong việc phát hiện, bảo tồn và ứng dụng khoa học, công nghệ trong nghiên cứu,
phát triển nguồn gen dược liệu quý, hiếm, đặc hữu; quy định đặc thù về giống cây dược liệu; chính sách ưu đãi cụ thể về đất đai, vốn, giống, công nghệ trong nuôi trồng dược liệu. Chính vì thế chính sách phát triển cây trồng dược liệu chưa phát huy được thế mạnh của cây trồng dược liệu Việt Nam để làm cho sản phẩm từ dược liệu mang
thương hiệu quốc gia có giá trị, sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
Để đánh giá thành tựu và hạn chế của các chính sách phát triển cây trồng dược liêuk luận án đã lấy ý kiến hai nhóm đối tượng là người trồng dược liệu và cán bộ
98
quản lý nhà nước. Kết quả cho thấy như ở bảng 3.5. Bảng này cho thấy hầu hết 8 chính sách trồng dược liệu được hỏi, đều cho kết quả bình quân từ 3,735 ĐTB/5 đến 4,189 ĐTB/5. So với thang đánh giá , thì điểm đánh giá trung bình của các chính sách đều ở mức khá và tốt. Điều này có nghĩa là cả người trồng dược liệu (M1) và cán bộ quản lý
nhà nước (M2) đều đánh giá sự nỗ lực trong việc xây dựng các chính sách trồng dược liệu của nhà nước ta những năm qua.
Bảng 3.5: Điểm bình quân chung đánh giá tác động của các chính sách đến phát triển cây trồng dược liệu
(Điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất) ĐBQ chung Trong đó Mẫu M1 Mẫu M2
1. Tác động của chính sách đất đai 2. Tác động của chính sách vay vốn ngân hàng 3. Tác động của chính sách thuế 3,82 3,81 4,00 4,07 4,25 4,11 3,56 3,42 3,89
4. Tác động của chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN 5. Tác động của chính sách đào tạo nhân lực 6. Tác động của chính sách phát triển cơ sở hạ tầng 7. Tác động của chính sách cung ứng nguyên vật liệu 3,84 3,84 3,74 3,82 3,98 3,91 4,07 4,03 3,69 3,76 3,4 3,6
8 Tác động của chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm 4,19 4,58 3,8
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
3.3.1.1. Thành tựu và hạn chế về chính sách đất đai
Sau đây luận án phân tích cụ thể thành tựu và hạn chế của từng chính sách.
Khu vực miền núi phía bắc rất đa dạng về địa hình và thỗ nhưỡng, tùy thuộc vào từng địa phương, mỗi địa phương bình quân có khoảng 6 nhóm đất chính, với 20 loại đất, phân bố ở hầu hết các huyện, các loại đất đan xen nhau (đất thích hợp đan xen đất không thích hợp), không tập trung, độ dốc khá lớn, có nhiều loại đất rất thích hợp
và thích hợp vừa cho việc trồng dược liệu, tuy diện tích đất phân tán nhưng 90% đất vẫn đang được dùng làm đất nông nghiệp. Trong đó đất rất thích hợp để trồng dược liệu đặc biệt là nhưng cây có giá trị cao còn nhiều, lựa chọn chỗ đất có độ dốc < 15 độ.
Địa hình đất đai ở đây tạo ra thách thức không nhỏ cho phát triển dược liệu của vùng.Chẳng hạn như bề mặt độ cao không đồng mức, độ dốc khá lớn khó khăn trong việc đưa cơ giới hóa, mưa dễ gây rửa trôi làm đất nhanh bạc màu, khó đầu tư cải tạo đồng ruộng lớn.
Mặc dù có điều kiện thuận lợi, nhưng những khó khăn về địa hình thổ nhưỡng cũng không phải là ít. Trong thời gian qua, các địa phương trong vùng cũng đã ra sức khắc phục những khó khăn bằng những chính sách đất đai hợp lý, đã định hướng lựa
99
chọn khu vực có đất thích hợp, cây trồng phù hợp nhất để cho hiệu quả cao nhất. những lựa chọn này có tính đến các yếu tố tổ hợp về chất đất,độ dốc, thuận tiện giao thông, thủy văn và có diện rộng. Đồng thời, cũng đã đề ra những chính sách và phương án để cải tạo đồng ruộng như san đều, đào đổ thêm đất để tạo độ dốc thích hợp
vừa tốt cho thoát nước, chống rửa trôi, có qui trình để cải tạo làm giàu cho đất.
Bên cạnh đó, các tỉnh cũng đã chủ động trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch và đi kèm các biện pháp thực thi hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp và hộ gia đình trong việc phát triển có hiệu quả diện tích nuôi trồng dược liệu trên địa bàn. Đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý như giảm tiền thuê đất cho các doanh nghiệp đầu tư vào dược liệu, đưa ra các chính sách và phương pháp hợp lý nhằm nhanh chóng giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và nuôi trồng dược liệu sớm đi vào hoạt động. Chính sách giao đất giao rừng cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi và động lực cho người dân địa phương trong việc phát triển nuổi trồng dược liệu; nâng cao ý thức trong việc bảo
vệ rừng. Góp phần tăng thu nhập cho người dân địa phương nhằm thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo của các tỉnh.
Những thành tựu trên rất đáng ghi nhận, nó thể hiện sự cố gắng và nỗ lực rất lớn của cán bộ quản lý nhà nước. Điều này được minh chứng thông qua số liệu khảo sát một số địa phương trong vùng. Trong tám chính sách cần phải hoàn thiện thì chính
sách đất đai được đánh giá là là khá, với số điểm bình quân chung là 3,815/5 điểm. Điều này cho thấy tính hiệu quả tạo ra từ chính sách đất đai là không nhỏ và đã được thực tiễn ghi nhận, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kích thích người sản xuất tăng cường đầu tư vào ngành nuôi trồng và sản xuất dược liệu.
Bên cạnh những thành tựu đó, chính sách đất đai cung còn bộc lộ những hạn
chế chủ yếu như:
Một là, chính sách đất đai mặc dù đã có độ thông thoáng, tuy nhiên, trình độ quản lý của các cơ quan quản lý và việc thực thi của người dân địa phương còn nhiều
hạn chế, hơn nữa, điều kiện địa hình thỗ nhưỡng khó khăn, đã làm cho chính sách đất đai chưa phát huy được hết hiệu quả như mong đợi.
Hai là, việc giao đất giao rừng mặc dù đã tạo điều kiện chủ động cho người dân trong việc phát triển sản xuất dược liệu, tuy nhiên lại gây khó khăn cho việc bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng nguyên sinh quốc gia.
Ba là, vẫn còn nhiều địa phương thủ tục triển khai còn chậm, công tác hành chính còn phức tạp, giải phóng mặt bằng còn chậm gây khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực.
100
3.3.1.2. Thành tựu và hạn chế về chính sách vốn
Bốn là, việc nghiên cứu đặc điểm của đất với sự phù hợp và thích nghi của loại cây dược liệu vẫn chưa được chú trọng đúng mức, hơn nữa, với địa hình đồi núi hiểm trở như khu vực này thì công tác này còn gặp nhiều khó khăn hơn, chính điều này đã tạo ra tính thiếu hợp lý trong một số quy hoạch phát triển loại cây dược liệu, gây khó khăn cho người dân trong việc trồng loại cây dược liệu gì, nuôi loại con dược liệu nào,…
Có thể nói rằng chính sách vốn là một chính sách hết sức quan trọng góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển cây dược liệu của địa phương, vì việc trồng cây dược liệu cần một lượng vốn rất lớn, vừa để đảm bảo nhu cầu lương thực khi chuyển đổi cây trồng, vừa phải nghiên cứu triển khai các loại giống dược liệu, vừa
phải đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng,… Mặc dù vốn cần lớn nhưng đời sống của người dân ở khu vực miền núi phía bắc đa số là nghèo, đời sống kinh tế khó khăn. Chính vì lẽ đó, nếu muốn có đủ vốn để phát triển cây trồng dược liệu chỉ còn trông chờ vào chính sách ưu đãi hỗ trợ vay vốn từ phía nhà nước và lượng vốn đầu tư từ phía doanh nghiệp.
Trong những năm qua, chính quyền địa phương cũng đã quan tâm chú trọng đến vấn đề này, cũng đã tạo được những điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn
của người dân và doanh nghiệp, như các gói cho vay ưu đãi với lãi xuất thấp, thủ tục cho vay đơn giản, thông thoáng. Đa số người dân và doanh nghiệp đều có thể thể dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn vay, đặc biệt là vốn vay từ ngân hàng.
Điểm bình quân đánh giá tác động của chính sách vốn cả người trròng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước là 3,81ĐTB/5 điểm. Tuy nhiên, những thành tựu trên là chưa đủ cho việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển dược liệu.
Các hộ gia đình còn gặp khó khăn trong vay vốn để phát triển dược liệu, bới vẫn phải thế chấp tài sản như nhà ở; Các địa phương chưa có được một phương án chính sách chủ động góp phần giải quyết bài toán thiếu vốn đầu tư cho phát triển dược liệu đặc biệt là cho hộ nông dân nghèo.
3.3.1.3 Thành tựu và hạn chế về chính sách thuế
Một tình trạng chung là gần như có sự bị động chờ vốn rót từ trung ương và một phần ngân sách địa phương cũng như trông chờ hoàn toàn vào các ưu đãi lãi suất từ phía ngân hàng.
Chính sách thuế là một công cụ rất quan trọng giúp cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các kế hoạch định hướng. Với một chính sách thuế thông thoáng và hợp lý với
101
nhiều ưu đãi sẽ tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước mong muốn, cũng như hạn chế các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước không mong muốn bằng cách nâng cao mức thuế, phí cho các lĩnh vực đó. Chính vì vậy, để phát triển cây trồng dược liệu thì việc hoàn thiện chính sách thuế là không thể xem nhẹ.
Chỉ có xây dựng một chính sách thuế hợp lý với những ưu đãi nhất định thì mới thu hút được nhà đầu tư đầu tư vào cây trồng dược liệu trên địa phương đặc biệt là doanh nghiệp.
Nhận ra vai trò quan trọng của nó, những năm qua nhà nước đã đã quan tâm chú trọng xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế. Có thể nói chính sách thuế hiện nay vừa có những ưu đãi cho người sản xuất dược liệu như miễn hoặc giảm thuế cho doanh
nghiệp và hộ gia đình trồng cây dược liệu trong thời gian đầu, giảm thuế đất,….lại vẫn duy trì ở mức thuế suất hợp lý nhằm góp phần đóng góp vào ngân sách trung ương và địa phương. Những người sản xuất dược liệu đã nhận được những lợi ích tích cực từ
phía nhà nước và chính quyền địa phương thông qua chính sách thuế.
Điểm bình quân đánh giá tác động của chính sách thuế cả người trồng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước là khá cao với 4,0ĐTB/5 điểm. Tuy nhiên, chính sách này vẫn còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế cụ thể là:
Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp trong nước nói chung, doanh nghiệp dược liệu đã và đang phải đối mặt với những khó khăn thách thức rất lớn liên quan đến cạnh tranh sản phẩm cả về chất lượng và số lượng, chính vì vậy việc hỗ trợ của nhà nước với các doanh nghiệp này có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, các doanh nghiệp chưa thực sự được sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước về thuế suất, các doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo đóng góp thuế theo quy định của nhà nước
Thứ hai, với các hộ gia đình sản xuất cây trồng dược liệu, các hộ gia đình bên cạnh việc được mức miễn giảm thuế đất nông nghiệp, thì vẫn phải đóng góp các thuế, phí khác, cụ thể các chi phí liên quan đến thủy lợi, chi phí phát sinh trực tiếp từ đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, chính vì vậy, chi phí của quá trình sản xuất là cao
3.3.1.4. Thành tựu và hạn chế về chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ
cho các hộ gia đình trồng dược liệu.
Khoa học công nghệ là một phần không thể thiếu trong việc phát triển đất nước
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển dược liệu đạt chất lượng cao thì việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phải được chú trọng đúng mức.
Trong thời gian qua đã có nhiều chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ được triển khai trên địa bàn các tỉnh miền núi phía bắc như xây dựng các khu nghiên
cứu phát triển giống dược liệu, triển khai trồng thử nghiệm nhiều loại dược liệu quý hiếm
102
có giá trị kinh tế cao. Kết hợp với doanh nghiệp và trung tâm khuyến nông đẩy mạnh công tác hướng dẫn kỹ thuật công nghệ nuôi trồng cho người dân. Tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo, hội nghị nhằm tập huấn cho người dân kỹ thuật công nghệ ứng dụng trong quá trình nuôi trồng dược liệu. Chính quyền địa phương đã đặt những quan tâm đúng mức
cho việc hoàn thiện chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ.
Điểm bình quân đánh giá tác động của chính sách ứng dụng khoa học công nghệ cả người trồng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước là khá với điểm là
3,835ĐTB/5 điểm. Tuy nhiên, chính sách này vẫn còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế cụ thể là:
Thứ nhất, công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất giống cây thuốc, xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống cây thuốc, kỹ thuật nuôi trồng, bảo
tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc, tiêu chuẩn hóa, sản xuất thành phẩm chưa được quan tâm và đầu tư đủ mạnh (giống cây thuốc không chuẩn, phân ly, thoái hóa; năng suất trồng trong nước còn thấp; công nghệ sản xuất lạc hậu,...). Việc ứng dụng khoa học công
nghệ tiên tiến trong việc thu hái, sơ chế, bảo quản và chế biến sau thu hoạch dược liệu, sản xuất thuốc cổ truyền, thuốc từ dược liệu chưa được chú trọng đổi mới.
Thứ hai: với các địa phương vùng khu vực miền núi phía bắc, nhất là Hà Giang, người dân tiếp cận tương đối khó khăn với khoa học công nghệ, chủ yếu người dân
trồng dược liệu áp dụng rất máy móc các kỹ thuật được cán bộ của doanh nghiệp thu mua đào tạo. Do đặc thù, điều kiện về trình độ của người dân còn tương đối hạn chế, vì vậy khả năng người dân tiếp cận và sử dụng thành thạo các thiết bị còn hạn chế
Thứ ba, với các hộ dân tại Bắc Giang thì đánh giá hạn chế của chính sách khoa học công nghệ: bản thân người dân khi trồng cây dược liệu chủ yếu theo thói quen và yêu cầu trực tiếp của doanh nghiệp thu mua, chính vì vậy việc áp dụng khoa học công nghệ là chưa nhiều với các hộ gia đình này khi trồng và phát triển cây trồng dược liệu,
3.3.1.5. Thành tựu và hạn chế về chính sách phát triển nguồn nhân lực
kể cả khi được yêu cầu sơ chế cũng không thường xuyên áp dụng khoa học kỹ thuật
Nhân tố con người là nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của quá trình sản xuất. Trong nuôi trồng và phát triển dược liệu, kinh nghiệm quản lý, nghiên cứu và nuôi trồng dược liệu là yếu tố then chốt trong việc thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển ngành nuôi trồng dược liệu thành một ngành trọng điểm.
Các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng các chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực cho quản lý và nghiên cứu, nuôi trồng dược liệu. Các nhà khoa học được huy động trong khâu nghiên cứu phát triển giống mới,… Các nhà quản lý
103
cũng được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ. Các lớp tập huấn cho người dân cũng được triển khai rầm rộ, giai đoạn đầu cũng tạo ra được những bước tiến đáng kể trong việc đổi mới cách thức nuôi trồng chuyển từ tự phát sang tự giác của người dân địa phương.
Điểm bình quân đánh giá tác động của chính sách phát triển nguồn nhân lực của
cả người trồng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước là khá với mức 3,835ĐTB/5 điểm. Tuy nhiên, chính sách này vẫn còn những hạn chế nhất định. Do trình độ dân trí ở vùng miền núi phía bắc còn hạn chế, địa hình khó khăn phức tạp, các bản làng nằm rải rác
cách xa nhau,… điều này đã gây khó khăn không nhỏ trong công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực từ cấp quản lý cho đến người trực tiếp sản xuất, vì thế chính sách đào tạo nhân lực trồng cây dược liệu còn nhiều hạn chế. Những hạn chế cụ thể là
Thứ nhất, các khóa này vẫn còn mang nặng tính hình thức, lấy số lượng chứ
chưa thật sự chú trọng đến chất lượng nên kết quả của các khóa đào tạo chưa cao.
Thứ hai, các khóa học được thực hiện chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân, nhiều hộ dân trồng dược liệu khi được khảo sát đã cho biết, các khóa
được thực hiện mang tính chất giải ngân là chủ yếu, không thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân. Việc đào tạo vẫn theo cơ chế: người dạy theo ý muốn của người dạy mà chưa quan tâm đến yêu cầu của người tiếp nhận thông tin
3.3.1.6. Thành tựu và hạn chế về chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Thứ ba, trình độ của một số hộ gia đình còn hạn chế, các khóa tập huấn về nuôi trồng dược liệu chuyên sâu nhiều khi chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của người trồng, nhiều khóa tập huấn chỉ dành cho cán bộ lãnh đạo của thôn/xóm hoặc xã , chính vì vậy người dân trồng dược liệu trực tiếp cũng chưa được tiếp cận.
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng dược liệu, đặc biệt là ở khu vực miền núi phía bắc với điều kiện địa hình đồi núi gây khó khăn rất
lớn cho việc phát triển cây trồng dược liệu thì việc phát triển cơ sở hạ tầng lại càng trở nên bức thiết.
Trong thời gian vừa qua, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng đã có nhiều bước
tiến, đã đáp ứng được một số yêu cầu về cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông cho khu vực. Các địa phương cũng đã có nhiều chính sách hợp lý để phát triển cơ sở hạ tầng ở địa phương, chính sách đổi hạ tầng lấy đất, BOT, BTO, BT cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu hạ tầng cơ bản ở địa phương, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế xã hội địa phương nói chung và cây trồng dược liệu nói riêng. Những thành tựu rõ rệt là các địa phương có được hệ thống giao thông và hệ thống điện khá thuận lợi, góp phần không nhỏ vào thành công giai đoạn vừa qua của phát triển cây trồng dược liệu.
104
Điểm bình quân đánh giá tác động của chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của cả người trồng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước là khá với mức 3,735ĐTB/5 điểm. Tuy nhiên, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập. Những hạn chế cụ thể là:
Thứ nhất, hiện nay, chính sách đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các nghiên cứu phát triển giống dược liệu chưa được chú ý đầy đủ. Khâu đầu tư phát triển, nghiên cứu giống các loại dược liệu và nâng cấp chất lượng giống còn rất hạn chế. Nhiều nơi muốn tham gia trồng dược liệu nhưng không tìm được giống. Chính điều này làm cho
các Viện, Công ty nguyên liệu không có đủ năng lực nghiên cứu, thử nghiệm và nhân giống mới nhằm phát triển vùng nguyên liệu tự nhiên có chất lượng cao. Điều đó làm cho năng suất cây trồng dược liệu của nước ta rất thấp.
Thứ hai, hệ thống thủy lợi gần như là đang bị bỏ lững vì địa hình đồi núi, dân cư sống rãi rác gần như không có phương án để xây dựng hoàn thiện hệ thống kênh mương nội đồng, nguồn nước phần lớn phụ thuộc vào lượng mưa, sông suối , ao hồ mà chưa thể chủ động được nguồn nước tưới tiêu,.., những khó khăn này gây ra tình trạng bất lực trong
việc hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng từ phía nhà nước.
Thứ ba, hệ thống ánh sáng cũng như nhà lưới phục vụ cho phát triển cây trồng dược liệu cũng chưa thực sự được đầu tư phát triển tại các địa phương, chính quyền địa phương cần có những hỗ trợ người dân để có thể có điều kiện tốt nhất cho phát
triển cây trồng dược liệu.
Thứ tư, với sự phát triển các doanh nghiệp dược liệu, việc thu hút lao động làm việc đang đòi hỏi phả có sơ sở hạ tầng đi kèm như nhà ở và các điều kiện phục vụ cho
3.3.1.7 Thành tựu và hạn chế về chính sách thị trường cung ứng nguyên vật liệu và thị trường sản phẩm
người lao động. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có chính sách đáp ứng.
Muốn phát triển cây trồng dược liệu thành cây trồng trọng điểm thì phát triển thị trường là vấn đề không quan trọng hàng đầu. Các địa phương đã quan tâm tới việc cung ứng về giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho các cơ sở trồng
dược liệu. Các địa phương cũng đã chú trọng đến chính sách tiêu thụ sản phẩm. Việc liên kết 4 nhà nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – và hộ gia đình đã được các địa phương chú trọng triển khai tạo ra được những thành tựu mới trong việc phát triển
cây trồng dược liệu. Việc phát triển thị trường thuốc từ cây trồng dược liệu đã tạo động lực cho việc phát triển cây trồng dược liệu cả về số lượng và chất lượng.
Với kết quả đó, điểm bình quân của cả người trồng cây dược liệu và cán bộ quản lý nhà nước đánh giá tác động của chính sách phát triển thị trường cung ứng
105
nguyên liệu đạt mức 3,815ĐTB/5 và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm là 4,19 ĐTB/5 điểm. Kết quả này thể hiện sự nỗ lực cài thiện thị trường đầu vào và đầu ra của trồng cây dược liệu.
Tuy nhiên, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho trồng cây dược liệu
vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Thứ nhất, đối với thị trường đầu vào, việc cung ứng các loại giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuộc bảo vệ thực vật hiện chưa được quản lý chặt chẽ, không những
ảnh hưởng đến năng suất cây trồng mà còn gây tác động xấu đến môi trường, sinh thái.
Thứ hai, tốc độ phát triển thị trường sản phẩm là chưa tương xứng với tiềm năng và mong đợi của người sản xuất; người dân phải tự tìm kiếm thị trường cho sản phẩm nên vừa bị ép giá trước thương laii, đầu nậu và nhiều khi còn làm cho các doanh
nghiệp chế biến bị động về nguồn ngueyen liệu.
Thứ ba, thực tế hiện nay, rất nhiều các cơ sở kinh doanh buôn bán dược liệu là các hộ kinh doanh cá thể hoạt động tự phát với địa điểm kinh doanh chặt chội, không đáp ứng
đủ diện tích và các điều kiện bảo quản dược liệu, không có kho bảo quản hoặc kho bảo quản được xây dựng không đạt tiêu chuẩn và không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh. Dược liệu thường được chất đống, không đủ giá kệ và có khi không được ghi nhãn mác trên bao bì theo quy định. Việc sơ chế dược liệu cũng còn nhiều bất cập do không đủ diện tích để
phơi sấy, quá trình sơ chế không đúng quy trình gây ảnh hưởng đến chất lượng dược liệu và hiệu quả điều trị của thuốc. Dược liệu trong các cơ sở kinh doanh dược liệu ở quận 5, thành phố Hồ Chí Minh và phố Lãn Ông, quận Hoàn kiếm, thành phố Hà Nội phần lớn
không có hóa đơn mua hàng, không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. (Bộ y tế, 2017)
Thứ tư, nguồn dược liệu trồng được tại Việt Nam vẫn chịu chi phối nhiều bởi thị trường nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Ngoài một số vùng liên kết sản xuất với các công ty sản xuất thuốc thì nhiều vùng công tác trồng và khai thác dược liệu
vẫn diễn ra một cách manh mún, tự phát và chủ yếu tiêu thụ qua các thương lái Trung Quốc. Do đó mà nhiều trường hợp hàng chục tấn dược liệu phải chất kho vì không được thu mua. Điều này cho thấy thị trường cho ngành dược liệu của Việt Nam là đầy
tiềm năng nhưng vẫn còn nhiều bấp bênh nếu như không có những chính sách thị trường sản phẩm đúng đắn.
3.3.2. Những thành tựu và hạn chế trong tổ chức quản lý nhà nước 3.3.2.1. Những thành tựu và hạn chế chung về tổ chức quản lý nhà nước
Công tác tổ chức quản lý nhà nước về phát triển cây trồng dược liệu trên phạm vi cả nước đã được đáp ứng yêu cầu phát triển cây trồng dược liệu. Chẳng hạn, thực
106
hiện Quyết định 1976/QĐ-TTg về quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu chưa được các Bộ liên quan triển khai thực hiện, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2056/QĐ - BYT ngày 25/5/2016 về ban hành kế hoạch triển khai Quyết định số 1976/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển
dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của ngành y tế, trong đó đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế thực hiện các nhiệm vụ trong tâm, bao gồm: Xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển dược liệu; Tăng cường nghiên cứu và
ứng dụng khoa học công nghệ; Tăng cường năng lực YDCT phục vụ công tác phát triển dược liệu; Tăng cường truyền thông quảng bá cho dược liệu trong nước; Xây dựng và phát triển các đề án, dự án. Sau thời gian triển khai thực hiện Quyết định số 1976/QĐ-TTg đã đạt được một số kết quả sau:
Năm 2015, Bộ Y tế đã phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ninh xây dựng và phát triển Vườn Quốc gia Yên Tử nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các nguồn dược liệu trong vùng;
Năm 2014, Bộ Y tế phối hợp với UBND tỉnh Hà Giang thực hiện Nghị quyết số 30A/2008/NQ- CP ngày 27/12/2008 về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, đã xây dựng được các vùng trồng dược liệu tại các hộ gia đình ở các vùng núi tại tỉnh Hà Giang. Ngoài ra, Bộ Y tế đang phối hợp với UBND tỉnh
Lai Châu để thực hiện công tác quy hoạch và triển khai nuôi trồng dược liệu.
Đã và đang triển khai sản xuất các giống dược liệu bản địa như: Diệp hạ châu, Đinh lăng, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Râu mèo, Sa nhân tím, Sâm ngọc linh, Trinh nữ
hoàng cung… và các giống dược liệu nhập nội như: Actisô, Bạch chỉ, Bạch truật, Cát cánh, Đương quy, Ngưu tất.
Ngoài ra, từ năm 2014 đến nay, Bộ Y tế đã tích cực chỉ đạo các đơn vị phối hợp với UBND các tỉnh chủ động thực hiện nuôi trồng dược liệu, nhằm phát huy thế mạnh
về các dược liệu sẵn có của địa phương; tổ chức cấp phiếu tiếp nhận Bản công bố dược liệu sản xuất theo GACP-WHO cho 11 cây dược liệu bao gồm: Trinh nữ hoàng cung, Actisô, Bìm bìm biếc, Rau đắng đất, Đinh lăng, Diệp hạ châu đắng, Cỏ nhỏ nồi, Tần
dày lá, Dây thìa canh,.... Như vậy đã từng bước khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện nuôi trồng, sản xuất dược liệu theo GACP – WHO để đảm bảo nguồn dược liệu phục vụ cho sản xuất có chất lượng tốt. (Bộ y tế, 2017)
Các địa phương cũng đã có nhiều biện pháp tổ chức quản lý phát triển cây trồng
dược liệu trên địa bàn địa phương mình. Các Sở Y tế chủ động phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức trồng và gây giống nhiều loại dược liệu như: Sa
107
nhân, Ba kích. Một số Đề án, Dự án đã và đang được triển khai xây dựng: Đề án tổng thể xây dựng Bộ dược liệu chuẩn, dược liệu đối chiếu quốc gia và đang thực hiện xây dựng 20 dược liệu chuẩn, xây dựng Trung tâm thông tin và thư viện điện tử về dược liệu; Trung tâm nghiên cứu nguồn gen và giống dược liệu Quốc gia; Xây dựng Đề án
hệ thống vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc quốc gia.
Chẳng hạn tại tỉnh Hà Giang, tỉnh đã tiến hành quy hoạch 6 bảo tồn tại các Khu bảo tồn thiên nhiên như:i) Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Mê: Là hệ sinh thái rừng kín
thường xanh núi cao vùng Đông Bắc Việt Nam và có giá trị bảo tồn cao, với 290 loài, trong đó có 25 loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới như: Kim tuyến đá vôi, Mạy châu, Tuế Balansae, Hoàng tinh hoa trắng, Đảng sâm…;ii) Khu bảo tồn thiên nhiên Du Già: Thuộc kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và rừng kín
thường xanh á nhiệt đới ẩm vùng núi cao. Thành phần thực vật qua điều tra bước đầu đã thống kê có 289 loài thực vật bậc cao thuộc 83 họ trong đó Thông đất 2 loài; ngành Quyết 13 loài; hạt trần 3 loài; hạt kín 271 loài;iii) Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Côn Lĩnh: Là hệ
sinh thái rừng kín thường xanh cây lá rộng, ẩm, cận nhiệt đới ở phía Bắc Việt Nam, có giá trị bảo tồn cao. Theo số liệu điều tra khi thành lập vườn, tại đây đã ghi nhận được 382 loài thực vật với 44 loài quý hiếm;iv) Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Quang: Theo kết quả điều tra nghiên cứu ban đầu xác định trong Khu bảo tồn có 377 loài thực vật bậc cao
thuộc 109 họ; v) Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn: Đây là vùng núi đá vôi, phần lớn là núi cao trên 1.000m, theo tài liệu điều tra bước đầu đã xác định được 19 loài thực vật quý hiếm; vi) Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca: Theo số liệu điều
tra có 471 loài thực vật có mạch thuộc 268 chi, 113 họ và 4 ngành. Có 1 loài được liệt là loài có nguy cơ bị đe doạ trong danh mục đỏ của IUCN (IUCN, 2008); 13 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam (MOSTE, 2000) và 15 loài cần bảo tồn được liệt kê trong Nghị định 32/2006/ND-CP của Chính phủ. Ngoài ra tỉnh đang dự kiến sẽ xây dựng tại huyện
Quản Bạ một trung tâm với các chức năng chính là bảo tồn và phát triển tài nguyên cây thuốc ở Hà Giang nói riêng và vùng núi cao phía Bắc Việt Nam nói chung; trong đó diện tích dành cho bảo tồn loài là trên 20 ha (lưu giữ khoảng trên 1.000 loài) và diện tích dành
cho bảo tồn ở cấp di truyền là 3 ha ( gồm nguồn gen/đa dạng di truyền của trên 100 loài dược liệu đã và đang phát triển hàng hóa). Bảo tồn cây thuốc tại Trung tâm giống cây trồng và gia súc Phó Bảng: Trung tâm đang phối hợp với Viện Dược liệu sẽ đưa vào bảo tồn trên 50 loài dược liệu, trong đó có 26 loài hiện có trên địa bàn tỉnh Hà Giang; với mục
đích là lưu giữ nguồn gen để nhân giống sản xuất. (UBND tỉnh Hà Giang 2017)
Mặc dù công tác tổ chức quản lý phát triển cây trồng dược liệu đã được chú ý
nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Điều này thể hiện ở chỗ:
108
i)Dược liệu được nuôi trồng một cách manh mún, nhỏ lẻ, tự phát và không có hệ thống tổ chức, với trọng tâm chính là các hộ gia đình; một số trang trại đã đầu tư phát triển theo cách lập dự án, xin đất và đầu tư trồng trọt, chế biến dược liệu lại bị
thua lỗ và bỏ cuộc; thiếu sự gắn kết giữa người nuôi trồng dược liệu với tổ chức nghề nghiệp (Hiệp Hội dược liệu), giữa người nuôi trồng với công ty thu mua sự ràng buộc cũng còn lỏng lẻo, người dân thường không tuân thủ chặt chẽ cam kết khi có sự biến
động tăng giá trên thị trường. Các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa vào cuộc hoặc vào cuộc nhưng còn khá mờ nhạt nên không hỗ trợ được người trồng dược liệu, không quy hoạch được tốt vùng trồng,..
ii) Tình trạng sản xuất dược liệu tràn lan, trồng theo phong trào, không theo quy
hoạch, không hướng đến khách hàng tại các địa phương khá phổ biến, có nhiều dược liệu đang vấp phải tình trạng dư thừa dẫn đến giá thành bị hạ thấp như: Cà gai leo, Mạch môn, Đinh lăng,...; điều này cũng dẫn đến tình trạng không thể kiểm soát về số lượng, chất lượng của dược liệu và dễ dàng bị các thương nhân, kể cả thương nhân nước ngoài, kiểm soát và thao túng; nhiều hộ nông dân tự trồng dược liệu mà không có sự giám sát hay quản lý của bất kỳ tổ chức hay doanh nghiệp nào, các hộ trồng theo kinh nghiệm tự có hoặc tự học tập lẫn nhau để trồng, không có các nghiên cứu cơ bản
để đảm bảo hoạt chất, hay kiểm soát dư lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất nông nghiệp. Việc lạm dụng phân bón và hóa chất nông nghiệp trong quá trình nuôi trồng dược liệu diễn ra phổ biến;
iii) Tình trạng phá rừng diễn ra nghiêm trọng khiến cho môi trường sống của các loài cây thuốc bản địa, loài quý hiếm bị mất đi, cùng với việc khai thác quá mức, khai thác hủy diệt cây thuốc trong rừng khiến cho nguồn dược liệu tự nhiên của nước ta bị suy giảm nhanh chóng. Việc khôi phục lại nguồn tài nguyên này có lẽ là không
thể bởi nhận thức của những người dân đi khai thác dược liệu còn hạn chế, cơ chế để bảo vệ cho sự tồn tại và phát triển những loài dược liệu bản địa hầu như chưa phát huy được tác dụng trên thực tế.
iv) Hiện chưa có cơ chế và giải pháp đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm có nguồn gốc từ dược liệu trong nước cũng như quyền lợi của các nhà đầu tư; công tác quản lý Nhà nước liên quan đến dược liệu còn chồng chéo, thiếu đầu mối phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, mặc dù đã có phân công trách nhiệm trong Luật Dược. Việc phát triển vùng trồng dược liệu tại các địa phương cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý đến từng đơn vị sản suất do người dân thường khó thay đổi tập quán và tiếp thu những vấn đề mới, khó thực hiện theo đúng các nguyên tắc và quy trình.
109
Để đánh giá thành tựu và hạn chế của công tác tổ chức quản lý nhà nước , luận án đã khảo sát ý kiến của người trồng dược liệu (M1) và cán bộ quản lý nhà nước (M2). Kết quả đánh giá như bảng 3.6
Kết quả cho thấy điểm đánh giá về công tác tổ chức quản lý nhà nước nói
chung cũng như nhà nước địa phương chỉ đạt từ 2.62ĐTB/5 đến 3,25ĐTB/5. Nói cách khác tổ chứcvà quản lý nhà nước mới chỉ đạt mức trung bình.
Bảng 3.6: Đánh giá mức độ đạt được trong tổ chức quản lý của nhà nước tác động đến phát triển trồng dược liệu
Trong đó ĐBQ (Điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất) chung Mẫu M1 Mẫu M2
1. Đánh giá chung về công tác tổ chức quản lý của nhà nước
3,18 2,81 3,54
1.1. Công tác tổ chức quản lý, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây dược liệu
3,23 2,87 3,59
1.2. Việc tổ chức thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển cây dược liệu
1.3. Công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ 3,06 2,95 3,17
sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch cây dược liệu
2. Vai trò của chính quyền địa phương
2,85 2,45 3,24
2.1. Chính quyền Địa phương triển khai kịp thời và thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hoạt động phát triển cây dược liệu
2,62 2,66 2,58
2.2. Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về cây dược liệu
3,2 3,09 3,31
2.3. Chính quyền Địa phương thường xuyên vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển cây dược liệu
3,1 2,86 3,34
2.4. Chính quyền địa phương tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong phát triển cây dược liệu
2.5 Chính quyền có hỗ trợ tìm kiếm DN tiêu thụ sản phẩm 3,25 3,31 3,19
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
110
Trong năm nội dung triển khai thực hiện của địa phương cho thấy rằng: Chính
quyền có hỗ trợ tìm kiếm doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm đạt điểm cao nhất 3,25
ĐTB/ 5 điểm, và đây cũng là chỉ tiêu duy nhất mà người trực tiếp sản xuất cho điểm
cao hơn cơ quan quản lý nhà nước (cao hơn 0,12 điểm ) điều này cho thấy mức độ lan
tỏa của công tác này là khá tốt, góp phần hỗ trợ người sản xuất tăng niềm tin đối với
quản lý nhà nước trong công tác phát triển sản xuất dược liệu. Chính quyền Địa
phương thường xuyên vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển cây dược liệu cũng
được đánh giá tương đối tốt với mức điểm 3,2ĐTB/ 5 điểm; tuy nhiên, hiệu quả của
công tác này còn khá thấp, chênh lệch 0,22 điểm cho thấy rằng, mức độ và số lượng
chương trình là chưa đủ đối với nhu cầu của người sản xuất. Chính quyền địa phương
tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong
phát triển cây dược liệu cũng đã được cơ quan quản lý nhà nước quan tâm đúng mức,
nhiều kế hoạch được thực hiện, với mức đánh giá điểm cho công tác này của cơ quan
quản lý là cao nhất 3,34 ĐTB/5 điểm thể hiện vai trò quan trọng của việc tạo ra liên
kết 4 nhà.
Tuy nhiên, kết quả đạt được thì không thật sự như mong đợi, với mức đánh giá
2,86 điểm/ 5 điểm từ phía hộ gia đình và doanh nghiệp thể hiện cụ thể hạn chế của
công tác này. Có lẽ, cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương cần thay đổi cách làm
thì mới có thể phát huy được hiểu quả của việc liên kết 4 nhà góp phần tác động tích
cực đến kết quả sản xuất kinh doanh dược liệu trên địa bàn. Hai công tác còn lại là
Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm
trong hoạt động cây dược liệu ( 2,845ĐTB/ 5 điểm) và Chính quyền Địa phương
thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về cây dược liệu ( 2,62
ĐTB/ 5 điểm) chưa được thực hiện tốt và kết quả cũng chưa thật sự cao. Cần phải có
những biện pháp cụ thể và thiết thực hơn trong công tác thực hiện quy hoạch và kế
hoạch phát triển cây trồng dược liệu ở các địa phương thì mới có thể tạo ra một ngành
3.3.2.2. Thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
nuôi trồng dược liệu đạt được kết quả như mong đợi.
Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạc phát triển dược liệu đã được chú trọng và
ngày càng được các bộ ngành quan tâm nhiều trong 10 năm qua. Đây là chủ trương đúng đắn của Việt Nam nói chung và các tỉnh miền núi phía bắc nói riêng. Muốn xóa bỏ tình trạng sản xuất manh mún, đầu tư sản xuất thiếu đồng bộ,… thì nhất thiết công tác quy
hoạch kế hoạch phải đi trước một bước với tầm nhìn xa nhằm định ra hướng đi cho người
111
sản xuất trồng dược liệu và cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chiến lược phát triển nuôi trồng dược liệu ở địa phương trên địa bàn cả nước nói chung và ở các tỉnh miền núi phía bắc nói riêng. Điều này thể hiện trong Quyết định 43/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Phát triển công nghiệp Dược và xây dựng mô hình hệ thống cung ứng thuốc
của Việt Nam giai đoạn 2007-2015 và tầm nhìn đến năm 2020”; Quyết định 81/2009/QĐ- TTg về việc phê duyệt Quy hoạch “Phát triển ngành công nghiệp hóa dược đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”; Các Quyết định phê duyệt danh mục nhiệm vụ quỹ gen từ năm
2011 của Bộ Khoa học công nghệ; Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”; Quyết định 1976/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”. Quyết định 179/QĐ-BYT về việc ban hành Kế hoạch triển khai quyết định 1976/QĐ-TTg. Những năm gần đây, chính
quyền các địa phương cũng quan tâm đến việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển dược liệu, điều này thể hiện trong một loạt các quy hoạch, kế hoạch, các đề án, dự án về phát triển dược liệu tại.. Một số địa phương đã cơ bản hoàn thành quy hoạch, kế hoạch
định hướng phát triển cây trồng dược liệu, đồng thời cũng đã có các đề án phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến 2030. Hình thành một số vùng trọng điểm tập trung nuôi trồng dược liệu cũng như xác định được loại cây dược liệu, số lượng, diện tích nuôi trồng,…đề ra những giải pháp thiết thực hỗ trợ thực hiện thành công
quy hoạch, kế hoạch đã đề ra. Điển hình như các tỉnh Quảng Ninh, Lào Cai, Nam Định, Hà Giang, Bắc Giang, Hưng Yên. Việc phát triển dược liệu thậm chí đã đi vào Nghị quyết Đảng, của UBND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, UBND huyện Bắc Hà, tỉnh Lào
Cai…thậm chí tới các xã như xã Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm
Bên cạnh những thành tựu như trên thì công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển
cây trồng dược liệu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Thứ nhất, quy hoạch, kế hoạch chưa đảm bảo sự phát triển cây dược liệu trên địa bàn một cách bền vững. Việc có nhiều loại cây trồng dược liệu quý là lợi thế, nhưng hiện nay lại cũng đang là bất lợi đối với các vùng, các địa phương. Trồng loại dược liệu nào có thế mạnh, phù hợp với từng địa phương và có giá trị kinh tế cao, đảm
bảo tiêu thụ ổn định cho nông dân phát triển cây trồng dược liệu một cách bền vững thì chưa được thể hiện trong quy hoạch. Do đó, tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, nay trồng mai bỏ,…trong phát triển cây trồng dược liệu vẫn tồn tại. Quy hoạch trồng chưa thật sự gắn bó với quy hoạch mạng lưới cơ sở thu mua, chế biến cây trồng
dược liệu làm cho hộ trồng cây dược liệu chưa thật yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất.
Mặc dù công tác quy hoạch đã có những bước tiến vượt bậc so với giai đoạn trước, tuy nhiên, Quy hoạch hiện nay vẫn còn đang rất chung chung ở nhiều địa
112
phương; chưa có cái nhìn tổng thể để bảo tồn, phát triển bền vững các vùng dược liệu trọng điểm; chưa có phương án thực hiện rõ ràng gây khó khăn rất lớn cho công tác triển khai thực hiện. Vì vậy, kết quả khảo sát một số tỉnh vùng núi phía bắc, điểm đánh giá chung cho công tác quy hoạch kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu là 3,175
ĐTB/5
Với chỉ số này cho ta thấy rằng, mặc dù đã có những quan tâm tới công tác quy hoạch, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa cao. Quy hoạch có thể còn mang nặng tính lý
thuyết, tính hình thức, chưa gắn chặt với thực tiễn của mỗi địa phương, do đó dẫn đến khó khăn trong công tác triển khai và thực hiện quy hoạch từ phía người sản xuất. Tạo ra sự chênh lệch trong việc nhìn nhận tính hiệu quả của công tác quy hoạch ở các địa phương trong vùng.
Thứ hai, tình trạng quy hoạch treo vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Cụ thể như, tại tỉnh Hà Giang- nơi tác giả khảo sát, một số dự án được đăng ký để sản xuất và chế biến dược liệu tại địa phương, dự án đã được hưởng những ưu đãi cụ thể về đầu
vào, thuế, tiếp cận khoa học công nghệ, tuy nhiên, dự án hiện nay vẫn chưa được triển khai thực hiện, đất quy hoạch vẫn để trống, điều này ảnh hưởng tiêu cực gây lãng phí đất của địa phương. Sở dĩ có tình trạng quy hoạch tren này do thiếu tính toán đến tình hình thực tiễn ở địa phương, chưa khảo sát, đánh giá một cách đầy đủ điều kiện kinh tế
3.3.2.2. Thành tựu và hạn chế trong công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
xã hội khó khăn nên nhiều khi đưa ra những chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch xa với khả năng thực hiện.
Công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch kế hoạch phát triển
dược liệu đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện thành công quy hoạch, kế hoạch đã đề ra. Sự quan tâm của các địa phương trong vùng đối với công tác này ngày càng được chú trọng hơn. Các địa phương đã cơ bản chủ động trong các kế hoạch triển khai, biết
vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của các nước khác và các khu vực khác trong nước để thực hiện có hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Đưa ra các chính sách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất tiến hành nuôi trồng dược liệu.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số
vùng được quy hoạch vẫn chưa thể triển khai vì thiếu sự quan tâm của cán bộ địa phương trong việc tìm kiếm đầu ra, gây ra tình trạng đầu tư không theo quy hoạch và kế hoạch, đại trà trồng theo xu hướng bầy đàn rồi bỏ do thiếu đầu ra, giá cả bấp bênh. Có những địa phương để mặc người nông dân do không có phương án khả thi nào cho
113
việc tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực còn hạn chế, điều kiện địa hình khó khăn cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện quy hoạch của vùng.
Điều này được minh chứng cụ thể thông qua kết quả khảo sát một số địa phương trong vùng. Theo kết quả khảo sát ở bảng 3.5. cho thấy, việc tổ chức thực hiện
công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển cây dược liệu cũng được đánh giá không mấy khả quan giống như công tác lập quy hoạch kế hoạch. Mức điểm trung bình mặc dù có khả quan hơn so với công tác lập kế hoạch 3,23 điểm/ 5 điểm. Tuy nhiên, vẫn còn sự
chênh lệch lớn giữa đánh giá của người trực tiếp sản xuất ( hộ gia đình và doanh nghiệp) 2,87 điểm/ 5 điểm với cơ quan quản lý nhà nước 3,59 điểm/ 5 điểm. Điều này thể hiện rõ tính hạn chế trong công tác triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch. Không những công tác triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch do cơ quan quản lý
nhà nước thực hiện còn yếu và nhiều hạn chế thể hiện qua đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước chỉ cho ở mức điểm trên mức trung bình 0,59 điểm mà công tác này vẫn còn chưa tạo ra kết quả và hiệu quả như mong đợi, người sản xuất vẫn chưa được thụ
hưởng nhiều kết quả từ công tác này, đây chính là lý do dẫn đến kết quả đánh giá từ phía người sản xuất cho công tác này thấp đến như vậy.
3.3.3 Thành tựu và hạn chế trong công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
Kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu là công tác hết sức quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu phát triển ở các địa phương có điều kiện
kinh tế khó khăn như các tỉnh miền núi phía bắc. Công tác này đòi hỏi phải thường xuyên bám sát hiện trường, đi sâu đi sát vào người sản xuất để kịp thời phát hiện, xử lý những tồn tài và hạn chế của công tác quy hoạch, kế hoạch, đồng thời, giúp giải thích hướng dẫn cho người sản xuất hiểu sâu sát hơn về quy hoạch và kế hoạch phát triển
nuôi trồng dược liệu nhằm thực hiện thành công quy hoạch.
Trong thời gian qua, công tác này đã thu được một số thành tựu đáng kế. Các cơ quan quản lý nhà nước luôn bám sát, cập nhật tình hình thực tiễn của địa phương,
trên cơ sở đó, đã giải quyết kịp thời những khó khăn, hạn chế còn tồn đọng. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập, vẫn còn tình trạng quan lưu ở một số địa phương.
Thứ nhất, những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất
dược liệu chưa được xem xét, giải quyết cũng như điều chỉnh bổ sung một cách kịp thời.
114
Thứ hai, việc xử lý vi phạm quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu cũng chưa kiên quyết. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của công tác triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch.
3.3.4. Tác động của vai trò nhà nước đối với sự phát triển cây trồng dược liệu
Qua biểu đồ 3.3. cho thấy rằng , cơ quan quản lý nhà nươc đánh giá tác động vai trò nhà nước đến phát triển cây trồng dược liệu tốt nhất là “Góp phần thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu trồng các loại cây dược liệu” và thấp nhất là chỉ tiêu “Mức độ tạo
điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển cây dược liệu”. Điều này cho thấy sự khó khăn của nhà nước trong việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển nuôi trồng dược liệu. Còn về phía doanh nghiệp và hộ gia đình thì họ đánh giá rằng chỉ tiêu mà quản lý nhà nước thực hiện tốt nhất là chỉ tiêu “Mức độ tạo điều kiện
xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển cây dược liệu” còn thấp nhất là “Góp phần thúc đẩy quy mô phát triển trồng cây dược liệu”, các chỉ tiêu do nhà sản xuất đánh giá có giá trị chênh lệch không nhiều và đa số là thấp hơn so với nhà quản lý, chứng tỏ tính
Điểm bình quân chung
hiệu quả trong việc thực thi các biện pháp hỗ trợ phát triển dược liệu là chưa đạt được hiệu quả như mong đợi.
m ể i Đ
Đánh giá của người sản xuất
5 4 4 3 3 2 2 1 1 0
Đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước
p ó G
c ứ M
c ứ M
c ứ M
c ứ M
.
.
n ầ h p
n ầ h p
n ầ h p
n ầ h p
n ầ h p
p ó G . 5
p ó G 6
p ó G 8
p ó G . 9
o ạ t ộ đ
o ạ t ộ đ
o ạ t ộ đ
o ạ t ộ đ
. 7
. 1
. 2
. 3
. 4
Biểu đồ 3.3: Đánh giá tác động của Quản lý nhà nước đến phát triển cây trồng dược liệu qua điều tra khảo sát.
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Chú thích:
1. Mức độ tạo điều kiện khai thác điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương để phát triển cây dược liệu
2. Mức độ tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển cây dược liệu
3. Mức độ tạo điều kiện khuyến khích sự phát triển ngành công nghiệp dược liệu
115
4. Mức độ tạo điều kiện nâng cao năng lực của tổ chức, cá nhân trồng cây dược liệu
5.Góp phần thúc đẩy quy mô phát triển trồng cây dược liệu
6.Góp phần thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu trồng các loại cây dược liệu
7. Góp phần nâng cao hiệu quả trồng cây dược liệu
8.Góp phần tăng thu ngân sách nhà nước
9.Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dược liệu
Thực tiễn số liệu điều tra khảo sát 216 hộ gia đình và 22 đơn vị trồng cây dược liệu tại ba tỉnh Bắc Giang, Hưng Yên và Hà Giang về giá trị sản xuất, chi phí, thu nhập theo hộ và tiền lương, thu nhập bình quân cho người lao động sản xuất nông nghiệp và trồng
3.3.4.1. Tác động đến quy mô và tốc độ tăng sản lượng cây trồng
cây dược liệu cho thấy tác động của quản lý nhà nước đến sự phát triển cây trồng dược liệu những năm 2011-2015 về phát triển quy mô, biến đổi cơ cấu và hiệu quả như sau.
Quy mô sản lượng cây trồng dược liệu có xu hướng tăng dần qua các năm ở các
địa phương được lựa chọn trong giai đoạn 2011-2015 (bảng 3.6).
Bảng 3.7: Quy mô phát triển cây trồng dược liệu tại các tỉnh khảo sát
ĐVT 2011 2012 2013 2014 2015
1.Quy mô sản xuất
Tr.đ 288,585 303,795 323,190 351,270 375,300
1.1. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hộ/năm tại ba tỉnh
Tr.đ 361,890 380,925 414,072 431,325 454,027
1.2. Giá trị sản xuất của các hộ trồng dược liệu bình quân hộ/ năm tại ba tỉnh
Tr.đ 647,158 682,655 770,450 667,120 736,567
1.3. Giá trị sản xuất các doanh nghiệp trồng dược
liệu bình quân 1 DN/năm tại ba tỉnh
2. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất hàng năm
% 100,00 105,3 106,4 108,7 106,8
2.1. Của các hộ sản xuất nông nghiệp nói chung
% 100,00 105,5 108,7 104,2 105,2 trồng
2.2 Của các hộ dược liệu
116
ĐVT 2011 2012 2013 2014 2015
% 100,00 105,4 122,5 86,6 110,4 2.3 Của các doanh nghiệp
trồng dược liệu
3. So sánh quy mô giá trị sản xuất của hộ, DN trồng dược liệu với hộ sản xuất nông nghiệp
Lần 1 1 1 1 1
3.1. Hộ sản xuất nông nghiệp nói chung
Lần 1,25 1,25 1,28 1,23 1,21 3.2. Hộ trồng cây dược liệu
so với hộ sản xuất nông nghiệp nói chung
Lần 2,24 2,25 2,38 1,90 1,96
3.3. DN trồng cây dược liệu so với hộ sản xuất nông nghiệp nói chung
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Bảng 3.7 cho thấy, quy mô giá trị sản xuất trồng cây dược liệu của các hộ không ngừng tăng lên, nếu năm 2011 giá trị sản xuất bình quân một hộ là 361, 890 triệu đồng thì đến nam 2915 đạt mức 354,027 triệu đồng. Tốc độ tăng trường hàng năm đạt từ 4,2% (năm 2014) và năm cao nhất đạt 8,7% ( năm 2013)
Quy mô sản xuất của hộ trồng cây dược liệu lớn hơn quy mô sản xuất của các
hộ sản xuất nông nghiệp nói chung từ 1,21 đến 1,28 lần.
Bảng 3.7 cũng cho thấy, đối với doanh nghiệp, quy mô sản xuất cũng tăng lên,
ngoại trừ năm 2014 có giảm so với năm 2013, nhưng năm 2015 lại tăng trưởng trở lại
3.3.4.2. Tác động đến sự thay đổi cơ cấu cây trồng dược liệu
Tuy nhiên quy mô sản xuất của doanh nghiệp chỉ lớn hơn quy mô sản xuất của các hộ sản xuất nông nghiệp từ 1,96 lần đến 2,38 lần, cho thấy các doanh nghiệp chủ yếu là có quy mô sản xuất nhỏ.
Bảng 3.8 cho thấy, tỷ trọng giá trị sản xuất cây trồng dược liệu lâu năm có xu hướng tăng dần trong kỳ nghiên cứu, các cây dược liệu ngắn ngày có xu hướng giảm
dần, kể cả hộ gia đình và doanh nghiệp. Cụ thể tỷ trọng giá trị sản xuất cây trồng dược liệu ngắn ngày năm 2011 khoảng 30,54% thì đến năm 2015 khoảng 21,49%. Điều này diễn ra ở cả hộ gia đình và doanh nghiệp trồng cây dược liệu. Thực tiến khảo sát cho
thấy, tỷ trọng cây trồng là đỗ trọng, hồi, quế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số cây trồng của các địa phương tác giả khảo sát và có xu hướng tăng dần trong kỳ nghiên cứu,
117
trong khi đó, xu hướng các hộ trồng cây ngắn hạn (cây hàng năm, cây hai năm) có xu hướng giảm trong kỳ nghiên cứu
Bảng 3.8. Biến đổi về cơ cấu cây trồng dược liệu
Tr.đ 361,89
380,925
414,072
431,325
454,027
Tr.đ 246,92
272,82
302,48
324,53
351,92
Tr.đ 96,97
108,105
111,592
106,795
102,107
Tr.đ
647,158
682,655
770,45
667,12
736,567
Trđ
453,98
493,22
562,81
501,41
576,88
Trđ
193,178
189,435
207,64
165,71
159,687
Trđ 1009,048
1063,58 1184,522 1098,445 1190,594
ĐVT 2011 2012 2013 2014 2015
Trđ
700,9
766,04
865,29
825,94
928,8
1.Giá trị sản xuất 1.1 Giá trị sản xuất bình quân hộ trồng cây dược liệu/ năm 1.1.1.Từ cây trồng lâu năm 1.1.2.Từ cây trồng ngắn hạn 1.2. Giá trị sản xuất bình quân 1 DN trồng dược liệu /năm 1.2.1.Từ trồng lâu năm 1.2.2. Từ cây trồng ngắn hạn 1.3.Tổng giá trị sản xuất bình quân của DN và Hộ trồng dược liệu/năm
Trđ
290,148
297,54
319,232
272,505
261,794
1.3.1.Cây lâu năm
1.3.2.Cây ngắn hạn
2. Tỷ lệ
%
100,00
100,00
10 0,00
100,00
100,00
%
68,23
71,62
73,05
75,24
77,51
2.1 Giá trị sản xuất bình quân hộ trồng cây dược liệu/ năm
%
31,77
28,38
26,95
24,76
22,49
2.1.1.Từ cây trồng lâu năm
%
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
2.1.2.Từ cây trồng ngắn hạn
%
70,15
72,25
73,05
75,16
78,32
2.2. Giá trị sản xuất bình quân 1 DN trồng dược liệu /năm
%
29,85
27,75
26,95
24,84
21,68
2.2.1.Từ trồng lâu năm
%
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
2.2.2. Từ cây trồng ngắn hạn
%
69,46
72,02
73,05
75,13
78,01
2.3.Tổng giá trị sản xuất bình quân của DN và Hộ trồng dược liệu/năm
%
30,54
27,98
26,95
24,87
21,99
2.3.1.Cây lâu năm
2.3.2.Cây ngắn hạn
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
118
Việc trồng cây dược liệu ngắn ngày góp phần giải quyết bài toán vốn đầu tư cho các hộ dân/ doanh nghiệp trồng dược liệu, bởi lẽ cây lâu năm có chi phí đầu tư lớn, thời gian thu hoạch dài, tuy nhiên, cây lâu năm lại có giá trị kinh tế cao hơn. Trong khi đó, cây trồng ngắn ngày có chi phí đầu tư cho các cây trồng tương đối thấp, thời gian
thu hồi vốn nhanh, tuy nhiên, giá trị kinh tế thấp hơn cây lâu năm và yêu cầu chăm sóc về kỹ thuật với các cây trồng này là tương đối kỹ với người trồng
Chính vì những lý do như vậy đòi hỏi có sự chuyển dịch cơ cấu cây dược liệu
3.3.4.4. Về hiệu quả trồng cây dược liệu
hợp lý, đảm bảo sự bổ sung hợp lý giữa các loại cây trồng, đảm bảo dòng vốn tốt giữa các cây trồng
Về hiệu quả phát triển cây trồng dược liệu có thể xem xét ở bảng 3.8. Bảng này tác giả so sánh các chỉ tiêu tính hiệu quả của các hộ trồng cây dược liệu với sản xuất nông nghiệp nói chung
Bảng 3.9 cho thấy, giá trị sản xuất bình quân theo năm của các hộ sản xuất nông nghiệp nói chung và các hộ trồng dược liệu đều có xu hướng tăng lên trong kỳ nghiên cứu. Cụ thể, giá trị sản xuất của các hộ sản xuất nông nghiệp nói chung tăng từ 288,585 triệu đồng năm 2011 lên đến 375,300 triệu đồng năm 2015; còn giá trị sản xuất của hộ trồng
dược liệu tăng từ 361,89 triệu đồng năm 2011 lên tới 454,027 triệu đồng năm 2015.
Bảng 3.9. Hiệu quả các hộ và doanh nghiệp trồng cây dược liệu
ĐV tính 2011 2012 2013 2014 2015
1.Kết quả sản xuất nông nghiệp bình quân hộ tại ba tỉnh
Tr.đ 288,585 303,795 323,190 351,270 375,300 1.1. Giá trị sản xuất bình quân hộ/năm
Tr.đ 206,505 217,395 233,775 254,070 272,520 1.2. Chi phí sản xuất bình quân hộ/năm
Tr.đ 82,080 86,400 89,415 97,200 102,780 1.3. Thu nhập thuần bình quân hộ/năm
Tr. đ 879,82 945,14 1005,48 1092,84 1167,6 1.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/ năm/ha
Tr.đ 714,35 752,03 808,69 878,89 942,72 1.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
Tr.đ 183,47 193,11 196,79 213,95 224,88 1.6. Thu nhập thuần bình quân hộ/năm/ha
Tr.đ 3,600 3,960 4,360 4,790 5,270 1.7.Thu nhập bình quân 1 lao động/tháng
119
ĐV tính 2011 2012 2013 2014 2015
2.Kết quả sản xuất bình quân 1 hộ trồng dược liệu tại ba tỉnh
Tr.đ 361,890 380,925 414,072 431,325 454,027 2.1. Giá trị sản xuất bình quân hộ/ năm
Tr.đ 232,335 244,575 257,445 270,972 285,237 2.2. Chi phí sản xuất bình quân hộ/năm
Tr.đ 129,555 136,350 156,627 160,353 168,79 2.3. Thu nhập thuần bình quân/năm
Tr.đ 1045,46 1100,45 1196,21 1246,05 1311,63 2.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/năm/ha
Tr.đ 783,05 824,31 867,69 913,28 961,35 2.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
Tr.đ 262,41 276,14 328,52 332,77 350,28 2.6. Thu nhập thuần bình quân hộ/năm/ha
2.6.1.Từ cây trồng dược liệu Tr.đ 21,690 26,360 28,58 29,220 32,520
Tr.đ 7,100 3,940 6,226 6,414 4,989 2.6.2.Từ cây trồng và các hoạt động khác
6,650 7,530 8,890 9,780 Tr.đ 5,860
2.7.Thu nhập bình quân 1 lao động của hộ trồng dược liệu/tháng
3. Kết quả sản xuất bình quân của DN trồng cây dược liệu tại ba tỉnh
Tr.đ 647,158 682,655 770,450 667,120 736,567 3.1. Giá trị sản xuất bình quân 1 DN/năm
Tr.đ 517,765 550,124 616,382 541,696 589,256 3.2. Chi phí sản xuất bình quân DN/năm
Tr.đ 129,402 132,531 154,068 135,424 147,311 3.3. Thu nhập thuần bình quân DN/năm
Trđ 129,402 132,531 154,068 135,424 147,311 3.3.1.Thu nhập thuần từ trồng cây dược liệu
3.3.2. Thu từ trồng cây khác Trđ 0 0 0 0 0
lương, Trđ/tháng 8,750 9,090 9,630 9,790 10,060
3.4. Tiền tiền công, thu nhập bình quân 1 lao động/tháng
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Tuy nhiên, sau khi trừ chi phí sản xuất, thu nhập thuần của các hộ sản xuất nông
nghiệp giao động khoảng từ hơn 82 triệu đồng đến khoảng 100 triệu đồng, trong khi
120
đó, thu nhập thuần của hộ trồng cây dược liệu tăng từ 129,555 triệu đồng năm 2011 đến 168,79 triệu đồng năm 2015.
Như vậy, thu nhập thuần từ trồng cây dược liệu cao hơn so với các hộ trồng cây trồng khác trên cùng địa phương nghiên cứu. Cụ thể, nếu năm 2011 thu nhập thuần của hộ
sản xuất nông nghiệp bình quân năm khoảng 82,080 triệu đồng thì của các hộ trồng dược liệu khoảng 129,555 triệu đồng; năm 2015, thu nhập thuần của hộ trồng dược liệu khoảng 168,79 triệu đồng thì của hộ sản xuất nông nghiệp khoảng 102,78 triệu đồng, thấp hơn
bình quân khoảng hơn 60 triệu đồng trên năm. Điều này cho thấy trồng cây dược liệu có hiệu quả hơn so với sản xuất nông nghiệp. (Cụ thể từng tỉnh xin xem thêm phụ lục 5)
Hiệu quả của trồng cây dược liệu còn thể hiện ở thu nhập và đời sống của người lao động. Bảng 3.8 cũng cho thấy, thu nhập của người lao động nông nghiệp thấp hơn
tương đối nhiều so với các hộ trồng dược liệu, cụ thể kết quả nghiên cứu cho thấy, thu nhập của lao động bình quân theo tháng của lao động làm việc sản xuất nông nghiệp khoảng 5,27 triệu đồng năm 2015 thì của lao động trồng dược liệu khoảng 9,78 triệu
đồng, thu nhập của một lao động bình quân trồng dược liệu cao hơn khoảng hơn 3 triệu so với những lao động cùng địa phương sản xuất nông nghiệp khác.
Hộp 3.1.So sánh thu nhập giữa trồng cây dược liệu và trồng lúa
Ông Lê Phong - Bí thư Đảng ủy xã Chí Tân (Khoái Châu - Hưng Yên) cho biết: “Bà con nông dân trong xã đã trồng nghệ đỏ từ nhiều năm trước thay thế dần cho cây lúa. Vì thực tế trồng lúa hiệu quả kinh tế không cao. Trồng nghệ đỏ mỗi sào cũng thu được
từ 1-1,5 tấn, với giá bán hiện tại là 30.000 đồng/kg. Nếu so với trồng lúa thì 1 sào nghệ đỏ bằng 7-8 sào lúa. Khi nghệ đỏ được thu hoạch bà con nông dân bán cho 1 vài công ty quanh vùng, rồi họ mang đi nơi khác chế biến làm dược phẩm, làm thuốc. Từ khi trồng nghệ đỏ thu nhập của bà con nông dân ổn định, cao hơn trồng lúa rất nhiều” .
Dantri (2015)
3.4. Phân tích nguyên nhân hạn chế về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
3.4.1. Nguyên nhân liên quan đến các chủ trương, chính sách, quan điểm phát triển cây trồng dược liệu
Phân tích nguyên nhân những hạn chế vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam, luận án đã lấy ý kiến đánh giá của người trồng cây dược liệu, các nhà quản lý và nghiên cứu. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.10 sau đây:
121
Kết quả bảng 3.10 cho thấy, các chỉ số phản ánh về môi trường luật pháp, cơ chế chính sách, tổ chức quản lý cũng như sự hỗ trợ của nhà nước, của các tổ chức xã hội để phát triển cây trồng dược liệu hiện nay chủ yếu ở mức trung bình hoặc cận dưới của mức khá.
Bảng 3.10: Đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố đến đến vai trò nhà nước trong phát triển cây dược liệu
Trong đó ĐBQ (Điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất) chung Mẫu M1 Mẫu M2
3,57 3,38 3,76
1.Mức độ đồng bộ, phù hợp, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách phát triển cây
dược liệu của Đảng và nhà nước
3,49 3,41 3,57
2. Bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà nước
3,16 2,93 3,38
3. Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong phát triển cây dược liệu
4. Phối hợp giữa các đơn vị cơ quan quản lý trong 3,25 3,12 3,48
tổ chức thực hiện phát triển cây dược liệu
3,64 3,52 3,76
5. Hỗ trợ thông tin về chính sách ưu đãi đầu tư, thị trường cho phát triển cây dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
6. Hỗ trợ tìm kiếm đối tác thu mua dược liệu của 3,34 3,38 3,29
địa phương cho hộ gia đình
3,19 3,07 3,3
7. Hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
3,13 3,08 3,17
8. Năng lực tiếp nhận chính sách của hộ trồng cây dược liệu.
10.Khác
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Như đã nói, để có quan điểm, chủ trương đúng trong phát triển cây trồng dược liệu thì các địa phương cần phải: i) có tầm nhìn về phát triển cây trồng dược liệu; ii)Nắm chắc những định hướng phát triển kinh tế cây trồng dược liệu trên phạm vi cả
122
nước; iii) Nắm được nhu cầu về phát triển dược liệu cả trong nước và ngoài nước trong điều kiện có sự biến đổi của quốc tế; iv) Đặc biệt là phải nắm vững thế mạnh của địa phương về tiềm năng, điều tiết thích ứng đối với sự phát triển cây trồng dược liệu của địa phương. Tuy nhiên hiện nay, năng lực này còn rất hạn chế. Mặc dù các địa
phương đều có bộ máy, có cơ quan chuyên trách đầy đủ, đông đảo nhưng hiệu quả bộ máy chưa cao, việc nắm bắt định hướng của cả nước, nhu cầu thị trường và tiềm năng thế mạnh của địa phương trong phát triển cây trồng dược liệu chưa được cụ thể nên
các chủ trương, chính sách đề ra chưa thật sát và việc đảm bảo nguồn lực đầu tư cho phát triển cây trồng được liệu chưa đủ mạnh…
Từ sự bất cập dẫn đến công tác đầu tư chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng, nghiên cứu khoa học nhiều nhưng phần lớn trong số đó chỉ dừng lại ở lý thuyết
mà chưa áp dụng nhiều vào thực tiễn, chưa thương mại hóa thành sản phẩm dược liệu từ các công trình nghiên cứu. Cơ chế quản lý thị trường dược liệu chưa đồng bộ, nhiều sản phẩm chưa rõ xuất xứ chưa đảm bảo tính đúng, nguồn gốc và chất lượng.
Công tác quy hoạch phát triển thiếu và yếu, chưa có cái nhìn tổng thể để bảo tồn, phát triển bền vững.
Chính vì vậy nên việc trồng, khai thác, sản xuất còn manh mún, tự phát, có nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng chưa thật
sự được thực thi một cách nghiêm túc từ nguyên liệu đến thành phẩm.
Việc hệ thống văn bản pháp quy về quản lý dược liệu được ban hành chậm, những văn bản đã ban hành chưa đi vào cuộc sống. Trên phương diện quản lý nhà nước
trung ương, cho đến nay, quốc hội vẫn chưa thông qua Luật trồng trọt. Vì thế cơ sở pháp lý quản lý nhà nước trong phát triển cây trồng nói chung, cây trồng dược liệu nói riêng còn hạn chế. Về phương diện cây trồng dược liệu, những năm qua nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp lý như Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nuôi trồng, thu hái cây dược liệu nói riêng; Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2015 về chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025; Nghị định số 02/2010/NĐ-CP
ngày 08 tháng 01 năm 2010 về khuyến nông và ngày 19 tháng 05 năm 2017, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 65/2017/NĐ-CP về chính sách đặc thù về giống, vốn và công nghệ trong phát triển nuôi trồng, khai thác dược liệu. Các văn bản pháp quy này có quy định đến chính sách đất đai, vốn, khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ phát triển cây
trồng dược liệu. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật còn rất chậm và có nhiều hạn chế. Các quy định về điều kiện bán buôn, bán lẻ thuốc, xuất nhập khẩu thuốc nói chung (GPP, GDP, GSP) áp dụng cho các cơ sở bán buôn, bán
123
lẻ dược liệu khó thực hiện và khó triển khai trong thực tế (Dược liệu có tính chất đặc thù, cần có các quy định đặc thù); Chúng ta cũng chưa có một chính sách vĩ mô về phát triển dược liệu. Việc đầu tư phát triển dược liệu chưa tương xứng với tiềm năng hiện có do chưa có một cơ chế tài chính thực sự mạnh để tập trung đầu tư phát triển các vùng
trồng dược liệu ổn định, đặc biệt là các dược liệu trọng tâm có tính cạnh tranh và giá trị kinh tế cao.
Các bộ, ngành và địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác bảo tồn và
duy trì phát triển các cây thuốc tự nhiên ở trong nước, hơn nữa cùng với nạn phá rừng, đốt nương làm rẫy đã làm suy giảm và thu hẹp nhiều diện tích rừng tự nhiên trong đó có nhiều loại cây thuốc. Việc thu hái dược liệu từ tự nhiên theo kiểu tận thu, không chú ý đến bảo tồn đã làm cạn kiệt nguồn dược liệu trong nước.
Chưa có chính sách phù hợp khuyến khích về bảo tồn nguồn gen, phát triển dược liệu, nhất là đối với các nguồn gen quý, nghiên cứu di thực và phát triển các dược liệu trong nước và nước ngoài. Công tác thuần hóa, nhập nội, chọn tạo giống,
khả năng cung cấp giống cây thuốc cho các vùng sản xuất dược liệu.
3.4.2. Nguyên nhân liên quan đến năng lực quản lý, điều hành của bộ máy quản lý nhà nước các cấp
Đất nước hội nhập, chúng ta có cơ hội tiếp cận được những công nghệ tiên tiến nhất nhưng chưa áp dụng đúng mức thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc hiện đại hóa sản xuất thuốc từ dược liệu.
Thứ nhất, bộ máy tổ chức quản lý địa phương còn cồng kềnh, trách nhiệm chưa rõ
ràng làm cho năng lực quản lý, điều hành của bộ máy còn yếu. Điều đó dẫn đến một lọat
những vấn đề bất cập yếu ké như:
Công tác tổ chức và quản lý khai thác, thu mua dược liệu còn nhiều bất cập, đặc biệt từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế khác nhau cùng tham gia khai thác và thu hái dược liệu trong tự nhiên, thu hái nhiều năm không có ý thức bảo tồn, tái sinh đã làm suy giảm nghiêm trọng tài nguyên cây thuốc.
Thiếu các quy định quản lý phát triển cây trồng dược liệu. Công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng từ nguyên liệu đến thành phẩm còn thiếu và yếu. Để tránh hiện tượng khai thác cạn kiệt, cần thực hiện sớm chương trình bảo vệ đồng thời với việc phát triển các nguồn gen quý hiếm. Các quy định về điều kiện bán buôn, bán lẻ
124
thuốc, xuất nhập khẩu (GPP, GDP, GSP) để áp dụng cho các cơ sở bán buôn, bán lẻ dược liệu còn chưa cụ thể hóa.
Chưa thực hiện hiệu quả việc ngăn ngừa việc nhập lậu dược liệu không đạt tiêu chuẩn vào nước ta: Dược liệu chất lượng kém từ biên giới, nhập khẩu không kiểm soát
đã khiến doanh nghiệp kinh doanh dược liệu trong nước khốn khó.
Thực hiện chưa có nhiều hiệu quả trong nghiên cứu ứng dụng cơ giới hoá các khâu làm đất, bón phân, thu hoạch... Hiện đại hoá khâu thu hái, sơ chế để đảm
bảo phẩm cấp nguyên liệu, đầu tư thiết bị kiểm tra chất lượng nguyên liệu theo tiêu chuẩn quốc tế.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn phân cấp nguyên liệu phù hợp tiêu chuẩn quốc tế còn thiếu. Đối với cây dược liệu cần lồng ghép phát triển vùng nguyên liệu với với các
chương trình trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ và phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Việc khuyến khích nông dân đưa các giống cây dược liệu vào sản xuất đại trà kết hợp với thâm canh, mở rộng diện tích gieo trồng phát triển thành các vùng nguyên
liệu quy mô lớn còn chưa được quan tâm. Tăng cường hợp tác giữa các đơn vị sản xuất nguyên liệu với chính quyền địa phương và các hộ nông dân chưa thật sự có hiệu quả.
Sự chỉ đạo có định hướng của các cơ quan liên ngành để tránh đầu tư theo phong trào như đã từng xẩy ra hoặc thiếu kỹ thuật nuôi trồng – canh tác dẫn tới giảm
hiệu quả đầu tư hoặc gây thiệt hại cho người nông dân vẫn còn chậm chạp.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý còn chưa đủ năng lực và đạo đức nghề nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu phát triển cây trồng dược liệu. Lực lượng cán bộ có nhiều nhưng vẫn thiếu người làm công tác dược liệu, thiếu đào tạo cho cán bộ làm công tác bảo tồn, thiếu trao đổi học tập kinh nghiệm, tham quan nước ngoài. Nhận thức về việc phát triển một giống cây thuốc trong ngành dược còn đơn giản, nên chưa làm sáng tỏ hết các đặc điểm sinh học của loài cây thuốc dẫn đến trong sản xuất
chưa tạo được giống tốt có năng suất cao, không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
3.4.3. Nguyên nhân liên quan đến công tác phối hợp trong tổ chức thực hiện
Thứ nhất, công tác quản lý còn chồng chéo giữa các Bộ, ngành, thiếu phối hợp trung ương – địa phương. Do thiếu sự phân công trách nhiệm rõ ràng nên, dẫn đến những việc thì chồng chéo, có những việc thì buông bỏ không quản lý, không có đầu mối để điều phối chung. Ví dụ: việc kiểm soát quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu, Bộ Y tế chỉ là cơ quan đề xuất định hướng, khi xin phép về thủ tục để
125
nuôi trồng, kiểm tra giám sát trong quá trình trồng dược liệu chịu sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Khi muốn kiểm tra trồng dược liệu Bộ Y tế không có chức năng để thực hiện công việc đó, Bộ Y tế chỉ có chức năng kiểm tra các công ty dược liệu, các cơ sở chế biến dược liệu- những công đoạn sau của trồng dược liệu. Nhìn
chung, mặc dù có chủ trương phối hợp trong quản lý là “chủ trì và phối hợp” nhưng đến nay việc quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu đang còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do sự chồng chéo giữa các Bộ, ngành, thiếu phối hợp trung ương – địa
phương, chưa có đầu mối để điều phối chung
Thứ hai, sự phối hợp “ bốn nhà” còn chưa được chặt chẽ và vai trò chưa thật rõ ràng. Do thiếu cơ chế đồng bộ giữa các cơ quan nghiên cứu, quản lý, doanh nghiệp và người dân. Chính sách của nhà nước còn nhiều bất cập. Các nhà khoa học chưa
quan tâm nhiều đến thị trường, do đó định hướng nghiên cứu và kết quả nghiên cứu nhiều nhưng chưa đáp ứng đúng nhu cầu thị trường. Trong tình hình hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp mới chỉ dừng ở giai đoạn nghiên cứu ứng dụng, chưa đẩy mạnh
những nghiên cứu có tính chiến lược. Các doanh nghiệp mới chỉ dừng ở mức đầu tư cho nghiên cứu để làm sao thu hồi vốn đầu tư nhanh. Hiện nay phối hợp 4 nhà cũng mới là khẩu hiệu, cần có sự phân công vai trò của 4 nhà này rõ ràng hơn thì việc phối hợp mới thực hiện được
3.4.4. Nguyên nhân liên quan đến năng lực của các hộ và doanh nghiệp trồng dược liệu
Hộ gia đình và các doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp tham gia vào quá trình trồng dược liệu, tuy nhiên, thực tế cho thấy việc trồng dược liệu đòi hỏi rất lớn từ người trồng dược liệu, cụ thể như: i)Nhu cầu vốn đầu tư cho hoạt động trồng dược liệu
là rất lớn, thời gian thu hồi vốn tương đối lâu, tuy nhiên, khả năng đáp ứng vốn cho hoạt động này còn hạn chế đặc biệt với các hộ dân trồng dược liệu ở một số địa phương khó khăn như Hà Giang.;ii) Thị trường tiêu thụ sản phẩm dược liệu của các hộ
gia đình còn khá bấp bênh, các hộ trồng dược liệu không có cam kết chắc chắn từ phía nhà tiêu thụ/ doanh nghiệp về tiêu thụ sản phẩm, đó cũng làm ảnh hưởng lớn đến mong muốn tiếp tục sản xuất sản phẩm của các hộ dân.
Thêm vào đó, diện tích trồng dược liệu của các hộ gia đình không lớn, đặc biệt
với hộ gia đình/ doanh nghiệp ở vùng đồng bằng như Hưng Yên, vì vậy việc sản xuất vẫn mang đậm tính thủ công truyền thống và tương đối manh mún. Điều đó có ảnh hưởng tương đối lớn với việc thu mua sản phẩm của các đầu mối thu mua/ doanh nghiệp với sản phẩm của các hộ gia đình trồng dược liệu.
126
Khảo sát tại ba tỉnh Hà Giang, Bắc Giang và Hưng yên cho thấy, năng lực về đất đai, vốn, lao động, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật của Doanh nghiệp/hộ gia đình còn hạn chế. Kết quả điều tra 176 hộ gia đình trồng cây dược liệu cho thấy có đến 100% hộ đang khó khăn về thông tin thị trường, 75,6& khó khăn về cơ sở hạ tầng
71,6% khó khăn về nguồn nhân lực, 63,6% khó khăn tiếp cận khoa hoc công nghệ …Xem bảng 3.11.
Bảng 3.11. Những khó khăn của các hộ trồng cây dược liệu trong tiếp cận nguồn lực
Tỷ lệ % Tổng số ý kiến trả lời Số trả lời CÓ
Có khó khăn về tiếp cận đất đai 176 83 47,2
Có khó khăn về tiếp cận vốn 176 85 48,3
Có khó khăn về thuế 176 16 9,0
Có khó khăn về tiếp cận ứng dụng KHCN 176 112 63,6
Có khó khăn về nguồn nhân lực 176 126 71,6
Có khó khăn về cơ sở hạ tầng 176 133 75,6
Có khó khăn về thị trường đầu vào 176 77 43,8
Có khó khăn về thị trường đầu ra 176 176 100,0
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Thêm nữa, ý thức chấp hành những quy định của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu; chấp hành các quy định
về phát triển cây trồng dược liệu, tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng và quy mô phát triển cây trồng dược liệu còn chưa cao.
127
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương 3, trên cơ sở khái quát tình hình phát triển cây trồng dược liệu tại một số địa phương miền núi phía Bắc Việt Nam, luận án đã phân tích thực trạng vai
trò quản lý nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu.
Bằng thông tin, tài liệu thu thập được, luận án chỉ ra những năm qua, nhà nước đã phát huy vai trò của mình trong phát triển cây trồng dược liệu thông qua việc xây
dựng hệ thống chính sách, tổ chức quản lý và kiểm tra giám sát việc phát triển cây trồng dược liệu. Nhờ đó, quy mô cây trồng dược liệu ngày cảng tăng, cơ cấu cây trồng dược liệu biến đổi theo xu thế của thị trường, hiệu quả trồng cây dược liệu cao so với các cây trồng khác; đặc biệt phát triển cây trồng duwọc liệu là hướng giải quyết việc
làm tốt cho lao động nông thôn ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên vai trò nhà nước trong lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế: các chính sách về phát triển cây trồng dược liệu như chính sách đất đai, chính sách vốn, chính sách thuế, chính sách phát triển ứng dụng KHCN, chính sách phát triển nhân lực, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng chính sách thị trường vẫn còn nhiều bất cập. Quy hoạch chưa đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Công tác quản lý triển khai phát triển và kiểm tra giám sát chưa đáp ứng yêu cầu. Điều đó dẫn đến tác động của nó đối
với phát triển cây trồng dược liệu chưa cao, tỷ lệ diện tích, tỷ lệ lao động và thu nhập của lao động trồng cây dược liệu thấp xa với tiềm năng của vùng.
Nguyên nhân của những hạn chế trên có liên quan sự chưa đồng bộ, nhất quán
trong các chủ trương, chính sách; sự bất hợp lý và năng lực của bộ máy chưa đáp ứng yêu cầu; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước cũng như phối hợp “4 nhà” chưa chặt chẽ và có sự phân công rõ ràng; đồng thời năng lực và nhận thức của các doanh nghiệp/hộ gia đình trồng cây dược liệu chưa cao.
128
Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU Ở MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh phát triển, dự báo nhu cầu về và mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam những năm tới
4.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế xã hội Việt Nam những năm tới
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức đan xen. Chính trị và an ninh khu vực tiềm ẩn nhiều phức tạp, nền kinh tế thế giới có những bước phụ hồi tuy nhiên vẫn còn
khá chậm. Những khó khăn để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chuyển đổi mô hình kinh tế từ thâm dụng vốn và lao động sàn năng suất và hiệu quả, cạnh tranh, bên cạnh đó, tình trạng giảm nghèo chưa bền vững và khoảng cách thu nhập giàu nghèo có
chiều hướng gia tăng, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậy, hệ thống thể chế quản lý còn nhiều bất cập, năng lực của đội ngũ quản lý cũng nhu đội ngũ tiếp cận còn hạn chế, đặc biệt nó còn trở lên khó khăn hơn nhiều khi Việt Nam gia nhập sâu và rộng hơn vào các tổ chức quốc tế như WTO, TPP, AEC…
Năm 2015, tại diễn đàn đối tác phát triển Việt Nam VDPF đã diễn ra trên nền hai sự kiện quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế cũng như xã hội Việt Nam trong những năm tới đó là: Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc thông qua
chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 và làn sóng hội nhập thương mại chưa từng có đối với Việt Nam, được đánh dấu bằng một số hiệp định thương mại tự do ( FTA) song phương và hiệp định thương mại tự do đa phương bao gồm: cộng đồng kinh tế chung Asean ( AEC), hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU ( Viet
Nam- EU FTA) và hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương ( TPP).
Việt Nam cũng đã hoàn thành năm năm đầu tiên thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 và đang bước vào thực hiện các quyết định mang tính chiến
lược quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội cho thời kỳ năm năm 2016-2020, với mục tiêu về cơ bản đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Sau khoảng 30 năm đổi mới, với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi
mới, Việt Nam là một trong những quốc gia được biết đến như một minh chứng cho sự thành công về cải cách và hội nhập mặc dù cũng có những mục tiêu chưa đạt được kết
129
quả như mong đợi. Với chính sách phát triển đúng đắn của Đảng và nhà nước, với sự nỗ lưc của toàn dân, Việt Nam đã vươn lên thoát khỏi tình trạng của một nước chậm phát triển với thu nhập GDP bình quân đầu người là 98 USD năm 1990 trở thành một quốc gia có đang phát triển với mức thu nhập trung bình, thu nhập bình quân đầu
người GDP đạt 1168 USD năm 2010 và 2020 USD năm 2015 (Nguồn: Nghị quyết 142/2016/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020).
Diện mạo của nước ta có nhiều thay đổi, chính trị, xã hội ổn định, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực được củng cố và nâng cao, thu nhập bình quân đầu người có sự thay đổi theo hương tích cực, được cải thiện lên một bước mới. Những thành công trong quá trình đổi mới của nước ta đươc thế giới công nhận, bên cạnh những nỗ lực của bản thân, Việt Nam cũng đã nhận được sự hỗ trợ vô cùng to lớn
của các nước và các tổ chức trên thế giới thông qua nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức với lượng vốn ODA cam kết đạt hơn 72 tỷ USD trong giai đoạn 1993-2015.
Thêm vào đó, với triển vọng mười năm hiệp định thương mại tự do đi vào thực
hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một trong những mắt xích quan trọng của mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn ở khu vực và trên thế giới.
Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế, việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành cộng đồng Asean trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức. Trong đó có hai thách thức lớn đó là năng lực
cạnh tranh quốc gia yếu và năng suất thấp. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam phát triển chưa bền vững, để có thể vượt qua hai thách thức này cần khắc phục những hạn chế nội tại của nền kinh tế liên quan đến quản trị quốc gia, cơ cấu kinh tế và thể chế, luật pháp, chính sách, để làm sao đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội
nhập quốc tế sâu rộng.
4.1.2. Dự báo nhu cầu và khả năng phát triển về cây trồng dược liệu ở Việt Nam những năm tới
Hiện nay, Việt Nam có hơn 300 doanh nghiệp sản xuất thuốc của nước ngoài chính thức có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty đang hoạt động tiếp thị, bán
thuốc nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, bên cạnh đó là các doanh nghiệp dược liệu trong nước (Bộ Y tế, 2015) thêm vào đó là hàng trăm các doanh nghiệp sản xuất thuốc của nước ngoài nhập khẩu thuốc thông qua các công ty nhập khẩu và phân phối tiếp thị tại Việt Nam. Từ tháng 11 năm 2006 khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại
130
thế giới WTO, nền kinh tế nước ta đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp dược Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung phải cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp nước ngoài ngay tại thị trường Việt Nam. Chiến lược và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dược khác nhau giữa ngay bản
thân các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ tập trung phát triển một phần rất nhỏ các sản phẩm thuốc có bản quyền, còn lại họ tập trung phát triển các sản phẩm đã hết thời gian bảo hộ bản quyền sở hữu trí tuệ, các công ty nhỏ sẽ tập trung cạnh tranh với nhau
bằng giá cả và chất lượng. Ngược lại, các công ty lớn lại dựa vào điều chế, nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới rồi nắm quyền bảo hộ, tạo sức mạnh thị trường.
Theo báo cáo điều tra thị trường của tổ chức Deloitte Mỹ, trong giai đoạn tới các thuốc có nguồn gốc hóa dược sẽ có mức tăng trưởng ổn định khoảng 10-15% /
năm và vẫn tiếp tục chiếm giá trị so với các thuốc khác. Các thuốc có nguồn gốc công nghệ sinh học, nguồn dược liệu sẽ được sự quan tâm nhiều hơn của các công ty đa quốc gia, khả năng mức độ tăng trưởng đạt khoảng 20-30%/năm.
Việt Nam có khoảng 3.948 loại cây dùng làm thuốc, nhu cầu về thị trường dược liệu hiện nay khoảng 50.000- 60.000 tấn mỗi năm, trong đó khoảng 2/3 được khai thác tự nhiên và trồng trọt. Có khoảng 20.000 đến 30.000 tấn dược liệu cho nhu cầu thuốc y học cổ truyền bao gồm cả số lượng nhập khẩu qua nhiều con đường. Mặc dù Việt Nam là một
nước có tiềm năng lớn về nguồn dược liệu làm thuốc, tuy nhiên, chúng ta chưa khai thác được hết những thế mạnh, nguồn dược liệu hiện nay vẫn phụ thuộc vào nguồn dược liệu nhập khẩu là tương đối lớn, nhu cầu sử dụng dược liệu của người dân là tương đối cao.
4.1.3. Mục tiêu phát triển cây trồng dược liệu đến năm 2020, tầm nhìn 2030
Căn cứ kết quả điều tra tại ba tỉnh Hà Giang, Bắc Giang và Hưng Yên về phát triển cây trồng dược liệu những năm 2011-2015, luận án dự báo mục tiêu phát triển
cây trồng dược liệu của các tỉnh miền Bắc như bảng 4.1. sau đây và chi tiết dự báo của từng tỉnh tại phụ lục 4.
Về diện tích trồng cây dược liệu: Trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng diện
tích cây trồng dược liệu khoảng 56%, bình quân mỗi năm tăng khoảng hơn 10%, với chủ trương và định hướng phát triển cây trồng dược liệu của ba địa phương trên, nghiên cứu dự đoán diện tích cây trồng dược liệu năm 2020 khoảng 6722,81ha và năm 2030 sẽ đạt khoảng hơn 16 ngàn ha.
Về tỷ lệ diện tích cây trồng dược liệu, trong 5 năm 2011-2015 bình quân mỗi năm tăng 0,01%, với chủ trương chính sách khuyến khích phát triển cây trồng dược liệu chúng tôi dự kiến trong những năm 2015-2020 mỗi năm tăng thêm 0,01%, tức tốc
131
độ tăng diện tích mỗi năm là 0,02% so với đất nông nghiệp như vậy đến năm 2020 diện tích trồng cây dược liệu khu vực miền Bắc chiếm 2,1% và năm 2030 là 2,6% diện tích đất nông nghiệp
Về cơ cấu diện tích cây trồng ngắn ngày và cây trồng lâu năm giữ ổn định cơ
cấu của năm 2015
Về lao động trồng cây dược liệu: Do diện tích trồng cây dược liệu tăng, nên số lao động trồng cây dược liệu cũng sẽ tăng lên. Nhưng dưới tác động của ứng dụng
KH&CN vào sản xuất và đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao trình độ lao động thì tốc độ tăng của lao động trồng cây dược liệu cũng sẽ giảm dần:
Căn cứ vào sự gia tăng của số lượng lao động trong giai đoạn 2011-2015, trung bình mỗi năm số lượng lao động trồng dược liệu tăng khoảng 13% đến 20%, chính vì
vậy, luận án dự đoán số lượng lao động năm 2020 trong lĩnh vực trồng dược liệu khoảng 498,479 nghìn người và đến năm 2030 số lượng lao động trong lĩnh vực này khoảng 1752,881 nghìn người
Căn cứ vào tốc độ tăng trong giai đoạn 2011-2015 bình quân mỗi năm tăng 3,1% lao động trồng cây dược liệu, Trong giai đoạn 2015-2020 chúng tôi dự kiến bình quân mỗi năm tăng 3% nên tỷ lệ lao động trồng cây dược liệu của các tỉnh miền Bắc là 33,57%, những năm 2020-2030, tốc độ tăng lao động bình quân mỗi năm 2% nên tỷ lệ
lao động trồng cây dược liệu đến năm 2030 là 53,57%. (Xem Bảng 4.1 và phụ lục 6)
Bảng 4.1. Dự báo một số chỉ tiêu phát triển cây trồng dược liệu
Chỉ tiêu ĐVT 2015 2020 2030
1. Diện tích cây trồng dược liệu Ha 4316,08 6722,81 16310,67
2. Số lao động trồng cây dược liệu Nghìn người 265,824 498,479 1752,881
2,0 2,1 2,6 % 3.Tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu/DT đất nông nghiệp của vùng
Tỷ lệ tăng diện tích bình quân năm 0,01 0,02 0,05 %
4. Cơ cấu cây trồng dược liệu
Cây lâu năm 67,06 67,06 67,06 %
Cây ngắn hạn 32,94 32,94 32,94 %
18,57 33,57 53,57 % 5. Tỷ lệ lao động phát triển cây trồng dược liệu/lao động nông nghiệp
Tỷ lệ tăng lao động bình quân năm 3,1 3,0 2,0 %
Nguồn: Dựa trên kết quả điều tra và tính toán của tác giả
132
Kết quả khảo sát của tác giả làm căn cứ tác giả tính toán các chỉ tiêu để dự báo cho giai đoạn 2020 và 2030 cho thấy, với kỳ vọng thu nhập của người lao động sẽ tăng 10% đến năm 2020 trong lĩnh vực trồng cây dược liệu
Thêm vào đó, kỳ vọng có sự gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng cũng như chất
lượng các doanh nghiệp/ hộ gia đình tham gia vào trồng cây dược liệu, điều đó tỷ lệ thuận với sự gia tăng về thu nhập của hộ gia đình cho cây trồng dược liệu.
Hiện nay, cùng với sự quan tâm của chính quyền địa phương, cũng như sự định
hướng của các cơ quan quản lý nhà nước, diện tích cây trồng dược liệu cũng có sự gia tăng tương đối mạnh mẽ đặc biệt các khu vực được quy hoạch dược liệu, đại diện cho sự phát triển mạnh mẽ về quy mô cây trồng dược liệu phía Bắc tác giả nghiên cứu chính là ba tỉnh Hưng Yên, Hà Giang và Bắc Giang, các tỉnh đều đang có những định
hướng nhằm xây dựng và phát triển cây trồng dược liệu
*) Dự báo nhu cầu sử dụng dược liệu
Dự kiến trong tương lai nhu cầu dược liệu sẽ ngày càng tăng lên cùng với
mức tăng nhu cầu sử dụng các loại thuốc bào chế từ thiên nhiên, với mức tăng khoảng 15-25%/ năm.
Xu thế hiện nay trên thế giới con người bắt đầu sử dụng nhiều loại thuốc chữa bênh có nguồn gốc từ thảo dược hơn là từ các loại thuốc tân dược bởi ít độc hại, ít tác
dụng phụ hơn và người ta cũng hy vọng rằng các nguồn dược liệu từ thiên nhiên có thể giúp đỡ con người trong việc tìm ra các phương thuốc giúp con người đẩy lùi được các căn bệnh hiểm nghèo mà hiện nay thế giới đang phải chống chọi.
Theo thống kê, tỷ lệ số người sử dụng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe và điều trị bênh ngày càng tăng ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước châu Phi… và nhiều các quốc gia trên thế giới. Ở Trung Quốc con số này là khoảng 10 tỷ USD một năm, chiếm 40% chi phí cho y tế, Nhật Bản khoảng 1,5 tỷ USD, Hàn
Quốc khoảng trên 500 triệu USD.
100,0%
90,0%
90,0%
90,0%
80,0%
80,0%
70,0%
60,0%
60,0%
50,0%
50,0%
50,0%
48,5%
45,1%
40,0%
30,0%
20,0%
10,0%
0,0%
Australia Singapore Indonesia
Việt Nam
Trung Quốc
Hàn Quốc Nhật Bản Các nước Châu Phi
.
Tỉ lệ dân số
133
Dự báo tiền sử dụng thuốc đến năm 2030 của Việt Nam
120,00
60
ố S
50
n â D
100,00
50
45
40
80,00
40
g n ụ d
35
33,83
31,4
29,4
27,4
60,00
30
22,25
19,77
ử s c ố u h t
16,45
BQ tiền thuốc đầu người/USD Dân Số (triệu dân)
40,00
20
n ề i
13,39
T
20,00
10
0,00
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2020 2025 2030
Biểu đồ 4.1: Tỉ lệ dân số dùng dược liệu một số nước trên thế giới
Nguồn: Báo cáo hội thảo dược liệu-Đà Lạt
4.2. Quan điểm và phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở các tỉnh miền Bắc những năm tới
4.2.1. Quan điểm hoàn thiện vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam
Nhận thức tầm quan trọng và những bất cập với sự phát triển của ngành dược liệu ở nước ta hiện nay, nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình đã có những
134
hoạch định, chiến lược, quyết định ban hành về chiến lược phát triển dược liệu, đưa ngành sản xuất, kinh doanh dược liệu chữa bệnh nói riêng và kinh doanh thuốc nói chung thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực sản xuất dược liệu trong nước và kiện toàn hệ thống cung ứng
dược liệu của Việt Nam để chủ đọng cung ứng thường xuyên, kịp thời và đầy đủ với giá cả hợp lý, sử dụng dược liệu an toàn, đáp ứng yêu cầu chăm sóc và nâng cao sức khỏe người dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới.
Quan điểm hoàn thiện vai trò của nhà nước đối với phát triển cây trồng dược
liệu ở Việt Nam:
Thứ nhất, vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu của Việt Nam nói chung, các tỉnh phía Bắc nói riêng là vấn đề vừa cơ bản vừa lâu dài để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân vừa thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, một mặt, thu nhập của lao động trồng cây dược liệu cao hơn so với các hộ thuần nông. Mặt khác các địa phương nghiên cứu mới sử dụng khoảng 0,02% diện tích đất nông, lâm nghiệp để trồng cây dược liệu nhưng giải quyết việc làm cho tới 33% lao động nông nghiệp. Thêm nữa, việc phát triển cây trồng dược liệu sẽ cung cấp một nguồn nguyên liệu quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp dược ở nước ta.
Những điểm cần lưu ý khi thực hiện quan điểm: Để thực hiện quan điểm trên, việc phát triển cây trồng dược liệu cần được tổ chức lại theo hướng sản xuất hàng hóa ổn định, lâu dài với quy mô diện tích lớn, tập trung, chuyên canh trên cơ sở khai thác các lợi thế về: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và thị trường, phù hợp với điều kiện của vùng và quy hoạch vùng phải phù hợp với định hướng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sản xuất nông nghiệp và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan.
Khi thực hiện tốt việc phát triển cây trồng dược liệu sẽ góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận tương đối lớn lượng lao động của địa phương trong các khâu trồng dược liệu từ trồng dược liệu, chăm sóc đến thu hoạch cây trồng dược liệu
Thứ hai, nhà nước cần có chủ trương chính sách phát triển dược liệu, trong đó có cây trồng dược liệu, thành một ngành kinh tế. Các chính sách về phát triển dược liệu ở Việt Nam được xây dựng và triển khai chủ yếu dựa trên nguyên tắc là "để làm
thuốc". Hiện chúng ta chưa có tầm nhìn rõ ràng về phát triển dược liệu sẽ đến đâu. Khi thiếu tầm nhìn, sẽ khó có mục tiêu, chiến lược thực hiện, tổ chức triển khai, đầu tư, đào tạo nhân lực,... đúng hướng và có thời hạn rõ ràng. Việc tổ chức triển khai được
thực hiện theo hướng giao cho nhiều ngành, cục, vụ nhưng không có một đơn vị phải
135
chịu trách nhiệm rõ ràng, do đó nhiều chính sách mới dừng lại ở văn bản, hoặc được triển khai một cách chậm chạp.
Để khắc phục điều này, nếu chúng ta xác định phát triển dược liệu thành một "ngành", cần thiết phải hình thành một đơn vị chuyên trách có chức năng kiến tạo phát
triển mà không đơn thuần là quản lý nhà nước. Đơn vị này có thể là một Cục của Bộ Y tế hoặc cao hơn là do Thủ tướng/Chính phủ trực tiếp chỉ đạo. Từ đó mới có người chịu trách nhiệm nghiên cứu (một cách có trách nhiệm) xây dựng tầm nhìn cho "ngành"
dược liệu Việt Nam, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, chiến lược thực hiện, xây dựng các chính sách phù hợp, tổ chức triển khai,... (Công ty cổ phần Dược Khoa,2017)
Thứ ba, quản lý nhà nước đảm bảo cho sự phát triển cây trồng dược liệu theo hướng bền vững, thể hiện cây trồng dược liệu vừa tăng về quy mô, tốc độ phát triển, vừa đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào cho ngành dược liệu
Muốn vậy, việc phát triển cây trồng dược liệu phải gắn với thị trường tiêu thụ và công nghiệp chế biến, gắn với phát triển các cơ sở nghiên cứu ứng dụng bảo đảm an toàn và chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP – WHO) khi tiêu thụ trên thị trường. Có như thế viêc phát triển cây trồng dược liệu mới ổn định và ngày càng mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Từ đó tăng khả năng cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu về dược liệu.
Nguyên nhân là nếu thiếu sự gắn bó giữa người trồng dược liệu với thị trường tiêu thụ, nhất là các doanh nghiệp chế biến thì người trồng dược liệu không yên tâm,
năm nay trồng sang năm bỏ, năm nay trồng cây này sang năm phá bỏ trồng cây khác; nói cách khác là không tạo ra sự phát triển bền vững cho cây trồng dược liệu; Đồng thời nếu không gắn bó giữa người trồng cây dược liệu với các cơ sở nghiên cứu ứng
dụng chúng ta sẽ thiếu giống có chất lượng tốt, thiếu công nghệ trồng trọt và phân bón thích hợp với từng loại cây thuốc, thiếu công nghệ sơ chế/chế biến sau thu hoạch... Vì thế, cần xây dựng sự gắn bó chặt chẽ giữa phát triển cây trồng dược liệu với phát triển thị trường tiêu thụ và công nghiệp chế biến dược liệu, cũng như với sự phát triển các
cơ sở nghiên cứu ứng dụng bảo đảm năng suất, chất lượng, an toàn và hiệu quả.
Thứ tư, nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát
triển trồng dược liệu, đẩy mạnh xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu.
Việc khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển trồng dược liệu sẽ góp phần thúc đẩy phát triển cây trồng dược liệu, khuyến khích sự đa dạng của các đơn vị trồng dược liệu, từ đó nguồn nguyên liệu dược liệu sẽ đa dạng và nhiều hơn. Góp phần giảm thiểu áp lực nhập dược liệu từ các nước.
136
Để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư trồng dược liệu nhà
nước cần có những chính sách hỗ trợ về mặt kỹ thuật, tài chính,... cho những đơn vị
tham gia trồng dược liệu. Một mặt cần khuyến khích các hộ gia đình trồng cây dược
liệu theo quy hoạch, hướng dẫn của nhà nước, mặt khác khuyến khích các doanh
nghiệp chế biến có sự liên kết chặt chẽ với hộ gia đình, hướng dẫn từ gieo trồng, chăm
sóc, thu hoạch theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP-WHO) và đảm bảo
thị trường cho tiêu thụ cho các hộ gia đình. Để đảm bảo sự ổn định lâu dài cho các hộ
yên tâm phát triển cây trồng dược liệu, cần phải nghiên cứu triển khai, chia sẻ và nhân
rộng các mô hình phát triển dược liệu theo chuỗi giá trị, với vai trò của doanh nghiệp
đầu tàu, liên kết với các tổ chức kinh tế tại cộng đồng, như các hợp tác xã và công ty
cổ phần tại cộng đồng. Trước mắt ưu tiên các địa phương, khu vực có thế mạnh (i) về
phát triển dược liệu và (ii) du lịch, như Hà Giang, Lào Cai, Quảng Ninh,,...
Thứ năm, để phát triển cây trồng dược liệu nhà nước cần hoàn thiện cơ chế
chính sách khuyến khích hỗ trợ, đặc biệt chú trọng là hỗ trợ vốn, hỗ trợ đầu tư cho
khoa học – công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm dược liệu từ khâu
trồng trọt, thu hái và chế biến sản phẩm.
Vốn đầu tư là một trong những nguồn lực đầu tư quan trọng nhất với các
doanh nghiệp/ hộ gia đình khi tiến hành bất cứ hoạt động đầu tư nào, điều đó đúng
với hoạt động trồng dược liệu, khi hộ nông dân, doanh nghiệp phải đầu tư một
khoản tương đối lớn từ đầu vào đến quá trình chăm sóc cây trồng dược liệu như
giống, phân bón, chăm sóc cây trồng. Chính vì vậy, việc hỗ trợ của nhà nước về
vốn đầu tư cho nhóm đối tượng này trở lên vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong
trường hợp các hộ gia đình và doanh nghiệp trồng cây dược liệu lâu năm, thời gian
thu hồi vốn dài, hỗ trợ vốn vay và lãi suất của nhà nước cho các chủ thể sẽ giúp
giảm rủi ro cho các hộ dân và doanh nghiệp.
Tương tự như vậy, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp/ hộ gia
đình trồng dược liệu tiếp cận tốt hơn với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Việc hỗ trợ này
giúp các hộ/ doanh nghiệp trong quá trình trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến đáp
ứng các tiêu chuẩn với các sản phẩm dược liệu, một mặt vừa nâng cao năng suất, hiệu
quả cây trồng dược liệu, mặt khác đảm bảo cung cấp cho ngành công nghiệp dược
những nguyên liệu đầu vào đủ chất lượng. Điều đó góp phần nâng cao chất lượng
thuôc y dược chế biến trong nước, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngành trong
bối cảnh cạnh tranh về sản phẩm như hiện nay, giải quyết bài toán khó khăn về thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
137
4.2.2. Phương hướng hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam
4.2.2.1. Phương hướng hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu
Mặc dù Bảng 3.4 trên cho thấy hầu hết các chính sách trồng dược liệu được hỏi đều được cả người trồng dược liệu (M1) và cán bộ quản lý nhà nước (M2) đánh giá ở mứuc khá và tốt tuy nhiên trong từng chính sách vẫn còn những điểm cần được tiếp
tục hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu phát triển cây trồng dược liệu ở nước ta nhữung năm tới.
Khảo sát ý kiến của người trồng cây dược liệu (M1) và cán bộ quản lý nhà nước (M2) về phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển cây trồng dược liệu với 8 mức
độ, trong đó 8 là ưu tiên cao nhất cho thấy kết quả như bảng 4.2
Bảng 4.2: Thứ tự mức độ ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện chính sách phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn những năm tới
Trong đó (Điểm từ 1 đến 8, trong đó 8 là ưu tiên cao nhất) ĐBQ chung Mẫu M1 Mẫu M2
1. Hoàn thiện chính sách đất đai 5,585 5,76 5,41
2 Hoàn thiện chính sách thị trường tiêu thụ sản 5,195 4,98 5,41
phẩm và thị trường đầu vào cho trồng cây dược liệu
3. Hoàn thiện chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN 5,115 4,49 5,74
4. Hoàn thiện chính sách thuế 5,075 5,44 4,71
5. Hoàn thiện chính sách đào tạo nhân lực 5,00 4,74 5,26
6. Hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng 4,98 5,55 4,41
7. Hòan thiện chính sách vay vốn ngân hàng 4,375 4,70 4,05
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát của tác giả
Từ ý kiến trên đây, phương hướng hoàn thiện hệ thống chính sách cụ thể như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách đất đai cần được ưu tiên hàng đầu.
Như phân tích ở chương 3, song do trình độ quản lý của các cơ quan quản lý và việc thực thi của người dân địa phương còn nhiều hạn chế, cộng với điều kiện địa
hình thỗ nhưỡng khó khăn, đã làm cho chính sách đất đai chưa phát huy được hết hiệu
138
quả như mong đợi. Việc nghiên cứu đặc điểm của đất với sự phù hợp và thích nghi của loại cây dược liệu vẫn chưa được chú trọng đúng mức, hơn nữa, với địa hình đồi núi hiểm trở như khu vực này thì công tác này còn gặp nhiều khó khăn hơn, chính điều này đã tạo ra tính thiếu hợp lý trong một số quy hoạch phát triển loại cây dược liệu,
gây khó khăn cho người dân trong việc trồng loại cây dược liệu gì, nuôi loại con dược liệu nào,… Thêm nữa, việc giao đất giao rừng mặc dù đã tạo điều kiện chủ động cho người dân trong việc phát triển sản xuất dược liệu, song lại gây khó khăn cho việc bảo
vệ rừng, đặc biệt là rừng nguyên sinh quốc gia, nhiều địa phương thủ tục triển khai còn chậm, công tác hành chính còn phức tạp, giải phóng mặt bằng còn chậm gây khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực
Đây là những điểm cần khắc phục để hoàn thiện chính sách đất đai nhằm phát
triển cây trồng dược liệu những năm tới. Xuất phát từ chỗ đất đai là điều kiện đầu tiên để phát triển cây trồng dược liệu, việc hoàn thiện chính sách đất đai cần được chú trọng những vấn đề sau:
i)Trong những năm tới, việc hoàn thiện chính sách đất đai cần hướng vào mục tiêu tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tham gia bảo tồn và phát triển dược liệu. Theo đó, chính sách đất đai cần hoàn thiện theo hướng: Quy hoạch thành những vùng trồng dược liệu thích hợp với từng chất đất để phát triển với diện tích lớn hàng
trăm, hàng ngàn héc ta đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất thuốc, phục vụ sức khỏe nhân dân và xuất khẩu. (Công ty TNHH Thiên Dược(2017); Cần có quỹ đất để trồng dược liệu và ưu tiên khu vực để phát triển dược liệu, bởi vì cây làm thuốc
khác hẳn với các cây rau ăn, cũng như các cây công nghiệp khác là cần tạo ra hoạt chất sinh học chữa bệnh cho con người; Chính sách về đất phải rõ ràng, kiên quyết, đất được cấp để trồng và nghiên cứu dược liệu không được chuyển đổi mục đích sử dụng. Nếu chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ bị thu hồi; Khoanh vùng những vùng đất
thích hợp cho từng loại cây dược liệu để phát triển thành những vùng dược liệu rộng lớn; Chính sách về đất đai đủ mạnh để kích hoạt phong trào trồng dược liệu trong cả nước; Xây dựng và phát triển các vùng trồng dược liệu tập trung theo nguyên tắc, tiêu
chuẩn Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP- WHO) đối với các loài dược liệu trong quy hoạch, gắn liền với chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm để bảo vệ quyền lợi của người trồng dược liệu.
ii) Các địa phương cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể hơn nữa nhằm khuyến
khích người dân mở rộng diện tích và trồng dược liệu theo quy mô lớn, tập trung như: hỗ trợ người dân trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ưu tiên cho trồng cây dược liệu; đồng thời tổ chức thực hiện việc dồn điền đổi thửa để có điều kiện canh tác tốt hơn. Khi
139
diện tích canh tác tập trung, việc canh tác của người dân thuận lợi hơn, chi phí phát sinh liên quan đến chăm sóc và trông nom được tối ưu hóa do không phải bố trí quá nhiều người cho cùng một vị trí công việc.
Theo tinh thần Nghị định 65/2017/NĐ-CP, các địa phương cần thực hiện chính
sách ưu đãi về đất đai đối với các tổ chức, cá nhân có dự án đầu tư nghiên cứu, nhân giống, trồng dược liệu, theo đó, đối với tổ chức, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất để trồng, xây dựng nhà xưởng, kho chứa dược liệu thì được miễn, giảm tiền thuê đất theo
quy định của pháp luật đất đai; trong trường hợp diện tích đất thuê thuộc nhiều địa bàn, khu vực, vị trí có giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất khác nhau thì giá đất tính tiền thuê đất được xác định theo mức giá bình quân gia quyền cho toàn bộ diện tích thuê.
Thực hiện hỗ trợ tích tụ, tập trung đất đai đối với trường hợp thuê lại đất của hộ gia
đình, cá nhân thì được Nhà nước hỗ trợ tối đa 40% tiền thuê đất cho 5 năm đầu kể từ khi dự án đi vào hoạt động; mức hỗ trợ được tính theo đơn giá thuê đất quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị định 65/2017/NĐ-CP; Trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được miễn, giảm lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. ( Chính phủ, 2017; điều 8)
iii) Chính quyền địa phương cần giảm thiểu các thủ tục hành chính, hỗ trợ nhanh chóng, thuận lợi cho doanh nghiệp và hộ gia đình về mặt bằng nuôi trồng dược
liệu, cụ thể như hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình giải phóng mặt bằng, vận động người dân địa phương hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thuê mướn mặt bằng phục vụ cho sản xuất cũng như chế biến dược liệu…
iv) Cần chú trọng giữa trồng rừng và khai thác nhằm bảo vệ rừng nguyên sinh,
rừng dầu nguồn.
Thứ hai, đối với chính sách thị trường
Xuất phát từ những hạn chế của thị trường hiện nay cần tập trung hoàn thiện
chính sách thị trường , kể cả đầu vào và thị trường đầu ra cho trồng cây dược liệu.
i) Đối với thị trường đầu vào, cần quản lý chặt chẽ việc cung ứng các loại giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuộc bảo vệ thực vật để vừa nâng cao năng suất cây
trồng dược liệu, nâng cao hiệu quả sản xuất vừa góp phần bảo vệ môi trường, sinh thái, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
ii) Đối với thị trường đầu ra, trước hết, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất chế biến dược liệu phát triển để đảm bảo sự ổn định
thị trường đầu ra cho người trồng dược liệu. Như đã nói hiện nay cả nước có 95 cơ sở sản xuất thuốc loại hình hộ kinh doanh cá thể, 131 cơ sở sản xuất thuốc loại hình công
140
ty. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, các cơ sở này nâng cấp công nghệ chế biến dược liệu, thuốc y học cổ truyền để đảm bảo chất lượng; cần đầu tư thêm về các dự án hoặc đề tài nghiên cứu chế biến dược liệu sau thu hoạch; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất dược liệu, thuốc YHCT và thuốc đông dược tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp đăng ký lưu hành thuốc đông dược một cách thuận lợi hơn; mở rộng danh mục thuốc đông dược, thuốc YHCT đưa vào BHXH; có các cơ chế tốt hơn nữa đối với các bệnh viện đa khoa trong việc phối hợp giữa Đông y và Tây y
trong điều trị bệnh, đặc biệt với những bệnh mãn tính kinh niên và suy giảm miễn dịch
Có chính sách để phối hợp giữa người sản xuất với người thu mua và doanh nghiệp về sản phẩm cây trồng dược liệu, khắc phục tình trạng ép cấp, ép giá của tư thương, nhất là tư thương nước ngoài nhằm phá hoại quy hoạch, kế hoạch phát triển
cây trồng dược liệu; đẩy mạnh công tác tuyền truyền, quảng bá giới thiệu sản phẩm của địa phương tại các hội chợ thương mại, từ đó giúp các sản phẩm được chế biến từ cây dược liệu có thể đến tay các cơ sở chế biến dễ dàng hơn và thị trường tiêu thụ sản
phẩm của hộ gia đình trồng dược liệu có thể ổn định và mở rộng hơn.
Hiện nay trên thị trường cây dược liệu, các dược liệu được có tiêu chuẩn, như GACP-WHO, vẫn phải cạnh tranh với các dược liệu không rõ nguồn gốc xuất xứ, thậm chí là dược liệu rác, dược liệu kém phẩm chất cả trong nước và nhập khẩu. Để
khắc phục điều này, cần tạo được môi trường cạnh tranh công bằng giữa các loại dược liệu, cần thiết phải xây dựng và triển khai lộ trình hàng rào kỹ thuật đối với dược liệu, theo hướng ưu tiên các dược liệu trong nước, dược liệu có tiêu chuẩn, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng.
Nhìn chung, để đảm bảo thị trường đầu ra, một mặt cần phát huy vai trò của người dân địa phương, mặt khác nhà nước trung ương và địa phương cần có biện pháp tích cực hỗ trợ người dân trong việc tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm thông
qua việc hỗ trợ tổ chức các hội chợ, giới thiệu sản phẩm, đồng thời cải thiện điều kiện giao thông, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa thuận lợi.
Thứ ba, chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ:
Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (được ban hành theo Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 10/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ) chỉ rõ: phát huy thế mạnh, tiềm năng của Việt Nam để phát triển sản xuất thuốc từ dược liệu, trong đó mục tiêu cụ thể đến năm 2020
là phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm, trong đó
141
thuốc từ dược liệu chiếm 30%. Ngoài ra, dược liệu được sản xuất thuốc không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước và mà còn xuất khẩu sang một số nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Pháp, đem lại một lượng ngoại tệ rất đáng kể. Với 37 loại dược liệu xuất khẩu khoảng 6.000 tấn/năm, với giá trị 35 triệu USD/năm (Báo cáo
Tổng công ty Dược Việt Nam). Xuất phát từ thực trạng chính sách ứng dụng khoa học công nghệ hiện nay và yêu cầu hiện đại hóa sản xuất thuốc từ dược liệu trong những năm tới, việc hoàn thiện chính sách ứng dụng KH&CN trong phát triển cây trồng dược
liệu cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
i) Trong sản xuất giống cây thuốc, chú trong tới việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống cây thuốc đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn (giống cây trồng không đạt chuẩn, năng suất cây trồng còn thấp...) cần được đẩy mạnh hơn nữa trong những năm
tới. Các tổ chức nghiên cứu triển khai cần tăng cường hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc và chế biến sau thu hoạch; bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc chưa được đầu tư đúng mức. Việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong việc chế
biến, bảo quản dược liệu và sản xuất thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu cần được chú trọng đổi mới để có những sản phẩm thương mại, có như thế mới nâng cao được năng suất và tính cạnh tranh các sản phẩm dược liệu của nước ta trên thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế)
ii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong nghiên cứu chọn tạo giống và kỹ thuật trồng cho năng suất, chất lượng cao, trong sơ chế và chiết xuất dược liệu nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị
trường phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện với môi trường và ít gây ô nhiễm.
iii) Nhập nội nguồn gen và giống dược liệu tiên tiến, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới để triển khai phát triển dược liệu.Sưu tầm,
nghiên cứu kế thừa các bài thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc trong cộng đồng.
iv) Chính sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Tập trung nghiên cứu những
hoạt chất chính, mỗi một loại cây cần xác định dấu vân tay để nhận biết trong quá trình thu mua nguyên liệu, sản xuất và kiểm tra bảo vệ quyền tác giả. Đối với dược liệu, nghiên cứu khoa học phải định ra mùa thu hái để đảm bảo hoạt chất sinh học làm thuốc; Đầu tư xây dựng hệ thống các Trung tâm nghiên cứu nguồn gen và giống dược
liệu để bảo tồn khai thác nguồn gen, phát triển giống, kỹ thuật nuôi trồng; Trồng và phát triển dược liệu phải kết hợp với nghiên cứu nhu cầu của thị trường, không làm theo cảm tính, vì sẽ gây mất cân đối, thừa ế dược liệu, ảnh hưởng đến người nông dân;
142
Giống cây trồng dược liệu mới cần được bảo hộ nghiêm ngặt ở các cửa khẩu để không bị mất nguồn giống; Quyền tác giả giống cây trồng được tôn trọng và bảo vệ; Các cơ quan quản lý thuốc, thực phẩm chức năng của Bộ Y Tế cần phải tăng cường quản lý chặt chẽ để bảo vệ uy tín và thương hiệu của sản phẩm đã được thị trường tín nhiệm,
tránh hàng giả, hàng nhái.
v) Cần tổ chức nhiều hơn nữa các khóa tập huấn kỹ thuật chuyển giao công nghệ cho các đơn vị trồng dược liệu, cử cán bộ có tâm và trình độ hỗ trợ trực tiếp về
kỹ thuật cho người dân cũng như doanh nghiệp.
vi) Chính sách ứng dụng KH&CN cũng chú ý tới đặc điểm của địa phương, chẳng hạn với các địa phương vùng khu vực miền núi phía bắc cụ thể là Hà Giang, người dân tiếp cận tương đối khó khăn với khoa học công nghệ, chủ yếu người dân
trồng dược liệu áp dụng rất máy móc các kỹ thuật được cán bộ của doanh nghiệp thu mua đào tạo. Do đặc thù, điều kiện về trình độ của người dân còn tương đối hạn chế, vì vậy cần chú ý nâng cao khả năng người dân tiếp cận và sử dụng thành thạo các thiết
bị còn hạn chế. Đối với những nơi mà người dân trồng cây dược liệu chủ yếu theo thói quen như tại Bắc Giang thì chính quyền cần tăng cường khuyến khịc việc áp dụng khoa học công nghệ kể cả trong giai đoạn trồng và các khâu sơ chế .
Thứ tư chính sách thuế
Xuất phát từ những khó khăn thách thức đối với doanh nghiệp và các hộ gia đình chúng tôi khuyến nghị nhà nước cần hoàn thiện chính sách nhằm hỗ trợ về thuế và giảm thiểu các khoản phí mà người trồng dược liệu phải chi trả. Cụ thể là:
- Ưu đãi về thuế đất đai: Đối với hộ nông dân/ doanh nghiệp trồng cây dược liệu được ưu đãi miễn thuế đất nông nghiệp trong quá trình trồng dược liệu, được miễn 100% thuế đất nông nghiệp
Được giảm phí thuê đất để làm cơ sở sản xuất, chế biến dược liệu trong thời
gian 5 năm đầu khi bắt đầu hoạt động; giảm phí thủy lợi và các khoản chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất, vận chuyển dược liệu.
- Ưu đãi về thuế thu nhập: Doanh nghiệp/ hộ gia đình được hỗ trợ thuế thu nhập
doanh nghiệp trong thời điểm khó khăn ( cụ thể đã thực hiện chính sách này trong những năm 2013, năm điều kiện kinh tế của doanh nghiệp/ hộ gia đình tương đối khó khăn)
Bên cạnh đó, doanh nghiệp/ hộ gia đình cũng được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo đúng lộ trình giảm thuế khi khuyến khích đầu tư vào sản xuất và
trồng cây dược liệu của các địa phương
143
Thứ năm, chính sách phát triển nguồn nhân lực
Xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực hiện nay, chính sách đào tạo nguồn
nhân lực tròng cây dược liệu cấn giải quyết tốt những vấn đề sau đây:
i) Hiện nay tại Việt Nam, nguồn nhân lực chuyên ngành dược hạn chế cả về số
lượng và chất lượng, lực lượng dược sĩ được đào tạo bài bản, đúng chuyên ngành có trình độ cao thiếu hụt rất nhiều, nguyên nhân chính của hiện tượng này là do số lượng đào tạo các dược sĩ chuyên ngành ở bậc đại học và trên đại học bị hạn chế về chỉ tiêu
tuyển sinh trong nhiều năm, vì vậy, việc đáp ứng yêu cầu phát triển của các doanh nghiệp sản xuất dược, các bệnh viện, cơ sở y tế về nguồn nhân lực có trình độ về dược liệu là vô cùng khó khăn. Hơn nữa, các dược sĩ sau khi tốt nghiệp đại học sau về làm tại các doanh nghiệp sản xuất dược liệu của Việt Nam thường ít được đào tạo tiếp tục
ở các bậc cao hơn, vì vậy lượng dược sĩ có trình độ trên đại học ở nước ta còn khá thấp
ii) Việc phát triển nguồn nhân lực nội tại của doanh nghiệp là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp, tuy nhiên doanh nghiệp không có đủ thời gian, kinh phí để phát triển
được nguồn nhân lực trong bối cảnh tổng lượng nhân lực còn thiếu để cung cấp cho tổng nhu cầu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh va các cơ sở y tế. Vấn đề này rất cần đến vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Nhà nước cần có phương án khảo sát về tổng nhu cầu nhân lực có trình độ dược sĩ đại học và sau đại học tất cả các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh, cơ sở y tế… trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 để có thể có quy hoạch lại chương trình đào tạo, có thể đáp ứng thỏa mãn đủ nguồn nhân lực có chất lượng và đảm bảo đủ số lượng. Trong những năm tới, chính sách đào tạo nhân
lực trồng cây dược liệu cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau đây:
- Tập trung đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực phục vụ cho công tác dược liệu của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Hiện nay, các khóa đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trồng dược liệu cho doanh nghiệp hộ gia đình vẫn còn mang nặng tính hình
thức, chạy theo số lượng chứ chưa thật sự chú trọng đến chất lượng, chưa thật sự chú ý đến nhu cầu thực tế của người trồng dược liệu; vì thế cần chú ý đổi mới phương thức đào tạo bồi dưỡng, chú trọng cầm tay chỉ việc cho nông dân; thực hiện đào tạo gắn với
nhu cầu của người trồng dược liệu từng loại cây trồng, từng vùng miền của đất nước.
- Đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực dược, thực hiện cử tuyển và đào tạo theo địa chỉ để khắc phục sự mất cân đối nguồn nhân lực dược giữa các vùng, chú ý bảo đảm đủ nhân lực cho các vùng dược liệu tập trung, các dự án phát triển dược
liệu. Tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác điều tra, nghiên
144
cứu và quản lý tài nguyên. Cần có chính sách thu hút và phát huy nguồn nhân lực có kinh nghiệm, tri thức trong nuôi trồng, khai thác, chế biến và sử dụng dược liệu.
-Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý trong các doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp dược, cơ sở y tế cũng là vấn đề cần được quan tâm, trong quá trình quản
lý, chuyên môn và tầm nhìn của các vị trí quản lý có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, do vậy, năng lực của đội ngũ quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đáp ứng những yêu cầu quản lý ngày càng khắt khe trong môi
trường cạnh tranh.
- Hiện tại, lực lượng kỹ thuật, lực lượng quản lý tại các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm dược liệu của Việt Nam rất ít được đào tạo tại các cơ sở sản xuất tiên tiến của các nước phát triển, thực trạng này sẽ gây cản trở cho các doanh nghiệp khi cần tiếp thu, ứng
dụng chuyển giao công nghệ của các nước tiên tiến. Vì vậy, nhà nước cần có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhằm giúp chuyên viên, lực lượng kỹ thuật của công ty, tổ chức y tế tại Việt Nam có thể tiếp cận được những kỹ thuật hiện đại của thế giới, để có thể
ứng dụng những tiến bộ vào sản xuất tại công ty.
- Bên cạnh đó, việc phát triển nguồn nhân lực nói chung để có thể cung cấp cho các doanh nghiệp, các đơn vị y tế cũng là một chiến lược cần được sự quan tâm thích đáng của nhà nước.
-Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và năng lực của cộng
đồng về bảo tồn, khai thác, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường
Thứ sáu, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
Trước những bất cập về cơ sở hạ tầng trong nuôi trồng dược liệu hiện nay, những năm tới việc haonf thiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở vật chất phát triển trồng dược liệu cần tập trung giải quyết những vấn đè sau
i) Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở nghiên cứu phát
triển giống dược liệu, các trường đại học, các trường dạy nghề theo hướng đồng bộ, hiện đại. Nâng cấp các cơ sở chiết xuất dược liệu, sản xuất nguyên liệu dược, nghiên cứu sản xuất các dạng bào chế theo công nghệ tiên tiến, hiện đại góp phần tạo nguồn
nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh thay thế nguyên liệu nhập khẩu.
Đầu tư xây dựng mới theo hướng đồng bộ, hiện đại một số trung tâm nghiên cứu nguồn gen và giống dược liệu; trung tâm nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới có hàm lượng khoa học cao, tạo ra giá trị gia tăng, tập trung phát triển các sản phẩm
quốc gia từ dược liệu; một số cơ sở sản xuất thuốc và các sản phẩm từ dược liệu với
145
công nghệ bào chế hiện đại. Đầu tư xây dựng mới 05 vườn cây thuốc quốc gia phục vụ cho công tác bảo tồn, phát triển nguồn gen và giống dược liệu.
ii) Ưu tiên xây dựng hệ thống thủy lợi, nhất là ở vùng đồi núi để phục vụ tưới tiêu chủ động ; có chính sách khuyến khích và hướng dẫn các doanh nghiệp và người
dân xây dựng hệ thống chiếu sáng cũng như nhà lưới phục vụ cho phát triển cây trồng dược liệu.
ii) Đảm bảo xây dựng đồng bộ hạ tầng, đảm bảo chất lượng của hệ thống hạ
tầng để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững các vùng dược liệu trong quá trình đô thị hoá, đảm bảo ổn định kinh tế xã hội. UBND các tỉnh cần có kế hoạch cụ thể trong việc bố trí vốn để đầu tư các công trình hạ tầng – coi đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của địa phương trong việc thúc đẩy phát triển ngành dược liệu ( đặc biệt là các tỉnh
thuộc khu vực miền núi phía Bắc như tỉnh Hà Giang).
Việc thu hút lao động làm việc tại các cơ sở sản xuất và chế biến dược liệu trên địa bàn các tỉnh đã tạo nên hiện tượng di dân từ các vùng tới khu vực sản nhà máy dược liệu,
các vùng trồng dược liệu, vì vậy cần có quy hoạch cụ thể về nhà ở cho công nhân cũng như hỗ trợ xây dựng kết câu hạ tầng, khu vực vui chơi giải trí gần các khu vực này phục vụ nhu cầu thực tế phát sinh trong quá trình phát triển vùng dược liệu cũng như nhà máy chế biến nguồn dược liệu tại các địa phương. Do đó, các địa phương cần sớm xây dựng bổ
sung quy hoạch nhà ở cho người lao động tại các khu vực này
Các tỉnh cần đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh tại các khu vực quy hoạch xây dựng nhà cho người lao động trước khi doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà ở. Không giao đất riêng lẻ tại những khu đất chưa được đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật.
Thứ bảy, chính sách vốn
Trước hết, thực hiện tinh thần Nghị định 65/2017/NĐ-CP, các địa phương cần
triển khai thực hiện việc hỗ trợ vốn cho sản xuất giống cây trồng dược liệu. Cụ thể là thực hiện hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (cải tạo đồng ruộng, thủy lợi, giao thông nội đồng, nhà lưới, nhà kính, kho bảo quản, xử lý môi trường) cho các cơ sở nhân
giống tập trung theo quy mô của các loại cây dược liệu; Hỗ trợ chi phí sản xuất giống gốc, chi phí sản xuất giống thương phẩm theo định mức kinh tế kỹ thuật do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành. Chú ý mức hỗ trợ cao hơn cho các trường hợp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Hỗ trợ chi phí tập huấn kỹ thuật
cho người trực tiếp sản xuất giống theo nội dung và định mức chi quy định tại Nghị
146
định số 02 ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về khuyến nông. (Chính phủ 2017; điều 5)
Thực hiện hỗ trợ áp dụng công nghệ nuôi trồng và khai thác dược liệu tuân thủ Thực hành nuôi trồng, khai thác dược liệu tốt như xây dựng mô hình áp dụng công nghệ nuôi trồng và khai thác dược liệu tuân thủ Thực hành nuôi trồng, khai thác dược liệu tốt: Hỗ trợ chi phí giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đối với mô hình trồng trọt theo định mức kinh tế kỹ thuật do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ban hành; Hỗ trợ chi phí cấp chứng nhận nuôi trồng và khai thác dược liệu tuân thủ Thực hành nuôi trồng, khai thác dược liệu tốt; Hỗ trợ chi phí tập huấn kỹ thuật cho người trực tiếp nuôi trồng và khai thác theo nội dung và định mức chi quy định tại Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về khuyến nông và các văn bản hướng dẫn. (Chính phủ, 2017; điều 6); Hỗ trợ nuôi trồng dược liệu tập trung để xây dựng cơ sở hạ tầng và mua giống dược liệu cho dự án trồng cây dược liệu tập trung theo quy mô như quy định của Nghị định 65/2017/NĐ-CP (Chính
phủ , 2017, Điều 7)
Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển cây trồng dược liệu cần phát huy tính chủ động trong việc xây dựng các phướng án tạo nguồn vốn, khắc phục tình trạng chỉ trông chờ vào Ngân sách trung ương như hiện nay.
Trước hết, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dám mạnh dạn đầu tư lớn trong phát triển dược liệu, Nhà nước cần có nguồn vốn lãi suất thấp (<3%) giúp cho các doanh nghiệp, người nông dân có điều kiện tiếp cận được nguồn vốn này để nuôi trồng
dược liệu. Nghiên cứu để có chính sách cho vay vốn để phát triển dược liệu, không cần phải thế chấp tài sản như nhà ở; Cần có sự kết hợp giữa ngân hàng chính sách với các ngân hàng thương mại có cơ chế cho vay đặc thù với các hộ gia đình/ doanh nghiệp trồng dược liệu, bởi vì, việc trồng dược liệu đòi hỏi thời gian thu hồi vốn tương đối
dài, trong khi vốn đầu tư bỏ ra là tương đối lớn, có những cây dược liệu thời gian để có thể bắt đầu thu hoạch cho người trồng dược liệu khoảng 3 đến 5 năm hoặc dài hơn, nếu thời gian thu hồi vốn ngắn, lãi suất vốn vay cao thì sẽ gây ra những khó khăn cho
người dân cũng như các doanh nghiệp khi trồng dược liệu.
Thu hút luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một trong những biện pháp giúp tạo dòng vốn ổn định hơn, giảm thiểu thiếu hụt về vốn, góp phần phát triển nguồn dược liệu ở nước ta, những doanh nghiệp sản xuất thuốc có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một trong những đối tượng có thể tiếp cận để phát triển cây trồng dược liệu ở nước ta dựa trên lợi thế sẵn có. Đây là một trong những giải pháp hữu hiệu và ngắn nhất để ngành công nghiệp dược Việt Nam có thể tiếp cận và có những doanh
147
nghiệp sản xuất thuốc với kỹ thuật hiện đạo, tiền đề sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt và có giá trị trên thị trường, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
Tuy nhiên, đến nay rất ít doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trực tiếp sản xuất nguyên liệu bán thành phẩm tại Việt Nam, gần như tất cả các doanh
nghiệp này chỉ tập trung vào công đoạn sản xuất thuốc thành phẩm theo thương hiệu sở hữu toàn cầu của họ từ nguyên liệu nhập khẩu ( gia công sản xuất thuốc). Như vậy, các công ty liên doanh, các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ tận dừng lại
ở mức độ tận dụng hiệu quả những ưu đã đầu tư, thuế của nhà nước vào thị trường tiêu thụ thuốc của Việt Nam do các sản phẩm với uy tín của họ khi sản xuất tại Việt Nam. Bên cạnh những ưu thế về khả năng cạnh tranh thương hiệu trên thị trường tự do, họ còn được hưởng đầy đủ chính sách ưu đãi tiêu thị từ hệ thống thị trường là các cơ sở y
tế công lập, bảo hiểm y tế Việt Nam theo quy định của Bộ y tế.
Vì vậy, cần có giải pháp về chính sách của nhà nước khi cấp phép cho các liên doanh, bên cạnh việc cần thiết phải tiếp tục đổi mới đơn giản hóa các thủ tục hành chính
4.2.2.2. Phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức quản lý thực hiện chính sách phát triển cây trồng dược liệu
và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, về xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
Xuất phát từ thực tế hiện nay trong công tác quy hoạch, kế hoạch phá triển cây
trồng dược liệu cần có cái nhìn tổng thể để bảo tồn, phát triển bền vững các vùng dược liệu trọng điểm; chú ý đến tính khả thi của kế hoạch và khắc phục tình tạng quy hoạch treo ở một số địa phương. Muốn vậy công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần hoàn
thiện theo những định hướng chủ yếu sau đây.
i)Hoàn thiện quy hoạch theo hướng đảm bảo sự phát triển bền vững đối với cây
trồng dược liệu. Muốn vậy cần chú ý giải quyết những vấn đề sau:
- Khắc phục tình trạng manh mún, phân tán, trăm hoa đua nở hiện nay thông qua việc quy hoạch vùng trồng có diện tích đáng kể, có thể đến hàng trăm, hàng ngàn ha để phát triển các cây trồng dược liệu đặc hữu của từng địa phương, có giá trị kinh tế cao và xây dựng thành thương hiệu có khả năng cạnh tranh quốc gia và quốc tế. Cần giao cho
một cơ quan đầu mối chỉ đạo của nhà nước (như Cục QLYDCT, BYT) để quy hoạch triển khai trồng dược liệu trong cả nước trên cơ sở nắm được nhu cầu từng dược liệu để tránh tình trạng khủng hoảng thừa dẫn đến mất giá hoặc khủng hoảng thiếu dẫn đến phải nhập của Trung Quốc.
148
Trên địa bàn cả nước, nên chọn ra khoảng 10 loại dược liệu có số lượng lớn, có nhu cầu sử dụng thường xuyên và cần có diện tích trồng trọt lớn, tập trung ở một số địa bàn nhất định không tràn lan trên cơ sở thích nghi khí hậu đất đai thổ nhưỡng, có khả năng phát triển trong nước để ưu tiên trồng và cần có hỗ trợ của Nhà nước. Trên
cơ sở xây dựng các vùng trồng dược liệu tập trung phù hợp với từng vùng sinh thái, có quy mô đáp ứng nhu cầu thị trường; phấn đấu đến năm 2020 cùng với các vùng khác trong cả nước xây dựng quy trình và trồng 60 loài dược liệu và đến năm 2030 là 120 loài
dược liệu tuân thủ nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP-WHO).
- Gắn liền với quy hoạch trồng cây dược liệu là quy hoạch thị trường tiêu thụ như các cơ sở chế biến dược liệu, các doanh nghiệp, công ty và hộ gia đình sản xuất chế biến thuốc từ cây dược liệu.
Cần chú ý nâng cấp, cải tạo đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, đổi mới trang thiết bị các cơ sở sơ chế, chế biến, chiết xuất, bảo quản dược liệu. Đầu tư
xây dựng mới một số cơ sở theo hướng hiện đại, đồng bộ để đảm bảo mỗi vùng có ít nhất 01 nhà máy sơ chế, chế biến, chiết xuất cao dược liệu đạt tiêu chuẩn.
Phát triển hệ thống các nhà máy chế biến, chiết xuất dược liệu tập trung vào 5 nhóm sản phẩm chủ lực sau: i)Sản xuất nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp
dược, mỹ phẩm, hương liệu, thực phẩm chức năng và nguyên liệu xuất khẩu;ii) Sản xuất sản phẩm từ chiết xuất: Cao tiêu chuẩn, bột nguyên liệu; chiết xuất các loại tinh dầu, hoạt chất tinh khiết. Sử dụng các công nghệ mới như: Chiết xuất bằng khí hóa
lỏng, chiết xuất bằng siêu âm; iii) Chế biến thuốc phiến phục vụ công tác khám chữa bệnh bằng Y học cổ truyền; iv) Sản xuất thuốc thành phẩm từ dược liệu phục vụ cho nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh; v) Nghiên cứu phát triển một số thuốc từ dược liệu có tác dụng phòng, chống ung thư, thuốc điều trị tim mạch, tiểu đường, ...
Tổ chức, sắp xếp lại hệ thống lưu thông, cung ứng dược liệu từ trung ương đến địa phương áp dụng theo nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt về bảo quản, phân phối và nhà thuốc (GSP, GDP, GPP) đối với dược liệu. Đến năm 2020, xây dựng 01 trung
tâm kinh doanh, cung ứng dược liệu để kiểm soát được nguồn gốc, chất lượng dược liệu tại miền Bắc.
-Quy hoạch phát triển cây trồng dược liệu gắn liền với quy hoạch các vùng phát triển và khai thác dược liệu tự nhiên. Trên cơ sở quy hoạch chung theo quyết định 1976/QĐ-Ttg về quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, đối với các tỉnh phía Bắc việc quy hoạch trồng tập trung các loài dược
149
liệu có thế mạnh, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và sinh thái để đáp ứng nhu cầu thị trường, cụ thể như sau:
+ Với các địa phương như Sa Pa (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu) và Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang) là các tỉnh vùng núi cao có khí hậu á nhiệt đới cần tập trung phát triển trồng 13 loài dược liệu bao gồm 04 loài bản địa: Bình vôi, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn và 09 loài nhập nội: Actisô, Đỗ trọng, Độc hoạt, Đương quy, Hoàng bá, Mộc hương, Ô đầu, Tam thất, Xuyên khung với diện tích trồng khoảng 2.550 ha. Ưu tiên phát
triển các loài: Actisô, Đương quy, Đảng sâm. Kết hợp trồng với nghiên cứu sản xuất giống các loài cây thuốc nhập nội từ phương Bắc phục vụ công tác phát triển dược liệu.
+ Với các địa phương như Bắc Hà (Lào Cai), Mộc Châu (Sơn La) là vùng núi trung bình có khí hậu á nhiệt đới: Phát triển trồng 12 loài dược liệu bao gồm 05 loài
bản địa: Bình vôi, Đảng sâm, Hà thủ ô đỏ, Tục đoạn, Ý dĩ và 07 loài nhập nội: Actisô, Bạch truật, Bạch chỉ, Dương cam cúc, Đỗ trọng, Đương quy, Huyền sâm với diện tích trồng khoảng 3.150 ha. Ưu tiên phát triển các loài: Bạch Truật, Đỗ trọng và Actisô.
+Vùng trung du miền núi Bắc Bộ: Bắc Giang, Yên Bái, Quảng Ninh, Lạng Sơn: Phát triển trồng 16 loài dược liệu bao gồm 13 loài bản địa: Ba kích, Đinh lăng, Địa liền, Gấc, Giảo cổ lam, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Hồi, Quế, Sả, Sa nhân tím, Thanh hao hoa vàng, Ý dĩ và 03 loài nhập nội: Bạch chỉ, Bạch truật, Địa hoàng với diện tích trồng
khoảng 4.600 ha. Ưu tiên phát triển các loài: Ba kích, Gấc, Địa hoàng; duy trì và khai thác bền vững Quế và Hồi trên diện tích đã có.
+ Vùng đồng bằng sông Hồng: Hà Nội, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam Định và Thái Bình. Phát triển trồng 20 loài dược liệu bao gồm 12 loài bản địa: Cúc hoa, Diệp hạ châu đắng, Địa liền, Đinh lăng, Gấc, Hòe, Củ mài, Hương nhu trắng, Râu mèo, ích mẫu, Thanh hao hoa vàng, Mã đề và 08 loài nhập nội: Bạc hà, Bạch chỉ, Bạch truật, Cát cánh, Địa hoàng, Đương quy, Ngưu tất, Trạch tả với diện tích trồng khoảng 6.400 ha.
Ưu tiên phát triển các loài: Ngưu tất, Bạc hà, Hòe và Thanh hao hoa vàng.
- Quy hoạch cây trồng dược liệu gắn liền với quy hoạch các cơ sở nghiên cứu phát
triển nguồn giống dược liệu;
+ Phát triển nguồn giống dược liệu: Triển khai nghiên cứu các biện pháp phục tráng, thuần hóa và nhập nội giống dược liệu. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để chọn, tạo ra các loại giống dược liệu có năng suất, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sản xuất dược liệu.
+ Các loại giống dược liệu được nhập nội: Tập trung sản xuất 16 giống dược liệu nhập nội để tạo nguồn nguyên liệu trong nước bao gồm: Actisô, Bạch chỉ, Bạch
150
truật, Bạc hà, Cát cánh, Địa hoàng, Độc hoạt, Đương quy, Hoàng bá, Mộc hương, Ngưu tất, Tam thất, Trạch tả, Xuyên khung, Đỗ trọng, Ô đầu. Xây dựng Trung tâm nghiên cứu nguồn gen và giống cây thuốc quốc gia đặt tại Viện Dược liệu - Bộ Y tế để phục vụ nghiên cứu, chọn, tạo và cung cấp các loại giống dược liệu chất lượng cao đáp
ứng nhu cầu thị trường.
+ Triển khai sản xuất các loại giống dược liệu phục vụ cho sản xuất: Các loại giống dược liệu bản địa: Chú trọng phát triển 28 giống cây bản địa bao gồm: Ba kích,
Lạc tiên, Bụp giấm, Chè dây, Cúc hoa, Đảng sâm, Đậu ván trắng, Địa liền, Diệp hạ châu đắng, Đinh lăng, Dừa cạn, Gấc, Gừng, Hoa hòe, Củ mài, Hương nhu trắng, Ích mẫu, Kim tiền thảo, Mã đề, Nghệ vàng, Quế, Râu mèo, Sa nhân tím, Sâm ngọc linh, Thanh hao hoa vàng, Trinh nữ hoàng cung, Tục đoạn, Ý dĩ.
+ Xây dựng hệ thống vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc: Quy hoạch hệ thống các vườn bảo tồn cây thuốc nhằm bảo tồn vững chắc nguồn gen dược liệu. Triển khai các hoạt động bảo hộ, bảo tồn và đánh giá giá trị nguồn gen, tập trung vào các
nguồn gen đặc hữu, bản địa, có giá trị và có nguy cơ bị tuyệt chủng. Xây dựng 03 vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc quốc gia đại diện cho các vùng sinh thái phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và phát triển dược liệu.
+ Tăng cường đầu tư trong nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ phát triển cây trồng dược liệu. Ở những địa phương có vùng dược liệu lớn, cần thành lập và đầu tư cho các Trung tâm nghiên cứu hoặc phối hợp với các viện Dược liệu, các đơn vị làm giống cây trồng đầu tư vào việc tạo ra các giống dược liệu có năng xuất
cao, chất lượng tốt để cung cấp cho thị trường. Tạo tính cạnh tranh với dược liệu nhập khẩu. Các Trường Đại học về Dược, các viện nghiên cứu cần đầu tư nghiên cứu các dạng bào chế hiện đại để khai thác tối đa các tác dụng của các cây dược liệu, nghiên cứu mở rộng sang các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi, mỹ phẩm...
ii)Để khắc phục tình trạng quy hoạch treo hiên nay, các địa phương cần tiến hành điều tra, khảo sát nắm chắc không chỉ về khả năng sản xuất của các doanh nghiệp, các hộ trồng cây dược liệu, mà còn nắm được tình hình thị trường, nhu cầu về nguồn dược liệu,
khả năng của các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất chế biến dược liệu cũng như nhu cầu thị trường thế giới về cây trồng dược liệu. Trên cơ sở đó mà đưa ra các chỉ tiêu kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu phù hợp.
Thứ hai, về tổ chức triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát
triển cây trồng dược liệu
151
Để các chủ thể có thể nắm được diện quy hoạch và có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với quy hoạch chung của địa phương, công tác tổ chức triển khai quy hoạch, kế hoạch cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề sau:
i) Chính quyền địa phương cần chủ động xúc tiến thu hút các doanh nghiệp cá
nhân đầu tư vào phát triển cây trồng dược liệu, đặc biệt là thu mua, chế biến sâu, tạo thành phẩm dược liệu để đảm bảo thị trường cho cây trồng dược liệu
ii) Có kế hoạch tổ chức các buổi tập huấn, truyền đạt thông tin quy hoạch vùng
dược liệu, kế hoạch phát triển cây dược liệu tới các đơn vị, cá nhân trực tiếp tham gia vào quá trình trồng dược liệu.
iii) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân có thể nắm được quy hoạch, kế hoạch về phát triển cây trồng dược liệu, bởi vì chính người dân là chủ thể tham gia
4.2.2.3. Phương hướng tăng cường kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu
trực tiếp vào quá trình trồng dược liệu, nếu họ không tham gia, quy hoạch, kế hoạch không thể thành công.
Quy hoạch và xây dựng kế hoạch cho những công việc và định hướng trong tương lai, vì vậy khi triển khai thực hiện sẽ có phát sinh các vấn đề, vì vậy, các cán bộ quản lý nhà nước cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát thường xuyên để có thể điều
chỉnh, bổ sung những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.
Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy rằng, việc kiểm tra giám sát của cán bộ quản lý nhà nước càng tốt, khả năng phát triển cây trồng dược liệu càng tốt, những vấn
đề phát sinh được giải quyết kịp thời giúp các đơn vị, cá nhân trồng dược liệu có phản ứng tích cực hơn với quá trình trồng dược liệu.
Xuất phát từ yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và khắc phục những hạn chế hiện nay, trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát, điều chính bổ sung xử lý
những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển cây trồng dược liệu cần chú ý tới những vấn đề sau:
Thứ nhất, thường xuyên kiếm tra, giám sát quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu của địa phương xử lý kịp thời và kiên quyết tình trạng quy hoạch treo của một số dự án ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả thực hiện của chính quyền địa phương với phát triển cây trồng dược liệu
152
Thứ hai, cần có những giải pháp cụ thể khi quy hoạch và kế hoạch phát sinh vấn đề để có cơ chế điều chỉnh phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Tránh tình trạng đăng ký đất để trồng dược liệu sau đó chuyển mục đích sử dụng, gây ảnh hưởng xấu tới quy hoạch chung của cả địa phương
Thứ ba, những thắc mắc, kiến nghị của doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất dược
liệu cần được xem xét, giải quyết cũng như điều chỉnh bổ sung một cách kịp thời.
Thứ tư, những vi phạm về quy hoạch, kế hoạch phát triển cây trồng dược liệu cần được xử lý kiên quyết để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu.
4.3. Giải pháp hoàn thiện vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ở Việt Nam
4.3.1. Đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả trong các chủ trương, chính sách, quan điểm phát triển bền vững cây trồng dược liệu
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc hoàn thiện vai trò nhà
nước trong phát triển cây trồng dược liệu là trong việc đưa ra các quan điểm, chủ trương, chính sách về phát triển bền vững cây trồng dược liệu cần đảm bảo có sự đồng bộ, nhất quán, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả. Muốn vậy, cần chú ý đến những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, từng bước tiến tới hệ thống văn bản quản lý về dược liệu đồng bộ và thống nhất. Việc thống nhất về các văn bản chỉ đạo giữa các cấp, các địa phương, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các cơ sở
trồng và chế biến dược liệu có thể dễ dàng đảm bảo các yêu cầu của pháp luật, các quy định của ngành. Tránh tình trạng, các cấp khác nhau có những quy định chỉ đạo khác nhau, gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất, ví dụ như: Các địa phương cần chuẩn hóa các quy định về cây trồng dược liệu, những chính sách ưu đãi cho từng
đối tượng người sản xuất: doanh nghiệp hoặc hộ sản xuất, những phương thức hỗ trợ của địa phương với các đơn vị, tránh gây khó khăn cho các đơn vị trong quá trình sản xuất kinh doanh…
Thứ hai, các chính sách trồng cây dược liệu cần hướng vào khuyến khích xây dựng và phát triển các vùng trồng dược liệu tập trung, với quy mô dủ lớn theo nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP-WHO) đối với các loài dược liệu trong quy hoạch, gắn liền với chính sách hỗ
trợ tiêu thụ sản phẩm để bảo vệ quyền lợi của người trồng dược liệu.
153
Khuyến khích nông dân đưa các giống cây dược liệu vào sản xuất đại trà kết hợp với thâm canh, mở rộng diện tích gieo trồng phát triển thành các vùng nguyên liệu quy mô lớn. Tổ chức hướng dẫn cho người dân về chương trình bảo vệ rừng, lồng ghép phát triển vùng nguyên liệu với với các chương trình trồng rừng đầu nguồn, rừng
phòng hộ và phủ xanh đất trống đồi núi trọc , kết hợp giữa nuôi trồng và khai thác một các khoa học, khắc phục hiện tượng khai thác cạn kiệt ; chú trọng đến việc phát triển các nguồn gen quý hiếm
Thứ ba, xây dựng chính sách ưu tiên trong sản xuất, chế biến, đăng ký, lưu hành sản phẩm đối với dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu đáp ứng với thực tiễn và phù hợp quy định hiện hành, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh, thúc đẩy thị trường tiêu dùng thuốc đông y, thuốc từ dược
liệu của Việt Nam. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khcish doanh nghiệp đầu tư đổi mới, hiện đại hoá công nghệ chế biến dược liệu thành sản phẩm cuối cùng. Ưu tiên sử dụng thuốc đông y, thuốc từ dược liệu sản xuất trong nước tại các cơ sở y tế công
lập, trong đấu thầu mua thuốc từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn kinh phí bảo hiểm y tế và các chương trình y tế quốc gia. Rà soát danh mục các loài cây thuốc, tảo, nấm, sinh vật biển, vi sinh động vật và khoáng vật làm thuốc; ban hành danh mục dược liệu cấm khai thác, hạn chế khai thác vì mục đích thương mại để bảo vệ bền vững nguồn
tài nguyên dược liệu trong nước.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần có những chính sách hỗ trợ thiết thực hơn với các doanh nghiệp, như chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ sản xuất về
khoa học kỹ thuật, hỗ trợ các khóa tập huấn về kỹ thuật sản xuất mới từ đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp các doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với các thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước
Thêm vào đó, việc hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ sản xuất cây trồng dược liệu về
vốn sản xuất kinh doanh, bởi vì sản xuất và kinh doanh dược liệu đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư là tương đối lớn, việc hỗ trợ thủ tục vay, những ưu đãi vay từ các địa phương, chính quyền các cấp là một trong những biện pháp giúp kích thích sản xuất và kinh
doanh dược liệu tại các địa phương. Một số doanh nghiệp/ hộ gia đình lựa chọn trong giai đoạn đầu trồng gối các cây ngắn ngày và cây lâu năm để có thể duy trì vốn lưu động cho hoạt động sản xuất của gia đình/ doanh nghiệp… Việc hỗ trợ tốt vốn sản xuất cho các đơn vị này có ý nghĩa lớn cho các đơn vị
Thứ tư, xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách có tác dụng khuyến khích các tổ chức khoa học công nghệ, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, tiếp nhận, làm chủ và ứng dụng công nghệ để sản xuất nguyên liệu
154
dược liệu làm thuốc; thực hiện có hiệu quả trong nghiên cứu ứng dụng cơ giới hoá các khâu làm đất, bón phân, thu hoạch...;hiện đại hoá khâu thu hái, sơ chế để đảm bảo phẩm cấp nguyên liệu, đầu tư thiết bị kiểm tra chất lượng nguyên liệu theo tiêu chuẩn quốc tế.
Việc hỗ trợ trực tiếp cho các nhà khoa học thông qua các quỹ phát triển khoa học
công nghệ từ các trường đại học, các viện nghiên cứu… để có thể trợ giúp cho các nhà khoa học, khuyến khích các nhà khoa học nghiên cứu ra những sản phẩm mới, có tính ứng dụng cao cho việc sản xuất của các đơn vị. Đơn cử như việc đề xuất các chương
trình mục tiêu, các đơn đặt hàng của địa phương cho các đơn vị thuộc nhóm nghiên cứu, để từ đó có những giải pháp, kiến nghị góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn cho các hộ sản xuất, các doanh nghiệp khi sản xuất và chế biến sản phẩm dược liệu
Xây dựng các chương trình, dự án, mở rộng hơn nữa các lớp tập huấn, chuyển
giao khoa học kỹ thuật tới nơi cho các hộ sản xuất trực tiếp dược liệu, từ đó giúp các cơ sở sản xuất có thể tiếp cận với những yêu cầu mới nhất về sản phẩm của thị trường, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thứ năm, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích cho hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, xây dựng và quảng bá thương hiệu các sản phẩm dược liệu của Việt Nam để phát triển thị trường sản phẩm.
Tổ chức các hội nghị, hội chợ thương mại xúc tiến thương mại để quảng bá về
sản phẩm dược liệu của nước ta, các hội nghị thương mại sẽ giúp đối tác, khách hàng biết đến sản phẩm của nước ta, từ đó các đơn vị sản xuất có thể tiếp cận với những khách hàng tiềm năng mới
Cần xây dựng kế hoạch chi tiết về tiếp thị, giới thiệu các sản phẩm… Ví dụ như: việc thiết kế và xây dựng bao bì sản phẩm, chiến lược quảng cáo sản phẩm tới khách hàng cũng cần được thực hiện một cách chuyên nghiệp, từ đó tạo ấn tượng và thu hút khách hàng
4.3.2. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý, năng lực điều hành của nhà nước các cấp trong phát triển cây trồng dược liệu
Xuất phát từ những hạn chế hiện nay, việc nâng cao năng lực bộ máy quản lý
phát triển cây trồng dược liệu cần tập trung vào những vấn đề sau
Thứ nhất, tập trung xây dựng các quy định tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng cây trồng dược liệu như: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn phân cấp nguyên liệu phù hợp tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thực hiện kiểm tra chất lượng từ
nguyên liệu đến thành phẩm; xây dựng và cụ thể hóa các quy định về điều kiện bán
155
buôn, bán lẻ thuốc, xuất nhập khẩu (GPP, GDP, GSP) để áp dụng cho các cơ sở bán buôn, bán lẻ dược liệu.
Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn không chỉ đáp ứng nhu cầu và điều kiện thực tế của nước ta, mà cần phải đáp ứng yêu cầu của thị trường và đối tượng khách hàng tiêu
dùng, bởi khách hàng là người sử dụng cuối cùng, họ có hay không có tiếp nhận sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp tới sự thành công của các sản phẩm.
Việc tiêu thụ sản phẩm tốt, có thể khuyến khích cơ sở sản xuất, doanh nghiệp, hộ
gia đình trồng và phát triển cây trồng dược liệu
Việc xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy định về sản phẩm dược liệu… tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp/ hộ gia đình, cơ sở trồng dược liệu có điều kiện tiếp cận với thị trường tiêu thụ sản phẩm mới trong và ngoài nước, bởi vì: khi có tiêu chuẩn, quy
định rõ ràng,… các cơ sở sản xuất áp dụng để sản xuất và chế biến dược liệu, khi sản phẩm được chế biến theo đúng quy định, quy chuẩn, đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu thụ sản phẩm, của người tiêu dùng… Từ đó, sản phẩm của cơ sở nuôi trồng dược liệu có
điều kiện để tiếp xúc với các thị trường tiêu thụ đa dạng hơn khi đáp ứng được các tiêu chuẩn chung.
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra giám sát thực hiện có hiệu quả việc ngăn ngừa việc nhập lậu dược liệu không đạt tiêu chuẩn vào nước ta; tiến tới loại bỏ tình
trạng dược liệu chất lượng kém từ biên giới, nhập khẩu không kiểm soát.
Việc tăng cường công tác kiểm tra giám sát có hiệu quả sẽ giúp hỗ trợ kiểm tra và đảm bảo chất lượng nguồn dược liệu cho thị trường Việt Nam, đồng thời việc giám
sát chặt chẽ sẽ có thể làm giảm những nguồn hàng không có chất lượng. Thêm vào đó, khi kiểm soát được tốt các nguồn hàng nhập khẩu, cũng sẽ có tác động tích cực tới các cơ sở trồng dược liệu trong nước, giúp mở rộng và tiếp cận thị trường tiêu thụ trong nước, từ đó, có thể khuyến khích các đơn vị trồng dược liệu
Thứ ba, tổ chức các khóa tập huấn ngắn hạn và dài hạn tại các tổ chức y tế, các công ty về năng lực quản lý, điều hành của cán bộ quản lý nhà nước, giúp cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, những người trực tiếp thực hiện các hoạt động giám sát, quản
lý, xây dựng và thực hiện định hướng kế hoạch,…có đủ năng lực và trình độ chuyên môn liên quan đến lĩnh vực quản lý, góp phần hỗ trợ, hướng dẫn người dân và doanh nghiệp triển khai thực hiện chính sách phát triển cây trồng dược liệu có hiệu quả.
Việc hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp, các cơ sở trồng dược liệu sẽ góp phần
giảm chi phí sản xuất, chi phí phát sinh liên quan đến các thủ tục hành chính cho các đơn vị, bên cạnh đó, việc hỗ trợ tích cực của các cơ quan có liên quan sẽ tạo điều kiện
156
giúp các đơn vị có thể khuyến khích trồng cây dược liệu ở các địa phương, giúp mở rộng và nâng cao chất lượng sản phẩm
Thứ tư, tổ chức tập huấn cho cán bộ chuyên trách trong việc xử lý các tình
huống phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước về phát triển cây trồng dược liệu.
Cán bộ chuyên trách là chủ thể trực tiếp và gần nhất với các đơn vị trồng dược liệu, các cán bộ tích cực có chuyên môn tốt sẽ góp phần hỗ trợ tích cực cho các cơ sở trồng dược liệu không chỉ trong quá trình sản xuất mà còn với quá trình tiêu thụ sản
phẩm dược liệu của các cơ sở, doanh nghiệp hoặc hộ gia đình
4.3.3. Tăng cường sự phối hợp trong quản lý nhà nước để phát triển trồng cây dược liệu
Quy định trõ trách nhiệm của các bộ ngành và xây dựng cơ quan chuyên trách chỉ đạo phối hợp các ngành, lĩnh vực: Y tế, Nông lâm nghiệp, Sinh học, Hoá dược và
các tỉnh/thành phố trong quá trình quản lý nhà nước về phát triển trồng cây dược liệu. Phân công trách nhiệm của các bộ ngành trong trồng cây dược liệu cụ thể nên như sau:
Bộ Y tế. Để khắc phục tình trạng cồng chéo trong quản lý nhà nước hiện nay, cần tăng cường thực hiện chủ trương chủ trì và phối hợp giữa các bộ ngành trong phát triển cây trồng dược liệu. Xuất phát từ đặc điểm cây trồng dược liệu là một loài thuốc, Bộ y tế sẽ hiểu biết được tính năng công dụng của từng loại cây trồng, nắm bắt được nhu cầu về quy mô, cơ cấu của từng loại dược liệu, vì thế nhà nước nên giao cho Bộ Y
tế chủ trì việc quy hoạch phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ cây trồng dược liệu trong cả nước nói chung, từng địa phương nói riêng, trên cơ sở phối hợp với các bộ ngành khác. Để thực hiện biện pháp này, Nhà nước sớm để chỉ đạo Bộ y tế và các Bộ ngành có liên quan xây dựng quy chế phối hợp liên ngành nhằm thực hiện phát triển cây trồng dược liệu, đảm bảo sự thống nhất về sản xuất, chế biến và tiêu thụ cây trồng dược liệu trong cả nước.Đồng thời. Bộ y tế cần tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả những vấn đề sau đây:
- Sớm ban hành các chính sách ưu tiên trong đấu thầu, sản xuất, đăng ký lưu hành, kinh doanh, sử dụng đối với dược liệu nuôi trồng, thu hái trong nước, thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu được sản xuất từ nguồn dược liệu trong nước, cụ thể là khuyến
khích mua dược liệu được nuôi trồng, thu hái trong đạt GACP hoặc dược liệu nhập khẩu có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng;
- Có cơ chế thuận lợi nhằm khuyến khích ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học về dược liệu vào thực tiễn, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà khoa học, doanh
nghiệp và người trồng dược liệu.
157
- Ưu tiên xem xét nhanh đối với việc đăng ký thuốc từ dược liệu Việt Nam được sản xuất từ nguồn nguyên liệu trong nước áp dụng tiêu chuẩn GACP và dược liệu trong nước cóa thế mạnh để sản xuất hàng hóa quy mô lớn phục vụ trong nước và xuất khẩu; các thuốc từ dược liệu chuyên khoa để điều trị các bệnh, dịch bệnh mang
tính thời sự hiện nay như ung thư, kháng virus, tim mạch, tiểu đường…
- Xây dựng thương hiệu một số loại dược liệu nuôi trồng trong nước với tiêu chuẩn hóa cao, uy tín và cấp giấy phép lưu hành nhanh mà không cần thông qua xét
duyệt, thẩm định hồ sơ.
- Bảo hộ số đăng ký lưu hành cho thuốc có xuất xứ từ bài thuốc, công thức thuốc mà cơ sở thực hiện việc nghiên cứu hoặc cung cấp tài liệu chứng minh khoa học để thúc đẩy, tạo động lực cho việc nghiên cứu, phát triển. Các cơ sở khác đăng ký
thuốc tương tự cũng cần phải có dữ liệu nghiên cứu chứng minh mới được cấp số đăng ký lưu hành.
- Tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa chất lượng dược liệu, thuốc dược liệu,
thuốc cổ truyền: ban hành tiêu chuẩn chất lượng đối với các dược liệu; thu thập và xây dựng được bộ mẫu dược liệu làm chuẩn đối chiếu gồm các loại dược liệu có giá trị sử dụng phổ biến và dễ bị nhầm lẫn ở Việt Nam hiện nay.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế về đấu thầu dược liệu, thuốc dược liệu, thuốc
cổ truyền:i) Đối với đấu thầu vị thuốc cổ truyền: Khẩn trương rà soát lại quy định mẫu hồ sơ mời thầu dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền; cơ chế chỉ định thầu trong đấu thầu mua dược liệu, vị thuốc cổ truyền bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, quỹ bảo
hiểm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và các nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập, trong đó giá dược liệu được thanmh toán bảo hiểm y tế căn cứ vào giá dược liệu trên thị trường; ii) Đối với đấu thầu thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền ( trừ vị thuốc cổ truyền ): Bổ sung thêm nhóm thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu
được sản xuất từ nguồn dược liệu nuôi trồng, thu hái trong nước và sản xuất trên chuyền đạt tiêu chuẩn WHO – GMP do Bộ Y tế Việt Nam cấp giấy chứng nhận; bổ sung các tiêu chí trong chấm thầu để thực sự khuyến khích đối với các thuốc dược
liệu, thuốc cổ truyền ứng dụng nghiên cứu, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao trong sản xuất, chế biến.
- Tăng cường triển khai Đề án Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam; Có cơ chế thanh toán bảo hiểm y tế đối với các dược liệu nuôi trồng trong nước đạt nguyên
tắc, tiêu chuẩn “ Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái cây thuốc” theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới ( GACP – WHO ) thông qua hình thức đàm phán giá.
158
- Có chính sách nhắm đưa dược liệu đặc thù trồng tại địa phương vào danh mục sử dụng trong các cơ sở khám chữa bệnh để điều trị cho bệnh nhân, tránh hao phí nguồn tài nguyên sẵn có trong địa bàn tỉnh.
Bộ Tài Chính: Là đầu mối, phối hợp Bộ Y tế xây dựng quy định thanh toán bảo hiểm y tế đối với các dược liệu nuôi trồng tại địa phương thông qua hình thức đấu thầu; xây dựng quy định thanh toán bảo hiểm y tế đối với một số dược liệu nuôi trồng trong nước đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn “ Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái cây thuốc”
theo khuyến cáo của Tổ Chức Y tế thế giới ( GACP – WHO ) thông qua hình thức đàm phán giá; Có phương án kiểm tra, giám sát trong quá trình thông quan các mặt hàng nông sản ( hoa quả khô ) để tránh việc gian lận các mặt hàng dược liệu thông qua hình thức nhập khẩu các mặt hàng hoa quả khô.
Bộ Khoa học và Công nghệ: Tổ chức hướng dẫn quản lý chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020 nhằm đảm bảo tính khả thi trong việc lựa chọn các sản phẩm quốc gia từ dược liệu.
Có chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn khoa học công nghệ đối với các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp quy trình, thay đổi công nghệ chế biến, sản xuất hướng tới sản phẩm dược liệu có công nghệ cao;khuyến khích ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học về dược liệu vào thực tiễn, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và người trồng
dược liệu; chính sách ưu đãi về thời gian và thủ tục xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến dược liệu, thuốc cổ truyền, vị thuốc cổ truyền.
Xây dựng bổ sung một số dược liệu, thuốc y học cổ truyền vào danh mục sản phẩm quốc gia để đầu tư nghiên cứu theo chuỗi giá trị từ khâu tạo giống, trồng trọt, thu hái, chế biến, sản xuất.
Hỗ trợ bằng nguồn vốn khoa học công nghệ đối với các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp quy trình, thay đổi công nghệ chế biến, sản xuất hướng tới sản phẩm dược
liệu có công nghệ cao; nghiên cứu an toàn, hiệu quả trong quá trình đầu tư nghiên cứu ứng dụng các bài thuốc cổ truyền để xuất khẩu. Hỗ trợ các Trường Đại học, Học viện phối kết hợp với các cơ sở kinh doanh nghiên cứu các thuốc cổ truyền có tác dụng
phòng các bệnh Tim mạch ( như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim ), ung thư, đái tháo đường, viêm phế quản mạn tính tắc nghẽn, bệnh khớp. Ưu tiên các đề tài dự án, nghiên cứu khai thác, trồng trọt dược liệu trong nước.
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Xây dựng chính sách ưu đãi việc công nhận giống cây dược liệu so với các loại cây nông nghiệp khác; Ban hành định mức kinh tế, kỹ thuật nhân giống; xây dựng mô hình áp dụng công nghệ nuôi trồng và khai thác dược liệu tuân thủ Thực hành nuôi trồng, khai thác dược liệu tốt.
159
Bộ Tài nguyên và Môi trường: Xây dựng chính sách, cơ chế quản lý khai thác
dược liệu tự nhiên nhằm ngăn chặn nạn khai thác bừa bãi tài nguyên cây thuốc.
Bộ Kế hoạch đầu tư: Phối hợp các đơn vị có liên quan xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đã và đang triển khai dự án nuôi trồng dược liệu và sản xuất giống cây
dược liệu tại địa phương, trong đó tập trung các nội dung: hỗ trợ vay vốn; thuế; đát đai; Xây dựng chính sách hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp đầu tư công nghệ sing học trong việc sản xuất giống dược liệu chất lượng cao, hướng tới xuất khẩu giống cây dược liệu.
Bộ Công thương: Đưa dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu vào ccas chương trình xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy xuất khẩu; Đưa các doanh nghiệp tiên phong trong nuôi trồng, sản xuất dược liệu vào Chương trình Khởi nghiệp Quốc gia để kêu gọi đầu tư, từng bước xây dựng ngành dược liệu Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Bộ Thông tin truyền thông:Phối hợp với Bộ Y tế xây dựng Đề án truyền thông nhằm tăng cường việc sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ dược liệu;Phối hợp với Bộ Y tế xây dựng và thực hiện chương trình truyền thông về y dược cổ truyền
và dược liệu, thuốc dược liệu để tăng cường sử dụng dược liệu, thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Ban chỉ đạo 389 Quốc gia: Làm đầu mối phối hợp với UBND các tỉnh có cửa khẩu giáp ranh với Trung Quốc và Lào và các Bộ, Ngành có liên quan tăng cường phối
hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động ngăn chặn việc nhập lậu dược liệu kém chất lượng, xuất khẩu lậu dược liệu quý hiếm tại các cửa khẩu, đặc biệt trong các đợt cao điểm chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng.
Đối với UBND các Tỉnh, Thành phố
- Thực hiện nghiêm túc quy hoạch phát triển dược liệu trên địa bàn theo Quyết định 1976/QĐ – TTG ngày 30/10/2013 của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.Trong đó phải xác định rõ các thế mạnh về nuôi trồng, khai thác dược liệu của địa phương.
- Ưu tiên nguồn ngân sách địa phương đầu tư nâng cấp các bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh theo quyết định số 362/ QĐ – TTG ngày 11/03/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Đề án Đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống bệnh viện y học cổ truyền toàn quốc gia giai đoạn 2014 – 2025.
- Tăng cường kiểm tra nguồn gốc dược liệu, kiểm tra các cơ sở kinh doanh dược liệu, cơ sở khám chữa bệnh, kể cả phòng chẩn trị YHCT có sử dụng dược liệu vào bào
chế thuốc cao, đơn, hoàn, tán. Xử lý nghiêm theo quy định đối với các cơ sở vi phạm quy chế kinh doanh và chất lượng dược liệu cung cấp cho cơ sở khám, chữa bệnh.
160
3.3.4. Tăng cường phối hợp bốn nhà trong trồng cây dược liệu.
Với người dân Việt Nam, việc nuôi trồng, thu hoạch dược liệu đã có từ hàng ngàn năm nay để phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa vẫn còn manh
mún, mang tính tự phát. Nền kinh tế mở cửa hội nhập với thế giới là cơ hội vàng để chúng ta xây dựng một nền công nghiệp dược liệu không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong nước mà còn có thể xuất khẩu, thu ngoại tệ, mang lại lợi ích kinh tế. Thế nhưng
trong nhiều năm qua, chúng ta vẫn chưa có cơ chế chính sách đồng bộ và phù hợp để đẩy mạnh và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến và bảo quản dược liệu trong nước. Chính vì thế, những năm tới, đối với người dân, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế trồng cây dược liệu.
Cùng với đó, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất giống cây thuốc, xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống cây thuốc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn (giống cây trồng không đạt chuẩn, năng suất cây trồng còn thấp...).
Kỹ thuật trồng trọt, chăm sóc và chế biến sau thu hoạch; bảo tồn và phát triển nguồn gen cây thuốc chưa được đầu tư đúng mức. Việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong việc chế biến, bảo quản dược liệu và sản xuất thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu chưa được chú trọng đổi mới để có những sản phẩm thương mại. Chính vì thế năng suất
và tính cạnh tranh các sản phẩm dược liệu của nước ta trên địa bàn còn thấp.
Giải pháp quan trọng nhất để giải quyết tình trạng manh mún, và nâng cao năng suất, hiệu quả cây trồng dược liệu là xây dựng hệ thống cơ chế để có sự bắt tay giữa
“bốn nhà” là người nuôi trồng (nhà nông), doanh nghiệp (sản xuất thuốc hoặc kinh doanh), nhà khoa học (các trường và viện nghiên cứu về dược liệu và thuốc) và nhà nước (cơ quan quản lý dược liệu).
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực, hợp tác liên kết với các Viện, Trường, doanh nghiệp để đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong nhân giống, sản xuất, chế biến; xây dựng quy trình sản xuất một số cây dược liệu chính phù hợp với điều kiện đặc thù và đáp ứng tiêu chuẩn về dược liệu của
các thị trường về sản xuất hữu cơ, thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc theo khuyến cáo của WHO: GACP-WHO...; quy trình thu hái/khai thác hợp lý nguồn cây thuốc tự nhiên để duy trì sự tái sinh tự nhiên).
Nhà nước là người phối hợp được nhà nông, doanh nghiệp và nhà khoa học trong trồng cây dược liệu là nhà nước. Ở đây, các chính sách của Nhà nước cần được thể chế hoá theo hướng đầu tư mạnh mẽ vào một chương trình quốc gia với các hành động cụ thể, đồng bộ; có chính sách cụ thể ưu đãi các doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân xây dựng các vùng nuôi, trồng, khai thác dược liệu.
161
Cần thể chế hoá các chính sách của Nhà nước theo hướng đầu tư mạnh mẽ vào một chương trình quốc gia với các hành động cụ thể, đồng bộ. Nhà nước địa phương cần chọn một số doanh nghiệp có năng lực để đầu tư mạnh mẽ, hỗ trợ, đảm bảo cho mô hình phối hợp “bốn nhà” được triển khai trong thực tế để xây dựng được các vùng
sản xuất dược liệu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, cung cấp dược liệu tốt và ổn định cho công nghiệp dược, y học cổ truyền và xuất khẩu.
Đối với nhà nông, thực tiễn cho thấy tại một số vùng, nuôi trồng sản xuất dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng có giá trị kinh tế to lớn. Phát triển trồng cây thuốc đã giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Một số điển hình về trồng cây thuốc trên cả nước như SaPa – Lào Cai đã thực hiện trồng cây Artisô từ khi trồng đến khi thu hoạch đã cho doanh thu
khoảng 115 triệu đồng/vụ/năm; huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, mô hình trồng cây Kim tiền thảo là hướng mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở tỉnh Bắc Giang và nó đã thực sự góp phần xóa đói , giảm nghèo cho người dân nơi đây. Vùng Bảy Núi – An Giang: Nhiều
cá nhân, hộ gia đình đã tổ chức trồng dược liệu xen kẽ dưới tán rừng. Theo tính toán thực tế 1 công đất trồng dược liệu cho thu hoạch cao gấp 2-3 lần trồng lúa, trong khi việc chăm sóc lại mất ít thời gian hơn. Chính vì vây, đối với nhà nông, cần đào tạo nghề chuyên sâu và tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin, đặc biệt là thông tin về các lĩnh vực chuyên môn.
Trên cơ sở đó hướng dẫn họ tổ chức sản xuất nuôi trồng tạo sản phẩm chất lượng cao theo GACP. Tổ chức sản xuất theo nhu cầu thị trường, theo năng lực về diện tích, lao động, hình thành sản xuất các hộ dân theo từng nhóm, từng vùng để có sản lượng lớn tập trung. Nông
dân cần được động viên để tham gia tập huấn, tham dự các hội nghị hướng dẫn kỹ thuật và kỹ năng để nâng cao kiến thức sản xuất dược liệu.
Đối với nhà khoa học, hiện nay chúng ta có đông đảo các nhà khoa học nhưng công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất giống cây thuốc,
xây dựng tiêu chuẩn chất lượng giống cây thuốc, kỹ thuật nuôi trồng, bảo tồn và phát triển nguồn gien cây thuốc, tiêu chuẩn hóa, sản xuất thành phẩm chưa được coi trọng và đầu tư chưa đủ mạnh. Việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong việc thu
hái, sơ chế, bảo quản và chế biến sau thu hoạch dược liệu, sản xuất thuốc đông y, thuốc từ dược liệu còn nhiều bất cập.
Vì thế những năm tới, việc nghiên cứu phải gắn liền với thực tế và có chiến lược cụ thể. Chủ động hợp tác với doanh nghiệp trong triển khai đề tài nghiên cứu vào thực
tiễn sản xuất. Đồng thời chủ động hợp tác với người dân để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên sinh vật làm thuốc. Ngoài các công trình nghiên cứu theo đơn hàng của doanh nghiệp thì nhà khoa học phải có công trình nghiên cứu cụ thể 2 -3 năm một
162
đề bài theo các mục tiêu dài hạn đã được quy hoạch của ngành dược ở từng giai đoạn và phát huy tính thực tiễn của đề tài. Các nhà khoa học cũng cần kết hợp doanh nghiệp tổ chức tập huấn, hội nghị và xử lý kịp thời khi có sâu hại, dịch bệnh cho cây trống.
Đối với nhà doanh nghiệp, đóng vai trò trung tâm trong phối hợp “ bốn nhà” để triển khai phối hợp có hiệu quả. Muốn vậy, cần chọn một số doanh nghiệp có năng lực để đầu tư mạnh mẽ, hỗ trợ, đảm bảo xây dựng mô hình phối hợp “bốn nhà” nhằm xây dựng vùng sản xuất dược liệu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, cung cấp dược liệu
tốt và ổn định cho công nghiệp dược, y học cổ truyền và xuất khẩu.
Doanh nghiệp dược, là tổ chức kinh doanh, am hiểu nhu cầu thị trường, cần đặt ra đề bài cho các nhà khoa học để nghiên cứu đúng theo yêu cầu sản xuất của mình, để các nghiên cứu có tính áp dụng thực tiễn. Những đề tài phục vụ nhu cầu trực tiếp
của doanh nghiệp đi vào đời sống một cách bền vững mà không nằm trên giấy hoặc tài liệu tham khảo. Doanh nghiệp có trách nhiệm mua các sản phẩm của nông dân nuôi trồng cây thuốc có chất lượng tốt, đúng theo tiêu chuẩn GACP, không mua các dược
liệu trôi nổi, không rõ nguồn gốc và chất lượng. Khi đó,doanh nghiệp sẽ được ưu tiên tham gia và cơ số thuốc của bảo hiểm y tế và các kênh phân phối khác.
Hộp 4.1. Doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm trong phối hợp 4 nhà Để phát triển dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu, cần triển khai đồng bộ và quyết liệt nhiều giải pháp như: nhóm giải pháp hoạch định, tổ chức, quản lý; nhóm giải pháp về khoa học công nghệ; nhóm giải pháp về bảo tồn và phát triển bền vững; nhóm giải pháp về nhân lực, đào tạo; nhóm giải pháp về thông tin và truyền thông. Thực hiện phối hợp các giải pháp trên, công ty CP Traphaco đã thành công trong triển khai “Mô hình phối hợp bốn Nhà”. Trong đó,Công ty giữ vai trò trung tâm phối hợp 4 nhà (Nhà Doanh nghiệp, Nhà nông, Nhà nước, Nhà khoa học) để phát triển dược liệu thông qua ký kết hàng trăm hợp đồng/biên bản/thỏa thuận hợp tác với các cá nhân, đơn vị, địa phương; nhà nước tạo điều kiện về kinh tế - chính trị - xã hội, phối hợp tổ chức hoạt động của công ty; nhà khoa học tham gia nghiên cứu, tư vấn thông tin, tư vấn quản lý, hướng dẫn kỹ thuật về nông nghiệp, chế biến dược liệu, bào chế sản phẩm sản xuất theo công nghệ mới, chuyển giao đề tài khoa học; nhà nông trực tiếp thực hiện quy trình trồng trọt, chăm sóc, thu hái và sơ chế dược liệu. Với mô hình hợp tác này, Traphaco đã chủ động trong trồng trọt, khai thác, nhập khẩu gần 90% nhu cầu dược liệu phục vụ sản xuất; chủ động thu mua dược liệu của người nông dân (thông qua trung gian thu mua), có giám sát quá trình trồng trọt, thu hái. Công ty đã triển khai GACP – WHO đối với các cây dược liệu chủ lực, có vùng trồng rộng lớn và tiến hành nghiên cứu, trồng trọt bài bản một số dược liệu như Actiso ở Lào Cai, Đinh lăng ở Nam Định,...và đảm bảo 100% dược liệu đầu vào đạt tiêu chuẩn chất lượng mới được sản xuất.
Công ty cổ phần Traphaco (2017).
163
4.3.5. Nâng cao năng lực và ý thức trách nhiệm của các hộ gia đình và các cơ sở
trồng và chế biến sản phẩm từ cây dược liệu
Để nâng cao năng lực của các hộ gia đình và doanh nghiệp trồng chế biến cây dược liệu, việc khắc phục những khó khăn trong tiếp cận nguồn lực của các hộ trồng
cây dược liệu hiện nay, nhất là về thị trường, về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực, về khoa hoc công nghệ, về đất đai, về vốn,… (xem bảng 3.11). Muốn vậy cần hoàn thiện các chính sách phát triển cây trồng dược liệu như đã trình bày tại mục 4.2.3.1. Phương
hướng hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển cây trồng dược liệu, có như vậy mới cải thiện khả năng tiếp cận nguồn lực của người sản xuất và chế biến cây dược liệu
Bên cạnh đó cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức của các hộ gia đình và doanh nghiệp trong trồng và chế biến cây dược liệu,
gắn trách nhiệm và quyền lợi của người dân với phát triển cây trồng dược liệu. Để có thể đảm bảo sự phát triển bền vững cây dược liệu, người dân cũng cần cam đoan về chất lượng cũng như quy mô sản phẩm.Có như thế, các biện pháp thích hợp để thúc
đẩy sự phát triển bền vững cây trồng dược liệu của nhà nước các cấp mới trở thành hiện thực, có hiệu lực và hiệu quả.
164
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trong chương này, tác giả đã đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước với phát triển nuôi trồng dược liệu ở một số
tỉnh miền Bắc Việt Nam.
Luận án cho rằng, để nâng tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu so với diện tích đất nông nghiệp từ 0,02% và tỷ lệ lao động trồng cây dược liệu so với tỷ lệ lao động nông
nghiệp từ 33,26% hiện nay lên 0,12 % và 48,26% vào năm 2020, lên 0,65% và 68,26% vào năm 2030 các tỉnh miền núi phía Bắc cần có hoàn thiện quan điểm về vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu của các tỉnh phía Bắc, coi đây là vấn đề vừa cơ bản vừa lâu dài để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH; phát triển dược liệu thành một nagnfh kinh tế; phát triển phải gắn với thị trường tiêu thụ và công nghiệp chế biến, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm và bảo đảm an toàn và chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất thuốc của
Tổ chức Y tế Thế giới (GACP – WHO); cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển trồng dược liệu, đẩy mạnh xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu
Để làm được điều đó, chính quyền các địa phương cần tập trung khắc phục những
bất cập trong hệ thống chính sách, trong tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát trồng cây dược liệu hiện nay; đồng thời cần nâng cao năng lực bộ máy quản lý, khắc phục sự trùng chéo và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, giao cho Bộ Y tế là người chủ trì
trong công tác quy hoạch phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ cây trồng dươc liệu trên cơ sở phối hợp với các bộ ngành có liên quan.; tăng cường sự phối hợp 4 nhà trong đó nhà doanh nghiệp là trung tâm; đồng thời nâng cao năng lực, ý thức của các doanh nghiệp, các hộ gia đình trồng cây dược liệu.
165
KẾT LUẬN
Luận án của tác giả đã hệ thống hóa được những cơ sở lý luận liên quan đến vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu, bao gồm những vấn đề về nội
dung, nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu cũng đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển của cây trồng dược liệu. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân tích thực tiễn vai trò nhà nước của một số nước và một số địa phương nước ta từ đó rút ra các bài học kinh
nghiệm trong vai trò của nhà nước với phát triển cây trồng dược liệu để vận dụng cho một số tỉnh miền Bắc Việt Nam
Trên cơ sở khái quát tình hình phát triển cây trồng dược liệu tại một số địa phương phía Bắc Việt Nam như Hà Giang, Hưng Yên, Bắc Giang, luận án đã phân
tích thực trạng vai trò quản lý nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu. Bằng thông tin, tài liệu thu thập được, luận án chỉ ra những năm qua, nhà nước đã phát huy vai trò của mình trong phát triển cây trồng dược liệu thông qua việc xây dựng hệ thống chính sách, tổ chức quản lý và kiểm tra giám sát việc phát triển cây trồng dược liệu, nhờ đó đã làm tăng quy mô, biến đổi về cơ cấu, nâng cao hiệu quả về thu nhập cũng như tạo việc làm cho người lao động trong nông nghiệp.
Tuy nhiên vai trò nhà nước trong lĩnh vực này vẫn còn những hạn chế: các
chính sách về phát triển cây trồng dược liệu như chính sách đất đai, chính sách vốn, chính sách thuế, chính sách phát triển ứng dụng KHCN, chính sách phát triển nhân lực, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng chính sách thị trường vẫn còn nhiều bất cập.
Công tác quản lý triển khai phát triển và kiểm tra giám sát chưa đáp ứng yêu cầu. Vì thế, tác động của nó đối với phát triển cây trồng dược liệu chưa cao. Điều đó thể hiện ở tỷ lệ diện tích, tỷ lệ lao động và thu nhập của lao động trồng cây dược liệu thấp xa với tiềm năng của vùng.
Nguyên nhân của những hạn chế trên có liên quan sự chưa đồng bộ, nhất quán trong các chủ trương, chính sách; sự bất hợp lý và năng lực của bộ máy chưa đáp ứng yêu cầu; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước cũng như phối hợp “4 nhà”
chưa chặt chẽ; đồng thời năng lực và nhận thức của các doanh nghiệp/hộ gia đình trồng cây dược liệu chưa cao.
Trên cơ sở những phân tích đánh giá của nghiên cứu, cũng như dựa trên những chủ trương định hướng của chính quyền địa phương, cuả chính phủ, luận án đã trình bày các quan điểm, phương hướng và giải pháp chủ yếu để tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển cây trồng dược liệu ở các tỉnh miền Bắc nước ta những năm tới.
166
Luận án cho rằng, để nâng tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu so với diện tích đất nông nghiệp từ 0,02% và tỷ lệ lao động trồng cây dược liệu so với tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 33,26% hiện nay lên 0,12 % và 48,26% vào năm 2020, lên 0,65% và 68,26% vào năm 2030 các tỉnh miền núi phía Bắc cần có quan điểm nhận thức rõ về vai trò nhà
nước đối với phát triển cây trồng dược liệu, coi đây là vấn đề vừa cơ bản vừa lâu dài để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH; phát triển dược liệu thành một ngành kinh tế, phát
triển bền vững cây trồng dược trên cơ sở gắn kết giữa phát triển trồng cây dược liệu với thị trường tiêu thụ và công nghiệp chế biến, đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm và bảo đảm an toàn và chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất thuốc của Tổ chức Y tế Thế giới (GACP – WHO); cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển trồng dược
liệu, đẩy mạnh xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu
Để làm được điều đó, chính quyền các cấp cần tập trung hoàn thiện hệ thống chính sách, quy hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát trồng cây dược liệu
nhằm phát triển bền vững cây trồng dược liệu; đồng thời cần nâng cao năng lực bộ máy quản lý, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, giao cho Bộ Y tế là người chủ trì trong công tác quy hoạch phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ cây trồng dươc liệu trên cơ sở phối hợp với các bộ ngành có liên quan; tăng cường sự
phối hợp 4 nhà, lấy nhà doanh nghiệp làm trung tâm và nâng cao năng lực, ý thức của các doanh nghiệp, các hộ gia đình trồng cây dược liệu.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng công trình nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế:
Về phương pháp, mặc dù có sử dụng bảng hỏi để thu thập tài liệu sơ cấp, nhưng tác giả mới sử dụng phương pháp thống kê so sánh và thống kê mô tả để phân tích định tính mà chưa sử dụng phương pháp định lượng để kiểm định và làm sạch dữ liệu, cũng như các công cụ phương pháp nhân tố khám phá để đo lường tác động
của vai trò nhà nước đến phát phát triển cây trồng dược liệu.
Về phạm vi, hiên tại, cả nước có 63 tỉnh, Thành phố, trong đó 31 tỉnh phía Bắc, nhưng luận án mới thu thập tài liệu và điều tra khảo sát ở 3 tỉnh Thành phố. Thông tin, dữ
liệu thu thập trong thời gian 2011-2015. Vì thế kết quả nghiên cứu chỉ đúng với vùng và các tỉnh nghiên cứu cũng như trong giai đoạn nghiên cứu 2011-2015.
Tác giả hy vong những hạn chế trên đây sẽ được tiếp tục hoàn thiện sau công
trình nghiên cứu này.
167
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Quang Đức (2014), “Giải pháp nào cho ngành dược liệu Việt Nam”, Tạp
chí kinh tế và dự báo, số 06 tháng 3/2014, tr 46-47.
2. Lê Quang Đức (2015), “Đề Hà Giang trở thành vùng trọng điểm quốc gia về
dược liệu”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số chuyên đề tháng 8/2015, tr 17-18.
3. Lê Quang Đức (2015), “Để phát triển dược liệu Hưng Yên theo hướng bền
vững”, Tạp chí kinh tế và dự báo, số chuyên đề tháng 12/2015, tr 23-25.
4. Lê Quang Đức (2015), “Trồng dược liệu: Hướng đi mới cho người nông dân- Nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Giang”, Tạp chí kinh tế Châu Á Thái Bình dương, số 456, tháng 11 năm 2015, tr 56-58.
5. Lê Quang Đức (2015), “Một số giải pháp nhằm tăng cường hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước dưới góc nhìn doanh nghiệp- Nghiên cứu tại một số doanh nghiệp trồng dược liệu khu vực phía bắc”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quản trị và kinh doanh (Comb2015), Đại học Đà Nẵng, tr 493-498.
6. Lê Quang Đức (2015), “Thực trạng và vai trò nhà nước với phát triển cây trồng dược liệu tại một số tỉnh miền bắc”, Tạp chí kinh tế Châu Á Thái bình dương, số 473 - tháng 7 năm 2016, tr 58-60.
7. Lê Quang Đức (2016), “Chính sách phát triển cây trồng dược liệu qua khảo sát tại một số tỉnh phía Bắc: Thực trạng và khuyến nghị”, Tạp chí kinh tế phát triển, Số 228 (II), tháng 6/2016, tr 38-43.
168
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo 389 Quốc gia (2017), “Công tác phòng chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng về dược liệu”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017
2. Bộ Nội vụ (2003), Đề án phân cấp quản lý nhà nước trung ương - địa phương,
Hà Nội, 8/2003, tr. 1.
3. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 78/2014/TT-BTC, Hướng dẫn thi hành Nghị
định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ về thuế TNDN
4. Bộ Thương mại (2007), Quyết định 10/2007/QĐ-BTM về lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động mua bán hàng hóa.
5. Bộ Y tế (2013), Thông tư 23/2013/TT-BYT về hướng dẫn hoạt động gia cocong
thuốc
6. Bộ Y tế (2009), Hội nghị dược liệu toàn quốc lần thứ nhất: Phát triển dược liệu
bền vững trong thế kỷ XXI.
7. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 12/2007/QĐ-BYT về thực hành phân phối thuốc
8. Bộ Y tế (2015), Quy hoạch tổng thể phát triển cây trồng dược liệu đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030.
9. Bộ Y tế (2014), Thông tư số 05/ TT-BYT ngày 14/02/2014 quy định việc sử dụng
dược liệu, vị thuốc YHCT trong cơ sở khám chữa bệnh
10. Bộ Y tế (2015), Thông tư 05/TT-BYT ngày 17/03/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc YHCT thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT.
11. Bộ Y tế (2014), Thông tư số 05/2014/TT-BYT về sử dụng dược liệu y học cổ truyền
12. Bộ Y tế (2017), “Báo cáo tổng kết thực trạng phát triển dược liệu tại Việt Nam”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017
13. Bùi Tôn Hiến (2009), Nghiên cứu việc làm của lao động qua đào tạo nghề ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 79/2006/NĐ-CP phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật dược.
169
15. Chính phủ (2015), Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2015 về
chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025.
16. Chính phủ, quyết định số 2166/QĐ-TTg về phát triển dược liệu đến năm 2020 tại
17. Chính phủ (2010), Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 về
tỉnh Quảng Ninh.
khuyến nông.
18. Chính phủ (2013), Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và nuôi trồng, thu hái cây dược liệu nói riêng.
19. Chính phủ (2017), “Chính sách đặc thù về giống, vốn và công nghệ trong phát triển nuôi trồng, khai thác dược liệu”, Nghị định số 65/2017/N ĐCP ngày 19 tháng 5 năm 2017.
20. Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt NamVCBS (2008), Báo
21. Công ty cổ phần Dược Khoa (2017), Một số vấn đề tồn tại chính và đề xuất phát triển dược liệu ở Việt Nam. Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017
cáo Ngành dược Việt Nam.
22. Công ty cổ phần dược liệu Việt Nam (2017), “Một vài nét về tình hình thực trạng khó khăn và giải pháp phát triển nguồn lược liệu Việt Nam”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017
23. Công ty cổ phần Nam Dược (2017), “Đầu tư, nuôi trồng dược liệu theo nguyên tắc, tiêu chuẩn “thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu (GACP)”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017.
24. Công ty cổ phần Traphaco (2017), “Đầu tư, nuôi trồng dược liệu theo nguyên tắc, tiêu chuẩn “thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu (GACP-WHO)”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017.
25. Công ty TNHH Thiên Dược (2017), “Phát triển dược liệu Việt Nam để tự lực được thuốc và xuất khẩu”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017.
170
26. Cục Y Dược cổ truyền (2017), Hội nghị phát triển dược liệu toàn quốc lần thứ 3
tại Quảng Ninh, tháng 6 năm 2017.
27. Đặng Quốc Khánh (2012), Quản lý quy hoạch xây dựng các khu du lịch ven biển
bắc trung bộ, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
28. Dantri (2015), Hưng Yên: Tiếp tục mở rộng trồng cây nghệ đỏ, truy cập 20 tháng 10 năm 2015 từ: http://dantri.com.vn/cong-dong/hung-yen-tiep-tuc-mo-rong-trong-cay- nghe-do-20151019141234532.htm
29. Edward & CTV (1996), Capturing the Pharmaceutical Value of Biodiversity in a
Developing Country, Environmental and resorce Economics.
30. Han Joong Kima & CTV (2004), Lessons from Korea’s pharmaceutical policy reform: the separation of medical institutions and pharmacies for outpatient care, Health Policy 68.
31. Hoàng Hiếu Tri (2014), Báo cáo ngành Dược phẩm, Công ty Chứng khoán FPT.
32. Hoàng Phương (2016), Phát triển cây dược liệu: Liên kết sản xuất để thuận đầu
ra cho sản phẩm, truy cập 20 tháng 11 năm 2017 từ: http://skhcn.bacgiang.gov.vn/thong-tin/11532_phat-trien-cay-duoc-lieu-lien.html, Cập
nhật, 06/03/2016 09:46:53)
33. Maria das Graças Lins Brandão và cộng sự (2013), “Changes in the trade in native medicinal plants in Brazilian public markets”, Tạp chí Environ Monit Assess.
34. Michael R Reich (1994), Bangladesh pharmaceutical policy and politics, Health
Policy and Planning, Oxford University
35. Micheal Kremer (2002), “Pharmaceutical and the developing world”, the Journal
of economic perspectives, Vol 16, No 4, Pp 67-90.
36. Nguyễn Bá Hoạt (2008), Nghiên cứu phát triển một số cây thuốc tham gia chuyển đổi cơ cấu cây trồng huyện vùng cao Sa Pa- Lào Cai, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam.
37. Nguyễn Duy Thuấn và cộng sự (2015), Đánh giá, nghiên cứu đề xuất giải pháp đồng bộ để sử dụng và phát triển bền vững nguồn tài nguyên dược liệu ở việt Nam, Bộ KHCN – Bộ Y tế - Viện Dược liệu.
38. Nguyễn Huy Văn (2010), Một số giải pháp phát triển Dược liệu và sản phẩm từ
Dược liệu tại Việt Nam, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Traphaco.
171
39. Nguyễn Mạnh Tuân (2004), Chính sách đất đai nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Thực trạng và những vấn đề đặt ra, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Đại học quốc gia Hà Nội.
40. Nguyễn Minh Phong (2013), “Những đột phá cần có về tín dụng cho nông
nghiệp”, Nội san Thông tin Khoa học Xã hội & Nhân văn Hải Phòng, Tập số 3
42. Nguyễn Thị Ngọc Huyền và Đoàn Thị Thu Hà (2010), Chính sách kinh tế, Nxb Khoa
học và Kỹ thuật.
41. Nguyễn Ninh Tuấn (2006), Định hướng đổi mới đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
43. Nguyễn Thị Xuân Lan (2007), Chính sách thuế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh
44. Nguyễn Thượng Dong (2017), Mô hình phát triển dược liệu và thuốc thảo dược từ kinh nghiệm của một số nước trong khu vực, Trường Đại học Đại Nam.
45. Nguyễn Văn Song (2007), Những mặt tích cực và hạn chế của quá trình thực thi miễn thủy lợi phí đến chi phí sản xuất của hộ nông dân ở đồng bằng sông Hồng, Đề tài khoa học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
46. Nguyễn Văn Song (2010), “Cơ sở kinh tế của chính sách miễn thuế nông nghiệp, miễn thủy lợi phí, thực tiễn và mối quan hệ với vấn đề tam nông”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển 5/2010, Đại học kinh tế quốc dân.
47. Nguyễn Văn Thắng (2014), Hướng dẫn thực hành nghiên cứu trong kinh tế và
quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc dân
48. Phạm Hồng Hải (2011), Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến dịch vụ y tế cho phụ nữ người Dao về khía cạnh văn hoá - xã hội tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, Đề tài khoa học cấp Đại học, Đại học Thái Nguyên.
49. Phạm Văn Ý (2005), Nghiên cứu chọn lọc và xây dựng quy trình sản xuất giống
đương quy di thực ở miền bắc Việt Nam.
50. Phan Thị Kim Oanh (2014), Vai trò của nhà nước về an sinh xã hội đối với nông dân ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
172
51. Phùng Hà (2014), “Trồng và chế biến dược liệu tại Hà Giang gắn với xóa đói giảm nghèo và góp phần phát triển ngành công nghiệp hóa dược Việt Nam”, tạp chí tài chính.
52. Quốc hội (2015), Nghị quyết 142/2016/QH13 về kế hoạch phát triển kinh tế xã
53. Sally P. Marsh và cộng sự (2007), “Phát triển nông nghiệp và chính sách đất đai
hội giai đoạn 2016-2020.
ở Việt Nam”, Tóm tắt chính sách, NXB Lamb Printers Pty Ltd
54. Susanne (2000), “The contrasting roles of government in the development of
biotechnology industry in the US and Germany”, Research Policy, Pp 205-223.
55. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 61/2007/QĐ-TTg Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia phát triển công nghiệp hóa dược đến năm 2020.
56. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 04/2010/QĐ-TTg Quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Tổng Cục Lâm nghiệp.
57. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định Số 579/QĐ-TTg Chiến lược phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020.
58. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
59. Thủ tướng Chính phủ (2013), Nghị định 181/2013/NĐ-CP, Hướng dẫn Luật
quảng cáo.
60. Thủ tướng Chính phủ (2013), Nghị định số 210/2013/NĐ-CP Về chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
61. Thủ tướng Chính phủ (2015), Công văn số 287/TTg-KTN Dự án phát triển cây dược liệu gắn với xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới tại 6 huyện nghèo 30a tỉnh Hà Giang.
62. Thủ tướng Chính phủ (2015), Nghị định số 55/2015/NĐ-CP Về chính sách tín
dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
63. Trần Công Kỷ (2005), Một số giải pháp chiến lược nhằm phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam đến năm 2010, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh
173
64. Trần Thị Kim Thu (2012), Giáo trình điều tra xã hội học, NXB Đại học kinh tế
quốc dân.
65. Trần Tú Khánh (2015), Chính sách phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền
vững trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân
66. Trần Văn Trung (2015), Chính sách phát triển nguồn nhân lực trẻ vùng Tây Bắc
Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
67. Trương Quốc Cường (2014), “Đưa dược liệu trở thành thế mạnh của ngành dược Việt Nam”, Tham luận tại Hội nghị xúc tiến đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ phát triển sản xuất thuốc dược liệu trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
68. Trương Việt Bình (2015), “Một số vấn đề bảo tồn, phát triển thuốc Nam để đảm
69. UBND tỉnh Bắc Cạn (2017), "Định hướng khai thác, bảo tồn dược liệu tự nhiên trên địa bàn tỉnh", Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017.
bảo nhu cầu điều trị”, Tạp chí y dược cổ truyền Việt Nam, số 4.
70. UBND tỉnh Bắc Giang (2012), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của
tỉnh Bắc Giang.
71. UBND tỉnh Bắc Giang (2013), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của
tỉnh Bắc Giang.
72. UBND tỉnh Bắc Giang (2014), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của
tỉnh Bắc Giang.
73. UBND tỉnh Bắc Giang (2015), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của
tỉnh Bắc Giang.
74. UBND tỉnh Bắc Giang (2015), Định hướng phát triển cây trồng dược liệu của
tỉnh Bắc Giang đến năm 2025.
75. UBND tỉnh Hà Giang (2012), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hà Giang.
76. UBND tỉnh Hà Giang (2013), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hà Giang.
77. UBND tỉnh Hà Giang (2014), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hà Giang.
174
78. UBND tỉnh Hà Giang (2015), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hà Giang.
79. UBND tỉnh Hà Giang (2015), Định hướng phát triển cây trồng dược liệu của
80. UBND tỉnh Hà Giang (2017), “Định hướng khai thác, bảo tồn dược liệu tự nhiên trên địa bàn tỉnh”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017
tỉnh Hà Giang đến năm 2020.
81. UBND tỉnh Hưng Yên (2012), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hưng Yên.
82. UBND tỉnh Hưng Yên (2013), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hưng Yên.
83. UBND tỉnh Hưng Yên (2014), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hưng Yên.
84. UBND tỉnh Hưng Yên (2015), Báo cáo về phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hưng Yên.
85. UBND tỉnh Hưng Yên (2015), Chiến lược phát triển cây trồng dược liệu của tỉnh
Hưng Yên đến năm 2025.
86. UBND tỉnh Quảng Ninh (2017), “Định hướng phát triển dược liệu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Báo cáo tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ về công tác phát triển dược liệu Việt Nam, Lào Cai, tháng 5 năm 2017.
87. Uông Chu Lưu (2001), Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà nước. truy
cập 25 tháng 2 năm 2018 từ: http://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/70TuPhapVietNam/Pages/tu-lieu-
nganh.aspx?ItemID=19 cập nhật 01/01/0001
89. Vũ Cao Đàm và các tác giả (2011), Phân tích và thiết kế chính sách cho phát triển, Nxb
Dân trí.
88. Văn Phú (2017), Hà Giang phát triển cây dược liệu, truy cập 18 tháng 4 năm 2018 từ: https://nongnghiep.vn/ha-giang-phat-trien-cay-duoc-lieu-post186405.html cập nhật 08/02/2017, 09:20 (GMT+7).
90. Vũ Hải Nam (2014), Vai trò của nhà nước trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Viện Chiến lược, Bộ kế hoạch và đầu tư.
91. Vũ Tuấn Minh (2010), Bài giảng cây dược liệu, Trường đại học nông lâm huế-
dự án hợp tác Việt Nam Hà Lan.
175
Phụ lục 1. PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT
DOANH NGHIỆP/ HỘ GIA ĐÌNH VỀ TRỒNG CÂY DƯỢC LIỆU Mẫu M1
Kính gửi quý ông(bà).
Tôi là Lê Quang Đức đang làm đề tài khoa học có tên: “Vai trò nhà nước đối với phát triển cây trồng dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam”.Để thu thập số liệu sơ cấp tôi xin gửi tới quý ông ( bà) phiếu điều tra khảo sát hộ gia đình về trồng cây dược liệu rất mong được ông (bà) trả lời giúp về các nội dung sau:
Trân trọng cảm ơn !
I . Thông tin chung về doanh nghiệp/Hộ Gia đình
1. Tên chủ chủ hộ/ Doanh nghiệp....................................................................................
Nếu là doanh nghiệp, xin ghi rõ tên doanh nghiệp………………………………………
2. Nam/ nữ …….………tuổi………….…………….
3. Địa chỉ : ………………………………………………………………….…………..
Email: .................………………………… Điện thoại: ………………………………
4. Trình độ văn hóa:
Dưới trung học phổ thông Trung học phổ thông; Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng Đại học Sau đại học
5. Nuôi, trồng dược liệu Có Không
6. Xin Ông bà cho biết tên 4 sản phẩm nuôi, trồng chính
7. Điều kiện sản xuất hiện nay (Năm 2015) của gia đình
1. Diện tích canh tác: ha
ha 1.1. Diện tích trồng dược liệu
ha 1.2. Diện tích canh tác các loại cây trồng khác
2.Vốn cố định Triệu đồng
3. Vốn lưu động Triệu đồng
4. Số lao động trong hộ /DN Lao đông
5. Nếu là Hộ Gia đình, xin cho biết trong gia đình có bao nhiêu khẩu Người
176
8.Xin Ông bà cho biết kết quả sản xuất trong 5 năm gần đây. Đơn vị tính Triệu đồng
2011 2012 2013 2014 2015
1. Tổng thu hàng năm của gia đình
1.1.Thu từ trồng cây dược liệu
1.2. Thu từ trồngcây khác
2. Chi phí sản xuất
3. Thuế, phí và các khoản đóng góp khác
4. Tiền lương, tiền công, thu nhập bình quân 1 lao động/tháng
II. Phần trả lời phỏng vấn
9.1. Ông (Bà) có được thụ hưởng chính sách đất đai để phát triển cây trồng dược
liệu không
9. Về chính sách đất đai
Có Không
9.2. Nếu có, Ông bà cho biết tác động của chính sách đất đai đến phát triển
cây trồng dược liệu ở mức độ nào.?Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất, thì
tác động này là
điểm
10.1. Ông Bà có được vay vốn từ ngân hàng để phát triển trồng dược cây dược liệu
không Có
10. Về chính sách vay Vốn Ngân hàng
Không
10.2. Nếu có, Ông bà cho biết tác động của việc vay Vốn đến phát triển cây dược liệu ở mức độ nào? Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất, thì tác động này là
điểm
11. Về chính sách Thuế
11.1. Ông Bà có được thụ hưởng chính sách Thuế trong phát triển cây dược liệu không
Có Không
dược liệu ở mức độ nào? Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất, thì tác động
11.2. Nếu có, Ông bà cho biết tác động của chính sách Thuế đến phát triển cây
này là
điểm
177
12. Về chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN
12.1. Ông Bà có ứng dụng tiến bộ KHCN để phát triển cây dược liệu không
Có Không
12.2. Nếu có, Ông bà cho biết tác động của việc Ứng dụng tiến bộ KHCN đến phát triển cây dược liệu ở mức độ nào? Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao
nhất, thì tác động này là
điểm
13. Về chính sách Đào tạo nhân lực
13.1.Ông Bà có được thụ hưởng chính sách Đào tạo nhân lực để phát triển cây
Có
dược liệu không
Không
13.2. Nếu có, thì tác động của chính sách Đào tạo nhân lực đến phát triển cây dược liệu ở mức độ nào ? Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất, thì tác động
này là
điểm
14. Xin Ông bà cho biết tác động của chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ( đường, điện, nước,…) đến phát triển trồng cây dược liệu ở mức độ ? Nếu cho điểm từ
1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất, thì tác động này là
điểm
15. Ông bà cho biết tác động của chính sách thị trường cung ứng nguyên vật liệu đầu vào đến phát triển cây dược liệu ở mức độ nào? Nếu cho điểm từ 1 đến 5,
trong đó 5 là cao nhất, thì tác động này là
điểm
đó 5 là cao nhất, thì tác động này là 16. Ông bà cho biết tác động của chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm dược liệu đến phát triển cây dược liệu ở mức độ nào? Nếu cho điểm từ 1 đến 5, trong điểm
1
2
3
4
5
- Ngoài ra theo ông (Bà) còn có chính sách nào khác(ghi cụ thể):17. Ông (bà) đánh giá mức độ đạt được trong tổ chức quản lý của nhà nước tác động đến phát triển cây dược liệu như thế nào (cho điểm từ 1 đến 5 trong đó 5 là mức độ đạt được cao nhất)
1. Đánh giá chung về công tác tổ chức quản lý của nhà nước
1.1. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển cây dược liệu
1.2. Việc tổ chức thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch
1
2
3
4
5
178
phát triển cây dược liệu
1.3. Công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý
những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch cây dược liệu
2. Vai trò của chính quyền địa phương
2.1. Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hoạt động cây dược liệu
2.2. Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức các buổi tọa
đàm, trao đổi kinh nghiệm về cây dược liệu
2.3. Chính quyền Địa phương thường xuyên vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển cây dược liệu
2.4. Chính quyền địa phương tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong phát
triển cây dược liệu
2.5 Chính quyền có hỗ trợ tìm kiếm DN tiêu thụ sản phẩm
1
2
3
4
5
18. Xin Ông bà cho biết, những nhân tố sau đã ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển cây dược liệu ở mức nào? (Cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là có ảnh hưởng ở mức cao nhất)
1.Mức độ đồng bộ, phù hợp, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của
các chủ trương, chính sách phát triển cây dược liệu của
Đảng và nhà nước
2. Bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà
nước
3. Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ quản lý trong phát triển cây dược liệu
4. Phối hợp giữa các đơn vị cơ quan quản lý trong tổ chức
thực hiện phát triển cây dược liệu
5. Hỗ trợ thông tin về chính sách ưu đãi đầu tư, thị trường
1
2
3
4
5
179
cho phát triển cây dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
6. Hỗ trợ tìm kiếm đối tác thu mua dược liệu của địa
phương cho hộ gia đình
7. Hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
8. Năng lực tiếp nhận chính sách của hộ trồng cây dược liệu.
9. Khác(ghi cụ thể)
1
2
3
4
5
19. Xin Ông bà đánh giá công tác quản lý của nhà nước đã tạo điều kiện phát triển cây dược liệu ở mức nào(Cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là có tác động ở mức cao nhất)
1. Mức độ tạo điều kiện khai thác điều kiện tự nhiên, kinh
tế xã hội của địa phương để phát triển cây dược liệu
2. Mức độ tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để phát
triển cây dược liệu
3. Mức độ tạo điều kiện khuyến khích sự phát triển ngành
công nghiệp dược liệu
4. Mức độ tạo điều kiện nâng cao năng lực của tổ chức, cá
nhân trồng cây dược liệu
5. Góp phần thúc đẩy quy mô phát triển trồng cây dược liệu
6.Góp phần thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu trồng các loại
cây dược liệu
7. Góp phần nâng cao hiệu quả trồng cây dược liệu
8.Góp phần tăng thu ngân sách nhà nước
9.Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dược
liệu
10.Khác(ghi cụ thể)
180
20. Xin Ông (bà) cho biết những khó khăn trong phát triển trồng cây dược liệu
hiện nay
20.1. Về đất đai
20.1.1. Có khó khăn về tiếp cận đất đai Có Không
20.1.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………20.2. Về vay
vốn Ngân hàng
20.2.1. Có khó khăn về tiếp cận vốn Có Không
20.2.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.3. Về Thuế
20.3.1. Có khó khăn về thuế Có Không
20.3.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.4. Về tiếp cận KHCN
20.4.1. Có khó khăn về tiếp cận ứng dụng KHCN Có Không
20.4.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.5. Về nguồn nhân lực
20.4.1. Có khó khăn về nguồn nhân lực Có Không
20.4.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.6. Về cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước… để phát triển trồng cây dược liệu
20.6.1. Có khó khăn về cơ sở hạ tầng Có Không
20.6.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.7. Về thị trường cung ứng nguyên liệu để phát triển trồng cây dược liệu ( thị
trường đầu vào)
20.7.1. Có khó khăn về thị trường đầu vào Có Không
20.7.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
20.8. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm dươc liệu ( thị trường đầu ra)
20.8.1. Có khó khăn về thị trường đầu ra Có Không
20.8.2. Nếu có, ghi cụ thể khó khăn nhất là: …………………
181
21. Xin Ông bà xếp thứ tự mức độ ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện chính sách phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn những năm tới như thế nào? (trong đó 8 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7 8
1. Hoàn thiện chính sách đất đai
2. Hòan thiện chính sách vay vốn ngân hàng
3. Hoàn thiện chính sách thuế
4. Hoàn thiện chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN
5. Hoàn thiện chính sách đào tạo nhân lực
6. Hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
7. Hoàn thiện chính sách cung ứng nguyên vật liệu
8 Hoàn thiện chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm
Câu 22. Xin Ông bà xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện công tác tổ chức
quản lý nhà nước để phát triển trồng cây dược liệu (trong đó 8 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7 8
1. Cần sớm xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu
2. Sớm triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu
3. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình để điều chỉnh, bổ sung những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch trồng cây dược liệu
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch trồng cây dược liệu
5. Hàng năm cần tổ chức tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hoạt động trồng cây dược liệu
6. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về trồng cây dược liệu
7. Tăng cường vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển trồng cây dược liệu
8. Tăng cường tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong trồng cây dược liệu
182
23. Xin Ông bà xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 7 về hoàn thiện các biện pháp tăng
cường vai trò nhà nước để phát triển trồng dược liệu ( trong đó 7 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7
1. Đảm bảo sự đồng bộ, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách về
phát triển trồng cây dược liệu của Đảng và nhà nước
2. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về trồng cây dược liệu thống nhất từ trung ương đến địa phương
3. Tăng cường năng lực, trình độ, tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong phát triển trồng cây dược liệu
4. Phối hợp giữa các đơn vị cơ quan quản lý trong tổ chức thực hiện phát triển trồng cây
dược liệu
5. Nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp thông tin về chính sách, ưu đãi đầu tư cho phát triển dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
6. Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm đối tác thu mua dược liệu của địa phương cho hộ gia đình
7. Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại của
địa phương cho hộ gia đình
24. Ông/bà có ý kiến gì khác về tăng cường vai trò nhà nước để phát triển
trồng cây dược liệu hiện nay
Xin cám ơn sự cộng tác của Ông Bà
183
Phụ lục 1.2. PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT Ý KIẾN CÁN BỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CÁC CẤP VỀ PHÁT TRIỂN TRỒNG CÂY DƯỢC LIỆU M2.
Kính thưa Ông(bà):
Tôi là Lê Quang Đức đang làm đề tài khoa học có tên: “Vai trò nhà nước đối với phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam”. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam, xem xét vai trò nhà nước đối với phát triển trồng cây dược
liệu, từ đó đề xuất một số kiến nghị giúp phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam . Những ý kiến đóng góp của quý Chuyên gia giúp tác giả có cái nhìn chính xác hơn dưới góc độ: “Quản lý nhà nước” và chỉ sử dụng
cho mục đích NCKH.
Trân trọng cảm ơn !
I . Thông tin chung về người trả lời
Họ và tên người trả lời............................................Nam/ nữ………..Tuổi
Thuộc
Cán bộ quản lý nhà nước Tỉnh, huyện Cán bộ xã phường
Doanh nghiệp chế biến dược liệu Nhà khoa học
Địa chỉ (tỉnh, DN, Trường)……………………
Email: .................……………………… Điện thoại: …………………………
Trình độ văn hóa người trả lời: ( Tích X vào ô thích hợp)
Dưới trung học phổ thông Trung học phổ thông; Trung học
chuyên nghiệp
Cao đẳng Đại học Sau đại học
184
II. Phần trả lời phỏng vấn
5. Xin Ông/Bà đánh giá về mức độ tác động của các chính sách sau đến phát
1
2
3
4
5
triển trồng cây dược liệu ở nước ta ( cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là cao nhất)
1. Tác động của chính sách đất đai
2. Tác động của chính sách vay vốn ngân hàng
3. Tác động của chính sách thuế
4. Tác động của chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN
5. Tác động của chính sách đào tạo nhân lực
6. Tác động của chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
7. Tác động của chính sách cung ứng nguyên vật liệu
8 Tác động của chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm
6. Ông Bà đánh giá mức độ đạt được trong tổ chức quản lý của nhà nước tác động đến phát triển trồng dược liệu như thế nào (cho điểm từ 1 đến 5 trong đó 5 là
1
2
3
4
5
mức độ đạt được cao nhất)
1. Đánh giá chung về công tác tổ chức quản lý của nhà nước
1.1. Công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu
1.2. Việc tổ chức thực hiện công tác quy hoạch, kế
hoạch phát triển trồng cây dược liệu
1.3. Công tác kiểm tra, giám sát điều chỉnh, bổ sung, xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch trồng cây dược liệu
2. Vai trò của chính quyền địa phương
2.1. Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức
tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hoạt động trồng cây dược liệu
2.2. Chính quyền Địa phương thường xuyên tổ chức
1
2
3
4
5
185
các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về trồng cây dược liệu
2.3. Chính quyền Địa phương thường xuyên vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển trồng cây dược liệu
2.4. Chính quyền địa phương tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong trồng cây dược liệu
2.5 Chính quyền có hỗ trợ tìm kiếm DN tiêu thụ sản phẩm
1
2
3
4
5
7. Xin Ông bà cho biết, những nhân tố sau đã ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển nuôi, trồng dược liệu ở mức nào? (Cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là có ảnh hưởng ở mức cao nhất)
1.Mức độ đồng bộ, phù hợp, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách phát triển trồng cây dược liệu của Đảng và nhà nước
2. Bộ máy quản lý, năng lực điều hành trong quản lý nhà nước
3. Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong phát triển trồng cây dược liệu
4. Phối hợp giữa các đơn vị cơ quan quản lý trong tổ chức thực hiện phát triển trồng cây dược liệu
5. Hỗ trợ thông tin về chính sách, ưu đãi đầu tư cho phát triển dược liệu của địa phương cho doanh nghiệp và Hộ Gia đình
6. Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh dược liệu của địa phương cho doanh nghiệp và Hộ gia đình
7. Hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại của địa phương cho doanh nghiệp và hộ gia đình
8. Năng lực tiếp nhận chính sách của hộ trồng cây dược liệu.
9. Khác(ghi cụ thể)
186
1
2
3
4
5
8. Xin Ông bà đánh giá vai trò quản lý của nhà nước đã tạo điều kiện phát triển nuôi, trồng dược liệu ở mức nào(Cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là có tác động ở mức cao nhất)
1. Mức độ tạo điều kiện khai thác điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương để phát triển cây dược liệu
2. Mức độ tạo điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển cây dược liệu
3. Mức độ tạo điều kiện khuyến khích sự phát triển ngành công nghiệp dược liệu
4. Mức độ tạo điều kiện nâng cao năng lực của tổ chức, cá nhân trồng cây dược liệu
5. Góp phần thúc đẩy quy mô phát triển trồng cây dược liệu
6.Góp phần thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu trồng các loại cây dược liệu
7. Góp phần nâng cao hiệu quả trồng cây dược liệu
8.Góp phần tăng thu ngân sách nhà nước
9.Góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dược liệu
10.Khác(ghi cụ thể)
9. Xin Ông bà xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện công tác tổ chức quản
lý nhà nước để phát triển trồng cây dược liệu ( trong đó 8 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7 8
1. Cần sớm xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu
2. Sớm triển khai thực hiện công tác quy
hoạch, kế hoạch phát triển trồng cây dược liệu
3. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình để điều chỉnh, bổ sung những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch
trồng cây dược liệu
187
1 2 3 4 5 6 7 8
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để
xử lý những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch trồng cây dược liệu
5. Hàng năm cần tổ chức tổng kết, đánh giá,
rút kinh nghiệm trong hoạt động trồng cây dược liệu
6. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm về trồng cây dược liệu
7. Tăng cường vận động, tuyên truyền đơn vị phát triển trồng cây dược liệu
8. Tăng cường tổ chức liên kết 4 nhà: Nông dân, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong trồng cây dược liệu
10. Xin Ông bà xếp thứ tự mức độ ưu tiên từ 1 đến 8 về hoàn thiện chính sách phát triển trồng cây dược liệu trên địa bàn những năm tới như thế nào? ( trong đó 8 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7 8
1. Hoàn thiện chính sách đất đai
2. Hòan thiện chính sách vay vốn ngân hàng
3. Hoàn thiện chính sách thuế
4. Hoàn thiện chính sách ứng dụng tiến bộ KHCN
5. Hoàn thiện chính sách đào tạo nhân lực
6. Hoàn thiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
7. Hoàn thiện chính sách cung ứng nguyên vật liệu
8 Hoàn thiện chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm
188
11. Xin Ông bà xếp thứ tự ưu tiên từ 1 đến 7 về hoàn thiện các biện pháp tăng cường
vai trò nhà nước để phát triển trồng cây dược liệu ( trong đó 7 là ưu tiên cao nhất)
1 2 3 4 5 6 7
1. Đảm bảo sự đồng bộ, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả của các chủ trương, chính sách về
phát triển trồng cây dược liệu của Đảng và nhà nước
2. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về trồng cây dược liệu thống nhất từ trung ương đến địa phương
3. Tăng cường năng lực, trình độ, tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong phát triển trồng cây dược liệu
4. Phối hợp giữa các đơn vị cơ quan quản lý trong tổ chức thực hiện phát triển trồng cây
dược liệu
5. Nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp thông tin về chính sách, ưu đãi đầu tư cho phát triển dược liệu của địa phương cho doanh nghiệp và Hộ Gia đình
6. Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh dược liệu của địa phương cho doanh nghiệp và Hộ gia đình
7. Nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại của
địa phương cho doanh nghiệp và hộ gia đình
16. Ông/bà có ý kiến gì khác để phát triển nuôi trồng dược liệu
Xin cám ơn sự cộng tác của Ông /Bà
189
Phụ lục 2 Phiếu thu thập thông tin về tình hình trồng cây dược liệu của tỉnh Hưng Yên, tỉnh Hà Gang và tỉnh Bắc Giang
Tỉnh Hưng Yên:
ĐVT 2011 2012 2013 2014 2015
ha 92603 92603 92603 92603 92603 1. Diện tích tự nhiên
Ha 58663 58663 58663 58084,86 58084,86 2. Diện tích đất nông nghiệp
Người 1139925 1145588 1151640 1158053 1200000 3. Dân số
3.1. Nông thôn Người 995741 996853 1001607 1006237 1042800
3.2. Thành thị Người 144184 148735 150033 151816 157200
Người 463300 478600 549400 549600 550000 4. Lao động
4.1. Lao động nông nghiệp Người 330700 317700 290700 290793 282150
4.2. Lao động phi nông nghiệp Người 132600 160900 258700 258807 267850
Ha 687,25 776,38 867,38 951,94 1067,13 5. Diện tích trồng cây dược liệu
Người 55116 63540 72675 72698 94050 6. Số lao động trồng cây dược liệu
2083 2305 2503 2631 3048 DN 7.Tổng số doanh nghiệp
6 12 12 15 21 DN 7.1 Số doanh nghiệp trồng cây dược liệu
% 0,288 0,52 0,479 0,57 0,689
7.2 Tỷ lệ doanh nghiệp trồng cây dược liệu/tổng số DN
8. Kết quả sản xuất kinh doanh
8.1. Sản lượng sản xuất Tấn 3959,8 4265,2 4664,71 5126,52 5736,57
8.2. Giá trị sản xuất Trd 460422,16 470922,29 522029,73 573136,44 631023,22
8.3. Chi phí Trd 196328,1 214226,15 236135,01 258567,84 291405,96
Trđ 8.4. Đóng góp cho NSNN 1758,16 1958,57 1983,36 2008,15 2231,06
Tr.đồng /người/năm
100,12 100,38 101,53 102,54 105,62
8.5. Tiền lương, tiền công, thu nhập bình quân của 1 lao động trồng dược liệu
190
Tỉnh Hà Giang
2011
2012
2013
2014
2015
ĐVT
Km2
7914,9
7914,9
7914,9
7914,9
7914,9
1. Diện tích tự nhiên
ha
120306
134184
139302
142468,2
155923,5
2. Diện tích đất nông nghiệp
Nghìn người
746,6
761,6
775,8
788,8
807,32
3. Dân số
Nghìn người
3.1. Nông thôn
638,343
647,36
655,551
662,592
672,2
Nghìn người
3.2. Thành thị
108,257
114,24
120,249
126,208
135,12
Nghìn người
467,7
463,4
499,1
505,3
516,68
4. Lao động
Nghìn người
394,74
389,256
416,75
419,399
423,67
4.1. Lao động nông nghiệp
Nghìn người
72,96
74,144
82,35
85,901
93,01
4.2. Lao động phi nông nghiệp
Ha
1948,7
1966,9
2197,65
2428,4
2748,95
5. Diện tích trồng cây dược liệu
Nghìn người
65,79
77,85
83,35
83,87
84,734
6. Số lao động trồng cây dược liệu
DN
1018
1069
1099
1098
1022
7.Tổng số DN
DN
18
22
25
28
28
7.1 Số doanh nghiệp trồng cây dược liệu
%
1,768
2,058
2,275
2,55
2,74
7.2 Tỷ lệ DN trồng cây dược liệu/tổng số DN
8. Kết quả sản xuất kinh doanh
Tấn
8.1. Sản lượng sản xuất
8216,35
8235,6
8750,19
9112,98
10815,58
Trđ
8.2. Giá trị sản xuất
1279325,15 1286692,3 1312527,83 1366946,66 1622337,08
Trđ
8.3. Chi phí
585658,2
596782,3 623988,85 647685,54 745173,08
Trđ
4326,12
4285,5
4795,21
4462,51
5747,26
8.4. Đóng góp cho NSNN
Tr.đồng
100,72
101,36
102,84
104,68
107,52
/người/
Năm
8.5. Tiền lương, tiền thu nhập bình công, quân của 1 lao động trồng dược liệu
191
Tỉnh Bắc Giang
2011
2012
2013
2014
2015
ĐVT
Km2
3844,0 3848,9
3849,7
3849,5
3849,5
1. Diện tích tự nhiên
124
125,1
127,12
129,4
129,4
2. Diện tích đất nông nghiệp Nghìn ha
Nghìn người 1581,8 1592,9
1608,0
1624,5
1640,9
3. Dân số
3.1. Nông thôn
Nghìn người 1428,1 1438,0
1450,9
1440,7
1454,7
3.2. Thành thị
Nghìn người 153,7
154,8
157,1
183,7
186,3
Nghìn người 989,4
999,1
1000,0
1022,6
1036,1
4. Lao động
4.1. Lao động nông nghiệp
Nghìn người 695,55 696,67
703,0
715,82
725,3
4.2. Lao động phi nông nghiệp Nghìn người 293,85
294,4
297,0
306,78
310,8
135
325,8
400,3
432,6
500
5. Diện tích trồng cây dược liệu Ha
Nghìn người 20,85
24,9
56,24
64,43
87,04
6. Số lao động trồng cây dược liệu
1633
1705
1830
1870
1944
DN
7 .Tổng số DN
1
1
2
3
3
DN
7.1 Số doanh nghiệp trồng cây dược liệu
0,06
0,05
0,109
0,16
0,15
DN
7. Tỷ lệ DN trồng cây dược liệu/tổng số DN
8. Kết quả sản xuất kinh doanh
8.1. Sản lượng sản xuất
Tấn
1668,6 4026,88
4803,6
5845,12
6180
8.2. Giá trị sản xuất
58401 181209,6 230572,8 284072,83 301584
Trđ
8.3. Chi phí
50058 128860,16 153715,2 193579,2 216300
Trđ
8.4. Đóng góp cho NSNN
86,5
129,75
159,5
189,4
202,6
Trđ
Tr.đồng
86,6
95,2
98,5
99,3
101,35
/người/Năm
8.5. Tiền lương, tiền công, thu nhập bình quân của 1 lao động trồng dược liệu
192
Phụ lục 3: Về điều kiện phát triển cây trồng dược liệu của các đơn vị điều tra, khảo sát
ĐV Tổng số BQ 1 đơn vị Số đơn vị trả lời
1. Chung các hộ và doanh nghiệp điều tra
1.1. Diện tích canh tác: M2 238 1849590,82 7771.39
M2 1. 1.1. Diện tích trồng dược liệu 238 787056,48 3306,96
1.1.2. Diện tích canh tác các loại cây trồng khác M2 238 1062534,34 4464,43
1.2.Vốn cố định Tr.đồng 238 3045,924 12,798
1.3. Vốn lưu động Tr.đồng 238 1866,872 7,844
1.4. Số lao động trong hộ /DN Người 238 1435,14 6,03
Người 216 1285,2 5,95
1.5. Nếu là Hộ Gia đình, xin cho biết trong gia đình có bao nhiêu khẩu
2. Theo doanh nghiệp (Phụ thuộc vào DT trồng dược liệu)
2.1. Diện tích canh tác: M2 22 50081 2276,41
M2 2. 1.1. Diện tích trồng dược liệu 22 50081 2276,41
2.1.2. Diện tích canh tác các loại cây trồng khác M2 22 0 0
2.2.Vốn cố định ( Vốn cho trồng dược liệu) Tr.đồng 22 1183,774 85,626
2.3. Vốn lưu động( vốn trồng dược liệu) Tr.đồng 22 1154,571 52,48
2.4. Số lao động trong hộ /DN Người 22 390 17,72
Người / / /
2.5. Nếu là Hộ Gia đình, xin cho biết trong gia đình có bao nhiêu khẩu
3. Hộ Gia đình điều tra
3.1. Diện tích canh tác: M2
M2 3. 1.1. Diện tích trồng dược liệu 216 746105,04 3454,19
3.1.2. Diện tích canh tác các loại cây trồng khác M2 216 1102077,36 5102,21
3.2.Vốn cố định Tr.đồng 216 1501,2 6,95
3.3. Vốn lưu động Tr.đồng 216 317,52 1,47
3.4. Số lao động trong hộ /DN Người 216 941,76 4,36
Người 216 1285,2 5,95
3.5. Nếu là Hộ Gia đình, xin cho biết trong gia đình có bao nhiêu khẩu
( Nguồn: Tính toán dựa trên kết quả điều tra của tác giả)
193
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP QUY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN CÂY TRỒNG DƯỢC LIỆU
- Thông tư số 14/2009/BYT-TT ngày 03/09/2009 của Bộ Y tế hướng dẫn triển khai áp dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc” theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới.
- Thông tư 09/2010/TT-BYT ngày 28/4/2010 của Bộ Y tế hướng dẫn việc quản
lý chất lượng thuốc.
- Thông tư 47/2010/TT-BYT ngày 29/12/1010 của Bộ Y tế hướng dẫn XK,
NK thuốc và bao bì tiếp xúc trực tiếp với thuốc.
- Thông tư số 16/2011/TT – BYT ngày 19/04/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế về qui định nguyên tắc sản xuất thuốc từ dược liệu và lộ trình áp dụng nguyên tắc, tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc từ dược liệu.
- Thông tư 49/2011/TT – BYT ngày 30/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành và hướng dẫn áp dụng tỷ lệ hư hao đối với vị thuốc y học cổ truyền trong chế biến, bảo quản và cân chia.
- Thông tư số 40/2013/TT -BYT ngày 18/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần thứ VI. - Thông tư số 05/2014/TT - BYT ngày 14/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
quy định việc sử dụng dược liệu, vị thuốc YHCT trong các cơ sở khám chữa bệnh,
- Thông tư 05/2015/TT - BYT ngày 17/03/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế về ban hành danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc YHCT thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế.
- Quyết định số 39/2008/QĐ - BYT ngày 15/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành phương pháp chung chế biến các vị thuốc theo phương pháp cổ truyền
- Chỉ thị số 03/CT - BYT ngày 24/02/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế về tăng cường công tác quản lý cung ứng và sử dụng dược liệu, thuốc đông y, thuốc từ dược liệu trong các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT;
- Quyết định số 3759/QĐ- BYT ngày 08/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành phương pháp chế biến bảo đảm chất lượng đối với 85 vị thuốc đông y.
- Quyết định số 3635/QĐ- BYT ngày 16/09/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành phương pháp chế biến bảo đảm chất lượng đối với 18 vị thuốc đông y.
- Thông tư số 03/2016/TT – BYT ngày 21/01/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy
định về hoạt động kinh doanh dược liệu.
- Thông tư số 11/2016/TT-BYT ngày 11 tháng 05 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định việc đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế công lập.
- Thông tư 31/2016/TT-BYT ngày 10/8/2016 quy định chi tiết mẫu hồ sơ mời
thầu mua sắm dược liệu và vị thuốc cổ truyền tại cơ sở y tế.
194
Phụ lục 5: Hiệu quả các hộ và doanh nghiệp trồng cây dược liệu theo từng tỉnh
Tỉnh Hưng Yên
ĐV tính 2011
2012
2013
2014
2015
1.Kết quả sản xuất nông nghiệp bình quân hộ
Tr. đ 1026,08 1080,16 1149,12 1248,96 1334,4
1.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/ năm/ha
Tr.đ 826,02
869,58
935,1
1016,28 1090,08
1.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
thuần
Tr.đ 200,06
210,58
214,02
232,68
244,32
1.6. Thu nhập bình quân hộ/năm/ha
2.Kết quả sản xuất bình quân 1 hộ trồng dược liệu
Tr.đ 1286,72 1354,4
1472,25 1533,6
1614,32
2.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/năm/ha
Tr.đ 980,97
1032,65 1086,99 1144,10 1204,33
2.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
thuần
Tr.đ 305,75
321,7
385,27
389,5
409,97
2.6. Thu nhập bình quân hộ/năm/ha
Tỉnh Hà Giang
ĐV tính 2011
2012
2013
2014
2015
1.Kết quả sản xuất nông nghiệp bình quân hộ
Tr. đ 769,56
810,12
861,84
936,72
1000,8
1.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/ năm/ha
Tr.đ 596,57
628,03
675,35
733,98
787,28
1.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
thuần
Tr.đ 172,99
182,09
186,5
202,7
213,52
1.6. Thu nhập bình quân hộ/năm/ha
2.Kết quả sản xuất bình quân 1 hộ trồng dược liệu
ĐV tính 2011
2012
2013
2014
2015
Tr.đ 965,04
1015,8
1104,19 1150,2
1210,7
2.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/năm/ha
Tr.đ 697,005 733,725 772,335 812,92
855,71
2.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
thuần
Tr.đ 268,03
282,08
331,86
337,28
335,03
2.6. Thu nhập bình quân hộ/năm/ha
Tỉnh Bắc Giang
ĐV tính 2011
2012
2013
2014
2015
195
1.Kết quả sản xuất nông nghiệp bình quân hộ
Tr. đ 897,82
945,14
1005,48 1092,84 1167,6
1.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/ năm/ha
Tr.đ 720,473 758,467 815,615 886,42
950,79
1.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
thuần
Tr.đ 177,347 186,67
189,86
206,42
216,81
1.6. Thu nhập bình quân hộ/năm/ha
2.Kết quả sản xuất bình quân 1 hộ trồng dược liệu
Tr.đ 884,62
932,15
1012,17 1054,35 1109,84
2.4.Giá trị sản xuất bình quân hộ/năm/ha
Tr.đ 671,19
706,55
743,73
782,81
824,02
2.5. Chi phí sản xuất bình quân 1 hộ/năm/ha
Tr.đ 213,43 224,6 268,45 271,54 285,83
2.6. Thu nhập thuần bình quân hộ/năm/ha
196
Phụ lục 6: Dự báo một số chỉ tiêu phát triển cây trồng dược liệu
Bảng 6.1. Dự báo một số chỉ tiêu phát triển cây trồng dược liệu
2015 2020 2030 Chỉ tiêu ĐVT
Ha 4316,08 6722,81 16310,67 1. Diện tích cây trồng dược liệu
265,824 498,479 1752,881 2. Số lao động trồng cây dược liệu
Nghìn người
2,0 2,1 2,6 %
3.Tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu/DT đất nông nghiệp của vùng
Tỷ lệ tăng diện tích bình quân năm 0,01 0,02 0,05 %
4. Cơ cấu cây trồng dược liệu
Cây lâu năm 67,06 67,06 67,06 %
Cây ngắn hạn 32,94 32,94 32,94 %
18,57 33,57 53,57 %
5. Tỷ lệ lao động phát triển cây trồng dược liệu/lao động nông nghiệp
Tỷ lệ tăng lao động bình quân năm 3,1 3,0 2,0 %
Nguồn: Dựa trên kết quả điều tra và tính toán của tác giả
6.2. Tỉnh Hưng Yên
2015 2020 2030 ĐVT Chỉ tiêu
Ha 1067,13 1662,18 4032,735 1. Diện tích cây trồng dược liệu
94,05 176,36 620,18 2. Số lao động trồng cây dược liệu
Nghìn người
1,8 1,9 2,4 %
3.Tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu/DT đất nông nghiệp của vùng
Tỷ lệ tăng diện tích bình quân năm 0,01 0,02 0,05 %
33,33 48,33 68,33 %
4. Tỷ lệ lao động phát triển cây trồng dược liệu/lao động nông nghiệp
Tỷ lệ tăng lao động bình quân năm 3,1 3,0 2,0 %
Nguồn: Dựa trên kết quả điều tra và tính toán của tác giả
197
6.3. Tỉnh Hà Giang
2015 2020 2030 Chỉ tiêu ĐVT
Ha 2748,95 4281,81 10388,41 1. Diện tích cây trồng dược liệu
84,73 158,89 558,75 2. Số lao động trồng cây dược liệu
Nghìn người
1,7 1,8 2,3 %
3.Tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu/DT đất nông nghiệp của vùng
Tỷ lệ tăng diện tích bình quân năm 0,01 0,02 0,05 %
20,0 37,0 57,0 %
4. Tỷ lệ lao động phát triển cây trồng dược liệu/lao động nông nghiệp
Tỷ lệ tăng lao động bình quân năm 3,1 3,0 2,0 %
Nguồn: Dựa trên kết quả điều tra và tính toán của tác giả
6.4Tỉnh Bắc Giang
2015 2020 2030 Chỉ tiêu ĐVT
Ha 500 778,81 1889,52 1. Diện tích cây trồng dược liệu
87,04 163,22 573,95 2. Số lao động trồng cây dược liệu
Nghìn người
% 0,38 0,48 0,98
3.Tỷ lệ diện tích trồng cây dược liệu/DT đất nông nghiệp của vùng
Tỷ lệ tăng diện tích bình quân năm 0,01 0,02 0,05 %
12,00 27,0 47,0 %
4. Tỷ lệ lao động phát triển cây trồng dược liệu/lao động nông nghiệp
Tỷ lệ tăng lao động bình quân năm 3,1 3,0 2,0 %
Nguồn: Dựa trên kết quả điều tra và tính toán của tác giả