
267
VAI TRÒ CỦA VỐN VĂN HOÁ TRONG HOẠT ĐỘNG KHỞI NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
SINH VIÊN KHỞI NGHIỆP TẠI MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI)
Lƣơng Thu Trang(1)
TÓM TẮT:
Với nhiều người, vốn văn hoá không phải là khái niệm mới, bởi Ďã Ďược Ďề
cập trong các nghiên cứu của Bourdieu. Tuy nhiên, họ lại cho rằng, vốn văn hoá
Ďược Bourdieu xây dựng chỉ là một Ďộng thái phê phán những bất bình Ďẳng
trong việc nhận cơ hội giáo dục chất lượng cao giữa các thành phần xã hội. Mà
quên rằng ở một khía cạnh khác, khái niệm mà Bourdieu Ďề cập có thể cho chúng
ta thấy tầm quan trọng của vốn văn hoá trong hoạt Ďộng khởi nghiệp và nghiên
cứu này Ďặt mục tiêu khám phá vấn Ďề trên, thông qua việc sử dụng phương pháp
phỏng vấn sâu 15 sinh viên có các dự án khởi nghiệp thành công từ việc sử dụng
vốn văn hoá.
Từ khoá: Vốn văn hoá, sinh viên, khởi nghiệp.
ABSTRACT:
For many people, the concept of cultural capital is not new, as it has been
discussed in Bourdieu's studies. However, they argue that Bourdieu's
construction of the cultural capital concept is merely a critique of the inequalities
in accessing higher education opportunities among social groups. But forgetting
that from another perspective, the concept Bourdieu addresses can shed light on
the importance of cultural capital in entrepreneurial activities. This study aims to
explore this issue through in-depth interviews with 15 students who have
successfully launched entrepreneurial projects utilizing cultural capital.
Keywords: Cultural capital, students, entrepreneurship.
1. Giới thiệu
Khởi nghiệp hiện nay Ďược xem là một trong những Ďộng lực quan trọng thúc
Ďẩy phát triển kinh tế - xã hội, Ďặc biệt trong bối cảnh Việt Nam Ďang hướng tới
mục tiêu trở thành quốc gia khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó
khăn của kinh tế thế giới hiện nay, người khởi nghiệp trong Ďó có sinh viên phải
1. Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Email: trangtt6094@gmail.com

268
Ďối mặt với nhiều thách thức khác nhau.Vậy làm sao Ďể khởi nghiệp thành công
trong bối cảnh này? Và vốn văn hoá có vai trò trợ giúp như thế nào trong hoạt
Ďộng khởi nghiệp của sinh viên? Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên là lí do
chúng tôi lựa chọn nghiên cứu này.
2. Cơ sở lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí thuyết
Tại Việt Nam, nhà nghiên cứu Ďầu tiên Ďề cập Ďến khái niệm ―vốn văn hoá‖
là Trần Đình Hượu. Ông Ďịnh nghĩa vốn văn hoá là tài sản Ďược cộng Ďồng tích
luỹ qua thời gian, góp phần hình thành bản sắc dân tộc. Còn theo Bourdieu, vốn
văn hoá là hệ thống các thành tố văn hoá có khả năng luân chuyển và tạo ra giá
trị trong quá trình phát triển. Nó Ďược biểu hiện dưới ba trạng thái: thể hiện,
khách quan và thể chế. Vốn văn hoá Ďóng vai trò như một dạng tài sản quan
trọng, giúp con người Ďạt Ďược thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, Bourdieu
cũng nhấn mạnh Ďến sự bất bình Ďẳng trong việc tiếp cận các loại hình giáo dục,
dẫn Ďến sự khác biệt trong việc tích luỹ vốn văn hoá. Chính vì lí do này, nhóm
tác giả Neil Fligstein, Richard Swedberg, John Mohr cho rằng, vốn văn hoá tuy
hữu ích cho hoạt Ďộng khởi nghiệp nhưng rất khó Ďo lường giá trị chính xác của
nó. Tán thành với nhận Ďịnh trên, các nghiên cứu bàn luận về vai trò của vốn văn
hoá trong hoạt Ďộng khởi nghiệp của người trẻ hiện nay trong Ďó có sinh viên
cũng Ďi theo các nhóm vấn Ďề sau:
* Vốn văn hoá thúc Ďẩy tinh thần khởi nghiệp của người trẻ
Tiêu biểu cho quan Ďiểm này là nghiên cứu của Sharon Matusik (1998). Theo
quan Ďiểm của tác giả, sự thành công hay thất bại trong hoạt Ďộng khởi nghiệp
của người trẻ phụ thuộc vào khả năng tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới hoặc thử
nghiệm những ý tưởng mới Ďể xác Ďịnh mô hình kinh doanh phù hợp. Trong thế
giới cạnh tranh gay gắt hiện nay, sự tranh chấp giữa các nhóm xã hội Ďóng vai trò
chủ Ďạo thúc Ďẩy người khởi nghiệp luôn phải vận dụng sự phản tư Ďể kiến tạo
cái mới. Thay vì chìm Ďắm trong ―tính bất Ďộng‖ của hoàn cảnh xã hội, người trẻ
cần chủ Ďộng tìm kiếm cơ hội và tạo ra sự khác biệt Ďể Ďánh dấu vị thế của mình
trong hoạt Ďộng khởi nghiệp và vốn văn hoá có thể giúp họ làm Ďược Ďiều ấy. Do
nó bao gồm kiến thức hiểu biết về văn hoá của các cộng Ďồng cư dân khác nhau
và mạng lưới quan hệ Ďược tích luỹ qua quá trình học tập, trải nghiệm và giao
tiếp. Nhấn mạnh thêm cho quan Ďiểm trên, nhóm tác giả Nandram & Van der
Vaart (2018) cho rằng, vốn văn hoá Ďóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cao tinh thần khởi nghiệp của người trẻ. Bởi nó nhắc họ nhớ tôi là ai, tôi cần phải
làm việc gì cho xã hội giống như cách mà Adam Smith từng nói trong tác phẩm
―Phồn vinh của các quốc gia‖: Một người thợ chưa từng làm chiếc kim găm nào
và cũng chưa bao giờ học làm chuyện Ďó, thì có thể sản xuất tối Ďa 1 chiếc mỗi
ngày và chắc chắn không thể làm Ďến 20 chiếc. Nhưng với cách sản xuất có sự
huy Ďộng sức mạnh tập thể như hiện nay, người ta có thể chia công việc cho một
người chuyên kéo sợi thép, người khác chuốt nhỏ, người thứ ba cắt ngắn, người

269
kế tiếp mài nhọn. Cá nhân tôi Ďã từng quan sát một xí nghiệp sản xuất như thế
với 10 người thợ. Tương tự như vậy, một người trẻ sẽ không có tinh thần khởi
nghiệp cao nếu chỉ Ďọc Ďược một bài báo nói rằng các ngân hàng sẽ cho người
khởi nghiệp vay với chính sách ưu tiên, bởi Ďiều Ďó là quá ít Ďể kích thích tinh
thần khởi nghiệp trong họ. Trong khi Ďó, nếu một quốc gia có văn hoá Ďề cao
tính cộng Ďồng và cho người trẻ thấy họ sẽ nhận Ďược sự trợ giúp của cả cộng
Ďồng trong quá trình khởi nghiệp, thì chúng ta sẽ thấy câu chuyện khởi nghiệp
không chỉ là lí thuyết nữa. Mà sẽ có rất nhiều người trẻ sẵn sàng Ďăng kí mở các
doanh nghiệp khởi nghiệp (Nandram & Van der Vaart, 2018).
Đồng quan Ďiểm với các tác giả trên, Florida (2002) cho rằng, khi thung lũng
Silicon trở thành trung tâm công nghệ cao và toả sáng với Ďổi mới sáng tạo và
tinh thần kinh doanh mới, nó Ďặt ra vấn Ďề giáo dục làm sao cho trẻ em, thanh
niên, cần phải tiếp cận sớm hơn với Ďổi mới sáng tạo, chứ không nên Ďể phí thời
gian nhiều với cái học hệ thống. Giới trẻ thung lũng Silicon Ďã chứng tỏ rằng, họ
có thể khám phá những cái mà không cần học bốn năm Ďại học nhờ chính vốn
văn hoá Ďược học, Ďược tích luỹ từ bé cho Ďến hiện tại. Cho nên, nếu một sinh
viên có Ďược sự trao truyền vốn văn hoá tốt từ gia Ďình, từ cộng Ďồng sống xung
quanh cộng thêm với sự trải nghiệm của chính sinh viên Ďó trong quá trình tương
tác xã hội, thì tinh thần khởi nghiệp của sinh viên Ďó sẽ cao hơn những sinh viên
khác có sự tích luỹ vốn văn hoá ít hơn.
*Vốn văn hoá là chìa khoá giúp người trẻ tích luỹ vốn Ďầu tư trong hoạt Ďộng
khởi nghiệp.
Tiêu biểu cho quan Ďiểm trên là nghiên cứu của Brint (2005). Cụ thể, tác giả
cho rằng, dù Bourdieu sử dụng khái niệm vốn văn hoá Ďể phê phán những sự bất
bình Ďẳng xã hội trong việc tiếp cận các cơ hội giáo dục tốt nhưng rõ ràng khái
niệm này Ďã mở ra cho chúng ta một góc nhìn mới về giá trị của vốn văn hoá
trong hoạt Ďộng khởi nghiệp của người trẻ hiện nay. Một trong số Ďó Ďến từ việc,
vốn văn hoá là chìa khoá giúp người trẻ tích luỹ vốn Ďầu tư trong hoạt Ďộng khởi
nghiệp. Cụ thể, vốn văn hoá giúp người trẻ biết cách xây dựng chiến lược phù
hợp kết nối với nhà Ďầu tư, từ Ďó tạo ra nguồn lực tài chính hỗ trợ cho việc khởi
nghiệp của họ. Ở trong nước, một vài nghiên cứu gần Ďây của các tác giả Nguyễn
Tuấn Anh (2019), Nguyễn Quang Thu, Ngô Quang Huân, Trần Nha Ghi (2020)
dù chưa trực tiếp Ďề cập Ďến vai trò của vốn văn hoá trong hoạt Ďộng khởi nghiệp
nhưng cũng Ďã nhấn mạnh ngoài vốn tiền tệ, các loại vốn phi tiền tệ có thể Ďem
lại sự trợ giúp tích cực cho người trẻ trong hoạt Ďộng khởi nghiệp giai Ďoạn hậu
COVID-19.
Như vậy, Ďiểm qua các công trình nghiên cứu về khởi nghiệp ở Việt Nam và
thế giới có thể thấy, khi bàn về sự hiện diện của vốn văn hoá trong hoạt Ďộng
khởi nghiệp của giới trẻ hiện nay, các nhà nghiên cứu dù thừa nhận vốn văn hoá
có vai trò quan trọng trong hoạt Ďộng khởi nghiệp nhưng mới chỉ làm rõ hai khía
cạnh: một là vốn văn hoá là Ďộng lực thúc Ďẩy tinh thần khởi nghiệp của người
trẻ, khía cạnh còn lại cho rằng vốn văn hoá là chìa khoá giúp họ tích luỹ vốn Ďầu

270
tư trong hoạt Ďộng khởi nghiệp mà chưa Ďề cập Ďến những chiều cạnh tác Ďộng
Ďa dạng khác của vốn văn hoá trong hoạt Ďộng khởi nghiệp của người trẻ và
khoảng trống này là gợi ý cho chúng tôi thực hiện nghiên cứu của mình cùng với
việc sử dụng lí thuyết vốn văn hoá của Bourdieu làm cơ sở tiếp cận.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với mẫu
là 15 sinh viên là những người khởi nghiệp trong lĩnh vực thời trang Ďến từ Trường
Đại học Ngoại thương và Trường Cao Ďẳng Du lịch Hà Nội. Sở dĩ tác giả lựa chọn
phương pháp này bởi nó có ưu Ďiểm là cho phép những người mà tác giả lựa chọn
phỏng vấn, có thể bộc lộ một cách chân thật nhất những quan Ďiểm của cá nhân
mình, Ďiều mà họ vẫn ngại ngần nếu thực hiện theo cách khác. Dù vậy, Ďể loại bỏ
bớt sai số trong các phỏng vấn sâu, nghiên cứu còn sử dụng cả việc thu thập số liệu
liên quan Ďến tình hình kinh doanh Ďể Ďưa vào các phân tích. Điều này sẽ giúp cho
chúng ta cái nhìn bao quát nhất khi Ďánh giá về vai trò của vốn văn hoá trong hoạt
Ďộng khởi nghiệp của sinh viên. Mẫu chọn phỏng vấn của chúng tôi cũng là sinh
viên 2 khối ngành kinh tế và xã hội, Ďể từ Ďó có thêm cứ liệu Ďánh giá về vai trò của
vốn văn hoá trong hoạt Ďộng khởi nghiệp của người trẻ.
3. Kết quả và đánh giá
3.1. Kết quả
* Vốn văn hoá - vũ kh giúp sinh viên quảng bá sản phẩm khởi nghiệp của
mình đến đông đảo người tiêu dùng.
Theo 15/15 sinh viên Ďược chúng tôi phỏng vấn, vốn văn hoá là sức mạnh
mềm trong hoạt Ďộng khởi nghiệp của họ. Đây là Ďiều Ďược Ďề cập trong nghiên
cứu Ràng buộc Ďể dẫn dắt: Bản chất sức mạnh Ďang thay Ďổi của Mỹ của Joseph
S.Nye (dẫn theo Nguyễn Thị Thu Phương, 2014). Ông cho rằng, sức mạnh mềm
là sự vận dụng khả năng giành Ďược những thứ mình cần bằng việc gây ảnh
hưởng Ďể người khác làm theo những gì mình mong muốn. Đối với một quốc gia,
sức mạnh mềm Ďược tạo dựng dựa trên ba thành tố: văn hoá quốc gia, hệ giá trị
và chính sách của quốc gia Ďó. Trong Ďó, sức mạnh mềm văn hoá là nguồn lực
quan trọng thể hiện tầm ảnh hưởng cũng như lôi cuốn của một quốc gia này Ďối
với một quốc gia khác.
Còn trong hoạt Ďộng khởi nghiệp, sức mạnh mềm từ văn hoá Việt Ďã giúp
những bạn trẻ này quảng bá các sản phẩm khởi nghiệp Ďến Ďông Ďảo công chúng.
Một trong số Ďó là Linh, 21 tuổi, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương Hà
Nội, với dự án khởi nghiệp tôn vinh vẻ Ďẹp của phụ nữ Việt qua trang phục. Linh
cho biết, ở trường cô, các giảng viên rất năng Ďộng và chính các thầy, cô giáo Ďã
truyền Ďộng lực, Ďam mê khởi nghiệp cho sinh viên bằng việc gợi ý vì sao không
sử dụng văn hoá Ďể khởi nghiệp. Khi tìm hiểu về những yếu tố trong văn hoá
truyền thống, Linh quyết Ďịnh Ďưa một số hình ảnh văn hoá dân gian thân thuộc
với nhiều người Việt như: cây tre, hoa sen, tranh Đông Hồ kết hợp vào một số

271
trang phục như khăn, váy, áo dài. Theo cô, Ďây là cách quảng bá sản phẩm khởi
nghiệp tốt nhất, bởi với nhiều người những hình ảnh Ďó luôn nhắc họ tự hào về
bản sắc của dân tộc mình, trong Ďó có cả các khách hàng trẻ: ―Lúc Ďầu em nghĩ,
khởi nghiệp của người trẻ thì chỉ cần tạo ra trend gì Ďó thú vị nhưng tìm trend ở
Ďâu, chả lẽ Ďu mãi theo trào lưu trên tiktok. Cho nên, chỉ có dùng văn hoá thì mới
có Ďược những ý tưởng, sản phẩm hay. Hồi trước, dân kinh tế bọn em coi thường
nó lắm nhưng giờ mới thấy nó là kho vàng cho người kinh doanh‖ (phỏng vấn
Linh, 21 tuổi, sinh viên Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội). Để có thêm tư
liệu kiểm chứng cho vấn Ďề trên, chúng tôi Ďã xin phép Linh sử dụng dữ liệu lượt
truy cập trên trang face cửa hàng của cô, cũng như lượt bán hàng trực tuyến trong
2 giai Ďoạn (giai Ďoạn Ďầu khi mới khởi nghiệp, giai Ďoạn sau khi sử dụng các
chất liệu văn hoá dân gian vào trang trí các sản phẩm thời trang) Ďược thể hiện
qua biểu Ďồ sau:
Biểu đồ thể hiện lượt tương tác đơn hàng, mua đơn hàng của nhân vật phỏng vấn
(Nguồn: Tác giả tự điều tra)
Nhìn vào biểu Ďồ trên, có thể thấy, lượt tương tác và lượt mua hàng của cửa
hàng Linh khi mới bắt Ďầu chỉ dừng ở con số khiêm tốn là 8 và 64 nhưng sau khi
sử dụng các chất liệu từ văn hoá dân gian, con số này Ďã tăng. Cụ thể, lượt khách
hàng tương tác hỏi thông tin về sản phẩm sau khi người khởi nghiệp sử dụng chất
liệu văn hoá dân gian tăng gấp 5 lần so với trước. Còn tỉ lệ mua hàng tăng lên
gấp 8 lần so với trước, những con số trên cho thấy việc sử dụng các chất liệu văn
hoá dân gian có tác Ďộng tích cực Ďến việc quảng bá sản phẩm tới khách hàng.
Từ Ďó, thu hút họ mua hàng. Không chỉ Linh, những sinh viên khác Ďến từ
Trường Cao Ďẳng Du lịch Hà Nội cũng cho biết, mặc dù lĩnh vực học của họ
Ďược tìm hiểu kĩ hơn về văn hoá nhưng giai Ďoạn Ďầu khi mới khởi nghiệp, họ