Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên<br />
<br />
56<br />
<br />
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH<br />
TRONG VIỆC ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG TRÍ THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY<br />
Trương Văn Tuấn *<br />
Tóm tắt<br />
Bài viết giới thiệu một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức: Quan điểm của Hồ Chí Minh<br />
về người trí thức cách mạng; tầm quan trọng của việc đào tạo trí thức; đặc biệt là vấn đề phát huy năng<br />
lực sáng tạo của trí thức. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức là nền tảng tư tưởng cho Đảng, Nhà nước<br />
và nhân dân ta trong việc đào tạo và sử dụng trí thức đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước<br />
hiện nay.<br />
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trí thức, trí thức cách mạng.<br />
Abstract<br />
This article introduces some of the content of Ho Chi Minh’s ideology about the intellectuals: The<br />
views of Ho Chi Minh for the revolutionary intellectuals; the importance of the intellectual training;<br />
especially the problems in developing the innovative capacity of our intellectuals. Ho Chi Minh’s<br />
ideology about the intellectuals is the ideological foundation for our Party, our State and our people in<br />
the training and use of the intellectual to meet the requirements of our current national reform.<br />
Keywords: Ho Chi Minh’s ideology, intellectuals, revolutionary intellectuals.<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Dưới ánh sáng của sự nghiệp đổi mới do Đảng<br />
ta khởi xướng và lãnh đạo, đội ngũ trí thức nước ta<br />
đã tăng nhanh về số lượng, nâng cao về chất lượng<br />
và có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển<br />
của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của<br />
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br />
đất nước và hội nhập quốc tế, đội ngũ trí thức còn<br />
bộc lộ nhiều hạn chế. Do vậy, học tập và vận dụng<br />
tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đào tạo và sử<br />
dụng trí thức hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng<br />
và cần thiết.<br />
2. Nội dung<br />
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu<br />
tiên trình bày một cách có hệ thống, toàn diện, sâu<br />
sắc vấn đề trí thức và đánh giá đúng vai trò, vị trí<br />
của người trí thức Việt Nam. Qua những bài viết,<br />
bài nói chuyện của Người với giới văn nghệ sĩ, các<br />
nhà giáo dục… chúng ta có thể khái quát nên một<br />
số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh<br />
về trí thức.<br />
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về người trí<br />
thức cách mạng<br />
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trí thức là<br />
những “lao động trí óc yêu nước nhất, hy sinh nhất,<br />
gồm những người phụng sự nhân dân lao động, chí<br />
<br />
*<br />
<br />
công vô tư, gương mẫu trong công tác kháng chiến<br />
và kiến quốc” (1). Như vậy, với Hồ Chí Minh, lý<br />
tưởng, mục đích cuộc sống của trí thức mới là điều<br />
quan trọng nhất. Một người được coi là trí thức<br />
không phải chỉ do người đó có học vấn cao, mà<br />
quan trọng hơn hết, là phẩm chất và năng lực đó<br />
phải hướng đến phục vụ cho sự nghiệp cách mạng<br />
của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân.<br />
Trí thức Việt Nam có tinh thần yêu nước, tinh<br />
thần dân tộc rất sâu đậm. Phần lớn trí thức xuất<br />
thân từ công nhân, nông dân và tầng lớp lao động<br />
nên dễ dàng đồng cảm và chia sẻ với nỗi đau của<br />
những người dân mất nước, nỗi nhục của kiếp đời<br />
nô lệ. Trong lịch sử giữ nước của dân tộc ta, những<br />
trí thức chân chính luôn gắn bó máu thịt với nhân<br />
dân, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù.<br />
Với tầm nhìn thông tuệ của một lãnh tụ cách mạng,<br />
một nhà hiền triết, Hồ Chí Minh đã “nhìn thấy”<br />
điều thiêng liêng đó trong tâm hồn người trí thức,<br />
đó là “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của<br />
quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong<br />
bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất<br />
dấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của<br />
chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều<br />
được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải<br />
thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh<br />
thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực<br />
hành vào công việc yêu nước, công việc kháng<br />
chiến” (2).<br />
<br />
Thạc sĩ - Trường Cán bộ quản lý giáo dục TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
Số 11, tháng 12/2013 56<br />
<br />
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên<br />
Đối với Hồ Chí Minh, hiền tài là nguyên khí<br />
của quốc gia. Người luôn cố gắng phát huy hết tài<br />
năng của trí thức, không bỏ sót một ai. Trong bài<br />
viết Anh hùng và chiến sĩ trí thức, Hồ Chí Minh<br />
đưa ra nhiều khái niệm rất phong phú về trí thức<br />
như: “chiến sĩ trí thức”, “trí thức Việt Nam chân<br />
chính”, “trí thức chân chính”, nhằm gắn vai trò<br />
của trí thức với nhiệm vụ cách mạng, đồng thời<br />
tôn vinh lao động của trí thức đối với đất nước.<br />
Trí thức phải là người chiến sĩ “hăng hái tham gia<br />
kháng chiến”, đó là tiêu chí của “người trí thức<br />
chân chính”… trong điều kiện kháng chiến chống<br />
đế quốc.<br />
Từ quan điểm của V.I. Lênin: “Trước sự liên<br />
minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản<br />
và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào<br />
đứng vững được” ( 3), đã được Hồ Chí Minh quán<br />
triệt, vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện nước ta.<br />
Người khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu<br />
của dân tộc” (4). Do vậy, “những người trí thức<br />
tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất<br />
quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì<br />
công việc của cách mạng sẽ khó khăn thêm nhiều”<br />
(5). Người chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết<br />
Công - Nông - Trí thức, sức mạnh vô biên của cả<br />
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố quyết<br />
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhờ đó,<br />
đội ngũ trí thức của nước ta với tư cách là một bộ<br />
phận quan trọng trong lực lượng cách mạng, đã có<br />
nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng<br />
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cũng như trong sự<br />
nghiệp xây dựng đất nước.<br />
2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc đào<br />
tạo trí thức<br />
Bồi dưỡng nhân tài, trí thức cho đất nước, rèn<br />
luyện các thế hệ cách mạng luôn là mối quan tâm<br />
hàng đầu của Hồ Chí Minh. Điều đó lý giải vì<br />
sao ngay sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc),<br />
Người đã tìm đến Tâm tâm xã, một tổ chức yêu<br />
nước tiến bộ của những người thanh niên trí thức<br />
tiểu tư sản Việt Nam để truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và chuẩn bị lực lượng nòng cốt tiến tới thành<br />
lập Đảng. Với tầm nhìn vượt thời gian, nhận thức<br />
sâu sắc ý nghĩa của việc chăm lo đào tạo đội ngũ<br />
trí thức, chỉ sau Lễ Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945<br />
một ngày, Người đã đặt vấn đề nâng cao dân trí,<br />
chống giặc dốt là một trong ba nhiệm vụ cấp bách<br />
của Nhà nước cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh<br />
cùng với Đảng và Chính phủ ta đã cho mở lại các<br />
trường, ở các bậc học, đồng thời thành lập nhiều<br />
trường học mới để đào tạo những trí thức mới cho<br />
<br />
57<br />
<br />
đất nước. Trong khói lửa ác liệt của cuộc kháng<br />
chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh gửi nhiều<br />
thế hệ thanh niên ưu tú sang đào tạo tại các nước<br />
xã hội chủ nghĩa, và sau này, họ đã trở thành những<br />
nhà khoa học đầu đàn, là đội ngũ cốt cán của Đảng<br />
và Nhà nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp<br />
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Người coi công tác<br />
đào tạo trí thức, nhân tài là “sự nghiệp trăm năm”<br />
của dân tộc ta, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng<br />
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (6).<br />
Trước lúc đi xa, một trong những điều canh cánh<br />
trong lòng được Người nhắc đến trong bản Di chúc<br />
là “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một<br />
việc rất quan trọng và rất cần thiết” (7).<br />
Trong quá trình đào tạo trí thức, ngoài yêu cầu<br />
không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên<br />
môn và khoa học, cần coi trọng giáo dục chính trị<br />
tư tưởng và đạo đức tác phong. Hồ Chí Minh rất<br />
quan tâm tới lý tưởng và mục đích học tập phấn đấu<br />
của người trí thức. “Học để làm gì? Học để phục<br />
vụ ai? ” (8). Theo Người, trước hết là: “học để làm<br />
việc”. Biết làm việc vừa là năng lực, nhưng xét<br />
sâu xa vừa là đạo đức, là biểu hiện văn hóa chính<br />
trị của mỗi người. Thứ hai, “học để làm người”.<br />
Nhà hoạt động chính trị có vai trò trách nhiệm<br />
hướng dẫn cho người khác, cho nhân dân, tức là<br />
gương mẫu, đòi hỏi và bắt buộc người khác làm<br />
tròn nghĩa vụ công dân. Nếu nhà hoạt động chính<br />
trị không biết “học để làm người” thì làm sao có<br />
thể hướng dẫn và gợi mở cho người khác. Thứ ba,<br />
“học để làm cán bộ”, tức là học để làm tròn chức<br />
trách của mình. Chỉ có học “biết làm việc”, “biết<br />
làm người” mới có thể “biết làm cán bộ” để phụng<br />
sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng<br />
sự Tổ quốc và nhân loại. Theo Người, chỉ có trả lời<br />
dứt khoát được hai câu hỏi đó, những trí thức trẻ<br />
mới có phương hướng và động cơ đúng đắn để học<br />
tập, rèn luyện và phấn đấu vươn lên. Hồ Chí Minh<br />
luôn mong muốn đào tạo những người trí thức<br />
cách mạng “vừa hồng, vừa chuyên”. “Hồng” như<br />
Người nói, là “vững về chính trị”, là những “con<br />
người biết dĩ bất biến, ứng vạn biến mà cái bất<br />
biến là độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là<br />
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng<br />
con người”. “Chuyên” mà Người dặn là phải biết<br />
làm việc, phải có văn hóa, nắm vững khoa học, kỹ<br />
thuật, biết nghĩ, biết làm và làm có hiệu quả. Tóm<br />
lại, đó là những con người vừa có đức, vừa có tài,<br />
tài và đức thống nhất hữu cơ với nhau, đủ khả năng<br />
hiện thực hóa lý tưởng tốt đẹp của nhân dân ta.<br />
<br />
Số 11, tháng 12/2013 57<br />
<br />
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên<br />
2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về việc sử<br />
dụng trí thức<br />
Là một trí thức đi làm cách mạng, Chủ tịch<br />
Hồ Chí Minh luôn gắn vai trò của trí thức với đất<br />
nước, dân tộc, luôn tìm cách khơi dậy tinh thần yêu<br />
nước và ý thức tự tôn dân tộc trong mỗi trí thức để<br />
họ có thể cống hiến cho nước nhà được nhiều nhất.<br />
Trong bài viết Nhân tài và kiến quốc,<br />
Hồ Chí Minh viết: “Nhân tài nước ta dù chưa có<br />
nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo<br />
phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng<br />
phát triển càng thêm nhiều” (9). Chữ “khéo” mà<br />
Người dùng chính là lời nhắc nhở về cái “tâm” và<br />
cái “tầm” của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chủ<br />
tịch Hồ Chí Minh sử dụng nhân tài trí thức, trước<br />
hết bằng cách hiểu khả năng và nguyện vọng của<br />
họ. Người còn gợi ý cho người trí thức tự nhận<br />
thức, tự hiểu về mình. Điều đó xuất phát từ niềm<br />
tin đối với con người của chính bản thân Người,<br />
“mỗi con người đều có Thiện và Ác ở trong lòng.<br />
Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người<br />
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần<br />
đi, đó là thái độ của người cách mạng” (10). Niềm<br />
tin ấy được Người đúc kết từ kinh nghiệm bản<br />
thân, cũng là từ kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng<br />
cán bộ. Niềm tin ấy trở thành điểm cốt lõi của tư<br />
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; cải tạo và nâng cao<br />
con người thì trước hết phải tin ở sức vươn lên<br />
của mỗi con người. Đây là điểm mấu chốt thành<br />
công trong công tác vận động trí thức của Chủ tịch<br />
Hồ Chí Minh.<br />
Tư tưởng trọng trí thức, trọng nhân tài của<br />
Hồ Chí Minh vì lợi ích tối cao của quốc gia dân<br />
tộc, không chỉ thể hiện ở các chủ trương, lời kêu<br />
gọi mà thông qua những việc làm công khai và thái<br />
độ trân trọng của Người đối với từng nhân cách cụ<br />
thể. Tin dùng, mạnh dạn trao cho người trí thức<br />
những chức vụ tương xứng với tài năng và đức độ<br />
của họ.<br />
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công. Một<br />
trong những việc đầu tiên của Hồ Chí Minh là đi<br />
Tìm người Tài - Đức phục vụ cho sự nghiệp cách<br />
mạng của dân tộc. Trên Báo Cứu Quốc ngày 2011-1946, Người viết: “Nước nhà cần phải kiến<br />
thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”. Người yêu<br />
cầu “các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào<br />
có người tài đức, có thể làm được những việc ích<br />
nước, lợi dân thì phải báo cáo cho chính phủ biết”<br />
(11). Trong bối cảnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc,<br />
trước những nghi ngờ, băn khoăn về việc Người<br />
sử dụng những “quan lại cũ” trong bộ máy Nhà<br />
nước mới, Người vẫn thể hiện sự trân trọng, đặt<br />
<br />
58<br />
<br />
trọn niềm tin sắt đá đối với trí thức đủ thấy niềm<br />
tin của Người đối với con người to lớn đến độ nào.<br />
Chính vì vậy, nhà nước mới đã quy tụ được một<br />
đội ngũ nhân tài đông đảo, có trình độ cao, có trí<br />
thức Hán học như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế<br />
Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe,…; có trí<br />
thức Tây học như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,<br />
Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh<br />
Toàn, Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai,… Họ đều<br />
chung một ý chí, đó là đoàn kết dân tộc, chung tay<br />
góp sức xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập dân<br />
tộc. Đây là cuộc “chiêu hiền đãi sĩ” đầu tiên trong<br />
chế độ mới của Hồ Chí Minh, trở thành bài học<br />
quý giá còn nguyên giá trị về sử dụng trí thức, hiền<br />
tài phục vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.<br />
Thực tiễn cho thấy, chính tầm tư duy chiến lược,<br />
nhạy bén, cách đánh giá con người chính xác, thấu<br />
tình đạt lý giữa đức và tài, cũng như cách sử dụng<br />
người trí thức không dựa vào nguồn gốc hay thành<br />
phần xuất thân, không phân biệt Đảng phái, quan<br />
điểm chính trị mà dựa vào khả năng cống hiến và<br />
lòng nhiệt tình cách mạng, lấy hiệu quả công việc,<br />
khả năng đóng góp với đất nước làm tiêu chí đánh<br />
giá, trọng dụng trí thức, vì thế trong điều kiện Nhà<br />
nước cách mạng còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã trực<br />
tiếp xây dựng đội ngũ trí thức tài đức, tâm huyết,<br />
cống hiến hết mình cho đất nước. Biết bao trí thức<br />
với những tài năng, đức độ và cả những cá tính<br />
khác nhau đã đồng hành cùng dân tộc trong hai<br />
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp<br />
và đế quốc Mỹ với sự tin dùng và ân cần chỉ bảo,<br />
chăm sóc của Người. Họ đã có sự nghiệp vẻ vang<br />
trong vinh quang của Tổ quốc Việt Nam.<br />
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng<br />
công tác đào tạo và trọng dụng trí thức của<br />
Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước<br />
Thực tiễn 25 năm đổi mới của đất nước ta đã<br />
khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong<br />
sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tầm quan<br />
trọng của việc phát huy vai trò của lực lượng đại<br />
biểu cho trí tuệ của dân tộc, nhân tố quyết định<br />
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới<br />
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vấn đề đào tạo<br />
và phát huy năng lực sáng tạo của trí thức vẫn còn<br />
những hạn chế, bất cập. Do vậy, học tập và vận<br />
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đào tạo và<br />
sử dụng trí thức nước ta hiện nay có ý nghĩa rất<br />
quan trọng và cần thiết.<br />
Số 11, tháng 12/2013 58<br />
<br />
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên<br />
Một là, đào tạo trí thức là góp phần nâng tầm<br />
trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước; đầu tư<br />
xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển<br />
bền vững.<br />
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã<br />
có những chủ trương, chính sách quan trọng xây<br />
dựng đội ngũ trí thức để ngang tầm với sự nghiệp<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chẳng<br />
hạn, thực hiện Chiến lược giáo dục 2001 - 2010,<br />
nhất là Nghị quyết số 14/2005/NQ - CP ngày 0211-2005 của Chính phủ Về đổi mới cơ bản và toàn<br />
diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006 –<br />
2020; quy hoạch lại hệ thống đào tạo Đại học; đầu<br />
tư mạnh cho giáo dục - đào tạo, chi ngân sách đã<br />
tăng lên đáng kể (từ 12% năm 1990 lên 20% năm<br />
2007); chủ trương xã hội hóa giáo dục đã đi vào<br />
cuộc sống, huy động được nhiều nguồn lực xã hội<br />
đầu tư cho giáo dục - đào tạo.<br />
Thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về học<br />
tập suốt đời, nhằm tạo cơ hội học tập cho mọi đối<br />
tượng, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã sửa đổi Quy chế<br />
đào tạo nghiên cứu sinh. Theo Quyết định số 18<br />
- QĐ/BGD&ĐT ngày 8-6-2000 thì việc đào tạo<br />
Tiến sĩ không giới hạn bởi tuổi tác. Để đa dạng<br />
hóa nguồn lực trí tuệ theo xu hướng của thời đại,<br />
cùng với đào tạo trí thức ở trong nước, Đảng và<br />
Nhà nước ta chủ trương đào tạo trí thức ở nước<br />
ngoài, nhất là ở các nước có nền giáo dục - đào<br />
tạo, khoa học - công nghệ phát triển. Những chính<br />
sách, biện pháp trên đã góp phần khơi thông nhiều<br />
khó khăn, ách tắc trong công tác đào tạo, tạo điều<br />
kiện để đội ngũ trí thức tăng nhanh về số lượng,<br />
nâng lên về chất lượng, về cơ bản đáp ứng được<br />
những yêu cầu mới đặt ra của sự nghiệp cách mạng<br />
của nhân dân ta.<br />
Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch<br />
Hồ Chí Minh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc<br />
yếu” (12), Đảng ta xác định mục tiêu “Xây dựng<br />
đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm<br />
trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng<br />
cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt<br />
động của hệ thống chính trị. Ðầu tư xây dựng đội<br />
ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững” (13).<br />
Hiện nay nước ta đang thiếu hụt nguồn nhân lực<br />
chất lượng cao, đó là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản<br />
lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp<br />
giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học - công<br />
nghệ đầu đàn, vì vậy nguy cơ “tụt hậu” xa hơn về<br />
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên<br />
thế giới là vô cùng lớn. Đây chính là một trong<br />
những điểm nghẽn kìm hãm sự phát triển nhanh và<br />
<br />
59<br />
<br />
bền vững ở Việt Nam. Do vậy, Văn kiện Đại hội<br />
Đảng lần thứ XI đã khẳng định tầm quan trọng của<br />
công tác đào tạo trí thức, nguồn nhân lực chất lượng<br />
cao, là một trong ba khâu đột phá của Chiến lược<br />
phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2020.<br />
Hai là, tạo môi trường thuận lợi, hoàn thiện<br />
chính sách để đội ngũ trí thức phát huy cao độ<br />
năng lực sáng tạo đóng góp hiệu quả vào sự<br />
nghiệp chung.<br />
Thứ nhất, tạo lập môi trường và thực thi dân<br />
chủ trong hoạt động của trí thức. Lao động của<br />
trí thức là lao động sáng tạo. Để trí thức có những<br />
phát minh, sáng kiến, Đảng và Nhà nước ta cần<br />
mở rộng dân chủ trong hoạt động khoa học. Theo<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là dân là chủ, dân<br />
làm chủ, dân chủ là của quý báu nhất, là chìa khóa<br />
vạn năng trong giải quyết mọi công việc. Vận dụng<br />
quan điểm trên đây của Người, Đảng ta chủ trương:<br />
“Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do<br />
tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của<br />
trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội<br />
công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và<br />
điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của<br />
trí thức” (14).<br />
Thứ hai, tạo hành lang pháp lý và điều kiện làm<br />
việc cho trí thức. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học<br />
theo hướng xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu,<br />
bao cấp, trao quyền chủ động cho các cơ sở nghiên<br />
cứu, đào tạo trong việc thiết lập và mở rộng liên<br />
doanh, liên kết để ứng dụng các thành tựu khoa<br />
học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Đại hội XI<br />
của Đảng nêu rõ, đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ<br />
chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học,<br />
công nghệ. Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh<br />
phí Nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các<br />
nhiệm vụ khoa học công nghệ theo hướng lấy mục<br />
tiêu và hiệu quả của ứng dụng là tiêu chuẩn hàng<br />
đầu, chuyển giao các đơn vị khoa học công nghệ<br />
sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.<br />
Thứ ba, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Đây<br />
là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đặc<br />
biệt trong điều kiện hiện nay, khi mà sản phẩm<br />
của lao động chứa hàm lượng trí tuệ ngày càng<br />
nhiều thì việc Đảng và Nhà nước ta phải có những<br />
chủ trương, chính sách rất cụ thể, thiết thực khai<br />
thác tiềm năng của đội ngũ trí thức là một đòi hỏi<br />
cấp bách. Trong các chính sách đối với trí thức<br />
nói chung thì chính sách đãi ngộ và tôn vinh đúng<br />
mức với những đóng góp của họ cho công cuộc<br />
xây dựng đất nước có thể coi là quan trọng nhất để<br />
tập hợp, lôi cuốn họ lao động sáng tạo. Văn kiện<br />
Số 11, tháng 12/2013 59<br />
<br />
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên<br />
Đại hội XI của Đảng, một lần nữa, chỉ rõ: “Có<br />
chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với<br />
những nhân tài của đất nước” (15).<br />
Các văn bản của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra<br />
những cách thức trọng dụng và tôn vinh nhân tài<br />
cụ thể, phong phú bao gồm cả vật chất và tinh thần<br />
như: Giao cho các nhân tài làm chủ nhiệm chương<br />
trình, đề tài, tham gia nghiên cứu các nhiệm vụ<br />
khoa học trọng điểm của Nhà nước, Bộ, Ngành,<br />
địa phương; Tạo điều kiện thuận lợi về nhà ở,<br />
lương, điều kiện làm việc, kéo dài thời gian làm<br />
việc cùa các nhà khoa học; tôn vinh các nhân tài<br />
bằng nhiều danh hiệu, giải thưởng: Nhà giáo Ưu<br />
tú, Nhà giáo Nhân dân, Giải thưởng Hồ Chí Minh,<br />
Giải thưởng Nhà nước... dành cho những trí thức,<br />
văn nghệ sĩ có cống hiến đặc biệt xuất sắc. Kế thừa<br />
quan điểm của Hồ Chí Minh là không bỏ sót nhân<br />
tài, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương, chính sách<br />
thu hút, trọng dụng trí thức Việt kiều để họ có điều<br />
kiện mang tài trí của mình góp phần xây dựng đất<br />
nước giàu mạnh.<br />
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã quan tâm<br />
sâu sắc và ngày càng nhận thức rõ vai trò sáng tạo,<br />
phát minh và phản biện xã hội của đội ngũ trí thức.<br />
Trên cơ sở đó, đội ngũ trí thức đã có nhiều đóng<br />
góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới của đất nước,<br />
tạo điều kiện để Việt Nam ngang tầm thời đại, tiến<br />
bước vào thiên niên kỷ mới.<br />
3. Kết luận<br />
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ việc đánh giá đúng đắn<br />
vị trí, vai trò của trí thức cho đến việc đào tạo và<br />
trọng dụng đội ngũ trí thức phục vụ đắc lực cho<br />
sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân dân ta.<br />
Những hành động thực tiễn của Người đã toát lên<br />
những tư tưởng lớn, những tình cảm sâu sắc, tỏ<br />
<br />
60<br />
<br />
rõ tầm trí tuệ và phẩm cách của một lãnh tụ thiên<br />
tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức là nền tảng<br />
tư tưởng, kim chỉ nam tiếp tục soi sáng cho Đảng,<br />
Nhà nước và nhân dân ta trong việc hoạch định<br />
một chiến lược lâu dài, bền vững xây dựng, phát<br />
triển đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu của công<br />
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.<br />
Chú thích:<br />
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 7, tr.30-31<br />
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 6, tr.172<br />
(3 ) V.I.Lênin: Toàn tập (2005), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 40, tr. 218<br />
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 5, tr.155<br />
(5) Sđd, tập 5, tr.235<br />
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 9, tr.228<br />
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 12, tr. 504<br />
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 8, tr.127<br />
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc<br />
gia, Hà Nội, tập 4, tr.99<br />
(10) Sđd, tập 12, tr.567<br />
(11) Sđd, tập 4, tr.989<br />
(12) Sđd, tập 4, tr.16<br />
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam (2008): Văn kiện Hội<br />
nghị 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính<br />
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.90-91.<br />
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam (2008): Văn kiện Hội<br />
nghị 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, NXB Chính<br />
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.92<br />
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội<br />
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia,<br />
Hà Nội, tr.49<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
Bùi Thị Ngọc Lan. 2002. Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2008. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa X. NXB<br />
Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam.2011.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Nguyễn Khánh Bật. 2012. Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br />
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng. 2004. Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia. NXB Chính trị<br />
Quốc gia. Hà Nội.<br />
Nguyễn Đắc Hưng. 2005. Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Nguyễn Văn Khánh. 2012. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng. NXB Chính trị<br />
Quốc gia. Hà Nội.<br />
V.I.Lênin. 2005. Toàn tập. tập 40. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
Hồ Chí Minh. 2000. Toàn tập. tập 4,5,6,7,8,9,12. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội.<br />
<br />
Số 11, tháng 12/2013 60<br />
<br />