HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ VĂN TÁCH
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,
Trường Sĩ quan Lục quân 1)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ VĂN TÁCH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,
Trường Sĩ quan Lục quân 1)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 9229040
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS VĂN ĐỨC THANH
HÀ NỘI - 2020
2. PGS,TS LÂM QUỐC TUẤN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Lê Văn Tách
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
9
VIỆT NAM
1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị 9
1.2. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 21
1.3. Đánh giá chung và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 28
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ
34
NGHIÊN CỨU
2.1. Lý luận về văn hóa chính trị 34
2.2. Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 50
2.3. Khái lược về khách thể nghiên cứu 54
Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ
66
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội 66
3.2. Đặc điểm văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 104
Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
114
NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 114
4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 126
148
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
152
PHỤ LỤC
165
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQP : Bộ Quốc phòng
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
Học viện Chính trị : HVCT
Nhà trường quân đội : NTQĐ
Quân đội nhân dân : QĐND
Quân ủy Trung ương : QUTW
TCN : Trước Công nguyên
: TSQLQ1 Trường Sĩ quan Lục quân 1
VHCT : Văn hóa chính trị
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy 69
Bảng 3.2. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên 73
Bảng 3.3. Nhận định về triết lý chính trị của học viên 83
Bảng 3.4. Nhận định về chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của học viên 87
Bảng 3.5. Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên 88
Bảng 3.6. Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả
trong hoạt động thực tiễn của học viên 94
Bảng 3.7. Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của
học viên 95
Bảng 3.8. Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức của
học viên 96
Bảng 3.9. Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên 97
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy 68
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của lãnh đạo, chỉ huy 71
Biểu đồ 3.3. Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên 72
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của giảng viên 75
Biểu đồ 3.5. Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên 76
Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt đông chính trị
và thái độ chính trị của học viên 78
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của học viên 79
Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế
và thiết chế văn hóa chính trị của học viên 91
Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức trong
nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội
của học viên 93
Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của giảng viên và học viên 100
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện của đời sống, giữ vai trò
nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu đồng thời trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển, tiến bộ của con người. Thế giới quan và phương pháp luận mác xít khẳng định,
trong mối quan hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể nhưng cũng đồng thời là sản
phẩm của văn hóa.
Vớí tính cách là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa, văn
hóa chính trị (VHCT) là hệ giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, có vai trò quan trọng
trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá
nhân hay một cộng đồng. Văn hóa chính trị giúp chủ thể cũng như thể chế, thiết chế
chính trị giữ được sự ổn định, minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị,
đặc biệt là trong điều kiện cầm quyền và thực thi quyền lực.
Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian vừa qua đã chứng
minh, những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới xuất phát từ việc Đảng ta
nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò quan trọng của văn hóa nói chung và VHCT nói
riêng. Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ
thị về văn hóa [38, tr.91], những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến nhận thức lý luận
của Đảng về văn hóa. Tuy nhiên, trong văn kiện, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ:
So với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động
có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và
trong xã hội có chiều hướng gia tăng [38, tr.44-45].
Những hạn chế yếu kém đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân quan trọng do nhận thức về VHCT của chủ thể còn hạn chế, chưa theo
kịp yêu cầu của sự phát triển.
Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng: “Xây dựng văn
hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng,
trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [9, tr.95].
2
Đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và phát
triển văn hóa luôn được Quân uỷ Trung ương (QUTW) và Bộ Quốc phòng (BQP), trực
tiếp là Tổng cục Chính trị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó nhận thức về văn hóa của
quân nhân ngày càng được nâng lên; mỗi đơn vị quân đội thực sự là một pháo đài vững
chắc về chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa trong nhân cách
quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu tranh ngăn chặn và đẩy
lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã hội, xây dựng tổ chức
đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Đối với nhà trường quân đội (NTQĐ) (trong luận án, nghiên cứu sinh sử
dụng cụm từ NTQĐ thay cho nhà trường QĐND Việt Nam để đảm bảo ngắn gọn và
tạo sự thống nhất trong cách gọi tên), nơi đào tạo đội ngũ sĩ quan, những người có
vai trò hết sức quan trọng, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tương lai, yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và
VHCT nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa mang tính đặc thù của hoạt
động quân sự, vừa mang tính sư phạm, vì vậy ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phát huy vai trò VHCT, với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Trong tình hình hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT trong NTQĐ đã và đang
đặt ra những thách thức với những khó khăn, trở ngại: nhận thức của các chủ thể về
văn hóa nói chung và VHCT nói riêng chưa thật đầy đủ, thiếu sâu sắc, chưa thực sự
đi vào chiều sâu bản chất; các giá trị VHCT chưa được phát huy; thực tiễn hoạt
động văn hoá và VHCT còn thiếu sự thống nhất, mang tính hình thức, nhất thời,
không có sự gắn kết với tình hình chung của đất nước, quân đội và đặc điểm của
mỗi trường, thậm chí cực đoan, với các biểu hiện: suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham nhũng; nói nhiều làm ít; biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chất lượng đào tạo của NTQĐ có mặt chưa
thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là nguyên nhân dẫn đến những hệ lụy như: tư tưởng ngại học, ngại rèn, tâm lý
đám đông, sự vô cảm, tình trạng bạo lực, quân phiệt gia tăng; những giá trị truyền
thống không được bảo lưu đầy đủ và phát huy; tiếp nhận và phổ biến tràn lan những
hiện tượng núp dưới danh nghĩa cái mới, cái hiện đại một cách thiếu chọn lọc ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và tác động xấu đến chất
lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị. Thực trạng đó không chỉ tác động tiêu cực
3
đến đời sống của quân nhân trong NTQĐ mà nghiêm trọng hơn có nguy cơ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng trong tình mới.
Những khó khăn, thách thức đặt ra ở trên chỉ có thể được giải quyết triệt để
khi chủ thể VHCT trong NTQĐ nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo các quy
luật trong xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu thúc đẩy, nâng cao
VHCT nói riêng phù hợp với môi trường sư phạm quân sự, nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, đã đến lúc cần thiết phải có những nghiên cứu cơ bản, có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong NTQĐ hiện nay.
Xuất phát từ những tiền đề nêu trên, cho phép khẳng định, việc nghiên cứu
một cách cơ bản, có hệ thống Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay dưới góc độ văn hóa học là hướng nghiên cứu mang tính
khả thi, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, là vấn đề vừa mang tính cấp
thiết vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó
rút ra một số vấn đề về VHCT trong NTQĐ hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến VHCT trong nhà trường
quân đội.
- Làm rõ lý luận về VHCT trong nhà trường quân đội.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện nay.
- Dự báo những yếu tố tác động, nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT
trong NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT trong NTQĐ hiện nay, với tính
cách là một thiết chế văn hóa đặc thù trong môi trường sư phạm quân sự.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Văn hóa chính trị trong NTQĐ, trong đó chủ
yếu tập trung mô tả và khảo sát trên các biểu hiện: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị
VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị.
4
- Phạm vi không gian: luận án lựa chọn khách thể nghiên cứu là NTQĐ,
trong đó tập trung khảo sát và đánh giá ở hai trường điển hình của quân đội về hai
loại hình đào tạo: cán bộ chính trị và cán bộ quân sự, ở hai cấp độ đào tạo là cấp học
viện và cấp trường sĩ quan, đó là: Học viện Chính trị (HVCT) và Trường Sĩ quan Lục
quân 1 (TSQLQ1), trong đó có so sánh với Học viện Phòng không - Không quân.
- Phạm vi thời gian: số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu khảo được sát
trong giai đoạn từ 2016 - 2019.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) về văn
hóa và con người; về giáo dục, đào tạo và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW
và BQP, Tổng cục Chính trị, các văn bản của NTQĐ để khảo sát, đánh giá làm rõ
bản chất, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Xuất phát từ nhận thức, nghiên cứu văn hóa hay văn hóa học là chuyên ngành
khoa học về văn hóa, mang tính tổng hợp và liên ngành, luận án sử dụng tập hợp các
quan điểm mang tính chất lý luận chuyên ngành văn hóa học và các phương pháp liên
ngành như: triết học văn hóa, xã hội học văn hóa, nhân học, chính trị học, giáo dục học
và tâm lý học. Quá trình vận dụng các phương pháp, luận án sử dụng một cách linh
hoạt, tổng hợp các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học như: phân tích - tổng hợp,
diễn dịch - quy nạp, mô tả, chứng minh, lý giải để làm rõ những nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về vấn đề nghiên
cứu, làm nền tảng cho việc xây dựng mục tiêu, phương hướng của đề tài. Đây là
phương pháp được sử dụng xuyên suốt của đề tài từ khi hình thành ý tưởng cho tới
khi hoàn thành nghiên cứu. Đồng thời, các thông tin cũng sẽ được sử dụng vào quá
trình thực hiện đề tài nhằm miêu tả, làm rõ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay,
trên cơ sở đó rút ra những nhận định khoa học nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án.
Các nguồn tài liệu bao gồm các bài viết trong tạp chí, tư liệu từ internet có
liên quan đến VHCT trong NTQĐ hiện nay; các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm,
5
nhiệm kỳ của NTQĐ, của một số bộ, ngành có liên quan; trong đó tập trung chủ yếu
là các báo cáo tổng kết tại HVCT, TSQLQ1 và Học viện Phòng Không - Không quân.
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn và điều tra xã hội học
Phương pháp quan sát là một phương pháp bổ trợ được sử dụng để thu thập
thông tin về đối tượng nghiên cứu thông quan tri giác trực tiếp và ghi chép trung thực
những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong luận án,
nghiên cứu sinh sử dụng cách thức quan sát công khai và không công khai, quan sát
cơ cấu hóa và quan sát phi cơ cấu hóa để mô tả đối tượng, để kiểm tra giả thuyết và
kiểm tra thông tin từ các phương pháp khác, nhằm làm rõ hơn và bổ sung các thông
tin mà tác giả thu thập được. Nội dung quan sát chủ yếu tập trung vào các khía cạnh
về hoạt động giảng dạy, học tập, các hoạt động định hướng, rèn luyện giá trị văn hóa
cho học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay.
Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học
thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp của người đi hỏi và người được hỏi
nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục đích nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp
này trong nghiên cứu không phải để tìm hiểu một cách đại diện về tổng thể mà giúp nhà
nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là một trong những
phương pháp thu thập thông tin quan trọng bởi vì có rất nhiều thông tin định lượng chỉ
thực sự có ý nghĩa khi những thông tin đó kết hợp với những thông tin định tính thu được
từ phỏng vấn sâu.
Nghiên cứu phỏng vấn 30 trường hợp tại hai đơn vị là HVCT và TSQLQ1 trong
đó bao gồm các đối tượng là giảng viên và học viên cung cấp những thông tin phục vụ
cho việc nghiên cứu của luận án. Cụ thể 10 trường hợp đối với học viên, 20 trường hợp
đối với giảng viên, cán bộ quản lý ở hai trường khảo sát nhằm để thu thập những ý kiến
đánh giá của họ về thực trạng định hướng VHCT và tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm,
đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong việc nâng cao VHCT cho các chủ thể.
Thời gian cho một cuộc phỏng vấn tùy thuộc vào từng tiêu chí và đặc điểm đối
tượng được phỏng vấn. Công cụ thu thập thông tin là bản hướng dẫn phỏng vấn sâu đã
được thiết kế sẵn [PL 2, tr.171-173].
Toàn bộ thông tin thu thập, sẽ được tiến hành tổng quan, sắp xếp, chia tư liệu
thành các chủ đề với các tiêu chí về nội dung thông tin, cuối cùng là chọn lọc các thông
tin có giá trị để làm luận cứ, luận chứng cho luận án.
6
Điều tra bằng bảng hỏi là cách thức thu thập thông tin được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu điều tra xã hội học. Với những ưu điểm của phương pháp này
như: cho phép thu thập thông tin từ những tổng thể có quy mô lớn, có tính đại diện
cao, xét trong điều kiện thực hiện luận án là phù hợp nên nghiên cứu sinh sử dụng
phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo để thu thập thông
tin cho nghiên cứu này. Đây là dữ liệu quan trọng để phân tích trong chương 3 và
chương 4 của luận án.
* Cách thức chọn mẫu
Lựa chọn xuất phát từ thực tế khách quan trong nghiên cứu, hiện nay hệ thống
các nhà trường QĐND Việt Nam được tổ chức rất đa dạng với số lượng trên hàng
trăm nhà trường. Vì vậy, tác giả chỉ lựa chọn hai nhà trường điển hình cụ thể theo
mục tiêu nghiên cứu của luận án là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (đại diện
khối học viện và thuộc nhóm trường chính trị) và Trường Sĩ quan Lục quân 1 (đại
diện cho khối trường sĩ quan, thuộc nhóm trường quân sự) để khảo sát và đánh giá
thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.
* Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức sau:
Trong đó:
N là số người cần điều tra
hệ số tin cậy = 1,96 với độ tin cậy 95% (xác xuất α = 0,05)
p = 0,5 là tỷ lệ học viên đang học tập tại hai địa bàn nghiên cứu.
d là sai số chấp nhận bằng 5%
Như vậy, cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu mô tả theo công thức tính toán tối
thiểu là 300 mẫu để khảo sát. Đây là cỡ mẫu tối thiểu cho phép phân tích thống kê.
Để tránh trường hợp đối tượng phỏng vấn từ chối trả lời, nghiên cứu sinh lấy thêm
40 mẫu dự phòng trong cùng một danh sách chọn mẫu. Bằng cách này, nghiên cứu
đã đảm bảo được số lượng mẫu cần thiết 300 mẫu được khảo sát tại hai trường. Đặc
điểm của mẫu khảo sát và người cung cấp thông tin được thể hiện trong (Phụ lục 3).
Công cụ thu thập thông tin là bảng hỏi được thiết kế theo một trình tự lôgic,
gồm 7 câu hỏi (Phụ lục số 1). Tiến hành điều tra 300 mẫu, nhằm làm rõ thêm thực
trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.
7
* Cách thức xử lý thông tin:
Sau khi khảo sát và thu về được 300 đơn vị mẫu. Toàn bộ thông tin thu được
từ bảng hỏi sẽ được tổng hợp, mã hoá, nhập, làm sạch và sẽ được xử lý qua phần
mềm SPSS version 22.0 theo các biến số cơ bản. Kết quả cho thấy, nhìn chung chất
lượng số liệu đảm bảo độ tin cậy, logic, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nghiên cứu.
Trong luận án, tác giả sử dụng hệ số tương quan Pearson, mô hình hồi quy
logit nhị phân (Binary Logistic) để phân tích sự tương quan giữa các yếu tố, kiểm
định giả thuyết.
H0: không có mối quan hệ giữa các biến.
H1: có mối quan hệ giữa các biến.
Dựa vào giá trị p (p-value) để kết luận là chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0
dựa trên mức độ tin cậy nhất định (thông thường p <0,05).
p-value (sig.) ≤ α (mức ý nghĩa 0,05) bác bỏ giả thuyết H0. Có mối quan
hệ có ý nghĩa giữa các biến cần kiểm định.
p-value (sig.) > α (mức ý nghĩa 0,05) chấp nhận H0. Không có mối quan
hệ giữa các biến cần kiểm định.
* Các biến số độc lập được sử dụng
Các biến số độc lập được xem xét bao gồm: độ tuổi, cấp bậc quân hàm, học
viên năm mấy, trường đang học, điều kiện sống của gia đình học viên, nơi ở của học
viên sinh sống (trước khi học tập), v.v..
- Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này giúp nghiên cứu sinh có được những ý kiến tham khảo và
định hướng từ các chuyên gia có trình độ cao và có những kinh nghiệm, hiểu biết
sâu sắc về những vấn đề liên quan để xem xét, nhận định, đánh giá về VHCT trong
NTQĐ, đồng thời cũng là điều kiện để tác giả kiểm chứng và khắc phục những hạn
chế trong quá trình nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về lý luận
- Góp phần quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách khoa học, sáng tạo quan
điểm của Đảng về phát triển văn hóa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán
bộ quân đội của Đảng.
8
- Luận án hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT; đưa ra
quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và đặc điểm VHCT trong NTQĐ hiện
nay dưới góc độ văn hóa học.
5.2. Về thực tiễn
- Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó rút ra
những vấn đề làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cán bộ quân đội.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong NTQĐ, đồng thời luận án có
thể được sử dụng như một tài liệu bổ trợ giúp nâng cao chất lượng hoạt động công
tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và cán bộ làm
công tác văn hóa nói riêng trong môi trường quân đội.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết, trong đó:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trị
trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.
Chương 2: Lý luận về văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam và khái lược về khách thể nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Những yếu tố tác động và một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa
chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1.1.1. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là một thực thể xã hội
Tiếp cận nghiên cứu VHCT với tính cách là một khoa học chỉ thực sự bắt
đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX và được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu
chính trị của châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT
đã xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của con người. Khởi đầu của tư tưởng
về VHCT xuất phát từ việc tìm hiểu và giải thích bản chất và cách thức của sự cai
trị (thuật cai trị) hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực của các nhà tư tưởng
cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông.
Ở phương Tây, từ các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại (thế kỷ V- TCN) cho
đến các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII), VHCT được xem xét như là
đối tượng nghiên cứu của triết học, nghĩa là được nghiên cứu với tính cách một thực
thể xã hội. Các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại tiêu biểu như Platon (428 - 348,
TCN), Aristotle (384 - 322, TCN) là những người đầu tiên tiếp cận VHCT và đưa ra
quan niệm chính trị vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật. Có thể nói, Platon và
Aristotle được xem là những người đi đầu trong cách tiếp cận VHCT truyền thống
phương Tây khi đặt ra được vấn đề quan điểm, thái độ ứng xử của con người đối với
quyền lực, đồng thời định hướng cách thức làm thế nào để quản lý tốt các mối quan
hệ xã hội; khẳng định vai trò của chính thể đối với người dân là thực sự quan trọng.
Nếu như trong tác phẩm “Nền cộng hòa” (The Republic), Platon đã cho rằng,
các chế độ chính trị truyền thống cần thiết phải được điều hành bằng một tầng lớp
cầm quyền mới, đó là các nhà triết học được giáo dục tốt, bởi vì suy cho cùng mục
đích của triết học là xây dựng nhà nước lý tưởng, trong khi nhân cách của con
người chỉ có thể được hoàn thiện trong một tổ chức nhà nước thực sự hợp lý, thì
Aristotle lại cho rằng, chính trị có vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại
của con người và khẳng định “con người là động vật chính trị”. Chính trị và luân
thường có sự liên kết chặt chẽ với nhau, một đời sống có đạo đức chỉ thực sự có ở
những người tham gia vào đời sống chính trị, mục đích cao nhất của chính trị và sứ
10
mệnh của người cầm quyền là không chỉ đảm bảo quyền sống mà còn đặt ra yêu cầu
đòi hỏi phải làm thế nào để có được sống tốt hơn. Các thể chế chính trị có nguy cơ
bị tha hóa nếu quyền lực không thực sự thuộc về quần chúng, Aristotle đã sử dụng
từ “demosthe” (quần chúng, dân thường) thay vì “democracy” (dân chủ) và
“ochlocracy” (chính quyền quần chúng hay thường dân cai trị).
Coi trọng và đề cao vai trò của các nhà triết học - những người có kỹ năng
đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội, Platon cho rằng: “Loài người sẽ không tránh
được cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa
giữ được các chức trách nhà nước hoặc là các nhà cầm quyền chưa trở thành các
nhà triết học chân chính” [dẫn theo 149, tr.19].
Triết gia người Italia N.B Machiavelli (1469 - 1527) - “một trong những
người khổng lồ của thời đại Phục hưng” (chữ dùng của F. Engels), trong luận thuyết
về chủ nghĩa hiện thực chính trị qua tác phẩm “Quân vương” (The Prince) đã đề
nghị cần có một tầm nhìn thế giới về chính trị đồng thời lên án quan điểm đạo đức
truyền thống của giới cầm quyền với những hành vi chính trị xảo quyệt và thủ đoạn.
N.B Machiavelli đã phê bình mạnh bạo tư tưởng duy lý phi tôn giáo, lòng căm ghét
bọn quý tộc ăn bám và thể hiện khát vọng muốn xây dựng Italia thành một quốc gia
thống nhất, tự do, bình đẳng với một chính quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây
dựng trật tự mới. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo đương thời tiếp
thu và thực hiện.
Thời kỳ Khai sáng, thế kỷ XVIII cùng với sự bùng nổ của các tư tưởng triết
học, các học thuyết chính trị xã hội cũng xuất hiện hết sức đa dạng và phong phú
với các tên tuổi như: J. Loker; D. Diderot; S. L. Montesquieu; J. Rousseau...
Tư tưởng về VHCT của S. L. Montesquieu (1689 - 1755) thể hiện ở chủ
trương tam quyền phân lập nhằm giữ vững cán cân quyền lực. Đây là tư tưởng tiến bộ
đương thời vì đã loại bỏ tư tưởng và tàn dư của chế độ phong kiến đồng thời cũng thể
hiện tư tưởng VHCT cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng của S. L. Montesquieu.
Với J. Rousseau (1712 - 1778), quyền lực phải thuộc về nhân dân thông qua đại diện
và luật pháp không phải do các cơ quan đại diện ban hành mà phải do dân chúng trực
tiếp lập ra. Mục tiêu của chính quyền nhà nước là phải bảo đảm tự do, bình đẳng và
công bằng cho tất cả mọi người. Theo J. Rousseau, triết học chính trị gắn liền với đạo
đức, nhà nước không thực hiện được các giá trị đạo đức thì sẽ không thực hiện đầy đủ
11
các chức năng vốn có của mình. Có thể nói, tư tưởng chính trị của J. Rousseau đã thể
hiện tinh thần cấp tiến hơn so với các nhà tư tưởng đương thời.
Theo dòng thời gian, thuật ngữ VHCT được biết đến lần đầu tiên khoảng
cuối thế kỉ XVIII ở châu Âu do các nhà triết học, chính trị học sử dụng. Triết gia cổ
điển Đức I. G. Gerzer (1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương
tác giữa văn hóa và chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín
muồi của VHCT” hay “những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương
pháp triết học lịch sử nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1].
Tuy nhiên phải đến thập niên 50 - 60 của thế kỉ XX, VHCT mới được quan
tâm như một lĩnh vực nghiên cứu mang tính độc lập và khái niệm VHCT mới thực
sự gia nhập vào hệ thống khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị gắn với tên
tuổi của hai nhà chính trị học nổi tiếng người Mỹ là G. Almond và S.Verba. Theo
quan niệm của họ, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, vì vậy khi xem
xét hành vi chính trị phải tính đến các nhân tố văn hóa, tâm lý cá nhân và của toàn
xã hội. Trong tài liệu nghiên cứu “Các hệ thống chính trị so sánh” (Comparative
Political Systems), năm 1956 [164], G.Almond cho rằng, văn hóa của cộng đồng có
ảnh hưởng đến hệ thống chính trị của các cộng đồng đó và ông sử dụng thuật ngữ
“VHCT” (Political Culture) để so sánh, đối chiếu sự khác biệt giữa các nền chính
trị. Theo G. Almond “Mỗi hệ thống chính trị đều bắt rễ từ trong một loại định
hướng xác định riêng, tôi phát hiện thấy điều này rất hữu dụng và gọi nó là văn hóa
chính trị” [164, tr.15]. Năm 1963 G Almond và S. Verba đã xuất bản một trong
những tác phẩm được xem là kinh điển cho nghiên cứu VHCT ở phương Tây là
“Văn hóa công dân” (The Civic Culture) [166], trong đó cho rằng, VHCT bao gồm
các yếu tố nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và giá trị chính trị đồng thời đưa ra
ba loại hình cơ bản của VHCT trong lịch sử là văn hóa bộ lạc, văn hóa thần thuộc,
văn hóa tham dự hay còn gọi là văn hóa công dân.
Một trong những nhà nghiên cứu chính trị hàng đầu của Mỹ thế kỷ XX là L.
Pye trong khi biên soạn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế” (International
Encyclopedia of the Social Sciences) vào năm 1961 [169] đã đưa ra định nghĩa về
VHCT như sau: “VHCT là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý
nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận
hành của một chính thể”, đồng thời khẳng định: “VHCT là sản phẩm bao gồm lịch sử
12
tập thể của hệ thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó,
do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [169, tr.220].
Ở phương Đông, Nho giáo đã mở đầu cho việc tiếp cận VHCT với tính cách
là một thực thể xã hội. Bằng mệnh đề: “việc chính trị cốt ở chính tâm của người trị
dân” [79, tr.429], Khổng Tử (551 - 479 TCN) cho rằng, những người trị dân là
những “chính nhân quân tử”, khác với hạng “ tiểu nhân” và ông luôn đề cao vai trò,
trách nhiệm của những người “quân tử” hay “người hiền”. Quốc gia có “thái bình
thịnh trị” hay không phụ thuộc vào việc giữ “Lễ”, tuân theo “Đạo” hay sự chính
danh của người “quân tử” và yêu cầu phải giữ được “tam cương, ngũ thường”, đó
chính là “văn trị” (cai trị bằng văn) nghĩa là, chính trị phải có văn hóa. Học thuyết
chính trị - đạo đức của Khổng Tử đã thể hiện rõ nét quan niệm về VHCT của ông, ở
đó chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng
đến VHCT của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng “văn trị” của
Khổng Tử tiếp tục được các thế hệ học trò của ông kế thừa và phát triển, trong số
đó, phải kể đến Mạnh Tử (372 - 289 TCN), với tư tưởng “văn trị giáo hóa” và được
hiểu là chính trị gắn với giáo dục. Theo Mạnh Tử, “chính giỏi không thể tranh thủ
được dân bằng giáo giỏi. Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu” [32, tr.308].
Mạnh Tử là người đề xuất chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”,
ông cũng là người đưa ra thuyết “tính thiện” của con người rằng con người sinh ra
đã là “thiện” rồi, “nhân chi sơ bản tính thiện”, tư tưởng này đối lập với thuyết “tính
ác” của Tuân Tử rằng “nhân chi sơ bản tính ác”. Ông cho rằng “kẻ lao tâm trị người
còn người lao lực thì bị người trị”. Học thuyết của ông được gói gọn trong các chữ
“Nghĩa”, “Trí”, “Lễ”, “Tín”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người “quân tử” phải có
“hạo nhiên chính khí”, cần “lấy Đức thu phục người khác”, theo ông “người nhân từ
khắp thiên hạ không có kẻ thù nào” [dẫn theo 149].
Vào thời kỳ “Bách gia chư tử”, ở Trung Hoa, Lão Tử (580 - 500, TCN) cũng
được xem là tư tưởng gia lỗi lạc trong việc đề xuất chủ trương cai trị với phương châm
“vô vi nhi trị”, nghĩa là cai trị bằng cách không cai trị. Trong cuốn “Lão Tử - Đạo đức kinh” [76] - cuốn sách hướng dẫn dành cho các vị vua về thuật cai trị đất nước như
thế nào cho hợp với “Đạo”, ông cho rằng: “Không tán dương người quyền quý thì
người dân không tranh tụng” và “Không đề cao giá trị đồ quý thì người dân không
tranh cướp”. Như vậy, Lão Tử đã thể hiện một quan niệm mới trong cách ứng xử
chính trị của bậc trị nước và đây cũng chính là cách tiếp cậnVHCT của ông.
13
Vào cuối thời Chiến quốc, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử
tư tưởng Trung Hoa cổ đại và cũng là một trong số “Bách gia chư tử” đã xuất hiện
đó là Hàn Phi, hay còn được biết đến với tên gọi là Hàn Phi Tử (281 - 233, TCN).
Là học trò của Tuân Tử (313 - 238, TCN), Hàn Phi theo thuyết “tính ác” của
thầy một cách triệt để và cho rằng, con người bẩm sinh vốn “đại ác”, do đó ông
không bàn đến “Nhân”, “Nghĩa”, cũng không trọng “Lễ” như Tuân Tử, mà đề cao
phương pháp dùng “Thế”, dùng “Thuật”, dùng “Luật” của Pháp gia để trị nước.
Khác với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì phải dùng
“Nhân trị” và “Đức trị”), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp
luật: “Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại
thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu”. Bộ sách “Hàn Phi Tử” [152]
được xem là bộ sách chính trị học vĩ đại, học thuyết chính trị của ông được người
xưa tụng ca là “đế vương chi học”. Xét theo khía cạnh VHCT, tư tưởng “Pháp trị”
của Hàn Phi Tử đã có những tiến bộ nhất định và ảnh hưởng tích cực đến đời sống
chính trị xã hội không chỉ dừng lại ở Trung Hoa cuối thời Chiến quốc.
Tại Ấn Độ, thời kỳ cổ đại do ảnh hưởng của giáo lý Bà La Môn, bộ Luật Manu
xuất hiện (vào thế kỷ II, TCN) đã có những quy định chi tiết về cách ứng xử và địa vị
của từng đẳng cấp trong xã hội. Đây thực chất là những luật lệ, những tập quán thể hiện
thế giới quan của giai cấp thống trị được tập hợp lại dưới dạng trường ca. Nội dung của
bộ luật Manu không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn tập trung vào những vấn đề
trong kiến trúc thượng tầng của xã hội Ấn Độ cổ đại đương thời như: chính trị, tôn giáo
và thế giới quan, vũ trụ quan. Những quy định khắt khe mang tính phân biệt đối xử của
bộ luật Manu làm cho xã hội Ấn Độ cổ đại bị phân hóa sâu sắc. Trong bối cảnh đó,
Phật giáo ra đời (thế kỷ VI - IV, TCN) với chủ trương từ bi, hỷ xả nhằm cứu rỗi và xóa
bỏ những kỳ thị về đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ đương thời. Có thể nói, cùng với bộ
luật Manu và sự ra đời của Phật giáo đã thể hiện sự tiếp cận VHCT trong lịch sử văn
hóa - văn minh của Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói chung.
Như vậy, cùng với sự xuất hiện của chính trị khi chế độ Công xã thị tộc tan
rã thì sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT cũng được đề cập hết sức phong
phú và đa dạng trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng của cả phương Đông và
phương Tây từ cổ đại đến hiện đại. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu và độc lập
14
về VHCT với tính cách là thực thể xã hội chỉ thực sự được bắt đầu từ giữa những
năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của ngành chính trị học gắn liền với tên tuổi của
các nhà nghiên cứu phương Tây và Mỹ. Trong tình hình hiện nay cho thấy, cũng như
khái niệm và quan niệm về văn hóa, các khái niệm và quan niệm về VHCT vẫn còn
rất khó khăn để để đi đến sự thống nhất trong các trường phái, các nhà nghiên cứu.
Mặt khác, những thành tựu đạt được trong nghiên cứu VHCT trên thế giới lại chủ yếu
là do các nhà triết học, chính trị học đóng góp.
Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng và tôn giáo trên
thế giới, tư tưởng về VHCT đã xuất hiện từ rất sớm, đặc biệt là sự chi phối của Phật
giáo, Nho giáo trong thời kỳ độc lập tự chủ thế kỷ X đến thế kỷ XIX và văn hóa
phương Tây giai đoạn giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng sâu sắc
đến lịch sử tư tưởng nói chung, VHCT Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, vấn đề tiếp
cận VHCT ở Việt Nam thời kỳ đầu, chủ yếu được lồng ghép trong các nghiên cứu về
văn hóa và các nhà nghiên cứu đã xem VHCT như một thành tố quan trọng của triết
học và chính trị học, một số công trình đáng chú ý như:
Xuất phát từ góc độ triết học, Nguyễn Hữu Khiển (2006) trong công trình
“Phân tích triết học - Những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị”, Nhà
xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [70] đã tiếp cận nghiên cứu chính trị với tính
cách là một hình thái ý thức xã hội, chỉ ra bản chất của các mối quan hệ tư tưởng (ý
thức) và thực tiễn đời sống chính trị - một bộ phận của đời sống xã hội đang vận
động. Theo tác giả, VHCT thuộc phương diện bản chất của con người và tiếp cận
phạm trù VHCT từ “văn hóa” và “chính trị”, trong đó văn hóa được hiểu với nghĩa
rộng. Xét về mặt bản chất, đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của VHCT là “luôn luôn
được đo bằng lập trường, quan điểm và lòng trung thành với lý tưởng chính trị, tính
trung thực và khiêm nhường; kiên quyết, khéo léo, mưu lược, lòng nhân ái và vị
tha; hướng về Nhân dân và phục vụ Nhân dân một cách có hiệu quả, tất cả những
điều trên làm rõ bản chất của VHCT” [70, tr.100]. Về mặt cấu trúc, tác giả cho rằng,
“VHCT là một hệ giá trị bao gồm nhiều nhân tố cấu thành có quan hệ hữu cơ với
nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau… hình thành nên một cấu trúc hoàn
chỉnh - một hệ thống - trên một cái nền chung là mục tiêu chính trị” [70, tr. 100-
101]. Các yếu tố cấu thành VHCT bao gồm: trình độ trí tuệ và lý luận chính trị; lập
trường giai cấp của mỗi người và tổ chức chính trị; nhu cầu, thói quen, hành vi tự
15
giác, chủ động tích cực của mỗi người trong đời sống chính trị - xã hội tạo thành giá
trị của họ trong đời sống cộng đồng; ý thức về sự đổi mới chính trị và định hướng về
sự đổi mới đó; nền tảng pháp lý của xã hội; chuẩn mực đạo đức trong quan hệ xã hội
của các cá nhân trong đời sống và thái độ của các chính khách. Tuy nhiên cách tiếp
cận và trình bày của tác giả xem ra còn thiên về nhấn mạnh và đề cao tính giai cấp.
Từ góc nhìn triết học, tiếp cận văn hóa với tính cách là một thực thể xã hội, trong
“Giáo trình triết học văn hóa” (Dùng cho đào tạo nghiên cứu sinh và học viên cao
học), (2016) do Văn Đức Thanh (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
[110], mặc dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm VHCT, tuy nhiên xuất phát từ
góc độ triết học, trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận mác xít, lấy khách
thể nghiên cứu là văn hóa, các tác giả đã cho rằng: bản chất của văn hóa dưới góc độ
là một phương diện của đời sống xã hội thể hiện đậm đặc trong mối liên hệ biện
chứng giữa văn hóa với cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội, trong đó, “có thể coi lý luận
cách mạng là nội dung sâu sắc của văn hóa chính trị” [110, tr.41]. Ở mức độ cụ thể
hơn, các tác giả khẳng định:
Hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hệ thống thể chế chính trị, thiết chế
chính trị cùng các hoạt động chính trị của giai cấp cách mạng, tiến bộ với
mục tiêu vì con người, tự nó đã mang đậm giá trị văn hóa với tính cách
dấu ấn của con người và cộng đồng lên lĩnh vực chính trị của một giai cấp,
quốc gia, dân tộc nhất định được phong hóa theo thời gian và tác động trở
lại đối với bản thân nền chính trị đó [110, tr.44].
Điểm đáng chú ý là trong mục “Các nguyên lý của sự phát triển văn hóa”, các
tác giả khẳng định, về mặt hệ thống - cấu trúc: “Hơn nữa bản thân chính trị cũng là
một thành tố của văn hóa - VHCT - trong xã hội có đối kháng giai cấp” [110, tr.97].
Từ góc độ chính trị học, xuất phát từ vị trí, vai trò của VHCT đối với việc
bồi dưỡng cán bộ, đã có một số công trình như: “Văn hóa chính trị và việc bồi
dưỡng đội ngũ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”, (1995), do Phạm Ngọc Quang (Chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [100]; “Nâng cao văn hóa chính trị
của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay”, (2006), Lâm Quốc Tuấn, Nhà
xuất bản Văn hóa Thông Tin và Viện Văn hóa, Hà Nội [149]. Theo đó, các tác giả
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về VHCT và cho rằng, nói đến văn hóa là nói
tới con người, VHCT gắn liền với chủ thể chính trị, trong đó cán bộ lãnh đạo quản
16
lý giữ vai trò là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Khi
đề cập VHCT với tính cách là hệ giá trị thì đó là một hệ thống các hoạt động, các
quan hệ, các thiết chế chính trị phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân, thiện và mỹ. Từ
đó, cho thấy yêu cầu nâng cao VHCT cho cán bộ lãnh đạo quản lý là một tất yếu
khách quan và đề ra phương hướng, nội dung giải pháp để nâng cao VHCT cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay. Nhóm tác giả “Tập bài giảng Chính
trị học”, (2007) do Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), Viện Khoa học Chính trị, Nhà xuất
bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [160], trong khi khẳng định chính trị học là khoa học
nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể trong tính hệ thống, cung cấp những kiến thức
cơ bản về chính trị và chỉ ra những vấn đề có tính quy luật làm cơ sở vận dụng có
hiệu quả vào các hoạt động chính trị nói chung, trong đó VHCT được xem như một
thành tố quan trọng; “Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,(2007) do
Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [67], cho
rằng, VHCT như là một đối tượng nghiên cứu của chính trị học; “Bước đầu tìm
hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam”, (2009), Nguyễn Văn
Huyên - Nguyễn Hoài Văn - Nguyễn Văn Vĩnh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội [68], trong khi khẳng định chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong thực
tiễn, bản chất chính trị, lý tưởng chính trị, trình độ hoạt động chính trị hướng tới
một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con
người, điều đó nói lên VHCT của một nền chính trị; “Văn hóa chính trị và lịch sử
dưới góc nhìn văn hóa chính trị”, (2010) của Phạm Hồng Tung, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội [150], trong đó, tác giả làm rõ các khái niệm cơ bản có
liên quan và được sử dụng phổ biến trong khoa học chính trị phương Tây cũng như
của phương Đông. Bên cạnh những thành tựu mới trong nghiên cứu VHCT, tác giả
còn có những đóng góp trong việc khẳng định vai trò của VHCT không chỉ đối với
chính trị học mà còn là khách thể nghiên cứu và có ý nghĩa phương pháp luận đối
với một số ngành khoa học xã hội; “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây
dựng văn hóa chính trị Việt Nam” (Sách chuyên khảo), (2016) của Nguyễn Minh
Khoa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [73]. Cuốn sách đã trình bày
những vấn đề cơ bản về lý luận văn hóa và VHCT, đồng thời khẳng định, VHCT
Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần vô giá cần được gìn giữ và phát huy. Tác giả
cho rằng, VHCT là một bộ phận của văn hóa, đó là một bộ phận tinh thần của đời
17
sống xã hội, là tổng thể các giá trị, định hướng, quan điểm, sự ứng xử mẫu mực
của các chủ thể chính trị và đóng vai trò then chốt đối với hoạt động của mọi thể
chế chính trị; “Văn hóa chính trị Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,
(2017) do Phan Xuân Sơn chủ nhiệm đề tài, Viện Chính trị học - Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
cấp Bộ năm 2016), [107] từ cách tiếp cận theo tầng nội dung của VHCT với các
giá trị cốt lõi của VHCT Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng
đồng, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần thân dân, tinh thần hòa hiếu và tinh thần
thượng võ, các tác giả đã cố gắng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
VHCT trong bối cảnh hội nhập quốc tế; chỉ ra thực trạng biến đổi của VHCT Việt
Nam trong hội nhập cũng như những hạn chế và đề xuất giải pháp xây dựng và
phát triển VHCT Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Dưới góc độ chính trị học, VHCT cũng được lựa chọn làm đề tài của các
luận văn, luận án và đã được bảo vệ thành công như:“Văn hóa chính trị Việt Nam
và vai trò của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, (1998), luận văn
thạc sĩ của Lê Tấn Lập, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh;
“Văn hóa chính trị của đội ngũ giảng viên đại học nước ta hiện nay - thực trạng và
giải pháp”, (2004), luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực
tiễn”, (2015), luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh); “Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”, (2017), luận án tiến sĩ của Tạ Thành
Chung, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [24].
Nhìn chung, các luận văn và luận án đã tập trung luận giải những vấn đề lý
luận chung về VHCT, khảo sát thực trạng VHCT Việt Nam, từ đó đưa ra những
quan niệm, phương hướng giải pháp để phát triển VHCT đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Cùng với các công trình nêu ở trên cũng đã có nhiều bài báo đăng trên các
tạp chí chuyên ngành nhằm công bố những kết quả nghiên cứu chính trong tiếp cận
nghiên cứu VHCT, một số bài viết đáng chú ý:
“Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội dung
nghiên cứu của chính trị học”, (1992) của Hoàng Chí Bảo, trong “Một số vấn đề về
khoa học chính trị”, Viện Mác - Lênin; “Văn hóa chính trị - một cách nhìn trong thời
18
kỳ đổi mới”, (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10, 11; “Vai
trò của văn hóa chính trị trong việc hình thành phẩm chất và năng lực của người cán
bộ lãnh đạo chính trị”, (2003) của Nguyễn Văn Vĩnh, Thông tin Chính trị học; “Về
văn hóa chính trị”, (2004) của Văn Hải, Tạp chí Lý luận chính trị số 5; “Tiếp cận
triết học về văn hóa chính trị và xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay”,
(2005) của Nguyễn Văn Huyên, Thông tin Chính trị học số 1; “Văn hóa chính trị Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới”, (2010) của Phạm Huy Kỳ, Tạp chí Cộng sản. “Xây
dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản trong tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, (2014) của Phùng Hữu Phú, Tạp chí Cộng sản số 856;
“Văn hóa chính trị”, (2016) của Nguyễn Hữu Đổng, Tạp chí Lý luận chính trị số 2…
Xét một cách tổng quát, từ góc độ chính trị học, trên cơ sở hạt nhân của
chính trị là vấn đề quyền lực, các tác giả đã xem VHCT như một thành tố quan
trọng của chính trị và là đối tượng nghiên cứu của chính trị học. Quá trình nghiên
cứu, các nhà chính trị học đã cố gắng nêu lên những khía cạnh bản chất, chỉ ra đặc
trưng, cấu trúc của VHCT, đồng thời đưa ra những khuyến nghị, những giải pháp
mang tính định hướng nhằm đề cao, phát huy và phát triển VHCT trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là hệ giá trị
Khi đặt vấn đề xem xét, VHCT với tính cách hệ giá trị, các nhà nghiên cứu
trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều nhấn mạnh và đề cao vai trò của văn hóa nói
chung và VHCT nói riêng trong thực tiễn đời sống.
Ở phương Tây thế kỷ XX đã có những tác giả, những trường phái có đóng
góp quan trọng cho sự hình thành, phát triển khái niệm, quan niệm, cấu trúc VHCT
và nhấn mạnh những đóng góp của VHCT đối với sự tiến bộ xã hội. Alexis de
Tocqueville khi nghiên cứu VHCT Mỹ để tìm câu trả lời cho sự thành công của
nước Mỹ đã khái quát các giá trị VHCT của Mỹ bao gồm: tự do, bình đẳng, dân
chủ, chủ nghĩa cá nhân, nhà nước pháp quyền, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản
và thị trường mở; D. Kavannagh năm 1972, [168] và W. Rosenbaum (1995) [170]
đã cho xuất bản các tác phẩm về “Văn hóa chính trị” (Political Culture); W. J
Patzelt thuộc trường phái Passau của Đức (1992); định nghĩa của Trường Đại học
Tổng hợp California ở Berkeley của Mỹ (2006); định nghĩa của trường phái học
thuật Heidelberg của Đức (2007)...
19
Ở Nga, thời kỳ tồn tại nhà nước Liên bang Xô Viết, các nhà nghiên cứu mác xít
không quan tâm bàn riêng về VHCT mà chủ yếu quan tâm đến khái niệm văn hóa vô
sản nhằm phân biệt với văn hóa tư sản, vì vậy VHCT và văn hóa vô sản trong nhiều
trường hợp được xem như khái niệm đồng nghĩa. Sau khi Liên Xô tan rã, những nghiên
cứu về VHCT đã có sự phân hóa theo hai hướng là bảo thủ hay cấp tiến, tạo nên sự đa
dạng trong cách tiếp cận nghiên cứu VHCT của nước Nga. Những tên tuổi tiêu biểu
của trường phái chính trị học Nga như E. I. Batalov; Iu. S. Pivovarov…
Các nhà chính trị học Nga đã không nhất trí với các nhà chính trị học phương
Tây khi quy VHCT về các khuôn mẫu xác định nào đó và cho rằng điều đó sẽ chịu
ảnh hưởng bởi thiên kiến chủ quan của nhà nghiên cứu và dễ bị nhầm lẫn về bản
chất bởi những hiện tượng bề ngoài và cho rằng: cấu trúc cơ bản của VHCT bao
gồm văn hóa về ý thức chính trị, văn hóa hành vi chính trị và văn hóa vận hành các
thiết chế chính trị của nhà nước [dẫn theo 149, tr.24-25].
Xuất phát từ góc độ văn hóa học, nhóm tác giả của“Từ điển bách khoa văn
hóa học”, năm 2002 A.A. Radugin (chủ biên), do Vũ Đình Phòng dịch, Viện
nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật ấn hành [104], cho rằng, VHCT là một khu vực
chuyên môn hóa riêng biệt của văn hóa, thể hiện trình độ văn minh, phương thức
hoạt động của các thiết chế chính trị, các tổ chức chính trị trong xã hội, với ba cấp
độ chính bao gồm: thế giới quan, nhận thức chính trị của công dân và ý thức chính
trị; VHCT có hai mô hình chính yếu là: chuyên chế - tổng tài và dân chủ - tự do. Từ
đó, các nhà nghiên cứu văn hóa Nga quan niệm: “VHCT là một phần của đời sống
văn hóa tinh thần của xã hội, bao gồm các kiến thức chính trị, các định hướng giá
trị, các mẫu mực ứng xử (cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng) trong mối quan hệ
chính trị trong một thời điểm lịch sử nhất định” [104, tr.564].
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc hiện nay, VHCT còn
được gọi là văn minh chính trị và được ghi nhận như một nội dung quan trọng cùng
với văn minh tinh thần và văn minh vật chất. Trong “Trung Quốc đại bách khoa
toàn thư”, đã định nghĩa: “Văn minh chính trị là sự tổng hòa các thành quả chính trị
do con người cải tạo xã hội mà có, thông thường nó biểu hiện thành mức độ thực
hiện dân chủ, tự do, bình đẳng, giải phóng con người trong một hình thái xã hội
nhất định”. Ở một khía cạnh khác, tác giả Ngu Sùng Thắng của Trường Đại học Vũ
Hán cho rằng: “Văn minh chính trị, xét từ trạng thái tĩnh, nó là toàn bộ thành quả
20
tiến bộ đạt được trong tiến trình chính trị; xét từ trạng thái động, nó là quá trình tiến
hóa cụ thể trong sự phát triển chính trị xã hội loài người” [dẫn theo 149, tr.26].
Tiếp cận VHCT với tính cách là hệ giá trị, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt
Nam đã có sự tiếp nhận các thành tựu nghiên cứu VHCT từ phương Tây và Mỹ để
nghiên cứu VHCT, một số công trình tiêu biểu như: “Văn hóa chính trị Việt Nam
truyền thống và hiện đại”, (1998) của Nguyễn Hồng Phong, Nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin, Hà Nội [99]. Đóng góp của tác giả được thể hiện qua những tổng kết có
giá trị tham khảo và định hướng trong việc nghiên cứu VHCT truyền thống nói
riêng và sự biến đổi của văn hóa truyền thống nói chung qua các giai đoạn lịch sử
dân tộc nhằm hướng tới những vấn đề có tính chiến lược trong việc phát huy và
phát triển các yếu tố nội sinh cũng như ngoại sinh trong công cuộc phát triển đất
nước. Tác giả nhấn mạnh, tư tưởng lấy dân làm gốc (dĩ dân vi bản) có ảnh hưởng sâu
đậm đến văn hóa dân tộc và khẳng định: mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho
giáo Trung Hoa nhưng cấu trúc của văn minh - văn hóa Việt Nam là Làng - Nước,
chứ không phải Nước - Nhà như văn hóa Trung Hoa; “Vai trò văn hóa trong hoạt
động chính trị của Đảng ta hiện nay”, (2000) do Trần Văn Bính (Chủ biên), Nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội [15], dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx - Lenin, trên
tinh thần đổi mới, các tác giả đã tiếp cận và luận giải những vấn đề cơ bản về văn
hóa trong lãnh đạo chính trị của ĐCSVN hiện nay. Có thể nói, đây công trình
nghiên cứu quan trọng góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác
xây dựng Đảng dưới góc độ văn hóa; “Văn hóa chính trị Việt Nam”, (2014), (Giáo
trình Cao học) của Viện Văn hóa và Phát triển do Lê Quý Đức biên soạn, Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [47], từ góc độ văn hóa học,
giáo trình đã khái quát quá trình hình thành khái niệm VHCT cũng như cơ cấu và
chức năng của VHCT, trình bày những nét cơ bản về VHCT Việt Nam qua các thời
kỳ. Xuất phát từ lý thuyết cấu trúc - chức năng, tác giả quan niệm:
Văn hóa chính trị là một bộ phận (thành tố) của văn hóa tổ chức xã hội,
bị quy định bởi trình độ đặc trưng văn hóa của một cộng đồng người (bộ
lạc, bộ tộc, dân tộc - quốc gia) trong việc tổ chức đời sống cộng đồng,
bằng việc nắm giữ quyền lực, thực thi quyền lực và tham gia vào công
việc của bộ máy quyền lực của cộng đồng, thể hiện ra như một “kiểu”,
“dạng”, “nền”, “hệ thống”chính trị nhất định trong lịch sử [47, tr.17];
21
“Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam”, (2014) do Đinh Xuân Dũng
(Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [28]. Xuất phát từ vị trí, vai
trò của văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam, trên cơ sở nhận diện văn
hóa với tính cách là hệ giá trị, các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa văn
hóa với các thành tố cơ bản của đời sống xã hội và đề ra nhiệm vụ trung tâm của
văn hóa trong chiến lược phát triển. Theo đó, VHCT là yếu tố hợp thành hệ giá trị
văn hóa, thể hiện ở tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của tổ chức và con người chính trị,
VHCT cho thấy, tổ chức hay đảng phái chính trị đó là dân chủ hay chuyên quyền
độc đoán, hiệu quả hay không hiệu quả.
Cũng đã có luận án tiến sĩ văn hóa học tiếp cận VHCT trong một giai đoạn
lịch sử dân tộc, như: “Văn hoá chính trị thời thịnh Trần”, (2018), luận án tiến sĩ
của Nghiêm Thị Thu Nga, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [93], thông
qua mô tả diện mạo và khái quát những giá trị tiêu biểu của VHCT thời thịnh Trần,
tác giả đã rút ra những bài học đối với sự nghiệp xây dựng VHCT nước ta hiện nay.
Nhìn chung, từ góc độ văn hóa học, các nhà nghiên cứu đã xem VHCT như
là một thành tố của văn hóa tổ chức xã hội, là một yếu tố hợp thành hệ giá trị văn
hóa được biểu hiện ở tư tưởng, nhân cách, những chuẩn mực, khuôn mẫu và truyền
thống trong hoạt động chính trị.
Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu cho thấy, sự phân chia trong cách tiếp cận VHCT
với tính cách là một thực thể xã hội hay với tính cách là hệ giá trị trên thế giới cũng như
ở Việt Nam trong phần tổng quan cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trong xu thế nghiên
cứu văn hóa hiện nay, để nghiên cứu một hiện tượng văn hóa, một loại hình văn hóa, một
nền văn hóa… các nhà nghiên cứu ít khi tuyệt đối hóa một lý thuyết hay một cách tiếp
cận nào đó mà thường vận dụng cách tiếp cận tổng hợp và liên ngành.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
1.2.1. Tình hình nghiên cứu văn hóa trong quân đội
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội, thời
gian qua được sự quan tâm của QUTW và BQP, trực tiếp là Tổng cục Chính trị,
công tác nghiên cứu về tư tưởng và văn hóa trong quân đội đã đạt được bước tiến
nhất định, góp phần quan trọng xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
22
Trong khuôn khổ của luận án chỉ xin được đề cập một số công trình nghiên
cứu về văn hóa quân sự có liên quan: “Công tác tư tưởng văn hoá trong xây dựng
quân đội về chính trị”, (2000), Tổng cục Chính trị, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội
[118]. Theo đó, tác giả khẳng định, công tác tư tưởng văn hoá là một bộ phận không
thể tách rời của toàn bộ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, công tác tư tưởng
văn hoá đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng trong củng cố trận địa chính trị
tư tưởng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Sở dĩ như vậy là vì, trong quá
trình tiến hành công tác tư tưởng văn hoá, đã thường xuyên kết hợp giữ vững tính
định hướng với việc đa dạng hoá các hình thức hoạt động của công tác này, chỉ như
vậy mới có thể bám sát sự vận động của tình hình chính trị - xã hội thế giới, khu
vực và của đất nước, thực tiễn hoạt động của bộ đội để đưa ra những giải pháp kịp
thời, khoa học phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng lý luận hiện nay; “Giáo trình Văn hóa học”, (2009), Tổng cục Chính trị,
(dùng cho đào tạo bậc đại trong các nhà trường quân đội hiện nay), Nhà xuất bản
QĐND, Hà Nội [126]. Xuất phát từ mục tiêu nhằm cung cấp cho học viên sĩ quan
những vấn đề lý luận về văn hóa nói chung và văn hóa quân sự nói riêng, tác giả đã
hệ thống hóa, làm sâu sắc hơn về phương diện lý luận triết học về văn hóa và văn
hóa quân sự trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận mác xít, qua đó góp phần
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Giáo trình đã tiếp cận văn hóa quân sự
với tính cách là một bộ phận đặc thù của đời sống văn hóa xã hội, tính đặc thù thể
hiện ở “sự thống nhất giữa tính mực thước, nghiêm cách với tính năng động, mềm
dẻo” [126, tr.50]; “Văn hóa quân sự Việt Nam - truyền thống và hiện đại”, (2014),
Văn Đức Thanh (Tổng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [109].
Cuốn sách là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, xuyên suốt
sự phát triển của văn hóa quân sự Việt Nam trên nền tảng lý luận và sự khái quát
khoa học tổng hợp; làm sâu sắc quan niệm khoa học về văn hóa quân sự; góp phần
nhìn nhận, đánh giá sự phát triển của văn hóa quân sự Việt Nam theo góc nhìn truyền
thống và hiện đại qua suốt chiều dài lịch sử. Các tác giả khẳng định: văn hóa quân sự
là một bộ phận đặc thù của văn hóa xã hội với những quan hệ đặc trưng của văn hóa
như: truyền thống - hiện đại, phổ quát - bản sắc, thống nhất - đa dạng, đồng thời cũng
23
là những đặc trưng cơ bản của văn hóa quân sự. Quá trình phát triển của văn hoá
quân sự Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của văn hoá quân sự Việt Nam còn vận động
theo những quy luật đặc thù nhằm xây dựng con người quân sự theo những tiêu chí
riêng đáp ứng tối đa nhu cầu của hoạt động quân sự. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định:
thống nhất - đa dạng, phổ quát - bản sắc, truyền thống - hiện đại là những đặc trưng
cốt lõi của văn hoá quân sự Việt Nam. Quá trình phát triển văn hoá quân sự hiện nay
cần chú ý đến đặc điểm đó để xác định đúng nội dung, phương pháp, tiến hành nhằm
không ngừng mở rộng và làm giàu thêm các giá trị văn hoá quân sự hiện có, tạo điều
kiện để phát triển, hoàn thiện nhân cách quân nhân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của
quân đội, mà trước hết là sức mạnh về chính trị - tinh thần. Đây là nội dung cốt lõi
trong xây dựng văn hoá quân sự Việt Nam, tạo nền tảng văn hoá để đánh giặc và
thắng giặc bằng văn hoá.
Khi tiếp cận khai thác mảng đề tài văn hóa quân sự, các nghiên cứu đã tập
trung luận giải những vấn đề lý luận về văn hóa, giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”,
thực trạng môi trường văn hóa quân sự có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện nhân cách
của người quân nhân cách mạng, từ đó khuyến nghị những giải pháp nhằm phát huy
và phát triển những giá trị văn hóa quân sự. Một số công trình đáng chú ý như:
“Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ Quân đội nhân dân
Việt Nam”, (1999) do Đinh Xuân Dũng (Chủ biên), Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội
[26]. Các tác giả đã tiếp cận toàn bộ môi trường quân sự, hoạt động quân sự dưới
góc độ văn hoá, qua đó khẳng định: nhân cách người chiến sĩ QĐND Việt Nam là
sự tương tác biện chứng giữa quân nhân với toàn bộ môi trường, trong đó họ sống
và hoạt động dưới góc độ văn hoá, là sự kết tinh cao nhất những giá trị văn hoá
trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Môi trường văn hóa quân sự
là nơi nuôi dưỡng, phát triển và hoàn thiện những giá trị “Người” trong nhân cách
quân nhân. Từ cách tiếp cận đó, các tác giả cho rằng, sự nghiệp xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, về thực chất là một quá trình
văn hoá hoá toàn bộ đời sống quân sự để phát triển những phẩm chất cao quý trong
nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”.
Để xây dựng quân đội cách mạng, thực sự vững mạnh về chính trị tư tưởng,
cùng với gìn giữ, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và quân đội cần
24
quan tâm giải quyết hài hoà quan hệ thống nhất - đa dạng trong quá trình xây dựng,
phát triển môi trường văn hóa quân sự. Đây là một yêu cầu rất cao trong xây dựng quân
đội hiện nay. Vì vậy, quá trình triển khai, tổ chức thực hiện phải từng bước giải quyết
tốt mối quan hệ bên trong và bên ngoài, truyền thống và hiện đại, phổ quát và bản sắc,
làm cho các giá trị đó “hoá thân” vào các giá trị văn hoá quân sự, thành các giá trị văn
hoá trong nhân cách quân nhân. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, các giá trị văn hoá
trong môi trường văn hóa quân sự không phải là bất biến, cùng với sự phát triển của xã
hội, của quá trình hợp tác, giao lưu văn hoá, các hệ giá trị đó cũng có những biến đổi
nhằm theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Bởi lẽ đó theo tác giả, quan hệ giữa chính quy
và văn hoá cũng là quan hệ văn hoá; chính quy không chỉ hiểu đơn thuần là chính quy
về điều lệnh, điều lệ, chế độ, nền nếp... mà còn là chính quy về văn hoá; vì thế, bản
thân chính quy đã bao hàm thống nhất - đa dạng của văn hoá;
Tác giả Phạm Bá Toàn trong cuốn “Giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ (Qua hồi ký,
nhật ký chiến tranh)”, (2012), Nhà xuất bản QĐND [116], trên cơ sở khai thác những
giá trị của các hồi ký, nhật ký chiến tranh của các tướng lĩnh, sỹ quan đã khái quát
thành sáu giá trị văn hóa tiêu biểu trong nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là: Trung với
nước; hiếu với dân; tình đồng đội; kỷ luật tự giác nghiêm minh; lạc quan yêu đời và
tính nhân nghĩa.
Công trình “Nâng cao văn hóa lãnh đạo của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở
đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, (2010), Viện Khoa học Xã hội
Nhân văn quân sự - BQP, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội [153]. Theo đó, các tác giả
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về văn hóa lãnh đạo và văn lãnh đạo
của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở, nêu lên thực trạng, nguyên nhân
và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chính
trị cấp cơ sở trong QĐND Việt Nam. Các tác giả quan niệm, văn hóa lãnh đạo là một
bộ phận cấu thành của nền văn hóa, bao gồm tổng hòa những dấu ấn sáng tạo và nhân
văn theo tiêu chí chân, thiện, mỹ trong các hệ thống, tổ chức, bộ máy con người lãnh
đạo và các hình thức hoạt động lãnh đạo gắn liền với thiết chế cộng đồng xã hội.
Văn hóa lãnh đạo, hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ những thành tố bên
trong mang dấu ấn của nhà lãnh đạo cùng sự thể hiện ra bên ngoài bởi hoạt động
lãnh đạo cũng như những thành tựu lãnh đạo được nhìn nhận theo tiêu chí chân,
thiện, mỹ. Hiểu theo nghĩa hẹp, văn hóa lãnh đạo của nhà lãnh đạo chính trị thể hiện
25
như một hệ thống thang bậc giá trị xã hội, đòi hỏi sự lãnh đạo phải được thực hiện
một cách chân, thiện, mỹ.
Về cấu trúc, văn hóa lãnh đạo bao gồm các thành tố: tư tưởng, tâm lý, chuẩn
mực và biểu tượng. Các thành tố đó được biểu hiện ở trí tuệ lãnh đạo; bản lĩnh chính
trị; phẩm chất, đạo đức lối sống và năng lực lãnh đạo, phương pháp tác phong công tác.
Với cách hiểu như trên, các tác giả khẳng định: đối với ĐCSVN, văn hóa
lãnh đạo là một trong những hệ giá trị tiêu biểu quan trọng nhất của VHCT. Mặc dù
đã có sự phân biệt giữa hoạt động lãnh đạo và quản lý, giữa lãnh đạo và chỉ huy
trong hoạt động quân sự và thừa nhận văn hóa lãnh đạo là một trong những hệ giá
trị tiêu biểu quan trọng nhất của VHCT nhưng các tác giả vẫn chưa có sự phân biệt
rạch ròi giữa văn hóa lãnh đạo và VHCT và có trường hợp nhóm tác giả sử dụng
cụm từ văn hóa lãnh đạo chính trị:
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, văn hóa lãnh đạo chính trị là
một biểu hiện tất yếu nền văn hóa. Song, đến lượt nó, bản thân văn hóa
lãnh đạo chính trị cũng là một hệ thống hoàn chỉnh, được cấu thành bởi
nhiều yếu tố, nhiều vòng, nhiều tầng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, tức
là được thể hiện trong công việc lãnh đạo tập thể và trong cá nhân nhà
lãnh đạo [153, tr.13].
“Nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ của thanh niên
quân đội hiện nay” (2012), luận án tiến sĩ triết học của Hoàng Đình Chiều, Học
viện Chính trị - Bộ Quốc phòng [23]. Xuất phát từ góc độ triết học văn hóa, tác giả
luận án đã tiếp cận và làm rõ những khía cạnh bản chất, những vấn đề có tính quy
luật nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của thanh niên
quân đội; đánh giá thực trạng; dự báo xu hướng và đề xuất những giải pháp mang
tính định hướng nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của
thanh niên quân đội hiện nay. Theo tác giả, nhập thân văn hóa là quá trình con
người tiếp nhận giá trị văn hóa và định hình văn hóa đối với các yếu tố hợp thành
nhân cách của họ trong một môi trường xã hội nhất định. Điểm đáng chú ý trong
luận án là đã tiếp cận nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” với trọng tâm là những phẩm chất
xã hội cơ bản như: “Phẩm chất chính trị, đạo đức, văn hóa; phẩm chất trí tuệ; trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ quân sự; phong cách tác phong sinh hoạt và hoạt động
quân sự được điển hình hóa theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh, phản
26
ánh tính đặc thù của nhân cách trong lĩnh vực quân sự” [23, tr.28]. Những vấn đề có
tính quy luật trong nhập thân văn hóa được tác giả chỉ ra, đó là: từ tiếp nhận giá trị
văn hóa đến định hình văn hóa trong nhân cách và từ định hình văn hóa đến tỏa
sáng nhân cách văn hóa, đây chính là con đường biện chứng của quá trình nhập thân
văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của thanh niên quân đội.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu văn hóa và văn hóa chính trị trong nhà
trường quân đội
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của NTQĐ, nơi đào tạo ra đội ngũ
sĩ quan trong tương lai, QUTW và BQP đã có những chỉ đạo nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ gắn với xây dựng và phát triển môi trường văn hóa trong các
học viện, trường sĩ quan. Đặc biệt, thời gian gần đây, những nghiên cứu về văn hóa
trong NTQĐ đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và đã có
một số công trình luận án tiêu biểu như: “Quan hệ thống nhất - đa dạng trong
phát triển môi trường văn hóa quân sự ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, (2009), luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Văn Ngoan, Học viện
Chính trị - Bộ Quốc phòng [94]. Xuất phát từ quan niệm, đặc trưng cơ bản của văn
hóa là tính phổ quát và bản sắc, được biểu hiện tập trung ở hai quan hệ chính:
thống nhất - đa dạng và truyền thống - hiện đại. Để thúc đẩy văn hóa phát triển,
cần thiết phải giải quyết một cách khoa học, hài hòa cả hai quan hệ nói trên:
Quan hệ thống nhất - đa dạng trong phát triển môi trường văn hóa quân
sự ở các trường sĩ quan là sự tương tác biện chứng giữa hai xu thế
hướng điểm và hướng diện, phản ánh xu thế vừa ràng buộc, phụ thuộc,
quy định lẫn nhau, vừa vận hành theo cơ chế riêng và tác động qua lại,
đồng thời xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa thống nhất văn hóa và đa
dạng văn hóa [94, tr.9].
Trong hoạt động quân sự, đặc biệt là đối với các trường đào tạo sĩ quan -
những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, đòi hỏi
phải xây dựng và phát triển môi trường văn hóa quân sự thật sự lành mạnh góp phần
xây dựng và phát triển nhân cách người sĩ quan. Bởi vì, môi trường văn hóa quân sự
ở các trường sĩ quan QĐND Việt Nam, theo tác giả quan niệm:
Là một chỉnh thể thống nhất giữa các giá trị văn hóa sư phạm quân sự,
quan hệ văn hóa sư phạm quân sự, hoạt động văn hóa sư phạm quân sự và
27
thiết chế văn hóa sư phạm quân sự trong một không gian và thời gian xác
định, thường xuyên tác động đến quân nhân nhằm hình thành, phát triển
nhân cách học viên sĩ quan theo mục tiêu đào tạo xác định [94, tr.50];
“Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường Quân đội hiện nay”, (2017), luận án
tiến sĩ văn hóa học của Phạm Văn Xây, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
[162]. Xuất phát từ góc độ văn hóa học, tác giả đã tiếp cận nghiên cứu văn hóa thẩm
mỹ với tư cách là một lĩnh vực văn hóa đặc thù biểu hiện trình độ phát triển cao của
văn hóa, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực thông qua
hoạt động thẩm mỹ, tác giả luận án quan niệm:
Văn hóa thẩm mỹ là một chỉnh thể các giá trị thẩm mỹ được kết tinh từ
tất cả các hoạt động thụ cảm, sáng tạo, nhận thức… thẩm mỹ của con
người trong một cộng đồng văn hóa nhất định, đồng thời có tác động trở
lại không thể thiếu đối với đời sống thẩm mỹ của con người và cộng
đồng theo những thiết chế văn hóa nhất định [162, tr.32].
Văn hóa thẩm mỹ có vai trò rất quan trọng trong NTQĐ, thể hiện: góp phần
đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và phát triển đời sống tinh thần của quân nhân; góp phần
hoàn thiện nhân cách và xây dựng tập thể quân nhân, đồng thời góp phần nâng cao
chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ; “Định hướng giá trị văn
hóa của học viên đào tạo sĩ quan trong các trường Quân đội”, (2017), luận án tiến sĩ
văn hóa học của Nguyễn Vương Bình, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội [14]. Xuất
phát từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở lý thuyết nhập thân văn hóa, tác giả luận án đã
tập trung làm rõ nội dung, phương thức và đặc điểm định hướng giá trị văn hóa cho
học viên đào tạo sĩ quan; dự báo những nhân tố tác động, xu hướng định hướng giá trị
văn hóa đồng thời đặt ra vấn đề nâng cao định hướng giá trị văn hóa cho học viên đào
tạo sĩ quan. Tác giả luận án quan niệm: “Định hướng giá trị văn hóa của học viên đào
tạo sĩ quan là sự tiếp nhận, thâu hóa và tỏa sáng giá trị văn hóa của mỗi học viên,
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách người học viên
đào tạo sĩ quan quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự” [14, tr.33]; “Xây dựng
văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở Học
viện Chính trị hiện nay”, (2017), (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tà cấp Học
viện) do Nguyễn Hữu Lập (Chủ nhiệm đề tài), Học viện Chính trị [75]. Theo đó,
“Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là những giá trị chân, thiện và mỹ được Người sáng
28
tạo trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, bao gồm một hệ thống các chuẩn
mực về tư tưởng, hành vi và nhân cách chính trị” [75, tr.5]. Các tác giả tập trung
khẳng định vai trò của VHCT Hồ Chí Minh đối với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ chính
ủy trung, sư đoàn, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng VHCT Hồ Chí
Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở HVCT hiện nay.
Nhìn chung, công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội có vai trò rất quan
trọng, là nhân tố trực tiếp tạo ra sức mạnh chính trị tinh thần, góp phần quan trọng
tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội. Bằng thế giới quan và phương pháp luận
mác xít, các nghiên cứu đã chỉ ra: văn hóa quân sự là một phận đặc thù của đời sống
văn hóa xã hội, một giá trị độc đáo của văn hóa Việt Nam trong lịch sử giữ nước và
dựng nước của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở sự thống nhất giữa tính mực thước,
nghiêm cách với tính năng động, mềm dẻo. Để góp phần xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cần thiết phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu
quả công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội.
Nhà trường quân đội là nơi đào tạo sĩ quan chỉ huy, những người có vai trò
quan trọng kế tục sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, vì
vậy yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, trước hết là nâng
cao VHCT cho các chủ thể trong NTQĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thời gian
gần đây đã có những nghiên cứu chỉ ra những vấn đề mang tính quy luật như nhập
thân văn hóa hay quan hệ thống nhất - đa dạng dưới góc độ triết học văn hóa;
nghiên cứu văn hóa thẩm mỹ, nghiên cứu định hướng giá trị trong NTQĐ dưới góc
độ văn hóa học. Về VHCT, đã có những nghiên cứu nhằm nâng cao văn hóa lãnh
đạo hay xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách tổng
thể, trực tiếp đến VHCT trong NTQĐ, vì vậy, đây được xem là khoảng trống trong
nghiên cứu mà mục tiêu luận án hướng tới.
1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đánh giá chung
Qua trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến VHCT trong
NTQĐ ở trên, có thể rút ra một số vấn đề làm cơ sở cho sự nghiên cứu tiếp theo
của luận án:
29
Thứ nhất, văn hóa là lĩnh vực rộng lớn, có liên quan đến toàn bộ hoạt động
của con người. Nói tới văn hóa là nói tới lực lượng bản chất người, vì sự hoàn thiện,
phát triển toàn diện con người, là thước đo trình độ tiến hóa của con người. Các
nghiên cứu về VHCT trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều xuất phát từ vị trí, vai
trò của văn hóa nói chung và VHCT nói riêng đối với đời sống con người. Nhìn
chung, dù tiếp cận VHCT tính cách là một thực thể xã hội hay là với tính cách là hệ
giá trị, các nghiên cứu đều có điểm chung trong việc khẳng định, VHCT là một bộ
phận của văn hóa xã hội, có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện, thấm sâu vào
các lĩnh vực của đời sống, là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của con người, con người vừa là chủ thể nhưng
cũng vừa là sản phẩm của văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị.
Trong giai đoạn hiện nay, tiếp cận nghiên cứu văn hóa nói chung và VHCT
nói riêng nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Sự phong phú, đa dạng về thành tựu
trong cách tiếp cận và luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong
các nghiên cứu như trình bày trong phần tổng quan đã chứng minh điều đó. Trước
sự vận động và phát triển hết sức mau lẹ của thực tiễn, đòi hỏi cần phải tiếp tục lý
giải và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và phát triển văn
hóa nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của VHCT, trong đó tập trung nâng cao
VHCT cho các chủ thể, làm cho văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động
lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội.
Thứ hai, với tính cách là một bộ phận của văn hóa, VHCT là hệ giá trị mang
tính nhân văn, tiến bộ, có vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh
đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng, VHCT
giúp các chủ thể chính trị cũng như thể chế, thiết chế chính trị giữ được sự ổn định,
minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị, đặc biệt là trong điều kiện cầm
quyền và thực thi quyền lực.
Sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT đã có từ rất sớm ở cả phương
Đông và phương Tây. Tuy nhiên, khái niệm VHCT chỉ thực sự gia nhập vào hệ
thống khái niệm với tư cách là một thuật ngữ khoa học vào giữa thế kỷ XX ở
phương Tây. Những thành tựu trong nghiên cứu về VHCT phương Tây đã có ảnh
hưởng sâu rộng trong giới khoa học quan tâm đến văn hóa và VHCT ở tất cả các
30
quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển về mặt lý
luận cũng như thực tiễn, cho đến nay VHCT đã được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều
góc độ như triết học, chính trị học và đã khẳng định được vai trò trong tiến trình
phát triển của mỗi cộng đồng, quốc gia - dân tộc.
Tuy nhiên, văn hóa bao giờ cũng mang tính chủ thể, VHCT của một dân tộc,
một cộng đồng luôn phán ánh bản sắc của dân tộc và cộng đồng đó, đồng thời mang
đậm dấu ấn của các chủ thể. Cho nên việc nghiên cứu văn hóa nói chung và VHCT nói
riêng dưới góc độ văn hóa học, gắn với một cộng đồng nhất định luôn là một yêu cầu
mang tính cấp thiết. Điều đó cho phép khẳng định, nghiên cứu VHCT trong NTQĐ ở
Việt Nam hiện nay là hướng nghiên cứu cần thiết và hứa hẹn có đóng góp mới.
Thứ ba, ở Việt Nam nhìn chung các nghiên cứu về VHCT tuy đã kế thừa và
cập nhật được những thành tựu nghiên cứu nước ngoài đặc biệt là châu Âu và Mỹ
nhưng ở giai đoạn đầu, VHCT chủ yếu chỉ được nghiên cứu lồng ghép trong các
nghiên cứu chung về văn hóa hoặc là được xem xét với tính cách là đối tượng nghiên
cứu của các ngành khoa học như triết học, chính trị học. Những năm gần đây, nghiên
cứu về VHCT ở trong nước chú ý nhiều hơn và cách tiếp cận cũng đa dạng hơn. Đặc
biệt, bên cạnh cách tiếp cận VHCT với tính cách là một thực thể xã hội của triết học,
chính trị học, thì VHCT đã nhận được sự quan tâm của các nhà văn hóa học. Tuy
nhiên, cho đến nay những khoảng trống tri thức về VHCT cần được bổ sung làm rõ
hơn những vấn đề lý luận về VHCT, thực trạng VHCT hiện nay và vấn đề nâng cao
VHCT cho các chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đây được xem
là một trong những vấn đề khoa học có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Thứ tư, xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng văn hóa trong quân
đội, những năm qua QUTW và BQP, trực tiếp là Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa quân sự. Những vấn đề xây
dựng và phát triển văn hóa nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách người quân nhân
cách mạng, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong NTQĐ cũng đã được tiếp cận
khai thác trên các khía cạnh: tìm hiểu giá trị văn hóa của “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng
và phát triển môi trường văn hóa quân sự, phát huy và phát triển văn hóa thẩm mỹ
hay định hướng giá trị cho các chủ thể trong NTQĐ và đã đạt được bước tiến nhất
định góp phần quan trọng xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về tư tưởng và tổ
chức và đạo đức.
31
Trong các nghiên cứu có liên quan đã có những đề cập vấn đề xây dựng và
phát triển môi trường văn hóa sư phạm nhằm hướng tới việc hoàn hiện nhân cách
của người học. Tuy nhiên, đối với môi trường sư phạm quân sự có những đặc thù
riêng, ở đó không chỉ có quan hệ thầy - trò mà còn là quan hệ chỉ huy - phục tùng;
quan hệ đồng chí - đồng đội. Song có thể khẳng định, cho đến nay vẫn chưa có một
nghiên cứu chuyên sâu nào về VHCT trong nhà trường quân đội. Vì vậy, việc
nghiên cứu VHCT trong NTQĐ nhằm chỉ ra đặc trưng của VHCT môi trường sư
phạm quân sự, từ đó nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ là
hướng nghiên cứu khả thi và không trùng lặp.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Văn hóa chính trị trong NTQĐ là một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam
và của VHCT Việt Nam, cho nên cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung,
những quan hệ đặc trưng trong quá trình phát triển văn hóa, đồng thời chịu sự chi
phối, tác động bởi những hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm
quân sự. Nghiên cứu VHCT trong NTQĐ phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan
điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; nhiệm vụ xây dựng quân đội nói
chung và nhiệm vụ đào tạo cán bộ quân đội của Đảng nói riêng trong tình hình mới;
nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo các quy luật, tôn trọng nét đặc trưng và bản
chất văn hóa, tính đặc thù của VHCT trong môi trường quân sự, cụ thể ở đây là môi
trường sư phạm quân sự; không ngừng nâng cao tri thức chính trị, giữ vững lý tưởng
và niềm tin chính trị trong nhân cách người sĩ quan tương lai; xây dựng người quân
nhân cách mạng kiểu mới, tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ, góp phần ngăn chặn và
đẩy lùi những hiện tượng phản giá trị, phản văn hóa xâm nhập trong môi trường đào
tạo cán bộ quân đội của Đảng; đấu tranh có hiệu quả với luận điệu đòi “phi chính trị
hóa quân đội” của các thế lực thù địch; xây dựng NTQĐ vững mạnh về chính trị, góp
phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, nâng cao chất lượng đào
tạo cán bộ, làm cơ sở để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhân dân giao phó.
Tiếp cận hướng nghiên cứu VHCT trong NTQĐ hiện nay, trên cơ sở kế thừa
những thành tựu nghiên cứu đã được công bố, luận án sẽ được triển khai thực hiện
các nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục hệ thống lại và so sánh các quan niệm khác nhau về VHCT
đồng thời đưa ra quan niệm về VHCT; làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT dưới
32
góc độ văn hóa học, như nội hàm khái niệm; những vấn đề về cấu trúc và chức năng
của VHCT; đưa ra quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và VHCT trong
NTQĐ đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa các loại hình văn hóa chính trị.
Hai là, tiếp cận VHCT trong NTQĐ với tính cách là VHCT trong một thiết
chế văn hóa đặc thù, có vai trò quan trọng trong định hướng củng cố niềm tin, rèn
luyện bản lĩnh chính trị trong quá trình đào tạo những sĩ quan chỉ huy; chỉ ra những
khía cạnh thuộc về bản chất của VHCT trong NTQĐ với những nét đặc trưng của
VHCT trong môi trường sư phạm quân sự; khẳng định vị trí, ý nghĩa của VHCT
trước yêu cầu “đổi mới nhưng không đổi màu”, giữ vững trận địa tư tưởng của
Đảng, chống lại âm mưu đòi “phi chính trị hóa quân đội”, nâng cao chất lượng đào
tạo cán bộ của Đảng, góp phần xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh.
Ba là, khảo sát, mô tả và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện
nay với các thành tố cơ bản như: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị VHCT; thể chế,
thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị. Các thành tố trên có vai trò quan
trọng đối với nhiệm vụ dạy học và nghiên cứu khoa học cũng như nhiệm vụ bồi
dưỡng, nâng cao trình độ chính trị cho các chủ thể qua đó góp phần hoàn thiện và
phát triển nhân cách cho các chủ thể trong nhà trường quân đội.
Bốn là, dự báo khái quát những yếu tố tác động đến VHCT trong NTQĐ; nhận
diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ, làm cho các giá trị VHCT
thấm sâu vào trong các hoạt động của NTQĐ, tạo nên sức mạnh nội sinh, góp phần
xây dựng tổ chức đảng luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, NTQĐ vững mạnh toàn diện.
Tiểu kết chương 1
Qua tổng hợp tình hình nghiên cứu về VHCT cho thấy, hầu hết các nhà khoa
học đều thống nhất nhận định, sự xuất hiện của VHCT và tư tưởng về VHCT trong
lịch sử tư tưởng nhân loại là rất sớm cùng với sự xuất hiện của văn minh nhân loại.
Nhìn chung những nghiên cứu về VHCT có thể được khái quát trên hai hướng tiếp
cận chủ yếu: VHCT với tính cách là một thực thể xã hội và VHCT với tính cách là
hệ giá trị.
Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng về VHCT được chứa đựng trong các lý thuyết,
học thuyết chính trị của các nhà tư tưởng nhằm hướng tới việc tìm hiểu và giải thích
bản chất và cách thức của sự cai trị hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực
của các nhà tư tưởng cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông.
33
Ở Việt Nam, tư tưởng về VHCT và sự tiếp thu những thành tựu nghiên cứu
về VHCT đã có tương đối sớm do ảnh hưởng của các tôn giáo và văn hóa phương
Tây. Tuy nhiên, lúc đầu chỉ là những nghiên cứu lồng ghép với văn hóa hoặc các
ngành khoa học xã hội và nhân văn như triết học, chính trị học. Thời gian gần đây,
VHCT nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học Việt Nam, theo đó, các nhà
khoa học trong nước thống nhất xem VHCT như là một thành tố của văn hóa tổ
chức xã hội, là một yếu tố hợp thành hệ giá trị văn hóa được biểu hiện ở tư tưởng,
nhân cách, những chuẩn mực, khuôn mẫu và truyền thống trong hoạt động chính trị.
Trong lĩnh vực quân sự nói chung và NTQĐ nói riêng, đã có những nghiên
cứu nhằm xây dựng, phát triển môi trường văn hóa sư phạm quân sự từ góc độ triết
học; từ góc độ văn hóa học, những nghiên cứu nhằm phát triển và phát huy văn hóa
thẩm mỹ cho các chủ thể, định hướng giá trị văn hóa cho học viên đào tạo sĩ quan đã
được công bố. Về VHCT, đã có nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ chính trị học: xây
dựng VHCT Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung đoàn, sư đoàn… Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trực tiếp bàn đến VHCT
trong NTQĐ từ góc độ văn hóa học, đây có thể được xem là khoảng trống trong
nghiên cứu về văn hóa trong quân đội. Vì vậy, sự lựa chọn đề tài “Văn hóa chính trị
trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp:
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Trường Sĩ quan Lục quân 1), là vấn đề nghiên
cứu không trùng lặp, dự kiến có những đóng góp mới cả về mặt lý luận và thực tiễn.
34
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
2.1. LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Xuất phát từ nhận thức, VHCT là một thành tố của văn hóa xã hội, những
dấu hiệu đặc trưng, tính chất, chức năng của văn hóa đều được thể hiện trong
VHCT. Vì vậy, nghiên cứu VHCT từ góc độ văn hóa học phải xuất phát từ các khái
niệm mang tính công cụ là khái niệm “văn hóa”, khái niệm “chính trị” và đây chính
là cơ sở lý luận trực tiếp góp phần hình thành quan niệm VHCT của tác giả luận án.
2.1.1.1. Văn hóa
Trong công trình “Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020,
Những vấn đề phương pháp luận” (tái bản 2010), Phạm Duy Đức (Chủ biên), [45],
mục, “Khái niệm về văn hóa và sự phát triển về văn hóa”, tác giả Đỗ Huy viết:
“Trong hoạt động sinh tồn và hoạt động giao tiếp của tất cả các dân tộc trên thế giới
hiện nay, văn hóa là một từ được sử dụng rộng rãi đến mức không một lĩnh vực nào
trong các quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần của con người mà chúng ta không
bắt gặp” [45, tr.13] và đã đưa ra nhận định: “Có thể nói, nội hàm khái niệm văn hóa
được mở rộng khôn cùng” [45, tr.16].
Về mặt lịch sử, thuật ngữ “Văn hóa” bắt nguồn từ ngữ hệ Latin: cultura hay
cultus với ý nghĩa ban đầu là gieo trồng cây cối ở ngoài đồng ruộng, sau đó phát triển
thành gieo trồng với ý nghĩa của sự gieo trồng và vun đắp trí tuệ, tinh thần, nhằm chỉ sự
nâng niu và nuôi dưỡng những giá trị và phẩm chất con người. Ở phương Đông, văn
hóa gắn liền với triết lý “văn trị giáo hóa” nhằm chỉ ra thuật hay phương thức cai trị
quốc gia là dùng “Đức”, “Văn” và “Lễ nhạc” để giáo hóa (giáo dục, dạy dỗ), nếu
không nghe theo sau đó mới thi hành xử phạt (Văn trị - cai trị bằng văn).
Cùng với sự phát triển nhận thức của con người, khái niệm văn hóa đã không
ngừng được tiếp cận và hoàn thiện cả nội hàm và ngoại diên. Tuy nhiên, hiện nay
trên thế giới có rất nhiều cách tiếp cận không đồng nhất, tạo nên sự đa diện và đa
nghĩa cho khái niệm văn hóa, vì vậy đã có ý kiến cho rằng, có bao nhiêu nhà nghiên
cứu văn hóa thì có bấy nhiêu khái niệm văn hóa.
35
Xét trong phạm vi và mục tiêu nghiên cứu, có thể dẫn ra một số quan niệm
về văn hóa, làm cơ sở cho những khái niệm mang tính công cụ có liên quan trực
tiếp đến hướng tiếp cận của luận án.
Trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy” (Primitive Culture), xuất bản năm
1871, tại London, nhà nhân học người Anh E.B Tylor đã đưa ra định nghĩa: “Văn
hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó, là toàn bộ phức
thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và
những khả năng, những tập quán mà con người có được với tư cách là thành viên
của xã hội” [dẫn theo 28, tr.15]. Định nghĩa văn hóa của E.B Tylor được xem là
định nghĩa khoa học đầu tiên về khái niệm “văn hóa” và được trích dẫn ở hầu hết
các công trình nghiên cứu về văn hóa sau này.
Một trong những định nghĩa về văn hóa được cộng đồng thế giới sử dụng
nhiều trong các trích dẫn là định nghĩa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên hợp quốc (UNESCO) được nêu trong “Tuyên bố về chính sách văn hóa” tại
Hội nghị quốc tế về Chính sách văn hóa, tổ chức tại Mexico từ ngày 26 tháng 7 đến
ngày 06 tháng 8 năm 1982: “Văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và
vật chất, về trí tuệ và cảm xúc quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
xã hội”. [dẫn theo 53, tr.36].
Hiện nay, theo cách tiếp cận với nghĩa rộng, UNESCO quan niệm văn hóa là
một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm... khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng và đề xuất mở rộng nội hàm khái
niệm văn hóa trong đó có những khái niệm đáng chú ý như: văn hóa tri thức, văn
hóa thông tin, văn hóa công nghiệp, văn hóa sáng tạo, văn hóa hòa bình, VHCT,
bản sắc văn hóa quốc gia. Khi “Công ước quốc tế về đa dạng văn hóa” của
UNESCO được thông qua năm 2006, các vấn đề tiếp tục được đề xuất là: quan hệ
văn hóa và dân chủ; văn hóa khoan dung; sự cân đối văn hóa; quyền văn hóa và bảo
tồn phát triển văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Trong những năm gần đây đã có những thành tựu mới trong tiếp cận cấu trúc
khái niệm văn hóa, một trong những thành tựu nổi bật đó là cách tiếp cận văn hóa
theo tầng nội dung của Texas University, được công bố vào tháng 5 năm 2015.
Theo đó, cấu trúc của văn hóa bao gồm các tầng như: giá trị (values); nghi thức,
nghi lễ, chuẩn mực (rituals); nhân vật - anh hùng, hình mẫu (heroes) và các biểu
36
tượng (symbols) [167], đây có thể được xem là một trong những cách tiếp cận hiện
đại mà luận án có thể lựa chọn, kế thừa và vận dụng trong phân tích cấu trúc khái
niệm văn hóa chính trị.
Như vậy, có thể tổng hợp các quan niệm đã trình bày ở trên bằng những khái
quát sau: Văn hóa là một trong những phương diện cơ bản của đời sống xã hội,
trong đó bao gồm toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con người
mang đậm dấu ấn chân, thiện, mỹ trong quá khứ, hiện tại, được biểu hiện trên cả
hai lĩnh vực vật chất và tinh thần, với những hệ thống các giá trị, các nghi thức, các
nhân vật và các biểu tượng. Hệ thống giá trị đó chi phối, tác động đến đời sống tâm
lý và tất cả các quan hệ, những hoạt động của các thành viên trong cộng đồng.
Văn hóa có thể được phân chia thành các lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội
như: giáo dục, đạo đức, pháp luật, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật... tương ứng với
các tên gọi văn hóa giáo dục, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật và VHCT là một
trong những thuật ngữ được hình thành trên cơ sở này.
2.1.1.2. Chính trị
Ở phương Tây, thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp,
“Politika” với ý nghĩa ban đầu là công việc của các thành phố, là nghệ thuật cai trị,
là phương pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu quốc gia. Các nhà tư tưởng,
chính trị gia tiêu biểu như Herodotos, Platon, Aristotle... đã có những khái quát về
thuật ngữ chính trị. Theo đó, chính trị gắn liền với thể chế nhà nước, là nghệ thuật
cung đình, là nghệ thuật cai trị. Aristotle nhận thấy rằng, chính trị là sản phẩm của
sự phát triển tự nhiên của con người, là hình thức giao tiếp cao nhất của con người,
con người là “động vật chính trị”.
Ở phương Đông, chính trị, theo lối chiết tự là khái niệm được tạo thành bởi hai
từ “Chính” và “Trị”. Theo Đào Duy Anh, trong “Giản yếu Hán - Việt từ điển” [2] thì
“Chính” là thích đáng, ngay thẳng; việc của nhà nước; quy tắc để làm việc; chủ trì [2,
tr.171]. “Trị” là việc đương làm; sửa sang công việc; trừng phạt [2, tr.488]. “Chính
trị” gọi chung những việc sắp đặt và thi hành để sửa trị một nước [2, tr.174]. Theo
Khổng Tử, chính trị phải chính danh, chính đạo và là công việc của người quân tử;
chính trị gắn với “tam cương”, “ngũ thường”. Hàn Phi Tử cho rằng, chính trị được
xây dựng trên cơ sở của pháp luật, gắn với pháp luật. Chính trị theo Lão Tử là “vô vi
nhi trị” (trị mà như không trị), làm chính trị là thuận theo tự nhiên, hợp với “Đạo”.
37
Thời kỳ trung cổ, quan niệm chính trị gắn với thần quyền và được xem là quyền
lực tối cao của Thượng đế; trong xã hội tư sản, chính trị gắn với thuyết “Tam quyền
phân lập”, “Khế ước xã hội” và được xem là công việc của những công dân có tài sản.
Các quan niệm về chính trị trước K. Marx đã có những cách tiếp cận riêng và
tỏ ra tương đối hợp lý trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, chỉ đến khi
chủ nghĩa Marx - Lenin ra đời, trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu trong lịch
sử, quan niệm về chính trị mới thực sự khắc phục được những hạn chế, phiến diện
trong cách tiếp cận và khẳng định được tính khoa học, đầy đủ của thuật ngữ chính
trị. Theo đó, chính trị thực chất là vấn đề quyền lực, vấn đề giai cấp và lợi ích giai
cấp mà trước hết là quyền lực nhà nước. Tất cả các biểu hiện của chính trị đều phản
ánh những vấn đề kinh tế, tất yếu kinh tế quy định tất yếu chính trị, các cuộc đấu
tranh chính trị bao giờ cũng hướng tới giải quyết mục tiêu lợi ích kinh tế. Chính trị
và kinh tế có quan hệ biện chứng với nhau, chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế
nhưng giữ vị trí ưu tiên so với kinh tế.
Theo định nghĩa của “Từ điển Bách khoa Việt Nam” [151]:
Chính trị là toàn bộ hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai
cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề
giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia
công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội
dung hoạt động nhà nước. Bất kể vấn đề chính trị nào cũng đều có liên
quan đến quyền lực của các giai cấp và nhà nước (...). Chính trị còn là sự
biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải
phóng [151, tr. 603].
Chính trị là một lĩnh vực quan trọng quyết định sự phát triển của quốc gia, dân
tộc, của xã hội. Trình độ và hiệu quả của hoạt động chính trị thể hiện ở mục tiêu vì
con người, hướng tới xây dựng một xã hội nhân đạo, nhân văn, dân chủ và tiến bộ,
phản ánh những nội dung cơ bản VHCT của cộng đồng quốc gia, dân tộc. Như vậy
văn hóa và chính trị là hai lĩnh vực đời sống xã hội có quan hệ hữu cơ với nhau.
2.1.1.3. Văn hóa chính trị
Trong quá trình tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, các nhà
chính trị học phương Tây đã sử dụng thuật ngữ Political Culture (văn hóa chính trị).
Tuy nhiên sự thực hành VHCT và quan niệm về VHCT xuất hiện từ rất sớm trong
lịch sử tư tưởng nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây.
38
Ở phương Đông, các nhà tư tưởng của Trung Hoa cổ đại như Khổng Tử,
Mạnh Tử, Lão Tử và Hàn Phi Tử là những tên tuổi tiêu biểu đã trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập đến những vấn đề cốt lõi về VHCT. Quan niệm về cách thức ứng xử với
quyền lực hay còn gọi là thuật cai trị (hay thuật trị nước) tuy có khác nhau, nhưng
nhìn chung tất cả đều hướng tới một mục tiêu là làm sao cho xã hội được “thái bình
thịnh trị”, đây cũng chính là quan niệm về VHCT và định hướng thực hành VHCT
trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại.
Ở phương Tây, các nhà tư tưởng đã sớm có quan niệm, xem VHCT vừa là
khoa học vừa là một nghệ thuật, từ đó chỉ ra cách thức ứng xử của con người đối
với quyền lực. Các triết gia cổ đại cho đến các nhà tư tưởng phương Tây từ thời kỳ
Phục hưng cho đến thời kỳ Khai sáng đều đề cập đến những vấn đề cốt lõi của
VHCT, cho dù chưa sử dụng thuật ngữ VHCT. Triết gia cổ điển Đức I. G. Gerzer
(1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa văn hóa và
chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín muồi của VHCT” hay
“những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương pháp triết học lịch sử
nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1].
Trong số các nhà nghiên cứu về VHCT, G. Almond được xem là người đã có
công trong việc đưa thuật ngữ VHCT trở thành một khái niệm khoa học và đồng
thời là người sáng lập “chủ nghĩa hành động” trong khoa học chính trị ở Mỹ. Khi
viết tác phẩm“Văn hóa công dân” (Civic Culture) năm 1963, G. Almond và S.
Verba đã đưa ra quan niệm, VHCT của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các
thành viên của dân tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm tới các
khách thể chính trị [165].
Tại Nga, xuất phát từ góc độ văn hóa học, A.A. Radugin quan niệm, VHCT
là một phần của đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, bao gồm các kiến thức chính
trị, các định hướng giá trị, các mẫu mực ứng xử trong mối quan hệ chính trị tại một
thời điểm lịch sử [104, tr.564].
Cũng như quan niệm về văn hóa, với tư cách là một khái niệm khoa học,
thuật ngữ VHCT đã nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các
trường phái học thuật trên thế giới, tạo nên bức tranh đa sắc màu trong quan niệm
về VHCT. Có thể nói, kể từ khi thuật ngữ VHCT được xem như một khái niệm
khoa học trong chính trị học trên thế giới, quan niệm về VHCT tương đối đa dạng,
39
thể hiện cách nhìn đa chiều và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các chế độ chính trị cũng
như văn hóa cộng đồng các quốc gia - dân tộc.
Ở Việt Nam, khái niệm VHCT là một vấn đề chủ yếu nhận được sự được
tập trung nghiên cứu từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay bởi các nhà nghiên cứu
lý luận chính trị và văn hóa. Trong đó, một số nhà nghiên cứu có đóng góp quan
trọng trong việc nghiên cứu VHCT tiêu biểu như Nguyễn Hồng Phong, Phạm Ngọc
Quang, Hoàng Chí Bảo, Trần Văn Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Huyên,
Phạm Hồng Tung, Vũ Minh Giang, Phùng Hữu Phú và Lê Quý Đức... Xuất phát từ
các góc độ khác nhau và mục tiêu nghiên cứu không đồng nhất, các nhà nghiên
cứu trong nước cũng đã đưa ra những quan niệm về VHCT tương đối đa dạng.
Một số quan niệm tiêu biểu như: “VHCT là một phương diện của văn hóa;
nó nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị” [100, tr.19]; “Khái
niệm VHCT dùng để nói lên một nội dung văn hóa, để chỉ về tri thức chính trị (tư
tưởng, học thuyết chính trị) tích lũy được trong việc điều hành quản lý một xã hội,
một cộng đồng hoặc một quốc gia nào đó”[47, tr.11]; “là một phương diện của văn
hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động
chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi
ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển của lịch
sử” [149, tr.29]; “VHCT là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần được hình
thành trong thực tiễn chính trị” [160, tr.382]; “VHCT là một thành tố quan trọng
trong đời sống văn hóa xã hội, thể hiện ở tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của tổ chức và
con người chính trị; thể hiện rõ trong tổ chức thiết chế và thể chế chính trị; thể hiện
trong tổ chức hoạt động chính trị” [28, tr.121]...
Cũng xuất phát từ cách tiếp cận biện chứng giữa cái chung của văn hóa và
cái riêng của VHCT, trong “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị
truyền thống Việt Nam” năm 2009 [68], tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng, khái
niệm VHCT có nội hàm rất phong phú nhưng cốt lõi là trình độ và hiệu quả của
hoạt động chính trị. VHCT là một hệ thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu Chân - Thiện - Mỹ.
Nhìn chung quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã tiếp cận
được những thành tựu trong nghiên cứu VHCT trên thế giới, đặc biệt là các thành
tựu nghiên cứu chính trị học của phương Tây. Do xuất phát từ những góc độ và
40
mục đích nghiên cứu khác nhau nên còn có một số khác biệt trong quan niệm về
văn hóa chính trị.
Xét về bản chất, là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong kiến trúc
thượng tầng, chịu sự chi phối và quyết định của hạ tầng cơ sở, thành tố văn hóa và
thành tố chính trị có quan hệ hữu cơ với nhau. Về bản chất, chính trị phản ánh trình độ
văn hóa của một giai cấp, cộng đồng ở phương diện tổ chức và điều hành xã hội. Chính
trị được xem là văn hóa khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người,
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Khi nói về mối quan hệ văn hóa và chính trị, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [88, tr.246]. Văn hóa có quan hệ mật
thiết với chính trị, thấm sâu vào chính trị; văn hóa trở thành nội dung, nền tảng trong
trong mục tiêu, lý tưởng chính trị; chính trị là một bộ phận đặc thù của văn hóa, sự tác
động của chính trị tới con người và đời sống xã hội trong việc quy định tính giai cấp
của các hoạt động, các hiện tượng văn hóa. Vì vậy, văn hóa mang đậm dấu ấn của
chính trị, phản ánh bản chất chính trị, đặc biệt là trong xã hội có giai cấp.
Trong quan hệ với văn hóa, chính trị giữ vai trò định hướng, là kim chỉ nam;
văn hóa phục tùng chính trị, văn hóa trong chính trị thể hiện ở mục tiêu, động lực của
hoạt động chính trị; văn hóa gắn liền với chính trị, văn hóa và chính trị thống nhất hữu
cơ, tác động qua lại lẫn nhau phản ánh VHCT của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Văn hóa chính trị luôn bị quy định bởi trình độ và nét đặc trưng văn hóa của
một cộng đồng, quốc gia, dân tộc, trên tinh thần đó, các nhà nghiên cứu trên thế giới
cũng như ở Việt Nam, cơ bản đã có sự thống nhất khi xem xét những vấn đề thuộc
về bản chất và đặc trưng của VHCT, đó là: VHCT là một bộ phận của văn hóa xã
hội, hàm chứa trong đó hệ thống giá trị do con người sáng tạo nên trong quá trình
chính trị nhằm điều chỉnh những hành vi chính trị của cá nhân hay cộng đồng và
luôn bị chi phối bởi tư tưởng của giai cấp thống trị.
Văn hóa chính trị là sự kết tinh những giá trị chính trị, là sự thẩm thấu chuyển
hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. VHCT giúp cho sự tác
động của chính trị đến đời sống xã hội như sức mạnh nội sinh của văn hóa.
Tuy nhiên, do xuất phát từ góc độ tiếp cận không giống nhau, nên nhìn chung
các quan niệm về VHCT vẫn còn hết sức đa dạng và có những khác biệt nhất định.
Có quan niệm nhấn mạnh tính định hướng trong hoạt động của các chủ thể chính trị;
41
có quan niệm lại nhấn mạnh đến nguồn gốc, cũng như các biểu hiện của VHCT, hoặc
quá nhấn mạnh đến giá trị chính trị mà chưa thực sự quan tâm đến cơ cấu các tầng
nội dung của khái niệm VHCT như: hệ thống nhân cách của chủ thể chính trị; thang
bậc giá trị chính trị; các thể chế, thiết chế chính trị và hoạt động chính trị.
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã được công bố, xuất phát từ góc độ
văn hóa học, chúng tôi quan niệm: VHCT là một bộ phận của văn hóa xã hội, trong
đó chứa đựng những giá trị do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động
chính trị và được xác lập, chia sẻ trong việc tổ chức và quản lý để tạo nên sức mạnh
chung của cộng đồng.
Khái niệm VHCT thể hiện, trước hết với tính cách là một bộ phận đặc thù
của văn hóa trong lĩnh vực chính trị. Những vấn đề thuộc về đặc trưng của VHCT là
hệ thống thang bậc giá trị được hình thành và tích lũy trong thực tiễn hoạt động
chính trị. Hệ thống thang bậc giá trị đó do các chủ thể sáng tạo ra và được xác lập,
chia sẻ và thực hành trong tổ chức, quản lý để tạo nên sức mạnh của cộng đồng.
Những yếu tố thuộc về hệ thống thang bậc giá trị chính trị luôn gắn liền với triết lý
chính trị, tư tưởng chính trị; các chuẩn mực và niềm tin chính trị; các di sản và
truyền thống chính trị, cũng như các biểu trưng, biểu tượng chính trị (hay còn được
gọi là ngoại hiện chính trị) và sự vận hành của thể chế và thiết chế chính trị. Là một
bộ phận của văn hóa, VHCT phản ánh năng lực bản chất người của chủ thể chính trị
hướng tới mục tiêu vì sự tiến bộ xã hội đồng thời chịu sự quy định bởi trình độ, đặc
trưng văn hóa của cộng đồng quốc gia, dân tộc.
Trong khuôn khổ của luận án, với nhận thức: văn hóa luôn gắn liền với chủ
thể và phản ánh các giá trị sáng tạo của con người, chúng tôi tập trung chủ yếu vào
những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, VHCT luôn gắn liền chủ thể, nghĩa là luận án sẽ tiếp cận VHCT ở
khía cạnh nhân cách của chủ thể, trong đó tập trung vào nhân cách cá nhân.
Thứ hai, xem xét những biểu hiện của thang bậc giá trị VHCT, trong đó bao
gồm các yếu tố mạng tính định hướng với các nội dung: triết lý và tư tưởng chính trị
với tính cách là những vấn đề cốt lõi của hệ tư tưởng chính trị; chuẩn mực và khuôn
mẫu chính trị; di sản và truyền thống chính trị.
Thứ ba, hệ thống thể chế và thiết chế chính trị với tính cách là công cụ hành
động chính trị, trong đó bao gồm các nội dung: sứ mệnh, mục tiêu; hành động nhằm
hiện thực hóa mục tiêu và uy tín chính trị của tổ chức.
42
Thứ tư, hoạt động chính trị với các nội dung và phương thức vận hành nhằm
đạt tới các mục tiêu chính trị.
2.1.2. Cấu trúc và chức năng của văn hóa chính trị
2.1.2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học [155], cấu trúc được hiểu
là: “Toàn bộ nói chung những quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một
chỉnh thể” [155, tr.128]. Xem xét cấu trúc của VHCT có ý nghĩa cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Về mặt lý luận, giúp cho sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu nội tại và
những quan hệ của các yếu tố cấu thành của VHCT đồng thời cũng nhận diện được
các quan niệm, cách nhìn từ góc độ khác nhau thông qua việc chỉ ra cấu trúc của
VHCT. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu cấu trúc VHCT giúp tạo ra sự lựa chọn
phương thức tác động vào các yếu tố cấu thành nhằm nâng cao VHCT trong thực
tiễn. Trong tình hình hiện nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau về VHCT
cho nên quan niệm về cấu trúc của VHCT cũng không giống nhau, trên cơ sở kế
thừa những thành tựu nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn quan niệm cấu trúc VHCT
thông qua những biểu hiện chủ yếu như sau:
a) Chủ thể văn hóa chính trị
Xuất phát từ tính chủ thể của văn hóa, VHCT bao giờ gắn với chủ thể chính
trị (cá nhân và cộng đồng), phản ánh trình độ và hiệu quả hoạt động chính trị của
con người, bao gồm sự tác động lẫn nhau trong sự thống nhất giữa VHCT cá nhân
với VHCT của một cộng đồng, trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chủ yếu tập
trung xem xét VHCT ở cấp độ cá nhân.
Văn hóa chính trị với tính cách văn hóa cá nhân hay còn gọi là nhân cách
chính trị cá nhân (văn hóa công dân) là sự thừa nhận hay đánh giá của xã hội về
phẩm chất, năng lực; về tình cảm và ý chí của cá nhân, là bộ mặt tâm lý xã hội của
cá nhân đó. Trong hoạt động chính trị, sự thừa nhận hay đánh giá của tổ chức về
phẩm chất, năng lực chính trị của cá nhân làm nên nhân cách chính trị của cá nhân
đó; nhân cách chính trị là nội dung cốt lõi bên trong của văn hóa chính trị.
Con người tồn tại trong xã hội với tư cách là một cá thể thì được gọi là cá
nhân, cá nhân luôn có mối liên hệ với cộng đồng và chỉ trong quan hệ với cộng
đồng, nhân cách cá nhân mới được hình thành và phát triển. K. Marx đã khẳng
43
định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan
hệ xã hội” [81, tr.11]. Xã hội vừa là điều kiện vừa là kết quả sự đóng góp tổng
thể của các cá nhân.
Văn hóa chính trị cá nhân được bộc lộ trên ba phương diện chủ yếu:
- Phẩm chất chính trị (những yếu tố bên trong), bao gồm nhận thức chính trị,
tình cảm chính trị và ý chí chính trị;
- Hành vi và hoạt động chính trị (những yếu tố biểu hiện ra bên ngoài), bao
gồm thái độ chính trị, năng lực tham gia hoạt động chính trị;
- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên), bao gồm lý tưởng chính trị,
uy tín chính trị cá nhân và niềm tin chính trị.
Những yếu tố thuộc về phẩm chất, năng lực và uy tín chính trị cá nhân như:
tri thức, trình độ chính trị; hành vi và hoạt động chính trị thực tiễn cũng như mức độ
hoàn thiện nhân cách tạo nên VHCT của mỗi cá nhân. Thông qua sự giao tiếp, ứng
xử trong hoạt động chính trị thể hiện thái độ và trình độ giác ngộ chính trị của cá
nhân hướng tới mục tiêu trung thành với lý tưởng đã lựa chọn. Quá trình hình thành
VHCT cá nhân được bắt đầu từ nhận thức về lý tưởng chính trị trên cơ sở tri thức
khoa học về chính trị làm tiền đề đúng đắn cho hành động chính trị và thông qua
hành động thực hiện lý tưởng chính trị, bộc lộ tình cảm, thái độ và niềm tin để làm
cho hành động ngày càng có sức mạnh hơn, tự giác hơn.
Văn hóa chính trị chính trị cá nhân chịu sự chi phối, tác động của VHCT cộng
đồng hay tổ chức, trong đó tập trung ở những yếu tố mang tính định hướng như: lý
tưởng chính trị, động cơ và lợi ích chính trị, các yếu tố truyền thống và môi trường
chính trị xung quanh.
b) Thang bậc giá trị văn hóa chính trị
Văn hóa được hiểu như là tổng thể dấu ấn sáng tạo của con người trong lịch
sử theo tiêu chuẩn chân - thiện - mỹ. Với tính cách là một bộ phận của văn hóa,
thang bậc giá trị VHCT, được kết tinh từ thực tiễn chính trị, thẩm thấu vào trong tất
cả các hoạt động của chủ thể chính trị hướng tới một nền chính trị dân chủ, nhân
văn, khoa học và được biểu hiện trên những phương diện sau:
- Triết lý, tư tưởng chính trị
Triết lý, tư tưởng chính trị là một hệ thống tri thức mang tính định hướng dựa
trên các tư tưởng, quan điểm triết học, tôn giáo hay đạo đức nhằm giải thích nguồn
44
gốc, bản chất của chính trị với các vấn đề thuộc về quan hệ các giai cấp, quyền lực,
nhà nước. Triết lý, tư tưởng chính trị thể hiện sứ mệnh, nhiệm vụ và những giá trị
định hướng hay mục tiêu, lý tưởng của cá nhân, cộng đồng trong mỗi giai đoạn, thời
đại khác nhau.
Triết lý, tư tưởng chính trị thể hiện trước hết ở tri thức và sự hiểu biết chính
trị. Trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân với tính cách là nhân
cách chính trị nói lên tri thức chính trị của cá nhân đó. Tri thức chính trị thể hiện
qua học vấn chính trị và ở trình độ, kinh nghiệm, sự mẫn cảm, từng trải hay nhạy
bén về chính trị của chủ thể, tạo nên phong cách và nguyên tắc ứng xử của con
người trong quá trình chính trị.
Một trong những vấn đề cốt lõi của triết lý, tư tưởng chính trị là hệ tư tưởng
chính trị. Hệ tư tưởng chính trị là vấn đề ý thức hệ, phản ánh khái quát lợi ích giai
cấp và phương thức, cách thức đấu tranh thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp. Hệ tư
tưởng chính trị giữ vai trò trung tâm chi phối và quyết định tính chất, nội dung và
phương hướng xây dựng VHCT. Hay nói cách khác, hệ tư tưởng chính trị của giai
cấp thống trị xã hội quy định trực tiếp đường lối và chính sách chính trị.
Vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị cũng là một trong những khía cạnh chủ
yếu của triết lý, tư tưởng chính trị nói riêng, VHCT nói chung. Một lý tưởng chính
trị tiến bộ phải được xây dựng trên cơ sở của những tri thức và sự hiểu biết chính trị
và hệ tư tưởng chính trị hướng tới mục tiêu dân chủ và nhân văn. Lý tưởng chính trị
có tốt đẹp mới tạo ra niềm tin hay sự thuyết phục về chính trị. Lý tưởng chính trị là
sự biểu hiện những sắc thái tâm lý xã hội mang tính cá nhân đối với chế độ chính trị
và cũng là cơ sở để hình thành lý tưởng chính trị cao đẹp, giúp tạo ra bản lĩnh chính
trị vững vàng cho các chủ thể chính trị trước những khó khăn thử thách.
- Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị
Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị hay còn gọi tính chuẩn tắc chính trị là
những giá trị VHCT được chủ thể chia sẻ trên cơ sở của chuẩn mực, khuôn mẫu
chính trị, trong đó chuẩn mực chính trị có tác dụng định hướng và điều chỉnh hành
vi của các chủ thể chính trị trong quá trình đấu tranh giành quyền lực và thực thi
quyền lực. Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị có tác dụng thuyết phục và khuyến
khích sự tham gia cổ vũ, ủng hộ một cách tự giác, tự nguyện của công dân, đồng
45
thời bản thân nó cũng được bảo vệ bằng các chế tài mang tính pháp lý. Hay nói cách
khác, hướng tới chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ
của công dân đối với chính thể nhà nước.
Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị thường hiện diện trong các quy phạm
pháp luật, quy định và xử lý các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội, giữa nhà nước và công dân, đồng thời tồn tại trong các quan hệ xã hội quy định
nguyên tắc hoạt động của bản thân nó và thường trực hiện diện trong nhận thức,
tình cảm của chủ thể đối với các tiêu chí chính trị.
Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào
mức độ phát triển văn hóa xã hội của chính quốc gia đó và được dựa trên những tiêu
chí, chuẩn mực chính trị cơ bản. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị gắn liền với sự
hoàn thiện của thể chế chính trị nhằm khơi dậy và phát huy sức mạnh của giai cấp,
dân tộc và thời đại trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu chính trị.
- Di sản và truyền thống chính trị
Xét dưới góc độ văn hóa học, khái niệm di sản được hiểu là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Khái niệm truyền thống dùng để chỉ tập hợp những tư tưởng, tình
cảm, những tập quán, những thói quen, những kinh nghiệm, lối sống, cách ứng xử
của các chủ thể trong một cộng đồng được hình thành trong lịch sử, mang tính ổn
định, bền vững và được lưu truyền qua các thế hệ; truyền thống được biểu hiện
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là ở lĩnh vực văn hóa.
Khác với di sản, trong từng giai đoạn nhất định, yếu tố truyền thống bao giờ
cũng có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố mang
tính ưu việt, tiến bộ, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển góp phần gìn giữ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, trái lại, mặt tiêu cực là biểu hiện của sức ỳ của sự bảo thủ,
trì trệ, lạc hậu và là những yếu tố kìm hãm sự phát triển.
Lịch sử văn hóa của một dân tộc là lịch sử của sự trao truyền và kế thừa các
di sản. Với tư cách là sản phẩm của lịch sử, VHCT là sự hội tụ, kết tinh giá trị các
di sản chính trị và truyền thống chính trị tiêu biểu thể hiện bản sắc của dân tộc. Các
di sản chính trị và truyền thống chính trị của một dân tộc gắn liền với các biểu
tượng chính trị, nhân cách chính trị của các anh hùng thể hiện lý tưởng, khát vọng
của dân tộc đó.
46
c) Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị
Thể chế chính trị là hệ thống các định chế hợp thành một chế độ chính trị, là
hình thức thể hiện các thành phần của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng
trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội khác và vai trò,
ảnh hưởng lẫn nhau của các yếu tố đó trong hệ thống chính trị. Thể chế chính trị
được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc nhằm hướng tới
việc xác định tổ chức và hoạt động của các lực lượng (đảng phái) chính trị, nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
Thiết chế chính trị bao gồm cách thức tổ chức bộ máy quyền lực, các cơ
quan quyền lực các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể chính trị.
Thể chế và thiết chế chính trị được xem như là hệ thống công cụ hành động
nhằm đạt tới mục tiêu chính trị. Xem xét thể chế, thiết chế chính trị từ góc độ văn
hóa là căn cứ vào mục tiêu chính trị để nhìn nhận, đánh giá tính khoa học trong cách
thức xây dựng các định chế chính trị, sự phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc
và tiến bộ xã hội nói chung.
d) Hoạt động văn hóa chính trị
Sự vận hành của các thể chế và thiết chế VHCT xét về bản chất là các hoạt
động chính trị trong thực tiễn. Hoạt động chính trị là trong những hoạt động văn hóa
đặc thù trong xã hội có giai cấp, trong đó bao gồm tổng thể các cách thức thực hiện
các quan hệ chính trị trong xã hội, là sự tác động qua lại của các tổ chức, cá nhân
nhằm thực hiện lợi ích chính trị trong quá trình ứng xử với quyền lực, đây chính là
cơ sở hình thành sự vận hành của thể chế, thiết chế trong hoạt động chính trị.
Về nguyên tắc, trong xã hội có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp, xã hội
có giai cấp đối kháng thì hoạt động chính trị của các giai cấp đối kháng suy đến cùng
là sự đấu tranh nhằm chiếm hữu quyền lực. Giai cấp thống trị sẽ tìm mọi cách để
củng cố quyền lực, giữ vững và tiến hành các hoạt động thực thi quyền lực đảm bảo
cho lợi ích chính trị của giai cấp mình được bảo toàn. Giai cấp đối kháng (bị trị) cũng
tiến hành các hoạt động chính trị nhằm gây ra áp lực chính trị và hướng tới mục tiêu
giành lấy quyền lực chính trị từ giai cấp thống trị. Trong từng giai đoạn lịch sử, vai
trò của giai cấp cầm quyền thông qua hoạt động chính trị có ảnh hưởng mang tính
quyết định đến tính chất và khuynh hướng của nền VHCT của cộng đồng.
47
Văn hóa chính trị khác với bản thân chính trị, không đồng nhất với chính trị
và không phải tất cả hoạt động chính trị đều biểu hiện VHCT, chỉ có những hoạt
động chính trị hội tụ và kết tinh được những giá trị vì mục tiêu con người và tiến bộ
xã hội mới trở thành hoạt động văn hóa, là tiền đề sáng tạo ra văn hóa chính trị.
Hoạt động chính trị luôn gắn liền với quyền lực, căn cứ vào quan hệ quyền lực
chính trị hiện hành mà các hoạt động chính trị được xem là phù hợp hay không phù
hợp. Hay nói cách khác, nội dung hoạt động chính trị luôn bị quy định bởi các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật.
Trong hoạt động chính trị, lãnh đạo chính trị là một nội dung có vai trò quyết
định, lãnh đạo chính trị là hoạt động đặc biệt gắn liền với tổ chức là đảng chính trị
bao gồm những đại biểu tiên phong của giai cấp. Lãnh đạo chính trị biểu hiện khả
năng thực hiện ý chí của chủ thể dựa trên uy tín người lãnh đạo và sự thừa nhận,
phục tùng của đối tượng bị lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo mang tính trí tuệ và thể
hiện sự sáng tạo trong thực tiễn của chủ thể chính trị.
Trong hoạt động chính trị, lãnh tụ chính trị luôn là nhân vật trung tâm, bất cứ
một cộng đồng nào cũng chịu tác động và ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng sự ảnh
hưởng của lãnh tụ chính trị luôn là sự ảnh hưởng rộng khắp và vượt lên trên tất cả.
Mỗi thời đại nhất định trong lịch sử đều có những mẫu hình lý tưởng về người lãnh
đạo chính trị.
Về mặt hình thức, hoạt động chính trị là hoạt động của các cá nhân, cộng
đồng hay tổ chức được khởi phát tự nhiên hay được tổ chức bởi các chủ thể chính
trị nhằm hướng tới lợi ích bản thân, giai cấp, cộng đồng. Trong thực tiễn, các hoạt
động như cách mạng xã hội, khởi nghĩa vũ trang, đảo chính, biểu tình, bầu cử chính
trị, cải cách chính trị… được xem là những hoạt động chính trị tiêu biểu.
2.1.2.2. Chức năng của văn hóa chính trị
Nói tới chức năng là nói tới “Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng
của một người nào, một cái gì đó” [155, tr.191]. Chức năng của VHCT là tác dụng,
vai trò đặc trưng của VHCT trong thực tiễn. Với tính cách là một thành tố của văn
hóa, VHCT cũng có đầy đủ các chức năng của văn hóa nói chung. Tuy nhiên VHCT
của một xã hội, một cộng đồng có vai trò quan trọng trong việc nhận thức, đánh giá,
điều chỉnh và đưa ra định hướng hành vi chính trị của các chủ thể nhằm đem lại
hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.
48
Xuất phát từ cách tiếp cận và quan niệm về văn hóa nói chung và VHCT nói
riêng, hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về chức năng
của VHCT. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, VHCT có những chức năng cơ bản
sau đây:
a) Chức năng nhận thức
Văn hóa chính trị có vai trò quan trọng trong việc nhận thức các hiện tượng
chính trị, các quá trình chính trị, đem lại cho chủ thể chính trị những tri thức cần thiết
để tham gia vào đời sống chính trị nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả chính trị
trong thực tiễn. Các tri thức chính trị là những vấn đề có tính quy luật, mang tính
nguyên tắc trong tổ chức, quản lý xã hội, quản lý nhà nước; các phương pháp,
phương thức, thao tác, vận hành nhằm thường xuyên phát huy tính tích cực chính trị
của công dân. Quá trình nhận thức các tri thức chính trị, trong đó nhận thức hệ tư
tưởng chính trị, những giá trị chính trị, những chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị là
những vấn đề cốt lõi.
Chức năng nhận thức của VHCT thể hiện trong môi trường chính trị, trong
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, quan hệ giữa các cá nhân trong một tổ chức.
Quá trình nhận thức cũng là quá trình không ngừng sáng tạo các tri thức và giá trị
mới. Thông qua hành vi của cá nhân và cộng đồng, VHCT tiếp thu những tri thức
mới có tác dụng định hướng trong thực tiễn hoạt động chính trị.
b) Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của VHCT thể hiện, thông qua các hoạt động chính trị
tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện các chủ thể, giúp cho chủ thể có được
những phẩm chất, năng lực theo tiêu chuẩn và khuôn mẫu chính trị nhất định.
VHCT quy định hành vi chính trị của các chủ thể trên cơ sở những chuẩn mực,
những giá trị chính trị đã được cộng đồng lựa chọn và thừa nhận, đây là cơ sở quan
trọng và là yếu tố mang tính quyết định trong việc hình thành nhân cách con người
chính trị.
Văn hóa chính trị, với chức năng giáo dục không chỉ giúp gìn giữ phát huy
những giá trị truyền thống mà còn sáng tạo nên những giá trị mới, tạo nên sự kế tục
mang tính lịch sử của mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Thông qua các tổ chức
chính trị với các cương lĩnh, điều lệ, sự giải thích, tuyên truyền, giáo dục giúp nâng
cao tính tích cực chính trị cho các thành viên trong cộng đồng hay tổ chức đó.
49
c) Chức năng tổ chức
Các tổ chức chính trị là đại diện hợp pháp cho các lực lượng xã hội được tập
hợp, liên kết lại trên cơ sở cùng nhau chia sẻ các giá trị, lợi ích, VHCT thể hiện chức
năng tổ chức qua việc liên kết xã hội, các cá nhân, các nhóm, các giai tầng tạo nên sự
đoàn kết, thống nhất trong một cộng đồng, tổ chức vì mục tiêu và nghĩa vụ chung.
Tuy nhiên, do sự đấu tranh vì lợi ích riêng của các nhóm xã hội diễn ra thường
xuyên và hết sức đa dạng, cho nên, chức năng tổ chức của VHCT thường không
thực sự triệt để.
d) Chức năng điều chỉnh
Văn hóa chính trị góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội - chính trị và nâng
cao chất lượng của chủ thể quyền lực. Trong quá trình chính trị, thông qua các hoạt
động chính trị, hình thành nên những khuôn mẫu chính trị. Căn cứ vào khuôn mẫu
chính trị, các chủ thể chính trị sẽ nhận thức được sự đúng, sai, tốt, xấu, từ đó tiến
hành điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, mỗi nhóm sao cho phù hợp với quan niệm
chung của cộng đồng, xã hội. Khi điều chỉnh, phải xem các giá trị VHCT là yếu tố
quan trọng nhất, giữ vai trò nền tảng tạo ra sự cân bằng cho hệ thống chính trị, giúp cho
sự ổn định xã hội. Văn hóa luôn là một dòng chảy, VHCT luôn có sự vận động và phát
triển, trong quá trình đó để không bị tụt hậu hoặc lệch chuẩn, các chủ thể phải luôn tự
đổi mới, tự điều chỉnh sao cho bắt kịp với sự vận động của thực tiễn.
e) Chức năng dự báo và định hướng
Trên cơ sở nhận thức, đánh giá các hiện tượng và quá trình chính trị, căn cứ
vào tri thức chính trị với định hướng theo khuôn mẫu và giá trị đã lựa chọn có thể
dự báo được những biến đổi chính trị trong tương lai, dự báo là một trong những
chức năng quan trọng của văn hóa chính trị.
Một trong những yếu tố cốt lõi trong cấu trúc của VHCT là triết lý chính trị,
biểu hiện qua hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nếu triết lý chính trị của giai cấp
thống trị xã hội mang tính chất cách mạng, khoa học thì sẽ tạo nên những chuẩn mực,
những khuôn mẫu mang tính nhân văn, hướng sự phát triển xã hội phù hợp với quy
luật khách quan và ngược sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực.
Văn hóa chính trị định hướng năng lực và phẩm chất của chủ thể tạo ra sự
nhạy bén chính trị, giúp cho sự chủ động và sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử
thách vươn lên để thực hiện các giá trị lý tưởng đã chọn.
50
Ngoài những chức năng trên, các nhà nghiên cứu còn đưa ra các chức năng
khác như: chức năng đánh giá, chức năng xã hội hóa chính trị và chức năng đảm
bảo sự kế tục lịch sử hay còn gọi là chức năng trao truyền...
Văn hóa chính trị là một bộ phận của văn hóa xã hội, là sản phẩm sáng tạo
của con người trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị. Vai trò,
chức năng của VHCT thể hiện ở vị trí quan trọng trong việc nhận thức tri thức chính
trị, tập hợp và giáo dục quần chúng, điều chỉnh, định hướng và dự báo tương lai
nhằm không nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị trong thực tiễn.
2.2. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI
Vấn đề xây dựng QĐND Việt Nam về tư tưởng và văn hóa thường xuyên
nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP, giúp cho nhận thức
về văn hóa nói chung, VHCT nói riêng trong toàn quân có bước phát triển mới.
Nhiều vấn đề lý luận về văn hóa và văn hóa trong môi trường quân sự đã được luận
giải, làm rõ góp phần xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, trước
yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa chung và nâng cao VHCT nói riêng cho các
chủ thể trong quân đội vẫn còn nhiều vấn đề thuộc về lý luận văn hóa cần được lý
giải và làm rõ hơn. Xuất phát từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở kế thừa những thành
tựu mới trong nghiên cứu về cấu trúc văn hóa, chúng tôi đưa ra quan niệm về
VHCT của QĐND Việt Nam và VHCT trong nhà trường quân đội.
2.2.1. Văn hóa chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
Trong Luật Quốc phòng ban hành năm 2018 xác định: QĐND Việt Nam là một
bộ phận và là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang Nhân dân bao gồm lực lượng
thường trực (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương) và lực lượng dự bị động viên.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức quân sự cách mạng do ĐCSVN
và Nhà nước Việt Nam lãnh đạo và quản lý; là quân đội kiểu mới mang bản chất
của giai cấp công nhân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì hạnh phúc của
Nhân dân.
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo,
tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt của ĐCSVN và sự giáo dục rèn luyện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, QĐND Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh; lớp lớp các thế hệ cán
bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì
51
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dựa vào Nhân dân, sát cánh cùng với Nhân
dân, lập nhiều chiến công, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; xứng
danh là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Những giá trị văn hóa của QĐND Việt Nam được biểu hiện tập trung qua
hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong suốt cuộc đấu tranh trường kỳ giải phóng dân tộc
cũng như trong công cuộc xây dựng Tổ quốc ngày nay, danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ”
đã được khẳng định là một giá trị văn hóa độc đáo, là sự kế thừa và phát huy truyền
thống văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đồng thời có thể được
xem là biểu tượng anh hùng văn hóa trong thời đại Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những nhận thức trên, chúng tôi quan niệm: văn hóa chính trị
QĐND Việt Nam là tổng thể những dấu ấn kết tinh truyền thống văn hóa dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện trong chủ
thể chính trị, thang bậc giá trị chính trị, thể chế và thiết chế chính trị, hoạt động
chính trị của quân đội theo tiêu chí chân - thiện - mỹ, được tích lũy và sáng tạo ra
trong suốt quá quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của đội quân cách
mạng từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Những giá trị VHCT cao nhất của dân tộc Việt Nam hướng tới là “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do” hay nói ngắn gọn hơn là “Độc Lập - Tự Do - Hạnh
Phúc” đã được gửi gắm và giao phó cho QĐND Việt Nam, thể hiện trong chức
năng, nhiệm vụ của quân đội là sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; thực
hiện công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; lao động sản xuất, kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội,
tham gia phòng thủ dân sự, cùng toàn dân xây dựng đất nước và nói ngắn gọn hơn
là, đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.
Những giá trị truyền thống tiêu biểu đồng thời cũng là những giá trị VHCT
điển hình của QĐND Việt Nam đã được đúc kết trong lời khen ngợi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập (22/12/1944 - 22/12/1964):
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, đó cũng chính là sự hội tụ kết tinh
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
52
2.2.2. Văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam luôn
được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ. Trước yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho cách mạng, Hội nghị Quân sự cách
mạng Bắc Kỳ họp từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 4 năm 1945, tại Hiệp Hòa, Bắc Giang,
đã quyết định một trong những nội dung quan trọng là thành lập Trường Quân chính
kháng Nhật (Tiền thân của TSQLQ1 ngày nay). Sự ra đời một nhà trường đầu tiên của
quân đội là dấu mốc quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân đội của
Đảng, đồng thời là một tất yếu khách quan, gắn liền với quá trình xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành của QĐND Việt Nam anh hùng trong suốt hơn 75 năm qua.
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, NTQĐ tiếp tục có những đóng quan trọng vào quá
trình thực hiện chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Với tính cách là một tổ chức quân đội mang tính đặc thù có nhiệm vụ chính
trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, hướng tới mục tiêu đào tạo cán
bộ quân đội của Đảng, chúng tôi quan niệm: văn hóa chính trị trong NTQĐ là
một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam trong đó chứa đựng những thang bậc
giá trị mang tính định hướng chính trị cao trong một thiết chế văn hóa đặc thù
do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động môi trường sư phạm quân
sự, nhằm tạo nên sức mạnh để hoàn thành thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo
của nhà trường quân đội.
Nhà trường quân đội là một thiết chế văn hóa đặc thù, VHCT trong NTQĐ
luôn gắn liền với hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm quân sự và
phản ánh các giá trị chính trị thông qua các nghi thức, chuẩn mực và các biểu trưng,
biểu tượng mang tính truyền thống và sự vận hành của thể chế, thiết chế chính trị;
và hoạt động chính trị của các chủ thể trong NTQĐ. VHCT trong NTQĐ phản ánh
trình độ, năng lực sáng tạo, sự chia sẻ và theo đuổi các giá trị của chủ thể văn hóa
sư phạm quân sự vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích dân tộc và sự tiến bộ của
xã hội. VHCT trong NTQĐ phản ánh những dấu hiệu đặc trưng VHCT của QĐND
Việt Nam và chịu sự tác động và chi phối bởi trình độ và đặc trưng của văn hóa dân
tộc Việt Nam.
53
2.2.3. Đặc trưng của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Xét trong tính hệ thống, văn hóa chính trị QĐND Việt Nam là sự hội tụ và kết
tinh của VHCT Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và VHCT trong NTQĐ là
một bộ phận hợp thành VHCT của QĐND Việt Nam. Về thực chất, NTQĐ là
những đơn vị quân đội với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị QĐND
Việt Nam. Nếu như các đơn vị quân đội có nhiệm vụ chính trị trung tâm là huấn
luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu thì tính đặc thù của NTQĐ thể hiện ở
nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học. Những vấn đề
thuộc về đặc trưng của VHCT trong NTQĐ là chất lượng tổng hòa của các yếu tố
cấu thành như: hệ thống nhân cách chính trị của người lãnh đạo, chỉ huy, giảng
viên và học viên; hệ thống thang bậc giá trị chính trị với triết lý và tư tưởng
chính trị; chuẩn mực và niềm tin chính trị; di sản và truyền thống chính trị và
được biểu hiện qua các nghi thức của quân đội, các quy định trong điều lệnh,
điều lệ của quân đội gắn với mục tiêu yêu cầu đào tạo và lịch sử truyền thống
của NTQĐ. Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi một học viện, trường
quân đội không giống nhau, cho nên các giá trị chính trị được tạo ra bởi mỗi
NTQĐ cũng không đồng nhất, điều đó tạo nên uy tín hay còn được gọi là
“thương hiệu” của mỗi trường.
Những giá trị truyền thống tiêu biểu của NTQĐ là những biểu hiện cụ thể của
văn hóa giữ nước, bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam,
truyền thống vinh quang của ĐCSVN và truyền thống anh hùng của QĐND Việt Nam.
Trong phạm vi của luận án, với nhận thức, VHCT trong NTQĐ là VHCT của
QĐND Việt Nam trong một thiết chế văn hóa đặc thù của môi trường sư phạm quân
sự có vai trò quan trọng trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách; bồi đắp lý
tưởng, niềm tin chính trị, rèn luyện bản lĩnh chính trị trong quá trình đào tạo đội ngũ
quân nhân cách mạng, chúng tôi sẽ chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, chủ thể của VHCT trong NTQĐ được biểu hiện ở văn hóa cá nhân
với ba đối tượng chính: cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; giảng viên và học viên. Tiếp cận
chủ thể VHCT với tính cách là văn hóa cá nhân (nhân cách cá nhân, văn hóa công
dân), trong đó, bao gồm các yếu tố: phẩm chất chính trị (yếu tố nội tại bên trong),
hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố biểu hiện bên ngoài) và lý tưởng, niềm tin
chính trị (yếu tố bên trên).
54
Thứ hai, thang bậc giá trị VHCT trong NTQĐ biểu hiện trên các khía cạnh
sau: triết lý, tư tưởng chính trị gắn với hệ tư tưởng của ĐCSVN là lấy chủ nghĩa
Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động. Lý tưởng và niềm tin chính trị được biểu hiện trong chiến lược xây dựng
quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại và gắn với các nghi
thức quân đội; các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị được thể hiện trong các quy
định xây dựng chính quy và rèn luyện kỷ luật; di sản và truyền thống của NTQĐ
luôn gắn liền với những thành tích và đóng góp trong quá trình xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành của mỗi học viện, trường quân đội.
Thứ ba, thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ gắn liền với quan điểm,
đường lối của Đảng, quy phạm pháp luật Nhà nước và các quy định về cơ cấu, tổ
chức cùng với sự vận hành các thiết chế mang tính đặc thù trong QĐND Việt
Nam nói chung và NTQĐ nói riêng.
Thứ tư, hoạt động VHCT trong NTQĐ gắn liền với hoạt động đặc thù của tổ
chức quân sự cách mạng như: hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu; hoạt động
xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; hoạt động hậu cần, kỹ thuật và tài chính;
hoạt động xây dựng các tổ chức, trong đó hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa
học được xem là nhiệm vụ chính trị trung tâm. Vì vậy luận án sẽ tập trung vào ba
hoạt động chính: dạy học, nghiên cứu khoa học và hoạt động xây dựng các tổ chức
trong nhà trường quân đội.
2.3. KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
2.3.1. Khái quát chung về hệ thống nhà trường quân đội
Hiện nay hệ thống NTQĐ của QĐND Việt Nam được tổ chức hoàn chỉnh từ
trên xuống dưới và trải rộng khắp tất cả các quân chủng, binh chủng, các quân khu,
quân đoàn, các tổng cục và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhằm đáp
ứng yêu cầu đào tạo ở tất cả các cấp cho quân đội và phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.3.1.1. Cơ cấu tổ chức
Theo Thông tư số 51/2016/TT- BQP ngày 20 tháng 4 năm 2016 ban hành
“Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam” [18], tại Điều 6, mục
Hệ thống NTQĐ, gồm có: các học viện, trường sĩ quan, trường đại học và đơn vị
được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học; các trường cao đẳng, trường trung cấp; các
55
trường quân sự quân khu, quân đoàn và Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
Nội; các trường quân sự tỉnh, thành phố và Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thành phố
Hồ Chí Minh và các trung tâm giáo dục nghề nghiệp [18, tr.11].
Theo phân cấp quản lý, hiện nay có Học viện Quốc phòng (Học viện Quân
sự cấp cao) trực thuộc Chính phủ; có 5 Học viện và 3 Trường sĩ quan trực BQP; có
5 học viện trực thuộc quân chủng, tổng cục, bộ tư lệnh, Ban Cơ yếu Chính phủ và có
6 trường đào tạo bậc cao đẳng và trung cấp.
Ngoài ra ở 7 quân khu và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 4 quân đoàn và hầu hết
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có các trường quân sự.
2.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
Theo Thông tư số 51/2016/TT-BQP, quy định: NTQĐ có tư cách pháp nhân
thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng nhà trường chính
quy; cấp văn bằng, chứng chỉ theo quy định của Nhà nước và BQP. Các hoạt động của
nhà trường đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP, Bộ Tổng Tham mưu,
Tổng cục Chính trị, trên cơ sở phê duyệt của các cấp có thẩm quyền [18].
Nhà trường quân đội thực hiện nhiệm vụ đào tạo sĩ quan; bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; bồi dưỡng năng lực
thực hành cho cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, hạ sĩ quan, binh sĩ theo yêu
cầu của quân đội ở tất cả các bậc học và cấp học. Nghiên cứu, ứng dụng, phát triển
các hoạt động khoa học và công nghệ; liên kết, hợp tác đào tạo và thực hiện một số
nhiệm vụ do BQP giao [18].
Theo phân cấp đào tạo, NTQĐ triển khai thực hiện giáo dục, đào tạo từ
chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp với các trình độ từ sơ cấp,
trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Theo loại hình có đào tạo theo chức vụ
(chiến thuật, chiến dịch, chiến lược); theo học vấn (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại
học, thạc sĩ - bác sĩ chuyên khoa cấp 1, 2, tiến sĩ) và đào tạo liên kết, liên thông, bồi
dưỡng, giáo dục chuyên nghiệp.
Trải qua 75 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, cùng với sự lớn mạnh của
QĐND Việt Nam, NTQĐ đã đào tạo được hàng chục vạn cán bộ sĩ quan, nhân viên
chuyên môn đáp ứng kịp thời cho các nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc và xây dựng đất nước hiện nay, góp phần tô thắm thêm truyền thống “Dạy tốt,
học tốt, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ” [16, tr.10]
56
2.3.2. Khái quát về Học viện Chính trị
2.3.2.1. Lịch sử hình thành, phát triển
Khi Chiến dịch Biên giới 1950 kết thúc thắng lợi, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Tổng Quân ủy ra quyết định
thành lập “Trường Chính trị trung cấp QĐND Việt Nam” (tiền thân của HVCT
ngày nay) vào tháng 7 năm 1951, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng sức mạnh chính
trị tinh thần cho các đơn vị quân đội. Sau nhiều lần thay đổi tổ chức và tên gọi cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, tháng 5 năm 1965, Nhà trường mang tên
Học viện Chính trị. Từ ngày thành lập đến năm 1954, Nhà trường được Chủ tịch Hồ
Chí Minh 3 lần về thăm (25/10/1951; 3/1952 và 5/1953); Ngày truyền thống của
HVCT là ngày 25 tháng 10, để kỷ niệm ngày Nhà trường vinh dự được đón Chủ
tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên đến thăm và huấn thị.
Trong quá trình đào tạo, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Học viện đã
liên tục phát triển, được bổ sung nhiệm vụ mới, đối tượng đào tạo ngày càng đa
dạng với nhiều loại hình và quy mô ngày càng được mở rộng. Hiện nay, vị thế, uy
tín của HVCT ngày càng được khẳng định trong hệ thống giáo dục quốc dân nói
chung và NTQĐ nói riêng.
2.3.2.2. Các giá trị tiêu biểu
- Sứ mệnh và mục tiêu đào tạo
Đối với HVCT, sứ mệnh được xác định là:
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài cho quân
đội và quốc gia; nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng của
lĩnh vực khoa học Xã hội và Nhân văn, khoa học Giáo dục đạt trình độ
tiên tiến; góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [54, tr. 15].
Về mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đào tạo của HVCT được BQP giao cho:
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị, chính ủy, giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa
học Xã hội và Nhân văn quân sự cấp trung, sư đoàn…có kiến thức chuyên sâu trong
một lĩnh vực khoa học, có trình độ đại học, sau đại học, có năng lực lãnh đạo, chỉ
huy, huấn luyện và thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ học vấn và chức
vụ đào tạo; có sức khỏe tốt và tiềm năng phát triển đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới [54, tr.7,17].
57
Hiện nay chức năng, nhiệm vụ của Học viện là đào tạo sĩ quan chính trị có
trình độ về chính trị, quân sự cấp chiến dịch, chiến thuật - “đội ngũ cán bộ quân sự
trung - cao cấp, đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội có phẩm chất và năng
lực khi ra trường sẽ làm nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở cho mọi
mặt xây dựng quân đội” [16, tr.179]. Vì vậy, đối tượng đào tạo và bồi dưỡng của
Học viện tương đối đa dạng, bao gồm: đào tạo chính ủy cấp trung đoàn và sư đoàn
binh chủng hợp thành; đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn (văn bằng
đại học thứ 2); đào tạo ngắn cán bộ chính trị cấp trung đoàn; đào tạo hoàn thiện đại
học cán bộ chính trị cấp trung đoàn, trình độ đại học, ngành Xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước.
- Danh hiệu và phần thưởng cao quý
Bằng những đóng góp quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
và nghiên cứu khoa học góp phần xây dựng QĐND Việt Nam, Học viện đã vinh dự
được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao
vàng; Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân
chương Chiến công; Huân chương Độc lập; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Ngoài ra, Học viện đã 2 lần được Chính phủ
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng Huân chương Itxala; và nhiều phần
thưởng cao quý khác.
- Thành tích trong đào tạo và bồi dưỡng
Trải qua 69 năm xây dựng và trưởng thành, HVCT đã đào tạo, bồi dưỡng
được hàng vạn cán bộ chính trị, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học Xã hội và
Nhân văn của quân đội; hàng ngàn cán bộ QĐND Lào và Quân đội Hoàng gia
Campuchia. Sau gần 30 năm đào tạo trình độ sau đại học, đã đào tạo được hàng
trăm tiến sĩ; hàng nghìn thạc sĩ; hàng chục khóa đào tạo lý luận chính trị cao cấp
cho cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược; nhiều khóa bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng
và An ninh cho cán bộ đối tượng 2, hàng chục khoá bồi dưỡng nghiệp vụ công tác
đảng, công tác chính trị.
- Thành tích trong nghiên cứu khoa học
Công tác nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ chính trị trung
tâm của Học viện, vì vậy Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện luôn có sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo và đã đạt được kết quả quan trọng. Hệ thống giáo trình, tài liệu,
58
các bài giảng, sách chuyên khảo và sách chuyên đề do Học viện biên soạn đã được
phát hành lên đến hàng trăm sản phẩm có chất lượng tốt. Nhiều cuộc Hội thảo khoa
học cấp Học viện đã được tổ chức thành công với hàng hàng chục đầu sách và kỷ
yếu. Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị Quân sự của Học viện hoạt động đều, đã ấn
hành trên hàng trăm số. Hàng năm tổ chức các buổi thông tin khoa học phục vụ
nghiên cứu và giảng dạy. Tổ chức cho hàng trăm đoàn cán bộ, giảng viên đi nghiên
cứu thực tế ở các đơn vị trong và ngoài quân đội; đã viết hàng trăm bài báo khoa
học tham gia đấu tranh tư tưởng lý luận trên các báo, tạp chí Trung ương và ngành.
Trong những năm qua, Học viện đã hoàn thành đúng tiến độ, có chất lượng
các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước; cấp BQP; cấp ngành và cấp Học
viện, cấp viện, phòng, khoa, hệ. Kết quả nghiên cứu đã trực tiếp góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo ở Học viện; góp phần đấu tranh chống các quan điểm sai trái thù
địch, bảo vệ Chủ nghĩa Marx - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đã góp phần cung cấp các
luận cứ khoa học cho QUTW và BQP trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự,
quốc phòng, xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.
- Giá trị truyền thống tiêu biểu và triển vọng phát triển trong tương lai
Phát huy truyền thống “Kiên định và sáng tạo, đoàn kết và kỷ luật, khắc phục
khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ” [162, tr.60], Học viện tiếp tục đổi mới toàn diện,
đồng bộ chương trình, nội dung đào tạo, đổi mới nội dung gắn với phương pháp dạy
học, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc về chất lượng giáo dục và đào tạo; đẩy
mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,
nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học, xứng tầm là trung tâm đào tạo
cán bộ chính trị, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục của quân đội và quốc gia.
2.3.2.3. Tính đặc thù trong cơ cấu tổ chức, biên chế và hoạt động đào tạo
Về cơ cấu, tổ chức, biên chế của HVCT bao gồm: Ban Giám đốc, trong đó
có Giám đốc, Chính ủy, các Phó Giám đốc và Phó Chính ủy; 7 phòng chức năng; 3
ban trực thuộc; 1 Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị Quân sự; 1 Viện Khoa học Xã
hội và Nhân văn quân sự; 14 khoa giảng viên; 7 hệ quản lý học viên. Về tổ chức
đảng, Học viện được tổ chức thành một đảng bộ trực thuộc QUTW và các đảng bộ,
59
chi bộ trực thuộc Đảng ủy Học viện và các tổ chức quần chúng như: Đoàn thanh
niên, Công đoàn, Phụ nữ được tổ chức ở cấp cơ sở trực thuộc Học viện.
Như vậy, tính đặc thù trong cơ cấu, tổ chức và biên chế của HVCT thể hiện ở
cách thức tổ chức các đơn vị quản lý học viên là các hệ, không phải các tiểu đoàn.
Điều này khác với các học viện, trường sỹ quan có tuyển sinh học viên đào tạo sỹ
quan được biên chế thành các tiểu đoàn. Khi biên chế thành hệ quản lý học viên,
nghĩa là đối tượng đào tạo là cán bộ sỹ quan. Một trong những nét đặc thù trong cơ
cấu của HVCT là có biên chế Viện nghiên cứu (Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn
quân sự), đây là sự thể hiện nét đặc thù trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu của
Học viện mà ở các trường sỹ quan không có. Các hoạt động đào tạo HVCT thiên về
nghiên cứu và cấp độ đào tạo cao hơn so với các trường sỹ quan, môi trường đào
tạo chủ yếu diễn ra trên giảng đường, thư viện và viện nghiên cứu.
Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Học viện được đào tạo cơ bản, có kinh
nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học; nhiều cán bộ, giảng viên đã trải
qua các cương vị thực tế chiến đấu, quản lý, chỉ huy đơn vị, có khả năng tổ chức tốt
hoạt động giảng dạy, quản lý giáo dục theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Hiện nay
100% giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đại học và sau đại học, trong
đó có hàng chục giáo sư, phó giáo sư, hàng trăm tiến sĩ và nhiều thạc sĩ đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng khoa học
xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự, giải quyết những vấn đề lý luận và thực
tiễn đặt ra phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ học viên là những cán bộ ưu tú trong quân đội được lựa chọn, quy
hoạch và phải vượt qua kỳ thi tuyển, xét tuyển, kiểm tra kiến thức đầu vào chặt chẽ
có tính sàng lọc cạo.
2.3.3. Khái quát về Trường Sĩ quan Lục quân 1
2.3.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trường Sĩ quan Lục quân 1, tiền thân là Trường Quân chính kháng Nhật, là
nhà trường cách mạng, chính quy đầu tiên của QĐND Việt Nam, được thành lập
ngày 15 tháng 4 năm 1945 tại Xóm Khuổi Kịch, Xã Tân Trào, Huyện Sơn Dương,
Tỉnh Tuyên Quang theo Nghị quyết của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ do
Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4 năm
1945 và theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
60
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Nhà trường đã có
nhiều lần đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử,
như: Trường Quân chính kháng Nhật (15/4/1945 - đầu tháng 9/1945); Trường Quân
chính Việt Nam (7/9/1945 - đầu tháng 10/1945); Trường Huấn luyện cán bộ Việt
Nam (15/10/1945 - 16/4/1946); Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (17/4/1946 - cuối
tháng 01/1948); Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn (đầu tháng 02/1948 -
cuối tháng 01/1950); Trường Lục quân Việt Nam (cuối tháng 01/1950 - 01/1956);
Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (tháng 01/1956 - 10/1975) và Trường Sĩ quan
Lục quân 1 (10/1975 - nay);
Ngày 28 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
1972/QĐ-TTg Về thành lập Trường Đại học Trần Quốc Tuấn trên cơ sở nâng cấp
Trường Sĩ quan Lục quân 1. Ngày nay, Nhà trường sử dụng đồng thời cả hai tên gọi:
TSQLQ1 là tên trường quân đội và Trường Đại học Trần Quốc Tuấn là tên giao dịch
dân sự [136, tr.142].
Sự ra đời của Trường Quân chính kháng Nhật năm 1945 đã kịp thời đáp ứng
nhiệm vụ đào tạo cán bộ làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang Nhân dân chuẩn
bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo
cán bộ quân đội của Đảng. Sự phát triển của Nhà trường ngày càng được khẳng
định khi Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học, năm 1998; Thủ tướng Chính
phủ ký quyết định thành lập Trường Đại học Trần Quốc Tuấn trên cơ sở nâng cấp
TSQLQ1, năm 2010; Bộ Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ chuyên
ngành Nghệ thuật quân sự, năm 2011. Đây là những mốc son đánh dấu bước phát
triển vượt bậc, khẳng định uy tín và vị thế của Nhà trường trong giai đoạn mới.
2.3.3.2. Các giá trị tiêu biểu
- Sứ mệnh và mục tiêu đào tạo
Sứ mệnh của Nhà trường được tuyên bố như sau:
Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Đại học Trần Quốc Tuấn), nằm trong hệ
thống các trường đại học của Nhà nước, Quân đội; là tổ chức có tư cách
pháp nhân, được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và BQP giao nhiệm vụ:
Đào tạo trình độ Thạc sỹ Khoa học Quân sự, Chuyên ngành Nghệ thuật
Quân sự, đào tạo sĩ quan Chỉ huy tham mưu Lục quân cấp phân đội trình
61
độ đại học và các đối tượng đào tạo khác; cấp văn bằng, chứng chỉ tốt
nghiệp cho các đối tượng theo quy chế của Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ
Quốc phòng. Nghiên cứu nghệ thuật quân sự, ứng dụng và phát triển
khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học quân sự, khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cán bộ cho
Quân đội. Xây dựng Nhà trường cách mạng, chính quy, mẫu mực, có
môi trường văn hóa lành mạnh, Nhà trường vững mạnh toàn diện. Thực
hiện nghiêm pháp luật Nhà nước; điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội;
chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện các
nhiệm vụ khác khi BQP giao [136, tr. 13].
Về mục tiêu đào tạo của TSQLQ1 đã được xác định :
Đào tạo quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng, thanh niên có
đủ tiêu chuẩn theo quy định của BQP trở thành Sĩ quan Chỉ huy - Tham
mưu Lục quân cấp phân đội trình độ đại học; có phẩm chất chính trị đạo
đức tốt; có trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành và
huấn luyện bộ đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Học viên tốt nghiệp được cấp bằng Chỉ huy - Tham mưu Lục quân; đảm
nhiệm chức vụ ban đầu là trung đội trưởng và tương đương, phát triển
đến tiểu đoàn trưởng, có tiềm năng phát triển lâu dài [19].
Hiện nay, nhiệm vụ của Nhà trường tập trung: đào tạo sĩ quan chỉ huy -
Tham mưu Lục quân trình độ đại học; đào tạo hoàn thiện đại học; đào tạo trình độ
thạc sĩ ngành Nghệ thuật quân sự; đào tạo giảng viên quân sự; đào tạo cao đẳng, đại
học Công an; đào tạo đại học giáo viên giáo dục quốc phòng an ninh; đào tạo học
viên ngành quân sự cơ sở với các trình độ đại học, cao đẳng và liên thông đại học
tại các trường quân sự quân khu phía Bắc và Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội; bồi dưỡng
học viên cử tuyển và đào tạo năm thứ nhất cho 11 học viện, nhà trường khu vực
phía Bắc; đào tạo sĩ quan cho QĐND Lào và nhiều đối tượng khác.
- Danh hiệu và phần thưởng cao quý
Trải qua 75 năm đào tạo, xây dựng, chiến đấu và phát triển, với vị thế của
một nhà trường cách mạng chính quy đầu tiên của QĐND Việt Nam, TSQLQ1 đã
vinh dự là NTQĐ đầu tiên được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý
62
“Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân” (1985) và trao tặng nhiều huân chương
cao quý như: 3 Huân chương Hồ Chí Minh; 5 Huân chương Quân công; 7 Huân
chương Chiến công; 3 Huân chương Lao động; 1 Huân chương Tự Do và 2 Huân
chương Itxala của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nhiều phần thưởng cao
quý khác [136 tr.145].
- Thành tích trong đào tạo và bồi dưỡng
Trải qua 75 năm, Nhà trường đã đào tạo được 87 khóa học sĩ quan, trong đó
83 khóa đã tốt nghiệp ra trường với trên 10 vạn cán bộ, chất lượng đào tạo không
ngừng được nâng lên; đào tạo thạc sĩ nghệ thuật quân sự được 8 khóa, trong đó 6
khóa đã tốt nghiệp ra trường. Cán bộ ra trường đều thực hiện tốt chức trách, nhiệm
vụ, phát huy tốt phẩm chất, năng lực trong chỉ huy chiến đấu và huấn luyện, quản lý
bộ đội, đáp ứng kịp thời nguồn cán bộ chỉ huy cho các đơn vị. Những cán bộ do
Nhà trường đào tạo đã trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng các học viện, nhà
trường trong toàn quân.
Thực hiện nhiệm vụ quốc tế, Nhà trường đã đào tạo được hơn 4 nghìn cán
bộ, giáo viên quân sự cho 14 quốc gia; cử hàng trăm lượt cán bộ giảng viên đi
chuyên gia và làm nhiệm vụ quốc tế; đón tiếp nhiều đoàn đại biểu quân sự các nước
đến thăm, trao đổi, học tập kinh nghiệm, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối
ngoại của Đảng, Nhà nước.
- Thành tích trong nghiên cứu khoa học
Cùng với nhiệm vụ đào tạo cán bộ, Nhà trường còn là một trung tâm nghiên
cứu khoa học nghệ thuật quân sự, tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, biên soạn tài
liệu, giáo trình kỹ thuật, chiến thuật và điều lệnh chiến đấu cho toàn quân. Đảng ủy,
Ban Giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác
nghiên cứu khoa học, trong đó tập trung nghiên cứu biên sạn giáo trình, tài liệu,
điều lệ chiến đấu và các đề tài khoa học cấp BQP, cấp ngành và cấp Nhà trường.
Các sản phẩm khoa học của Nhà trường đã nghiệm thu có chất lượng tốt và được
ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn huấn luyện và chiến đấu trong toàn quân. Hàng
năm Nhà trường đã tiến hành các cuộc Hội thảo khoa học và cho in ấn hàng chục
sách, kỷ yếu. Tạp chí Khoa học Quân sự Lục quân hàng năm xuất bản 4 kỳ với số
lượng hàng nghìn bản được phát hành trên 45 đầu mối toàn quân, làm cho uy tín
Nhà trường ngày càng được khẳng định.
63
- Giá trị truyền thống tiêu biểu và triển vọng phát triển trong tương lai
Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng thành, TSQLQ1 đã
luôn giữ vững và không ngừng phát huy những truyền thống tốt đẹp “Trung với Nước,
hiếu với Dân” mà Bác Hồ đã trao tặng cho Nhà trường ngày 26 tháng 5 năm 1946. Qua
quá trình xây dựng và đào tạo cán bộ, truyền thống “Trung với Nước, hiếu với Dân” đã
được phát triển thành “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết thắng” và được biểu
hiện thành: “Dạy tốt, học tốt, công tác tốt, nhà trường gắn liền với đơn vị, với chiến
trường; “học phải đi đôi với hành, học để mà hành, hành để mà học, có học hành mới
tiến bộ” như Bác Hồ đã dạy. Đoàn kết, kỷ luật, chính quy; tự lực, tự cường, chủ động,
sáng tạo xây dựng Nhà trường phát triển toàn diện” [136, tr. 13].
Trong những năm tới, mục tiêu tổng quát của Nhà trường là quán triệt sâu
sắc đường lối đổi mới của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP; phát huy
truyền thống Nhà trường anh hùng, tập trung đổi mới mạnh mẽ quy trình, chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”, sát
thực tế chiến đấu và sự phát triển của quân đội; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện
đại; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, xây
dựng đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trình độ học vấn ngày càng cao,
xây dựng Nhà trường chính quy, mẫu mực về mọi mặt, theo định hướng nhà trường
thông minh, xứng đáng là trường điểm của Bộ Quốc phòng.
2.3.3.3.Tính đặc thù trong cơ cấu tổ chức, biên chế và hoạt động đào tạo
Trường Sĩ quan Lục quân 1 có cơ cấu tổ chức hoàn thiện, đảm bảo đúng quy
định và phù hợp với sứ mạng và mục tiêu giáo dục. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của
Nhà trường bao gồm: Ban Giám hiệu, trong đó có Hiệu trưởng, Chính ủy, các Phó
Hiệu trưởng, Phó Chính ủy; 9 cơ quan chức năng, gồm 1 Văn phòng, 5 phòng và 3
ban trực thuộc; 14 khoa giảng viên; 21 hệ, tiểu đoàn quản lý học viên và 1 tiểu đoàn
phục vụ huấn luyện và có 1 Trung tâm Mô phỏng huấn luyện kỹ, chiến thuật. Về tổ
chức đảng, Nhà trường được tổ chức thành một đảng bộ trực thuộc QUTW và các
đảng bộ, chi bộ trực thuộc Đảng ủy Nhà trường; ngoài ra Nhà trường còn có các tổ
chức quần chúng như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ được tổ chức ở cấp cơ
sở trực thuộc Nhà trường.
64
Như vậy, tính đặc thù của TSQLQ1 thể hiện ở cách thức tổ chức các đơn vị
quản lý học viên là vừa có các hệ quản lý học viên là cán bộ vừa có các tiểu đoàn
quản lý học viên đào tạo sỹ quan. Nếu các học viện có biên chế Viện nghiên cứu thì
ở TSQLQ1 không có mà lại được biên chế 1 Trung tâm Mô phỏng nhằm huấn luyện
cho học viên đào tạo sỹ quan về kỹ thuật, chiến thuật bộ binh ở cấp phân đội. Các
hoạt động đào tạo TSQLQ1 thiên về dạy nghề (coi trọng huấn luyện thực hành) với
yêu cầu về kiến thức, kỹ năng ở cấp phân đội. Vì vậy, môi trường đào tạo diễn ra
trên thao trường chiếm khối lượng lớn hơn so với các hoạt động trên giảng đường
và thư viện.
Tiểu kết chương 2
Nói tới văn hóa là nói tới con người, con người vừa là chủ thể nhưng cũng
vừa là sản phẩm của văn hóa. Với tính cách là một thành tố của văn hóa, VHCT có
vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi
chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng. Sự thực hành VHCT và quan niệm về
VHCT đã có từ rất sớm ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, khái niệm
VHCT chỉ thực sự gia nhập vào hệ thống với tư cách là một thuật ngữ khoa học vào
giữa thế kỷ XX ở phương Tây, cho đến nay VHCT đã được tiếp cận nghiên cứu từ
nhiều góc độ và đã khẳng định được vai trò trong tiến trình phát triển của mỗi cộng
đồng, quốc gia - dân tộc.
Trong tình hình hiện nay, cũng như khái niệm văn hóa, khái niệm VHCT cũng
như, đặc trưng, cấu trúc VHCT vẫn còn chưa thực sự thống nhất. Xuất phát từ nhận
thức, về mặt lý luận, nghiên cứu VHCT từ góc độ văn hóa học phải xuất phát từ
các khái niệm mang tính công cụ là khái niệm “văn hóa”, khái niệm “chính trị” và
đây chính là cơ sở lý luận trực tiếp góp phần hình thành quan niệm VHCT của tác
giả luận án. Từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở tiếp cận cấu trúc văn hóa, chúng tôi
quan niệm,VHCT là một thành tố của văn hóa xã hội, trong đó chứa đựng những
thang bậc giá trị do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động chính trị có
vai trò quan trọng trong việc tổ chức và quản lý để tạo nên sức mạnh chung của
cộng đồng.
Về mặt cấu trúc, VHCT được tiếp cận trên bốn thành tố chủ yếu: chủ thể VHCT;
thang bậc giá trị VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị.
65
Là một bộ phận của văn hóa xã hội, VHCT có đầy đủ các chức năng của văn
hóa, trong đó có những chức năng chủ yếu như: nhận thức, giáo dục, tổ chức, điều
chỉnh và chức năng dự báo, định hướng.
Văn hóa chính trị trong NTQĐ là một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam,
mang những nét đặc trưng riêng của VHCT trong môi trường sư phạm quân sự. Vì
vậy, VHCT trong NTQĐ cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung, những
quan hệ đặc trưng trong quá trình phát triển văn hoá, đồng thời chịu sự chi phối, tác
động bởi những hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm quân sự.
Trong hệ thống NTQĐ, chúng tôi lựa chọn hai nhà trường: HVCT và
TSQLQ1 để khảo sát xuất phát từ lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, TSQLQ1 là nhà trường đầu tiên của quân đội; về cấp đào tạo là
trường sĩ quan cấp phân đội; về loại hình đào tạo là cán bộ chỉ huy tham mưu Lục
quân và mang tính điển hình cho nhóm trường quân sự.
Thứ hai, HVCT là một trong những trường quân đội được thành lập sớm
(tháng 7 năm 1951); về cấp đào tạo là học viện; về loại hình đào tạo là cán bộ chính
trị cấp trung đoàn, sư đoàn và mang tính điển hình cho nhóm trường chính trị.
66
Chương 3
THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
3.1.1. Chủ thể văn hóa chính trị
Xuất phát từ tính chủ thể của văn hóa, VHCT trong NTQĐ được hiện diện
với tính cách văn hóa cá nhân của người quân nhân ở môi trường sư phạm quân
sự. Trong thực tế, chủ thể VHCT trong NTQĐ bao gồm từ lãnh đạo, chỉ huy đến
nhân viên và chiến sĩ. Trong khuôn khổ luận án chỉ tập trung vào ba đối tượng
chính: lãnh đạo, chỉ huy; giảng viên và học viên với các nhân tố phẩm chất chính
trị (yếu tố bên trong); hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài) và lý
tưởng, niềm tin chính trị (yếu tố bên trên) [Phụ lục 5, Bảng 5].
3.1.1.1. Đối với lãnh đạo, chỉ huy
Với ý nghĩa động từ, “lãnh đạo” được hiểu là “đề ra chủ trương, đường lối và
tổ chức, động viên thực hiện”, với ý nghĩa danh từ, “lãnh đạo”, được hiểu là “cơ
quan hoặc người lãnh đạo với người được lãnh đạo” [155, tr.544]. “Chỉ huy” là
“điều khiển sự hoạt động của một lực lượng, một tập thể có tổ chức” và với ý nghĩa
danh từ là “người chỉ huy” [155, tr.153]. Thuật ngữ lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ
là cách gọi chung nhằm chỉ những cán bộ được giao giữ các chức vụ lãnh đạo, quản
lý và chỉ huy các cấp, trong đó bao gồm Giám đốc hoặc Hiệu trưởng, Chính ủy và
cán bộ chỉ huy các cơ quan, khoa, đơn vị trong NTQĐ và còn được gọi là cán bộ
chủ trì, chủ chốt. Phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy được xét trong luận án
bao gồm các yếu tố: nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính trị.
- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)
Xét dưới góc độ lý luận về VHCT, nhân cách chính trị của chủ thể trong
NTQĐ chịu sự chi phối của nhân cách cá nhân lãnh đạo, chỉ huy. Bởi vì, lãnh đạo,
chỉ huy có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
của các quân nhân, đặc biệt là học viên. Trong NTQĐ, cán bộ chủ trì, chủ chốt các
cấp không chỉ là người lãnh đạo, chỉ huy thuần túy mà còn giữ vai trò là nhà khoa
học, nhà giáo dục, người hướng dẫn thực hành các hoạt động sư phạm quân sự và là
67
người đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ trong mọi tình huống, điều này tạo
nên nét đặc thù riêng có của VHCT trong nhà trường quân đội.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với mọi hoạt
động cũng như chất lượng và hiệu quả công tác của các cơ quan, khoa, đơn vị, cấp
ủy các cấp trong NTQĐ đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng nâng
cao năng lực toàn diện, trong đó tập trung xây dựng phẩm chất chính trị, củng cố
niềm tin, tạo chỗ dựa vững chắc cho tất cả cá nhân và tổ chức.
Tại TSQLQ1, khi xây dựng tiêu chí thực hiện việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ủy Nhà trường đã xác định, đối với
cán bộ chủ trì, ngoài tiêu chí chung của đảng viên, còn phải chấp hành và thực hiện
nghiêm các quy định bắt buộc:
Có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng; có năng lực, uy tín, tập hợp
và điều hành cơ quan, khoa, đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị…quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ có
năng lực; cất nhắc, bố trí sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc; phát
huy dân chủ, trí tuệ tập thể, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong
cơ quan đơn vị [146, tr.4].
Trong báo cáo kết quả thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nghị quyết của Đảng, chỉ thị của
QUTW và BQP gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống cống hiến
tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, Đảng ủy Nhà trường đã đánh giá: “Nhà trường
đã phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
chủ trì, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan khoa, đơn vị… thực sự là tấm gương, là
khuôn mẫu, hình ảnh đẹp cho học viên, quần chúng noi theo” [37, tr.5].
Phẩm chất chính trị của lãnh đạo chỉ huy là một trong những nhân tố trực
tiếp quyết định tạo ra sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội. Hiện nay, nhận
thức, tình cảm và ý chí chính trị của lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ đã có sự chuyển
biến, tiến bộ và tương đối toàn diện, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
68
Biểu đồ 3.1: Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Biểu đồ 3.1 của luận án cho thấy, khi đánh giá về phẩm chất chính trị của
lãnh đạo, chỉ huy theo ba yếu tố: nhận thức, tình cảm và ý chí cho thấy, số người
nhận định tốt trở lên chiếm tỷ lệ khá cao. Cụ thể: đối với nhân tố nhận thức chiếm
tỷ lệ 78,0%, nhân tố tình cảm là 72,6%, nhân tố ý chí là 69,7%, mức ý nghĩa thống
kê p < 0,05. Hầu hết lãnh đạo, chỉ huy có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhận thức
sâu sắc về lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: “Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của
Nhà trường có trình độ lý luận, trình độ quản lý, năng lực thực tiễn, có kiến thức toàn
diện, có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, sâu sát”. [Phỏng vấn sâu, nam, 46
tuổi, Thượng tá, Phó trưởng ban, TSQLQ1].
Mặc dù vậy, số người nhận định bình thường và không tốt cũng còn chiếm
tỷ lệ không nhỏ, 22% ở yếu tố nhận thức, 27,4% ở yếu tố tình cảm và 30,3% ở
biến ý chí, mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Điều này cho thấy, vẫn còn một số lãnh
đạo, chỉ huy trong NTQĐ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về phẩm chất chính trị,
cũng như cần nâng cao hơn nữa nhận thức, tình cảm và ý chí của bản thân trong
môi trường quân đội.
Trước những yêu cầu phát triển của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng quân đội
trong thời kỳ mới, vẫn còn một số lãnh đạo, chỉ huy bộc lộ những hạn chế nhất định
về trình độ, phương pháp, ý chí và tình cảm chính trị, ảnh hưởng đến uy tín của
quân đội và yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ: “Năng lực lãnh đạo của một số
69
chỉ huy đơn vị chưa ngang tầm nhiệm vụ, tác phong, phương pháp ứng xử, giải
quyết những vấn đề nảy sinh trong công tác, sinh hoạt và đời sống hàng ngày còn
hạn chế, chưa đúng điều lệnh, điều lệ quân đội [Phỏng vấn sâu, nam, 40 tuổi, Thiếu
tá, Chủ nhiệm bộ môn, HVCT].
Đánh giá về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục khoa học xã hội
và nhân văn; phổ biến giáo dục pháp luật và công tác cán bộ tại TSQLQ1, Đoàn
kiểm tra Bộ Tổng Tham mưu, đã chỉ ra những hạn chế:
Nắm, quản lý tư tưởng có thời điểm chưa thật hiệu quả; cán bộ, học
viên còn vi phạm kỷ luật phải xử lý… công tác tạo nguồn cán bộ đi
đào tạo sau đại học có thời điểm chưa được quan tâm đúng mức, chất
lượng đội ngũ cán bộ… còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ [22, tr.7].
- Hành vi hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)
Thái độ, năng lực và hành vi chính trị của lãnh đạo, chỉ huy có vị trí, vai trò
quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ. Trước hết, nó là nhân tố cơ bản quyết định chất
lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của nhà trường và bản thân mỗi cá nhân. Số
liệu bảng 3.1 cho thấy, đối với yếu tố thái độ chính trị, số người nhận định tốt và rất
tốt chiếm tỷ lệ 82,7%, số người nhận định là bình thường và không tốt là 17,3%.
Tương tự đối với yếu tố năng lực chính trị cũng cho kết quả ở mức độ tốt trở lên
chiếm tỷ lệ 89,7% và bình thường trở xuống là 10,3%, mức ý nghĩa thống kê p <
0,05. Điều này cho thấy mặc dù trên tổng thể khi đánh giá về thái độ và năng lực
chính trị của lãnh đạo, chỉ huy đạt ở mức khá cao, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận có
thái độ, năng lực chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn theo chức trách, nhiệm vụ.
Bảng 3.1. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy (%)
Bình Yếu tố Rất tốt Tốt Không tốt Tổng thường
15 2,3 Thái độ chính trị 26,3 56,4 100
8,3 2,0 Năng lực chính trị 28,7 61,0 100
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Hiện nay trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, để quân đội
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy phải có thái độ, năng lực
và hành vi tham gia các hoạt động chính trị, nhận diện những vấn đề cốt lõi và vận
dụng sáng tạo trong thực tiễn: “Trong bối cảnh hiện nay, cán bộ chủ trì các cấp phải
70
luôn đề cao cảnh giác và đấu tranh với mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch, muốn
vậy, cần phải có thái độ chính trị đúng, có năng lực và hành vi chính trị thực hiện tốt
mọi nhiệm vụ”. [Phỏng vấn sâu, nam, 53 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, HVCT].
Sức mạnh tổng hợp của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
con người là quyết định nhất, đây thực chất là quán triệt tư tưởng “người trước súng
sau” của Hồ Chủ Tịch. Trước yêu cầu xây dựng quân đội và sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật quân sự, của vũ khí công nghệ cao, yếu tố con người ngày
càng giữ vai trò quyết định. Chủ thể VHCT trong NTQĐ, đặc biệt là cán bộ chủ trì
phải có thái độ, năng lực và hành vi tham gia hoạt động chính trị tốt mới có đủ khả
năng triển khai, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả trong
thực hiện nhiệm vụ: “Mỗi cán bộ chủ trì cần nỗ lực để nâng cao trình độ, năng lực chỉ
huy, nâng cao chất lượng huấn luyện, bám sát tình hình thực tế để có thể xử lý kịp
thời và thắng lợi trong mọi tình huống”. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chủ
nhiệm khoa, TSQLQ1].
Tuy nhiên, trong thực tế tại NTQĐ, cán bộ chủ trì các cấp vẫn còn có những
hạn chế nhất định, biểu hiện: “Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ có lúc, có việc
chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của cơ quan trong hướng dẫn, kiểm tra đơn vị
cơ sở; còn có cán bộ cấp dưới trực tiếp vi phạm phải xử lý kỷ luật; mất an toàn
trong huấn luyện tập bơi ngoại khóa; một số dự án công trình xây dựng cơ bản chưa
quyết toán kịp thời” [20, tr.3].
Vì vậy, để hình thành thái độ đúng đắn và nâng cao năng lực toàn diện cho
lãnh đạo, chỉ huy, đặc biệt là năng lực, hành vi hoạt động chính trị, cần phải thường
xuyên đề cao cảnh giác, nhận thức rõ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch. Từ đó, xác định được nội dung, biện pháp để tuyên truyền, chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội nói
chung và NTQĐ nói riêng.
- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)
Lý tưởng và niềm tin chính trị, xét về thực chất là một trong những vấn đề
thuộc về hệ tư tưởng của ĐCSVN, vì vậy, lý tưởng của lãnh đạo, chỉ huy là lý tưởng
của Đảng thể hiện đậm nét ở “Mười lời thề danh dự của quân nhân”. Qua kết quả
khảo sát cho thấy, tỷ lệ nhận định về ba yếu tố: lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
71
đều được đánh giá ở mức độ tốt trung bình là 61, 8%, rất tốt 12,1%. Tỷ lệ phần trăm
nhận định ở mức bình thường và không tốt chiếm trung bình 7,7%, mức ý nghĩa
thống kê p <0,05 cho thấy các biến số có mối tương quan chặt chẽ với nhau.
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của lãnh đạo, chỉ huy (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ về cơ bản có lý tưởng cao đẹp và trong sáng,
điều đó giúp tạo dựng uy tín cho cán bộ: “Năng lực của người lãnh đạo là yếu tố
then chốt tác động đến sự thành công hay thất bại của tổ chức. Tuy nhiên, không
phải cán bộ nào cũng có khả năng làm được điều đó”. [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi,
Thượng tá, Trưởng Ban Cán hộ, Trường SQLQ1].
Lý tưởng, niềm tin của lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ còn được biểu hiện ở
khả năng lôi cuốn, truyền cảm hứng, biết quan tâm chia sẻ đối với cán bộ thuộc
quyền: “Cán bộ chủ trì, phải có khả năng truyền cảm hứng đến mọi quân nhân, tạo
ra được hứng thú trong việc thực hiện tầm nhìn của lãnh đạo. [Phỏng vấn sâu, nam,
53 tuổi, Đại tá, giảng viên, HVCT].
Một lãnh đạo, chỉ huy giỏi là người có nhiệt huyết và có khả năng lan tỏa tới
những người xung quanh, luôn đưa ra định hướng chiến lược, nhưng quan trọng
hơn họ có tài thuyết phục khiến cho mọi người làm việc hết mình vì mục tiêu chung
72
của đơn vị; lãnh đạo giỏi thường dùng biện pháp thuyết phục người khác thay vì
cưỡng ép hoặc kiểm soát. Đặc biệt là luôn biết lắng nghe và chia sẻ với cấp dưới,
khi có vấn đề khó khăn phải đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể để từ đó có hướng giải
quyết phù hợp.
3.1.1.2. Đối với giảng viên
- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)
Giảng viên là “tên gọi chung người làm công tác giảng dạy ở các trường chuyên
nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện các trường trên bậc phổ thông” [155, tr.391]. Giảng
viên trong NTQĐ là những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng
làm nhiệm vụ giảng dạy, huấn luyện trong các học viện và trường sĩ quan.
Kết quả phân tích của luận án cho thấy, đối với giảng viên trong NTQĐ, nhận
thức chính trị là một yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng,
hiệu quả trong đào tạo. Số người nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ trung bình 73,8%.
Cụ thể: đối với nhân tố nhận thức chiếm tỷ lệ 70,6%, nhân tố tình cảm là 70,0%, nhân
tố ý chí là 78,7%. Số người nhận định bình thường và không tốt cũng còn chiếm tỷ lệ
không nhỏ, 27,4% ở yếu tố nhận thức, 30,0% ở yếu tố tình cảm và 21,3% ở biến ý chí,
mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Điều này chứng tỏ, vẫn còn một số giảng viên vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác.
Biểu đồ 3.3: Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục, đòi hỏi giảng viên phải có phẩm chất chính
trị tốt, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, hiểu rõ đối tượng người học, phải có nhận thức
73
đúng trong việc đánh giá các nhu cầu của học viên: “Nhận thức chính trị của đội
ngũ giảng viên có vai trò quan trọng và cần thiết trong môi trường quân đội, điều
này đòi hỏi các giảng viên phải am hiểu sâu sắc về đối tượng người học, nhằm giúp
định hướng những nội dung, phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với từng đối
tượng” [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chính trị viên hệ, HVCT].
Trước thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan
điểm Đảng và nhiệm vụ đào tạo đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân
đội, đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đội ngũ giảng viên trong
NTQĐ cả về phẩm chất chính trị, năng lực thực tiễn và đạo đức nghề nghiệp.
- Hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)
Thái độ, năng lực và hành vi tham gia các hoạt động chính trị là những yếu
tố có vai trò quan trọng và có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời đối với chủ
thể làm công tác giảng dạy trong NTQĐ, đó là các giảng viên. Xuất phát từ tính đặc
thù của NTQĐ, giảng viên là những người trực tiếp giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ
đang sung sức, nhiệt huyết và sáng tạo, các học viên luôn mong muốn ở người
giảng viên sự tâm huyết, trách nhiệm và nền tảng tri thức vững chắc.
Bảng 3.2. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên (%)
Yếu tố Rất tốt Bình thường Không tốt Tổng Tốt
Thái độ chính trị 18,3 9,7 3,7 68,3 100
Năng lực chính trị 25 13 5,7 56,3 100
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Số liệu bảng 3.2 cho thấy, đối với yếu tố thái độ chính trị của giảng viên số
người nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ 86,6%, số người nhận định là bình thường và
không tốt là 13,4%. Tương tự đối với yếu tố năng lực chính trị cũng cho kết quả ở mức
độ tốt trở lên chiếm tỷ lệ 81,3% và bình thường trở xuống là 18,7%, mức ý nghĩa thống
kê p < 0,05. Tỷ lệ nhận định về năng lực chính trị không tốt và bình thường còn ở mức
cao 18,7% điều này cho thấy hiện nay đội ngũ giảng viên chất lượng cao vẫn chưa đủ
để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đào tạo trong giai đoạn mới.
Về phương pháp giảng dạy, vẫn còn có giảng viên thiếu cập nhật, chậm đổi
mới, lệ thuộc vào phương pháp truyền thống, thuyết trình là chủ yếu; số giảng viên có
74
khả năng sử dụng hiệu quả phương tiện dạy học hiện đại còn chưa nhiều; các hoạt động
chuyên môn nặng về hình thức:
Thông qua bài giảng của một số khoa chất lượng còn thấp, phê duyệt
chưa đúng quy định; sổ theo dõi hoạt động phương pháp ghi chưa thống
nhất. Tổ chức, phương pháp huấn luyện của một số giảng viên chưa sát
thực tế huấn luyện đơn vị… một số giảng viên vận dụng phương pháp
lên lớp, luyện tập chưa linh hoạt, rèn luyện kỹ năng thực hành của học
viên có nội dung chưa cụ thể [20, tr.4]
Trong NTQĐ, số giảng viên lâu năm có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
nhưng chưa đủ khả năng gây ảnh hưởng tích cực làm chuyển biến đội ngũ giảng viên
trẻ; số lượng giảng viên trải qua chiến đấu và phục vụ chiến đấu ngày càng giảm, điều
này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ giảng viên trong NTQĐ. Theo báo
cáo, hiện nay số lượng và chất lượng cán bộ của TSQLQ1 là 1371/819 (167,3%);
PGS: 04 đ/c (0,29%); trình độ sau Đại học: 562/1371 đ/c (40,74%); TS: 39 đ/c
(2,84%), Ths, CKI: 520 đ/c (37,87%; Đại học 811 đ/c (50,07%); chiến đấu 03 đ/c
(0,22%); qua chiến đấu, phục vụ chiến đấu 58 đ/c (4,22%) [22, tr.7]
Thái độ và hành vi thể hiện giá trị đạo đức và là cái gốc của mỗi con người,
dù bất cứ xã hội nào thì thái độ hay giá trị đạo đức cũng cần phải được coi trọng.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, những giá trị về vật chất đang chiếm ưu thế trong
xã hội, nguy cơ lấn át và đẩy lùi những giá trị về tinh thần: “Vẫn còn có giảng viên
chạy theo thành tích, biểu hiện tiêu cực trong thi cử, gây nhiều phiền toái trong học
viên, làm xuống cấp đạo đức nhà giáo” [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá,
Phòng đào tạo, TSQLQ1].
Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giảng viên trong NTQĐ có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì, cho dù giảng viên có năng lực, trình độ cao về
chuyên môn nghiệp vụ, nhưng hạn chế về phẩm chất đạo đức thì cũng sẽ không đáp
ứng được mục tiêu, yêu cầu xây dựng NTQĐ và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
xây dựng quân đội nói chung.
- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)
Giảng viên là những người trực tiếp giảng dạy, giáo dục và rèn luyện học
viên, vì vậy, lý tưởng và niềm tin chính trị của giảng viên có ảnh hưởng trực tiếp
đến uy tín chính trị và qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục, đào tạo.
75
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị
của giảng viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Kết quả khảo sát cho thấy, nhìn chung số người nhận định về lý tưởng, uy tín
và niềm tin đối với giảng viên trong NTQĐ được đánh giá ở mức tốt trở lên chiếm
tỷ lệ trung bình 85,7%. Mặc dù vậy, nếu xét trong từng yếu tố, đánh giá ở mức độ
bình thường của yếu tố uy tín chính trị nhận định ở mức bình thường và không tốt
chiếm tỷ lệ cao hơn so với hai yếu tố còn lại, 19,7% so với 12,7 yếu tố lý tưởng
chính trị và 10% yếu tố niềm tin chính trị (xem bảng 3.6).
Uy tín của giảng viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở hai yếu tố quan trọng
đó là đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Đạo đức trong sáng giúp giảng
viên có thể tạo dựng được uy tín, góp phần tạo nên sức mạnh to lớn; năng lực
của giảng viên không chỉ biểu hiện ở trình độ lý luận, mà còn ở năng lực hoạt
động thực tiễn gắn với chuyên môn nghiệp vụ, đây là yếu tố quyết định trực tiếp
đến chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của các nhà giáo.
Như vậy, vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị có vai trò rất quan trọng
đối với giảng viên trong NTQĐ, lý tưởng, niềm tin chính trị được bộc lộ bằng uy
tín của nhà giáo và có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo. Trong công cuộc đổi mới hôm nay và trước yêu cầu nhiệm vụ xây
dựng quân đội thì vấn đề bồi dưỡng lý tưởng, niềm tin chính trị và uy tín chính
trị của cán bộ quân đội nói chung và nhà giáo quân đội nói riêng lại càng có ý
nghĩa hơn.
76
3.1.1.3. Đối với học viên
- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)
Kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy có mối quan hệ giữa nhận thức
chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính trị với việc định hướng VHCT trong
NTQĐ hiện nay là cần thiết và giữ vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu
sắc về phẩm chất chính trị của chủ thể, mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Biểu đồ 3.5: Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Tính liên kết giữa ba yếu tố bên trong cho thấy, ý chí chính trị là nhân tố cốt lõi
mang tính quyết định đối với hai yếu tố còn lại và có tác động mạnh đến nhận thức
VHCT trong NTQĐ hiện nay. Kết quả phân tích trong luận án cho thấy số học viên
nhận định cần thiết và rất cần thiết chiếm tỷ lệ 79,7%, trong khi yếu tố nhận thức chính
trị chỉ chiếm 77,3% và tình cảm chính trị chiếm 77,0%. “Quá trình học tập tôi nhận
thấy, các học viên đều xác định đúng đắn nhiệm vụ, ra sức học tập rèn luyện vì ngày
mai lập nghiệp, nhận thức rõ ý thức chính trị, rèn luyện về ý chí chính trị cũng như
tình cảm của cá nhân trong quá trình học tập [Phỏng vấn sâu, nam, 39 tuổi, Thiếu tá,
học viên, HVCT].
Đối với học viên trong NTQĐ, ý chí được thể hiện thông qua các phẩm chất
như: tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính dũng cảm, tính bền bỉ (hay tính
kiên trì), những đức tính cần thiết cho học viên rèn luyện để trở thành những sĩ quan có
bản lĩnh chỉ huy sau khi ra trường. Trong đó, tính mục đích là phẩm chất quan trọng
hàng đầu của ý chí, tính mục đích cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào
mục đích tự giác, là kỹ năng của con người biết đề ra cho hoạt động và cuộc sống của
77
mình những mục đích gần và xa, biết bắt hành vi của mình phục tùng các mục đích ấy
[52, tr. 243], “Chúng tôi rất quan tâm đến tính mục đích trong học tập, bởi nó giúp tạo
ra được chí hướng phấn đấu và rèn luyện để đạt được mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ sau
khi tốt nghiệp”. [Phỏng vấn sâu, nam, 31 tuổi, Đại úy, học viên, Trường SQLQ1].
Qua biểu hiện phẩm chất chính trị của học viên, cho thấy, nếu có động cơ
học tập và rèn luyện đúng đắn, học viên sẽ có nỗ lực lớn để đạt được mục đích đó
và ngược lại, nếu động cơ mới dừng lại ở mức độ nhận thức thì sẽ không có ý chí để
đạt được mục đích đó hoặc chỉ đạt ở mức rất thấp. Kết quả phân tích của luận án
cho thấy, động cơ học tập của học viên trong NTQĐ hiện nay tập trung vào việc
tích lũy tri thức, kỹ năng nhề nghiệp cụ thể, theo yêu cầu của từng chuyên ngành.
Có sự khác biệt trong việc xác định động cơ học tập giữa học viên năm thứ nhất và
học viên năm cuối (chênh lệch 1,378 lần, với mức ý nghĩa thống kê p<0,001) [Phụ
lục 4, Bảng 6]. Sở dĩ có sự khác biệt này là do động cơ học tập năm thứ nhất còn rất
chung chung và mang ý nghĩa lý tưởng nhiều hơn so với học viên năm thứ tư.
Trong khi đó động cơ học tập của học viên năm thứ tư gắn liền với định hướng
nghề nghiệp sau khi ra trường.
Như vậy, động cơ của học viên có vị trí, vai trò quan trọng, là nhân tố thúc
đẩy sự nỗ lực vươn lên trong mỗi quân nhân trước yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, ở
đây chưa có căn cứ để đánh giá về tính có hiệu lực của động cơ học tập, mới chỉ có
căn cứ cho phép kết luận về tính đúng đắn về mặt nội dung của động cơ mà học
viên lựa chọn. Các động cơ học tập xuất phát từ việc phát triển tri thức của bản thân
được đặt lên hàng đầu, các động cơ học tập để được gắn liền với đặc thù quân sự
trong tương lai. Có sự khác biệt giữa học viên năm thứ nhất và năm thứ tư trong
việc xác định các động cơ thúc đẩy mạnh hay yếu đối với việc học tập rèn luyện của
học viên. Như vậy, học viên đã có sự quan tâm và nhận thức khá sâu sắc về phẩm
chất chính trị cần có của một học viên trong NTQĐ (nhận thức chính trị, tình cảm
chính trị, ý chí chính trị), đây là yếu tố bên trong cần thiết để cấu thành nên VHCT
trong NTQĐ hiện nay [Phụ lục 4, Bảng 10].
- Hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)
Một học viên có thái độ, năng lực và hành vi chính trị tốt sẽ luôn chấp hành
tốt đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội,
78
không vi phạm phong cách quân nhân, đó cũng là biểu hiện tích cực trong thái độ
chính trị. Hành vi và hoạt động chính trị của học viên phản ánh tính tích cực chính
trị, khả năng tham gia các hoạt động của học viên và điều đó sẽ mang lại giá trị cốt
lõi của VHCT trong NTQĐ hiện nay [Phụ lục 4, Bảng 11].
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt động chính trị và thái
độ chính trị của học viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Kết quả kiểm định thống kê với hệ số tương quan Pearson và mức ý nghĩa thống
kê p < 0,01 cho thấy, có mối quan hệ giữa thái độ chính trị và năng lực tham gia các
hoạt động chính trị với việc định hướng VHCT trong NTQĐ hiện nay là cần thiết và có
vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu sắc về hành vi và hoạt động chính trị
của bản thân cá nhân [Phụ lục 4, Bảng 11]. “Thái độ, năng lực hành vi hoạt động chính
trị là nhân tố quan trọng trong quá trình rèn luyện của bản thân tôi, hành vi tích cực
đúng đắn sẽ giúp tôi định hướng tốt hơn về nhân cách của bản thân, tham gia tích cực
các hoạt động chính trị” [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi, Trung tá, học viên, HVCT].
Tuy nhiên, số người nhận định bình thường, không cần thiết và rất không cần
thiết cũng chiếm tỷ lệ khá cao, 23,7% đối với năng lực tham gia các hoạt động
chính trị và 22,3% nhận định đối với thái độ chính trị, điều này cho thấy, do ảnh
hưởng mặt trái của cơ chế thị trường nên một số học viên có biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống: “Do sự tiếp xúc với một số quan điểm, tư
tưởng, lối sống không phù hợp từ bên ngoài, đã có học viên có những suy nghĩ và hành
động sai trái ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường văn hóa sư phạm quân sự”.
[Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá, Trợ lý, TSQLQ1].
79
Năng lực, hành vi tham gia hoạt động chính trị là khả năng có thể hoạt động ở
nội dung liên quan đến việc đóng góp xây dựng đơn vị thông qua các tổ chức chính
trị, đoàn thể quần chúng. Học viên tham gia vào các hoạt động chính trị sẽ là điều
kiện để mỗi cá nhân bộc lộ, phát triển khả năng:“Tôi luôn tham gia tích cực các hoạt
động của đoàn thể trong nhà trường, qua môi trường này, giúp tôi trưởng thành và
tích cực hơn”. [Phỏng vấn sâu, nam, 24 tuổi, trung úy, học viên, TSQLQ1].
- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)
Kết quả kiểm định thống kê với hệ số tương quan Pearson và mức ý nghĩa
thống kê p < 0,01 cho thấy có mối quan hệ giữa lý tưởng chính trị, uy tín chính trị
cá nhân, niềm tin chính trị với việc định hướng VHCT trong NTQĐ hiện nay là cần
thiết và có vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu sắc về lý tưởng và niềm
tin chính trị của bản thân cá nhân [Phụ lục 4, Bảng 12].
Với yếu tố lý tưởng chính trị, với p<0, 01 cho thấy mối tương quan bền chặt
về việc nhận định sự cần thiết trong định hướng VHCT ở NTQĐ hiện nay với tầm
quan trọng của việc định hướng VHCT. Tương tự, hai yếu tố uy tín chính trị và niềm
tin chính trị cũng cho giá trị kiểm định p<0, 01, điều này chững minh có sự tương quan
logic với nhau về mối quan hệ tương tác giữa lý tưởng và niềm tin chính trị trong việc
định hướng VHCT cho học viên NTQĐ hiện nay. Số liệu của luận án đã chỉ ra, đa
phần người được hỏi đều nhận định tính tích cực và cần thiết của lý tưởng, uy tín và
niềm tin chính trị của học viên trong NTQĐ [Phụ lục 7, Bảng 12].
Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị của học
viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
80
Kết quả luận án cho thấy, nhìn chung các nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ
trung bình là 87, 3%. Với kết quả đó, bước đầu cho phép rút ra nhận định, trong
điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, giao lưu quốc tế, rất nhiều ảnh hưởng cả tích
cực và tiêu cực tác động đến học viên, đối tượng rất nhạy cảm với cái mới. Hầu hết
học viên năng động sáng tạo trong tiếp nhận cái mới, tích cực, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, có đạo đức, có lối sống cao đẹp,
có hoài bão, có sức “đề kháng” trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch,
trước tiêu cực và tệ nạn xã hội: “Hiện nay, học viên trong NTQĐ nói chung và
HVCT nói riêng, luôn đề cao lý tưởng và niềm tin chính trị, bởi đây là những yếu tố
then chốt cần có của mỗi quân nhân, nhằm phấn đấu và rèn luyện bản thân trở thành
những quân nhân ưu tú” [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi, Đại tá, giảng viên, HVCT].
Tuy vậy, số còn lại nhận định bình thường và không tốt vẫn còn chiếm tỷ
lệ là 12,7%, nguyên nhân bước đầu được rút ra là do tác động mạnh mẽ của tình
hình thế giới và trong nước, đặc biệt là mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, một bộ phận học viên tỏ ra dao động, mất phương hướng phấn đấu, xa rời
lý tưởng cao đẹp, suy giảm tình cảm cách mạng, từ đó dẫn đến mơ hồ về chính trị,
lệch lạc trong tư tưởng, lối sống, bị lôi kéo, mua chuộc, vi phạm pháp luật, ảnh
hưởng đến truyền thống tốt đẹp của quân đội: “Vẫn còn một số học viên có thái độ
thờ ơ chính trị, giảm sút niềm tin, chạy theo lợi ích cá nhân, thiếu tinh thần trách
nhiệm trong xây dựng tổ chức, trong tham gia các hoạt động của đơn vị”. [Phỏng
vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, Tiểu đoàn trưởng, TSQLQ1].
Thực tế hiện nay vẫn còn có một số học viên mang tính thụ động, lối sống
thực dụng, ích kỷ, biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, thiếu trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống khép mình, nhận thức về xã hội và
chính trị hạn chế, mơ hồ về lý tưởng cách mạng, mắc tệ nạn…ảnh hưởng lớn tới
việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo, tạo cơ hội để các thế lực thù địch
lợi dụng lôi kéo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta, ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hình ảnh người chiến sĩ QĐND Việt Nam
trong thời đại mới [62].
Đối với NTQĐ, vấn đề xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng lý tưởng niềm
tin cho các chủ thể chính trị là nhiệm vụ quan trọng luôn được đảng ủy, chỉ huy các
81
cấp quan tâm và là một trong những mặt cơ bản của hoạt động công tác đảng, công
tác chính trị. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục chính trị trong NTQĐ vẫn còn có
những hạn chế nhất định, đó là:
Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng có mặt còn dàn trải, chưa đi vào
trọng tâm, trọng điểm, đổi mới về hình thức, phương pháp còn chậm;
công tác quản lý tư tưởng, rèn luyện kỷ luật có đơn vị chưa đạt độ vững
chắc; một số ít cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ động cơ phấn đấu
không thường xuyên, vi phạm kỷ luật phải xử lý [145, tr.9].
Vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị là một trong những khía cạnh chủ yếu
của triết lý chính trị nói riêng, VHCT nói chung. Yêu cầu đặt ra cho các chủ thể
VHCT trong NTQĐ là, một lý tưởng chính trị tiến bộ phải được xây dựng trên cơ sở
của những tri thức và sự hiểu biết chính trị và hệ tư tưởng chính trị hướng tới mục
tiêu dân chủ và nhân văn, là cơ sở tạo ra niềm tin hay sự thuyết phục về chính trị,
giúp xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho các chủ thể chính trị trước những khó
khăn thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Qua khảo sát kết quả kiểm tra nhận thức chính trị trung bình hàng năm trong
giai đoạn 4 năm, từ 2016 - 2019 của HVCT là: 100% đạt yêu cầu, trong đó, tỷ kệ
khá, giỏi, xuất sắc là 93,57% (tỷ lệ giỏi 28,62%); của TSQLQ1 là: 100% đạt yêu
cầu, trong đó, tỷ kệ khá, giỏi, xuất sắc là 96,25% (tỷ lệ giỏi17,5%) và Học viện
Phòng không - Không quân là: 100% đạt yêu cầu, trong đó, tỷ kệ khá, giỏi, xuất sắc
là 85,12% (tỷ lệ giỏi 28,52%) [Phụ lục 8].
Điều đó cho thấy, nhìn chung nhận thức chính trị của khối các trường quân
sự và chính trị (HVCT và TSQLQ1) đồng đều và cao hơn khối trường kỹ thuật
(Học viện Phòng không - Không quân). Trong khi đó, tỷ lệ giỏi và xuất sắc của khối
học viện (HVCT và Học viện Phòng không - Không quân) cao hơn khối trường sỹ
quan (TSQLQ1). Kết quả đó một mặt phản ánh hiệu quả công tác giáo dục chính trị
tư tưởng của NTQĐ, mặt khác cũng thể hiện nét đặc trưng riêng theo mục tiêu, yêu
cầu đào tạo của mỗi trường.
Đối với việc phận loại cán bộ hàng năm, qua báo cáo tổng kết của các học
viện, trường quân đội, cho kết quả như sau:
Học viện Chính trị: 97,65% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không
hoàn thành niệm vụ là 0,68%; Trường Sĩ quan Lục quân 1 có 93,57% hoàn thành tốt
82
và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không hoàn thành niệm vụ là 1.03% và Học viện Phòng
không - Không quân có 95,7% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không
hoàn thành niệm vụ là 0,38% [Phụ lục 8].
Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên:
Học viện Chính trị: 93,4% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không
hoàn thành niệm vụ là 0,78%; Trường Sĩ quan Lục quân 1 có 93,04% hoàn thành tốt
và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không hoàn thành niệm vụ là 0,12% và Học viện Phòng
không - Không quân có 95,7% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không
hoàn thành niệm vụ là 0,38% [Phụ lục 8].
Khi so sánh kết quả nhận xét, phân loại cán bộ và đánh giá chất lượng đảng
viên của 3 trường, cho thấy, tỷ lệ hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ của khối học
viện cao hơn khối trường sĩ quan; tỷ lệ không hoàn thành nhiệm vụ (vi phạm kỷ
luật) khối trường sĩ quan cao hơn.
3.1.2. Thang bậc giá trị văn hóa chính trị
3.1.2.1. Triết lý và tư tưởng chính trị
Về nguyên tắc tổ chức, ĐCSVN lãnh đạo QĐND Việt Nam tuyệt đối và trực
tiếp về mọi mặt, VHCT trong NTQĐ với tính cách là hệ giá trị, thể hiện tính định
hướng cao về chính trị tư tưởng, lấy chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Những nguyên tắc tổ chức
cũng như hoạt động của quân đội đều nhằm cụ thể hóa và thực hiện các quan điểm,
chủ trương của Đảng gắn với sự tôn trọng và đề cao tính khoa học, cụ thể ở đây là
khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam và đây là vấn đề quan trọng trong thang bậc
giá trị VHCT của QĐND Việt Nam. Mọi hoạt động của NTQĐ đều phải tuân thủ
những định hướng chỉ đạo của QUTW và BQP, Tổng cục Chính trị và đặt dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của các đảng ủy NTQĐ và sự chỉ đạo, điều hành của
Ban Giám đốc hoặc Ban Giám hiệu.
Những biểu hiện cụ thể của triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ đó là
sự quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả đường lối xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; những giá trị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
và hiện đại cũng chính là những giá trị văn hóa, những mục tiêu văn hóa mà NTQĐ
hướng tới. Trong đó, giá trị cách mạng được đặt lên hàng đầu nhằm khẳng định bản
83
chất của QĐND Việt Nam là đội quân cách mạng của giai cấp công nhân, từ Nhân
dân mà ra và vì Nhân dân mà chiến đấu, điều đó mang đậm triết lý và tư tưởng
chính trị của ĐCSVN.
Trên cơ sở mục tiêu yêu cầu đào tạo của NTQĐ, các chủ thể VHCT hướng
tới lý tưởng cao đẹp là được phấn đấu, rèn luyện để trở thành những cán bộ có bản
lĩnh chính trị vững vàng, trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa và với Nhân dân. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhận định của
học viên về sự cần thiết của triết lý chính trị trong NTQĐ với 91,0% cho rằng cần
thiết và rất cần thiết [Phụ lục 5, Bảng 6].
Bảng 3.3. Nhận định về triết lý chính trị của học viên (%)
Nhận định Số người Tỉ lệ
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 7 2,3
Bình thường 16 5,3
Cần thiết 229 76,3
Rất cần thiết 44 14,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Ngoài những yếu tố thuộc về định hướng tư tưởng chính trị như mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu cao đẹp, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng và tình cảm cao đẹp
làm nên sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam, thì những phẩm chất mang giá
trị như khát vọng không ngừng phấn đấu vươn lên làm chủ khoa học và làm giàu
kinh nghiệm tác chiến trong điều kiện mới cũng là những biểu hiện sinh động mang
tính đặc thù của VHCT trong NTQĐ hiện nay.
Đối với NTQĐ, triết lý và tư tưởng chính trị là nền tảng tư tưởng vững
chắc để mỗi quân nhân có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt,
trình độ năng lực tổ chức chỉ huy và đào tạo, hoàn thành sứ mệnh và mục tiêu
của mỗi trường.
Tại TSQLQ1, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm nâng cao
VHCT cho các chủ thể, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị, xây dựng
động cơ, thái độ và trách nhiệm đúng đắn, hình thành xu hướng nghề nghiệp cho
84
các đối tượng phấn đấu học tập, rèn luyện trở thành người sĩ quan quân đội vừa
hồng vừa chuyên, nhờ đó:
Nhận thức tư tưởng, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy,
chỉ huy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng được nâng lên
rõ rệt, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức được giữ vững và tăng cường,
không suy thoái về tư tưởng chính trị; trách nhiệm được đề cao, đoàn kết,
thống nhất được củng cố, dân chủ ngày càng được mở rộng; các nhân tố
tích cực được phát huy; các hiện tượng và hành vi tiêu cực đã được kịp
thời ngăn chặn, tạo chuyển biến tiến bộ toàn diện [36, tr.13, 14].
Trong Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng môi trường
văn hóa ở TSQLQ1 giai đoạn 1992 - 1997 đã nhấn mạnh, kết quả thực hiện cuộc vận
động đã góp phần quan trọng trong định hướng tư tưởng, chính trị và hình thành nhân
cách theo chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới:
Trình độ hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm tư tưởng của Đảng trong đường lối chính trị, kinh tế, đạo
đức, văn hóa… là khả năng và tinh thần sẵn sàng đón nhận và hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao; là thái độ rõ ràng trước đúng, sai, biết bảo vệ
những giá trị truyền thống, giá trị nhân văn tốt đẹp, đấu tranh với mọi biểu
hiện sai trái, tiêu cực, lạc hậu [133, tr.3].
Đối với HVCT, Đảng ủy và Ban Giám đốc đã thường xuyên quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo quán triệt và cụ thể hóa chủ trương, đường lối Đảng về nhiệm vụ quân
sự, quốc phòng, trong đó đặc biệt chú trọng nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính
trị và đã được nhìn nhận đánh giá trong văn kiện Đại hội Đảng bộ Học viện nhiệm
kỳ 2015 - 2020: “Cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên chiến sĩ của Học viện kiện
định vững vàng về bản lĩnh, có trách nhiệm chính trị cao; nhận thức đúng vai trò, vị
thế của Học viện trong sự nghiệp giáo dục đào tạo quốc gia nói chung, của quân đội
nói riêng” [33, tr.16].
Một trong những ưu điểm của triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ là
trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, tuyệt đại đa số các chủ
thể có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng; có nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
nhận định chiếm 89,4% số người được hỏi; quán triệt và thực hiện nghiêm chủ
85
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và
quy định của nhà trường; trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân;
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; có tâm huyết với
nghề nghiệp, có động cơ thái độ đúng đắn trước yêu cầu nhiệm vụ; có phẩm chất
đạo đức tốt, lối sống trong sạch, giản dị, gắn bó máu thịt với Nhân dân, yêu thương
đồng chí, đồng đội, có tinh thần đoàn kết, xây dựng cơ quan, đơn vị; luôn cảnh giác
và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện
“phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, xứng đáng với niềm tin mà
Đảng và Nhân dân giao phó.
Những ưu điểm về triết lý và tư tưởng chính trị là một trong những điểm
sáng nổi bật trong công tác tư tưởng văn hóa của Đảng trong quân đội nói chung và
NTQĐ nói riêng. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách nghiêm túc và khách quan, vấn đề
thuộc về triết lý và tưởng chính trị trong NTQĐ vẫn tồn những hạn chế như: sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham
nhũng; nói nhiều làm ít; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Hiện nay vẫn còn một bộ phận cán bộ và học viên có những biểu hiện
suy thoái về đạo đức lối sống, nói nhiều hơn làm việc thực tế, khiến công
việc kém hiệu quả. Một số có những biểu hiện nhũng nhiễu, cửa quyền,
ảnh hưởng đến sự đoàn kết trong đơn vị [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi,
Trung tá, học viên, HVCT].
Đối với NTQĐ những tiêu cực, hạn chế về mặt triết lý và tư tưởng chính
trị được biểu hiện trước hết ở tâm lý lười học tập chính trị của các chủ thể chính trị,
bàng quan, không kịp thời cập nhật những quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật Nhà nước; nhận thức của các chủ thể chưa thật đầy đủ và thiếu sâu
sắc về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới; chưa thực sự
tin tưởng vào sức mạnh chiến đấu của quân đội… ở một số ít cấp ủy cơ sở chưa
thực sự quan tâm giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị cho quân nhân dẫn đến hiệu
quả giáo dục chính trị thấp: “Những hạn chế về triết lý và tư tưởng chính trị là do cả
yếu tố khách quan và chủ quan của các chủ thể chính trị, tuy nhiên, nhìn nhận và
đánh giá một cách sâu sắc thì yếu tố chủ quan vẫn là chính” [Phỏng vấn sâu, nam,
51 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên được chỉ ra là:
86
Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng có mặt còn dàn trải, chưa đi vào
trọng tâm, trọng điểm, đổi mới về hình thức, phương pháp còn chậm;
công tác quản lý tư tưởng, rèn luyện kỷ luật có đơn vị chưa đạt độ vững
chắc; một số ít cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ động cơ phấn đấu
không thường xuyên, vi phạm kỷ luật phải xử lý [145, tr.9].
Thực trạng triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ hiện nay có hai mặt,
biểu hiện tích cực và biểu hiện tiêu cực. Các biểu hiện tích cực có tác dụng trong
việc củng cố và nâng cao tri thức và trình độ chính trị cho các chủ thể, góp phần xây
dựng và hoàn thiện nhân cách quân nhân. Ngược lại, các biểu hiện tiêu cực là lực
cản, tác động xấu đến chất lượng, hiệu quả các hoạt động của NTQĐ, ảnh hưởng
tiêu cực đến quân nhân, đến môi trường văn hóa sư phạm quân sự, làm phai nhạt lý
tưởng và xói mòn niềm tin và nghiêm trọng hơn đó còn là nguy cơ ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.
3.1.2.2. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị
Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị của quân đội nói chung và NTQĐ nói
riêng là sự kết tinh những giá trị văn hóa, bao gồm: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
và hiện đại, thể hiện định hướng chính trị quan trọng đồng thời là những vấn đề có
tính nguyên tắc trong xây dựng, tổ chức và trong quan hệ, ứng xử của QĐND Việt
Nam anh hùng.
Đối với NTQĐ, là đơn vị quân đội, sự hiện diện khuôn mẫu, chuẩn mực
chính trị được biểu hiện ở các quan điểm, phương châm, nguyên tắc mang tính đặc
thù sư phạm như: các quy định trong “Điều lệ công tác nhà trường QĐND Việt
Nam”; các định hướng: “3 quan điểm”, “8 nguyên tắc”, “6 mối kết hợp” trong huấn
luyện được quy định trong văn bản của Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam.
Tại các NTQĐ, tính chính quy trong mọi hoạt động luôn được đề cao, thực
hiện nghiêm tinh thần Nghị quyết số 93 của Đảng ủy quân sự Trung ương (nay là
QUTW): “làm mẫu và đi trước đơn vị” [41]. Các quy định trong “Điều lệnh quản lý
bộ đội”; “Điều lệnh đội ngũ” là những chuẩn mực, khuôn mẫu điển hình trong
quan hệ, ứng xử của quân nhân đồng thời phản ánh VHCT trong môi trường sư
phạm quân sự. Ngoài ra, những tiêu ngữ, khẩu hiệu hay tên gọi các cuộc vận động,
phong trào cũng phản ánh đậm nét những khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị như: “Nhà
trường gắn liền với chiến trường”; “Lấy nhà trường làm trận tuyến chống Mỹ cứu
87
nước, dồn hết sức mạnh vào nhiệm vụ đào tạo cán bộ với chất lượng cao nhất để cung
cấp cho tiền tuyến”; “Coi mỗi khóa học như một chiến dịch, mỗi khoa mục như một
trận chiến đấu” [138]; “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; “Vượt
nắng thắng mưa, say sưa luyện tập”… để từ đó tạo dựng nên một truyền thống vẻ
vang của QĐND Việt Nam anh hùng là “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết
thắng”, góp phần tôn vinh và đề cao hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Qua đây có thể nhận thấy, yếu tố chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị có một vai
trò rất quan trọng trong định hướng VHCT trong NTQĐ, mọi hoạt động đều được
dựa trên nguyên tắc, kỷ luật để điều hành, quản lý. Đa số học viên trong hai đơn vị
được khảo sát đều đánh giá tầm quan trọng với tỷ lệ 91,4% [Phụ lục 5, Bảng 6].
Bảng 3.4. Nhận định về chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của học viên(%)
Nhận định Số người Tỉ lệ
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 5 1,7
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 233 77,7
Rất cần thiết 41 13,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
“Trong môi trường quân đội những chuẩn mực và khuôn mẫu là những giá
trị văn hóa điển hình cần được thực hiện một cách nghiêm túc, coi trọng và đề cao
sự gương mẫu, tự giác trong chấp hành và thực hiện”. [Phỏng vấn sâu, nam, 24 tuổi,
Trung úy, học viên, TSQLQ1].
Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của Nhân dân các địa phương nơi đóng
quân, NTQĐ đã không ngừng phát huy bản chất tốt đẹp và truyền thống của QĐND
Việt Nam anh hùng. Các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị không chỉ là những giá trị
văn hóa được chia sẻ mà còn là định hướng chính trị giúp các chủ thể hoàn thành
thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo,
3.1.2.3. Di sản và truyền thống chính trị
Cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội, những di sản và truyền
thống cao đẹp trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành đã luôn được
88
NTQĐ nói chung cũng như HVCT và TSQLQ1 nói riêng phát huy một cách hiệu
quả trong điều kiện mới.
Đối với TSQLQ1, những chiến công tiêu biểu như: Trận chiến đấu Tiễu phỉ ở
Tân Trào tháng 6 năm 1945; trận đánh địch nhảy dù ở Bắc Kạn ngày 07 tháng 10
năm 1947; trận Đầm Hồng - Bản Thi ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang ngày 18 tháng 10
năm 1947 và trận Tập kích đồn Yên Thịnh tháng 10 năm 1947 là những chiến công
oanh liệt mãi mãi ghi vào lịch sử truyền thống Nhà trường như những biểu tượng
sáng ngời về hình ảnh “Bộ đội Lục quân”, góp phần không ngừng xây đắp nên những
nét đẹp truyền thống tiêu biểu “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng thời cũng là những di sản chính
trị vô cùng quý giá để lớp lớp các thế hệ Lục quân tiếp tục gìn giữ và phát huy [138].
Bảng 3.5. Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên (%)
Nhận định
Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết Tổng Số người 4 10 16 230 40 300 Tỉ lệ 1,3 3,3 5,3 76,7 13,3 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Qua đây có thể nhận thấy, yếu tố di sản và truyền thống chính trị có một vai
trò rất quan trọng trong định hướng VHCT trong NTQĐ. Đa số học viên trong hai
đơn vị được khảo sát đều đánh giá sự cần thiết với tỷ lệ 90% [Phụ lục5, Bảng 6].
Hiện nay, những di sản và truyền thống chính trị của TSQLQ1 gắn liền với
quá trình đào tạo và trưởng thành của các thế hệ Lục quân nối tiếp nhau bồi đắp
thêm. Trong điều kiện mới, xuất phát từ quan điểm, phương châm giáo dục: quá
trình huấn luyện là quá trình truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và truyền thống tốt
đẹp của quân đội, của Nhà trường cho người học, người thầy vừa là người chỉ huy
quản lý, vừa là nhà giáo dục và đồng thời cũng là người đồng chí cùng chung chiến
hào, vì vậy tấm gương về những nhà giáo Lục quân tận tâm, tận lực cho sự nghiệp
đào tạo cán bộ quân đội của Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh những ngày đầu thành lập và Phạm Trung
Đôi, Nguyễn Văn Sự, Đỗ Hùng Vỹ, Phạm Hồng Sơn, Lê Viết Anh giai đoạn sau này
89
là những biểu tượng, những tấm gương thực sự cao đẹp, sáng ngời về phẩm chất của
các nhà chỉ huy, quản lý và là những nhà sư phạm mẫu mực. Những thành quả trong
nghiên cứu và đào tạo gắn liền với những chiến công điển hình, những thành tựu
trong các hoạt động là những di sản và truyền thống chính trị tiêu biểu của Nhà
trường trong suốt 75 năm qua.
Đối với HVCT, ngay những ngày đầu thành lập, nhà trường đã chú trọng
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị của quân đội và nghiên cứu
khoa học. Với phương châm vừa chiến đấu, vừa huấn luyện theo nguyên tắc dạy và
học những gì chiến trường cần, thời kỳ này, nhà trường chủ yếu mở các lớp bồi
dưỡng cán bộ chính trị ngắn hạn, cấp tốc. Nội dung giáo dục là một số vấn đề lý
luận của Chủ nghĩa Marx- Lenin, đường lối kháng chiến của Đảng và kinh nghiệm
lãnh đạo bộ đội trong thực tiễn chiến đấu. Hoạt động nghiên cứu khoa học được gắn
kết với hoạt động dạy học, nhằm chuyển hóa các nội dung lý luận và thực tiễn chiến
trường thành nội dung dạy học. [91].
Tiếp bước các thế hệ cha, anh, thế hệ hôm nay của chúng tôi tiếp tục
phấn đấu bằng nhiệt huyết, truyền cảm hứng và niềm đam mê, sự cống
hiến cho thế hệ trẻ. Đồng thời nhân rộng và xây dựng củng cố phát huy
giá trị văn hóa trong thời kỳ mới. [Phỏng vấn sâu, nam, 46 tuổi, Trung tá,
học viên, HVCT].
Viết tiếp và tô thắm thêm truyền thống của các thế hệ Lục quân đi trước
để lại, ngày nay, chúng tôi cố gắng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, viết tiếp
những trang sử mới hào hùng của dân tộc, làm gương cho hế hệ mai sau,
đặc biệt là cho cán bộ, học viên trẻ, tiếp thu những giá trị tốt đẹp [Phỏng
vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].
Hiện nay, những di sản và truyền thống chính trị của NTQĐ tiếp tục được lưu
giữ và trao truyền qua các thế hệ nối tiếp nhau. Trong điều kiện mới, phương châm và
định hướng phát triển của NTQĐ là tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, nâng cao
chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trước hết, quán triệt sâu sắc và thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo; Nghị quyết 86 của QUTW về công tác giáo dục và đào tạo trong tình
hình mới; Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong quân đội giai đoạn 2016 -
90
2020. Theo đó, NTQĐ đã chủ động đổi mới toàn diện, đồng bộ từ mô hình, mục tiêu,
chương trình, nội dung đến phương pháp, tạo điều kiện bảo đảm nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo. Trong đó, đổi mới nội dung gắn với đổi mới phương pháp
nâng cao chất lượng dạy học là khâu đột phá, góp phần phát triển toàn diện năng lực,
phẩm chất, nhất là phát triển tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn công tác
đảng, công tác chính trị của người học, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội thời kỳ
mới, nhất là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị [88].
3.1.3. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị
Thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được xây dựng trên cơ sở nguyên
tắc tổ chức của Đảng và được tổ chức đặc thù theo biên chế của quân đội. Vấn đề
cốt lõi của thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được hình thành trên cơ sở nhận
thức và niềm tin chính trị của quân nhân. Trên cơ sở tìm hiểu những hình thái và
cấp độ biểu hiện của thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ, luận án phân tích làm
rõ: sứ mệnh, mục tiêu; hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo; uy
tín chính trị của thể chế và thiết chế VHCT.
3.1.3.1. Thực trạng sứ mệnh, mục tiêu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, yêu cầu nâng cao VHCT
là vấn đề quan trọng đối với sự phát triển bền vững của mỗi tổ chức để thích nghi
và phát triển, dựa trên cơ sở phát huy nguồn lực nội sinh và nguồn lực ngoại sinh.
Thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ chịu sự tác động của môi trường xã hội
và môi trường quân đội, sự tương tác với môi trường, bị chi phối bởi đặc điểm
văn hóa của từng cá nhân và quá trình biến đổi diễn ra tương đối chậm. Hiểu biết
về thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ là yếu tố quyết định hàng đầu trong
việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong NTQĐ hiện nay. Vì
vậy, đây cũng chính là mục tiêu quan trọng được NTQĐ nói chung và HVCT,
TSQLQ1 nói riêng đặt lên hàng đầu trong sứ mệnh, mục tiêu đào tạo.
Kết quả điều tra của luận án [Phụ lục5, Bảng 7] cho thấy, tỷ lệ phần trăm số
học viên được khảo sát tại hai nhà trường đều khẳng định về sứ mệnh, mục tiêu, yêu
cầu đào tạo gắn với chức năng và nhiệm vụ NTQĐ ở mức độ cần thiết và rất cần
thiết là 90,6%, tỷ lệ nhận định còn lại không nhiều số học viên trả lời mức độ bình
thường trở xuống 9,4% với hệ số tương quan Pearson là r = 0,136; t = 2,591; p <
91
0,05 thể hiện sự tương quan chặt chẽ nhận định của học viên về sứ mệnh mục tiêu
của VHCT trong NTQĐ là đặc biệt quan trọng.
Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế và
thiết chế văn hóa chính trị của học viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Trong thời gian tới, mục tiêu và sứ mệnh của Học viện vẫn sẽ là những
giá trị mà chúng tôi hướng tới, bởi trong bất cứ giai đoạn nào thì mục
tiêu và sứ mệnh vẫn luôn được coi là vấn đề cốt lỗi trong việc định
hướng VHCT, giúp tôi xác định được vai trò, trách nhiệm của bản thân.
[Phỏng vấn sâu, nam, 37 tuổi, Thiếu tá, học viên, HVCT].
Bên cạnh đó, hầu hết các cán bộ quản lý, giảng viên ở hai nhà trường được
khảo sát cũng khẳng định, hiện nay sự vận hành và tính hiệu quả của thể chế và
thiết chế VHCT trong NTQĐ cần được truyền thụ cho học viên rõ ràng, tuyên
truyền cho giảng viên về sứ mệnh, mục tiêu là điều hết sức cần thiết. Điều này hoàn
toàn phù hợp với kết quả điều tra về thực trạng thể chế và thiết chế VHCT trong
NTQĐ của học viên và nó cũng cho thấy nhận thức đúng đắn của học viên.
Về cơ bản, sứ mệnh của từng học viện, trường trong quân đội được công bố
công khai và tùy theo yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo của từng học viện,
trường được xác định trong Thông tư của BQP. Đối với HVCT và TSQLQ1, sứ
mệnh mục tiêu và nhiệm vụ được thể hiện trong tính đặc thù gắn với nhiệm vụ đào
92
tạo của mỗi trường và được tuyên bố công khai như đã nêu trong phần giới thiệu về
khách thể nghiên cứu ở chương 2.
Xét về định hướng phát triển các tổ chức trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây
dựng quân đội, trước hết, cần khẳng định VHCT trong NTQĐ là một bộ phận của
VHCT của QĐND Việt Nam, là chất lượng tổng hòa hệ thống nhân cách chính trị
của người cán bộ chỉ huy, giảng viên, học viên và của tập thể quân nhân, của hệ
thống thang bậc giá trị và hệ thống vận hành của thể chế và thiết chế chính trị gắn
liền với hoạt động sư phạm quân sự. VHCT trong NTQĐ phản ánh năng lực sáng
tạo của chủ thể văn hóa sư phạm quân sự vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích
của dân tộc, đồng thời chịu sự tác động và chi phối bởi trình độ và đặc trưng của
văn hóa dân tộc Việt Nam.
Về định hướng phát triển chung, trước hết, cần quán triệt và thực hiện
nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, quan
điểm của Đảng về chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam trong thời kỳ mới. Bám
sát yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, trên cơ sở định hướng chung, tập
trung quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt các nội dung giải pháp của Chỉ thị số 355-
CT/QUTW, ngày 20-4-2017, của QUTW “Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác văn hóa, văn học, nghệ thuật trong quân đội giai đoạn hiện nay” [103], đó là: Tiếp
tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ
Chính trị khóa XII, Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với
thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ
đội Cụ Hồ”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn
Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; lãnh đạo, chỉ đạo, giáo dục
nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, văn nghệ sĩ. Trong đó, cần tập
trung nâng cao nhận thức cho cấp ủy, cán bộ chủ trì, cán bộ chính trị các cấp về vai
trò của văn hóa, văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay; tổ chức chặt chẽ, chủ
động tích cực đấu tranh chống quan điểm sai trái trong hoạt động văn hóa, văn học,
nghệ thuật, sự xâm nhập của các ấn phẩm độc hại, gây hủy hoại đạo đức xã hội; quan
tâm xây dựng và hoàn thiện nhân cách cho chủ thể.
93
Biểu đồ 3.9: Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức
trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội của học viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Các kết quả khảo sát định lượng của luận án cũng cho thấy tỷ lệ phần trăm số
học viên được khảo sát đều khẳng định về định hướng phát triển các tổ chức trong
NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội ở mức độ cần thiết và rất cần thiết là
88,3% [Phụ lục5, Bảng 7].
3.1.3.2. Hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo
Nhà trường quân đội là nơi đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng và cung cấp nguồn
cán bộ cho toàn quân. Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và tác động của Cách mạngcông nghiệp lần thứ Tư, NTQĐ đã chủ động
tiếp cận các phương pháp giáo dục và đào tạo tiên tiến, không ngừng đổi mới quy
trình, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; quy mô và loại hình đào tạo
ngày càng được mở rộng, chất lượng của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và cơ
sở vật chất và năng lực đào tạo của nhà trường được nâng lên, góp phần nâng cao
chất lượng nguồn cán bộ cho quân đội: “Nhìn chung, đội ngũ giảng viên hiện nay
trước yêu cầu đổi mới giáo dục đã rất nỗ lực nâng cao trình độ, cập nhật những tri
thức mới, hiện đại; vận dụng tốt phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ
động của người học”. [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi, Đại tá, cán bộ, HVCT].
Hành động thực tiễn để hiện thực hóa mục tiêu đào tạo đó là, việc đổi mới quy
trình, chương trình, nội dung đào tạo phải bảo đảm tính kế thừa khoa học nghệ thuật
quân sự Việt Nam đã được đúc rút từ trong lịch sử giữ nước và dựng nước của dân
94
tộc, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và nghệ
thuật quân sự thế giới hiện nay, phù hợp với chủ trương của Bộ Chính trị. Cùng với
hệ thống chương trình đào tạo đã xây dựng, phải chú trọng nghiên cứu, xây dựng một
số chương trình đào tạo đối với các chuyên ngành đặc thù, lĩnh vực mũi nhọn mà nhà
trường có thế mạnh để đào tạo [16]. “Hiện nay Nhà trường đang nỗ lực đổi mới quy
trình, chương trình và nội dung đào tạo, mang tính vừa đảm bảo tính kế thừa vừa đáp
ứng yêu cầu cập nhật”. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, giảng viên, TSQLQ1].
Để đảm bảo hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo, NTQĐ cần tiếp tục lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, Nhà nước, BQP về công tác giáo dục và đào tạo, bảo đảm nâng cao trình độ
mọi mặt cho đội ngũ cán bộ giảng viên. Đây là nội dung quan trọng nhằm tạo sự
chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, học viên
với công tác giáo dục đào tạo. Nội dung giáo dục, quán triệt tập trung vào các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, của QUTW và các đề án về công tác nhà trường, nhiệm vụ
giáo dục và đào tạo đã được BQP phê duyệt [77].
Để vận hành được hệ thống tại các NTQĐ hiện nay, buộc phải có sự
thống nhất trong lãnh đạo và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của, từng
bộ phận, các đơn vị này có mối quan hệ chặt chẽ và vận hành trong một
thể thống nhất [Phỏng vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].
Với việc xác định tầm quan trọng của sự vận hành thể chế, thiết chế VHCT
và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của NTQĐ ở mức độ quan trọng và rất
quan trọng chiếm tỷ lệ 87,3% (xem bảng 3.6).
Bảng 3.6. Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả
trong hoạt động thực tiễncủa học viên (%)
Nhận định
Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết Tổng Số người 9 11 18 217 45 300 Tỉ lệ 3,0 3,7 6,0 72,3 15,0 100,0 (Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ đạo và vận hành của các tổ chức trong NTQĐ
có một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp quản lý và định hướng các chủ thể theo
95
đúng chức năng, nhiệm vụ. Mục tiêu đào tạo của NTQĐ là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, góp phần bồi dưỡng cán bộ và học viên có đủ phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy,
NTQĐ cần phát huy các thành tích đã đạt được, tích cực nghiên cứu, cụ thể hóa
thành các giải pháp để thực hiện hiệu quả các vấn đề nêu trên, bảo đảm không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần xây dựng quân đội.
3.1.3.3. Uy tín chính trị của tổ chức
Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân trong NTQĐ được thể hiện
qua mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa lãnh đạo, chỉ huy với các quân nhân, trong
đó, lãnh đạo, chỉ huy giữ vai trò quyết định vì: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [86, tr.320], chiến sĩ là lực lượng có vai trò quan trọng trong thực hiện thắng
lợi mọi công việc: “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng, thì
không làm được gì” [87, tr.207].
Mối quan hệ giữa cán bộ và học viên trong NTQĐ thực chất là các quan hệ
quân sự được hình thành, phát triển trong môi trường sư phạm quân sự. Sự đồng
thuận và gắn kết của tập thể quân nhân dựa trên nguyên tắc hoạt động, chức năng,
nhiệm vụ, điều lệnh, điều lệ, chế độ của quân đội và quy định của mỗi trường. Mặt
khác, sự đồng thuận dựa trên tình cảm đồng chí, đồng đội sâu sắc, đoàn kết gắn bó
với nhau như ruột thịt giữa những con người cùng chung lý tưởng.
Kết quả điều tra của luận án cho thấy, đa số học viên đã có nhận thức về sự
đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân trong NTQĐ là rất cần thiết 12,3% và
cần thiết 79%, số ít học viên nhận định bình thường, không cần thiết và rất không
cần thiết chiếm tỷ lệ nhỏ 8,7% (xem bảng 3.7).
Bảng 3.7. Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của
học viên (%)
Nhận định
Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết
Tổng Số người 5 7 14 237 37 300 Tỉ lệ 1,7 2,3 4,7 79,0 12,3 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
96
Điều này cho thấy, sự gắn kết của tập thể quân nhân và đồng thuận là nhân tố
quan trọng, là nguồn sức mạnh to lớn để các chủ thể tạo dựng nên uy tín đồng thời
là vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Hơn nữa, sự đồng thuận và gắn kết còn được hình thành trên cơ sở của sự
gương mẫu tự giác đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ của lãnh đạo, chỉ huy, đồng thời
cán bộ phải biết tôn trọng, thương yêu và chia sẻ với cấp dưới, thực hiện phương
châm “hành động của người chỉ huy là mệnh lệnh không lời đối với chiến sĩ”. Trái
lại, nếu cán bộ chỉ huy không làm “mực thước” cho cấp dưới, quan liêu, hách dịch,
bè cánh thì chắc chắn cấp dưới sẽ xa lánh, đoàn kết của đơn vị sẽ ảnh hưởng tiêu
cực: “Tôi cho rằng, đoàn kết, nhất trí đã tạo sự đồng thuận giúp làm nên sức mạnh
của đơn vị; sự gương mẫu tự giác của cán bộ đã giúp chúng tôi củng cố thêm niềm
tin”. [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi, Trung tá, HVCT]; “Các nguyên tắc làm việc dựa
trên sự đồng thuận và cùng tập thể xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh,
gần gũi với người học, nhưng vẫn giữ được nguyên tắc trong quan hệ đặ thù quân
đội” [Phỏng vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].
Xét về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của mỗi tổ chức, mỗi thế hệ trưởng thành
trong quân đội, hướng theo sự phát triển chung của dân tộc đều mang theo những giá
trị truyền thống, lịch sử của đơn vị là sự tiếp nối trong sự phát triển mang tính lịch sử,
các thế hệ nối tiếp nhau bảo tồn, phát huy bản sắc của tổ chức trong NTQĐ, tiếp tục
sáng tạo những giá trị mới. Trên cơ sở phiếu điều tra 300 học viên của hai nhà trường
cho thấy, đa số học viên đã có nhận thức về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức
trong NTQĐ là rất cần thiết và cần thiết 89,4%, số ít học viên nhận định bình thường,
không cần thiết và rất không cần thiết chiếm tỷ lệ 10,6%.
Bảng 3.8. Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc
của tổ chức của học viên (%)
Nhận định
Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết
Tổng Số người 5 12 15 230 38 300 Tỉ lệ 1,7 4,0 5,0 76,7 12,7 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
97
Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ cần thiết phải bảo tồn và phát huy bản sắc của tổ
chức, cán bộ và học viên NTQĐ tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng quân đội vững mạnh
về chính trị, góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Đó
chính là tiếp tục phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong
thời đại mới, để quân đội xứng đáng là một đội quân quyết chiến quyết thắng, một đội
quân văn hóa: “Nối tiếp thế hệ của cha anh đi trước, tôi luôn cố gắng phấn đấu và tiếp
tục phát huy ngọn lửa truyền thống về tinh thần đoàn kết, yêu nước, sẵn sàng cống hiến
cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. [Phỏng vấn sâu, nam, 33 tuổi, Đại úy, học viên,
HVCT]; “Tôi luôn cố gắng phấn đấu sao cho xứng đáng với lịch sử truyền thống vẻ
vang của Nhà trường”. [Phỏng vấn sâu, nam, 19 tuổi, Binh nhất, học viên, TSQLQ1].
Xét về nhân tố định hướng giá trị chính trị, kết quả điều tra của luận án cho thấy
91% học viên đều khẳng định là rất cần thiết và cần thiết, chỉ 9,0% số học viên cho
rằng bình thường, không cần thiết và rất không cần thiết thể hiện ở bảng 3.9.
Bảng 3.9. Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên (%)
Nhận định Số người Tỉ lệ
Rất không cần thiết 3 1,0
Không cần thiết 7 2,3
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 235 78,3
Rất cần thiết 38 12,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).
Định hướng giá trị chính trị là cấu tạo tâm lý đặc trưng của nhân cách, là cơ sở
của hành vi, thúc đẩy các chủ thể chính trị hành động để đạt được mục đích trong cuộc
sống [124]. Định hướng giá trị chính trị NTQĐ có vai trò quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của học viên, góp phần xây dựng lý tưởng, niềm tin
chính trị, hình thành đạo đức, lối sống, thúc đẩy động cơ lập thân, lập nghiệp, hình
thành ý thức và trách nhiệm công dân của học viên. Do đó, định hướng giá trị chính trị
trong NTQĐ là vấn đề luôn được đề cao: “Việc định hướng giá trị chính trị trong
NTQĐ là rất cần thiết, giúp tôi ý thức được được việc học tập của bản thân và định
98
hướng lối sống, trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội”. [Phỏng vấn sâu,
nam, 39 tuổi, Thiếu tá, học viên, HVCT].
Tại TSQLQ1, hằng năm, trên cơ sở chỉ đạo của QUTW, Hướng dẫn của Tổng
cục Chính trị, Đảng ủy Nhà trường xây dựng Kế hoạch về Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền
thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” gắn với thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XII trong Đảng bộ Nhà trường. Tùy thuộc vào đặc điểm nhiệm vụ
mà các tiêu chí phấn đấu của các chủ thể được bổ sung sao cho phù hợp [146, tr.1],
kết quả đã “góp phần nêu cao trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, tạo
sự chuyển biến rõ rệt về đạo đức, lối sống, khắc phục có hiệu quả những khâu yếu,
mặt yếu của từng tập thể, cá nhân, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Nhà trường trong những năm qua” [43, tr.4].
Kết quả đánh giá, xếp loại tổ chức đảng qua các năm học của HVCT và
TSQLQ1 cũng như Học viện Phòng không - Không quân cũng đã phản ánh đậm nét
hiệu quả của sự vận hành thể chế, thiết chế VHCT và uy tín chính trị của các tổ
chức trong NTQĐ, trong đó vai trò tổ chức đảng giữ vị trí là hạt nhân lãnh đạo.
Ở cấp trực thuộc đảng ủy NTQĐ, kết quả trung bình chung trong 4 năm, từ
2016 - 2019, đối với HVCT là 83,83%; TSQLQ1 là 94,04% và Học viện Phòng
không - Không quân là 89,43% tổ chức đảng hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ.
Cấp cơ sở có kết quả là: HVCT là 84,84%; TSQLQ1 là 93,27% và Học viện Phòng
không - Không quân là 82,52%. Trong khi đó, tỷ lệ trung bình chung đánh giá tổ
chức đảng ở mức hoàn thành nhiệm vụ của các trường là: HVCT 16,67% (cấp cơ sở
là 15,16%); TSQLQ1 là 5,06% (cấp cơ sở là 6,73%) và Học viện Phòng không -
Không quân là 10,57% (cấp cơ sở là 17,48%) [Phụ lục 8].
Với kết quả trên, bước đầu rút ra, ngoài sự chi phối của đặc điểm, nhiệm vụ
theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo và yếu tố đặc thù mỗi trường, thì ở cấp học viện, tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ của tổ chức đảng đặt ra
yêu cầu cao hơn so với nhóm trường sĩ quan.
3.1.4. Hoạt động văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị được xem là giá trị cốt lõi, huyết mạch trong mỗi hệ thống
chính trị, đối với NTQĐ, hoạt động VHCT được biểu hiện qua hoạt động lãnh đạo và
99
triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ dạy học, nghiên cứu khoa học và hoạt động xây
dựng đơn vị.
Trong giai đoạn hiện nay, NTQĐ tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo; tiếp tục cụ thể hóa mục tiêu đổi mới, phát triển giáo dục, đào tạo
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; chủ động rà soát, bổ sung nội dung,
biện pháp thực hiện đề án, kế hoạch thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và Chiến lược
“Phát triển giáo dục, đào tạo trong Quân đội giai đoạn 2011 - 2020”; thực hiện gắn
chỉ tiêu, nhiệm vụ năm học 2019 - 2020 với lộ trình thực hiện mục tiêu của đề án, kế
hoạch đã đề ra và Kế hoạch hành động của hệ thống NTQĐ trước tác động của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (Ban hành kèm theo Quyết định 889/QĐ-BQP,
ngày 22-3-2018 của BQP). Đồng thời, tiếp tục có các biện pháp đột phá nhằm xây
dựng nhà trường chính quy, mẫu mực, có môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh,
quản lý, rèn luyện kỷ luật tự giác, nghiêm minh, cảnh quan xanh, sạch, đẹp, tạo cơ sở
để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo được NTQĐ thực hiện
quyết liệt và có chuyển biến rõ nét, đạt kết quả tốt: “Công tác giáo dục đào tạo tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ về chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, nâng
cao chất lượng dạy học; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
hàng năm” [33, tr.34]. Đặc biệt, NTQĐ đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị
89/CT-BQP, ngày 09-11-2016 của BQP, tạo hiệu ứng mạnh mẽ, chuyển biến quan
trọng trong dạy và học ngoại ngữ.
Đánh giá về tầm quan trọng của vấn đề giảng dạy và nghiên cứu khoa học
trong các NTQĐ, kết quả khảo sát và tổng hợp phỏng vấn sâu học viên và giảng viên
cho thấy, có đến 70,0% số người được hỏi đều khẳng định là rất quan trọng và quan
trọng đối với nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 8].
Tuy nhiên, so với yêu cầu, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong NTQĐ vẫn
còn có những hạn chế nhất định: “Công tác tạo nguồn cán bộ đi đào tạo sau đại học
có thời điểm chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục, giảng viên có trình độ sau đại học, nhất là trình độ tiến sĩ, chức danh giáo sư,
phó giáo sư còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ” [22, tr.7]. Trình độ, năng lực, nhất
là kinh nghiệm thực tiễn, trình độ ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ sư phạm của một
100
bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới: “Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ
cán bộ, giáo viên, học viên đã được nâng lên, song chưa đáp ứng với yêu cầu tạo
nguồn đi đào tạo sau đại học, đào tạo ở nước ngoài và xét các chức danh, danh
hiệu nhà giáo” [21, tr.10]. Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, phương
pháp dạy và học của nhà trường còn chậm, chưa đồng bộ: “Chương trình đào tạo
cán bộ các cấp có nội dung môn học còn trùng lặp; một số kiến thức chuyên
ngành, tổ chức diễn tập, phương pháp huấn luyện chưa gắn với nhiệm vụ huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” [21, tr.9]. Công tác bảo đảm cho nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình: “Bảo đảm
tài liệu, giáo trình còn hạn chế; hệ thống thư viện chưa đủ hiện đại hóa; một số
phòng học chuyên ngành, phòng thí nghiệm chưa được đầu tư; hệ thống thao
trường, trường bắn chưa đáp ứng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng huấn luyện
thực hành, diễn tập” [21, tr.10].
Biểu đồ 3.10: Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy
và nghiên cứu khoa học của giảng viên, học viên (%)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án). Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, thời gian qua, NTQĐ đã luôn coi
trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kết hợp chặt chẽ giáo dục, đào tạo
với nghiên cứu khoa học, hướng hoạt động nghiên cứu khoa học vào phục vụ trực
tiếp cho nhiệm vụ đào tạo; làm tốt công tác tuyển sinh, hợp tác, liên kết đào tạo.
Đẩy mạnh các phong trào thi đua, các cuộc vận động, tạo động lực để thực hiện
thắng lợi chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác: “Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa
101
học bám sát tình hình, nhiệm vụ Nhà trường; phát huy được tiềm năng, trí tuệ của
các lực lượng, tích cực nghiên cứu ứng dụng có hiệu quả đề tài, sáng kiến vào
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo và xây dựng Nhà trường” [36, tr.6].
Thông qua kết quả phân loại tốt nghiệp và kết quả hoạt động nghiên cứu khoa
học trong 4 năm học giai đoạn từ 2016 - 2019 của một số trường quân đội đã phản ánh
đậm nét quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của các học viện, trường quân
đội, đồng thời cũng cho thấy thực trạng hoạt động VHCT trong NTQĐ hiện nay.
- Kết quả tốt nghiệp trung bình chung trong giai đoạn từ 2016 - 2019:
Học viện Chính trị: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 98,51% (giỏi 4,4%); tốt nghiệp
trung bình khá là 1,49%; không có học viên tốt nghiệp trung bình.
Trường Sĩ quan Lục quân1: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 88,33% (giỏi 5,3%);
tốt nghiệp trung bình khá và trung bình là 11,67% (vẫn có học viên không tốt nghiệp,
nhưng chỉ rất ít: năm học 2015-2016 có 05/1636; năm học 2018-2019 có 01/541).
Học viện Phòng không - Không quân: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 70,54%
(giỏi 6,63%); tốt nghiệp trung bình khá là 28,11%; tốt nghiệp trung bình là 4,5%
[Phụ lục 8].
Một số nhận định và đánh giá bước đầu được rút ra: khối các trường quân sự
và chính trị có tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi trung bình chung cao hơn khối trường kỹ
thuật, nhưng trong khi đó, tỷ lệ học viên giỏi của khối trường kỹ thuật cao hơn các
trường quân sự và chính trị.
Kết quả trên cũng cho thấy sự tương đồng giữa kết quả kiểm tra nhận
thức chính trị với kết quả tốt nghiệp. Điều này cho phép khẳng định, định hướng
giá trị VHCT có vai trò quan trọng, ảnh hưởng và chi phối đến kết quả đào tạo
cán bộ quân đội của NTQĐ hiện nay.
- Từ kết quả nghiên cứu khoa học hàng năm của 3 NTQĐ [Phụ lục 8], bước
đầu rút ra một số nhận định và đánh giá như sau:
Nhìn chung, các đề tài, sáng kiến của NTQĐ trung bình hàng năm dao động
từ 40 - 45 đề tài, sáng kiến; số lượng giáo trình, tài liệu của khối trường quân sự và
chính trị nhiều hơn khối trường kỹ thuật (HVCT: 102; TSQLQ1: 166 và Học viện
Phòng không - Không quân: 46). Khi so sánh cùng đối tượng đào tạo sĩ quan cấp
phân đội giữa TSQLQ1 và Học viện Phòng không - Không quân, cho thấy, xuất
102
phát từ đặc điểm là trường khối kỹ thuật và cấp đào tạo là học viện, vì vậy Học viện
Phòng không - Không quân hàng năm có sự tham gia nghiên cứu khoa học của đối
tượng học viên, đây là nét đặc thù trong hoạt động chuyên môn của học viện.
Hiện nay, trước sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
đặt ra cho NTQĐ nhiệm vụ quan trọng phải đẩy mạnh phát triển khoa học và công
nghệ quân sự, nâng cao tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội,
vì vậy, việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học ở NTQĐ là rất cần thiết.
Trong thời gian tới HVCT và TSQLQ1 tiếp tục tập trung xây dựng tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực; đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với
Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ
Hồ”; thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”; giữ vững định hướng chính
trị trong quá trình giáo dục và đào tạo; nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, xây
dựng niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng và sự lãnh đạo của Đảng; tích cực
đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, các luận điệu phản động của các thế lực thù
địch, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.
Đối với hoạt động xây dựng tổ chức, trong thời gian qua, NTQĐ luôn chú
trọng phát huy vai trò của tổ chức đảng, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn,
Hội đồng quân nhân, qua đó, tuyệt đa số các chủ thể VHCT trong NTQĐ luôn giữ
vững và phát huy tốt truyền thống của đơn vị, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tích
cực, chủ động, sáng tạo tiếp thu cái mới, đấu tranh với các hành vi tiêu cực, sai trái,
giữ vững ổn định đơn vị.
Mặt khác, HVCT và TSQLQ1 luôn duy trì nghiêm túc, nề nếp chế độ sinh
hoạt đảng, thực hiện nghiêm túc Ngày đảng, tập trung nâng cao chất lượng sinh
hoạt trong các chi bộ nhằm phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở,
thông qua đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ có nhận thức, trách nhiệm cao, ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu; kịp thời
nắm bắt được tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, những ý kiến phản ánh
của đảng viên, từ đó đề ra biện pháp lãnh đạo đúng đắn, hiệu quả, góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, xây dựng tổ chức đảng trong
sạch, vững mạnh.
103
Duy trì có nền nếp hoạt động công tác đảng, công tác chính trị sẽ phát huy
cao tính tự giác, ý thức trách nhiệm của đảng viên, kịp thời quán triệt, triển
khai thực hiện nghị quyết, chỉ thi, mệnh lệnh của cấp trên, nhiệm vụ của
đơn vị; ý thức và trách nhiệm của đảng viên được nâng lên; kỷ luật, kỷ
cương được củng cố; đoàn kết, thống nhất nội bộ được tăng cường.
[Phỏng vấn sâu, nam, 43 tuổi, Trung tá, Chủ nhiệm bộ môn, HVCT].
Thời gian qua, NTQĐ đã có nhiều đổi mới trong công tác lãnh đạo, nội
dung, hình thức nghị quyết lãnh đạo theo hướng tập trung, ngắn gọn, sát đúng với
chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; xác định rõ ràng, phù hợp,có biện pháp cụ thể,
khả thi. Cấp ủy và các cơ quan chuyên môn cấp trên luôn có kế hoạch phân công
cán bộ tham dự các buổi sinh hoạt đảng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để
kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, bất cập, kịp thời giải quyết những
vấn đề phát sinh.
Việc duy trì “Ngày chính trị văn hóa tinh thần” đã được lãnh đạo, chỉ huy của
HVCT và TSQLQ1 quan tâm, triển khai toàn diện với nhiều nội dung, hình thức
phong phú, đa dạng; qua đó kịp thời giải quyết các vấn đề tư tưởng nảy sinh. “Ngày
chính trị và văn hóa tinh thần” được xem là diễn đàn đối thoại dân chủ trong đơn vị,
trong đó chú trọng việc đối thoại giữa cán bộ và chiến sĩ.
“Ngày chính trị văn hóa tinh thần” là một diễn đàn dân chủ, là dịp để cấp
trên tiếp xúc, đối thoại với cấp dưới, cán bộ gặp gỡ, tâm tình cùng chiến sĩ,
qua đó kịp thời định hướng tư tưởng, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
quân nhân. [Phỏng vấn sâu, nam, 53 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, HVCT].
Ngoài “Ngày chính trị, văn hóa tinh thần”, NTQĐ còn thực hiện có hiệu quả
“Ngày pháp luật” theo quy chế giáo dục chính trị của quân đội. Đây cũng được xem
là một trong những hoạt động VHCT điển hình, một kênh tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất trong toàn
quân để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật cho mọi
quân nhân. HVCT và TSQLQ1 tổ chức “Ngày pháp luật” với nội dung sinh hoạt tập
trung vào những vấn đề chính như: tuyên truyền về nội dung pháp luật theo quy
chế; thông tin tình hình chấp hành pháp luật của đơn vị; tình hình chấp hành pháp
luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Ngoài ra, thông qua các hình thức sân khấu hóa để
104
phổ biến pháp luật cho các đối tượng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều đối
tượng trong đơn vị.
Trong ngày pháp luật chủ yếu tập trung vào các nội dung như phổ biến, giới
thiệu các văn bản pháp luật mới ban hành; quán triệt, phổ biến nội dung
chính sách trong các văn bản pháp luật, chú trọng các quy định liên quan
trực tiếp đến quốc phòng, quy định của Nhà trường nhằm giáo dục ý thức
và lợi ích của việc tôn trọng, tuân thủ chấp hành pháp luật, kỷ luật cho quân
nhân. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, TSQLQ1].
3.2. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
Đặc điểm của một sự vật, hiện tượng được hiểu là: “Nét riêng biệt” [155,
tr.292], đặc điểm của VHCT trong NTQĐ là nét riêng và tiêu biểu của một bộ phận
VHCT đặc thù của QĐND Việt Nam. Với tính cách là môi trường văn hóa, VHCT
trong NTQĐ thể hiện chất lượng tổng hòa của hệ thống nhân cách chính trị, hệ
thống thang bậc giá trị chính trị, hệ thống thể chế, thiết chế chính trị và hệ thống
hoạt động chính trị gắn với các quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa và các thiết chế
văn hóa. Sự vận hành của các yếu tố cấu thành VHCT trong NTQĐ có tác dụng
giúp cho sự nâng cao trình độ chính trị cho chủ thể, nâng cao chất lượng dạy học và
nghiên cứu khoa học và quan trọng nhất là giúp cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của quân nhân, trong đó đặc biệt là đối tượng học viên hướng tới chuẩn
mực chân, thiện, mỹ. Chất lượng nhân cách chủ thể VHCT phản ánh chất lượng
VHCT của nhà trường quân đội.
3.2.1. Đặc điểm chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Đặc điểm chủ thể VHCT trong NTQĐ xét về thực chất chính là đặc điểm
nhân cách chính trị của cá nhân được hiện diện trước hết với tư cách của quân nhân.
Những yếu tố thuộc về phẩm chất của người quân nhân cách mạng với nhận thức
chính trị sâu sắc, được giác ngộ về lợi ích cách mạng và lợi ích giai cấp; có tình cảm
đồng chí, đồng đội, tình cảm thầy, trò; luôn có tinh thần nỗ lực khắc phục khó khăn,
phấn đấu vươn lên hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, phản ánh nhân
cách chủ thể VHCT trong nhà trường quân đội.
Đặc điểm nhân cách chủ thể VHCT trong NTQĐ thể hiện ở những phẩm chất,
năng lực và những nét tâm lý xã hội cá nhân đó được hình thành và phát triển trong
105
môi trường sư phạm quân sự. Nhân cách chính trị quân nhân trong môi trường sư
phạm quân sự là nội dung cốt lõi bên trong của VHCT trong nhà trường quân đội.
Đặc điểm nhân cách chủ thể VHCT trong NTQĐ bao gồm phẩm chất chính
trị; hành vi và hoạt động chính trị và lý tưởng, niềm tin chính trị và được bộc lộ trên
các phương diện chủ yếu như: nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính
trị. Tri thức, trình độ chính trị có được trên cơ sở nhận thức chính trị, từ đó hình thành
động cơ phấn đấu, có thái độ chính trị đúng đắn, có tình cảm chính trị cao đẹp của
người quân nhân cách mạng và có năng lực thực tiễn của cá nhân trên từng cương vị
công tác gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao và biểu hiện mức độ hoàn thiện
nhân cách theo yêu cầu nhiệm vụ.
Nhân cách chủ thể VHCT của quân nhân trong NTQĐ với nhận thức chính
trị sâu sắc, lý tưởng cao đẹp, thể hiện khát vọng được cống hiến cho Tổ quốc, có
niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, những phẩm chất chính trị đó tạo nên
uy tín chính trị cá nhân. Đặc điểm nhân cách chính trị cá nhân trong NTQĐ chịu sự
chi phối, tác động của nhiều yếu tố: truyền thống dựng nước và giữ nước của dân
tộc Việt Nam; lý tưởng cách mạng của ĐCSVN, động cơ và lợi ích chính trị của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động; sức hút hay sự thuyết phục, lôi cuốn từ
hình ảnh của nhân vật anh hùng mang mẫu hình lý tưởng trong công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc đã trở thành những biểu trưng văn hóa, biểu trưng chính trị là
người “Vệ quốc quân”, anh “Giải phóng quân” và ngày nay là danh xưng “Bộ đội
Cụ Hồ”, gắn với các yếu tố truyền thống trong xây dựng chiến đấu và trưởng thành
của QĐND Việt Nam anh hùng cũng như những di sản, truyền thống của nhà
trường quân đội.
Văn hóa chính trị trong NTQĐ thể hiện định hướng giá trị và uy tín của tổ chức
quân sự đặc thù của môi trường sư phạm quân sự. Ở đó, có sự gắn kết và đồng thuận
cao trong việc thụ hưởng, chia sẻ và theo đuổi những giá trị văn hóa quân sự đồng
thời chịu sự chi phối của nhân cách cá nhân: lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên và học
viên. Trong đó, đặc biệt là cá nhân giữ vai trò quan trọng là người chỉ huy, chính ủy,
chính trị viên các cấp. Vai trò của Giám đốc (Hiệu trưởng), Chính ủy có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của quân nhân, nhất là là đối tượng
học viên. Lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ không chỉ là người lãnh đạo, quản lý thuần
106
túy mà còn giữ vai trò là người thầy, người hướng dẫn thực hành các hoạt động sư
phạm quân sự và là người đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ, điều này tạo nên
nét đặc thù riêng có của VHCT trong NTQĐ. Uy tín của NTQĐ phụ thuộc rất nhiều
vào sản phẩm đào tạo là những sĩ quan tương lai, chất lượng đào tạo cán bộ là tiêu chí
cơ bản làm nên “thương hiệu” của mỗi học viện, trường quân đội.
Trong khuôn khổ luận án, khi xem xét chủ thể VHCT, chúng tôi tập trung ở
ba đối tượng mang tính điển hình, đó là: lãnh đạo, chỉ huy (Giám đốc/ Hiệu
trưởng, Chính ủy và cán bộ chủ trì cấp trực thuộc nhà trường như: Trưởng
phòng, Trưởng khoa, Hệ trưởng/ Tiểu đoàn trưởng, Chính trị viên hệ, tiểu đoàn);
giảng viên và học viên. Bởi vì: mỗi một học viện, trường quân đội trước hết là
một đơn vị quân đội, cho nên đối tượng cần được xem xét trước hết phải là lãnh
đạo, chỉ huy. Mặt khác, tuy là đơn vị quân đội nhưng NTQĐ lại mang tính đặc
thù sư phạm, cho nên chịu sự chi phối đậm nét của quan hệ thầy (giảng viên) và
trò (học viên). Ngoài ra, trong NTQĐ còn có đông đảo các đối tượng phục vụ và
bảo đảm cho quá trình đào tạo.
3.2.2. Đặc điểm thang bậc giá trị văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội
Quân đội nhân dân Việt Nam từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu,
sự ra đời, trưởng thành và lớn mạnh của quân đội trong suốt hơn 75 năm qua luôn
gắn liền với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, đó là sự tiếp nối những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc điểm thang bậc giá trị VHCT trong NTQĐ
được thể hiện trên những phương diện sau:
3.2.2.1. Triết lý, tư tưởng chính trị
Một trong những vấn đề cốt lõi của triết lý chính trị là hệ tư tưởng chính trị,
ĐCSVN lấy chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động. VHCT trong NTQĐ thể hiện tính định hướng
cao về chính trị tư tưởng gắn với sự tôn trọng và đề cao tính khoa học, đây là vấn đề
quan trọng trong triết lý chính trị của ĐCSVN. Xuất phát từ mục tiêu yêu cầu đào
tạo và cũng là lý tưởng cao đẹp của mọi quân nhân khi vào học trong NTQĐ là
được đào tạo để trở thành những sỹ quan có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và với Nhân
dân. Những yếu tố thuộc về phẩm chất chính trị như mục tiêu, lý tưởng chiến đấu
107
cao đẹp; tinh thần anh dũng sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng và tình cảm cao đẹp làm
nên sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Tính định hướng cao về chính trị tư tưởng trong NTQĐ luôn gắn với sự tôn
trọng và đề cao tính khoa học và điều này làm nên đặc trưng giá trị VHCT trong
NTQĐ. Môi trường sư phạm quân sự đặt ra yêu cầu, mọi hoạt động phải là sự kết
tinh trí tuệ có hàm lượng khoa học cao và nhà trường phải làm mẫu và đi trước đơn
vị. Nghị quyết số 93 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (Nay là QUTW), năm 1994,
xác định: “Xây dưng nhà trường chính quy từng bước hiện đại, phù hợp với yêu cầu
của khoa học giáo dục và sự phát triển của các lực lượng vũ trang. Nhà trường phải
đi trước và làm mẫu cho đơn vị trong xây dựng chính quy” [41]. Mục tiêu đào tạo
của NTQĐ không chỉ dừng lại việc huấn luyện cho quân nhân thực hiện tốt nhiệm
vụ chuyên môn mà quan trọng hơn là phải biết thực hiện tốt vai trò của người chỉ
huy, quản lý và đồng thời là nhà sư phạm với khả năng nhận thức và giải quyết
những vấn đề thực tiễn của môi trường quân sự theo yêu cầu nhiệm vụ trong phạm
vi chức trách và quyền hạn trên cơ sở tri thức khoa học.
Tôn trọng và đề cao khoa học có quan hệ chặt chẽ với tính định hướng cao
chính trị tư tưởng, chỉ có thể xuất phát từ tri thức khoa học, quân nhân mới có nhận
thức chính trị đúng đắn, có niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng, làm cơ sở
để xây đắp và củng cố bản lĩnh chính trị vững vàng. Ngược lại, nếu không có tính
định hướng cao về chính trị, mục tiêu lý tưởng không rõ ràng thì không thể tiếp thu
những tri thức khoa học và đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự băn khoăn, dao
động, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân nhân trong
các tình huống cần thiết.
3.2.2.2. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị
Các chủ thể VHCT chia sẻ những giá trị chính trị trên cơ sở những chuẩn
mực, khuôn mẫu chính trị giúp cho sự định hướng chính trị và điều chỉnh hành vi
chính trị của các thành viên trong cộng đồng hay tổ chức.
Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của QĐND Việt Nam là sự kết tinh những
giá trị văn hóa quân sự, thể hiện định hướng chính trị của ĐCSVN về những vấn đề
có tính nguyên tắc trong xây dựng và tổ chức của đội quân “bách chiến, bách thắng”
từ Nhân dân mà ra vì Nhân dân mà chiến đấu, đồng thời thể hiện quan điểm,
phương châm xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
108
đại. Những chuẩn mực, khuôn mẫu trong quan hệ, ứng xử của quân nhân được thể
hiện bằng các quy định cụ thể trong“Mười lời thề danh dự của quân nhân” [Phụ
lục 9] “Mười hai điều kỷ luật khi quan hệ với Nhân dân của quân nhân” [Phụ lục
10] các quy định trong “Điều lệnh quản lý bộ đội” và “Điều lệnh đội ngũ” ... và
đây được xem là những chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị điển hình.
Là đơn vị quân đội, sự hiện diện chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị trong
NTQĐ còn biểu hiện ở các quan điểm, phương châm, nguyên tắc mang tính đặc thù
sư phạm như: các quy định trong “Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam” [18]; các định hướng bao gồm: “3 quan điểm”, “8 nguyên tắc”, “6 mối
kết hợp trong huấn luyện” được quy định trong văn bản của Bộ Tổng Tham mưu
QĐND Việt Nam. Ngoài ra, những tiêu ngữ, khẩu hiệu hay tên gọi các cuộc vận
động, phong trào… cũng phản ánh đậm nét những khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị
như: “Kiên định và sáng tạo, đoàn kết và kỷ luật, khắc phục khó khăn, hoàn thành
nhiệm vụ” của HVCT; “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết thắng” của
TSQLQ1; các khẩu hiệu: “nhà trường gắn liền với chiến trường”; “Thao trường đổ
mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; “Vượt nắng thắng mưa, say sưa luyện tập”…
Các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị trong NTQĐ không chỉ là những giá trị
văn hóa được chia sẻ mà còn là định hướng chính trị giúp cho các chủ thể VHCT
trong NTQĐ xác định rõ mục tiêu, lý tưởng phấn đấu và động cơ hành động thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
3.2.2.3. Di sản và truyền thống chính trị
Trải qua hơn 75 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Bác Hồ, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của của Nhân dân, QĐND Việt Nam
đã không ngừng phát huy bản chất tốt đẹp, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng
thành. Cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu
tượng sáng ngời về một quân đội từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu và
phục vụ, QĐND Việt Nam đã không ngừng xây đắp nên những nét đẹp truyền
thống tiêu biểu “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng thời cũng là những di sản chính trị vô cùng
quý giá để lớp lớp các thế hệ tiếp tục gìn giữ và phát huy.
Những di sản và truyền thống chính trị tiêu biểu của QĐND Việt Nam nói
chung và NTQĐ nói riêng được khái quát cô đọng trong lời khen của Chủ tịch Hồ
109
Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh
vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Đối với NTQĐ, những di sản và truyền thống chính trị gắn liền với quá trình
đào tạo và trưởng thành của các nhà trường. Xuất phát từ quan điểm, quá trình huấn
luyện là quá trình truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và truyền thống tốt đẹp của quân
đội cho người học, người thầy vừa là người chỉ huy quản lý, vừa là nhà giáo dục và
đồng thời cũng là người đồng chí cùng chung chiến hào, vì vậy tấm gương về những
nhà giáo tận tâm, tận lực cho sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội của Đảng là những
biểu tượng thực sự cao đẹp. Những thành tựu nổi bật trong nghiên cứu và đào tạo gắn
liền với những chiến công điển hình là những di sản và truyền thống chính trị, đồng
thời cũng là đặc trưng VHCT của nhà trường quân đội.
3.2.3. Đặc điểm thể chế và thiết chế văn hóa hính trị trong nhà trường
quân đội
Đặc điểm thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ cũng là nét riêng và là một
trong những biểu hiện đặc thù của chủ thể VHCT với tính cách là VHCT cộng đồng.
VHCT với tính cách là văn hóa cộng đồng được biểu hiện ở vai trò của cộng đồng là
phương thức cơ bản để tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động vì mục đích chung.
Thể chế, thiết chế VHCT có vai trò quan trọng đối với VHCT cá nhân đồng thời
cũng chịu sự ảnh hưởng của VHCT cá nhân, đặc biệt là cá nhân người lãnh đạo chính
trị và phụ thuộc vào tính chất nhân văn, mức độ dân chủ, vào bản chất của chế độ chính
trị. Với ý nghĩa đó, K. Marx đã viết “Sự phát triển tự do của mỗi con người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [83, tr.628].
Xuất phát từ những vấn đề có tính nguyên tắc là hình thức tổ chức cao nhất
trong hệ thống chính trị là đảng chính trị và tổ chức nhà nước cùng các tổ chức
đoàn thể - những chủ thể cơ bản của quyền lực cho nên đặc điểm thể chế, thiết chế
VHCT trong NTQĐ chịu sự chi phối và quyết định bởi các quan điểm, chủ trương,
đường lối của ĐCSVN và các quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Thể
chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được thể hiện thông qua định hướng lãnh đạo
và các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc nhằm hướng tới việc xác định cơ cấu
tổ chức và phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang nói chung và QĐND
Việt Nam nói riêng.
110
Với tính cách là môi trường quân sự, các thiết chế VHCT trong NTQĐ phản
ánh mối quan hệ con người với con người trong tổ chức quân sự cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tính chất quân sự quy định cơ cấu, phương thức tổ chức, các
nguyên tắc hoạt động, các quan hệ của quân nhân trong NTQĐ. Hoạt động giáo
dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ luôn được xem là nhiệm vụ chính
trị trung tâm nhưng các hoạt động mang tính đặc thù của quân sự nhằm thực hiện
các chế độ quy định của quân đội với chức năng, nhiệm vụ đã được quy định cũng
đặt ra yêu cầu cao như các đơn vị quân đội nói chung.
Tổ chức QĐND Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam, với ý nghĩa đó, đặc điểm
thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ là đặc điểm văn hóa cộng đồng của tập thể
quân nhân với các loại hình như: tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy theo phân cấp và các
tổ chức đặc thù khác trong môi trường quân đội.
Trước hết, tổ chức cơ sở đảng theo phân cấp trong NTQĐ bao gồm đảng ủy
học viện (nhà trường), đảng ủy cơ sở trực thuộc và các chi bộ của các khoa, các hệ,
tiểu đoàn quản lý học viên. Về tổ chức chỉ huy, bao gồm Ban Giám đốc/Ban Giám
hiệu, các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo (phòng, ban) chức năng; các khoa giảng
viên/giáo viên (khoa, bộ môn); các đơn vị quản lý học viên (hệ, tiểu đoàn). Với loại
hình tổ chức tương đối đặc thù, tại NTQĐ còn có tổ chức Hội đồng quân nhân,
Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ.
Đặc điểm thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ còn được thể hiện qua tính
chất quân sự đặc thù trong môi trường sư phạm. Tất cả hoạt động lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý điều hành trong NTQĐ, đều hướng tới thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, không ngừng nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ. Hay nói cách khác, tất cả sự lãnh đạo, chỉ huy và điều hành
đều nhằm hướng tới hiện thực hóa sứ mệnh, mục tiêu và định hướng chiến lược
phát triển quân đội nói chung và NTQĐ nói riêng.
Tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy rằng, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ
không đồng nhất với môi trường quân sự của các đơn vị QĐND Việt Nam nói chung.
Sự khác nhau thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức biên chế của nhà
trường so với đơn vị hay nói cách khác chính là ở tính đặc thù sư phạm trong môi
trường quân sự.
111
Về tổ chức, biên chế, mỗi một học viện, trường là một đơn vị có đầy đủ cơ
cấu, tổ chức như một đơn vị quân đội hoàn chỉnh. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là tại đây
không chỉ diễn ra các quan hệ quân sự và hoạt động quân sự với các thiết chế văn hóa
đặc thù quân sự mà còn có các hoạt động đặc thù mang tính sư phạm là hoạt động
dạy học và nghiên cứu khoa học. Hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa học trong
NTQĐ được xác định là nhiệm vụ chính trị trung tâm của NTQĐ. Tất cả các yếu tố
cấu thành VHCT trong NTQĐ đều mang đậm dấu ấn đặc trưng của môi trường sư
phạm quân sự, đó là tính sư phạm, tính giáo dục và đều nhằm hướng tới mục tiêu
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ cho quân đội.
3.2.4. Đặc điểm hoạt động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Sự vận hành của thiết chế chính trị trong NTQĐ luôn gắn liền với hoạt động
quân sự đặc thù. Hoạt động quân sự là một dạng lao động xã hội đặc biệt - lao động
vũ trang gắn với con người, tổ chức và phương tiên quân sự do một giai cấp, nhà
nước, chính đảng tiến hành nhằm đạt được được mục tiêu chính trị nhất định.
QĐND Việt Nam do ĐCSVN sáng lập, lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, vì
vậy, về nguyên tắc, mọi hoạt động của quân đội không nằm ngoài quỹ đạo hệ tư
tưởng của Đảng và giai cấp công nhân, lý tưởng chiến đấu của quân đội chính là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng; nguyên tắc lãnh đạo, phương thức tổ chức hoạt động của
quân đội đều trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
Xuất phát từ hệ thống các quan hệ trong môi trường quân sự, các hoạt động
chính trị trong quân đội nói chung và NTQĐ nói riêng phải tuân thủ và bảo đảm
những vấn đề có tính nguyên tắc như: bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và tổ
chức; cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng cấp trên; cá nhân phục tùng tổ chức; thiểu
số phục tùng đa số…
Tuy nhiên, đối với NTQĐ, do đặc thù của môi trường sư phạm quân sự, ngoài
sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động như trên là quy định bắt buộc thì các hoạt động
sư phạm quân sự có tính mềm dẻo và linh hoạt hơn như sự dân chủ tôn trọng và đề
cao khoa học được biểu hiện đậm nét hơn; tính mô phạm cũng điển hình hơn. Trong
NTQĐ không chỉ có quan hệ quân sự như: cấp trên - cấp dưới, chỉ huy - phục tùng,
đồng chí, đồng đội mà còn có các quan hệ mang đậm tính sư phạm trong môi trường
giáo dục: quan hệ giảng viên - học viên, quan hệ thầy - trò.
112
Xét về mặt hình thức, hoạt động chính trị QĐND Việt Nam nói chung và
hoạt động chính trị trong NTQĐ nói riêng, trước hết là hoạt động lãnh đạo của
Đảng ủy mỗi trường nhằm hướng tới lý tưởng đã được lựa chọn và mục tiêu yêu
cầu đào tạo tương ứng với các hình thức như hoạt động thường xuyên: giảng dạy,
học tập, huấn luyện, sinh hoạt, nghiên cứu khoa học, giao lưu, giao tiếp, trao đổi
thông tin… và các hoạt động tập trung theo kế hoạch được phê duyệt như: tham
quan, diễn tập, hội thao, hội thi… trong đó hoạt động lãnh đạo dạy học và nghiên
cứu khoa học là hình thức hoạt động chính trị điển hình trong NTQĐ.
Văn hóa chính trị trong NTQĐ được vận hành trong điều kiện tập trung thực
hiện nhiệm vụ đặc thù quân sự. Trước hết, đó là thông qua các hoạt động của quân
nhân với các chế độ trong ngày, trong tuần theo quy định. Tính chất quan hệ trong
môi trường quân sự cũng mang tính đặc thù, ngoài quan hệ thầy - trò như các nhà
trường dân sự, NTQĐ còn có sự đan xen của các mối quan hệ: chỉ huy - phục tùng,
cấp trên - cấp dưới, cán bộ - chiến sĩ, đây là quan hệ thể hiện tính chính quy, trang
nghiêm, mực thước và thống nhất của quân đội trên cơ sở cơ chế mệnh lệnh - chấp
hành, chỉ huy - phục tùng được quy định trong “Điều lệnh quản lý bộ đội” [17].
Ngoài ra, một trong những nét riêng của NTQĐ so với các nhà trường ngoài dân sự
là có sự tồn tại của “người thầy thứ hai” - những cán bộ quản lý đơn vị với vai trò
vừa là người chỉ huy và vừa là người trợ giáo.
Tiểu kết chương 3
Thông qua khảo sát và đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay cho
thấy, chủ thể VHCT về cơ bản có nhận thức chính trị tốt; các thang bậc giá trị
VHCT đã được định hình và phát huy vai trò trong thực tiễn; thể chế, thiết chế
VHCT và hoạt động VHCT đã được vận hành và phát huy hiệu quả trong công tác
đào tạo cán bộ.Trong đó, thang bậc giá trị VHCT mang tính đặc thù quân sự được
hình thành rất sớm, trở thành truyền thống với sức sống và sức thuyết phục lớn. Đặc
biệt, triết lý chính trị, khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị điển hình đã trở thành những
yếu tố nổi bật không thể thiếu trong bất kỳ hệ giá trị nào trong VHCT của NTQĐ
hiện nay. Những giá trị chính trị đó cần được phát triển và phát huy, nhân rộng và
biến nó trở thành hình mẫu tiêu biểu, thành những triết lý sâu sắc, có tác dụng lan
tỏa và trở thành động lực chính trị cho sự phát triển của NTQĐ trong tương lai.
113
Bằng mô hình hồi quy và các biến số độc lập, phụ thuộc được xử lý trên
phần mềm SPSS, kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ ra sự khác biệt về các nhân
tố thuộc về cá nhân và nhân tố thuộc về đặc điểm gia đình học viên có ảnh hưởng
sâu sắc tới nhận thức của học viên về VHCT trong NTQĐ hiện nay. Đây là cơ sở
quan trọng để nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ, qua đó
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ
được giao.
Tuy nhiên, qua những thông tin thu thập được và bằng số liệu khảo sát cũng
cho thấy thực trạng VHCT trong NTQĐ còn tồn tại những hạn chế, bất cập từ phía
chủ thể VHCT; thang bậc giá trị VHCT; thể chế và thiết chế VHCT; hoạt động
VHCT trong NTQĐ và từ đó đặt ra một số vấn đề như: nâng cao nhận thức cho các
chủ thể; giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc chủ động tiếp nhận
tri thức mới của nhân loại; nâng cao hiệu quả thiết chế VHCT gắn với thực hiện
nhiệm vụ chính trị trung tâm; gắn hoạt động VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết
và cuộc vận động của đất nước, quân đội.
Mặt khác, thực trạng VHCT trong NTQĐ cũng cho thấy những đặc điểm nổi
bật về chủ thể VHCT, thang bậc giá trị VHCT, thể chế và thiết chế VHCT và hoạt
động VHCT với những dấu ấn đặc trưng rõ nét của môi trường sư phạm quân sự.
Đó là môi trường sư phạm được đặt trong hệ thống tổ chức của QĐND Việt Nam
với các biểu hiện như: tính định hướng cao về chính trị tư tưởng, chặt chẽ về tổ
chức; tính khẩn trương, kỷ luật, tự giác nghiêm minh; tính kiên trì, mềm dẻo, linh
hoạt trong giáo dục; tính khoa học và dân chủ về trí tuệ và tính mô phạm của môi
trường giáo dục. VHCT trong NTQĐ chịu sự tác động của các yếu tố mang tính chủ
thể với các quan hệ: con người - với tư cách là chủ thể môi trường văn hóa; quân
nhân - với tư cách là chủ thể môi trường quân sự; giảng viên, học viên - với tư cách
là chủ thể môi trường sư phạm.
114
Chương 4
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN
HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
Hiểu theo nghĩa chung nhất, tác động là “làm cho một đối tượng nào đó có
những biến đổi nhất định” [155, tr.882]. Những yếu tố tác động đến VHCT trong
NTQĐ là tác nhân làm cho VHCT chịu ảnh hưởng và tùy theo từng mức độ có
những biến đổi theo hướng tích cực hay tiêu cực ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị
trung tâm của nhà trường quân đội. Trong thực tế, sự tác động của các yếu tố đến
VHCT là không độc lập và riêng lẻ mà bao giờ cũng mang tính tổng thể. Vì vậy, tất
cả sự phân chia những yếu tố tác động đến VHCT trong NTQĐ đều chỉ mang tính
chất tương đối. Trong khuôn khổ luận án, nghiên cứu sinh lựa chọn cách phân chia
theo hướng những yếu tố tác động thuận chiều và những yếu tố tác động trái chiều
đến VHCT trong nhà trường quân đội.
4.1.1. Những yếu tố tác động thuận chiều
Trước hết phải khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhận thức mới về
văn hóa và con người Việt Nam ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn, tiếp cận
được với những giá trị chung của nhân loại; trong nước tình hình chính trị ổn
định, kinh tế phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống văn hóa
tinh thần và vật chất của Nhân dân ngày càng được nâng lên. Đây có thể được
xem là yếu tố tác động thuận chiều nổi bật và quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết
định đối với yêu cầu nâng cao VHCT nói chung và VHCT trong NTQĐ nói
riêng. Ngoài ra, còn có những yếu tố tác động thuận chiều như: toàn cầu hóa,
kinh tế thị trường và sự phát triển khoa học công nghệ và truyền thông; yếu tố
văn hóa, chính trị trong nước; sự phát triển của NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng quân đội trong tình mới [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.1. Tác động của toàn cầu hóa
Tác động thuận chiều của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa được thể hiện
ở sự giao lưu hội nhập quốc tế, giúp cho nhận thức về những vấn đề lý luận văn hóa
có cái nhìn đa chiều, rộng mở và có bước phát triển hơn. Những vấn đề cơ bản như
115
quan niệm về văn hóa, chức năng của văn hóa đã tiếp cận với văn minh thời đại và
được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn với những giá trị chung của nhân loại.
Đối với NTQĐ, nhờ có toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế,
trong đó có giao lưu đối ngoại quốc phòng đã mang lại những lợi ích thiết thực trong
quá trình hiện đại hóa quân đội. Những thành tựu của văn minh nhân loại, đặc biệt là
những thành tựu công nghệ hiện đại, sự chuyên nghiệp hóa và khả năng khuyến khích
sự sáng tạo không chỉ tác động sâu sắc đến nhận thức của các chủ thể VHCT, mà còn
tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi tiếp thu, tiếp nhận những giá trị tinh hoa của
nhân loại, qua đó góp phần nâng cao chât lượng dạy học và nghiên cứu khoa học vốn
được xem là nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.2. Tác động của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường cũng là một trong những yếu tố tác động mang tính tổng thể
trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội, trong đó tác động tới VHCT là hết
sức rõ nét. Ở nước ta, định hướng phát triển kinh tế thị trường đã được xác định và
làm rõ từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XI.
Đối với NTQĐ, tác động thuận chiều của yếu tố kinh tế thị trường biểu hiện
trong việc xóa bỏ lối tư duy bảo thủ bao cấp, phát triển tư duy sáng tạo và lối sống và
tác phong công nghiệp của các chủ thể; kinh tế thị trường giúp cho các chủ thể VHCT
trong NTQĐ trở nên tự chủ, năng động và nhạy bén hơn góp phần khuyến khích sự tìm
tòi, sáng tạo. Kinh tế thị trường cũng tác động tích cực đến việc đổi mới cơ chế vận
hành thiết chế VHCT cũng như hoạt động VHCT trở nên chuyên nghiệp và hiệu quả
hơn [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.3. Tác động của sự phát triển khoa học công nghệ và truyền thông
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và truyền thông, đặc biệt là
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (Industry 4.0) đã tác động toàn diện đến
cuộc sống của con người, trong đó tác động đến VHCT là rất sâu sắc, vì vây, nếu chủ
động, chúng ta sẽ sớm tiếp cận với những thành tựu của nó, “đi tắt đón đầu”, nắm bắt
cơ hội để phát triển kinh tế và văn hóa, khoa học công nghệ; nếu dừng lại là tụt lùi.
Đối với NTQĐ, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và truyền
thông đã có tác động sâu sắc đến môi trường sư phạm quân sự, làm thay đổi nhận
thức và làm biến đổi lối sống của chủ thể; nhờ có thành tựu khoa học công nghệ và
truyền thông giúp cho sự kết nối của các cá nhân trong tập thể trở nên thuận lợi hơn,
116
bền chặt hơn và minh bạch hơn, khắc phục được sự chủ quan cảm tính trong chỉ
huy, quản lý và thực thi nhiệm vụ, tạo tiền đề cho sự phát huy dân chủ và sáng tạo.
Sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông cũng tác động thuận chiều
đến tất cả các hoạt động trong NTQĐ, trước hết là trong hoạt động dạy học, nó đặt
ra yêu cầu đổi mới toàn diện cả nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Sự
kết nối Internet dải rộng là một lợi thế mạnh mẽ trong việc đổi mới và nâng cao chất
lượng đào tạo trong nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.4. Yếu tố văn hóa
Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, cả trong sản xuất vật
chất và sản xuất tinh thần; cả trong lao động sáng tạo và trong đấu tranh chống lại
thiên tai, địch họa vì sự sống còn của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm:
“Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” [85, tr. 431].
Những tác động tích cực của giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống
đối với VHCT trong NTQĐ biểu hiện ở sự phát huy cao độ các phẩm chất đã được
kết tinh thành giá trị văn hóa trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc
trong suốt chiều dài lịch sử, đó là: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự cường của
dân tộc; tính cần cù sáng tạo chịu thương, chịu khó, “vì lợi ích của bản thân, gia đình,
tập thể và xã hội” [10, tr. 170]; lòng khoan dung, tinh thần hòa hiếu, làm bạn với tất
cả các nước, lấy tinh thần đối thoại thay cho đối đầu; đức tính giản dị và tinh thần
tương thân tương ái sẵn sàng chia sẻ. Những giá trị và phẩm chất nêu trên đã được
chủ thể VHCT trong NTQĐ tiếp nhận và phát huy tốt hơn nữa trong điều kiện mới,
qua đó tạo tiền đề thuận lợi cho công tác đào tạo cán bộ quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.5. Yếu tố chính trị
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã có tác động sâu sắc làm biến đổi văn hóa và
con người Việt Nam trong thời gian qua, sự biến đổi đó có nhiều nhân tố tác động
nhưng một trong những nhân tố quan trọng và luôn đóng vai trò chủ đạo đó là nhân
tố chính trị. Khởi đầu của công cuộc đổi mới là đổi mới tư duy, trong đổi mới tư
duy thì đổi mới tư duy chính trị được xem là nhiệm vụ hàng đầu; trong đổi mới tư
duy chính trị yêu cầu trước tiên được đặt ra là quá trình đổi mới phải được tiến hành
117
thận trọng, từng bước, chắc chắn và luôn đặt yêu cầu giữ vững sự ổn định chính trị
là yếu tố quyết định hàng đầu.
Tác động thuận chiều của yếu tố chính trị trong nước đến VHCT trong
NTQĐ được biểu hiện: sự ổn định về chính trị giúp cho chủ thể VHCT sự bồi
dưỡng về lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước, tin
vào chế độ, từ đó hình thành động cơ, thái độ chính trị đúng đắn, có tình cảm chính
trị cao đẹp, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Sự ổn
định về chính trị là tiền đề vững chắc cho sự giác ngộ cách mạng của quân nhân làm
cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới. Đối với giá trị VHCT, sự ổn định về chính trị giúp khẳng định và củng cố tính
đúng đắn trong triết lý chính trị của Đảng, sự chuẩn tắc của các chuẩn mực chính
trị, đồng thời cũng là tiền đề giúp cho sự phát huy các di sản và truyền thống chính
trị. Khi nhân tố chính trị ổn định, sự vận hành của thể chế, thiết chế VHCT cũng
theo đó ổn định và hiệu quả hơn [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.1.6. Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng quân đội trong tình mới
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, thực hiện chiến lược xây dựng
quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sự phát triển của
NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình mới là động lực cơ
bản và là một trong những yếu tố tác động thuận chiều đến VHCT trong nhà
trường quân đội.
Mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là, hệ thống NTQĐ sẽ được tổ chức theo
hướng gọn, mạnh, hợp lý phù hợp với phương hướng xây dựng QĐND Việt Nam.
Tuy nhiên, về cơ bản giữ ổn định về cơ cấu tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ,
ngành nghề, lưu lượng, bậc học, trình độ đào tạo; thực hiện đổi mới, hoàn thiện quy
trình, chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, giảm lý
thuyết, tăng thực hành và tình huống thực tiễn, tăng nội dung chuyên ngành phù
hợp với đặc thù của quân đội, địa bàn chiến đấu, tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị
và vận dụng sáng tạo cách đánh truyền thống, bổ sung điều chỉnh cách đánh mới
với đối tượng tác chiến sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, quan
trọng trực tiếp, quyết định đến việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên
118
cứu khoa học trong các học viện, nhà trường. Vì vậy, mục tiêu đặt ra trong những
năm tới là: Đến năm 2020 là có 100% giảng viên các học viện, trường sĩ quan,
trường đại học có trình độ đại học, trong đó có hơn 60% trình độ sau đại học (25%
trở lên là tiến sĩ), thực hiện 100% giảng viên giảng dạy đại học có trình độ sau đại
học; 90% giáo viên các trường cao đẳng, trung cấp, trường quân sự quân khu, quân
đoàn có trình độ đại học, trong đó có 25% sau đại học [16].
Định hướng chung xây dựng và phát triển hệ thống NTQĐ có tác động toàn
diện và mạnh mẽ đến VHCT trong NTQĐ, theo đó, những vấn đề như: yêu cầu sắp
xếp trong tổ chức, biên chế của cả hệ thống NTQĐ; mục tiêu, yêu cầu đào tạo của
từng trường, mỗi cấp đào tạo sẽ có những đổi mới. Yêu cầu quy hoạch, sắp xếp lại
hệ thống NTQĐ đặt ra yêu cầu cao đối với chủ thể VHCT, đòi hỏi các cá nhân phải
có sự cố gắng nỗ lực vượt bậc và theo đó nhận thức, động cơ, thái độ trước yêu cầu
nhiệm vụ cũng được nâng lên; các giá trị chính trị cũng theo đó được phát huy trong
thực tiễn. Yêu cầu đổi mới sắp xếp và quy hoạch hệ thống NTQĐ cũng tạo tiền đề
thuận lợi cho thiết chế chính trị và hoạt động VHCT được hiệu quả hơn.
Định hướng phát triển NTQĐ luôn gắn với sự phát triển môi trường VHCT
tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng mà
trước hết là phát huy năng lực sáng tạo của các chủ thể, vì vậy, việc xây dựng môi
trường VHCT lành mạnh là một nội dung quan trọng để phát triển năng lực sáng tạo
của các chủ thể trong nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.2. Những yếu tố tác động trái chiều
Những tác động trái chiều đến VHCT trong NTQĐ hiện nay bao gồm những
yếu tố chủ yếu sau: sự chống phá của các thế lực thù địch; toàn cầu hóa, kinh tế thị
trường; sự phát triển của khoa học công nghệ, truyền thông; tác động trái chiều của
yếu tố văn hóa, chính trị trong nước và tác động trái chiều từ những hạn chế, yếu
kém của công tác tác tư tưởng, văn hóa trong quân đội cũng như công tác xây dựng
nhà trường quân đội hiện nay.
4.1.2.1. Tác động từ sự chống phá của các thế lực thù địch
Trong giai đoạn hiện nay và dự báo trong thời gian tới, sự chống phá của các
thế lực thù địch vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, các thế lực vẫn chưa bao giờ từ bỏ
âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch
xuất phát từ nhiều hướng, nhiều mũi, cả bên ngoài và bên trong, vừa mang yếu tố
119
toàn cầu vừa mang tính cụ thể, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt
là trên mặt trận chính trị tư tưởng và văn hóa.
Đối với quân đội, cần phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn hết sức xảo
quyệt, tinh vi của các thế lực thù địch trên một số vấn đề chủ yếu sau: các thế lực
thù địch tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, nhằm làm biến
chất chính trị quân đội; ra sức xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo ở Việt Nam, nhằm làm cho quân đội mất phương hướng chính trị và suy giảm
bản lĩnh chiến đấu; đẩy mạnh xuyên tạc quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng về
nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sai lệch về đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Tác động trái chiều của “diễn biến hòa bình” đối với VHCT trong NTQĐ
biểu hiện: phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giảm sút niềm tin của các chủ
thể đối với chế độ, nhằm phá bỏ niềm tin chính trị và uy tín của cấp ủy, chỉ uy các
cấp; trong phá hoại về tư tưởng và văn hóa, tập trung phá hoại truyền thống văn hóa
dân tộc, truyền thống quyết chiến quyết thắng của quân đội, các chuẩn mực đạo
đức, lối sống, cổ xúy cho tệ sùng ngoại, xem nhẹ những giá trị văn hóa của dân tộc,
những giá trị chuẩn mực của người quân nhân cách mạng, cổ vũ cho lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan. Sự nguy
hiểm của “diễn biến hòa bình” đối với VHCT trong NTQĐ còn được thể hiện ở chỗ:
lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng để công phá niềm tin của quần
chúng vào Đảng, tạo ra những khoảng trống về lý luận và tư tưởng, mất định hướng
chính trị và hướng tới gây áp lực chính trị đòi thay đổi chế độ [Phụ lục 5, Bảng 9].
Các thế lực hiếu chiến và thù địch đề ra và thực thi chiến lược “diễn biến hòa
bình”, thông qua các con đường tuyên truyền tự do, dân chủ, nhân quyền, khuyếch
trương tính ưu việt của kinh tế, khoa học kỹ thuật công nghệ và các giá trị tư bản
khác... coi chủ nghĩa tư bản là “tấm gương”, rồi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
dẫn đến hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn và xa rời chính trị” (Lời Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 11 nhiệm kỳ 2017-
2022, ngày 11/12/2017, tại Hà Nội), rơi vào âm mưu thâm độc của chúng.
Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ để
thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, chống phá quân đội về
chính trị với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Đặc biệt thời
120
gian gần đây, sau những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, một số trí thức đã có
những phát ngôn không mang tính xây dựng, đáng chú ý trong đó có cả tướng lĩnh,
anh hùng lực lượng vũ trang, gây hoang mang trong dư luận và quân đội nói riêng.
Vì vậy, nhiệm vụ nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, xây dựng, bồi dưỡng và
phát triển, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, quân đội, trong đó đặc biệt coi trọng
và đề cao các giá trị VHCT cho mọi quân nhân là một trong những yêu cầu cấp thiết
của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong QĐND Việt Nam nói chung,
trong đó có nhà trường quân đội.
4.1.2.2. Mặt trái của toàn cầu hóa
Những lợi thế do toàn cầu hóa mang lại là rất rõ ràng, tuy nhiên, không có
toàn cầu hóa kinh tế một cách thuần nhất, mà là sự mở rộng tới mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, như chính trị, văn hóa đồng thời đặt ra những thách thức với biểu hiện
đồng hóa văn hóa (hoặc các mặt kinh tế, xã hội), dưới sức ép của quyền lực nước
lớn muốn áp đặt văn hóa và hệ thống tư tưởng của mình lên các quốc gia khác trên
phạm vi toàn cầu. Từ đó cho thấy nguy cơ đang đặt ra những mối đe dọa và thách
thức lớn đối với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ảnh
hưởng tiêu cực đến VHCT trong nhà trường quân đội.
Trước hết, xem nhẹ tính kế thừa các giá trị văn hóa dân tộc, thúc đẩy sự
truyền bá các giá trị phương Tây, khai thác và cổ vũ cho tâm lý hưởng lạc vật chất
tầm thường, đánh vào thị hiếu thấp hèn của một bộ phận dân chúng và cán bộ, công
chức trong hệ thống chính trị làm thay đổi quan niệm về giá trị văn hóa truyền
thống đặc biệt là giới trẻ. Chủ thể VHCT trong NTQĐ cũng chịu những tác động
tiêu cực đến từ yếu tố toàn cầu, biểu hiện tâm lý ngại học, ngại rèn, không chịu khó
tìm hiểu lịch sử truyền thống đơn vị, truyền thống quân đội và đất nước, tiếp nhận
tràn lan những giá trị ngoại lai không phù hợp với môi trường sư phạm quân sự;
chạy theo thành tích, biểu hiện tiêu cực trong học tập và công tác.
Nhận định, đánh giá về những hạn chế, yếu kém trọng việc giao lưu, hội
nhập quốc tế về văn hóa, văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã viết: “Tình
trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước
ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là
lớp trẻ” [38, tr.45-46].
121
Chiến lược “diễn biến hòa bình” đã được các thế lực thù địch tận dụng toàn
cầu hóa và chính sách đối ngoại mở cửa của Việt Nam để thực hiện âm mưu phá
hoại chính trị tư tưởng và văn hóa, nhằm tạo ra tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” về chính trị, tư tưởng và văn hóa. Đây là nguy cơ tiềm ẩn những nguy hiểm
lớn, cần có sự cảnh giác cao độ hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ được Đảng ta đề ra là
cần có sự chủ động trong hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại: “Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ
gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa” [38, tr.57-58].
Trong dự báo những nhân tố tác động đến sự phát triển văn hóa Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020, các nhà nghiên cứu đã nhận định sáu xu hướng chính ngày
càng gia tăng của văn hóa thế giới giai đoạn 2011 - 2020, bao gồm: xu hướng đan
xen giữa mở rộng giao lưu và khẳng định bản sắc riêng biệt ngày càng gia tăng; xu
hướng chuyển từ văn hóa đẳng cấp sang văn hóa đại chúng và phi đại chúng hóa
ngày càng gia tăng; xu hướng đề cao văn hóa trong đối ngoại ngày càng gia tăng;
xu hướng gắn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế ngày càng gia tăng; xu
thế đề cao giá trị văn hóa tinh thần trên thế giới và xu thế gắn kết chặt chẽ giữa
các thành tựu khoa học - công nghệ với sự phát triển các loại hình văn hóa ngày
càng gia tăng [46, tr.341-346].
4.1.2.3. Mặt trái của kinh tế thị trường
Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường làm xuất hiện tư tưởng “duy kinh tế” thể
hiện việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá dẫn tới xu hướng thương mại hóa văn
hóa, coi trọng mục tiêu kinh tế xem nhẹ thậm chí bỏ qua những mục tiêu văn hóa.
Nghiêm trọng hơn, nhân tố kinh tế thị trường đã và đang làm cho xu hướng đầu cơ,
trục lợi văn hóa ngày càng gia tăng, những giá trị đích thực của văn hóa nhiều khi
không được coi trọng.
Đối với VHCT trong NTQĐ, mặt trái của kinh tế thị trường đã ảnh hưởng
trực tiếp đến phẩm chất đạo đức và lối sống của các chủ thể, làm xuất hiện lối
sống vị kỷ, chạy theo lợi ích vật chất bằng mọi giá, lợi ích nhóm, tham nhũng,
tiêu cực, các giá trị, chuẩn mực bị xem nhẹ, suy thoái về chính trị và suy thoái về
đạo đức, lối sống. Đặc biệt trong thời gian qua, do sự tác động trái chiều của
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kinh tế thị trường là quan trọng đã làm cho một số
122
tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của quân đội bị kỷ luật khai trừ đảng và cách chức đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin chính trị của chủ thể VHCT trong nhà
trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.2.4. Tác động của sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông
Xét về bản chất, sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông là
những thành tựu tiến bộ của văn minh nhân loại và đã đem lại những lợi thế nhất
định cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã triệt
để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ
và truyền thông để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta, tạo ra
sự tác động trái chiều trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa, trong đó có
VHCT trong nhà trường quân đội.
Đối với NTQĐ, biểu hiện rõ nét nhất là thông qua những thành tựu mới trong
lĩnh vực công nghiệp chế tạo vũ khí đã làm xuất hiện tư tưởng “vũ khí luận”, tấn
công trực diện vào luận điểm lý luận cách mạng của chủ ngĩa Marx - Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh quyết định của yếu tố chính trị tinh thần, dẫn đến
coi thường yếu tố con người trong mối quan hệ giữa con người và vũ khí, làm cho
chủ thể VHCT dao động, mất niềm tin vào sức mạnh của ý chí, nghi ngờ tư tưởng
“người trước, súng sau”. Mặt khác, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt
là công nghệ số và Internet dải rộng đã kéo theo phương thức mới chống phá của
các thế lực thù địch, sử dụng triệt để không gian mạng chống phá Đảng, Nhà nước
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn hóa diễn ra hết sức quyết liệt. Quan niệm về
tính chất, mức độ và hình thức của cuộc chiến tranh ngày nay đã có sự thay đổi căn
bản, chiến tranh không chỉ diễn ra ở không gian thực là trên không, trên biển và trên
bộ như quan niệm truyền thống mà còn là cuộc chiến trên không gian mạng và là
cuộc chiến diễn ra hàng ngày, hàng giờ; tính chất của cuộc chiến không còn căn cứ
vào tiếng súng…. Tất cả những thay đổi trên đều có tác động trái chiều đên VHCT
trong nhà trường quân đội [Phụ lục5, Bảng 9].
Dự báo trong những năm tới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ vận
động theo ba xu hướng chính và ngày càng gia tăng, bao gồm: xu thế phát triển khoa
học công nghệ gắn với sự phát triển văn hóa; xu thế vận động và phát triển khoa học
123
và công nghệ hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống con người và bảo vệ môi
trường; xu hướng đề cao khoa học xã hội và nhân văn gia tăng [46, tr.333-340].
4.1.2.5.Tác động trái chiều của yếu tố văn hóa và chính trị trong nước
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, những giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc cũng đặt ra những thách thức, bộc lộ những hạn chế, tiêu cực và có nguy cơ biến
đổi theo hướng tha hóa, những giá trị văn hóa tốt đẹp bị biến dạng, đạo lý “tôn sư
trọng đạo” đã có biểu hiện thành tệ tiêu cực trong giáo dục; tệ mê tín dị đoan trở nên
phổ biến, đáng chú ý là không chỉ trong một bộ phận dân chúng mà đã xuất hiện
nhiều quan chức tin vào bói toán và đánh mất niềm tin vào thực tiễn. Xét dưới góc độ
VHCT, những hạn chế, tiêu cực được chỉ ra có tác động sâu sắc đến lý tưởng, niềm
tin và thái độ chính trị của đông đảo quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
chế độ, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động chính trị trong thực tiễn.
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém được chỉ ra bao gồm sự ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây, do toàn cầu hóa đem lại; sự tác động của mặt trái cơ chế
thị trường và một trong những nguyên nhân không thể không nhắc đến là trình độ
dân trí chưa theo kịp và chưa được nâng cao một cách có hệ thống như Nghị quyết
Hội nghị Trung ương Năm khóa VIII nhận định: “Công tác nghiên cứu lý luận chưa
làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc
xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong
việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn
hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế” [10, tr.204].
Đối với VHCT trong NTQĐ, mặt trái của những yếu tố văn hóa truyền thống
được biểu hiện ở những hạn chế, tiêu cực trong xây dựng môi trường văn hóa sư
phạm quân sự, tệ cục bộ địa phương, gây mất đoàn kết, tham nhũng, lợi ích nhóm
ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu, nhiệm vụ phát huy dân chủ ở cơ sở; từ nét đẹp tôn
sư trọng đạo đã có sự biến tướng thành tiêu cực trong giáo dục, chạy theo thành tích
ảnh hưởng nghiêm trọng đến định hướng xây dựng và phát triển VHCT trong nhà
trường quân đội.
Trong bước ngoặt chuyển đổi, cơ chế quản lý xã hội có nội dung chưa thực
sự hoàn thiện; hệ thống thể chế và thiết chế chính trị, xây dựng nền dân chủ và phát
huy sức sáng tạo trong Nhân dân còn có những hạn chế nhất định tác động trái
chiều đến VHCT nói chung.
124
Các yếu tố văn hóa và chính trị trong nước có tác động mạnh mẽ đến VHCT
trong NTQĐ, trước hết là tác động tới nhân cách chính trị cá nhân của các chủ
thể, ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đạo đức, lối sống của quân nhân, lý
tưởng và niềm tin chính trị; những cải cách, đổi mới trong hệ thống chính trị dẫn
đến sự điều chỉnh về tổ chức biên chế trong quân đội nói chung và NTQĐ nói
riêng gây ra những băn khoăn, dao động cho các chủ thể. Các giá trị VHCT trong
NTQĐ cũng chịu sự tác động của yếu tố văn hóa và chính trị trong nước và từ đó
đặt ra yêu cầu phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, không ngừng củng
cố và bồi đắp thêm những giá trị truyền thống tiêu biểu “quyết chiến, quyết
thắng” của quân đội, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội
của Đảng [Phụ lục 5, Bảng 9].
4.1.2.6. Tác động trái chiều từ những hạn chế của công tác tác tư tưởng,
văn hóa trong quân đội
Trong xây dựng quân đội cách mạng, công tác tư tưởng, văn hóa giữ vai trò
quan trọng, là một bộ phận trong hoạt động lãnh đạo của Đảng góp phần xây dựng
tổ chức đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo
động lực quan trọng giúp hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao.
Đối với NTQĐ, thời gian vừa qua, công tác tư tưởng, văn hóa đã giúp
tăng cường, củng cố sự lãnh đạo của Đảng tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
nhiệm vụ đào tạo cán bộ quân đội, bảo đảm sự ổn định về chính trị, tư tưởng và
văn hóa trong nhà trường quân đội. Tuy nhiên, công tác tư tưởng, văn hóa trong
NTQĐ cũng bộc lộ những hạn chế bất cập. Trước hết, nhận thức của chủ thể về
công tác tư tưởng, văn hóa chưa thật đầy đủ; nội dung, hình thức và biện pháp
tiến hành công tác tư tưởng, văn hóa ở một số trường còn giáo điều, thiếu linh
hoạt, hiệu quả thấp; đầu tư trang bị cơ sở vật chất còn chậm đổi mới, thiếu đồng
bộ; chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng, các tổ chức trong tiến
hành công tác tư tưởng, văn hóa. Những hạn chế, bất cập trên đã tác động tiêu
cực đến VHCT trong NTQĐ, biểu hiện: đối với chủ thể VHCT, đặc biệt là chủ
thể giữ cương vị lãnh đạo, chỉ huy năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu trong
công tác tư tưởng, văn hóa còn hạn chế, biểu hiện: “Thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có biểu hiện lối
125
sống thực dụng, chưa hết mình vì tập thể, còn tư tưởng chủ nghĩa cá nhân; sa vào
tệ nạn xã hội” [121, tr.64]; các giá trị VHCT chưa được phát huy trong thực hiện
nhiệm vụ; sự vận hành của các thiết chế VHCT chưa đem lại hiệu quả thiết thực;
hoạt động VHCT chưa có sự gắn kết, hiệu quả chưa cao, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong nhà trường quân đội [Phụ lục
5, Bảng 9].
4.1.2.7. Tác động trái chiều từ công tác xây dựng nhà trường quân đội
hiện nay
Công tác xây dựng NTQĐ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược xây
dựng QĐND Việt Nam, trong những năm qua, được sự quan tâm của QUTW và
BQP, bằng sự nỗ lực cố gắng của của hệ thống nhà trường trong toàn quân, công tác
xây dựng NTQĐ đã đạt được những thành tích quan trọng, góp phần thực hiện
thắng lợi hiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ
ngày càng cao, công tác xây dựng NTQĐ còn một số hạn chế, khuyết điểm: “Quy
trình, chương trình đào tạo cán bộ còn trùng lặp, chất lượng giáo dục, đào tạo, xây
dựng chính quy của một số trường chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới, còn để xảy ra vụ việc vi phạm kỷ luật, pháp luật, mất an toàn giao thông, mất
an toàn trong huấn luyện” [20, tr.10]. Tại TSQLQ1, qua kiểm tra toàn diện của Bộ
Tổng tham mưu năm 2019, đã chỉ ra những hạn chế trên các mặt công tác, đáng chú
ý là những hạn chế trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đó là: “Nắm, quản lý
tư tưởng có thời điểm chưa thật hiệu quả; cán bộ, học viên còn vi phạm kỷ luật phải
xử lý; 10 học viên vi phạm kỷ luật bị thải loại; kiểm tra nhận thức chính trị một số
học viên nắm kiến thức về chính trị, xã hội chưa toàn diện” [22, tr.7]
Những hạn chế, khuyết điểm trên có tác động tiêu cực đến VHCT trong
NTQĐ, biểu hiện: đối với chủ thể VHCT, nhận thức về chính trị xã hội chưa toàn
diện, năng lực thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có biểu hiện suy thoái về
chính trị, đạo đức, lối sống, thực dụng, lợi ích nhóm, cá nhân chủ nghĩa, sa vào tệ
nạn xã hội… ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu xây dựng và phát triển VHCT, các
giá trị VHCT trị như lý tưởng và niềm tin chính trị, tình cảm chính trị sẽ bị tác động
tiêu cực; sự vận hành các thiết chế VHCT, hoạt động VHCT sẽ không mang lại hiệu
quả như mong muốn qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ
trong nhà trường quân đội.
126
4.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
Thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ là tổng thể các cách thức, biện pháp
giúp cho nhân cách chủ thể VHCT ngày càng hoàn thiện hơn, các giá trị VHCT
ngày càng được phát huy và tỏa sáng; hệ thống thể chế, thiết chế chính trị được quy
hoạch, cơ cấu và vận hành đảm bảo tính khoa học, dân chủ và nhân văn hơn; hệ
thống hoạt động chính trị bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ quân đội và
mang lại hiệu quả thiết thực hơn nữa trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất chất
lượng đào tạo cán bộ quân đội.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực
hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT đã
trở thành yêu cầu cấp thiết, quan trọng và có nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đối với
NTQĐ, yêu cầu nhiệm vụ nâng cao VHCT đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề đặt
ra cần phải giải quyết.
4.2.1. Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa
chính trị trong nhà trường quân đội
Văn hóa bao giờ cũng mang tính chủ thể, chủ thể VHCT trong NTQĐ bao
gồm cá nhân của từng quân nhân và tổ chức cơ sở đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức
quần chúng. Nhận thức và trách nhiệm của chủ thể VHCT là tiền đề quan trọng để
xác định phương hướng, mục tiêu, yêu cầu, nội dung và biện pháp thúc đẩy, nâng
cao văn hóa chính trị. Tính thuyết phục và hiệu quả của các chủ trương, kế hoạch
phụ thuộc vào mức độ nhận thức và trách nhiệm của chủ thể VHCT, đặc biệt là chủ
thể giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến nhận thức
và trách nhiệm của các chủ thể VHCT còn lại trong nhà trường quân đội.
Trong thực tế, VHCT đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng nhằm
xác định mức độ trưởng thành về nhân cách, tư cách công dân, trình độ văn hóa, lối
sống văn hóa của cá nhân, của tổ chức. Với vai trò quan trọng trong nhận thức các
hiện tượng, các quá trình chính trị, các tri thức chính trị sẽ giúp cho chủ thể có định
hướng chính trị đúng đắn.
Văn hóa chính trị của chủ thể trong NTQĐ được bộc lộ trên các phương diện
chủ yếu: phẩm chất chính trị; hành vi và hoạt động chính trị; lý tưởng và niềm tin
127
chính trị của lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên, học viên. Văn hóa chính trị cá nhân của
chủ thể VHCT trong NTQĐ chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: truyền
thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; lý tưởng cách mạng của
ĐCSVN; động cơ và lợi ích chính trị của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động;
các yếu tố truyền thống xây dựng chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam;
truyền thống đào tạo, chiến đấu, trưởng thành của mỗi trường. Nâng cao nhận thức
toàn diện cho chủ thể có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đảm bảo tính định hướng của
VHCT trong thực hiện mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường quân đội.
Yêu cầu đặt ra trong nâng cao VHCT trong NTQĐ, trước hết phải đảm bảo
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nói chung và nhiệm vụ đào tạo
cán bộ trong NTQĐ nói riêng. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, cần phải nhận
thức và quán triệt sâu sắc, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã
và đang có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch bên ngoài và
các phần tử cơ hội, phản động trong nước ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình”, thực hiện âm mưu đòi “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy từng bước
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội. Vì vậy, cần phải nâng cao
nhận thức toàn diện, trong đó, nâng cao trình độ lý luận chính trị, tập trung nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
về xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, VHCT nói riêng; yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng quân đội trong tình mới
Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhận thức chính trị của một số chủ thể VHCT
trong NTQĐ chưa toàn diện, thiếu sâu sắc; nhận thức về một số vấn đề cơ bản của
chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận về văn hóa
gắn với thực thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn xây dựng quân đội và yêu cầu
phát triển NTQĐ của một số ít cấp ủy, tổ chức đảng và cá nhân người đứng đầu
chưa thực sự đầy đủ, thiếu chiều sâu; sự quan tâm nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, duy trì và nâng cao chất lượng sinh
hoạt đảng vẫn còn ở mức hạn chế, thậm chí buông lỏng, dẫn đến vi phạm kỷ luật
phải xử lý, đã có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về
chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống trong môi trường sư phạm quân sự, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến công tác đào tạo cán bộ.
128
Mặt khác, để nâng cao nhận thức toàn diện cho các chủ thể VHCT trong
NTQĐ cần phải trang bị những tri thức về khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo và
khoa học về văn hóa gắn với việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ theo
yêu cầu nhiệm vụ của từng chủ thể. Bởi vì, sự hiểu biết sâu sắc những tri thức khoa
học về chính trị, khoa học về văn hóa gắn với năng lực chuyên môn là yếu tố quyết
định đến chất lượng đội ngũ cán bộ, là điều kiện tiên quyết để tạo động lực mạnh
mẽ thúc đẩy nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội. Đặc biệt là đối với học
viên trong NTQĐ, cùng với trang bị những tri thức về chính trị, cần phải tập trung
trang bị tri thức khoa học quân sự gắn với định hướng nghề nghiệp và sự phát triển
hoàn thiện nhân cách của người quân nhân cách mạng. Vì vậy, phải thực hiện tốt
hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thông qua giáo dục thường xuyên và
giáo dục theo chuyên đề; có kế hoạch quy hoạch và bồi dưỡng cho lãnh đạo, chỉ huy
và cán bộ chuyên trách về các mặt công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp và chính
quy trong tất cả các hoạt động của nhà trường quân đội.
Yêu cầu nâng cao nhận thức toàn diện cho các chủ thể không chỉ là trách
nhiệm của một cá nhân lãnh đạo, chỉ huy hay một bộ phận, một tổ chức trong
NTQĐ, mà đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Hiện nay ở một số đơn vị
vẫn còn tồn tại nhận thức sai lệch về vấn đề này, biểu hiện là, xem nhẹ công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, coi đó là công việc của cán bộ chính trị, của người chỉ
huy hoặc của cơ quan chính trị. Trong thực tế, mỗi tổ chức, mỗi lực lượng có vị trí,
vai trò và chức năng riêng nhưng đều có chung trách nhiệm trong việc nâng cao
nhận thức toàn diện cho các chủ thể. Vì vậy, để nâng cao nhận thức và trách nhiệm
cho chủ thể VHCT trong NTQĐ cần phải có sự vào cuộc của tất cả tổ chức và cá
nhân trong đơn vị nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống [PL10, tr. 249].
Nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các chủ thể cần
tập trung vào một số vấn đề cơ bản như: trang bị những vấn đề lý luận cho các chủ
thể, những vấn đề lý luận cần được giáo dục thường xuyên bao gồm cả lý luận
chính trị và lý luận về văn hóa; bám sát sự vận động của thực tiễn, yêu cầu nhiệm
vụ đào tạo cán bộ quân đội; thường xuyên giáo dục động viên các chủ thể nắm vững
những vấn đề lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và
nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; giữ vững phẩm chất đạo
129
đức, lối sống và đề cao trách nhiệm của bản thân trước yêu cầu nhiệm vụ. Các yêu
cầu nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho chủ thể VHCT có
quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy cần phải vận dụng linh hoạt và tiến hành đồng bộ
tất cả các nội dung.
Để thực hiện tốt yêu cầu nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách
nhiệm cho chủ thể VHCT trong NTQĐ cần tiến hành có hiệu quả những biện pháp
chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo dục, quán triệt cho các chủ thể VHCT nắm vững những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước; Điều lệnh, điều lệ của quân đội và quy
định của mỗi trường.
Lý luận đóng vai trò quan trọng vì nó là hệ thống tư tưởng chủ đạo được
hình thành trên cơ sở tổng hợp các tri thức và kinh nghiệm đã được tích lũy trong
quá trình lịch sử. Lý luận được đem ra giáo dục cho quân nhân, trước hết là lý luận
chính trị - tư tưởng, lý luận cách mạng của chủ nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh; lý luận liên quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tới
việc củng cố lập trường tư tưởng và nhân sinh quan của người cán bộ đảng viên và
của mọi quân nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đã lựa chọn đúng cán bộ cần
phải dạy bảo lý luận cho cán bộ” [86, tr.276]
Học tập chủ nghĩa Marx - Lenin là học tập tinh thần, lập trường, quan điểm
và phép biện chứng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, gắn chặt với
thực tiễn và không ngừng tổng kết thực tiễn. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh không
chỉ là học tập tư tưởng lý luận mà còn là học tập đạo đức và phong cách của Người.
Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức chủ nghĩa Marx - Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, cần phải luôn luôn đề cao cảnh giác, nhận thức rõ đối tượng và
đối tác cho các chủ thể. Việc nắm vững quan điểm, đường lối chính trị của Đảng,
chính sách, luật pháp của Nhà nước, quy định của quân đội chính là cơ sở chủ yếu
để nâng cao VHCT cho chủ thể. Nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, giữ
vững tính kiên định chính trị, nhằm quán triệt đúng đắn đường lối chính trị, kiên trì
sự lãnh đạo của Đảng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Bất kỳ một sự
dao động, nghiêng ngả hoặc vi phạm chính sách, luật pháp Nhà nước, kỷ luật quân
đội, đặc biệt là những vấn đề thuộc về nguyên tắc của Đảng đều có thể dẫn đến sự
130
suy thoái không chỉ VHCT của cá nhân mà còn gây hại lớn cho Đảng và chế độ,
ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và sức mạnh tổng hợp của quân đội.
Đối với chủ thể VHCT trong NTQĐ trước hết là lãnh đạo, chỉ huy, giảng
viên, phải tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp Nhà nước;
thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt điều lệnh, điều lệ quân đội và các quy định
của mỗi trường, xem đây là điều kiện cơ bản để nâng cao trình độ lý luận, khả năng
công tác và thực hành đạo đức cách mạng để nâng cao văn hóa chính trị.
Thứ hai, chủ động trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học chính trị, khoa
học lãnh đạo và những vấn đề lý luận văn hóa gắn với nâng cao trình độ chỉ huy,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, đặc biệt là
cán bộ chủ trì các cấp.
Chính trị là một lĩnh vực rất phong phú, vì vậy phải chủ động trang bị những
tri thức căn bản cho đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy và giảng viên và học viên giúp họ tránh
được những căn bệnh do ảo tưởng chính trị gây ra. Trong bối cảnh hiện nay, muốn
giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn chính trị đặt ra cần phải dựa chắc chắn
trên những luận cứ chính xác của khoa học. Khoa học chính trị và khoa học lãnh đạo
giúp trang bị kiến thức và kỹ năng, nắm bắt và phân tích kịp thời những sự kiện, quá
trình và tình huống chính trị cụ thể, khả năng phân tích tâm trạng, thái độ, phản ứng
chính trị ở những thời điểm khác nhau để có những quyết sách tương ứng và kịp thời.
Trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy và năng lực chuyên môn là nhân tố quan
trọng quyết định đến chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và giảng viên, do
vậy bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực toàn diện là một việc làm mang tính
thường xuyên và cần thiết nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong nhà trường quân đội.
Để nâng cao trình độ, năng lực toàn diện một cách hiệu quả, lãnh đạo chỉ huy
các cấp cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi cá nhân có ý
thức tự học, tự nghiên cứu. Phải xem nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy,
năng lực chuyên môn là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển, làm cho điều đó trở
thành những khát khao, thành nhu cầu tự thân, thành động lực bên trong của mỗi cá
nhân, có như vậy mới phát huy được tính tự chủ, tự giác, độc lập và sáng tạo trong
quá trình tự học, tự nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện và vươn lên.
131
Đối với học viên, quá trình học tập và rèn luyện ở nhà trường, học viên được
trang bị đầy đủ kiến thức giáo dục đại cương, bao gồm những vấn đề lý luận chủ
nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức khoa học xã hội và nhân văn,
ngoại ngữ, tin học; nhóm kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm, kiến thức cơ
sở ngành, kiến thức ngành và kiến thức chuyên ngành, đây là nhóm kiến thức quân
sự phục vụ trực tiếp cho định hướng nghề nghiệp của học viên sau khi ra trường.
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho học viên, trước hết là nâng cao nhận
thức về lý tưởng và niềm tin chính trị, hình thành xu hướng nghề nghiệp (binh
nghiệp) rõ ràng, khẳng định niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
chế độ xã hội chủ nghĩa, sống có hoài bão, ước mơ chính đáng, có tình cảm đồng
chí, đồng đội trong sáng, đúng mực.
Những tiêu chí về phẩm chất, đạo đức, lối sống và năng lực học tập, công tác
của học viên được xác định: Có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, say mê nghiên
cứu, nắm vững kiến thức, có chí vươn lên; học đi đôi với hành, xung kích, sáng tạo,
sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đoàn kết, đồng cam cộng
khổ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, sống trung thực, giản dị, tiết kiệm, có văn hóa;
khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy
định của nhà trường và bảo đảm an toàn; kính thầy, yêu bạn, lễ phép với Nhân dân,
có trách nhiệm với bản thân, gia đình và đơn vị [42].
Thứ ba, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên kết hợp phát huy tốt vai trò của các
tổ chức chính trị và của cán bộ chủ trì các cấp trong công tác kiểm tra, đôn đốc, kịp
thời biểu dương, khen thưởng động viên những tổ chức, cá nhân có thành tích trong
việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể đồng thời cũng chỉ ra được
những hạn chế, khuyết điểm để khắc phục.
Việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể VHCT trong NTQĐ
chỉ có thể có hiệu quả khi bám sát vào sự chỉ đạo của cấp trên và sự vào cuộc của
các tổ chức, các lực lượng. Trong đó, trước hết là tổ chức đảng, với vai trò là hạt
nhân lãnh đạo trong các cơ quan, khoa và đơn vị của mỗi nhà trường, phải quán triệt
sâu sắc nghị quyết, chỉ thị các cấp về công tác tư tưởng nói chung và giáo dục chính
trị nói riêng gắn với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi trường. Với tổ chức chỉ huy
và các tổ chức quần chúng như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ, trên cơ sở
nghị quyết lãnh đạo của đảng ủy, triển khai nhiệm vụ của người chỉ huy, căn cứ vào
132
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức chủ động xây dựng kế hoạch hành động phù hợp,
coi trọng công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.
Như vậy, công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể
VHCT có vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả nâng
cao VHCT trong NTQĐ, qua đó tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ
quân đội của Đảng [Phụ lục 5, Bảng 10].
4.2.2. Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động
lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại
Giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống của dân tộc và quân đội đi
đôi với chủ động trong lựa chọn và tiếp tnhận những tri thức mới của nhân loại
nghĩa là xuất phát từ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của các giá trị truyền
thống, giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại đối với yêu cầu xây dựng quân đội trong
tình hình mới, thông qua đó nhằm làm cho nhận thức và trách nhiệm của chủ thể
VHCT trong NTQĐ ngày càng sâu sắc hơn đối với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, truyền thống vẻ vang của Đảng, truyền thống anh hùng của quân đội, của nhà
trường; làm cho niềm tự hào về các giá trị truyền thống kết hợp hài hòa với những
thành tựu mới của nhân loại trở thành sức mạnh nội sinh, thành động lực mạnh mẽ
thôi thúc các chủ thể khắc phục khó khăn hoàn thành tốt hơn nữa chức trách nhiệm
vụ được giao, góp phần thúc đẩy VHCT và phát triển môi trường văn hóa quân sự,
đưa sự nghiệp đào tạo cán bộ trong NTQĐ lên một tầm cao mới.
Khái niệm truyền thống được hiểu là tập hợp những tư tưởng, tình cảm,
những tập quán, những thói quen, những kinh nghiệm, lối sống, cách ứng xử của
các chủ thể trong một cộng đồng được hình thành trong lịch sử, mang tính ổn định,
bền vững và được lưu truyền qua các thế hệ. Truyền thống biểu hiện trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội nhưng tập trung chủ yếu ở lĩnh vực văn hóa.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính hai mặt của truyền thống
được gọi là hai loại truyền thống: truyền thống tốt đẹp (vẻ vang, quý báu) và truyền
thống lạc hậu. Người viết “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống
quý báu của ta” [87, tr.171]; những hủ tục lạc hậu, những thói hư, tật xấu cũng là kẻ
thù nguy hiểm đối với người cán bộ cách mạng: “Thói quen và truyền thống lạc hậu
cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ” [89, tr.287].
133
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, vấn đề
phát huy vai trò giá trị văn hóa truyền thống nhằm tạo ra nguồn lực nội sinh đáp
ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững là một trong những vấn đề cấp thiết được
đặt ra đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đề cao vai trò của văn hóa
trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc, vào năm 1961, trong một lần trả
lời phỏng vấn của một phóng viên nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Nhân dân nước chúng tôi có ý chí phi thường là do lòng tự trọng muốn
sống làm người chứ không chịu làm nô lệ. Điều này cũng đúng với
những nhà tri thức nước chúng tôi thiết tha với nền văn hóa dân tộc,…
Có lẽ phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển
văn hóa,… Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho Nhân dân
chúng tôi tiến bộ [90, tr.190].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
xác định những định hướng chính trị quan trọng, trong đó mục tiêu đặt ra đối với
văn hóa là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con
người có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Đối với quân đội, công tác giáo dục và phát huy giá trị truyền thống và chủ
động trong lựa chọn và tiếp thu cái mới luôn được cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm
xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và là yêu cầu khách quan được đặt
ra trong tổng thể quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh, từng
bước hiện đại, trước hết là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tạo cơ sở
nhằm giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, đấu tranh có hiệu quả
với hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “phi chính trị hóa” quân đội.
Đối với NTQĐ, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và phát huy giá trị truyền thống
và tiếp thu cái mới giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong yêu cầu nâng cao VHCT,
xây dựng và phát triển môi trường văn hóa gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bởi vì:
Trước hết, chủ thể VHCT trong NTQĐ là nhân tố giữ vai trò định hướng tư
tưởng, xây dựng niềm tin và truyền cảm hứng cho bộ đội, giúp cho bộ đội có hoài
134
bão, ước mơ, lý tưởng cao đẹp, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; rèn luyện
phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống, hình thành những phẩm chất và
năng lực cần thiết cho những con người kế tục sự nghiệp cách mạng trong tương lai.
Mặt khác, xuất phát từ thực trạng việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền
thống và tiếp thu lựa cái mới chưa thực sự được coi trọng và đề cao ở một số cơ
quan, đơn vị trong NTQĐ, làm cho nhận thức của các chủ thể về giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc nói chung và giá trị truyền thống của quân đội, của đơn vị nói
riêng chưa đầy đủ, hoặc là xem nhẹ, hoặc là có chiều hướng lạm dụng thái quá các
hoạt động mang tính cổ truyền hoặc tiếp nhận tràn lan, thiếu chọn lọc những yếu tố
ngoại lai ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu nâng cao VHCT và phát triển môi trường
văn hóa văn hóa sư phạm quân sự trong nhà trường quân đội.
Nhà trường quân đội là những đơn vị quân đội mang tính đặc thù sư phạm, vì
vậy hàm chứa trong đó đầy đủ những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt
Nam anh hùng. Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, NTQĐ đã
viết nên những truyền thống vẻ vang vừa mang bản sắc riêng của trường, vừa góp
phần tạo nên những giá trị truyền thống hào hùng và chói lọi của đội quân bách
chiến bách thắng, với hình ảnh tiêu biểu và đã trở thành biểu tượng văn hóa của dân
tộc Việt Nam, với danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống
văn hóa dân tộc đi đôi với chủ động tiếp thu cái mới đã trở thành mối quan tâm
hàng đầu của rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề này vốn
được xem là đặc trưng của văn hóa dân tộc nhằm lưu giữ, bảo tồn và phát huy
những giá trị tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước hơn bốn nghìn năm qua. Học xưa để hiểu nay, học cũ để làm mới,
kết hợp với việc chủ động trong lựa chọn và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
vừa là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên vừa là yêu cầu cấp bách và được xem là
nhiệm vụ chiến lược lâu dài của Đảng ta trong công cuộc canh tân đất nước.
Đối với NTQĐ, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống
và chủ động trong lựa chọn tiếp thu cái mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
mang tính khách quan được đặt ra trong tổng thể quá trình thúc đẩy, nâng cao
VHCT trong NTQĐ, đồng thời là một mặt trong công tác giáo dục chính trị tư
135
tưởng. Trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nhiệm vụ giữ gìn và phát
huy hiệu quả giá trị truyền thống và chủ động trong lựa chọn tiếp thu cái mới có vai
trò hết sức quan trọng không chỉ nhằm củng cố, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử,
truyền thống, khơi dậy niềm tự hào, tạo ra sức đề kháng cho chủ thể trước những
tác động xấu của phản văn hóa; chủ động trong định hướng lựa chọn tiếp thu thành
tựu mới của nhân loại mà còn có tác dụng thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển
môi trường văn hóa quân sự, qua đó xây dựng phẩm chất, nhân cách người quân
nhân cách mạng góp phần tích cực xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần, làm cơ sở
tạo nên sức mạnh tổng hợp cho quân đội.
Mặt khác, NTQĐ là nơi tạo nguồn sĩ quan, những người kế tục sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì nhiệm vụ giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi
đôi với tiếp thu thành tựu mới lại càng quan trọng đặc biệt, nhất là trong bối cảnh
toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và truyền thông.
Thực tiễn xây dựng và phát triển VHCT trong NTQĐ thời gian vừa qua cho thấy,
khi mà các giá trị truyền thống chưa thực sự được phát huy, nhận thức của chủ thể
VHCT về giá trị truyền thống chưa đầy đủ, hoặc là xem nhẹ truyền thống, hoặc là
có chiều hướng lạm dụng thái quá các hoạt động mang tính cổ truyền; cổ vũ và tiếp
nhận tràn lan, thiếu chọn lọc những cái mới chưa được định hình, định hướng, điều
đó ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu nâng cao VHTCT trong NTQĐ và qua đó ảnh
hưởng tới chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.
Để giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc và quân đội với
yêu cầu chủ động trong lựa chọn và tiếp nhận tri thức mới của nhân loại, cần tập
trung thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau:
Một là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục
chính trị trong NTQĐ, trong đó coi trọng nội dung giáo dục truyền thống dân tộc,
truyền thống quân đội và lịch sử truyền thống của mỗi trường; kết hợp cập nhật trên
các diễn đàn, các buổi tọa đàm, sinh hoạt nhằm thông tin kịp thời, có lựa chọn, có
định hướng những thành tựu mới của nhân loại có tác động trực tiếp đến nhiệm vụ
xây dựng quân đội nói chung đào tạo cán bộ quân đội nói riêng của mỗi trường sao
cho linh hoạt, phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ của các chủ thể.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị
truyền thống cần phải quan tâm đổi mới nội dung, chương trình, hình thức và
136
phương pháp giáo dục chính trị. Đây là biện pháp quan trọng, thông qua giáo dục
chính trị để trau dồi phẩm chất cách mạng, bồi dưỡng năng lực và đạo đức lối sống,
củng cố niềm tin, từ đó xây dựng bản lĩnh, ý chí của người quân nhân cách mạng.
Đổi mới nội dung, chương trình, yêu cầu phải linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng
và phải khẳng định những giá trị truyền thống đi đôi với việc bổ sung, phát triển
những giá trị mới tốt đẹp, ứng dụng có hiệu quả trang, thiết bị hiện đại trong hoạt
động giáo dục chính trị; kế thừa và phát huy tốt giá trị các di sản làm cho những giá
trị truyền thống không ngừng được làm mới trong thực tiễn.
Hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi đôi với việc tiếp
thu có chọn lọc những giá trị mới của nhân loại không chỉ dừng ở việc trang bị
những tri thức lịch sử, tiếp nhận và khai thác những thông tin trên mạng xã hội mà
điều quan trọng hơn là phải thận trọng, từng bước chuyển hóa những nhận thức tư
tưởng, tình cảm của chủ thể thành sức mạnh nội sinh, là động lực to lớn trong thực
hiện chức trách nhiệm vụ.
Hai là, thường xuyên gắn công tác giáo dục các giá trị truyền thống với phong
trào thi đua trong nhà trường quân đội. Đây cũng là một trong những biện pháp quan
trọng góp phần nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội.
Với phương châm “học xưa để hiểu nay” và “hiểu cũ để làm mới” Đảng và Nhà
nước luôn quan tâm giáo dục và phát huy các giá trị truyền thống. Hồ Chủ Tịch đã viết:
“Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Tìm hiểu, học tập và
phát huy các giá trị truyền thống đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cá nhân
và tổ chức. Các cuộc vận động của đất nước, quân đội, các phong trào thi đua và các
cuộc thi tìm hiểu và sự lồng ghép vào các hoạt động của tổ chức trong đơn vị. Trong đó
đặc biệt là cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ
đội Cụ Hồ” đã thực sự đem lại những hiệu quả thiết thực.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng thể của các thiết chế chính trị và thiết chế
văn hóa trong NTQĐ cũng là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả trong
việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi đôi với tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Các chủ trương, biện pháp chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành triển
khai đồng bộ trong thực tiễn hoạt động của các tổ chức ở mỗi trường. Trước hết là
tổ chức đảng với vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị cơ sở phải nâng cao
137
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ
thị các cấp, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đơn vị, ra nghị quyết lãnh
đạo toàn diện và thường xuyên coi trọng nội dung giáo dục chính trị, giáo dục
truyền thống và phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống tiêu biểu của cơ quan,
đơn vị cũng như của quân đội, đất nước.
Đối với tổ chức chỉ huy, cơ quan chính trị và các tổ chức quần chúng, trên cơ
sở nghị quyết của cấp trên và cấp mình, nghiên cứu xây dựng kế hoạch chương
trình hành động cụ thể và tổ chức thực hiện nghiêm kế hoạch đã xác định. Khai thác
có hiệu quả phòng truyền thống, các bảng hiệu và các thiết chế văn hóa khác trong
đó bao gồm cả cảnh quan văn hóa của nhà trường quân đội.
Bốn là, kiên quyết đấu tranh loại bỏ các biểu hiện tiêu cực, nhận thức lệch
lạc chưa đúng về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, cấp ủy, chỉ huy các
cấp về nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống cũng như trong lựa
chọn tiếp thu cái mới.
Trong thực tế, ở mỗi cơ quan, đơn vị, do tác động tiêu cực của nhiều mặt
của đời sống xã hội làm cho nhận thức của các đối tượng không tránh khỏi có
những nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ chính trị nói chung và nhiệm vụ giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống và cập nhật các thành tựu mới nói riêng.
Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện, lãnh
đạo, chỉ huy các cấp, bên cạnh việc biểu dương, khen thưởng kịp thời những
thành tích của các cá nhân, tập thể cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ những
tư tưởng lệch lạc, xem nhẹ các giá trị truyền thống, thiếu chọn lọc trong tiếp
nhận những phản văn hóa, phản giá trị núp dưới danh nghĩa cái mới, hay những
tư tưởng, nhận thức chưa thấu đáo, xem việc giáo dục, gìn giữ và phát huy các
giá trị truyền thống và tiếp thu thành tựu mới chỉ là việc làm của cơ quan chính
trị, của cán bộ chính trị…
Giáo dục gìn giữ và phát huy có hiệu quả các giá trị truyền thống không chỉ
khơi dậy lòng biết ơn, sự tự hào đối với truyền thống vẻ vang của dân tộc, của
Đảng, của quân đội và của nhà trường mà còn làm cho đời sống văn hóa tinh thần ở
đơn vị cơ sở đa dạng, phong phú và linh hoạt, tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ,
góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân
đội ngày càng hùng mạnh, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhân dân giao phó.
138
Nhà trường quân đội, với chức năng, nhiệm vụ là trung tâm đào tạo sĩ quân
đội và là trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự đã không ngừng viết nên trang sử vẻ
vang hào hùng về bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, đồng thời cũng luôn là những đơn vị
đi đầu trong tiếp nhận và phát triển những thành tựu công nghệ mới của nhân loại. Sự
nghiệp đào tạo cán bộ quân đội luôn gắn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự
nghiệp đó luôn được các thế hệ nối tiếp nhau xây dựng và bồi đắp đó là bản chất cách
mạng, là kết tinh truyền thống, là lý tưởng cao đẹp mang đậm bản chất văn hóa, tính
khoa học và phát triển, bản chất đó là niềm tự hào, là tinh hoa, là giá trị truyền thống
tiêu biểu của QĐND Việt Nam anh hùng [Phụ lục 5, Bảng 10].
4.2.3. Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực
hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội
Là đơn vị quân đội, NTQĐ được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và
mọi mặt của QUTW và BQP, thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo;
nghiên cứu khoa học; xây dựng nhà trường chính quy và cấp văn bằng, chứng chỉ
theo quy định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Tất cả các hoạt động của NTQĐ
đều hướng tới mục tiêu thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là đào tạo sĩ quan,
nhân viên chuyên môn kỹ thuật; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước về
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các hoạt động khoa
học và công nghệ. Vì vậy, yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ phải có sự gắn kết
chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị trung tâm và mục tiêu, yêu cầu đào tạo cũng như
đặc thù riêng của mỗi trường là một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra
trong bối cảnh hiện nay.
Yêu cầu nâng cao VHCT là một mặt quan trọng trong hoạt động công tác
đảng, công tác chính trị của NTQĐ nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
các cấp và người chỉ huy trong quán triệt và giữ vững định hướng chính trị, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo,
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học góp phần xây dựng
quân đội ngày càng chính quy, hùng mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xét trên tổng thể, trong thời gian qua, sự kết hợp giữa yêu cầu nâng cao
VHCT gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong NTQĐ đã được lãnh
đạo, chỉ huy các cấp quan tâm, giúp cho nhận thức về văn hóa nói chung và VHCT
139
nói riêng của các chủ thể ở NTQĐ trong thực hiện nhiệm vụ đã có bước phát triển,
mỗi học viện, trường quân đội thực sự đã trở thành những pháo đài vững chắc về
chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, phát triển văn hóa
người quân nhân cách mạng, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã
hội, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc gắn kết giữa yêu cầu nâng cao
VHCT với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của các cơ quan, khoa, đơn vị
trong NTQĐ vẫn còn tồn tại những hạn chế, đó là, việc cụ thể hóa những chỉ thị,
nghị quyết và hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên vào thực hiện nhiệm vụ ở cấp cơ sở
còn chung chung, hình thức: “Quá trình tổ chức thực hiện có lúc chưa phát huy vai
trò, tính chủ động của lãnh đạo, chỉ huy, sự nhạy bén và vận dụng vào tình hình cụ
thể của đơn vị mình… việc phối kết hợp, lồng ghép nội dung phong trào thi đua với
công tác tuyên truyền thực hiện còn thiếu chiều sâu” [56, tr.6]; “Chỉ đạo xây dựng
môi trường văn hóa trong cơ quan, khoa, đơn vị có lúc chưa thường xuyên; triển
khai thực hiện còn có tính thời vụ, chưa trở thành thói quen và hành động tích cực
để góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm, xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện” [147, tr.8].
Một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra trước yêu cầu nâng cao
VHCT trong NTQĐ là phải nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị. Bởi
vì, hiệu quả của các thiết chế VHCT có vai trò quan trọng vừa là công cụ, phương
tiện để truyền đạt thông tin và chuyển tải các giá trị VHCT đến với chủ thể VHCT
trong NTQĐ, qua đó cũng cho thấy sự tác động của VHCT đến việc nâng cao chất
lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ là một tất yếu khách quan. Là
tổ chức vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt,
NTQĐ có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ như các đơn vị quân đội, nhưng nét đặc thù
của NTQĐ biểu hiện ở nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa
học. Mặt khác, những yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo
nước nhà được Đảng khởi xướng cũng cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả
các thiết chế VHCT trong việc nâng cao chất lượng dạy học góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.
140
Nâng cao hiệu quả các thiết chế VHCT gắn với nâng cao chất lượng dạy học
và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ là tổng thể các cách thức, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch nhằm làm cho
nhận thức của chủ thể VHCT và sự vận hành của thiết chế VHCT trong NTQĐ thực
sự đem lại hiệu quả, có tác dụng tích cực, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, hành
động, hình thành động cơ, thái độ đúng đắn cho các chủ thể trước yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học.
Tại TSQLQ1, sự vận hành của các thiết chế VHCT đã góp phần phát huy
những yếu tố thuộc về nhân cách cá nhân và tổ chức, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà
trường đã xây dựng tiêu chí phấn đấu phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ cho từng đối
tượng và từng cơ quan, khoa, đơn vị. Trong đó, đối với giảng viên yêu cầu đặt ra là:
Có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, say mê nghiên cứu, nắm vững
kiến thức, có chí vươn lên; học đi đôi với hành, xung kích, sáng tạo, sẵn
sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đoàn kết, đồng
cam cộng khổ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, sống trung thực, giản dị, tiết
kiệm, có văn hóa; khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà
nước, kỷ luật quân đội, quy định của Nhà trường và bảo đảm an toàn;
kính thầy, yêu bạn, lễ phép với Nhân dân, có trách nhiệm với bản thân,
gia đình và đơn vị [42, tr.3].
Tại HVCT, Đảng ủy, Ban Giám đốc đã có nhiều chủ trương, biện pháp nâng
cao hiệu quả của các thiết chế văn hóa nói chung, trong đó có VHCT vào thực hiện
nhiệm vụ chính trị trung tâm. Cụ thể là đã đưa nội dung xây dựng môi trường văn
hóa học đường “vào hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng trường; các chuyên
ngành đào tạo khoa học xã hội và nhân văn đã nghiên cứu đưa bộ môn Văn hóa học,
Đạo đức học và các vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử vào chương trình, nội
dung dạy học cho các đối tượng đào tạo tại Học viện” [56,tr.1]. Thông qua đó, kết
qủa dạy học và nghiên cứu khoa học đã đạt được những thành tích nổi bật:
Từ năm 1992 đến nay (2017), Học viện đã được Thủ tướng Chính phủ
tặng 17 Cờ thi đua; BQP tặng 8 Cờ thi đua; Sơ kết 5 năm thực hiện Cuộc
vân động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú
trong quân đội” Học viện có 3 đơn vị được BQP khen thưởng. Từ kết
quả đó đã góp phần xây dựng Đảng bộ Học viện vững mạnh về chính trị,
141
tư tưởng và tổ chức, xây dựng Học viện chính quy, tiến tiến, mẫu mực
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. [56, tr.3]
Để nâng cao VHCT nói chung và thiết chế VHCT nói riêng gắn với thực
hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của NTQĐ, cần quán triệt và thực hiện tốt một số
nội dung sau:
Thứ nhất, cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và các tổ chức trong
NTQĐ cần duy trì và thực hiện có nền nếp hoạt động công tác đảng, công tác chính
trị, trong đó tập trung nâng cao hiệu quả của thiết chế VHCT, bởi vì hiệu quả thiết
chế VHCT chỉ có thể được tạo ra trên cơ sở hoạt động có nền nếp của các cấp ủy, tổ
chức đảng và tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng trong đơn vị. Đảng ủy, chỉ
huy NTQĐ cần chỉ đạo chặt chẽ theo hướng thống nhất, ổn định về tổ chức và từng
bước nâng cao chất lượng các hoạt động xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, coi
trọng tính chính quy trong tất cả các hoạt động, đi đôi với yêu cầu thường xuyên
củng cố và kiện toàn cả về cơ sở vật chất cũng như cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và quy
trình tổ chức thực hiện. Cùng với hoạt động củng cố về tổ chức cần xây dựng được
đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ trì các cấp có nhận thức sâu sắc về yêu cầu
nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng, trình độ
năng lực tổ chức chỉ huy và đào tạo.
Thứ hai, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp trong
vận hành các thiết chế văn hóa như Phòng Hồ Chí Minh, Nhà văn hóa, Câu lạc bộ,
Nhà truyền thống, Thư viện và các thiết chế văn hóa khác, bao gồm cả cảnh quan
môi trường phù hợp với đặc thù nhiệm vụ đào tạo của mỗi trường để thu hút chủ thể
VHCT, tránh sự đơn điệu, hình thức. Bởi vì, hệ thống thiết chế văn hóa và cảnh
quan văn hóa là cơ sở, điều kiện tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh có tác
dụng giúp cho các hoạt động sinh hoạt, học tập và rèn luyện của chủ thể VHCT
ngày càng phát huy hiệu quả trong thực tiễn, qua đó góp phần thúc đẩy nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong điều kiện hiện nay, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần
quan tâm tổ chức nhiều hơn nữa các hình thức sinh hoạt chính trị, đối thoại, kết hợp
với sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể thao, các diễn đàn thanh niên, tọa đàm và các
hội thi tìm hiểu truyền thống. Chủ động trong định hướng tư tưởng chính trị cho các
chủ thể VHCT, đặc biệt là trong việc lựa chọn và chia sẻ các thông tin trên mạng xã
142
hội, luôn cảnh giác và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa
bình”, thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch
Thứ ba, quan tâm đầu tư kịp thời cơ sở vật chất đảm bảo cho thiết chế văn
hóa luôn cập nhật với những thành tựu mới của công nghệ; duy trì thường xuyên
chế độ thông tin qua hệ thống phát thanh và truyền hình, tuyên tuyền và quảng bá
gương người tốt, việc tốt trong đơn vị; quan tâm nâng cấp hệ thống bảng tin, pano,
áp phích và tranh cổ động, ảnh tư liệu truyền thống… nhằm tạo ra cảnh quan môi
trường xanh, sạch, đẹp lành mạnh có ý nghĩa giáo dục cao. Nếu như cơ sở vật chất
không được quan tâm hoặc quan tâm không kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hiệu quả thiết chế VHCT qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo
của nhà trường quân đội. Phát huy tốt tinh thần trách nhiệm của chủ thể VHCT, vận
dụng linh hoạt và thực hiện tốt phương châm giữ tốt dùng bền và khai thác tối đa
công năng sử dụng của cơ sở vật chất trong NTQĐ cũng là một trong những yêu
cầu biện pháp quan trọng.
Như vậy, vấn đề đặt ra đối với yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ là cần
phải có những giải pháp phù hợp, kịp thời khắc phục những hạn chế yếu kém nêu
trên, gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ với thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, trong đó
tập trung nâng cao hiệu quả các thiết chế VHCT gắn với yêu cầu nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo có thể được xem là một trong những định hướng chính có
vai trò quan trọng hàng đầu. [PL10, tr. 250].
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, nhiệm vụ xây dựng
và phát triển văn hóa nói chung và nâng cao VHCT nói riêng được đặt ra như một
yêu cầu tất yếu khách quan. Trên cơ sở những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao VHCT
trong NTQĐ, lãnh đạo, chỉ các cấp, cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ
chức quần chúng trong NTQĐ cần nhận diện, quán triệt và giải quyết tốt bốn vấn đề
đã được đề cập ở trên. Các vấn đề được đề cập có quan hệ chặt chẽ với nhau, quá
trình thực hiện không được quá đề cao, tuyệt đối hóa mà cần phải tiến hành đồng bộ
và vận dụng linh hoạt các nội dung, biện pháp sao cho phù hợp với đặc thù riêng
từng trường [Phụ lục 5, Bảng 10].
143
4.2.4. Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, nghị
quyết và các cuộc vận động
Trước hết, yêu cầu thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ là một bộ phận
trong tổng thể các chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò và sức mạnh của văn
hóa trong trong công cuộc đổi mới đất nướcvà yêu cầu xây dựng quân đội trong tình
hình mới. Để nâng cao VHCT trong NTQĐ thực sự có hiệu quả trong thực tiễn,
việc kết hợp nâng cao VHCT với thực hiện các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận
động lớn của đất nước, quân đội và đặc điểm nhiệm vụ của mỗi trường là yêu cầu
tất yếu khách quan. Trong đó, tập trung vào những vấn đề mang tính định hướng
như: quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam; các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động lớn của đất nước, quân đội
và phong trào thi đua của mỗi trường. Bởi vì, đối với NTQĐ, xuất phát từ mục tiêu,
yêu cầu đào tạo cán bộ quân đội, trong đó yêu cầu về phẩm chất chính trị luôn được
đặt lên hàng đầu cho nên những định hướng chính trị lại càng có ý nghĩa hơn.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng, vấn đề xây dựng văn hóa trước hết là vấn
đề xây dựng con người, nâng cao VHCT về thực chất là làm cho giá trị chính trị
được lan tỏa trong thực tiễn, giúp phát huy tính tích cực chính trị của chủ thể, xây
dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, tránh được nguy cơ
tha hóa về chính trị. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và của cấp ủy các cấp cũng
như mục tiêu của các cuộc vận động lớn của đất nước và quân đội là những định
hướng chính trị quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng hướng tới
mục tiêu xây dựng con người và vì con người.
Nâng cao VHCT trong NTQĐ, xét về thực chất là nhiệm vụ xây dựng và phát
triển môi trường văn hóa quân sự gắn với thực hiện phong trào thi đua quyết thắng
ở đơn vị vì sự hoàn thiện nhân cách chủ thể văn hóa chính trị. Trong khi đó, nhân
cách con người chỉ có thể hình thành và phát triển trong môi trường văn hoá nhất
định. Môi trường văn hoá giúp cho nhân cách chủ thể phát triển đúng với tính chất
xã hội của nó. Môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú và đa dạng vừa là chiếc
nôi nuôi dưỡng và nâng đỡ cho sự phát triển con người một cách toàn diện vừa có
tác dụng bảo vệ, ngăn ngừa và chống lại mọi sự xấu, độc xâm nhập vào trong đời
sống con người.
144
Đối với NTQĐ, môi trường văn hóa được hiểu là môi trường văn hoá sư
phạm quân sự, ở đó, phong trào thi đua là động lực chính tạo nên sức mạnh giúp
cá nhân và tổ chức hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Thực tiễn xây
dựng và phát triển môi trường văn hoá sư phạm quân sự và thực hiện phong trào
thi đua quyết thắng trong NTQĐ thời gian vừa qua đã thu được những kết quả tích
cực, giúp cho đời sống tinh thần của bộ đội trở nên tốt đẹp, phong phú, lành mạnh,
góp phần ngăn chặn các phản giá trị và tệ nạn xã hội ảnh hưởng tới đời sống tinh
thần của quân nhân. Tuy nhiên, hiện nay, trước yêu cầu mới, việc xây dựng và
phát triển môi trường văn hoá sư phạm quân sự và thực hiện phong trào thi đua
gặp không ít khó khăn, trở ngại như do nhận thức về văn hóa nói chung và môi
trường văn hóa quân sự nói riêng thiếu sâu sắc, các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua chưa
sát với đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu
quả xây dựng VHCT trong hệ thống các đơn vị đào tạo cán bộ của quân đội.
Về nội dung nâng cao VHCT với thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
và các cuộc vận động lớn của đất nước và quân đội, trước hết, chủ thể VHCT trong
NTQĐ phải quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
và Chỉ thị số 788-CT/QUTW của Thường vụ QUTW về việc phát động Cuộc vận
động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; Chỉ thị
số 143/CT của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam về “Xây dựng môi trường văn
hóa tốt đẹp lành mạnh, phong phú trong các đơn vị quân đội” và Chỉ thị 355-
CT/QUTW ngày 20 tháng 4 năm 2017, “Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công
tác văn hóa, văn học, nghệ thuật trong Quân đội giai đoạn hiện nay”. Tích cực rèn
luyện đạo đức, lối sống gắn liền với nâng cao ý thức pháp luật và gương mẫu, tự
giác chấp hành các chế độ, quy định. Mỗi quân nhân phải là tấm gương sáng về sự
tự phấn đấu, rèn luyện không ngừng, xứng đáng với niềm tin cậy và yêu mến của
Nhân dân. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, chạy theo lợi ích cá
nhân, ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của người quân nhân cách mạng. Lãnh đạo,
chỉ huy phải luôn gương mẫu đi đầu trong các nhiệm vụ, thể hiện tinh thần dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; là giảng viên phải tâm huyết với nghề, tận
tâm, tận lực, hết lòng vì học viên; là học viên phải luôn xung kích đi đầu trong khắc
phục khó khăn vươn lên trong học tập và công tác.
145
Là người tiêu biểu về tính tích cực chính trị, chủ thể VHCT trong NTQĐ phải
không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
nhiệm vụ. Những lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên, học viên còn có những biểu hiện băn
khoăn, dao động lười học, lười suy nghĩ, tự bằng lòng với mình sẽ là trở lực, kìm hãm
sự nghiệp đổi mới giáo dục, ảnh hưởng không tốt đến môi trường sư phạm. Trong môi
trường sư phạm quân sự, các chủ thể phải thường xuyên khổ luyện, kiên trì phấn đấu
để đạt được một nền tảng trí tuệ vững chắc cùng với một phẩm chất cao đẹp. Mặt khác
cần phải quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” gắn với thực hiện có hiệu quả các mục tiêu cuộc
vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, góp
phần làm lành mạnh hóa sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.
Để nâng cao VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các cuộc vận
động lớn của đất nước, quân đội cần tập trung thực hiện tốt biện pháp sau:
Thứ nhất, trên cơ sở quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản của các chỉ thị
nghị quyết, mục tiêu, chỉ tiêu của cuộc vận động, chủ thể VHCT trong NTQĐ căn
cứ vào đặc điểm nhiệm vụ, chức trách của cá nhân, tổ chức, chủ động xây dựng kế
hoạch, chương trình hành động và triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính
trị trung tâm. Năng lực cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết là thước đo về hiệu quả hoạt
động chính trị của chủ thể. Phát huy vai trò VHCT của các chủ thể để lôi cuốn cả
tập thể sư phạm vào hoạt động chính trị - xã hội, phát triển tính tích cực chính trị, sự
phản ứng nhanh chóng với những hiện tượng chính trị, những nhiệm vụ của Đảng
và Nhà nước, quân đội và nhà trường giao cho.
Phát huy tốt vai trò chủ thể VHCT sẽ khơi dậy được sự sáng tạo của cá nhân,
của tập thể trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu
khoa học. Trình độ VHCT là điều kiện bảo đảm cho các chủ thể nắm bắt và thực
hành dân chủ trên các mặt quân sự, chuyên môn; chính trị và kinh tế, đời sống, tạo
cơ sở vững chắc giữ vững sự ổn định và phát triển của đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực
lượng của Nhân dân đưa cách mạng tiến lên” [89, tr.592].
Thứ hai, kết hợp thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động lớn của
đất nước, quân đội với phong trào thi đua quyết thắng của mỗi trường và xem đây là
146
một trong những nội dung quan trọng để thúc đẩy, nâng cao VHCT trong nhà
trường quân đội. Coi trọng và đề cao những kinh nghiệm hay, những việc làm tốt để
các cơ quan đơn vị trong trường học tập; thường xuyên rà soát, bổ sung những mục
tiêu, chỉ tiêu thi đua bảo đảm tính vừa sức và tính khả thi. Trong thời gian qua, quân
đội nói chung và NTQĐ nói riêng đã thường xuyên coi trọng và đề cao công tác thi
đua khen thưởng, các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua khen thưởng đã bám sát nhiệm vụ
chính trị trung tâm của mỗi đơn vị và tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy nâng cao
chất lượng hiệu quả các thiết chế chính trị trong xây dựng đơn vị của toàn quân,
thông qua đó làm cho đời sống văn hóa tinh thần bộ đội được nâng lên góp phần
xây dựng và củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.
Thứ ba, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, sai trái trong nhận
thức và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động. Trước hết
là đấu tranh với các biểu hiện lười nghiên cứu học tập chính trị của chủ thể, dẫn đến
lơ là mất cảnh giác, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đên suy thoái về chính trị; triển
khai thực hiện qua loa, đại khái, nặng về hình thức, các mục tiêu, chỉ tiêu được xác
định không bám sát tình hình của đơn vị; biểu hiện che giấu khuyết điểm, chạy theo
thành tích, làm láo báo cáo hay và đây là nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức
lối sống của cán bộ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và hiệu quả xây dựng
VHCT trong NTQĐ hiện nay.
Như vậy, đối với NTQĐ, yêu cầu nâng cao VHCT phải được đặt trong
tổng thể tình hình chung của đất nước, quân đội và gắn với phong trào thi đua
quyết thắng của đơn vị. Vấn đề đặt ra là nâng cao VHCT trong NTQĐ phải giải
quyết hài hòa, linh hoạt mối quan hệ cơ bản của môi trường văn hoá sư phạm
quân sự và đặt yêu cầu nhiệm vụ nâng cao VHCT trong tổng thể tình hình đất
nước, quân đội cũng như yêu cầu, nhiệm vụ mang tính đặc thù riêng của mỗi
trường [Phụ lục 5, Bảng 10].
Tiểu kết chương 4
Văn hóa chính trị trong NTQĐ chịu sự tác động nhiều chiều của nhiều yếu tố
vừa mang tính toàn cầu và các yếu tố văn hóa, chính trị trong nước. Tùy theo mức
độ ảnh hưởng nhiều hay ít và xu hướng tích cực hay tiêu cực đến nhiệm vụ giáo dục
và đào tạo trong NTQĐ, để từ đó nhận diện đầy đủ những vấn đề đặt ra trước yêu
cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ hiện nay.
147
Tuy nhiên, sự tác động của các yếu tố đến VHCT là không độc lập và riêng
lẻ mà bao giờ cũng mang tính tổng thể. Vì vậy, sự phân chia những yếu tố tác động
đến VHCT trong NTQĐ chỉ mang tính chất tương đối. Trong khuôn khổ luận án,
nghiên cứu sinh lựa chọn cách phân chia theo hướng, những yếu tố tác động thuận
chiều và những yếu tố tác động trái chiều đến VHCT trong nhà trường quân đội.
Trong đó, các yếu tố nhận thức mới về văn hóa và con người Việt Nam ngày càng
đúng đắn và đầy đủ hơn, tiếp cận được với những giá trị chung của nhân loại, đặc biệt
là những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi
xướng lãnh đạo được xem là yếu tố tác động thuận chiều nổi bật và quan trọng nhất,
có ý nghĩa quyết định đối với yêu cầu nâng cao VHCT nói chung và VHCT trong
NTQĐ nói riêng. Khi xem xét những tác động trái chiều đến VHCT trong NTQĐ,
cho thấy, sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch là một trong
những những khó khăn, trở ngại chính, tạo ra lực cản ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu
nâng cao VHCT trong NTQĐ giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực
hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT đã
trở thành yêu cầu cấp thiết, quan trọng và có nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đối với
NTQĐ, yêu cầu nâng cao VHCT đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề đặt ra cần
phải được giải quyết một cách linh hoạt và đồng bộ trong tổng thể yêu cầu xây dựng
và phát triển văn hóa chung, trong đó, tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: yêu cầu
nâng cao hơn nữa nhận thức toàn diện cho các chủ thể; giữ gìn và phát huy vai trò
văn hóa truyền thống đi đôi với chủ động trong lựa chọn và tiếp thu cái mới; nâng
cao hiệu quả thiết chế VHCT gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của
NTQĐ, đồng thời gắn các hoạt động VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các
cuộc vận động.
148
KẾT LUẬN
Văn hóa chính trị trong NTQĐ là hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ ở nước
ta những năm gần đây, nội dung này tuy chưa được nghiên cứu một cách hệ thống,
sâu sắc, nhưng đã có những công trình đề cập đến những vấn đề liên quan. Đây là
hướng nghiên cứu vừa cơ bản, vừa mang tính cấp thiết, đòi hỏi phải có cách tiếp
cận toàn diện dưới góc độ Văn hoá học.
Văn hóa chính trị vừa là một bộ phận quan trọng của văn hóa xã hội, vừa là
yếu tố quan trọng trong thể chế chính trị. Văn hóa chính trị trong NTQĐ vừa mang
những đặc điểm chung VHCT của QĐND Việt Nam, lại vừa mang những đặc thù
riêng của môi trường sư phạm quân sự, thể hiện ở tính ưu trội của các giá trị VHCT,
phản ánh trực tiếp đời sống và hoạt động quân sự; hoạt động hoạt động dạy học và
nghiên cứu khoa học. Tính đặc thù của VHCT trong NTQĐ thể hiện ở tính đồng bộ
giữa môi trường văn hóa và môi trường sư phạm quân sự, điều đó được phản ánh ở
tính nghiêm cách trong quá trình truyền bá giá trị của hệ thống thiết chế chính trị.
Văn hóa chính trị trong NTQĐ luôn có những tác động tổng thể tới con người quân
sự, vừa góp phần đáp ứng nhu cầu VHCT và phát triển đời sống tinh thần của chủ
thể, góp phần hoàn thiện nhân cách quân nhân và xây dựng tập thể quân nhân văn
hóa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội.
Thông qua kết quả điều tra xã hội học; qua thăm dò, trực tiếp trao đổi với cán
bộ, học viên cũng như kết quả tổng kết trên các mặt hoạt động của NTQĐ, trong đó
tập trung ở HVCT và TSQLQ1, cho thấy, đa số quân nhân, đặc biệt là đối tượng học
viên đã nhận thức được vị trí, vai trò của VHCT đối với sự nghiệp phát triển của nhà
trường quân đội. Kết quả xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu nâng cao
VHCT nói riêng trong NTQĐ đã góp phần quan trọng vào hình thành, phát triển nhân
cách người học viên, đồng thời giúp người học viên xác định rõ chức trách và khả
năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xứng đáng với vai trò quan trọng, là
những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra những khó khăn, thách
thức trong việc nâng cao VHCT trong NTQĐ, đó là vấn đề nhận thức còn hạn chế
của các chủ thể VHCT trong NTQĐ, tính hình thức, sự kém hiệu quả trong các hoạt
động văn hóa hay sự gắn kết giữa yêu cầu nâng cao VHCT với yêu cầu nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo trong nhà trường quân đội…
149
Dự báo trong thời gian tới, các yếu tố mang tính toàn cầu và yếu tố kinh tế,
chính trị, xã hội trong nước; yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, quân đội trong giai
đoạn cách mạng mới; đặc thù của môi trường sư phạm trong NTQĐ cũng như tác động
từ các chủ thể giáo dục đối với VHCT; tác động từ sự phát triển của nhiệm vụ giáo dục
và đào tạo; các điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động giáo
dục và đào tạo… sẽ tiếp tục vận động và phát triển, tác động mạnh mẽ cả chiều thuận
và chiều nghịch đến yêu cầu nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội.
Từ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay, trước yêu cầu nâng cao VHCT
trong NTQĐ cũng đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết, đó là: vấn đề nâng cao
nhận thức toàn diện cho các chủ thể; vấn đề phát huy hiệu quả giá trị văn hóa truyền
thống với chủ động lựa chọn và tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại; vấn đề
kết hợp nâng cao hiệu quả thiết chế VHCT với nhiệm vụ chính trị trung tâm của
NTQĐ hiện nay và nâng cao VHCT phải gắn với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và
cuộc vận động của đất nước, quân đội và của mỗi trường.
Nâng cao VHCT trong NTQĐ là yêu cầu bảo đảm cho sự phát triển những
yếu tố cấu thành của VHCT như: yếu tố thuộc về nhân cách cá nhân của chủ thể
VHCT; phát huy và phát triển các thang bậc giá trị VHCT; hoàn thiện thể chế, thiết
chế VHCT và phát huy hiệu quả hoạt động VHCT, giúp việc nâng cao trình độ
chính trị cho các chủ thể; nâng cao chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học góp
phần hoàn thiện nhân cách của quân nhân. Nâng cao VHCT là góp phần bồi đắp
phẩm chất của quân nhân, góp phần xây dựng nền nếp, kỷ cương, kỷ luật, trang bị
cho chủ thể những kiến thức cơ bản về chuyên môn, lý tưởng sống và nâng cao đạo
đức, lối sống, làm cho hệ giá trị đạo đức cách mạng trở thành yếu tố bên trong, điều
chỉnh suy nghĩ, hành vi của mỗi quân nhân phù hợp với mục tiêu, lý tưởng đã lựa
chọn. Nói cách khác, nâng cao VHCT trong NTQĐ là phải biết không ngừng củng
cố niềm tin, xây dựng lối sống lành mạnh, giúp chủ thể VHCT vững vàng, kiên định
trước mọi cám dỗ, cạm bẫy trong xã hội và sự lôi kéo của các thế lực thù địch,
không sa vào lối sống buông thả, tự do, thực dụng, cơ hội, vị kỷ, cá nhân tránh được
nguy cơ tha hóa.
Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa nói chung và nâng cao VHCT
nói riêng trong NTQĐ là một trong những định hướng cơ bản, quan trọng mang tính
khách quan được đặt ra trước yêu cầu xây dựng quân đội, là nội dung quan trọng
150
trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của quân đội nói chung, trong đó
có nhà trường quân đội. Thông qua đó, nhằm khẳng định và phát huy hiệu quả các
giá trị truyền thống, khơi dậy lòng biết ơn, sự tự hào đối với truyền thống tốt đẹp,
vẻ vang của Đảng, của dân tộc; truyền thống của quân đội và của mỗi nhà trường, là
tiền đề để tiếp thu, tiếp nhận, bổ sung những giá trị mới, làm cho đời sống văn hóa
tinh thần trong NTQĐ trở nên lành mạnh, đa dạng, phong phú góp phần nâng cao
chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học, có tác dụng nuôi dưỡng và phát triển
nhân cách của người quân nhân cách mạng, đồng thời tạo ra sức đề kháng cao, có
khả năng miễn dịch trước những lây nhiễm độc hại trong bối cảnh toàn cầu hóa và
xu thế hội nhập hiện nay.
Việc nghiên cứu VHCT trong NTQĐ hiện nay là cơ sở đánh giá đúng đắn
thực trạng cũng như nhìn nhận rõ xu hướng và vấn đề đặt ra để nâng cao hơn nữa
VHCT trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu VHCT trong NTQĐ có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong học tập, rèn luyện, giúp nâng cao nhận thức và định
hướng chính trị đúng đắn cho các chủ thể. Đồng thời, cung cấp luận cứ khoa học
cho QUTW và BQP, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong NTQĐ đề ra chủ trương, biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nghiên cứu về VHCT trong NTQĐ hiện nay là vấn đề khoa học mới mẻ,
phạm vi rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau. Những
vấn đề được trình bày trong luận án chỉ là kết quả bước đầu, tác giả mong muốn sự
cộng tác, giúp đỡ của các nhà nghiên cứu. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc, toàn diện hơn, góp phần thiết thực vào sự
nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ QĐND Việt Nam đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. /.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Văn Tách (2015), “Góp phần tìm hiểu quan hệ truyền thống - hiện đại trong
phát triển môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở”, Tạp chí Văn hóa Quân sự,
(115), tr. 6-7.
2. Lê Văn Tách (2015), “Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa trong các
đơn vị quản lý học viên ngành quân sự cơ sở”, Tạp chí Dân quân Tự vệ
Giáo dục quốc phòng, (91 (135), tr.50-52.
3. Lê Văn Tách (2015), “Tác động quan hệ truyền thống - hiện đại trong phát triển
môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (102), tr.50-52.
4. Lê Văn Tách (2015), “Phát huy hiệu quả giá trị truyền thống tiêu biểu ở Trường
Sĩ quan Lục quân 1”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (227), tr.159-161.
5. Lê Văn Tách (2016), “Công tác giáo dục truyền thống ở Trường Sĩ quan Lục
quân 1 - Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số
5/2016), tr.95-97.
6. Lê Văn Tách (2016), “Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa quân sự ở
đơn vị cơ sở dưới góc độ quan hệ truyền thống và hiện đại”, Tạp chí
Giáo dục Lý luận, (243), tr.54-55.
7. Lê Văn Tách (2017), “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giảng vên ở
Trường Sĩ quan Lục quân 1”, Tạp chí Quân huấn, (603), tr.43-45.
8. Lê Văn Tách (2018), “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giảng viên trong
Nhà trường Quân đội hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (272), tr.76-
80,88.
9. Lê Văn Tách (2018), “Định hướng phát triển văn hóa chính trị trong nhà
trường quân đội”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (số đăng ngày 12-4-2018).
10. Lê Văn Tách (2019), “Xây dựng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Quân sự, (164), tr.8-9.
11. Lê Văn Tách (2019), “Đặc trưng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội
nhân dân Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, (206), tr. 60-66.
12. Lê Văn Tách (2019), “Nhận diện các yếu tố tác động và định hướng phát triển
văn hóa chính trị ở nhà trường quân đội hiện nay”, Tạp chí Khoa học
Chính trị quân sự, số 4(47), tr.35-39.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu Tiếng Việt
1. I. Acnônđốp (1993), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, (Hoàng Vinh, Nguyễn
Văn Hy dịch), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1996), Giản yếu - Hán - Việt từ - điển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Đào Duy Anh (2004), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
4. Đỗ Ngọc Anh và Đỗ Thị Minh Thúy (2013), Vấn đề phát triển văn hóa (Qua văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ XI), NXB Văn hóa - Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
5. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
6. Ban liên lạc khóa 1 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (2011), 65 năm dưới lá cờ
Trung với nước, hiếu với dân, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
7. Ban liên lạc Khóa V (2009), Trường trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa V -
Khóa chuẩn bị tổng phản công, NXB Lao động, Hà Nội.
8. Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ
trương của Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội
đại biểu Toàn quốc lần thứ XII của Đảng, (Dùng cho cán bộ chủ chốt và
báo cáo viên), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
10. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội
nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn hóa - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
12. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội
nhập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Chí Bền (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
153
14. Nguyễn Vương Bình (2017), Định hướng giá trị văn hóa của học viên đào tạo
sĩ quan trong các trường Quân đội, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
15. Trần Văn Bính (2000), Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta
hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội.
16. Bộ Quốc phòng (2004), Nhà trường quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
17. Bộ Quốc phòng (2011), Điều lệnh quản lý bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
18. Bộ Quốc phòng (2016), Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt
Nam, Hà Nội.
19. Bộ Quốc phòng (2019), Thông tư số 42/2019/TT-BQP ngày 19/4/2019 của Bộ
Quốc phòng
20. Bộ Tổng Tham mưu - Cục Nhà trường (2019), số 1870/NT-KH, ngày 16 tháng
10 năm 2019, Về việc Kết quả thực hiện Kết luận của Quân ủy Trung
ương, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu đối với Trường Sĩ quan Lục quân
1, Hà Nội.
21. Bộ Tổng Tham mưu - Cục Nhà trường (2019), số 1474/BC-NT, ngày 15 tháng 8
năm 2019, Báo cáo Tổng kết năm học 2018 -2019, phương hướng nhiệm vụ
năm học 2019 -2020, Hà Nội.
22. Bộ Tổng Tham mưu - Đoàn kiểm tra (2019), số 1854/KT-ĐKT ngày 24 tháng 7
năm 2019, Kết luận Kiểm tra công tác giáo dục, đào tạo và xây dựng chính
quy Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.
23. Hoàng Đình Chiều (2012), Nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách Bộ
đội Cụ Hồ của thanh niên quân đội hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
24. Tạ Thành Chung (2017), Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính
trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
154
26. Đinh Xuân Dũng (1999), Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến
sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
27. Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
28. Đinh Xuân Dũng (2014), Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đinh Xuân Dũng (2016), Văn hóa & con người Việt Nam hiện nay - Mấy suy
nghĩ từ thực tiễn, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
30. Lê Văn Dũng (2004), Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
31. Thành Duy (2007), Văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu: Thời cơ và thách
thức, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
32. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
33. Đảng bộ Học viện Chính trị (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học
viện Chính trị lần thứ XV nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.
34. Đảng bộ Quân đội - Đảng ủy Học viện Chính trị, số 10 - BC/ĐU, ngày 16 tháng
6 năm 2016, Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 124 - CT/QUTW
ngày 31 tháng 3 năm 2011 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai
đoạn mới (2011-2016), Hà Nội.
35. Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2010), Lịch sử Đảng bộ Trường Sĩ quan
Lục quân 1 (1945- 2010), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
36. Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ
XVI nhiệm kỳ 2015 - 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
37. Đảng bộ Quân đội - Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2018), số 7790-
BC/ĐU, ngày 10 tháng 12 năm 2018, Báo cáo Kết quả đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”
và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng
danh Bộ đội Cụ Hồ” trong Đảng bộ Nhà trường năm 2018, Lưu hành nội
bộ, Hà Nội.
155
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Lưu hành nội bộ, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết
(2015) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi
mới (1986-2016), Lưu hành nội bộ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng ủy Học viện Chính trị - CQTTĐUHV (2018), số 800/BC-CQTT ngày 28
tháng 5 năm 2018, Báo cáo Kết quả 2 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
41. Đảng ủy Quân sự Trung ương (1994), Nghị quyết số 93/ ĐUQSTW về công tác
Nhà trường quân đội, Hà Nội.
42. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2008), số: 1683-TB/BCĐ ngày 16 tháng 6
năm 2008, Thông báo của Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục
quân 1, Hà Nội.
43. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), số 1795-BC/ĐU ngày 08 tháng 4
năm 2016, Báo cáo Tổng kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của
Bộ Chính trị, Chỉ thị 317-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung
ương về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; kết quả 02 năm thực hiện Chỉ thị số 778-CT/QUTW về
phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng,
xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, Hà Nội.
44. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), số 7216-BC/ĐU ngày 26 tháng 12
năm 2016, Báo cáo Kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh - Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng,
xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” năm 2016 và triển khai thực hiện Chỉ thị 05-
CT/TW, Chỉ thị 87-CT/QUTW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Phạm Duy Đức (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
156
46. Phạm Duy Đức (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Xu
hướng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Lê Quý Đức (2014), Văn hóa chính trị Việt Nam (Giáo trình cao học, chưa xuất
bản), Viện Văn hóa và Phát triển - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
48. Vũ Văn Đức (1996), Xây dựng môi trường văn hóa đơn vị cơ sở trong quân đội
hiện nay, Luận văn Cao học, Học viện Chính trị, Hà Nội.
49. Trần Thanh Giang và Đỗ Minh Hợp (2017), Văn hóa và khoa học về văn hóa,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hóa và xây
dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
51. Phạm Minh Hạc (2015), Tìm hiểu các giá trị dân tộc Việt Nam với tâm lý học
và giáo dục học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lý học, Tập 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
53. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa
và con người Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
54. Học viện Chính trị (2015), Báo cáo tự đánh giá (Dùng để đăng ký kiểm định chất
lượng giáo dục Học viện Chính trị), Hà Nội.
55. Học viện Chính trị - Báo cáo Tổng kết các năm học 2015 - 2016; 2016 - 2017;
2017 - 2018 và 2018 - 2019, Hà Nội.
56. Học viện Chính trị (2017), số 1703/BC-HV5, ngày 23 tháng 11 năm 2017, Báo
cáo Kết quả xây dựng môi trường văn hóa học đường, ứng xử văn hóa tại
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
57. Học viện Chính trị - Phòng Chính trị (2017), số 1303/BC-CT ngày 22 tháng 9
năm 2017, Báo cáo Tổng kết 25 năm thực hiện Cuộc vân động “Xây
dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”
gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
(1992 - 2017), Hà Nội.
58. Học viện Chính trị (2017), Quy chế làm việc của Học viện Chính trị (Ban hành
kèm theo Quyết định số 621/QĐ-HV1 ngày 12 tháng 5 năm 2017 của
Giám đốc Học viện Chính trị), Hà Nội.
157
59. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, tập 8 -
Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Tái bản lần 3, NXB Lý luận chính
60. Học viện Chính trị (2013), Truyền thống Học viện Chính trị, Cổng thông tin
trị, Hà Nội.
điện tử Học viện Chính trị, ngày 09/12/2013.
61. Học viện Chính trị (2018), Quy định xây dựng chính quy ở Học viện Chính trị
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1234/QĐ-HV1 ngày 31 tháng 7 năm
2018 của Giám đốc Học viện), Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Hùng (2016), Niềm tin chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
63. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa từ góc nhìn giá trị học, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
64. Đỗ Huy (2005), Văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Đỗ Huy (2013), Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập
và phát triển, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Huyên (2000), Triết lí phát triển C. Mác - Ph. Ănghen - V.I Lênin,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
67. Nguyễn Văn Huyên (2007), Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn và Nguyễn Văn Vĩnh (2009), Bước đầu
tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Quan niệm của Các Mác về tha hóa và ý
nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay
(Sách chuyên khảo), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Hữu Khiển (2006), Phân tích triết học - Những vấn đề cơ bản về chính trị
và khoa học chính trị, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
71. Nguyễn Xuân Kính (2002), Con người, môi trường và văn hóa, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
158
72. Lưu Ngọc Khải, Nguyễn Văn Tùng (2014), Thanh niên quân đội với việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
73. Nguyễn Minh Khoa (2016), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây dựng
văn hóa chính trị Việt Nam, Sách tham khảo, NXB Chính trị Quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
74. Nguyễn Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và
thực tiễn, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
75. Nguyễn Hữu Lập (2017), Xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho học
viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở Học viện Chính trị hiện nay, Báo
cáo tổng hợp đề tài cấp Học viện, Học viện Chính trị, Hà Nội.
76. Nguyễn Hiến Lê (2017), Lão Tử - Đạo đức kinh, NXB Văn hóa - Văn nghệ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
77. Ngô Xuân Lịch (2018), Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, Tạp chí điện tử, Học viện Hậu cần, số ra ngày 28/8/2018.
78. Đặng Vũ Cảnh Linh (2010), Con người Việt Nam truyền thống - Những giá trị
đối với sự phát triển, NXB Lao động, Hà Nội.
79. Luận ngữ (1992), Lê Phục Thiện (dịch), NXB Văn học, Hà Nội.
80. Lê Quốc Lý (2014), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. C. Mác-Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
82. C. Mác - Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, tập 1, phần I, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
83. C. Mác-Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh, (2001), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh, (2002), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
159
91. Nguyễn Đình Minh (2016), Xây dựng Học viện Chính trị vững mạnh, trở thành
trung tâm đào tạo có uy tín, Tạp chí Quân đội Nhân dân, Học viện Chính trị.
92. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hóa vì phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
93. Nghiêm Thị Thu Nga (2018), Văn hóa chính trị thời thịnh Trần, luận án tiến sĩ
Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
94. Đỗ Văn Ngoan (2009), Quan hệ thống nhất - đa dạng trong phát triển môi trường
văn hóa quân sự ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
95. Trịnh Thị Kim Ngọc (2009), Con người và văn hóa - từ lý luận đến thực tiễn
phát triển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
96. Nhiều tác giả (2019), Các lý thuyết văn hóa (Đỗ Thúy Lai tuyển chọn và giới
thiệu), NXB Hồng Đức, Hà Nội.
97. Nhiều tác giả (2019), Giáo dục giá trị trong nhà trường, NXB Đại học Huế, Huế.
98. Nhiều tác giả (2009), Quân đội nhân dân học tập và làm theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện
đại, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội,
100. Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ lãnh
đạo ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
101. Lê Văn Quang và Văn Đức Thanh (2002), Văn hóa quân sự Việt Nam, Hà Nội.
102. Quân ủy Trung ương - Cơ quan thường trực QUTW về học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Bộ phận giúp việc (2016), số
2940/BC-BPGV ngày 05 tháng 10 năm 2016, Báo cáo Kết quả bước đầu
triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính
trị, Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân, Hà Nội.
103. Quân ủy Trung ương (2017), số 355-CT/QUTW, ngày 20 tháng 4 năm 2017,
Chỉ thị Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa, văn học,
nghệ thuật trong Quân đội giai đoạn hiện nay, Hà Nội.
104. GS Radugin. A. A. (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, (Người dịch Vũ
Đình Phòng), Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
160
105. Radughin. A. A. (2004), Văn hóa học - Những bài giảng, Viện Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
106. Nguyễn Hồng Sơn (2004), Văn hóa và phát triển - Sự nhận thức và vận dụng
trong thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
107. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2017), Văn hóa chính trị Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
cấp Bộ năm 2016), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện
Chính trị học, Hà Nội.
108. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Hà Nội.
109. Văn Đức Thanh (2014), Văn hóa quân sự Việt Nam - Truyền thống và hiện
đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
110. Văn Đức Thanh (2016), Triết học văn hóa (Giáo trình), NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
111. Văn Đức Thanh và Nguyễn Mạnh Hưởng, Tư tưởng chiến tranh nhân dân trong
sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
112. Nguyễn Toàn Thắng (2010), Sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ 1930 đến
nay, Đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.
113. Trần Ngọc Thêm (2015), Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai
đoạn hiện tại, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
114. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh.
115. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị Văn hóa
truyền thống trong đổi mới và hội nhập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
116. Phạm Bá Toàn (2012), Giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ (Qua hồi ký, nhật ký
chiến tranh), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
117. Tổng cục Chính trị (1992), Chỉ thị về xây dựng môi trường văn hóa mới trong
các đơn vị quân đội, Hà Nội.
118. Tổng cục Chính trị (2000), Công tác tư tưởng văn hoá trong xây dựng quân
đội về chính trị, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
119. Tổng cục Chính trị (1998), Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị, tập I,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
161
120. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Cục Tuyên huấn (2016),
Phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
121. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Cục Tuyên huấn (2018),
Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay (Tài liệu dùng cho nghiên cứu, học tập chính trị trong
quân đội), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
122. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2015), Tài liệu nghiên cứu,
học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần
thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
123. Tổng cục Chính trị (2002), Tổng kết 10 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng
môi trường văn hóa, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
124. Tổng cục Chính trị (2007), Xây dựng niềm tin của cán bộ, chiến sĩ vào vũ khí
trang bị kỹ thuật sẵn sàng đánh thắng chiến tranh kiểu mới, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
125. Tổng cục Chính trị (2005), Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở đơn vị cơ sở
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, NXB Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
126. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2002), “Giáo trình Văn hóa
học”, (2009) (dùng cho đào tạo bậc đại trong các nhà trường quân đội hiện
nay), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
127. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc văn hóa dân tộc và hiện đại trong văn hóa, Hà Nội.
129. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa và phát triển từ lý luận đến thực tiễn, NXB
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
130. Bế Xuân Trường, Nguyễn Bá Dương (2013), Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Trường Sĩ quan Lục quân 1, Báo cáo Tổng kết các năm học 2015 - 2016; 2016 -
2017; 2017 - 2018 và 2018 - 2019, Hà Nội.
132. Trường Sĩ quan Lục quân 1- Ban Chỉ đạo lấy ý kiến phản hồi (2018, 2019),
Báo cáo Kết quả khảo sát học viên Khóa 82,83 tốt nghiệp năm 2018,
2019 về chất lượng giáo dục - đào tạo, Hà Nội.
162
133. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (1997), Báo cáo sơ kết 5 năm Cuộc vận động xây
dựng môi trường văn hóa ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.
134. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2000), Công tác đảng, công tác chính trị
Trường Sĩ quan Lục quân 1 1945 - 2000 (Biên niên sự kiện), NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
135. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2010), 65 năm xây dựng chiến đấu và trưởng
thành của Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.
136. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2014), Báo cáo tự đánh giá để đăng ký kiểm định
chất lượng Giáo dục Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Đại học Trần Quốc
Tuấn, Hà Nội.
137. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Chương trình Giáo dục đại học, đào tạo Sĩ
quan Chỉ huy - Tham mưu cấp phân đội, Hà Nội.
138. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm
ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục quân 1 (15/4/1945 - 15/4/2015),
Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
139. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học 70 năm xây
dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng thành của Trường Sĩ quan Lục quân
1, Hà Nội.
140. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2019), Quy chế Giáo dục - Đào tạo của Trường Sĩ
quan Lục quân, (Ban hành kèm theo Quyết định số: 888/QĐ-LQ ngày 24
tháng 01 năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1), Hà Nội.
141. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), Quy định về xây dựng chính quy, bảo đảm an
toàn, sẵn sàng chiến đấu của Trường Sĩ quan Lục quân 1, (Ban hành kèm
theo Quyết định số 4876/QĐ-LQ ngày 09 tháng 9 năm 2016), Hà Nội.
142. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2017), số: 2689/QĐ-LQ ngày 15 tháng 5 năm
2017, Quyết định về việc ban hành Quy chế làm việc của Trường Sĩ quan
Lục quân 1, Hà Nội.
143. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2017), Quy chế làm việc của Trường Sĩ quan Lục
quân 1, Hà Nội.
144. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Mạch nguồn chảy mãi, NXB Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
163
145. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2015), số: 1931/BC-CT ngày
03 tháng 5 năm 2015, Báo cáo Kết quả lãnh đạo công tác giáo dục chính
trị tư tưởng (từ năm 2010 - 2015), Hà Nội.
146. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2017), số: 1297/CT-TH ngày 13
tháng 3 năm 2017, V/v thống nhất tiêu chí học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của các đối tượng trong Nhà trường,
Hà Nội.
147. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2017), số: 6013/BC-CT ngày 28
tháng 9 năm 2017, Báo cáo Tổng kết 25 năm thực hiện Cuộc vận động
“Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân
đội” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, Hà Nội.
148. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2018), số: 6964/HD-CT ngày 09
tháng 11 năm 2018 Hướng dẫn thực hiện nếp sống văn hóa trong thanh
niên Nhà trường, Hà Nội.
149. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý
ở nước ta hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
150. Phạm Hồng Tung (2010), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa
chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
151. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2007), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
152. Hàn Phi Tử (2005), Phan Ngọc (dịch), NXB Văn học, Hà Nội.
153. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng (2010), Nâng cao
văn hóa lãnh đạo của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở
Quân đội nhân dân Việt Nam, Đề tài, NXB Quân đội nhân, Hà Nội.
154. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
155. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
156. Huỳnh Khái Vinh (1998) Những vấn đề thời sự văn hóa, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
164
157. Huỳnh Khái Vinh (2001), Phát triển văn hóa - phát triển con người, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
158. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước
ta, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
159. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
160. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), (2007), Tập bài giảng Chính trị học, Viện Khoa
học Chính trị, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
161. Ngô Doãn Vịnh (2013), Giải thích thuật ngữ trong nghiên cứu phát triển (Bối
cảnh và điều kiện của Việt Nam), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
162. Phạm Văn Xây (2017), Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường Quân đội hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
163. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2003), Tâm lý học đại
cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng nước ngoài
164. Almond G. (1956), Comparative Political System, The Journal of Politics (8),
pp. 12 - 15.
165. Almond G. and Verba S.(1963), The Civic Culture, Boston: little, Brown & Co.
166. Almond G. and Verba S.(1963), The Civic Culture: Politiccal Attitues and
Democracy in five Nations, Pricenton University Press.
ngày 18/6/2016.
167. Culture denfinition: http//www.tamu.edu/faculty/choudhury/culture.html. Truy cập
168. Dennis Kavannagh (1972), Political Culture, London Basinstocke, Macmillan.
169. Pye L. (1968), Political Culture, International Encyclopedia of the Social
Sciences, Vol. 12, London, Macmillan.
170. Rosenbaum W. (1995), Political Culture, N. Y
165
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (Mẫu dành cho học viên)
Trang
PHỤ LỤC 2 BẢNG HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
166
PHỤ LỤC 3 ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ
171
DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN
PHỤ LỤC 4 KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU CỦA LUẬN ÁN TỪ PHẦN MỀM SPSS 178
PHỤ LỤC 5 KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH
174
TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
PHỤ LỤC 6 BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU LUẬN ÁN
191
PHỤ LỤC 7 SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIÊN SỐ
203
PHỤ LỤC 8 SỐ LIỆU VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN VÀ HOẠT
ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG
218
NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
PHỤ LỤC 9 MƯỜI LỜI THỀ DANH DỰ CỦA QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI
220
NHÂN DÂN VIỆT NAM
PHỤ LỤC 10 MƯỜI HAI ĐIỀU KỶ LUẬT KHI QUAN HỆ VỚI NHÂN DÂN
226
CỦA QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
PHỤ LỤC 11 MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN VĂN
228
HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
PHỤ LỤC 12 Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC
VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
229
237
166
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
(Mẫu dành cho học viên)
Bảng hỏi số……
Khảo sát viên…........ Thời gian khảo sát……….. Địa điểm khảo sát………
Mục đích khảo sát: nhằm tìm hiểu những nhận thức và đánh giá của học
viên về thực trạng “văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay”, qua đó, góp phần bổ sung, làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực
tiễn về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, từ đó để rút ra những vấn đề
làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao văn hóa chính trị, hướng tới mục tiêu không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
Đối tượng khảo sát: Học viên của hai nhà trường: Học viện Chính trị và
Trường Sĩ quan Lục quân 1.
Các đồng chí vui lòng khoanh tròn vào phương án trả lời được lựa chọn và có
thể ghi ý kiến khác vào bên cạnh. Chúng tôi cam kết thông tin các đồng chí cung cấp
chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học, ngoài ra không sử dụng vào bất cứ
một mục đích nào khác. Rất mong nhận được sự hợp tác của các đồng chí.
Xin chân thành cảm ơn sự tham gia của các đồng chí.
I. THÔNG TIN VỀ CÁ NHÂN
Nam Câu 2 Giới tính? Nữ
Dưới 35 tuổi
Từ 35 đển 45 tuổi Câu 3 Độ tuổi?
Trên 45 tuổi
Hạ sĩ quan (biến đối chứng)
Cấp úy Câu 4 Cấp bậc Thiếu tá, trung tá
Câu 1 Họ và tên (Không bắt buộc): …………………………………......…… 1 2 1 2 3 1 2 3 4 Thượng tá, đại tá
167
Câu 5 Ngành/Chuyên ngành học? …………………………..………………
1 Năm thứ nhất
2 Năm thứ hai Câu 6 Học viên năm thứ mấy? 3 Năm thứ ba
4 Năm thứ tư
Học viện Chính trị-Bộ quốc phòng 1 Câu 7 Trường đang học? 2 Trường Sĩ quan Lục quân 1
1 Nghèo
2 Trung bình Câu 8 Điều kiện sống của gia đình học viên
3 Khá giả trở lên
2 Nông thôn Câu 9 Nơi ở của học viên sinh sống (trước khi học tập) 3 Thị trấn/thành phố
II. NỘI DUNG CHÍNH
Câu 1. Đối với đồng chí việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà
trường quân đội hiện nay có cần thiết hay không? (Chọn 1 phương án trả lời)
Có 1 Không 2
Câu 2. Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
hiện nay đã giúp đồng chí những điều gì? (khoanh tròn vào con số chỉ mức độ)
Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay đã giúp đồng chí Đồng ý Không đồng ý
2.1. Nâng cao nhận thức của cá nhân về chính trị
2.2. Hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân
2.3. Được nói lên tâm tư, nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản thân mình.
2.4. Có niềm tin, ý chí và lý tưởng đối với văn hóa chính trị
2.5. Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị
2.6. Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội và chính trị
168
Câu 3. Mức độ hài lòng của đồng chí về việc định hướng văn hóa chính
trị trong nhà trường quân đội hiện nay
Hoàn toàn không hài lòng 1 Không hài lòng 2
Bình thường 3 Hài lòng 4
Rất hài lòng 5 Không có ý kiến 99
Câu 4. Theo đồng chí, việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà
trường quân đội hiện nay là cần thiết hay không?
Rất không cần thiết 1 Không cần thiết 2
Bình thường 3 Cần thiết 4
Rất cần thiết 5 Không có ý kiến 99
Câu 5. Dưới đây là thực trạng của văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà
đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng nội dung. Trong đó có 5 mức độ
tương ứng: 1. Rất không cần thiết; 2. Không cần thiết; 3. Bình thường; 4. Cần
thiết; 5. Rất cần thiết)
Thực trạng của văn hóa chính trị Mức độ
5a. Chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
5a1. Nhận thức chính trị 3 4 5 1 2
5a2. Tình cảm chính trị 3 4 5 1 2
5a3. Ý chí chính trị 3 4 5 1 2
5a4. Thái độ chính trị 3 4 5 1 2
5a5. Năng lực tham gia các hoạt động chính trị 3 4 5 1 2
5a6. Lý tưởng chính trị 3 4 5 1 2
5a7. Niềm tin chính trị 3 4 5 1 2
5a8. Uy tín chính trị cá nhân 3 4 5 1 2
169
Thực trạng của văn hóa chính trị Mức độ
5b. Thang bậc giá trị văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội
5b1. Triết lý chính trị 1 2 4 5 3
5b2. Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị 1 2 4 5 3
5b3. Di sản và truyền thống chính trị 1 2 4 5 3
5c. Thể chế, thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội
5c1. Sứ mệnh, mục tiêu, yêu cầu đào tạo cần gắn liền với 1 2 3 4 5 chức năng và nhiệm vụ NTQĐ
5c2. Vai trò của sứ mệnh, mục tiêu nhà trường quân đội 1 2 3 4 5
5c3. Hành động để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo 1 2 3 4 5
5c4. Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị 1 2 3 4 5
5c5. Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân 1 2 3 4 5
5c6. Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức 1 2 3 4 5
5c7. Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ 1 2 3 4 5
5d. Hoạt động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
5d1. Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học 1 2 3 4 5
5d2. Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học 1 2 3 4 5
5d3. Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức 1 2 3 4 5
3 4 5 5d4. Các hoạt động khác 1 2
Câu 6. Dưới đây là những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà
trường quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà
đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng yêu cầu. Trong đó có 5 mức độ tương
ứng: 1. Rất không quan trọng; 2. Không quan trọng; 3. Bình thường; 4. Quan trọng; 5.
Rất quan trọng)
6a. Tác động thuận chiều Mức độ
6a1. Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công 1 2 3 4 5
170
6a. Tác động thuận chiều Mức độ
nghệ, truyền thông
6a2. Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước 1 2 3 4 5
6a3. Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu, 1 2 3 4 5 nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới
6b. Tác động trái chiều
6b1. Sự chống phá của các thế lực thù địch 1 2 3 4 5
6b2. Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công 1 2 3 4 5 nghệ, truyền thông
6b3. Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước 1 2 3 4 5
6b4. Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng, văn 1 2 3 4 5 hóa trong quân đội và công tác xây dựng nhà trường quân đội
Câu 7. Dưới đây là một số vấn đề đặt ra đối với hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng yêu cầu. Trong đó có 5 mức độ tương ứng: 1. Rất không quan trọng; 2. Không quan trọng; 3. Bình thường; 4. Quan trọng; 5. Rất quan trọng)
Nội dung vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà Mức độ trường quân đội
1 2 3 4 5
1 2 3 4 5
7a. Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 7b. Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại 7c. Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực 1 2 3 4 5 hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội
Một lần nữa xin cảm ơn sự cộng tác của các đồng chí!
7d Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, 1 2 3 4 5 nghị quyết và các cuộc vận động
171
PHỤ LỤC 2
BẢNG HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
A. DÙNG CHO GIẢNG VIÊN
Đối tượng là giảng viên, cán bộ quản lý đang công tác tại Học viện Chính trị -
Bộ Quốc phòng và Trường Sĩ quan Lục quân 1.
1. Chủ đề: Công tác quản lý và hỗ trợ học viên trong việc nâng cao văn
hóa chính trị trong nhà trường quân đội
2. Mục đích: Với việc sử dụng phương pháp này, nhằm mục đích thu thập
được những thông tin cần thiết liên quan đến quan điểm của cán bộ giảng viên Học
viện Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1 trong công tác quản lý học viên về
định hướng nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, hướng tới mục
tiêu không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
3. Đối tượng tham gia vào cuộc phỏng vấn: Cán bộ giảng viên Học viện
Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1
4. Thời lượng: 30 phút/đối tượng (Kết hợp quan sát và ghi hình ảnh)
5. Định hướng phỏng vấn:
5.1. Thông tin cá nhân người được phỏng vấn: Họ và tên, tuổi, trình độ học
vấn, chức vụ hiện tại, thời gian công tác tại đơn vị.
5.2. Tình hình định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay ra sao? Việc định hướng các giá trị đó có ý nghĩa như thế
nào đối với học viên (nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị; nâng cao năng lực,
hứng thú, tính cách của học viên; nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội
và chính trị…)
5.3. Đánh giá thực trạng trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay như thế nào? (Nhận thức chính trị; tình cảm chính trị; ý chí chính trị; thái độ
chính trị; uy tín chính trị cá nhân; niềm tin chính trị; triết lý chính trị, chuẩn mực,
khuôn mẫu chính trị…)
5.4. Đánh giá những yếu tố tác động thuận chiều và trái chiều đến văn hóa
chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay?
172
5.5. Ý kiến đề xuất nhằm nâng cao vai trò của cán bộ giảng viên Học viện
Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1 trong quản lý và hỗ trợ học viên nâng cao
văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
B . DÙNG CHO HỌC VIÊN
Đối tượng là học viên đang học tập tại Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
và Trường Sĩ quan Lục quân 1.
1. Chủ đề phỏng vấn: Tìm hiểu việc định hướng nâng cao văn hóa chính trị
trong nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
2. Mục đích: Tìm hiểu, đánh giá thực trạng và việc định hướng các giá trị
văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Thông
qua đó phát huy tích cực văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội.
3. Đối tượng tham gia vào cuộc phỏng vấn: đối tượng là học viên đang học
tập tại Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng và Trường Sỹ quan Lục quân 1. Các đối
tượng được hỏi sẽ được lựa chọn dựa trên các tiêu chí về độ tuổi, học vấn, chuyên
ngành, học viên năm thứ mấy, trường đang học…
4. Thời lượng: 30 phút/đối tượng (Kết hợp quan sát và ghi hình ảnh)
5. Định hướng phỏng vấn:
5.1. Thông tin cá nhân người được phỏng vấn: Họ và tên, tuổi, giới tính, học
vấn, chuyên ngành học, học viên năm thứ mấy, trường đang học tập....
5.2. Môi trường học tập của người được phỏng vấn: Học tập năm thứ mấy,
kết quả học tập trong năm học gần nhất, môi trường học tập có ảnh hưởng lớn tới
việc định hướng văn hóa chính trị với cá nhân người được phỏng vấn hay không?
5.3. Tình trạng người được phỏng vấn theo môi trường học tập
- Lý do chọn môi trường học tập này là gì? (do gia đình định hướng, do nhu
cầu của xã hội, do cơ chế chính sách ở địa phương, do sở thích cá nhân,…..)
- Học ở đây từ năm nào? Hiện tại đang là học viên năm thứ mấy?
- Học chuyên ngành nào? Cấp bậc hiện nay ra sao? Độ tuổi như thế nào?
- Dự định hiện tại như thế nào? Dự định trong thời gian sắp tới là gì?
5.4. Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam
- Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay đã giúp đồng chí những điều gì? (Nâng cao nhận thức cá nhân về
173
chính trị; hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân; được nói
lên tâm tư nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản thân; có niềm
tin, ý chí đối với văn hóa chính trị…)
- Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay có cần thiết hay không?
- Những biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay là gì? (Nhận thức chính trị; tình cảm chính trị; ý chí chính trị;
thái độ chính trị; uy tín chính trị cá nhân; niềm tin chính trị; triết lý chính trị, khuôn
mẫu chuẩn mực chính trị…)
5.5. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay là gì?
- Tác động thuận chiều: toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công
nghề, truyền thông; tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước và sự phát
triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong
tình hình mới.
- Tác động trái chiều: sự chống phá của các thế lực thù địch; toàn cầu hóa,
kinh tế thị trường và sự phát triển công nghề, truyền thông; tác động của yếu tố văn
hóa chính trị trong nước và tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng, văn
hóa trong quân đội với công tác xây dựng nhà trường quân đội hiện nay
5.6. Nhận định của đồng chí về những vấn đề đặt ra đối văn hóa chính trị
trong nhà trường quân đội
- Vị trí, vai trò nhận thức của chủ thể đối với yêu cầu xây dựng văn hóa
chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay?
- Yêu cầu nâng cao văn hóa chính trị có cần thiết phải đặt trong bối cảnh
chung của tình hình đất nước, quân đội và thực tiễn của của mỗi trường?
- Vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong việc nâng cao văn hóa chính
trị hiện nay?
- Nâng cao văn hóa chính trị có vai trò như thế nào trong việc nâng cao
chất lượng dạy học, nghiên cứu khoa học và trong việc hoàn thiện nhân cách của
các chủ thể.
5.7. Mong muốn của đồng chí để việc nâng cao văn hóa chính trị trong nhà
trường Quân đội nhân dân Việt Nam được tốt hơn trong thời gian tới ?
174
PHỤ LỤC 3
ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
VÀ DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN
A. ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
Đơn vị Học viện Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1
N (người) (%) N (người) (%) Đặc điểm
1. Giới tính
150
100,0 150 100,0 Nam
0
0,0 0 0,0 Nữ
100,0 150 150 100,0 Tổng
2. Tuổi
30,0 45 139 92,7 Dưới 35 tuổi
50,0 75 11 7,3 Từ 35 đển 45 tuổi
20,0 30 0 0,0 Trên 45 tuổi
150 100,0 150 100,0 Tổng
3. Học viên năm
33
24,0 36 22,0 Năm thứ nhất
39
24,7 37 26,0 Năm thứ hai
44
27,3 41 29,3 Năm thứ ba
34
24,0 36 22,7 Năm thứ tư
150 100,0 150 100,0 Tổng
4. Cấp bậc
0,0 0 141 94,0 Hạ sĩ quan
16,0 24 5 3,3 Cấp úy
78,0 117 4 2,7 Thiếu tá, trung tá
6,0 9 0 0,0 Thượng tá, đại tá
150 100,0 150 100,0 Tổng
175
Đơn vị Học viện Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1
N (người) (%) N (người) (%) Đặc điểm
5. Ngành/chuyên ngành
34,0 51 -
Cán bộ Chính ủy Trung đoàn, sư đoàn
34,7 52 -
Giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự
31,3 47 Cán bộ nghiên cứu -
- 46 30,7
Chỉ huy tham mưu Lục quân binh chủng hợp thành
- Giảng viên quân sự 54 36,0
- Thạc sĩ nghệ thuật quân sự 50 33,3
Tổng 150 100,0 150 100,0
6. Điều kiện sống của gia đình học viên
14,0 21 Nghèo 19 12,7
44,7 67 Trung bình 56 37,3
41,3 62 Khá giả 75 50,0
Tổng 150 100,0 150 100,0
7. Nơi ở của học viên sinh sống (trước khi học tập)
Nông thôn 106 70,7 108 72,0
Thị trấn/thành phố 44 29,3 42 28,0
Tổng 150 100,0 150 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
176
B. DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN
1. Cán bộ, giảng viên và học viên của Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị Ghi chú Năm sinh Cấp bậc
1 Bùi Ngọc Quỵnh 1966 Đại tá Chủ nhiệm khoa Khoa Kinh tế Chính trị Giảng viên trực tiếp giảng dạy
2 Trương Sao Hôm 1968 Đại tá Trưởng ban Cán bộ cơ quan Ban Khảo thí &ĐBCLGD
Hệ 6 3 Nguyễn Anh Tuấn 1970 Đại tá
Hệ 7 4 Dương Đình Lâm 1968
5 Đoàn Đức Khánh 1973 Thượng tá Thượng tá
6 Bùi Xuân Quỳnh 1976 Trung tá
7 Nguyễn Hải Yến 1979 Thiếu tá Phòng Sau Đào tạo Khoa Triết học Khoa Ngoại ngữ
8 Nguyễn Xuân Khánh 1979 Thiếu tá Hệ 6
9 Lê Ngọc Tường 1980 Chính trị viên Hệ Phó Hệ trưởng Trưởng ban NCS Chủ nhiệm bộ môn Chủ nhiệm bộ môn Chủ nhiệm khối Trợ lý ban kế hoạch Thiếu tá
10 Trần Đức Thái 1986 Đại úy Trợ lý Phòng Sau đại học Phòng Chính trị Cán bộ chính trị quản lý đơn vị Cán bộ quân sự quản lý đơn vị Cán bộ cơ quan Giảng viên trực tiếp giảng dạy Giảng viên trực tiếp giảng dạy Cán bộ quản lý đơn vị Cán bộ cơ quan Cán bộ cơ quan
11 Nguyễn Danh Hân 1975 Học viên Hệ 6
12 Nguyễn Đức Hùng 1976 NCS Hệ 6
13 Mùa A Khương 1980 Học viên Hệ 1
14 Lê Xuân Dũng 1982 NCS Hệ 6 Trung tá Trung tá Thiếu tá Thiếu tá
15 Nguyễn Thanh Hùng 1987 Đại úy Học viên Hệ 2 HV đào tạo SĐH HV đào tạo SĐH HV đào tạo CU HV đào tạo SĐH Đào tạo giảng viên
177
2. Cán bộ, giảng viên và học viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1
TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị Ghi chú Năm sinh Cấp bậc
1 Nguyễn Văn Thanh 1970 Đại tá Chủ nhiệm khoa Giảng viên trực tiếp giảng dạy Khoa Chiến thuật
2 Nguyễn Thế Sơn 1964 Tiểu đoàn 6 Thượng tá Tiểu đoàn trưởng Cán bộ quân sự quản lý đơn vị
3 Lê Văn Quang 1968 Thượng tá Chủ nhiệm bộ môn Giảng viên trực tiếp giảng dạy Khoa Công tác đảng, Công tác chính trị
4 1968 Dương Quang Thủy Thượng tá Trưởng Ban Cán bộ Cán bộ cơ quan Phòng Chính trị
5 Lê Duy Thứ 1970 Trợ lý Cán bộ cơ quan Thượng tá Phòng Đào tạo
6 Vũ Trọng Đại 1972 Tiểu đoàn 2 Thượng tá Chính trị viên Tiểu đoàn Cán bộ chính trị quản lý đơn vị
7 Phạm Hồng Quân 1973 Thượng tá Ban Khảo thí & ĐBCLGD Phó trưởng ban Cán bộ cơ quan
8 Bùi Thị Mát 1981 Trung tá Giảng viên trực tiếp giảng dạy Phó Chủ nhiệm bộ môn Khoa Ngoại ngữ - Tiếng Việt
9 Nguyễn Tuấn Anh 1993 Tiểu đoàn 8 Thượng úy Chính trị viên đại đội Cán bộ chính trị quản lý đơn vị
10 Lê Quang Thắng 1995 Tiểu đoàn 9 Trung úy Trung đội trưởng Cán bộ quân sự quản lý đơn vị
11 Hà Văn Hòa 1988 Đại úy Học viên Hệ 14 Cao học
12 Đỗ Văn Huy 1995 Học viên Hệ 7 Giáo viên Trung úy
13 Phạm Văn Việt 1997 Học viên Tiểu đoàn 2 CHTM Thượng sĩ
14 Nguyễn Hữu Kiên 1998 Trung sĩ Học viên Tiểu đoàn 9 CHTM
15 Lê Như Dũng 2000 Học viên Tiểu đoàn 13 CHTM Binh nhất
178
PHỤ LỤC 4
KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU CỦA LUẬN ÁN TỪ PHẦN MỀM SPSS
Bảng 1: Mô tả các biến số độc lập trong phân tích
Tên biến số độc lập Định nghĩa
Dưới 35 tuổi = 1 (biến đối chứng), từ 35 đến 45 tuổi = Độ tuổi 2, 45 tuổi trở lên = 3
Hạ sĩ quan = 1 (biến đối chứng), cấp úy = 2, cấp thiếu Cấp bậc quân hàm tá và trung tá = 3, cấp thượng tá và đại tá = 4
Trường đang học HVCT = 1, TSQLQ1 = 2 (biến đối chứng)
Năm thứ nhất = 1 (biến đối chứng), Năm thứ hai = 2, Học viên năm mấy Năm thứ ba = 3, Năm thứ tư = 4
Điều kiện sống của gia Nghèo = 1, trung bình = 2, khá giả = 3 (biến đối chứng) đình học viên
Nơi ở của học viên sinh Nông thôn = 1, thị trấn/thành phố = 2 (biến đối chứng) sống (trước khi học tập)
Cán bộ Chính ủy trung đoàn, sư đoàn = 1, Giảng viên
khoa học xã hội nhân văn quân sự = 2 , Cán bộ
nghiên cứu = 3 (biến đối chứng 1), Chỉ huy tham mưu Chuyên ngành Lục quân binh chủng hợp thành = 4, Thạc sĩ nghệ
thuật quân sự = 5 (biến đối chứng 2) Giảng viên quân
sự = 6
179
Bảng 2: Đặc điểm cá nhân của học viên và việc định hướng VHCT
Đơn vị tính: %
Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không
159 25 184 N Dưới 35 tuổi 60,7% 65,8% 61,3% %
78 86 8 N Từ 35 đến 45 tuổi 29,8% 21,1% 28,7% %
25 30 5 N Trên 45 tuổi 9,5% 13,1% 10% %
262 38 300 N
% 100,0% 100,0% 100,0% Độ tuổi*** Tổng
119 22 141 N Hạ sĩ quan 45,4% 57,9 47,0% %
22 29 7 N Cấp úy 8,4% 18,4 9,7% %
116 121 5 N Thiếu tá, trung tá 44,3% 13,2 40,3% %
5 9 4 N Cấp bậc quân hàm*** Thượng tá, đại tá 2,3% 10,5 3,0% %
262 38 300 N
Tổng
% 100,0% 100,0% 100,0%
139 11 150 N Học viện Chính trị 53,1% 28,9% 50% %
123 27 150 N Trường Sĩ quan Lục quân 1 Trường đang học** 46,9% 71,1% 50% %
262 38 300 N
Tổng
100,0% 100,0% 100,0% %
180
Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không
Học viên năm Năm 1 56 13 69 N
mấy*** 21,4% 34,2% 23,0% %
Năm 2 64 12 76 N
24,4% 31,6% 25,3% %
Năm 3 7 85 78 N
29,8% 18,4% 28,3% %
Năm 4 6 70 64 N
24,4% 15,8% 23,4% %
262 38 300 N
Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %
5 51 46 N Chuyên Cán bộ Chính ủy trung
ngành*** đoàn, sư đoàn % 17,6% 13,2% 17,0%
5 52 47 N Giảng viên khoa học xã
hội nhân văn quân sự % 17,9% 13,2% 17,3%
8 47 39 N Cán bộ nghiên cứu % 14,9% 21,0% 15,7%
5 46 41 N Chỉ huy tham mưu Lục
quân binh chủng hợp thành % 15,6% 13,2% 15,3%
8 54 44 N Thạc sĩ nghệ thuật quân sự % 16,8% 21,0% 18,0%
5 50 45 N Giảng viên quân sự % 17,2% 13,2% 16,7%
N 262 38 300
% 100,0% 100,0% 100,0% Tổng
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
181
Bảng 3: Đặc điểm của gia đình học viên và việc định hướng VHCT
Đơn vị tính: %
Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không
Nơi ở của học viên 201 13 214 N Nông thôn sinh sống (trước khi 80,2% 34,2% 71,3% %
học tập)*** 61 25 86 N Thị trấn/
thành phố 19,8% 65,8% 28,7% %
262 38 300 N
% 100,0% 100,0% 100,0%
Điều kiện sống của 34 6 40 N Nghèo gia đình học viên*** 13,0% 15,8% 13,3% %
113 10 123 N Trung bình 43,1% 26,3% 41,0% %
115 22 137 N Khá giả 43,9% 57,9% 45,7% %
262 38 300 N
Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
182
Bảng 4: Ma trận tương quan giữa các yếu tố đặc điểm cá nhân
của học viên và việc định hướng VHCT
Trường Định Cấp Độ Học viên Chuyên hướng đang năm mấy ngành bậc VHCT tuổi học
300 300 300 300 300 300 N
Pearson Correlation 1 ,226** ,219** ,317** Độ tuổi
,000 ,000 ,000 Sig.
300 300 300 300 N
Pearson Correlation ,219** 1 -,237** ,226** -,218** ,336** Cấp bậc
,000 ,000 ,000 ,000 Sig.
300 300 300 300 300 300 N
Pearson Correlation ,237** ,237** ,222** -,241** ,319** 1 Trường
đang học Sig. ,000 000 000 000 ,000
300 300 300 300 300 300 N
Pearson Correlation 237** 237** ,237** 1 -,242** ,336** Học viên
năm mấy ,000 000 000 ,000 Sig.
300 300 300 300 300 N
Pearson Correlation 217** ,211** ,237** ,000 1 ,336** Chuyên
ngành ,000 000 000 ,000 Sig.
300 300 300 300 N 300
1 Pearson Correlation ,317** ,336** ,319* ,237* Định
hướng 0,00 000 Sig.
VHCT 300 300 300 N
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
183
Bảng 5: Ma trận tương quan giữa đặc điểm hộ gia đình học viên
và việc định hướng VHCT
Nơi ở của học viên Điều kiện Định
sinh sống (Trước sống của gia hướng
khi học tập) đình học viên VHCT
Nơi ở của học Pearson Correlation -,064 ,073 ,154**
viên sinh sống Sig. ,142 ,269 ,000 (Trước khi
N 300 300 300 học tập)
Điều kiện sống Pearson Correlation 1 -,653** -,288**
của gia đình ,000 ,000 Sig. học viên
300 300 300 N
Pearson Correlation -,714** 1 ,218**
,000 Sig. ,000
385 385 385 N
Định hướng Pearson Correlation -,288** ,218** 1
VHCT ,000 ,000 Sig.
300 300 300 N
Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
184
Bảng 6: Kết quả ước lượng mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm cá nhân của
học viên tác động đến việc việc định hướng VHCT
Biến số độc lập Odds Ratio Mức ý nghĩa (p)
Dưới 35 tuổi (biến đôi chứng)
Từ 35 đến 45 tuổi Độ tuổi
Trên 45 tuổi 2,324 0,000
Hạ sĩ quan (biến đối chứng)
Cấp úy Cấp bậc 1,219 0,000
Thiếu tá, trung tá Thượng tá, đại tá
Năm 1 (biến đối chứng)
Năm 2
Học viên năm mấy Năm 3
Năm 4 1,378 0,000
Học viện Chính trị 0,392 0,000
Trường Sĩ quan Lục quân 1 (biến đối chứng)
Trường đang học Cán bộ Chính ủy trung đoàn, sư đoàn 0,324 0,001
Giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự
Cán bộ nghiên cứu (biến đối chứng 1)
Chỉ huy tham mưu Lục quân binh chủng hợp thành 0,493 0,001
Thạc sĩ nghệ thuật quân sự (biến đối chứng 2) Chuyên ngành học Giảng viên quân sự
300 Số quan sát N
0,001 Prob> Chi2
26,4% Pseudo R2
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
73,069 Loglikelihood
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
185
Bảng 7: Dự đoán kết quả mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm cá nhân của
học viên tác động đến việc việc định hướng VHCT
Dự đoán Tỷ lệ dự Quan sát Định hướng VHCT đoán đúng 1.00 0.00
245 9 96,5 1.00 Định hướng VHCT 13 33 71,7 0.00
92,7 Tỷ lệ phần trăm tổng thể dự đoán đúng
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 8: Kết quả ước lượng mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm hộ gia đình
học viên tác động đến việc định hướng VHCT
Odds Mức ý
Biến số độc lập Ratio nghĩa (p)
Nghèo 2,105 0,000 Điều kiện sống của Trung bình gia đình Khá giả (biến đối chứng)
Nông thôn 1,428 0,000 Nơi ở của học viên sinh
Thị trấn/thành phố (biến sống (trước khi học tập)
đối chứng)
300 Số quan sát N
0,000 Prob> Chi2
21,5% Pseudo R2
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
112,455 Loglikelihood
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
186
Bảng 9: Dự đoán kết quả mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm hộ gia đình
học viên tác động đến việc định hướng VHCT
Dự đoán
Tỷ lệ dự Định hướng VHCT Quan sát đoán đúng
1.00 0.00
Định hướng 1.00 250 12 95,4
VHCT 0.00 27 11 31,6
87,0 Tỷ lệ phần trăm tổng thể dự đoán đúng
(Nguồn: Số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 10: Đặc điểm phẩm chất chính trị của học viên
Đơn vị tính: %
Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không
11 5 6 N Nhận thức Rất không cần thiết chính 2,3% 13,1% 3,7% %
trị** 17 8 9 N Không cần thiết 3,4% 21,1% 5,7% %
40 6 34 N Bình thường 13,0% 15,8% 13,3% %
130 9 121 N Cần thiết 23,7% 43,3% 46,2 %
10 102 92 N Rất cần thiết 26,2% 34,0% 35,1 %
38 300 262 N
Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%
187
Định hướng VHCT Các biến số Tổng Không Có
Tình cảm 6 7 13 N Rất không cần thiết chính trị** 2,7% 15,8% 4,3% %
6 11 17 N Không cần thiết 4,2% 15,8% 5,7% %
7 35 42 N Bình thường 13,3% 18,4% 14,0% %
8 121 129 N Cần thiết 46,2% 21,0 43,0% %
88 11 99 N Rất cần thiết 33,6% 28,9 33,0% %
262 38 300 N
Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %
4 5 10 N Ý chí chính Rất không cần thiết trị ** 1,9% 10,5% 3,3% %
6 12 17 N Không cần thiết 4,6% 15,8% 5,7% %
8 26 34 N Bình thường 9,9% 21,1% 11,3% %
9 125 134 N Cần thiết 47,7% 23,7% 44,7% %
94 11 105 N Rất cần thiết 35,9% 28,9% 35,0% %
262 38 300 N
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
188
Bảng 11: Đặc điểm hành vi và hoạt động chính trị của học viên
Đơn vị tính: %
Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không
N 7 6 13
Rất không cần thiết % 2,7% 15,8% 4,3%
N 11 7 18 Không cần thiết % 4,2% 18,4% 6,0%
N 29 7 36 Bình thường % 11,0% 18,4% 12,0%
N 105 8 113 Cần thiết % 40,1% 21,1% 37,7%
N 110 10 120 Thái độ chính trị *** Rất cần thiết % 42,0% 26,3% 40,0%
N 262 38 300
Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%
N 10 7 17
Rất không cần thiết % 3,8% 18,4% 5,7%
Năng lực tham gia các hoạt động chính trị*** N 14 6 20 Không cần thiết % 5,4% 15,8% 6,7%
N 27 7 34 Bình thường % 10,3% 18,4% 11,3%
N 102 9 111 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%
N 109 9 118 Rất cần thiết % 41,6% 23,7% 39,3%
N 262 38 300
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
189
Bảng 12: Đặc điểm lý tưởng và niềm tin chính trị của học viên
Đơn vị tính: %
Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không
N 20 15 5 Rất không cần thiết % 5,7% 13,1% 6,7%
N 19 13 6 tưởng Lý chính trị*** Không cần thiết % 5,0% 15,8% 6,3%
N 42 33 9 Bình thường % 12,6% 23,7% 14,0%
N 111 102 9 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%
N 108 99 9 Rất cần thiết % 37,8% 23,7% 36%
N 262 38 300
% 100,0% 100,0% 100,0% Tổng
N 19 13 6 Rất không cần thiết % 5,0% 15,8% 6,3% Uy tín chính trị cá nhân***
N 20 13 7 Không cần thiết % 5,0% 18,4% 6,7%
N 40 33 7 Bình thường % 12,6% 18,4% 13,3%
N 111 102 9 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%
N 110 101 9 Rất cần thiết % 38,5% 23,7% 42,0%
N 262 38 300
Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%
190
Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không
N 8 6 14 Rất không cần thiết % 3,1% 15,8% 4,7%
N 11 6 17 Không cần thiết % 4,2% 15,8% 5,7%
N 32 7 39 Bình thường % 12,2% 18,4% 13,0%
N 114 9 123 Cần thiết % 43,5% 23,7% 41,0%
N 97 10 107 Rất cần thiết % 37,0% 26,3% 35,6%
N 262 38 300
(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)
Niềm tin chính trị*** Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
191
PHỤ LỤC 5
KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VHCT
TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
Bảng 1. Nhận định về vai trò định hướng VHCT trong nhà trường quân đội
Đơn vị tính: %
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Hoàn toàn không quan trọng 3 1,0
Không quan trọng 11 3,7
Bình thường 23 7,7
Quan trọng 218 72,7
Rất quan trọng 41 13,7
Không ý kiến 4 1,3
300 100,0 Tổng
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 2. Mức độ hài lòng về việc định hướng VHCT trong nhà trường quân đội
Đơn vị tính: %
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Hoàn toàn không quan trọng 2 0,7
Không quan trọng 17 5,7
Bình thường 35 11,7
Quan trọng 190 63,3
Rất quan trọng 51 17,0
Không ý kiến 5 1,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
192
Bảng 3. Sự cần thiết định hướng VHCT trong nhà trườngquân đội hiện nay
Đơn vị tính: %
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Hoàn toàn không quan trọng 4 1,3
Không quan trọng 13 4,3
Bình thường 20 6,7
Quan trọng 171 57,0
Rất quan trọng 86 28,7
Không ý kiến 6 2,0
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 4. Nhận định về vai trò định hướng VHCT trong nhà trường
quân đội hiện nay
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Nâng cao nhận thức của cá nhân về chính trị
Đồng ý 277 92,3
Không đồng ý 23 7,7
Tổng 300 100,0
Hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân
Đồng ý 269 89,7
Không đồng ý 31 10,3
Tổng 300 100,0
Được nói lên tâm tư, nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản
thân mình
Đồng ý 268 89,3
Không đồng ý 32 10,7
Tổng 300 100,0
193
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
270 30 300 90,0 10,0 100,0
Có niềm tin, ý chí và lý tưởng đối với văn hóa chính trị Đồng ý Không đồng ý Tổng Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị
91,3 274 Đồng ý
8,7 26 Không đồng ý
100,0 300 Tổng
Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội và chính trị
87,7 263 Đồng ý
12,3 37 Không đồng ý
100,0 300 Tổng
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 5. Chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội hiện nay
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Nhận thức chính trị
1,7 5 Rất không cần thiết
5,0 15 Không cần thiết
10,0 30 Bình thường
73,0 219 Cần thiết
10,3 31 Rất cần thiết
100,0 300 Tổng
Tình cảm chính trị
1,7 5 Rất không cần thiết
3,7 11 Không cần thiết
8,0 24 Bình thường
76,7 230 Cần thiết
10,0 30 Rất cần thiết
100,0 300 Tổng
194
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Ý chí chính trị
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 15 5,0
Bình thường 31 10,3
Cần thiết 214 71,3
Rất cần thiết 36 12,0
Tổng 300 100,0
Thái độ chính trị
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 12 4,0
Bình thường 30 10,0
Cần thiết 211 70,3
Rất cần thiết 41 13,7
Tổng 300 100,0
Năng lực tham gia các hoạt động chính trị
Rất không cần thiết 7 2,3
Không cần thiết 10 3,3
Bình thường 19 6,3
Cần thiết 219 73,0
Rất cần thiết 45 15,0
Tổng 300 100,0
Lý tưởng chính trị
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 8 2,7
Bình thường 18 6,0
Cần thiết 229 76,3
Rất cần thiết 39 13,0
Tổng 300 100,0
195
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Uy tín chính trị cá nhân
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 11 3,7
Bình thường 15 5,0
Cần thiết 238 79,3
Rất cần thiết 31 10,3
Tổng 300 100,0
Niềm tin chính trị
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 9 3,0
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 233 77,7
Rất cần thiết 35 11,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 6. Thang bậc giá trị hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Triết lý chính trị
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 7 2,3
Bình thường 16 5,3
Cần thiết 229 76,3
Rất cần thiết 44 14,7
Tổng 300 100,0
196
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 5 1,7
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 233 77,7
Rất cần thiết 41 13,7
Tổng 300 100,0
Di sản và truyền thống chính trị
Rất không cần thiết 4 1,3
Không cần thiết 10 3,3
Bình thường 16 5,3
Cần thiết 230 76,7
Rất cần thiết 40 13,3
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 7. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường
quân đội hiện nay
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Mục tiêu, yêu cầu đào tạo cần gắn liền với chức năng và nhiệm vụ NTQĐ
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 6 2,0
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 232 77,3
Rất cần thiết 40 13,3
Tổng 300 100,0
197
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Định hướng phát triển các tổ chức trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 12 4,0
Bình thường 18 6,0
Cần thiết 222 74,0
Rất cần thiết 43 14,3
Tổng 300 100,0
Sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của NTQĐ
Rất không cần thiết 9 3,0
Không cần thiết 11 3,7
Bình thường 18 6,0
Cần thiết 217 72,3
Rất cần thiết 45 15,0
Tổng 300 100,0
Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 9 3,0
Bình thường 2 ,7
Cần thiết 252 84,0
Rất cần thiết 32 10,7
Tổng 300 100,0
Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 7 2,3
Bình thường 14 4,7
Cần thiết 237 79,0
Rất cần thiết 37 12,3
Tổng 300 100,0
198
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức
Rất không cần thiết 5 1,7
Không cần thiết 12 4,0
Bình thường 15 5,0
Cần thiết 230 76,7
Rất cần thiết 38 12,7
Tổng 300 100,0
Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ
Rất không cần thiết 3 1,0
Không cần thiết 7 2,3
Bình thường 17 5,7
Cần thiết 235 78,3
Rất cần thiết 38 12,7
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 8. Hoạt động văn hóa chính trị
Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 8 2,7
Bình thường 21 7,0
Cần thiết 223 74,3
Rất cần thiết 42 14,0
Tổng 300 100,0
Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 8 2,7
Bình thường 21 7,0
Cần thiết 223 74,3
Rất cần thiết 42 14,0
Tổng 300 100,0
199
Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 8 2,7
Bình thường 21 7,0
Cần thiết 223 74,3
Rất cần thiết 42 14,0
Tổng 300 100,0
Hoạt động văn hóa chính trị trong các hoạt động khác của NTQĐ
Rất không cần thiết 6 2,0
Không cần thiết 8 2,7
Bình thường 21 7,0
Cần thiết 223 74,3
Rất cần thiết 42 14,0
Tổng 300 100,0
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
Bảng 9. Yếu tố tác động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Tác động thuận chiều
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển của công nghệ, truyền thông
Rất không quan trọng 3 1,0
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 16 5,3
Quan trọng 234 78,0
Rất quan trọng 40 13,3
Tổng 300 100,0
200
Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước
Rất không quan trọng 6 2,0
Không quan trọng 6 2,0
Bình thường 11 3,7
Quan trọng 247 82,3
Rất quan trọng 30 10,0
Tổng 300 100,0
Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội
Rất không quan trọng 4 1,3
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 13 4,3
Quan trọng 237 79,0
Rất quan trọng 39 13,0
300 100,0
Tổng
Tác động trái chiều
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Tác động từ sự chống phá của các thế lực thù địch
Rất không quan trọng 3 1,0
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 16 5,3
Quan trọng 234 78,0
Rất quan trọng 40 13,3
Tổng 300 100,0
Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển của công nghệ, truyền thông
Rất không quan trọng 6 2,0
Không quan trọng 6 2,0
Bình thường 11 3,7
Quan trọng 247 82,3
Rất quan trọng 30 10,0
Tổng 300 100,0
201
Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước
Rất không quan trọng 4 1,3
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 13 4,3
Quan trọng 237 79,0
Rất quan trọng 39 13,0
Tổng 300 100,0
Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội
Rất không quan trọng 5 1,6
Không quan trọng 6 2,0
Bình thường 17 5,7
Quan trọng 221 73,7
Rất quan trọng 51 17
Tổng 300 100
Bảng 10. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị
trong nhà trường quân đội
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội Rất không quan trọng 1,0 3
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 16 5,3
Quan trọng 234 78,0
Rất quan trọng 40 13,3
Tổng 300 100,0
Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại Rất không quan trọng Không quan trọng Bình thường 2,0 2,0 3,7 6 6 11
Quan trọng Rất quan trọng 247 30 82,3 10,0
Tổng 300 100,0
202
Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)
Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực hiện nhiệm vụ
chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội
Rất không quan trọng 4 1,3
Không quan trọng 7 2,3
Bình thường 13 4,3
Quan trọng 237 79,0
Rất quan trọng 39 13,0
Tổng 300 100,0
Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các
cuộc vận động
Rất không quan trọng 5 1,6
Không quan trọng 6 2,0
Bình thường 17 5,7
Quan trọng 221 73,7
Rất quan trọng 51 17
Tổng 300 100
(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)
203
PHỤ LỤC 6
BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU LUẬN ÁN
Học viên năm thứ mấy
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Năm thứ nhất 68 22,7 22,7 22,7
Năm thứ hai 72 24,0 24,0 46,7
Năm thứ ba 78 26,0 26,0 72,7
Năm thứ tư 82 27,3 27,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
Trường đang học
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Học viện Chính trị - Bộ 150 50,0 50,0 50,0 quốc phòng
Trường sĩ quan Lục quân 1 50,0 50,0 100,0 150
Total 100,0 100,0 300
Vai trò định hướng VHCT trong nhà trường Quân đội NDVN
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Hoàn toàn không quan trọng 1,0 1,0 3 1,0
Không quan trọng 3,7 3,7 11 4,7
Bình thường 7,7 7,7 23 12,3
Quan trọng 218 72,7 72,7 85,0
Rất quan trọng 13,7 13,7 41 98,7
Không ý kiến 4 1,3 1,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
204
Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
277 Valid Đồng ý 92,3 92,3 92,3
23 Không đồng ý 7,7 7,7 100,0
300 Total 100,0 100,0
Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân
Percent Valid Percent Frequency Cumulative Percent
Valid Đồng ý 269 89,7 89,7 89,7
Không đồng ý 31 10,3 10,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân
Percent Valid Percent Frequency Cumulative Percent
Valid Đồng ý 268 89,3 89,3 89,3
Không đồng ý 32 10,7 10,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Đồng ý 90,0 90,0 90,0 270
Không đồng ý 10,0 10,0 100,0 30
Total 300 100,0 100,0
205
Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị
Cumulative Frequency Percent Valid Percent Percent
Valid Đồng ý 274 91,3 91,3 91,3
Không đồng ý 26 8,7 8,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị
Cumulative Frequency Percent Valid Percent Percent
Valid Đồng ý 263 87,7 87,7 87,7
Không đồng ý 37 12,3 12,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
Mức độ hài lòng về việc định hướng VHCT trong nhà trường quân đội
Valid Cumulative Frequency Percent Percent Percent
Valid Hoàn toàn không hài lòng ,7 ,7 2 ,7
Không hài lòng 5,7 5,7 17 6,3
Bình thường 11,7 11,7 35 18,0
Hài lòng 190 63,3 63,3 81,3
Rất hài lòng 17,0 17,0 51 98,3
5 Không có ý kiến 1,7 1,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
206
Sự cần thiết định hướng VHCT trong nhà trường QĐND VN hiện nay
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết
13 4,3 4,3 5,7 Không cần thiết
20 6,7 6,7 12,3 Bình thường
171 57,0 57,0 69,3 Cần thiết
86 28,7 28,7 98,0 Rất cần thiết
6 2,0 2,0 100,0 Không có ý kiến
Total 300 100,0 100,0
Nhận thức chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết
15 5,0 5,0 6,7 Không cần thiết
30 10,0 10,0 16,7 Bình thường
219 73,0 73,0 89,7 Cần thiết
31 10,3 10,3 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
Tình cảm chính trị
Percent Valid Percent Cumulativ e Percent Frequency
5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết
11 3,7 3,7 5,3 Không cần thiết
24 8,0 8,0 13,3 Bình thường
230 76,7 76,7 90,0 Cần thiết
30 10,0 10,0 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
207
Ý chí chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3
Không cần thiết 15 5,0 5,0 6,3
Bình thường 31 10,3 10,3 16,7
Cần thiết 214 71,3 71,3 88,0
Rất cần thiết 36 12,0 12,0 100,0
Total 300 100,0 100,0
Thái độ chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0
Không cần thiết 12 4,0 4,0 6,0
Bình thường 30 10,0 10,0 16,0
Cần thiết 211 70,3 70,3 86,3
Rất cần thiết 41 13,7 13,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
Năng lực tham gia các hoạt động chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 7 2,3 2,3 2,3
Không cần thiết 10 3,3 3,3 5,7
Bình thường 19 6,3 6,3 12,0
Cần thiết 219 73,0 73,0 85,0
Rất cần thiết 45 15,0 15,0 100,0
Total 300 100,0 100,0
208
Lý tưởng chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0
Không cần thiết 8 2,7 2,7 4,7
Bình thường 18 6,0 6,0 10,7
Cần thiết 229 76,3 76,3 87,0
Rất cần thiết 39 13,0 13,0 100,0
Total 300 100,0 100,0
Niềm tin chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0
Không cần thiết 9 3,0 3,0 5,0
Bình thường 17 5,7 5,7 10,7
Cần thiết 233 77,7 77,7 88,3
Rất cần thiết 35 11,7 11,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
Uy tín chính trị cá nhân
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7
Không cần thiết 11 3,7 3,7 5,3
Bình thường 15 5,0 5,0 10,3
Cần thiết 238 79,3 79,3 89,7
Rất cần thiết 31 10,3 10,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
209
Triết lý chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3
7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết
16 5,3 5,3 9,0 Bình thường
229 76,3 76,3 85,3 Cần thiết
44 14,7 14,7 100,0 Rất cần thiết
100,0 100,0 300 Total
Khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3
5 1,7 1,7 3,0 Không cần thiết
17 5,7 5,7 8,7 Bình thường
233 77,7 77,7 86,3 Cần thiết
41 13,7 13,7 100,0 Rất cần thiết
Total 300 100,0 100,0
Di sản và truyền thống chính trị
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết
10 3,3 3,3 4,7 Không cần thiết
16 5,3 5,3 10,0 Bình thường
230 76,7 76,7 86,7 Cần thiết
40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
210
Sứ mệnh, mục tiêu yêu cầu đào tạo gắn với chức năng, nhiệm vụ NTQĐ
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7
6 2,0 2,0 3,7 Không cần thiết
17 5,7 5,7 9,3 Bình thường
232 77,3 77,3 86,7 Cần thiết
40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết
100,0 100,0 300 Total
Vai trò của sứ mệnh, mục tiêu trong nhà trường quân đội
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7
12 4,0 4,0 5,7 Không cần thiết
18 6,0 6,0 11,7 Bình thường
222 74,0 74,0 85,7 Cần thiết
43 14,3 14,3 100,0 Rất cần thiết
300 Total 100,0 100,0
Hành động để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
9 3,0 3,0 3,0 Valid Rất không cần thiết
11 3,7 3,7 6,7 Không cần thiết
18 6,0 6,0 12,7 Bình thường
217 72,3 72,3 85,0 Cần thiết
45 15,0 15,0 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
211
Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7
9 3,0 3,0 4,7 Không cần thiết
2 ,7 ,7 5,3 Bình thường
252 84,0 84,0 89,3 Cần thiết
32 10,7 10,7 100,0 Rất cần thiết
100,0 100,0 300 Total
Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7
7 2,3 2,3 4,0 Không cần thiết
14 4,7 4,7 8,7 Bình thường
237 79,0 79,0 87,7 Cần thiết
37 12,3 12,3 100,0 Rất cần thiết
300 Total 100,0 100,0
Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết
12 4,0 4,0 5,7 Không cần thiết
15 5,0 5,0 10,7 Bình thường
230 76,7 76,7 87,3 Cần thiết
38 12,7 12,7 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
212
Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 3 1,0 1,0 1,0
7 2,3 2,3 3,3 Không cần thiết
17 5,7 5,7 9,0 Bình thường
235 78,3 78,3 87,3 Cần thiết
38 12,7 12,7 100,0 Rất cần thiết
100,0 100,0 300 Total
Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3
7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết
16 5,3 5,3 9,0 Bình thường
229 76,3 76,3 85,3 Cần thiết
44 14,7 14,7 100,0 Rất cần thiết
300 Total 100,0 100,0
Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết
5 1,7 1,7 3,0 Không cần thiết
17 5,7 5,7 8,7 Bình thường
233 77,7 77,7 86,3 Cần thiết
41 13,7 13,7 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
213
Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
4 1,3 Valid Rất không cần thiết 1,3 1,3
10 3,3 Không cần thiết 3,3 4,7
16 5,3 Bình thường 5,3 10,0
230 76,7 Cần thiết 76,7 86,7
40 13,3 Rất cần thiết 13,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
Các hoạt động khác
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
6 2,0 Valid Rất không cần thiết 2,0 2,0
8 2,7 Không cần thiết 2,7 4,7
21 7,0 Bình thường 7,0 11,7
223 74,3 Cần thiết 74,3 86,0
42 14,0 Rất cần thiết 14,0 100,0
300 Total 100,0 100,0
TÁC ĐỘNG THUẬN CHIỀU
Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công nghệ, truyền thông
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0
Đồng ý 235 78,3 78,3 80,3
Rất đồng ý 55 18,3 18,3 98,7
Không có ý kiến 4 1,3 1,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
214
Yếu tố văn hóa và chính trị trong nước
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Không đồng ý 12 4,0 4,0 4,0
Đồng ý 234 78,0 78,0 82,0
Rất đồng ý 49 16,3 16,3 98,3
Không có ý kiến 5 1,7 1,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
Sự phát triển của NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội
Percent Valid Percent Cumulative Percent Frequency
Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0
Đồng ý 238 79,3 79,3 81,3
Rất đồng ý 51 17,0 17,0 98,3
Không có ý kiến 5 1,7 1,7 100,0
Total 300 100,0 100,0
TÁC ĐỘNG TRÁI CHIỀU
Sự chống phá của các thế lực thù địch
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0
Đồng ý 235 78,3 78,3 80,3
Rất đồng ý 55 18,3 18,3 98,7
Không có ý kiến 4 1,3 1,3 100,0
Total 300 100,0 100,0
215
Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công nghệ, truyền thông
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
5 1,7 1,7 1,7 Valid Không đồng ý
244 81,3 81,3 83,0 Đồng ý
47 15,7 15,7 98,7 Rất đồng ý
4 1,3 1,3 100,0 Không có ý kiến
Total 300 100,0 100,0
Yếu tố văn hóa và chính trị trong nước
Percent Valid Percent Cumulative Percent Frequency
12 4,0 4,0 4,0 Valid Không đồng ý
234 78,0 78,0 82,0 Đồng ý
49 16,3 16,3 98,3 Rất đồng ý
5 1,7 1,7 100,0 Không có ý kiến
Total 300 100,0 100,0
Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội và
công tác xây dựng nhà trường quân đội
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết 3 1,0 1,0 1,0
Không cần thiết 5 1,7 1,7 2,7
Bình thường 15 5,0 5,0 7,7
Cần thiết 223 74,3 74,3 82,0
Rất cần thiết 54 18,0 18,0 100,0
Total 300 100,0 100,0
216
Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải dựa trên cơ sở
nhận thức sâu sắc của các chủ thể
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
3 1,0 1,0 1,0 Valid Rất không cần thiết
7 2,3 2,3 3,3 Không cần thiết
16 5,3 5,3 8,7 Bình thường
234 78,0 78,0 86,7 Cần thiết
40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải được đặt trong
bối cảnh chung của tình hình đất nước, quân đội và đặc điểm của mỗi trường
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
6 2,0 2,0 2,0 Valid Rất không cần thiết
6 2,0 2,0 4,0 Không cần thiết
11 3,7 3,7 7,7 Bình thường
247 82,3 82,3 90,0 Cần thiết
30 10,0 10,0 100,0 Rất cần thiết
300 100,0 100,0 Total
Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải được đặt trên cơ
sở phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận
những tri thức mới của nhân loại
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết
7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết
13 4,3 4,3 8,0 Bình thường
237 79,0 79,0 87,0 Cần thiết
39 13,0 13,0 100,0 Rất cần thiết
300 Total 100,0 100,0
217
Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải gắn với thực hiện
nhiệm vụ chính trị trung tâm
Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent
Valid Rất không cần thiết ,7 ,7 ,7 2
Không cần thiết 2,3 2,3 3,0 7
Bình thường 2,7 2,7 5,7 8
Cần thiết 79,7 79,7 85,3 239
Rất cần thiết 14,7 14,7 100,0 44
Total 100,0 100,0 300
218
PHỤ LỤC 7
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIÊN SỐ
Correlations
Học viên năm thứ mấy Trường đang học Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị
1 ,096 -,105 ,020 ,004 ,066 -,086 ,132* Học viên năm thứ mấy
,098 300 300 ,070 300 ,732 300 ,941 300 ,256 300 ,138 300 ,022 300
1 -,288** -,339** -,346** -,333** -,308** -,375** ,096 Trường đang học
300 ,098 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300
-,105 -,288** 1 ,396** ,387** ,322** ,490** ,425**
Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị ,070 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300
,020 -,339** ,396** 1 ,876** ,763** ,868** ,572**
Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N ,732 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300
219
Học viên năm thứ mấy Trường đang học Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị
,004 -,346** ,387** ,876** 1 ,749** ,815** ,527**
Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân ,941 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300
,066 -,333** ,322** ,763** ,749** 1 ,806** ,754**
Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT
,256 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300
-,086 -,308** ,490** ,868** ,815** ,806** 1 ,641**
,138 ,000 ,000 ,000 ,000 ,000 ,000
Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N 300 300 300 300 300 300 300 300
,132* -,375** ,425** ,572** ,527** ,754** ,641** 1
Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N ,000 300 ,000 300 300 ,022 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
220
PHỤ LỤC 8
SỐ LIỆU VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG,
CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
A. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
TS: 1437; TS: 1558; TS: 1498; TS: 1357;
Giỏi: 52; Giỏi: 70; Giỏi: 75; Giỏi: 62; PHÂN LOẠI Khá: 1369; Khá: 1468; Khá: 1396; Khá: 1271; TỐT NGHIỆP TB Khá: 16; TB Khá: 20; TB Khá: 27; TB Khá: 24;
TB: 0; TB: 0; TB: 0; TB: 0;
Đề tài: 15; Đề tài: 18; Đề tài: 25; Đề tài: 22;
GT-TL: 55; GT-TL: 165; GT-TL: 128; GT-TL: 63;
SK: 20; SK: 32; SK: 23; SK: 28; NGHIÊN CỨU
HT: 18; HT: 15; HT: 14; HT: 169 KHOA HỌC
WEB:503; WEB:503; WEB: 437; WEB: 438;
BV: 135 BV: 156 BV: 154 BV: 124
221
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
TS: 1602; TS: 1900 TS: 1783 TS: 1928
HTXSNV: 174; HTXSNV: 183; HTXSNV: 164; HTXSNV: 203; PHÂN MỨC HTTNV: 1365 HTTNV: 1654; HTTNV: 1776; HTTNV: 1689; CÁN BỘ HTNV: 61; HTNV: 44; HTNV: 75; HTNV: 29;
KHTNV: 02; KHTNV: 19; KHTNV: 21; KHTNV: 07;
TS: 33 (ĐB, CBCS); TS:33 (ĐB, CBCS); TS:33 (ĐB, CBCS); TS:33(ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 19; HTXSNV (TSVM): 24; HTXSNV (TSVM): 17; HTXSNV (TSVM): 07; HTTNV: 09; HTTNV: 04 HTTNV: 07; HTTNV: 23; HTNV: 04; HTNV: 05 HTNV:09 HTNV: 03; ĐÁNH GIÁ KHTNV: 01
TỔ CHỨC ĐẢNG TS: 96 (Chi bộ); TS: 72 (Chi bộ); TS: 88 (Chi bộ); TS: 108 (Chi bộ);
HTXSNV (TSVM): 40; HTXSNV (TSVM): 44; HTXSNV (TSVM): 41; HTXSNV (TSVM): 20;
HTTNV: 18; HTTNV: 23; HTTNV: 36; HTTNV: 86;
HTNV: 18; HTNV: 05; HTNV: 11; HTNV: 02;
222
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
TS: 1968 (Đảng viên); TS: 2006 (Đảng viên); TS: 2036 (Đảng viên); TS: 2238 (Đảng viên);
HTXSNV: 170; HTXSNV: 183; HTXSNV: 164; HTXSNV: 203; ĐÁNH GIÁ HTTNV: 1759; HTTNV: 1760; HTTNV: 1776; HTTNV: 1989; ĐẢNG VIÊN HTNV: 21; HTNV: 44; HTNV: 75; HTNV: 39;
KHTNV: 18; KHTNV: 19; KHTNV: 21; KHTNV: 07;
100% ĐYC; 100% ĐYC; 100% ĐYC; 100% ĐYC; GIÁO DỤC
90% KG (28% G) 92,80% KG (29.05% G) 96,32% KG (28,12% G) 95,18% KG (29,37% G) CHÍNH TRỊ
B. TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
TS: 404; TS: 480; TS: 1636; TS: 541;
Giỏi: 15; Giỏi: 41; Xuất sắc: 02 Giỏi: 38;
Khá: 367; Khá: 390; Giỏi: 58; Khá: 436; PHÂN LOẠI TB Khá: 22; TB Khá: 44; Khá: 1357; TB Khá: 58; TỐT NGHIỆP TB Khá: 214; TB: 0; TB: 5; TB: 8;
TB: 0; Y (KTN): 1
Yếu (KTN): 05
223
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: 14; GT-TL: 47; SK: 24; HT: 12; WEB:755; BV: 113 Đề tài: 24; GT-TL: 265; SK: 20; HT: 8; WEB:503; BV: 90 Đề tài: 21; GT-TL: 292; SK: 43; HT: 13; WEB: 511; BV: 104 Đề tài: 18; GT-TL: 63; SK: 28; HT: 7; WEB: 528; BV: 114
PHÂN MỨC CÁN BỘ
TS: 1336; HTXSNV: 174; HTTNV: 1081; HTNV: 71; KHTNV: 10; TS: 1346; HTXSNV: 118; HTTNV: 1084; HTNV: 121; KHTNV: 23; TS: 1387; HTXSNV: 149; HTTNV: 1182; HTNV: 48; KHTNV: 08; TS: 1436; HTXSNV: 138; HTTNV: 1225; HTNV: 57; KHTNV: 16;
TS: 41 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 17 HTTNV: 18 HTNV: 6 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 21 HTTNV: 20 HTNV: 01 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 14 HTTNV: 27 HTNV: 01 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 08 HTTNV: 33 HTNV: 01 Y, K: 0
ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC ĐẢNG
TS: 176 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 72 HTTNV: 82 HTNV: 22 Y, K: 0 TS: 172 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 66 HTTNV: 90 HTNV: 16 Y, K: 0 TS: 174 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 30 HTTNV: 137 HTNV: 06 Y, K: 01 TS: 177 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 32 HTTNV: 143 HTNV: 02 Y, K: 0
224
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
ĐÁNH GIÁ ĐẢNG VIÊN
TS: 3867 (Đảng viên); HTXSNV: 425 HTTNV: 3135 HTNV: 301 KHTNV: 06 TS: 2811(Đảng viên); HTXSNV: 211 HTTNV: 2363 HTNV: 230 KHTNV: 07 TS: 2948 (Đảng viên); HTXSNV: 326 HTTNV: 2505 HTNV: 116 KHTNV: 01 TS: 2780 (Đảng viên); HTXSNV: 295 HTTNV: 2473 HTNV: 10 KHTNV: 02
100% ĐYC; 96,72% KG 100% ĐYC; 95,80% KG (19.05% G) 100% ĐYC; 94,19% KG (14,69% G) 100% ĐYC; 98,43% KG (18.04% G) GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
C. HỌC VIỆN PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
TS: 725; TS: 825; TS: 797; TS: 865;
Giỏi: 35; Giỏi: 48; Giỏi: 62; Giỏi: 68; PHÂN LOẠI Khá: 420; Khá: 560; Khá: 506; Khá: 567; TỐT NGHIỆP TB Khá: 245; TB Khá: 268; TB Khá: 186; TB Khá: 204;
TB: 25; TB: 51; TB: 43; TB: 26;
Đề tài, SK: 24 Đề tài, SK: 43 Đề tài, SK: 56 Đề tài, SK: 58
GT-TL: 22 GT-TL: 56 GT-TL: 59 GT-TL: 49 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Đề tài HVNCKH: 43 Đề tài HVNCKH: 40 Đề tài HVNCKH: 46 Đề tài HVNCKH: 48
225
KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019
PHÂN MỨC CÁN BỘ
TS: 1620; HTXSNV: 114; HTTNV: 1418; HTNV: 78; KHTNV: 10; TS: 1900; HTXSNV: 119; HTTNV: 1707; HTNV: 72; KHTNV: 02; TS: 1783; HTXSNV: 97; HTTNV: 1609; HTNV: 74; KHTNV: 03; TS: 1722; HTXSNV: 98; HTTNV: 1561; HTNV: 51; KHTNV: 12;
TS:30 (Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 15; HTTNV: 10; HTNV: 05; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 16; HTTNV: 12; HTNV: 03; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 06; HTTNV: 22; HTNV: 03; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 06; HTTNV: 23; HTNV: 02;
ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC ĐẢNG
TS: 95 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 40; HTTNV: 49; HTNV: 06; TS: 94(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 41; HTTNV: 46; HTNV: 07; TS: 93(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 14; HTTNV: 71; HTNV: 08; TS: 90(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 19; HTTNV: 67; HTNV: 04;
ĐÁNH GIÁ ĐẢNG VIÊN
TS: 1620 (Đảng viên); HTXSNV: 114; HTTNV: 1418; HTNV: 78; KHTNV: 10; TS: 1900 (Đảng viên); HTXSNV: 119; HTTNV: 1707; HTNV: 72; KHTNV: 02; TS: 1783 (Đảng viên); HTXSNV: 97; HTTNV: 1609; HTNV: 74; KHTNV: 03; TS: 1722 (Đảng viên); HTXSNV: 98; HTTNV: 1561; HTNV: 51; KHTNV: 12;
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ 100% ĐYC; 85% KG (28% G) 100% ĐYC; 86.4% KG (24.5% G) 100% ĐYC; 86,9% KG (29.2% G) 100% ĐYC; 86.2% KG (32.4% G)
226
PHỤ LỤC 9
MƯỜI LỜI THỀ DANH DỰ CỦA QUÂN NHÂN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Chúng tôi, Quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, lấy danh dự
người chiến sĩ cách mạng, xin thề dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc:
1. Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ
nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
“Xin thề”
2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều
tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác.
“Xin thề”
3. Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa, tinh thần
quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu,
bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng
không nản chí “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng”.
“Xin thề”
4. Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ, triệt để chấp hành điều lệnh, điều lệ, rèn luyện tính tổ chức, tính
kỷ luật và tác phong chính quy, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, luôn luôn
sẵn sàng chiến đấu.
“Xin thề”
5. Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, làm tròn nhiệm vụ
chiến đấu bảo vệ tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước.
“Xin thề”
227
6. Luôn luôn cảnh giác, tuyệt đối giữ bí mật quân sự và bí mật quốc gia. Nếu
bị quân địch bắt, dù phải chịu cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng
trung thành với sự nghiệp cách mạng, không bao giờ phản bội xưng khai.
“Xin thề”
7. Đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp; hết
lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận; thực hiện toàn quân một ý chí.
“Xin thề”
8. Ra sức giữ gìn vũ khí trang bị, quyết không để hư hỏng hoặc rơi vào tay
quân thù. Luôn nêu cao tinh thần bảo vệ của công, không tham ô, lãng phí.
“Xin thề”
9. Khi tiếp xúc với nhân dân làm đúng ba điều nên:
- Kính trọng dân
- Giúp đỡ dân
- Bảo vệ dân
và ba điều răn:
- Không lấy của dân
- Không dọa nạt dân
- Không quấy nhiễu dân
Để gây lòng tin cậy, yêu mến của nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.
“Xin thề”
10. Giữ vững phẩm chất tốt đẹp và truyền thống quyết chiến, quyết thắng của
quân đội nhân dân, luôn tự phê bình và phê bình, không làm điều gì hại tới danh dự
của quân đội và quốc thể nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
“Xin thề”
228
PHỤ LỤC 10
12 ĐIỀU KỶ LUẬT KHI QUAN HỆ VỚI NHÂN DÂN CỦA QUÂN NHÂN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1. Không lấy cái kim , sợi chỉ của nhân dân.
2. Mua bán phải công bằng, sòng phẳng.
3. Mượn cái gì của nhân dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất
phải đền.
4. Đóng quân nhà dân không được làm phiền nhiễu nhân dân, phải giữ gìn
nhà cửa sạch sẽ.
5. Phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách dân tộc tôn trọng tự do, tín
ngưỡng, phong tục, tập quán của nhân dân.
6. Phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, kính già, yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ.
7. Không doạ nạt, đánh mắng nhân dân.
8. Phải bảo vệ tính mạng, tài sản của tập thể và của Nhà nước.
9. Phải đoàn kết, tôn trọng và ủng hộ các cơ quan dân, chính, đảng, các lực
lượng vũ trang địa phương.
10. Phải gương mẫu chấp hành mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
11. Phải tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nhân dân thực hiện mọi
đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
12. Phải giữ gìn bí mật và vận động nhân dân giữ bí mật của Nhà nước và
quân đội.
229
PHỤ LỤC 11
MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
14.1. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị nhiệm kỳ 2015-2020 (Ảnh chụp ngày
14.2. Bảo vệ Luận văn thạc sĩ tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 14
19 tháng 8 năm 2015 - Nguồn Ban Tuyên huấn Phòng Chính trị Học viện Chính trị)
tháng 6 năm 2019)
14.3. Lễ khai giảng năm học 2018 - 2019 của Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả
230
14.4. Đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam bắt tay động
chụp ngày 14 tháng 9 năm 2018)
viên học viên quốc tế trong dịp khai giảng năm học 2018 - 2019 của Học viện
Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 14 tháng 9 năm 2018)
14.5. Hội thảo khoa học tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 9 tháng 5
231
14.6. Hưởng ứng ngày sách Việt Nam lần thứ 4 tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác
năm 2019)
giả chụp ngày 21 tháng 4 năm 2017)
14.7. Hội thao năm học 2018 - 2019 của Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp
232
ngày 17 tháng 12 năm 2018)
14.8. Giao lưu tặng quà các cháu thiếu nhi tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả
chụp ngày 01 tháng 6 năm 2019)
14.9. Lễ Tuyên thệ chiến sĩ mới năm 2019 tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do
233
14.10. Một buổi học môn chiến thuật tai Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác
tác giả chụp ngày 18 tháng 5 năm 2019)
giả chụp ngày 19 tháng 11 năm 2018)
14.11. Hình ảnh diễn tập chiến thuật của Trường sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả
234
14.12. Giờ học môn Triết học tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả chụp
chụp ngày 5 tháng 3 năm 2019)
ngày 18 tháng 11 năm 2018)
14.13. Bảo vệ Luận văn thạc sĩ khoa học quân sự tại Trường Sĩ quan Lục quân 1
235
14.14. Trong giờ học Điều lệnh đội ngũ tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác
(Ảnh do tác giả chụp ngày 11 tháng 6 năm 2018)
giả chụp ngày 05 tháng 4 năm 2019)
14.15. Giờ giải lao trên thao trường tại của học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1
236
14.16. Hoạt động văn hóa văn nghệ tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả
(Ảnh do tác giả chụp ngày 12 tháng 2 năm 2019)
chụp ngày 05 tháng 4 năm 2018)
237
PHỤ LỤC 12
Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC
VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
SỐ TÊN VẤN ĐỀ CẦN Ý KẾN CHUYÊN GIA TT CHUYÊN GIA TƯ VẤN
Quan niệm về Quan niệm về văn hóa chính trị phải được xuất phát từ quan niệm văn hóa. Theo đó,
văn hóa chính trị văn hóa có hai dạng biểu hiện chính: 1 GS.TS. Đinh Xuân Dũng - Hội đồng Lý
luận phê bình Văn - Một là, văn hóa là chính nó, tức là những gì nhìn thấy được, nghe thấy được với
học nghệ thuật các dạng sản phẩm như văn học, nghệ thuật, lễ họi, phong tục, kiến trúc…
Trung Ương - Hai là, văn hóa là những gì cảm thấy, biến từ chính nó để thẩm thấu vào tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội và từ đó, người ta cảm nhận rõ ràng, văn hóa đang nằm
sâu và trở thành một thành tố hữu cơ trong các lĩnh vực đó. Văn hóa chính trị cùng
với văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa ứng xử, văn hóa giao thông, văn
hóa gia đình, văn hóa ẩm thực… được hình thành trên cơ sở đó.
Khi nói văn hóa chính trị là đã bao hàm sự đánh giá tính đúng đắn, hợp quy luật,
hợp lòng dân, tính nhân văn của chính trị.
2
Quan niệm về văn hóa chính trị
Nguyễn GS.TS. Văn Huyên - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hiện nay có nhiều cách tiếp cận văn hóa chính trị, nhưng nhìn chung có thể hiểu, văn hóa chính trị là các giá trị được biểu hiện thành mô thức, chuẩn mực. Các chuẩn mực đó thể hiện trong ý thức (suy nghĩ, lý tưởng), trong hành vi (hành động), trong con người (người có đủ chuẩn mực văn hóa đó là nhân cách chính trị).
238
TÊN VẤN ĐỀ CẦN SỐ Ý KẾN CHUYÊN GIA CHUYÊN GIA TƯ VẤN TT
Quan niệm về Tìm hiểu cấu trúc của văn hóa chính trị nghĩa là xem xét những yếu tố nào cấu tạo
cấu trúc của văn nên văn hóa chính trị. Trong đó, văn hóa được cấu tạo bởi những yếu tố nào thì văn
hóa chính trị hóa chính trị, trước hết, cũng được tạo nên bởi những yếu tố đó.
Cấu trúc của văn hóa chính trị gồm các yếu tố tri thức và tri thức chính trị; tình cảm,
lý tưởng và tình cảm, lý tưởng chính trị; ý chí, bản lĩnh và ý chí, bản lĩnh chính trị…
tất cả chúng tạo nên năng lực, kỹ năng, khoa học và nghệ thuật thực hành chính trị. Tất cả những cái đó thể hiện thành các giá trị, các chuẩn mực cho tư duy, hành động.
Cho nên, ở một góc độ khác, cấu trúc của văn hóa chính trị thể hiện ở giá trị, hành
động, phẩm chất con người hàm chứa bên trong của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng.
Quan niệm về Cấu trúc của văn hóa chính trị bao gồm các thành tố: (1) Triết lý, tư tưởng chính trị -
3 PGS.TS. Lê Quý Đức - Cựu Giáo chức Thành phố Hà Nội cấu trúc của văn hóa chính trị Hệ thống định hướng; (2) Thể chế, thiết chế chính trị - Hệ thống công cụ hành động; (3) Công nghệ chính trị; (4) Nhân cách chủ thể chính trị; (5) Ngoại hiện chính trị
4
Quan niệm về văn hóa chính trị
Phạm PGS.TS. Duy Đức - Học viện Chính trị Quốc gia Văn hóa chính trị là quá trình xác lập, truyền bá, chia sẻ các giá trị, các chuẩn mực văn hóa tạo thành niềm tin, thành các quy ước có tính quy phạm được cộng đồng chính trị và xã hội thừa nhận và tạo thành nề nếp, phong cách, bản sắc riêng của tổ
Hồ Chí Minh
chức và cá nhân các thành viên tham gia vào hệ thống chính trị, phục vụ cho mục tiêu chế độ chính trị, phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động chính trị. Văn hóa chính trị có hai cấp độ: văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức.
239
SỐ TÊN VẤN ĐỀ CẦN Ý KẾN CHUYÊN GIA TT CHUYÊN GIA TƯ VẤN
Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay Biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội
Quan niệm về văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là văn hóa chính trị của một thiết chế văn hóa giáo dục đặc biệt. Thiết chế văn hóa này hướng tới mục tiêu đào tạo đội ngũ quân nhân cách mạng nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, tập trung chủ yếu ở các yếu tố sau: 1. Chủ thể văn hóa chính trị (Lãnh đạo, quản lý nhà trường quân đội; giảng viên và học viên). 2. Giá trị văn hóa chính trị gắn liền với mục tiêu đào tạo. 3. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội. 4. Các hoạt động văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị là hệ thống tri thức kết tinh thành giá trị về việc giành, phát huy quyền lực và giữ quyền lực trong quản lý xã hội của một quốc gia, thể hiện phẩm chất và năng lực của Nhà nước nhằm thực hiện mục đích, lý tưởng chính trị
PGS.TS. Nguyễn Hữu Thức - Đại học Sư phạm Nghệ thuật - TƯ
Cấu trúc của văn hóa chính trị
Cấu trúc của văn hóa chính trị, có nhiều cách tiếp cận, có thể quan tâm đến ba thành tố chính: - Triết lý văn hóa chính trị. - Văn hóa nhà chính trị (văn hóa làm quan, nay là văn hóa cán bộ). Văn hóa của tổ chức trong hệ thống chính trị