HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN TÁCH

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,

Trường Sĩ quan Lục quân 1)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN TÁCH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

(Nghiên cứu trường hợp: Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng,

Trường Sĩ quan Lục quân 1)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

Mã số: 9229040

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS VĂN ĐỨC THANH

HÀ NỘI - 2020

2. PGS,TS LÂM QUỐC TUẤN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông

tin, số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Lê Văn Tách

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

9

VIỆT NAM

1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị 9

1.2. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 21

1.3. Đánh giá chung và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 28

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ

34

NGHIÊN CỨU

2.1. Lý luận về văn hóa chính trị 34

2.2. Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 50

2.3. Khái lược về khách thể nghiên cứu 54

Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ

66

TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội 66

3.2. Đặc điểm văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 104

Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

ĐỐI VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

114

NHÂN DÂN VIỆT NAM

4.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 114

4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 126

148

KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

165

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BQP : Bộ Quốc phòng

ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam

Học viện Chính trị : HVCT

Nhà trường quân đội : NTQĐ

Quân đội nhân dân : QĐND

Quân ủy Trung ương : QUTW

TCN : Trước Công nguyên

: TSQLQ1 Trường Sĩ quan Lục quân 1

VHCT : Văn hóa chính trị

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy 69

Bảng 3.2. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên 73

Bảng 3.3. Nhận định về triết lý chính trị của học viên 83

Bảng 3.4. Nhận định về chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của học viên 87

Bảng 3.5. Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên 88

Bảng 3.6. Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả

trong hoạt động thực tiễn của học viên 94

Bảng 3.7. Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của

học viên 95

Bảng 3.8. Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức của

học viên 96

Bảng 3.9. Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên 97

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 3.1. Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy 68

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của lãnh đạo, chỉ huy 71

Biểu đồ 3.3. Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên 72

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của giảng viên 75

Biểu đồ 3.5. Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên 76

Biểu đồ 3.6. Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt đông chính trị

và thái độ chính trị của học viên 78

Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của học viên 79

Biểu đồ 3.8. Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế

và thiết chế văn hóa chính trị của học viên 91

Biểu đồ 3.9. Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức trong

nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội

của học viên 93

Biểu đồ 3.10. Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy và

nghiên cứu khoa học của giảng viên và học viên 100

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn hóa có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện của đời sống, giữ vai trò

nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu đồng thời trở thành động lực thúc đẩy sự phát

triển, tiến bộ của con người. Thế giới quan và phương pháp luận mác xít khẳng định,

trong mối quan hệ với văn hóa, con người vừa là chủ thể nhưng cũng đồng thời là sản

phẩm của văn hóa.

Vớí tính cách là một bộ phận, một phương thức biểu hiện của văn hóa, văn

hóa chính trị (VHCT) là hệ giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, có vai trò quan trọng

trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá

nhân hay một cộng đồng. Văn hóa chính trị giúp chủ thể cũng như thể chế, thiết chế

chính trị giữ được sự ổn định, minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị,

đặc biệt là trong điều kiện cầm quyền và thực thi quyền lực.

Thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian vừa qua đã chứng

minh, những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới xuất phát từ việc Đảng ta

nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò quan trọng của văn hóa nói chung và VHCT nói

riêng. Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ

thị về văn hóa [38, tr.91], những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến nhận thức lý luận

của Đảng về văn hóa. Tuy nhiên, trong văn kiện, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ:

So với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,

thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động

có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình

trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và

trong xã hội có chiều hướng gia tăng [38, tr.44-45].

Những hạn chế yếu kém đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có

nguyên nhân quan trọng do nhận thức về VHCT của chủ thể còn hạn chế, chưa theo

kịp yêu cầu của sự phát triển.

Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương hướng: “Xây dựng văn

hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng,

trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây

dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [9, tr.95].

2

Đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và phát

triển văn hóa luôn được Quân uỷ Trung ương (QUTW) và Bộ Quốc phòng (BQP), trực

tiếp là Tổng cục Chính trị quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó nhận thức về văn hóa của

quân nhân ngày càng được nâng lên; mỗi đơn vị quân đội thực sự là một pháo đài vững

chắc về chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa trong nhân cách

quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu tranh ngăn chặn và đẩy

lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã hội, xây dựng tổ chức

đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.

Đối với nhà trường quân đội (NTQĐ) (trong luận án, nghiên cứu sinh sử

dụng cụm từ NTQĐ thay cho nhà trường QĐND Việt Nam để đảm bảo ngắn gọn và

tạo sự thống nhất trong cách gọi tên), nơi đào tạo đội ngũ sĩ quan, những người có

vai trò hết sức quan trọng, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong

tương lai, yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và

VHCT nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa mang tính đặc thù của hoạt

động quân sự, vừa mang tính sư phạm, vì vậy ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phát huy vai trò VHCT, với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.

Trong tình hình hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT trong NTQĐ đã và đang

đặt ra những thách thức với những khó khăn, trở ngại: nhận thức của các chủ thể về

văn hóa nói chung và VHCT nói riêng chưa thật đầy đủ, thiếu sâu sắc, chưa thực sự

đi vào chiều sâu bản chất; các giá trị VHCT chưa được phát huy; thực tiễn hoạt

động văn hoá và VHCT còn thiếu sự thống nhất, mang tính hình thức, nhất thời,

không có sự gắn kết với tình hình chung của đất nước, quân đội và đặc điểm của

mỗi trường, thậm chí cực đoan, với các biểu hiện: suy thoái về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham nhũng; nói nhiều làm ít; biểu

hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; chất lượng đào tạo của NTQĐ có mặt chưa

thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đây là nguyên nhân dẫn đến những hệ lụy như: tư tưởng ngại học, ngại rèn, tâm lý

đám đông, sự vô cảm, tình trạng bạo lực, quân phiệt gia tăng; những giá trị truyền

thống không được bảo lưu đầy đủ và phát huy; tiếp nhận và phổ biến tràn lan những

hiện tượng núp dưới danh nghĩa cái mới, cái hiện đại một cách thiếu chọn lọc ảnh

hưởng trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội và tác động xấu đến chất

lượng, hiệu quả hoạt động của đơn vị. Thực trạng đó không chỉ tác động tiêu cực

3

đến đời sống của quân nhân trong NTQĐ mà nghiêm trọng hơn có nguy cơ ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng trong tình mới.

Những khó khăn, thách thức đặt ra ở trên chỉ có thể được giải quyết triệt để

khi chủ thể VHCT trong NTQĐ nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo các quy

luật trong xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu thúc đẩy, nâng cao

VHCT nói riêng phù hợp với môi trường sư phạm quân sự, nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Do vậy, đã đến lúc cần thiết phải có những nghiên cứu cơ bản, có hệ thống

những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong NTQĐ hiện nay.

Xuất phát từ những tiền đề nêu trên, cho phép khẳng định, việc nghiên cứu

một cách cơ bản, có hệ thống Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay dưới góc độ văn hóa học là hướng nghiên cứu mang tính

khả thi, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, là vấn đề vừa mang tính cấp

thiết vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó

rút ra một số vấn đề về VHCT trong NTQĐ hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến VHCT trong nhà trường

quân đội.

- Làm rõ lý luận về VHCT trong nhà trường quân đội.

- Khảo sát và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện nay.

- Dự báo những yếu tố tác động, nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT

trong NTQĐ hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHCT trong NTQĐ hiện nay, với tính

cách là một thiết chế văn hóa đặc thù trong môi trường sư phạm quân sự.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Văn hóa chính trị trong NTQĐ, trong đó chủ

yếu tập trung mô tả và khảo sát trên các biểu hiện: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị

VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị.

4

- Phạm vi không gian: luận án lựa chọn khách thể nghiên cứu là NTQĐ,

trong đó tập trung khảo sát và đánh giá ở hai trường điển hình của quân đội về hai

loại hình đào tạo: cán bộ chính trị và cán bộ quân sự, ở hai cấp độ đào tạo là cấp học

viện và cấp trường sĩ quan, đó là: Học viện Chính trị (HVCT) và Trường Sĩ quan Lục

quân 1 (TSQLQ1), trong đó có so sánh với Học viện Phòng không - Không quân.

- Phạm vi thời gian: số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu khảo được sát

trong giai đoạn từ 2016 - 2019.

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở phương pháp luận

Luận án được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) về văn

hóa và con người; về giáo dục, đào tạo và các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW

và BQP, Tổng cục Chính trị, các văn bản của NTQĐ để khảo sát, đánh giá làm rõ

bản chất, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ hiện nay.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Xuất phát từ nhận thức, nghiên cứu văn hóa hay văn hóa học là chuyên ngành

khoa học về văn hóa, mang tính tổng hợp và liên ngành, luận án sử dụng tập hợp các

quan điểm mang tính chất lý luận chuyên ngành văn hóa học và các phương pháp liên

ngành như: triết học văn hóa, xã hội học văn hóa, nhân học, chính trị học, giáo dục học

và tâm lý học. Quá trình vận dụng các phương pháp, luận án sử dụng một cách linh

hoạt, tổng hợp các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học như: phân tích - tổng hợp,

diễn dịch - quy nạp, mô tả, chứng minh, lý giải để làm rõ những nội dung nghiên cứu.

- Phương pháp phân tích tài liệu

Phương pháp này nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về vấn đề nghiên

cứu, làm nền tảng cho việc xây dựng mục tiêu, phương hướng của đề tài. Đây là

phương pháp được sử dụng xuyên suốt của đề tài từ khi hình thành ý tưởng cho tới

khi hoàn thành nghiên cứu. Đồng thời, các thông tin cũng sẽ được sử dụng vào quá

trình thực hiện đề tài nhằm miêu tả, làm rõ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay,

trên cơ sở đó rút ra những nhận định khoa học nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ

nghiên cứu của luận án.

Các nguồn tài liệu bao gồm các bài viết trong tạp chí, tư liệu từ internet có

liên quan đến VHCT trong NTQĐ hiện nay; các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm,

5

nhiệm kỳ của NTQĐ, của một số bộ, ngành có liên quan; trong đó tập trung chủ yếu

là các báo cáo tổng kết tại HVCT, TSQLQ1 và Học viện Phòng Không - Không quân.

- Phương pháp quan sát, phỏng vấn và điều tra xã hội học

Phương pháp quan sát là một phương pháp bổ trợ được sử dụng để thu thập

thông tin về đối tượng nghiên cứu thông quan tri giác trực tiếp và ghi chép trung thực

những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong luận án,

nghiên cứu sinh sử dụng cách thức quan sát công khai và không công khai, quan sát

cơ cấu hóa và quan sát phi cơ cấu hóa để mô tả đối tượng, để kiểm tra giả thuyết và

kiểm tra thông tin từ các phương pháp khác, nhằm làm rõ hơn và bổ sung các thông

tin mà tác giả thu thập được. Nội dung quan sát chủ yếu tập trung vào các khía cạnh

về hoạt động giảng dạy, học tập, các hoạt động định hướng, rèn luyện giá trị văn hóa

cho học viên trong các nhà trường quân đội hiện nay.

Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học

thông qua việc tác động tâm lý - xã hội trực tiếp của người đi hỏi và người được hỏi

nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục đích nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp

này trong nghiên cứu không phải để tìm hiểu một cách đại diện về tổng thể mà giúp nhà

nghiên cứu hiểu sâu, hiểu kỹ về vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là một trong những

phương pháp thu thập thông tin quan trọng bởi vì có rất nhiều thông tin định lượng chỉ

thực sự có ý nghĩa khi những thông tin đó kết hợp với những thông tin định tính thu được

từ phỏng vấn sâu.

Nghiên cứu phỏng vấn 30 trường hợp tại hai đơn vị là HVCT và TSQLQ1 trong

đó bao gồm các đối tượng là giảng viên và học viên cung cấp những thông tin phục vụ

cho việc nghiên cứu của luận án. Cụ thể 10 trường hợp đối với học viên, 20 trường hợp

đối với giảng viên, cán bộ quản lý ở hai trường khảo sát nhằm để thu thập những ý kiến

đánh giá của họ về thực trạng định hướng VHCT và tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm,

đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong việc nâng cao VHCT cho các chủ thể.

Thời gian cho một cuộc phỏng vấn tùy thuộc vào từng tiêu chí và đặc điểm đối

tượng được phỏng vấn. Công cụ thu thập thông tin là bản hướng dẫn phỏng vấn sâu đã

được thiết kế sẵn [PL 2, tr.171-173].

Toàn bộ thông tin thu thập, sẽ được tiến hành tổng quan, sắp xếp, chia tư liệu

thành các chủ đề với các tiêu chí về nội dung thông tin, cuối cùng là chọn lọc các thông

tin có giá trị để làm luận cứ, luận chứng cho luận án.

6

Điều tra bằng bảng hỏi là cách thức thu thập thông tin được sử dụng phổ biến

trong các nghiên cứu điều tra xã hội học. Với những ưu điểm của phương pháp này

như: cho phép thu thập thông tin từ những tổng thể có quy mô lớn, có tính đại diện

cao, xét trong điều kiện thực hiện luận án là phù hợp nên nghiên cứu sinh sử dụng

phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo để thu thập thông

tin cho nghiên cứu này. Đây là dữ liệu quan trọng để phân tích trong chương 3 và

chương 4 của luận án.

* Cách thức chọn mẫu

Lựa chọn xuất phát từ thực tế khách quan trong nghiên cứu, hiện nay hệ thống

các nhà trường QĐND Việt Nam được tổ chức rất đa dạng với số lượng trên hàng

trăm nhà trường. Vì vậy, tác giả chỉ lựa chọn hai nhà trường điển hình cụ thể theo

mục tiêu nghiên cứu của luận án là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (đại diện

khối học viện và thuộc nhóm trường chính trị) và Trường Sĩ quan Lục quân 1 (đại

diện cho khối trường sĩ quan, thuộc nhóm trường quân sự) để khảo sát và đánh giá

thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.

* Cỡ mẫu nghiên cứu được tính theo công thức sau:

Trong đó:

N là số người cần điều tra

hệ số tin cậy = 1,96 với độ tin cậy 95% (xác xuất α = 0,05)

p = 0,5 là tỷ lệ học viên đang học tập tại hai địa bàn nghiên cứu.

d là sai số chấp nhận bằng 5%

Như vậy, cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu mô tả theo công thức tính toán tối

thiểu là 300 mẫu để khảo sát. Đây là cỡ mẫu tối thiểu cho phép phân tích thống kê.

Để tránh trường hợp đối tượng phỏng vấn từ chối trả lời, nghiên cứu sinh lấy thêm

40 mẫu dự phòng trong cùng một danh sách chọn mẫu. Bằng cách này, nghiên cứu

đã đảm bảo được số lượng mẫu cần thiết 300 mẫu được khảo sát tại hai trường. Đặc

điểm của mẫu khảo sát và người cung cấp thông tin được thể hiện trong (Phụ lục 3).

Công cụ thu thập thông tin là bảng hỏi được thiết kế theo một trình tự lôgic,

gồm 7 câu hỏi (Phụ lục số 1). Tiến hành điều tra 300 mẫu, nhằm làm rõ thêm thực

trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay.

7

* Cách thức xử lý thông tin:

Sau khi khảo sát và thu về được 300 đơn vị mẫu. Toàn bộ thông tin thu được

từ bảng hỏi sẽ được tổng hợp, mã hoá, nhập, làm sạch và sẽ được xử lý qua phần

mềm SPSS version 22.0 theo các biến số cơ bản. Kết quả cho thấy, nhìn chung chất

lượng số liệu đảm bảo độ tin cậy, logic, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nghiên cứu.

Trong luận án, tác giả sử dụng hệ số tương quan Pearson, mô hình hồi quy

logit nhị phân (Binary Logistic) để phân tích sự tương quan giữa các yếu tố, kiểm

định giả thuyết.

H0: không có mối quan hệ giữa các biến.

H1: có mối quan hệ giữa các biến.

Dựa vào giá trị p (p-value) để kết luận là chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết H0

dựa trên mức độ tin cậy nhất định (thông thường p <0,05).

p-value (sig.) ≤ α (mức ý nghĩa 0,05)  bác bỏ giả thuyết H0. Có mối quan

hệ có ý nghĩa giữa các biến cần kiểm định.

p-value (sig.) > α (mức ý nghĩa 0,05)  chấp nhận H0. Không có mối quan

hệ giữa các biến cần kiểm định.

* Các biến số độc lập được sử dụng

Các biến số độc lập được xem xét bao gồm: độ tuổi, cấp bậc quân hàm, học

viên năm mấy, trường đang học, điều kiện sống của gia đình học viên, nơi ở của học

viên sinh sống (trước khi học tập), v.v..

- Phương pháp chuyên gia

Phương pháp này giúp nghiên cứu sinh có được những ý kiến tham khảo và

định hướng từ các chuyên gia có trình độ cao và có những kinh nghiệm, hiểu biết

sâu sắc về những vấn đề liên quan để xem xét, nhận định, đánh giá về VHCT trong

NTQĐ, đồng thời cũng là điều kiện để tác giả kiểm chứng và khắc phục những hạn

chế trong quá trình nghiên cứu.

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Về lý luận

- Góp phần quán triệt sâu sắc và vận dụng một cách khoa học, sáng tạo quan

điểm của Đảng về phát triển văn hóa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán

bộ quân đội của Đảng.

8

- Luận án hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT; đưa ra

quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và đặc điểm VHCT trong NTQĐ hiện

nay dưới góc độ văn hóa học.

5.2. Về thực tiễn

- Luận án khảo sát, đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ, từ đó rút ra

những vấn đề làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ, góp phần

nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cán bộ quân đội.

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo

phục vụ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong NTQĐ, đồng thời luận án có

thể được sử dụng như một tài liệu bổ trợ giúp nâng cao chất lượng hoạt động công

tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ cán bộ chính trị nói chung và cán bộ làm

công tác văn hóa nói riêng trong môi trường quân đội.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

án được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết, trong đó:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến văn hóa chính trị

trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chương 2: Lý luận về văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam và khái lược về khách thể nghiên cứu.

Chương 3: Thực trạng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay.

Chương 4: Những yếu tố tác động và một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa

chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA

CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

1.1.1. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là một thực thể xã hội

Tiếp cận nghiên cứu VHCT với tính cách là một khoa học chỉ thực sự bắt

đầu từ những năm 50 của thế kỷ XX và được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu

chính trị của châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT

đã xuất hiện từ rất sớm cùng với sự xuất hiện của con người. Khởi đầu của tư tưởng

về VHCT xuất phát từ việc tìm hiểu và giải thích bản chất và cách thức của sự cai

trị (thuật cai trị) hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực của các nhà tư tưởng

cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông.

Ở phương Tây, từ các nhà triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại (thế kỷ V- TCN) cho

đến các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVIII), VHCT được xem xét như là

đối tượng nghiên cứu của triết học, nghĩa là được nghiên cứu với tính cách một thực

thể xã hội. Các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã cổ đại tiêu biểu như Platon (428 - 348,

TCN), Aristotle (384 - 322, TCN) là những người đầu tiên tiếp cận VHCT và đưa ra

quan niệm chính trị vừa là khoa học vừa là một nghệ thuật. Có thể nói, Platon và

Aristotle được xem là những người đi đầu trong cách tiếp cận VHCT truyền thống

phương Tây khi đặt ra được vấn đề quan điểm, thái độ ứng xử của con người đối với

quyền lực, đồng thời định hướng cách thức làm thế nào để quản lý tốt các mối quan

hệ xã hội; khẳng định vai trò của chính thể đối với người dân là thực sự quan trọng.

Nếu như trong tác phẩm “Nền cộng hòa” (The Republic), Platon đã cho rằng,

các chế độ chính trị truyền thống cần thiết phải được điều hành bằng một tầng lớp

cầm quyền mới, đó là các nhà triết học được giáo dục tốt, bởi vì suy cho cùng mục

đích của triết học là xây dựng nhà nước lý tưởng, trong khi nhân cách của con

người chỉ có thể được hoàn thiện trong một tổ chức nhà nước thực sự hợp lý, thì

Aristotle lại cho rằng, chính trị có vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại

của con người và khẳng định “con người là động vật chính trị”. Chính trị và luân

thường có sự liên kết chặt chẽ với nhau, một đời sống có đạo đức chỉ thực sự có ở

những người tham gia vào đời sống chính trị, mục đích cao nhất của chính trị và sứ

10

mệnh của người cầm quyền là không chỉ đảm bảo quyền sống mà còn đặt ra yêu cầu

đòi hỏi phải làm thế nào để có được sống tốt hơn. Các thể chế chính trị có nguy cơ

bị tha hóa nếu quyền lực không thực sự thuộc về quần chúng, Aristotle đã sử dụng

từ “demosthe” (quần chúng, dân thường) thay vì “democracy” (dân chủ) và

“ochlocracy” (chính quyền quần chúng hay thường dân cai trị).

Coi trọng và đề cao vai trò của các nhà triết học - những người có kỹ năng

đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội, Platon cho rằng: “Loài người sẽ không tránh

được cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa

giữ được các chức trách nhà nước hoặc là các nhà cầm quyền chưa trở thành các

nhà triết học chân chính” [dẫn theo 149, tr.19].

Triết gia người Italia N.B Machiavelli (1469 - 1527) - “một trong những

người khổng lồ của thời đại Phục hưng” (chữ dùng của F. Engels), trong luận thuyết

về chủ nghĩa hiện thực chính trị qua tác phẩm “Quân vương” (The Prince) đã đề

nghị cần có một tầm nhìn thế giới về chính trị đồng thời lên án quan điểm đạo đức

truyền thống của giới cầm quyền với những hành vi chính trị xảo quyệt và thủ đoạn.

N.B Machiavelli đã phê bình mạnh bạo tư tưởng duy lý phi tôn giáo, lòng căm ghét

bọn quý tộc ăn bám và thể hiện khát vọng muốn xây dựng Italia thành một quốc gia

thống nhất, tự do, bình đẳng với một chính quyền mạnh, sử dụng bạo lực để xây

dựng trật tự mới. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà lãnh đạo đương thời tiếp

thu và thực hiện.

Thời kỳ Khai sáng, thế kỷ XVIII cùng với sự bùng nổ của các tư tưởng triết

học, các học thuyết chính trị xã hội cũng xuất hiện hết sức đa dạng và phong phú

với các tên tuổi như: J. Loker; D. Diderot; S. L. Montesquieu; J. Rousseau...

Tư tưởng về VHCT của S. L. Montesquieu (1689 - 1755) thể hiện ở chủ

trương tam quyền phân lập nhằm giữ vững cán cân quyền lực. Đây là tư tưởng tiến bộ

đương thời vì đã loại bỏ tư tưởng và tàn dư của chế độ phong kiến đồng thời cũng thể

hiện tư tưởng VHCT cùng với những giá trị trí tuệ, tài năng của S. L. Montesquieu.

Với J. Rousseau (1712 - 1778), quyền lực phải thuộc về nhân dân thông qua đại diện

và luật pháp không phải do các cơ quan đại diện ban hành mà phải do dân chúng trực

tiếp lập ra. Mục tiêu của chính quyền nhà nước là phải bảo đảm tự do, bình đẳng và

công bằng cho tất cả mọi người. Theo J. Rousseau, triết học chính trị gắn liền với đạo

đức, nhà nước không thực hiện được các giá trị đạo đức thì sẽ không thực hiện đầy đủ

11

các chức năng vốn có của mình. Có thể nói, tư tưởng chính trị của J. Rousseau đã thể

hiện tinh thần cấp tiến hơn so với các nhà tư tưởng đương thời.

Theo dòng thời gian, thuật ngữ VHCT được biết đến lần đầu tiên khoảng

cuối thế kỉ XVIII ở châu Âu do các nhà triết học, chính trị học sử dụng. Triết gia cổ

điển Đức I. G. Gerzer (1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương

tác giữa văn hóa và chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín

muồi của VHCT” hay “những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương

pháp triết học lịch sử nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1].

Tuy nhiên phải đến thập niên 50 - 60 của thế kỉ XX, VHCT mới được quan

tâm như một lĩnh vực nghiên cứu mang tính độc lập và khái niệm VHCT mới thực

sự gia nhập vào hệ thống khái niệm, phạm trù của khoa học chính trị gắn với tên

tuổi của hai nhà chính trị học nổi tiếng người Mỹ là G. Almond và S.Verba. Theo

quan niệm của họ, hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội, vì vậy khi xem

xét hành vi chính trị phải tính đến các nhân tố văn hóa, tâm lý cá nhân và của toàn

xã hội. Trong tài liệu nghiên cứu “Các hệ thống chính trị so sánh” (Comparative

Political Systems), năm 1956 [164], G.Almond cho rằng, văn hóa của cộng đồng có

ảnh hưởng đến hệ thống chính trị của các cộng đồng đó và ông sử dụng thuật ngữ

“VHCT” (Political Culture) để so sánh, đối chiếu sự khác biệt giữa các nền chính

trị. Theo G. Almond “Mỗi hệ thống chính trị đều bắt rễ từ trong một loại định

hướng xác định riêng, tôi phát hiện thấy điều này rất hữu dụng và gọi nó là văn hóa

chính trị” [164, tr.15]. Năm 1963 G Almond và S. Verba đã xuất bản một trong

những tác phẩm được xem là kinh điển cho nghiên cứu VHCT ở phương Tây là

“Văn hóa công dân” (The Civic Culture) [166], trong đó cho rằng, VHCT bao gồm

các yếu tố nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và giá trị chính trị đồng thời đưa ra

ba loại hình cơ bản của VHCT trong lịch sử là văn hóa bộ lạc, văn hóa thần thuộc,

văn hóa tham dự hay còn gọi là văn hóa công dân.

Một trong những nhà nghiên cứu chính trị hàng đầu của Mỹ thế kỷ XX là L.

Pye trong khi biên soạn “Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế” (International

Encyclopedia of the Social Sciences) vào năm 1961 [169] đã đưa ra định nghĩa về

VHCT như sau: “VHCT là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem lại ý

nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận

hành của một chính thể”, đồng thời khẳng định: “VHCT là sản phẩm bao gồm lịch sử

12

tập thể của hệ thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó,

do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [169, tr.220].

Ở phương Đông, Nho giáo đã mở đầu cho việc tiếp cận VHCT với tính cách

là một thực thể xã hội. Bằng mệnh đề: “việc chính trị cốt ở chính tâm của người trị

dân” [79, tr.429], Khổng Tử (551 - 479 TCN) cho rằng, những người trị dân là

những “chính nhân quân tử”, khác với hạng “ tiểu nhân” và ông luôn đề cao vai trò,

trách nhiệm của những người “quân tử” hay “người hiền”. Quốc gia có “thái bình

thịnh trị” hay không phụ thuộc vào việc giữ “Lễ”, tuân theo “Đạo” hay sự chính

danh của người “quân tử” và yêu cầu phải giữ được “tam cương, ngũ thường”, đó

chính là “văn trị” (cai trị bằng văn) nghĩa là, chính trị phải có văn hóa. Học thuyết

chính trị - đạo đức của Khổng Tử đã thể hiện rõ nét quan niệm về VHCT của ông, ở

đó chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc và có ảnh hưởng sâu rộng

đến VHCT của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng “văn trị” của

Khổng Tử tiếp tục được các thế hệ học trò của ông kế thừa và phát triển, trong số

đó, phải kể đến Mạnh Tử (372 - 289 TCN), với tư tưởng “văn trị giáo hóa” và được

hiểu là chính trị gắn với giáo dục. Theo Mạnh Tử, “chính giỏi không thể tranh thủ

được dân bằng giáo giỏi. Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu” [32, tr.308].

Mạnh Tử là người đề xuất chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”,

ông cũng là người đưa ra thuyết “tính thiện” của con người rằng con người sinh ra

đã là “thiện” rồi, “nhân chi sơ bản tính thiện”, tư tưởng này đối lập với thuyết “tính

ác” của Tuân Tử rằng “nhân chi sơ bản tính ác”. Ông cho rằng “kẻ lao tâm trị người

còn người lao lực thì bị người trị”. Học thuyết của ông được gói gọn trong các chữ

“Nghĩa”, “Trí”, “Lễ”, “Tín”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người “quân tử” phải có

“hạo nhiên chính khí”, cần “lấy Đức thu phục người khác”, theo ông “người nhân từ

khắp thiên hạ không có kẻ thù nào” [dẫn theo 149].

Vào thời kỳ “Bách gia chư tử”, ở Trung Hoa, Lão Tử (580 - 500, TCN) cũng

được xem là tư tưởng gia lỗi lạc trong việc đề xuất chủ trương cai trị với phương châm

“vô vi nhi trị”, nghĩa là cai trị bằng cách không cai trị. Trong cuốn “Lão Tử - Đạo đức kinh” [76] - cuốn sách hướng dẫn dành cho các vị vua về thuật cai trị đất nước như

thế nào cho hợp với “Đạo”, ông cho rằng: “Không tán dương người quyền quý thì

người dân không tranh tụng” và “Không đề cao giá trị đồ quý thì người dân không

tranh cướp”. Như vậy, Lão Tử đã thể hiện một quan niệm mới trong cách ứng xử

chính trị của bậc trị nước và đây cũng chính là cách tiếp cậnVHCT của ông.

13

Vào cuối thời Chiến quốc, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử

tư tưởng Trung Hoa cổ đại và cũng là một trong số “Bách gia chư tử” đã xuất hiện

đó là Hàn Phi, hay còn được biết đến với tên gọi là Hàn Phi Tử (281 - 233, TCN).

Là học trò của Tuân Tử (313 - 238, TCN), Hàn Phi theo thuyết “tính ác” của

thầy một cách triệt để và cho rằng, con người bẩm sinh vốn “đại ác”, do đó ông

không bàn đến “Nhân”, “Nghĩa”, cũng không trọng “Lễ” như Tuân Tử, mà đề cao

phương pháp dùng “Thế”, dùng “Thuật”, dùng “Luật” của Pháp gia để trị nước.

Khác với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì phải dùng

“Nhân trị” và “Đức trị”), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp

luật: “Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn

cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại

thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu”. Bộ sách “Hàn Phi Tử” [152]

được xem là bộ sách chính trị học vĩ đại, học thuyết chính trị của ông được người

xưa tụng ca là “đế vương chi học”. Xét theo khía cạnh VHCT, tư tưởng “Pháp trị”

của Hàn Phi Tử đã có những tiến bộ nhất định và ảnh hưởng tích cực đến đời sống

chính trị xã hội không chỉ dừng lại ở Trung Hoa cuối thời Chiến quốc.

Tại Ấn Độ, thời kỳ cổ đại do ảnh hưởng của giáo lý Bà La Môn, bộ Luật Manu

xuất hiện (vào thế kỷ II, TCN) đã có những quy định chi tiết về cách ứng xử và địa vị

của từng đẳng cấp trong xã hội. Đây thực chất là những luật lệ, những tập quán thể hiện

thế giới quan của giai cấp thống trị được tập hợp lại dưới dạng trường ca. Nội dung của

bộ luật Manu không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn tập trung vào những vấn đề

trong kiến trúc thượng tầng của xã hội Ấn Độ cổ đại đương thời như: chính trị, tôn giáo

và thế giới quan, vũ trụ quan. Những quy định khắt khe mang tính phân biệt đối xử của

bộ luật Manu làm cho xã hội Ấn Độ cổ đại bị phân hóa sâu sắc. Trong bối cảnh đó,

Phật giáo ra đời (thế kỷ VI - IV, TCN) với chủ trương từ bi, hỷ xả nhằm cứu rỗi và xóa

bỏ những kỳ thị về đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ đương thời. Có thể nói, cùng với bộ

luật Manu và sự ra đời của Phật giáo đã thể hiện sự tiếp cận VHCT trong lịch sử văn

hóa - văn minh của Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói chung.

Như vậy, cùng với sự xuất hiện của chính trị khi chế độ Công xã thị tộc tan

rã thì sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT cũng được đề cập hết sức phong

phú và đa dạng trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng của cả phương Đông và

phương Tây từ cổ đại đến hiện đại. Tuy nhiên, các nghiên cứu chuyên sâu và độc lập

14

về VHCT với tính cách là thực thể xã hội chỉ thực sự được bắt đầu từ giữa những

năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của ngành chính trị học gắn liền với tên tuổi của

các nhà nghiên cứu phương Tây và Mỹ. Trong tình hình hiện nay cho thấy, cũng như

khái niệm và quan niệm về văn hóa, các khái niệm và quan niệm về VHCT vẫn còn

rất khó khăn để để đi đến sự thống nhất trong các trường phái, các nhà nghiên cứu.

Mặt khác, những thành tựu đạt được trong nghiên cứu VHCT trên thế giới lại chủ yếu

là do các nhà triết học, chính trị học đóng góp.

Ở Việt Nam, do chịu ảnh hưởng của những trào lưu tư tưởng và tôn giáo trên

thế giới, tư tưởng về VHCT đã xuất hiện từ rất sớm, đặc biệt là sự chi phối của Phật

giáo, Nho giáo trong thời kỳ độc lập tự chủ thế kỷ X đến thế kỷ XIX và văn hóa

phương Tây giai đoạn giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng sâu sắc

đến lịch sử tư tưởng nói chung, VHCT Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, vấn đề tiếp

cận VHCT ở Việt Nam thời kỳ đầu, chủ yếu được lồng ghép trong các nghiên cứu về

văn hóa và các nhà nghiên cứu đã xem VHCT như một thành tố quan trọng của triết

học và chính trị học, một số công trình đáng chú ý như:

Xuất phát từ góc độ triết học, Nguyễn Hữu Khiển (2006) trong công trình

“Phân tích triết học - Những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị”, Nhà

xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [70] đã tiếp cận nghiên cứu chính trị với tính

cách là một hình thái ý thức xã hội, chỉ ra bản chất của các mối quan hệ tư tưởng (ý

thức) và thực tiễn đời sống chính trị - một bộ phận của đời sống xã hội đang vận

động. Theo tác giả, VHCT thuộc phương diện bản chất của con người và tiếp cận

phạm trù VHCT từ “văn hóa” và “chính trị”, trong đó văn hóa được hiểu với nghĩa

rộng. Xét về mặt bản chất, đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của VHCT là “luôn luôn

được đo bằng lập trường, quan điểm và lòng trung thành với lý tưởng chính trị, tính

trung thực và khiêm nhường; kiên quyết, khéo léo, mưu lược, lòng nhân ái và vị

tha; hướng về Nhân dân và phục vụ Nhân dân một cách có hiệu quả, tất cả những

điều trên làm rõ bản chất của VHCT” [70, tr.100]. Về mặt cấu trúc, tác giả cho rằng,

“VHCT là một hệ giá trị bao gồm nhiều nhân tố cấu thành có quan hệ hữu cơ với

nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau… hình thành nên một cấu trúc hoàn

chỉnh - một hệ thống - trên một cái nền chung là mục tiêu chính trị” [70, tr. 100-

101]. Các yếu tố cấu thành VHCT bao gồm: trình độ trí tuệ và lý luận chính trị; lập

trường giai cấp của mỗi người và tổ chức chính trị; nhu cầu, thói quen, hành vi tự

15

giác, chủ động tích cực của mỗi người trong đời sống chính trị - xã hội tạo thành giá

trị của họ trong đời sống cộng đồng; ý thức về sự đổi mới chính trị và định hướng về

sự đổi mới đó; nền tảng pháp lý của xã hội; chuẩn mực đạo đức trong quan hệ xã hội

của các cá nhân trong đời sống và thái độ của các chính khách. Tuy nhiên cách tiếp

cận và trình bày của tác giả xem ra còn thiên về nhấn mạnh và đề cao tính giai cấp.

Từ góc nhìn triết học, tiếp cận văn hóa với tính cách là một thực thể xã hội, trong

“Giáo trình triết học văn hóa” (Dùng cho đào tạo nghiên cứu sinh và học viên cao

học), (2016) do Văn Đức Thanh (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

[110], mặc dù không trực tiếp đề cập đến khái niệm VHCT, tuy nhiên xuất phát từ

góc độ triết học, trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận mác xít, lấy khách

thể nghiên cứu là văn hóa, các tác giả đã cho rằng: bản chất của văn hóa dưới góc độ

là một phương diện của đời sống xã hội thể hiện đậm đặc trong mối liên hệ biện

chứng giữa văn hóa với cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội, trong đó, “có thể coi lý luận

cách mạng là nội dung sâu sắc của văn hóa chính trị” [110, tr.41]. Ở mức độ cụ thể

hơn, các tác giả khẳng định:

Hệ thống quan điểm lý luận chính trị, hệ thống thể chế chính trị, thiết chế

chính trị cùng các hoạt động chính trị của giai cấp cách mạng, tiến bộ với

mục tiêu vì con người, tự nó đã mang đậm giá trị văn hóa với tính cách

dấu ấn của con người và cộng đồng lên lĩnh vực chính trị của một giai cấp,

quốc gia, dân tộc nhất định được phong hóa theo thời gian và tác động trở

lại đối với bản thân nền chính trị đó [110, tr.44].

Điểm đáng chú ý là trong mục “Các nguyên lý của sự phát triển văn hóa”, các

tác giả khẳng định, về mặt hệ thống - cấu trúc: “Hơn nữa bản thân chính trị cũng là

một thành tố của văn hóa - VHCT - trong xã hội có đối kháng giai cấp” [110, tr.97].

Từ góc độ chính trị học, xuất phát từ vị trí, vai trò của VHCT đối với việc

bồi dưỡng cán bộ, đã có một số công trình như: “Văn hóa chính trị và việc bồi

dưỡng đội ngũ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”, (1995), do Phạm Ngọc Quang (Chủ

biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [100]; “Nâng cao văn hóa chính trị

của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay”, (2006), Lâm Quốc Tuấn, Nhà

xuất bản Văn hóa Thông Tin và Viện Văn hóa, Hà Nội [149]. Theo đó, các tác giả

đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về VHCT và cho rằng, nói đến văn hóa là nói

tới con người, VHCT gắn liền với chủ thể chính trị, trong đó cán bộ lãnh đạo quản

16

lý giữ vai trò là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Khi

đề cập VHCT với tính cách là hệ giá trị thì đó là một hệ thống các hoạt động, các

quan hệ, các thiết chế chính trị phản ánh đầy đủ các dấu hiệu chân, thiện và mỹ. Từ

đó, cho thấy yêu cầu nâng cao VHCT cho cán bộ lãnh đạo quản lý là một tất yếu

khách quan và đề ra phương hướng, nội dung giải pháp để nâng cao VHCT cho đội

ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay. Nhóm tác giả “Tập bài giảng Chính

trị học”, (2007) do Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), Viện Khoa học Chính trị, Nhà xuất

bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [160], trong khi khẳng định chính trị học là khoa học

nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể trong tính hệ thống, cung cấp những kiến thức

cơ bản về chính trị và chỉ ra những vấn đề có tính quy luật làm cơ sở vận dụng có

hiệu quả vào các hoạt động chính trị nói chung, trong đó VHCT được xem như một

thành tố quan trọng; “Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,(2007) do

Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên), Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [67], cho

rằng, VHCT như là một đối tượng nghiên cứu của chính trị học; “Bước đầu tìm

hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam”, (2009), Nguyễn Văn

Huyên - Nguyễn Hoài Văn - Nguyễn Văn Vĩnh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,

Hà Nội [68], trong khi khẳng định chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong thực

tiễn, bản chất chính trị, lý tưởng chính trị, trình độ hoạt động chính trị hướng tới

một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con

người, điều đó nói lên VHCT của một nền chính trị; “Văn hóa chính trị và lịch sử

dưới góc nhìn văn hóa chính trị”, (2010) của Phạm Hồng Tung, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia, Hà Nội [150], trong đó, tác giả làm rõ các khái niệm cơ bản có

liên quan và được sử dụng phổ biến trong khoa học chính trị phương Tây cũng như

của phương Đông. Bên cạnh những thành tựu mới trong nghiên cứu VHCT, tác giả

còn có những đóng góp trong việc khẳng định vai trò của VHCT không chỉ đối với

chính trị học mà còn là khách thể nghiên cứu và có ý nghĩa phương pháp luận đối

với một số ngành khoa học xã hội; “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây

dựng văn hóa chính trị Việt Nam” (Sách chuyên khảo), (2016) của Nguyễn Minh

Khoa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [73]. Cuốn sách đã trình bày

những vấn đề cơ bản về lý luận văn hóa và VHCT, đồng thời khẳng định, VHCT

Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần vô giá cần được gìn giữ và phát huy. Tác giả

cho rằng, VHCT là một bộ phận của văn hóa, đó là một bộ phận tinh thần của đời

17

sống xã hội, là tổng thể các giá trị, định hướng, quan điểm, sự ứng xử mẫu mực

của các chủ thể chính trị và đóng vai trò then chốt đối với hoạt động của mọi thể

chế chính trị; “Văn hóa chính trị Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,

(2017) do Phan Xuân Sơn chủ nhiệm đề tài, Viện Chính trị học - Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học

cấp Bộ năm 2016), [107] từ cách tiếp cận theo tầng nội dung của VHCT với các

giá trị cốt lõi của VHCT Việt Nam như: chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng

đồng, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần thân dân, tinh thần hòa hiếu và tinh thần

thượng võ, các tác giả đã cố gắng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về

VHCT trong bối cảnh hội nhập quốc tế; chỉ ra thực trạng biến đổi của VHCT Việt

Nam trong hội nhập cũng như những hạn chế và đề xuất giải pháp xây dựng và

phát triển VHCT Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Dưới góc độ chính trị học, VHCT cũng được lựa chọn làm đề tài của các

luận văn, luận án và đã được bảo vệ thành công như:“Văn hóa chính trị Việt Nam

và vai trò của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”, (1998), luận văn

thạc sĩ của Lê Tấn Lập, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh;

“Văn hóa chính trị của đội ngũ giảng viên đại học nước ta hiện nay - thực trạng và

giải pháp”, (2004), luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực

tiễn”, (2015), luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Lập, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh); “Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”, (2017), luận án tiến sĩ của Tạ Thành

Chung, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [24].

Nhìn chung, các luận văn và luận án đã tập trung luận giải những vấn đề lý

luận chung về VHCT, khảo sát thực trạng VHCT Việt Nam, từ đó đưa ra những

quan niệm, phương hướng giải pháp để phát triển VHCT đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Cùng với các công trình nêu ở trên cũng đã có nhiều bài báo đăng trên các

tạp chí chuyên ngành nhằm công bố những kết quả nghiên cứu chính trong tiếp cận

nghiên cứu VHCT, một số bài viết đáng chú ý:

“Văn hóa chính trị, một bình diện hợp thành của đối tượng và nội dung

nghiên cứu của chính trị học”, (1992) của Hoàng Chí Bảo, trong “Một số vấn đề về

khoa học chính trị”, Viện Mác - Lênin; “Văn hóa chính trị - một cách nhìn trong thời

18

kỳ đổi mới”, (1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Xây dựng Đảng số 10, 11; “Vai

trò của văn hóa chính trị trong việc hình thành phẩm chất và năng lực của người cán

bộ lãnh đạo chính trị”, (2003) của Nguyễn Văn Vĩnh, Thông tin Chính trị học; “Về

văn hóa chính trị”, (2004) của Văn Hải, Tạp chí Lý luận chính trị số 5; “Tiếp cận

triết học về văn hóa chính trị và xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay”,

(2005) của Nguyễn Văn Huyên, Thông tin Chính trị học số 1; “Văn hóa chính trị Việt

Nam trong thời kỳ đổi mới”, (2010) của Phạm Huy Kỳ, Tạp chí Cộng sản. “Xây

dựng, phát huy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản trong tiến trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam”, (2014) của Phùng Hữu Phú, Tạp chí Cộng sản số 856;

“Văn hóa chính trị”, (2016) của Nguyễn Hữu Đổng, Tạp chí Lý luận chính trị số 2…

Xét một cách tổng quát, từ góc độ chính trị học, trên cơ sở hạt nhân của

chính trị là vấn đề quyền lực, các tác giả đã xem VHCT như một thành tố quan

trọng của chính trị và là đối tượng nghiên cứu của chính trị học. Quá trình nghiên

cứu, các nhà chính trị học đã cố gắng nêu lên những khía cạnh bản chất, chỉ ra đặc

trưng, cấu trúc của VHCT, đồng thời đưa ra những khuyến nghị, những giải pháp

mang tính định hướng nhằm đề cao, phát huy và phát triển VHCT trong công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1.1.2. Nghiên cứu văn hóa chính trị với tính cách là hệ giá trị

Khi đặt vấn đề xem xét, VHCT với tính cách hệ giá trị, các nhà nghiên cứu

trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều nhấn mạnh và đề cao vai trò của văn hóa nói

chung và VHCT nói riêng trong thực tiễn đời sống.

Ở phương Tây thế kỷ XX đã có những tác giả, những trường phái có đóng

góp quan trọng cho sự hình thành, phát triển khái niệm, quan niệm, cấu trúc VHCT

và nhấn mạnh những đóng góp của VHCT đối với sự tiến bộ xã hội. Alexis de

Tocqueville khi nghiên cứu VHCT Mỹ để tìm câu trả lời cho sự thành công của

nước Mỹ đã khái quát các giá trị VHCT của Mỹ bao gồm: tự do, bình đẳng, dân

chủ, chủ nghĩa cá nhân, nhà nước pháp quyền, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản

và thị trường mở; D. Kavannagh năm 1972, [168] và W. Rosenbaum (1995) [170]

đã cho xuất bản các tác phẩm về “Văn hóa chính trị” (Political Culture); W. J

Patzelt thuộc trường phái Passau của Đức (1992); định nghĩa của Trường Đại học

Tổng hợp California ở Berkeley của Mỹ (2006); định nghĩa của trường phái học

thuật Heidelberg của Đức (2007)...

19

Ở Nga, thời kỳ tồn tại nhà nước Liên bang Xô Viết, các nhà nghiên cứu mác xít

không quan tâm bàn riêng về VHCT mà chủ yếu quan tâm đến khái niệm văn hóa vô

sản nhằm phân biệt với văn hóa tư sản, vì vậy VHCT và văn hóa vô sản trong nhiều

trường hợp được xem như khái niệm đồng nghĩa. Sau khi Liên Xô tan rã, những nghiên

cứu về VHCT đã có sự phân hóa theo hai hướng là bảo thủ hay cấp tiến, tạo nên sự đa

dạng trong cách tiếp cận nghiên cứu VHCT của nước Nga. Những tên tuổi tiêu biểu

của trường phái chính trị học Nga như E. I. Batalov; Iu. S. Pivovarov…

Các nhà chính trị học Nga đã không nhất trí với các nhà chính trị học phương

Tây khi quy VHCT về các khuôn mẫu xác định nào đó và cho rằng điều đó sẽ chịu

ảnh hưởng bởi thiên kiến chủ quan của nhà nghiên cứu và dễ bị nhầm lẫn về bản

chất bởi những hiện tượng bề ngoài và cho rằng: cấu trúc cơ bản của VHCT bao

gồm văn hóa về ý thức chính trị, văn hóa hành vi chính trị và văn hóa vận hành các

thiết chế chính trị của nhà nước [dẫn theo 149, tr.24-25].

Xuất phát từ góc độ văn hóa học, nhóm tác giả của“Từ điển bách khoa văn

hóa học”, năm 2002 A.A. Radugin (chủ biên), do Vũ Đình Phòng dịch, Viện

nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật ấn hành [104], cho rằng, VHCT là một khu vực

chuyên môn hóa riêng biệt của văn hóa, thể hiện trình độ văn minh, phương thức

hoạt động của các thiết chế chính trị, các tổ chức chính trị trong xã hội, với ba cấp

độ chính bao gồm: thế giới quan, nhận thức chính trị của công dân và ý thức chính

trị; VHCT có hai mô hình chính yếu là: chuyên chế - tổng tài và dân chủ - tự do. Từ

đó, các nhà nghiên cứu văn hóa Nga quan niệm: “VHCT là một phần của đời sống

văn hóa tinh thần của xã hội, bao gồm các kiến thức chính trị, các định hướng giá

trị, các mẫu mực ứng xử (cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng) trong mối quan hệ

chính trị trong một thời điểm lịch sử nhất định” [104, tr.564].

Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc hiện nay, VHCT còn

được gọi là văn minh chính trị và được ghi nhận như một nội dung quan trọng cùng

với văn minh tinh thần và văn minh vật chất. Trong “Trung Quốc đại bách khoa

toàn thư”, đã định nghĩa: “Văn minh chính trị là sự tổng hòa các thành quả chính trị

do con người cải tạo xã hội mà có, thông thường nó biểu hiện thành mức độ thực

hiện dân chủ, tự do, bình đẳng, giải phóng con người trong một hình thái xã hội

nhất định”. Ở một khía cạnh khác, tác giả Ngu Sùng Thắng của Trường Đại học Vũ

Hán cho rằng: “Văn minh chính trị, xét từ trạng thái tĩnh, nó là toàn bộ thành quả

20

tiến bộ đạt được trong tiến trình chính trị; xét từ trạng thái động, nó là quá trình tiến

hóa cụ thể trong sự phát triển chính trị xã hội loài người” [dẫn theo 149, tr.26].

Tiếp cận VHCT với tính cách là hệ giá trị, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt

Nam đã có sự tiếp nhận các thành tựu nghiên cứu VHCT từ phương Tây và Mỹ để

nghiên cứu VHCT, một số công trình tiêu biểu như: “Văn hóa chính trị Việt Nam

truyền thống và hiện đại”, (1998) của Nguyễn Hồng Phong, Nhà xuất bản Văn hóa

Thông tin, Hà Nội [99]. Đóng góp của tác giả được thể hiện qua những tổng kết có

giá trị tham khảo và định hướng trong việc nghiên cứu VHCT truyền thống nói

riêng và sự biến đổi của văn hóa truyền thống nói chung qua các giai đoạn lịch sử

dân tộc nhằm hướng tới những vấn đề có tính chiến lược trong việc phát huy và

phát triển các yếu tố nội sinh cũng như ngoại sinh trong công cuộc phát triển đất

nước. Tác giả nhấn mạnh, tư tưởng lấy dân làm gốc (dĩ dân vi bản) có ảnh hưởng sâu

đậm đến văn hóa dân tộc và khẳng định: mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho

giáo Trung Hoa nhưng cấu trúc của văn minh - văn hóa Việt Nam là Làng - Nước,

chứ không phải Nước - Nhà như văn hóa Trung Hoa; “Vai trò văn hóa trong hoạt

động chính trị của Đảng ta hiện nay”, (2000) do Trần Văn Bính (Chủ biên), Nhà

xuất bản Lao động, Hà Nội [15], dưới ánh sáng của chủ nghĩa Marx - Lenin, trên

tinh thần đổi mới, các tác giả đã tiếp cận và luận giải những vấn đề cơ bản về văn

hóa trong lãnh đạo chính trị của ĐCSVN hiện nay. Có thể nói, đây công trình

nghiên cứu quan trọng góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác

xây dựng Đảng dưới góc độ văn hóa; “Văn hóa chính trị Việt Nam”, (2014), (Giáo

trình Cao học) của Viện Văn hóa và Phát triển do Lê Quý Đức biên soạn, Học viện

Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [47], từ góc độ văn hóa học,

giáo trình đã khái quát quá trình hình thành khái niệm VHCT cũng như cơ cấu và

chức năng của VHCT, trình bày những nét cơ bản về VHCT Việt Nam qua các thời

kỳ. Xuất phát từ lý thuyết cấu trúc - chức năng, tác giả quan niệm:

Văn hóa chính trị là một bộ phận (thành tố) của văn hóa tổ chức xã hội,

bị quy định bởi trình độ đặc trưng văn hóa của một cộng đồng người (bộ

lạc, bộ tộc, dân tộc - quốc gia) trong việc tổ chức đời sống cộng đồng,

bằng việc nắm giữ quyền lực, thực thi quyền lực và tham gia vào công

việc của bộ máy quyền lực của cộng đồng, thể hiện ra như một “kiểu”,

“dạng”, “nền”, “hệ thống”chính trị nhất định trong lịch sử [47, tr.17];

21

“Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam”, (2014) do Đinh Xuân Dũng

(Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [28]. Xuất phát từ vị trí, vai

trò của văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam, trên cơ sở nhận diện văn

hóa với tính cách là hệ giá trị, các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa văn

hóa với các thành tố cơ bản của đời sống xã hội và đề ra nhiệm vụ trung tâm của

văn hóa trong chiến lược phát triển. Theo đó, VHCT là yếu tố hợp thành hệ giá trị

văn hóa, thể hiện ở tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của tổ chức và con người chính trị,

VHCT cho thấy, tổ chức hay đảng phái chính trị đó là dân chủ hay chuyên quyền

độc đoán, hiệu quả hay không hiệu quả.

Cũng đã có luận án tiến sĩ văn hóa học tiếp cận VHCT trong một giai đoạn

lịch sử dân tộc, như: “Văn hoá chính trị thời thịnh Trần”, (2018), luận án tiến sĩ

của Nghiêm Thị Thu Nga, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [93], thông

qua mô tả diện mạo và khái quát những giá trị tiêu biểu của VHCT thời thịnh Trần,

tác giả đã rút ra những bài học đối với sự nghiệp xây dựng VHCT nước ta hiện nay.

Nhìn chung, từ góc độ văn hóa học, các nhà nghiên cứu đã xem VHCT như

là một thành tố của văn hóa tổ chức xã hội, là một yếu tố hợp thành hệ giá trị văn

hóa được biểu hiện ở tư tưởng, nhân cách, những chuẩn mực, khuôn mẫu và truyền

thống trong hoạt động chính trị.

Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu cho thấy, sự phân chia trong cách tiếp cận VHCT

với tính cách là một thực thể xã hội hay với tính cách là hệ giá trị trên thế giới cũng như

ở Việt Nam trong phần tổng quan cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trong xu thế nghiên

cứu văn hóa hiện nay, để nghiên cứu một hiện tượng văn hóa, một loại hình văn hóa, một

nền văn hóa… các nhà nghiên cứu ít khi tuyệt đối hóa một lý thuyết hay một cách tiếp

cận nào đó mà thường vận dụng cách tiếp cận tổng hợp và liên ngành.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ

TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

1.2.1. Tình hình nghiên cứu văn hóa trong quân đội

Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội, thời

gian qua được sự quan tâm của QUTW và BQP, trực tiếp là Tổng cục Chính trị,

công tác nghiên cứu về tư tưởng và văn hóa trong quân đội đã đạt được bước tiến

nhất định, góp phần quan trọng xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị,

tư tưởng và tổ chức, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.

22

Trong khuôn khổ của luận án chỉ xin được đề cập một số công trình nghiên

cứu về văn hóa quân sự có liên quan: “Công tác tư tưởng văn hoá trong xây dựng

quân đội về chính trị”, (2000), Tổng cục Chính trị, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội

[118]. Theo đó, tác giả khẳng định, công tác tư tưởng văn hoá là một bộ phận không

thể tách rời của toàn bộ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, công tác tư tưởng

văn hoá đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng trong củng cố trận địa chính trị

tư tưởng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Sở dĩ như vậy là vì, trong quá

trình tiến hành công tác tư tưởng văn hoá, đã thường xuyên kết hợp giữ vững tính

định hướng với việc đa dạng hoá các hình thức hoạt động của công tác này, chỉ như

vậy mới có thể bám sát sự vận động của tình hình chính trị - xã hội thế giới, khu

vực và của đất nước, thực tiễn hoạt động của bộ đội để đưa ra những giải pháp kịp

thời, khoa học phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và yêu cầu của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư

tưởng lý luận hiện nay; “Giáo trình Văn hóa học”, (2009), Tổng cục Chính trị,

(dùng cho đào tạo bậc đại trong các nhà trường quân đội hiện nay), Nhà xuất bản

QĐND, Hà Nội [126]. Xuất phát từ mục tiêu nhằm cung cấp cho học viên sĩ quan

những vấn đề lý luận về văn hóa nói chung và văn hóa quân sự nói riêng, tác giả đã

hệ thống hóa, làm sâu sắc hơn về phương diện lý luận triết học về văn hóa và văn

hóa quân sự trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận mác xít, qua đó góp phần

xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Giáo trình đã tiếp cận văn hóa quân sự

với tính cách là một bộ phận đặc thù của đời sống văn hóa xã hội, tính đặc thù thể

hiện ở “sự thống nhất giữa tính mực thước, nghiêm cách với tính năng động, mềm

dẻo” [126, tr.50]; “Văn hóa quân sự Việt Nam - truyền thống và hiện đại”, (2014),

Văn Đức Thanh (Tổng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [109].

Cuốn sách là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, xuyên suốt

sự phát triển của văn hóa quân sự Việt Nam trên nền tảng lý luận và sự khái quát

khoa học tổng hợp; làm sâu sắc quan niệm khoa học về văn hóa quân sự; góp phần

nhìn nhận, đánh giá sự phát triển của văn hóa quân sự Việt Nam theo góc nhìn truyền

thống và hiện đại qua suốt chiều dài lịch sử. Các tác giả khẳng định: văn hóa quân sự

là một bộ phận đặc thù của văn hóa xã hội với những quan hệ đặc trưng của văn hóa

như: truyền thống - hiện đại, phổ quát - bản sắc, thống nhất - đa dạng, đồng thời cũng

23

là những đặc trưng cơ bản của văn hóa quân sự. Quá trình phát triển của văn hoá

quân sự Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân

tộc Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của văn hoá quân sự Việt Nam còn vận động

theo những quy luật đặc thù nhằm xây dựng con người quân sự theo những tiêu chí

riêng đáp ứng tối đa nhu cầu của hoạt động quân sự. Từ đó, tác giả đi đến khẳng định:

thống nhất - đa dạng, phổ quát - bản sắc, truyền thống - hiện đại là những đặc trưng

cốt lõi của văn hoá quân sự Việt Nam. Quá trình phát triển văn hoá quân sự hiện nay

cần chú ý đến đặc điểm đó để xác định đúng nội dung, phương pháp, tiến hành nhằm

không ngừng mở rộng và làm giàu thêm các giá trị văn hoá quân sự hiện có, tạo điều

kiện để phát triển, hoàn thiện nhân cách quân nhân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của

quân đội, mà trước hết là sức mạnh về chính trị - tinh thần. Đây là nội dung cốt lõi

trong xây dựng văn hoá quân sự Việt Nam, tạo nền tảng văn hoá để đánh giặc và

thắng giặc bằng văn hoá.

Khi tiếp cận khai thác mảng đề tài văn hóa quân sự, các nghiên cứu đã tập

trung luận giải những vấn đề lý luận về văn hóa, giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”,

thực trạng môi trường văn hóa quân sự có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện nhân cách

của người quân nhân cách mạng, từ đó khuyến nghị những giải pháp nhằm phát huy

và phát triển những giá trị văn hóa quân sự. Một số công trình đáng chú ý như:

“Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ Quân đội nhân dân

Việt Nam”, (1999) do Đinh Xuân Dũng (Chủ biên), Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội

[26]. Các tác giả đã tiếp cận toàn bộ môi trường quân sự, hoạt động quân sự dưới

góc độ văn hoá, qua đó khẳng định: nhân cách người chiến sĩ QĐND Việt Nam là

sự tương tác biện chứng giữa quân nhân với toàn bộ môi trường, trong đó họ sống

và hoạt động dưới góc độ văn hoá, là sự kết tinh cao nhất những giá trị văn hoá

trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Môi trường văn hóa quân sự

là nơi nuôi dưỡng, phát triển và hoàn thiện những giá trị “Người” trong nhân cách

quân nhân. Từ cách tiếp cận đó, các tác giả cho rằng, sự nghiệp xây dựng quân đội

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, về thực chất là một quá trình

văn hoá hoá toàn bộ đời sống quân sự để phát triển những phẩm chất cao quý trong

nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”.

Để xây dựng quân đội cách mạng, thực sự vững mạnh về chính trị tư tưởng,

cùng với gìn giữ, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và quân đội cần

24

quan tâm giải quyết hài hoà quan hệ thống nhất - đa dạng trong quá trình xây dựng,

phát triển môi trường văn hóa quân sự. Đây là một yêu cầu rất cao trong xây dựng quân

đội hiện nay. Vì vậy, quá trình triển khai, tổ chức thực hiện phải từng bước giải quyết

tốt mối quan hệ bên trong và bên ngoài, truyền thống và hiện đại, phổ quát và bản sắc,

làm cho các giá trị đó “hoá thân” vào các giá trị văn hoá quân sự, thành các giá trị văn

hoá trong nhân cách quân nhân. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, các giá trị văn hoá

trong môi trường văn hóa quân sự không phải là bất biến, cùng với sự phát triển của xã

hội, của quá trình hợp tác, giao lưu văn hoá, các hệ giá trị đó cũng có những biến đổi

nhằm theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Bởi lẽ đó theo tác giả, quan hệ giữa chính quy

và văn hoá cũng là quan hệ văn hoá; chính quy không chỉ hiểu đơn thuần là chính quy

về điều lệnh, điều lệ, chế độ, nền nếp... mà còn là chính quy về văn hoá; vì thế, bản

thân chính quy đã bao hàm thống nhất - đa dạng của văn hoá;

Tác giả Phạm Bá Toàn trong cuốn “Giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ (Qua hồi ký,

nhật ký chiến tranh)”, (2012), Nhà xuất bản QĐND [116], trên cơ sở khai thác những

giá trị của các hồi ký, nhật ký chiến tranh của các tướng lĩnh, sỹ quan đã khái quát

thành sáu giá trị văn hóa tiêu biểu trong nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”, đó là: Trung với

nước; hiếu với dân; tình đồng đội; kỷ luật tự giác nghiêm minh; lạc quan yêu đời và

tính nhân nghĩa.

Công trình “Nâng cao văn hóa lãnh đạo của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở

đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, (2010), Viện Khoa học Xã hội

Nhân văn quân sự - BQP, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội [153]. Theo đó, các tác giả

đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về văn hóa lãnh đạo và văn lãnh đạo

của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở, nêu lên thực trạng, nguyên nhân

và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chính

trị cấp cơ sở trong QĐND Việt Nam. Các tác giả quan niệm, văn hóa lãnh đạo là một

bộ phận cấu thành của nền văn hóa, bao gồm tổng hòa những dấu ấn sáng tạo và nhân

văn theo tiêu chí chân, thiện, mỹ trong các hệ thống, tổ chức, bộ máy con người lãnh

đạo và các hình thức hoạt động lãnh đạo gắn liền với thiết chế cộng đồng xã hội.

Văn hóa lãnh đạo, hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ những thành tố bên

trong mang dấu ấn của nhà lãnh đạo cùng sự thể hiện ra bên ngoài bởi hoạt động

lãnh đạo cũng như những thành tựu lãnh đạo được nhìn nhận theo tiêu chí chân,

thiện, mỹ. Hiểu theo nghĩa hẹp, văn hóa lãnh đạo của nhà lãnh đạo chính trị thể hiện

25

như một hệ thống thang bậc giá trị xã hội, đòi hỏi sự lãnh đạo phải được thực hiện

một cách chân, thiện, mỹ.

Về cấu trúc, văn hóa lãnh đạo bao gồm các thành tố: tư tưởng, tâm lý, chuẩn

mực và biểu tượng. Các thành tố đó được biểu hiện ở trí tuệ lãnh đạo; bản lĩnh chính

trị; phẩm chất, đạo đức lối sống và năng lực lãnh đạo, phương pháp tác phong công tác.

Với cách hiểu như trên, các tác giả khẳng định: đối với ĐCSVN, văn hóa

lãnh đạo là một trong những hệ giá trị tiêu biểu quan trọng nhất của VHCT. Mặc dù

đã có sự phân biệt giữa hoạt động lãnh đạo và quản lý, giữa lãnh đạo và chỉ huy

trong hoạt động quân sự và thừa nhận văn hóa lãnh đạo là một trong những hệ giá

trị tiêu biểu quan trọng nhất của VHCT nhưng các tác giả vẫn chưa có sự phân biệt

rạch ròi giữa văn hóa lãnh đạo và VHCT và có trường hợp nhóm tác giả sử dụng

cụm từ văn hóa lãnh đạo chính trị:

Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, văn hóa lãnh đạo chính trị là

một biểu hiện tất yếu nền văn hóa. Song, đến lượt nó, bản thân văn hóa

lãnh đạo chính trị cũng là một hệ thống hoàn chỉnh, được cấu thành bởi

nhiều yếu tố, nhiều vòng, nhiều tầng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, tức

là được thể hiện trong công việc lãnh đạo tập thể và trong cá nhân nhà

lãnh đạo [153, tr.13].

“Nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách Bộ đội Cụ Hồ của thanh niên

quân đội hiện nay” (2012), luận án tiến sĩ triết học của Hoàng Đình Chiều, Học

viện Chính trị - Bộ Quốc phòng [23]. Xuất phát từ góc độ triết học văn hóa, tác giả

luận án đã tiếp cận và làm rõ những khía cạnh bản chất, những vấn đề có tính quy

luật nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của thanh niên

quân đội; đánh giá thực trạng; dự báo xu hướng và đề xuất những giải pháp mang

tính định hướng nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của

thanh niên quân đội hiện nay. Theo tác giả, nhập thân văn hóa là quá trình con

người tiếp nhận giá trị văn hóa và định hình văn hóa đối với các yếu tố hợp thành

nhân cách của họ trong một môi trường xã hội nhất định. Điểm đáng chú ý trong

luận án là đã tiếp cận nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” với trọng tâm là những phẩm chất

xã hội cơ bản như: “Phẩm chất chính trị, đạo đức, văn hóa; phẩm chất trí tuệ; trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ quân sự; phong cách tác phong sinh hoạt và hoạt động

quân sự được điển hình hóa theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh, phản

26

ánh tính đặc thù của nhân cách trong lĩnh vực quân sự” [23, tr.28]. Những vấn đề có

tính quy luật trong nhập thân văn hóa được tác giả chỉ ra, đó là: từ tiếp nhận giá trị

văn hóa đến định hình văn hóa trong nhân cách và từ định hình văn hóa đến tỏa

sáng nhân cách văn hóa, đây chính là con đường biện chứng của quá trình nhập thân

văn hóa trong phát triển nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” của thanh niên quân đội.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu văn hóa và văn hóa chính trị trong nhà

trường quân đội

Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của NTQĐ, nơi đào tạo ra đội ngũ

sĩ quan trong tương lai, QUTW và BQP đã có những chỉ đạo nhằm nâng cao chất

lượng đào tạo cán bộ gắn với xây dựng và phát triển môi trường văn hóa trong các

học viện, trường sĩ quan. Đặc biệt, thời gian gần đây, những nghiên cứu về văn hóa

trong NTQĐ đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và đã có

một số công trình luận án tiêu biểu như: “Quan hệ thống nhất - đa dạng trong

phát triển môi trường văn hóa quân sự ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay”, (2009), luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Văn Ngoan, Học viện

Chính trị - Bộ Quốc phòng [94]. Xuất phát từ quan niệm, đặc trưng cơ bản của văn

hóa là tính phổ quát và bản sắc, được biểu hiện tập trung ở hai quan hệ chính:

thống nhất - đa dạng và truyền thống - hiện đại. Để thúc đẩy văn hóa phát triển,

cần thiết phải giải quyết một cách khoa học, hài hòa cả hai quan hệ nói trên:

Quan hệ thống nhất - đa dạng trong phát triển môi trường văn hóa quân

sự ở các trường sĩ quan là sự tương tác biện chứng giữa hai xu thế

hướng điểm và hướng diện, phản ánh xu thế vừa ràng buộc, phụ thuộc,

quy định lẫn nhau, vừa vận hành theo cơ chế riêng và tác động qua lại,

đồng thời xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa thống nhất văn hóa và đa

dạng văn hóa [94, tr.9].

Trong hoạt động quân sự, đặc biệt là đối với các trường đào tạo sĩ quan -

những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, đòi hỏi

phải xây dựng và phát triển môi trường văn hóa quân sự thật sự lành mạnh góp phần

xây dựng và phát triển nhân cách người sĩ quan. Bởi vì, môi trường văn hóa quân sự

ở các trường sĩ quan QĐND Việt Nam, theo tác giả quan niệm:

Là một chỉnh thể thống nhất giữa các giá trị văn hóa sư phạm quân sự,

quan hệ văn hóa sư phạm quân sự, hoạt động văn hóa sư phạm quân sự và

27

thiết chế văn hóa sư phạm quân sự trong một không gian và thời gian xác

định, thường xuyên tác động đến quân nhân nhằm hình thành, phát triển

nhân cách học viên sĩ quan theo mục tiêu đào tạo xác định [94, tr.50];

“Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường Quân đội hiện nay”, (2017), luận án

tiến sĩ văn hóa học của Phạm Văn Xây, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

[162]. Xuất phát từ góc độ văn hóa học, tác giả đã tiếp cận nghiên cứu văn hóa thẩm

mỹ với tư cách là một lĩnh vực văn hóa đặc thù biểu hiện trình độ phát triển cao của

văn hóa, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực thông qua

hoạt động thẩm mỹ, tác giả luận án quan niệm:

Văn hóa thẩm mỹ là một chỉnh thể các giá trị thẩm mỹ được kết tinh từ

tất cả các hoạt động thụ cảm, sáng tạo, nhận thức… thẩm mỹ của con

người trong một cộng đồng văn hóa nhất định, đồng thời có tác động trở

lại không thể thiếu đối với đời sống thẩm mỹ của con người và cộng

đồng theo những thiết chế văn hóa nhất định [162, tr.32].

Văn hóa thẩm mỹ có vai trò rất quan trọng trong NTQĐ, thể hiện: góp phần

đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và phát triển đời sống tinh thần của quân nhân; góp phần

hoàn thiện nhân cách và xây dựng tập thể quân nhân, đồng thời góp phần nâng cao

chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ; “Định hướng giá trị văn

hóa của học viên đào tạo sĩ quan trong các trường Quân đội”, (2017), luận án tiến sĩ

văn hóa học của Nguyễn Vương Bình, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội [14]. Xuất

phát từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở lý thuyết nhập thân văn hóa, tác giả luận án đã

tập trung làm rõ nội dung, phương thức và đặc điểm định hướng giá trị văn hóa cho

học viên đào tạo sĩ quan; dự báo những nhân tố tác động, xu hướng định hướng giá trị

văn hóa đồng thời đặt ra vấn đề nâng cao định hướng giá trị văn hóa cho học viên đào

tạo sĩ quan. Tác giả luận án quan niệm: “Định hướng giá trị văn hóa của học viên đào

tạo sĩ quan là sự tiếp nhận, thâu hóa và tỏa sáng giá trị văn hóa của mỗi học viên,

đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách người học viên

đào tạo sĩ quan quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự” [14, tr.33]; “Xây dựng

văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở Học

viện Chính trị hiện nay”, (2017), (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tà cấp Học

viện) do Nguyễn Hữu Lập (Chủ nhiệm đề tài), Học viện Chính trị [75]. Theo đó,

“Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh là những giá trị chân, thiện và mỹ được Người sáng

28

tạo trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, bao gồm một hệ thống các chuẩn

mực về tư tưởng, hành vi và nhân cách chính trị” [75, tr.5]. Các tác giả tập trung

khẳng định vai trò của VHCT Hồ Chí Minh đối với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ chính

ủy trung, sư đoàn, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng VHCT Hồ Chí

Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở HVCT hiện nay.

Nhìn chung, công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội có vai trò rất quan

trọng, là nhân tố trực tiếp tạo ra sức mạnh chính trị tinh thần, góp phần quan trọng

tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội. Bằng thế giới quan và phương pháp luận

mác xít, các nghiên cứu đã chỉ ra: văn hóa quân sự là một phận đặc thù của đời sống

văn hóa xã hội, một giá trị độc đáo của văn hóa Việt Nam trong lịch sử giữ nước và

dựng nước của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở sự thống nhất giữa tính mực thước,

nghiêm cách với tính năng động, mềm dẻo. Để góp phần xây dựng quân đội cách

mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cần thiết phải đẩy mạnh công tác

nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu

quả công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội.

Nhà trường quân đội là nơi đào tạo sĩ quan chỉ huy, những người có vai trò

quan trọng kế tục sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tương lai, vì

vậy yêu cầu đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, trước hết là nâng

cao VHCT cho các chủ thể trong NTQĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thời gian

gần đây đã có những nghiên cứu chỉ ra những vấn đề mang tính quy luật như nhập

thân văn hóa hay quan hệ thống nhất - đa dạng dưới góc độ triết học văn hóa;

nghiên cứu văn hóa thẩm mỹ, nghiên cứu định hướng giá trị trong NTQĐ dưới góc

độ văn hóa học. Về VHCT, đã có những nghiên cứu nhằm nâng cao văn hóa lãnh

đạo hay xây dựng VHCT Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách tổng

thể, trực tiếp đến VHCT trong NTQĐ, vì vậy, đây được xem là khoảng trống trong

nghiên cứu mà mục tiêu luận án hướng tới.

1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đánh giá chung

Qua trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến VHCT trong

NTQĐ ở trên, có thể rút ra một số vấn đề làm cơ sở cho sự nghiên cứu tiếp theo

của luận án:

29

Thứ nhất, văn hóa là lĩnh vực rộng lớn, có liên quan đến toàn bộ hoạt động

của con người. Nói tới văn hóa là nói tới lực lượng bản chất người, vì sự hoàn thiện,

phát triển toàn diện con người, là thước đo trình độ tiến hóa của con người. Các

nghiên cứu về VHCT trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều xuất phát từ vị trí, vai

trò của văn hóa nói chung và VHCT nói riêng đối với đời sống con người. Nhìn

chung, dù tiếp cận VHCT tính cách là một thực thể xã hội hay là với tính cách là hệ

giá trị, các nghiên cứu đều có điểm chung trong việc khẳng định, VHCT là một bộ

phận của văn hóa xã hội, có sức mạnh lan tỏa đến mọi phương diện, thấm sâu vào

các lĩnh vực của đời sống, là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động

lực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của con người, con người vừa là chủ thể nhưng

cũng vừa là sản phẩm của văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị.

Trong giai đoạn hiện nay, tiếp cận nghiên cứu văn hóa nói chung và VHCT

nói riêng nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Sự phong phú, đa dạng về thành tựu

trong cách tiếp cận và luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHCT trong

các nghiên cứu như trình bày trong phần tổng quan đã chứng minh điều đó. Trước

sự vận động và phát triển hết sức mau lẹ của thực tiễn, đòi hỏi cần phải tiếp tục lý

giải và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và phát triển văn

hóa nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của VHCT, trong đó tập trung nâng cao

VHCT cho các chủ thể, làm cho văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động

lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội.

Thứ hai, với tính cách là một bộ phận của văn hóa, VHCT là hệ giá trị mang

tính nhân văn, tiến bộ, có vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh

đối với thái độ và hành vi chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng, VHCT

giúp các chủ thể chính trị cũng như thể chế, thiết chế chính trị giữ được sự ổn định,

minh bạch, tránh được nguy cơ tha hóa về chính trị, đặc biệt là trong điều kiện cầm

quyền và thực thi quyền lực.

Sự thực hành VHCT và tư tưởng về VHCT đã có từ rất sớm ở cả phương

Đông và phương Tây. Tuy nhiên, khái niệm VHCT chỉ thực sự gia nhập vào hệ

thống khái niệm với tư cách là một thuật ngữ khoa học vào giữa thế kỷ XX ở

phương Tây. Những thành tựu trong nghiên cứu về VHCT phương Tây đã có ảnh

hưởng sâu rộng trong giới khoa học quan tâm đến văn hóa và VHCT ở tất cả các

30

quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Trải qua quá trình phát triển về mặt lý

luận cũng như thực tiễn, cho đến nay VHCT đã được tiếp cận nghiên cứu từ nhiều

góc độ như triết học, chính trị học và đã khẳng định được vai trò trong tiến trình

phát triển của mỗi cộng đồng, quốc gia - dân tộc.

Tuy nhiên, văn hóa bao giờ cũng mang tính chủ thể, VHCT của một dân tộc,

một cộng đồng luôn phán ánh bản sắc của dân tộc và cộng đồng đó, đồng thời mang

đậm dấu ấn của các chủ thể. Cho nên việc nghiên cứu văn hóa nói chung và VHCT nói

riêng dưới góc độ văn hóa học, gắn với một cộng đồng nhất định luôn là một yêu cầu

mang tính cấp thiết. Điều đó cho phép khẳng định, nghiên cứu VHCT trong NTQĐ ở

Việt Nam hiện nay là hướng nghiên cứu cần thiết và hứa hẹn có đóng góp mới.

Thứ ba, ở Việt Nam nhìn chung các nghiên cứu về VHCT tuy đã kế thừa và

cập nhật được những thành tựu nghiên cứu nước ngoài đặc biệt là châu Âu và Mỹ

nhưng ở giai đoạn đầu, VHCT chủ yếu chỉ được nghiên cứu lồng ghép trong các

nghiên cứu chung về văn hóa hoặc là được xem xét với tính cách là đối tượng nghiên

cứu của các ngành khoa học như triết học, chính trị học. Những năm gần đây, nghiên

cứu về VHCT ở trong nước chú ý nhiều hơn và cách tiếp cận cũng đa dạng hơn. Đặc

biệt, bên cạnh cách tiếp cận VHCT với tính cách là một thực thể xã hội của triết học,

chính trị học, thì VHCT đã nhận được sự quan tâm của các nhà văn hóa học. Tuy

nhiên, cho đến nay những khoảng trống tri thức về VHCT cần được bổ sung làm rõ

hơn những vấn đề lý luận về VHCT, thực trạng VHCT hiện nay và vấn đề nâng cao

VHCT cho các chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đây được xem

là một trong những vấn đề khoa học có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Thứ tư, xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng văn hóa trong quân

đội, những năm qua QUTW và BQP, trực tiếp là Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo

nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa quân sự. Những vấn đề xây

dựng và phát triển văn hóa nhằm góp phần hoàn thiện nhân cách người quân nhân

cách mạng, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong NTQĐ cũng đã được tiếp cận

khai thác trên các khía cạnh: tìm hiểu giá trị văn hóa của “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng

và phát triển môi trường văn hóa quân sự, phát huy và phát triển văn hóa thẩm mỹ

hay định hướng giá trị cho các chủ thể trong NTQĐ và đã đạt được bước tiến nhất

định góp phần quan trọng xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về tư tưởng và tổ

chức và đạo đức.

31

Trong các nghiên cứu có liên quan đã có những đề cập vấn đề xây dựng và

phát triển môi trường văn hóa sư phạm nhằm hướng tới việc hoàn hiện nhân cách

của người học. Tuy nhiên, đối với môi trường sư phạm quân sự có những đặc thù

riêng, ở đó không chỉ có quan hệ thầy - trò mà còn là quan hệ chỉ huy - phục tùng;

quan hệ đồng chí - đồng đội. Song có thể khẳng định, cho đến nay vẫn chưa có một

nghiên cứu chuyên sâu nào về VHCT trong nhà trường quân đội. Vì vậy, việc

nghiên cứu VHCT trong NTQĐ nhằm chỉ ra đặc trưng của VHCT môi trường sư

phạm quân sự, từ đó nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ là

hướng nghiên cứu khả thi và không trùng lặp.

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Văn hóa chính trị trong NTQĐ là một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam

và của VHCT Việt Nam, cho nên cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung,

những quan hệ đặc trưng trong quá trình phát triển văn hóa, đồng thời chịu sự chi

phối, tác động bởi những hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm

quân sự. Nghiên cứu VHCT trong NTQĐ phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan

điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; nhiệm vụ xây dựng quân đội nói

chung và nhiệm vụ đào tạo cán bộ quân đội của Đảng nói riêng trong tình hình mới;

nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo các quy luật, tôn trọng nét đặc trưng và bản

chất văn hóa, tính đặc thù của VHCT trong môi trường quân sự, cụ thể ở đây là môi

trường sư phạm quân sự; không ngừng nâng cao tri thức chính trị, giữ vững lý tưởng

và niềm tin chính trị trong nhân cách người sĩ quan tương lai; xây dựng người quân

nhân cách mạng kiểu mới, tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ, góp phần ngăn chặn và

đẩy lùi những hiện tượng phản giá trị, phản văn hóa xâm nhập trong môi trường đào

tạo cán bộ quân đội của Đảng; đấu tranh có hiệu quả với luận điệu đòi “phi chính trị

hóa quân đội” của các thế lực thù địch; xây dựng NTQĐ vững mạnh về chính trị, góp

phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, nâng cao chất lượng đào

tạo cán bộ, làm cơ sở để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng

bước hiện đại, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhân dân giao phó.

Tiếp cận hướng nghiên cứu VHCT trong NTQĐ hiện nay, trên cơ sở kế thừa

những thành tựu nghiên cứu đã được công bố, luận án sẽ được triển khai thực hiện

các nội dung chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục hệ thống lại và so sánh các quan niệm khác nhau về VHCT

đồng thời đưa ra quan niệm về VHCT; làm rõ những vấn đề lý luận về VHCT dưới

32

góc độ văn hóa học, như nội hàm khái niệm; những vấn đề về cấu trúc và chức năng

của VHCT; đưa ra quan niệm về VHCT của QĐND Việt Nam và VHCT trong

NTQĐ đồng thời chỉ ra mối quan hệ giữa các loại hình văn hóa chính trị.

Hai là, tiếp cận VHCT trong NTQĐ với tính cách là VHCT trong một thiết

chế văn hóa đặc thù, có vai trò quan trọng trong định hướng củng cố niềm tin, rèn

luyện bản lĩnh chính trị trong quá trình đào tạo những sĩ quan chỉ huy; chỉ ra những

khía cạnh thuộc về bản chất của VHCT trong NTQĐ với những nét đặc trưng của

VHCT trong môi trường sư phạm quân sự; khẳng định vị trí, ý nghĩa của VHCT

trước yêu cầu “đổi mới nhưng không đổi màu”, giữ vững trận địa tư tưởng của

Đảng, chống lại âm mưu đòi “phi chính trị hóa quân đội”, nâng cao chất lượng đào

tạo cán bộ của Đảng, góp phần xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh.

Ba là, khảo sát, mô tả và đánh giá thực trạng của VHCT trong NTQĐ hiện

nay với các thành tố cơ bản như: chủ thể VHCT; thang bậc giá trị VHCT; thể chế,

thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị. Các thành tố trên có vai trò quan

trọng đối với nhiệm vụ dạy học và nghiên cứu khoa học cũng như nhiệm vụ bồi

dưỡng, nâng cao trình độ chính trị cho các chủ thể qua đó góp phần hoàn thiện và

phát triển nhân cách cho các chủ thể trong nhà trường quân đội.

Bốn là, dự báo khái quát những yếu tố tác động đến VHCT trong NTQĐ; nhận

diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ, làm cho các giá trị VHCT

thấm sâu vào trong các hoạt động của NTQĐ, tạo nên sức mạnh nội sinh, góp phần

xây dựng tổ chức đảng luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, NTQĐ vững mạnh toàn diện.

Tiểu kết chương 1

Qua tổng hợp tình hình nghiên cứu về VHCT cho thấy, hầu hết các nhà khoa

học đều thống nhất nhận định, sự xuất hiện của VHCT và tư tưởng về VHCT trong

lịch sử tư tưởng nhân loại là rất sớm cùng với sự xuất hiện của văn minh nhân loại.

Nhìn chung những nghiên cứu về VHCT có thể được khái quát trên hai hướng tiếp

cận chủ yếu: VHCT với tính cách là một thực thể xã hội và VHCT với tính cách là

hệ giá trị.

Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng về VHCT được chứa đựng trong các lý thuyết,

học thuyết chính trị của các nhà tư tưởng nhằm hướng tới việc tìm hiểu và giải thích

bản chất và cách thức của sự cai trị hay việc nắm giữ và ứng xử đối với quyền lực

của các nhà tư tưởng cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông.

33

Ở Việt Nam, tư tưởng về VHCT và sự tiếp thu những thành tựu nghiên cứu

về VHCT đã có tương đối sớm do ảnh hưởng của các tôn giáo và văn hóa phương

Tây. Tuy nhiên, lúc đầu chỉ là những nghiên cứu lồng ghép với văn hóa hoặc các

ngành khoa học xã hội và nhân văn như triết học, chính trị học. Thời gian gần đây,

VHCT nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học Việt Nam, theo đó, các nhà

khoa học trong nước thống nhất xem VHCT như là một thành tố của văn hóa tổ

chức xã hội, là một yếu tố hợp thành hệ giá trị văn hóa được biểu hiện ở tư tưởng,

nhân cách, những chuẩn mực, khuôn mẫu và truyền thống trong hoạt động chính trị.

Trong lĩnh vực quân sự nói chung và NTQĐ nói riêng, đã có những nghiên

cứu nhằm xây dựng, phát triển môi trường văn hóa sư phạm quân sự từ góc độ triết

học; từ góc độ văn hóa học, những nghiên cứu nhằm phát triển và phát huy văn hóa

thẩm mỹ cho các chủ thể, định hướng giá trị văn hóa cho học viên đào tạo sĩ quan đã

được công bố. Về VHCT, đã có nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ chính trị học: xây

dựng VHCT Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo chính ủy trung đoàn, sư đoàn… Tuy

nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trực tiếp bàn đến VHCT

trong NTQĐ từ góc độ văn hóa học, đây có thể được xem là khoảng trống trong

nghiên cứu về văn hóa trong quân đội. Vì vậy, sự lựa chọn đề tài “Văn hóa chính trị

trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp:

Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Trường Sĩ quan Lục quân 1), là vấn đề nghiên

cứu không trùng lặp, dự kiến có những đóng góp mới cả về mặt lý luận và thực tiễn.

34

Chương 2

LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

2.1. LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

2.1.1. Một số khái niệm cơ bản

Xuất phát từ nhận thức, VHCT là một thành tố của văn hóa xã hội, những

dấu hiệu đặc trưng, tính chất, chức năng của văn hóa đều được thể hiện trong

VHCT. Vì vậy, nghiên cứu VHCT từ góc độ văn hóa học phải xuất phát từ các khái

niệm mang tính công cụ là khái niệm “văn hóa”, khái niệm “chính trị” và đây chính

là cơ sở lý luận trực tiếp góp phần hình thành quan niệm VHCT của tác giả luận án.

2.1.1.1. Văn hóa

Trong công trình “Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020,

Những vấn đề phương pháp luận” (tái bản 2010), Phạm Duy Đức (Chủ biên), [45],

mục, “Khái niệm về văn hóa và sự phát triển về văn hóa”, tác giả Đỗ Huy viết:

“Trong hoạt động sinh tồn và hoạt động giao tiếp của tất cả các dân tộc trên thế giới

hiện nay, văn hóa là một từ được sử dụng rộng rãi đến mức không một lĩnh vực nào

trong các quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần của con người mà chúng ta không

bắt gặp” [45, tr.13] và đã đưa ra nhận định: “Có thể nói, nội hàm khái niệm văn hóa

được mở rộng khôn cùng” [45, tr.16].

Về mặt lịch sử, thuật ngữ “Văn hóa” bắt nguồn từ ngữ hệ Latin: cultura hay

cultus với ý nghĩa ban đầu là gieo trồng cây cối ở ngoài đồng ruộng, sau đó phát triển

thành gieo trồng với ý nghĩa của sự gieo trồng và vun đắp trí tuệ, tinh thần, nhằm chỉ sự

nâng niu và nuôi dưỡng những giá trị và phẩm chất con người. Ở phương Đông, văn

hóa gắn liền với triết lý “văn trị giáo hóa” nhằm chỉ ra thuật hay phương thức cai trị

quốc gia là dùng “Đức”, “Văn” và “Lễ nhạc” để giáo hóa (giáo dục, dạy dỗ), nếu

không nghe theo sau đó mới thi hành xử phạt (Văn trị - cai trị bằng văn).

Cùng với sự phát triển nhận thức của con người, khái niệm văn hóa đã không

ngừng được tiếp cận và hoàn thiện cả nội hàm và ngoại diên. Tuy nhiên, hiện nay

trên thế giới có rất nhiều cách tiếp cận không đồng nhất, tạo nên sự đa diện và đa

nghĩa cho khái niệm văn hóa, vì vậy đã có ý kiến cho rằng, có bao nhiêu nhà nghiên

cứu văn hóa thì có bấy nhiêu khái niệm văn hóa.

35

Xét trong phạm vi và mục tiêu nghiên cứu, có thể dẫn ra một số quan niệm

về văn hóa, làm cơ sở cho những khái niệm mang tính công cụ có liên quan trực

tiếp đến hướng tiếp cận của luận án.

Trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thủy” (Primitive Culture), xuất bản năm

1871, tại London, nhà nhân học người Anh E.B Tylor đã đưa ra định nghĩa: “Văn

hóa hay văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất về dân tộc học của nó, là toàn bộ phức

thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và

những khả năng, những tập quán mà con người có được với tư cách là thành viên

của xã hội” [dẫn theo 28, tr.15]. Định nghĩa văn hóa của E.B Tylor được xem là

định nghĩa khoa học đầu tiên về khái niệm “văn hóa” và được trích dẫn ở hầu hết

các công trình nghiên cứu về văn hóa sau này.

Một trong những định nghĩa về văn hóa được cộng đồng thế giới sử dụng

nhiều trong các trích dẫn là định nghĩa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa

Liên hợp quốc (UNESCO) được nêu trong “Tuyên bố về chính sách văn hóa” tại

Hội nghị quốc tế về Chính sách văn hóa, tổ chức tại Mexico từ ngày 26 tháng 7 đến

ngày 06 tháng 8 năm 1982: “Văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và

vật chất, về trí tuệ và cảm xúc quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm

xã hội”. [dẫn theo 53, tr.36].

Hiện nay, theo cách tiếp cận với nghĩa rộng, UNESCO quan niệm văn hóa là

một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình

cảm... khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng và đề xuất mở rộng nội hàm khái

niệm văn hóa trong đó có những khái niệm đáng chú ý như: văn hóa tri thức, văn

hóa thông tin, văn hóa công nghiệp, văn hóa sáng tạo, văn hóa hòa bình, VHCT,

bản sắc văn hóa quốc gia. Khi “Công ước quốc tế về đa dạng văn hóa” của

UNESCO được thông qua năm 2006, các vấn đề tiếp tục được đề xuất là: quan hệ

văn hóa và dân chủ; văn hóa khoan dung; sự cân đối văn hóa; quyền văn hóa và bảo

tồn phát triển văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.

Trong những năm gần đây đã có những thành tựu mới trong tiếp cận cấu trúc

khái niệm văn hóa, một trong những thành tựu nổi bật đó là cách tiếp cận văn hóa

theo tầng nội dung của Texas University, được công bố vào tháng 5 năm 2015.

Theo đó, cấu trúc của văn hóa bao gồm các tầng như: giá trị (values); nghi thức,

nghi lễ, chuẩn mực (rituals); nhân vật - anh hùng, hình mẫu (heroes) và các biểu

36

tượng (symbols) [167], đây có thể được xem là một trong những cách tiếp cận hiện

đại mà luận án có thể lựa chọn, kế thừa và vận dụng trong phân tích cấu trúc khái

niệm văn hóa chính trị.

Như vậy, có thể tổng hợp các quan niệm đã trình bày ở trên bằng những khái

quát sau: Văn hóa là một trong những phương diện cơ bản của đời sống xã hội,

trong đó bao gồm toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con người

mang đậm dấu ấn chân, thiện, mỹ trong quá khứ, hiện tại, được biểu hiện trên cả

hai lĩnh vực vật chất và tinh thần, với những hệ thống các giá trị, các nghi thức, các

nhân vật và các biểu tượng. Hệ thống giá trị đó chi phối, tác động đến đời sống tâm

lý và tất cả các quan hệ, những hoạt động của các thành viên trong cộng đồng.

Văn hóa có thể được phân chia thành các lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội

như: giáo dục, đạo đức, pháp luật, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật... tương ứng với

các tên gọi văn hóa giáo dục, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật và VHCT là một

trong những thuật ngữ được hình thành trên cơ sở này.

2.1.1.2. Chính trị

Ở phương Tây, thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp,

“Politika” với ý nghĩa ban đầu là công việc của các thành phố, là nghệ thuật cai trị,

là phương pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu quốc gia. Các nhà tư tưởng,

chính trị gia tiêu biểu như Herodotos, Platon, Aristotle... đã có những khái quát về

thuật ngữ chính trị. Theo đó, chính trị gắn liền với thể chế nhà nước, là nghệ thuật

cung đình, là nghệ thuật cai trị. Aristotle nhận thấy rằng, chính trị là sản phẩm của

sự phát triển tự nhiên của con người, là hình thức giao tiếp cao nhất của con người,

con người là “động vật chính trị”.

Ở phương Đông, chính trị, theo lối chiết tự là khái niệm được tạo thành bởi hai

từ “Chính” và “Trị”. Theo Đào Duy Anh, trong “Giản yếu Hán - Việt từ điển” [2] thì

“Chính” là thích đáng, ngay thẳng; việc của nhà nước; quy tắc để làm việc; chủ trì [2,

tr.171]. “Trị” là việc đương làm; sửa sang công việc; trừng phạt [2, tr.488]. “Chính

trị” gọi chung những việc sắp đặt và thi hành để sửa trị một nước [2, tr.174]. Theo

Khổng Tử, chính trị phải chính danh, chính đạo và là công việc của người quân tử;

chính trị gắn với “tam cương”, “ngũ thường”. Hàn Phi Tử cho rằng, chính trị được

xây dựng trên cơ sở của pháp luật, gắn với pháp luật. Chính trị theo Lão Tử là “vô vi

nhi trị” (trị mà như không trị), làm chính trị là thuận theo tự nhiên, hợp với “Đạo”.

37

Thời kỳ trung cổ, quan niệm chính trị gắn với thần quyền và được xem là quyền

lực tối cao của Thượng đế; trong xã hội tư sản, chính trị gắn với thuyết “Tam quyền

phân lập”, “Khế ước xã hội” và được xem là công việc của những công dân có tài sản.

Các quan niệm về chính trị trước K. Marx đã có những cách tiếp cận riêng và

tỏ ra tương đối hợp lý trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, chỉ đến khi

chủ nghĩa Marx - Lenin ra đời, trên cơ sở kế thừa thành tựu nghiên cứu trong lịch

sử, quan niệm về chính trị mới thực sự khắc phục được những hạn chế, phiến diện

trong cách tiếp cận và khẳng định được tính khoa học, đầy đủ của thuật ngữ chính

trị. Theo đó, chính trị thực chất là vấn đề quyền lực, vấn đề giai cấp và lợi ích giai

cấp mà trước hết là quyền lực nhà nước. Tất cả các biểu hiện của chính trị đều phản

ánh những vấn đề kinh tế, tất yếu kinh tế quy định tất yếu chính trị, các cuộc đấu

tranh chính trị bao giờ cũng hướng tới giải quyết mục tiêu lợi ích kinh tế. Chính trị

và kinh tế có quan hệ biện chứng với nhau, chính trị biểu hiện tập trung của kinh tế

nhưng giữ vị trí ưu tiên so với kinh tế.

Theo định nghĩa của “Từ điển Bách khoa Việt Nam” [151]:

Chính trị là toàn bộ hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai

cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề

giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia

công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội

dung hoạt động nhà nước. Bất kể vấn đề chính trị nào cũng đều có liên

quan đến quyền lực của các giai cấp và nhà nước (...). Chính trị còn là sự

biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự giải

phóng [151, tr. 603].

Chính trị là một lĩnh vực quan trọng quyết định sự phát triển của quốc gia, dân

tộc, của xã hội. Trình độ và hiệu quả của hoạt động chính trị thể hiện ở mục tiêu vì

con người, hướng tới xây dựng một xã hội nhân đạo, nhân văn, dân chủ và tiến bộ,

phản ánh những nội dung cơ bản VHCT của cộng đồng quốc gia, dân tộc. Như vậy

văn hóa và chính trị là hai lĩnh vực đời sống xã hội có quan hệ hữu cơ với nhau.

2.1.1.3. Văn hóa chính trị

Trong quá trình tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, các nhà

chính trị học phương Tây đã sử dụng thuật ngữ Political Culture (văn hóa chính trị).

Tuy nhiên sự thực hành VHCT và quan niệm về VHCT xuất hiện từ rất sớm trong

lịch sử tư tưởng nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây.

38

Ở phương Đông, các nhà tư tưởng của Trung Hoa cổ đại như Khổng Tử,

Mạnh Tử, Lão Tử và Hàn Phi Tử là những tên tuổi tiêu biểu đã trực tiếp hoặc gián

tiếp đề cập đến những vấn đề cốt lõi về VHCT. Quan niệm về cách thức ứng xử với

quyền lực hay còn gọi là thuật cai trị (hay thuật trị nước) tuy có khác nhau, nhưng

nhìn chung tất cả đều hướng tới một mục tiêu là làm sao cho xã hội được “thái bình

thịnh trị”, đây cũng chính là quan niệm về VHCT và định hướng thực hành VHCT

trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại.

Ở phương Tây, các nhà tư tưởng đã sớm có quan niệm, xem VHCT vừa là

khoa học vừa là một nghệ thuật, từ đó chỉ ra cách thức ứng xử của con người đối

với quyền lực. Các triết gia cổ đại cho đến các nhà tư tưởng phương Tây từ thời kỳ

Phục hưng cho đến thời kỳ Khai sáng đều đề cập đến những vấn đề cốt lõi của

VHCT, cho dù chưa sử dụng thuật ngữ VHCT. Triết gia cổ điển Đức I. G. Gerzer

(1744 - 1803), trong quá trình nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa văn hóa và

chính trị đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín muồi của VHCT” hay

“những đại biểu của VHCT” trong cuốn sách “Các phương pháp triết học lịch sử

nhân loại”, năm 1784 [dẫn theo 47, tr.1].

Trong số các nhà nghiên cứu về VHCT, G. Almond được xem là người đã có

công trong việc đưa thuật ngữ VHCT trở thành một khái niệm khoa học và đồng

thời là người sáng lập “chủ nghĩa hành động” trong khoa học chính trị ở Mỹ. Khi

viết tác phẩm“Văn hóa công dân” (Civic Culture) năm 1963, G. Almond và S.

Verba đã đưa ra quan niệm, VHCT của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các

thành viên của dân tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm tới các

khách thể chính trị [165].

Tại Nga, xuất phát từ góc độ văn hóa học, A.A. Radugin quan niệm, VHCT

là một phần của đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, bao gồm các kiến thức chính

trị, các định hướng giá trị, các mẫu mực ứng xử trong mối quan hệ chính trị tại một

thời điểm lịch sử [104, tr.564].

Cũng như quan niệm về văn hóa, với tư cách là một khái niệm khoa học,

thuật ngữ VHCT đã nhận được sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, các

trường phái học thuật trên thế giới, tạo nên bức tranh đa sắc màu trong quan niệm

về VHCT. Có thể nói, kể từ khi thuật ngữ VHCT được xem như một khái niệm

khoa học trong chính trị học trên thế giới, quan niệm về VHCT tương đối đa dạng,

39

thể hiện cách nhìn đa chiều và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các chế độ chính trị cũng

như văn hóa cộng đồng các quốc gia - dân tộc.

Ở Việt Nam, khái niệm VHCT là một vấn đề chủ yếu nhận được sự được

tập trung nghiên cứu từ giai đoạn Đổi mới (1986) đến nay bởi các nhà nghiên cứu

lý luận chính trị và văn hóa. Trong đó, một số nhà nghiên cứu có đóng góp quan

trọng trong việc nghiên cứu VHCT tiêu biểu như Nguyễn Hồng Phong, Phạm Ngọc

Quang, Hoàng Chí Bảo, Trần Văn Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Huyên,

Phạm Hồng Tung, Vũ Minh Giang, Phùng Hữu Phú và Lê Quý Đức... Xuất phát từ

các góc độ khác nhau và mục tiêu nghiên cứu không đồng nhất, các nhà nghiên

cứu trong nước cũng đã đưa ra những quan niệm về VHCT tương đối đa dạng.

Một số quan niệm tiêu biểu như: “VHCT là một phương diện của văn hóa;

nó nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị” [100, tr.19]; “Khái

niệm VHCT dùng để nói lên một nội dung văn hóa, để chỉ về tri thức chính trị (tư

tưởng, học thuyết chính trị) tích lũy được trong việc điều hành quản lý một xã hội,

một cộng đồng hoặc một quốc gia nào đó”[47, tr.11]; “là một phương diện của văn

hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động

chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi

ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển của lịch

sử” [149, tr.29]; “VHCT là tổng hợp những giá trị vật chất, tinh thần được hình

thành trong thực tiễn chính trị” [160, tr.382]; “VHCT là một thành tố quan trọng

trong đời sống văn hóa xã hội, thể hiện ở tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của tổ chức và

con người chính trị; thể hiện rõ trong tổ chức thiết chế và thể chế chính trị; thể hiện

trong tổ chức hoạt động chính trị” [28, tr.121]...

Cũng xuất phát từ cách tiếp cận biện chứng giữa cái chung của văn hóa và

cái riêng của VHCT, trong “Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị

truyền thống Việt Nam” năm 2009 [68], tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng, khái

niệm VHCT có nội hàm rất phong phú nhưng cốt lõi là trình độ và hiệu quả của

hoạt động chính trị. VHCT là một hệ thống giá trị xã hội phản ánh đầy đủ các dấu

hiệu Chân - Thiện - Mỹ.

Nhìn chung quan niệm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã tiếp cận

được những thành tựu trong nghiên cứu VHCT trên thế giới, đặc biệt là các thành

tựu nghiên cứu chính trị học của phương Tây. Do xuất phát từ những góc độ và

40

mục đích nghiên cứu khác nhau nên còn có một số khác biệt trong quan niệm về

văn hóa chính trị.

Xét về bản chất, là những hình thái ý thức xã hội quan trọng trong kiến trúc

thượng tầng, chịu sự chi phối và quyết định của hạ tầng cơ sở, thành tố văn hóa và

thành tố chính trị có quan hệ hữu cơ với nhau. Về bản chất, chính trị phản ánh trình độ

văn hóa của một giai cấp, cộng đồng ở phương diện tổ chức và điều hành xã hội. Chính

trị được xem là văn hóa khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người,

thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Khi nói về mối quan hệ văn hóa và chính trị, Chủ tịch Hồ

Chí Minh cho rằng: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể

đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [88, tr.246]. Văn hóa có quan hệ mật

thiết với chính trị, thấm sâu vào chính trị; văn hóa trở thành nội dung, nền tảng trong

trong mục tiêu, lý tưởng chính trị; chính trị là một bộ phận đặc thù của văn hóa, sự tác

động của chính trị tới con người và đời sống xã hội trong việc quy định tính giai cấp

của các hoạt động, các hiện tượng văn hóa. Vì vậy, văn hóa mang đậm dấu ấn của

chính trị, phản ánh bản chất chính trị, đặc biệt là trong xã hội có giai cấp.

Trong quan hệ với văn hóa, chính trị giữ vai trò định hướng, là kim chỉ nam;

văn hóa phục tùng chính trị, văn hóa trong chính trị thể hiện ở mục tiêu, động lực của

hoạt động chính trị; văn hóa gắn liền với chính trị, văn hóa và chính trị thống nhất hữu

cơ, tác động qua lại lẫn nhau phản ánh VHCT của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc.

Văn hóa chính trị luôn bị quy định bởi trình độ và nét đặc trưng văn hóa của

một cộng đồng, quốc gia, dân tộc, trên tinh thần đó, các nhà nghiên cứu trên thế giới

cũng như ở Việt Nam, cơ bản đã có sự thống nhất khi xem xét những vấn đề thuộc

về bản chất và đặc trưng của VHCT, đó là: VHCT là một bộ phận của văn hóa xã

hội, hàm chứa trong đó hệ thống giá trị do con người sáng tạo nên trong quá trình

chính trị nhằm điều chỉnh những hành vi chính trị của cá nhân hay cộng đồng và

luôn bị chi phối bởi tư tưởng của giai cấp thống trị.

Văn hóa chính trị là sự kết tinh những giá trị chính trị, là sự thẩm thấu chuyển

hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. VHCT giúp cho sự tác

động của chính trị đến đời sống xã hội như sức mạnh nội sinh của văn hóa.

Tuy nhiên, do xuất phát từ góc độ tiếp cận không giống nhau, nên nhìn chung

các quan niệm về VHCT vẫn còn hết sức đa dạng và có những khác biệt nhất định.

Có quan niệm nhấn mạnh tính định hướng trong hoạt động của các chủ thể chính trị;

41

có quan niệm lại nhấn mạnh đến nguồn gốc, cũng như các biểu hiện của VHCT, hoặc

quá nhấn mạnh đến giá trị chính trị mà chưa thực sự quan tâm đến cơ cấu các tầng

nội dung của khái niệm VHCT như: hệ thống nhân cách của chủ thể chính trị; thang

bậc giá trị chính trị; các thể chế, thiết chế chính trị và hoạt động chính trị.

Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã được công bố, xuất phát từ góc độ

văn hóa học, chúng tôi quan niệm: VHCT là một bộ phận của văn hóa xã hội, trong

đó chứa đựng những giá trị do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động

chính trị và được xác lập, chia sẻ trong việc tổ chức và quản lý để tạo nên sức mạnh

chung của cộng đồng.

Khái niệm VHCT thể hiện, trước hết với tính cách là một bộ phận đặc thù

của văn hóa trong lĩnh vực chính trị. Những vấn đề thuộc về đặc trưng của VHCT là

hệ thống thang bậc giá trị được hình thành và tích lũy trong thực tiễn hoạt động

chính trị. Hệ thống thang bậc giá trị đó do các chủ thể sáng tạo ra và được xác lập,

chia sẻ và thực hành trong tổ chức, quản lý để tạo nên sức mạnh của cộng đồng.

Những yếu tố thuộc về hệ thống thang bậc giá trị chính trị luôn gắn liền với triết lý

chính trị, tư tưởng chính trị; các chuẩn mực và niềm tin chính trị; các di sản và

truyền thống chính trị, cũng như các biểu trưng, biểu tượng chính trị (hay còn được

gọi là ngoại hiện chính trị) và sự vận hành của thể chế và thiết chế chính trị. Là một

bộ phận của văn hóa, VHCT phản ánh năng lực bản chất người của chủ thể chính trị

hướng tới mục tiêu vì sự tiến bộ xã hội đồng thời chịu sự quy định bởi trình độ, đặc

trưng văn hóa của cộng đồng quốc gia, dân tộc.

Trong khuôn khổ của luận án, với nhận thức: văn hóa luôn gắn liền với chủ

thể và phản ánh các giá trị sáng tạo của con người, chúng tôi tập trung chủ yếu vào

những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, VHCT luôn gắn liền chủ thể, nghĩa là luận án sẽ tiếp cận VHCT ở

khía cạnh nhân cách của chủ thể, trong đó tập trung vào nhân cách cá nhân.

Thứ hai, xem xét những biểu hiện của thang bậc giá trị VHCT, trong đó bao

gồm các yếu tố mạng tính định hướng với các nội dung: triết lý và tư tưởng chính trị

với tính cách là những vấn đề cốt lõi của hệ tư tưởng chính trị; chuẩn mực và khuôn

mẫu chính trị; di sản và truyền thống chính trị.

Thứ ba, hệ thống thể chế và thiết chế chính trị với tính cách là công cụ hành

động chính trị, trong đó bao gồm các nội dung: sứ mệnh, mục tiêu; hành động nhằm

hiện thực hóa mục tiêu và uy tín chính trị của tổ chức.

42

Thứ tư, hoạt động chính trị với các nội dung và phương thức vận hành nhằm

đạt tới các mục tiêu chính trị.

2.1.2. Cấu trúc và chức năng của văn hóa chính trị

2.1.2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị

Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học [155], cấu trúc được hiểu

là: “Toàn bộ nói chung những quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một

chỉnh thể” [155, tr.128]. Xem xét cấu trúc của VHCT có ý nghĩa cả về mặt lý luận

và thực tiễn. Về mặt lý luận, giúp cho sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu nội tại và

những quan hệ của các yếu tố cấu thành của VHCT đồng thời cũng nhận diện được

các quan niệm, cách nhìn từ góc độ khác nhau thông qua việc chỉ ra cấu trúc của

VHCT. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu cấu trúc VHCT giúp tạo ra sự lựa chọn

phương thức tác động vào các yếu tố cấu thành nhằm nâng cao VHCT trong thực

tiễn. Trong tình hình hiện nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau về VHCT

cho nên quan niệm về cấu trúc của VHCT cũng không giống nhau, trên cơ sở kế

thừa những thành tựu nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn quan niệm cấu trúc VHCT

thông qua những biểu hiện chủ yếu như sau:

a) Chủ thể văn hóa chính trị

Xuất phát từ tính chủ thể của văn hóa, VHCT bao giờ gắn với chủ thể chính

trị (cá nhân và cộng đồng), phản ánh trình độ và hiệu quả hoạt động chính trị của

con người, bao gồm sự tác động lẫn nhau trong sự thống nhất giữa VHCT cá nhân

với VHCT của một cộng đồng, trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chủ yếu tập

trung xem xét VHCT ở cấp độ cá nhân.

Văn hóa chính trị với tính cách văn hóa cá nhân hay còn gọi là nhân cách

chính trị cá nhân (văn hóa công dân) là sự thừa nhận hay đánh giá của xã hội về

phẩm chất, năng lực; về tình cảm và ý chí của cá nhân, là bộ mặt tâm lý xã hội của

cá nhân đó. Trong hoạt động chính trị, sự thừa nhận hay đánh giá của tổ chức về

phẩm chất, năng lực chính trị của cá nhân làm nên nhân cách chính trị của cá nhân

đó; nhân cách chính trị là nội dung cốt lõi bên trong của văn hóa chính trị.

Con người tồn tại trong xã hội với tư cách là một cá thể thì được gọi là cá

nhân, cá nhân luôn có mối liên hệ với cộng đồng và chỉ trong quan hệ với cộng

đồng, nhân cách cá nhân mới được hình thành và phát triển. K. Marx đã khẳng

43

định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan

hệ xã hội” [81, tr.11]. Xã hội vừa là điều kiện vừa là kết quả sự đóng góp tổng

thể của các cá nhân.

Văn hóa chính trị cá nhân được bộc lộ trên ba phương diện chủ yếu:

- Phẩm chất chính trị (những yếu tố bên trong), bao gồm nhận thức chính trị,

tình cảm chính trị và ý chí chính trị;

- Hành vi và hoạt động chính trị (những yếu tố biểu hiện ra bên ngoài), bao

gồm thái độ chính trị, năng lực tham gia hoạt động chính trị;

- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên), bao gồm lý tưởng chính trị,

uy tín chính trị cá nhân và niềm tin chính trị.

Những yếu tố thuộc về phẩm chất, năng lực và uy tín chính trị cá nhân như:

tri thức, trình độ chính trị; hành vi và hoạt động chính trị thực tiễn cũng như mức độ

hoàn thiện nhân cách tạo nên VHCT của mỗi cá nhân. Thông qua sự giao tiếp, ứng

xử trong hoạt động chính trị thể hiện thái độ và trình độ giác ngộ chính trị của cá

nhân hướng tới mục tiêu trung thành với lý tưởng đã lựa chọn. Quá trình hình thành

VHCT cá nhân được bắt đầu từ nhận thức về lý tưởng chính trị trên cơ sở tri thức

khoa học về chính trị làm tiền đề đúng đắn cho hành động chính trị và thông qua

hành động thực hiện lý tưởng chính trị, bộc lộ tình cảm, thái độ và niềm tin để làm

cho hành động ngày càng có sức mạnh hơn, tự giác hơn.

Văn hóa chính trị chính trị cá nhân chịu sự chi phối, tác động của VHCT cộng

đồng hay tổ chức, trong đó tập trung ở những yếu tố mang tính định hướng như: lý

tưởng chính trị, động cơ và lợi ích chính trị, các yếu tố truyền thống và môi trường

chính trị xung quanh.

b) Thang bậc giá trị văn hóa chính trị

Văn hóa được hiểu như là tổng thể dấu ấn sáng tạo của con người trong lịch

sử theo tiêu chuẩn chân - thiện - mỹ. Với tính cách là một bộ phận của văn hóa,

thang bậc giá trị VHCT, được kết tinh từ thực tiễn chính trị, thẩm thấu vào trong tất

cả các hoạt động của chủ thể chính trị hướng tới một nền chính trị dân chủ, nhân

văn, khoa học và được biểu hiện trên những phương diện sau:

- Triết lý, tư tưởng chính trị

Triết lý, tư tưởng chính trị là một hệ thống tri thức mang tính định hướng dựa

trên các tư tưởng, quan điểm triết học, tôn giáo hay đạo đức nhằm giải thích nguồn

44

gốc, bản chất của chính trị với các vấn đề thuộc về quan hệ các giai cấp, quyền lực,

nhà nước. Triết lý, tư tưởng chính trị thể hiện sứ mệnh, nhiệm vụ và những giá trị

định hướng hay mục tiêu, lý tưởng của cá nhân, cộng đồng trong mỗi giai đoạn, thời

đại khác nhau.

Triết lý, tư tưởng chính trị thể hiện trước hết ở tri thức và sự hiểu biết chính

trị. Trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân với tính cách là nhân

cách chính trị nói lên tri thức chính trị của cá nhân đó. Tri thức chính trị thể hiện

qua học vấn chính trị và ở trình độ, kinh nghiệm, sự mẫn cảm, từng trải hay nhạy

bén về chính trị của chủ thể, tạo nên phong cách và nguyên tắc ứng xử của con

người trong quá trình chính trị.

Một trong những vấn đề cốt lõi của triết lý, tư tưởng chính trị là hệ tư tưởng

chính trị. Hệ tư tưởng chính trị là vấn đề ý thức hệ, phản ánh khái quát lợi ích giai

cấp và phương thức, cách thức đấu tranh thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp. Hệ tư

tưởng chính trị giữ vai trò trung tâm chi phối và quyết định tính chất, nội dung và

phương hướng xây dựng VHCT. Hay nói cách khác, hệ tư tưởng chính trị của giai

cấp thống trị xã hội quy định trực tiếp đường lối và chính sách chính trị.

Vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị cũng là một trong những khía cạnh chủ

yếu của triết lý, tư tưởng chính trị nói riêng, VHCT nói chung. Một lý tưởng chính

trị tiến bộ phải được xây dựng trên cơ sở của những tri thức và sự hiểu biết chính trị

và hệ tư tưởng chính trị hướng tới mục tiêu dân chủ và nhân văn. Lý tưởng chính trị

có tốt đẹp mới tạo ra niềm tin hay sự thuyết phục về chính trị. Lý tưởng chính trị là

sự biểu hiện những sắc thái tâm lý xã hội mang tính cá nhân đối với chế độ chính trị

và cũng là cơ sở để hình thành lý tưởng chính trị cao đẹp, giúp tạo ra bản lĩnh chính

trị vững vàng cho các chủ thể chính trị trước những khó khăn thử thách.

- Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị

Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị hay còn gọi tính chuẩn tắc chính trị là

những giá trị VHCT được chủ thể chia sẻ trên cơ sở của chuẩn mực, khuôn mẫu

chính trị, trong đó chuẩn mực chính trị có tác dụng định hướng và điều chỉnh hành

vi của các chủ thể chính trị trong quá trình đấu tranh giành quyền lực và thực thi

quyền lực. Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị có tác dụng thuyết phục và khuyến

khích sự tham gia cổ vũ, ủng hộ một cách tự giác, tự nguyện của công dân, đồng

45

thời bản thân nó cũng được bảo vệ bằng các chế tài mang tính pháp lý. Hay nói cách

khác, hướng tới chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ

của công dân đối với chính thể nhà nước.

Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị thường hiện diện trong các quy phạm

pháp luật, quy định và xử lý các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã

hội, giữa nhà nước và công dân, đồng thời tồn tại trong các quan hệ xã hội quy định

nguyên tắc hoạt động của bản thân nó và thường trực hiện diện trong nhận thức,

tình cảm của chủ thể đối với các tiêu chí chính trị.

Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị của mỗi quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào

mức độ phát triển văn hóa xã hội của chính quốc gia đó và được dựa trên những tiêu

chí, chuẩn mực chính trị cơ bản. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị gắn liền với sự

hoàn thiện của thể chế chính trị nhằm khơi dậy và phát huy sức mạnh của giai cấp,

dân tộc và thời đại trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu chính trị.

- Di sản và truyền thống chính trị

Xét dưới góc độ văn hóa học, khái niệm di sản được hiểu là sản phẩm tinh

thần, vật chất có giá trị về lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này

qua thế hệ khác. Khái niệm truyền thống dùng để chỉ tập hợp những tư tưởng, tình

cảm, những tập quán, những thói quen, những kinh nghiệm, lối sống, cách ứng xử

của các chủ thể trong một cộng đồng được hình thành trong lịch sử, mang tính ổn

định, bền vững và được lưu truyền qua các thế hệ; truyền thống được biểu hiện

trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là ở lĩnh vực văn hóa.

Khác với di sản, trong từng giai đoạn nhất định, yếu tố truyền thống bao giờ

cũng có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố mang

tính ưu việt, tiến bộ, phù hợp và thúc đẩy sự phát triển góp phần gìn giữ và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc, trái lại, mặt tiêu cực là biểu hiện của sức ỳ của sự bảo thủ,

trì trệ, lạc hậu và là những yếu tố kìm hãm sự phát triển.

Lịch sử văn hóa của một dân tộc là lịch sử của sự trao truyền và kế thừa các

di sản. Với tư cách là sản phẩm của lịch sử, VHCT là sự hội tụ, kết tinh giá trị các

di sản chính trị và truyền thống chính trị tiêu biểu thể hiện bản sắc của dân tộc. Các

di sản chính trị và truyền thống chính trị của một dân tộc gắn liền với các biểu

tượng chính trị, nhân cách chính trị của các anh hùng thể hiện lý tưởng, khát vọng

của dân tộc đó.

46

c) Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị

Thể chế chính trị là hệ thống các định chế hợp thành một chế độ chính trị, là

hình thức thể hiện các thành phần của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng

trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội khác và vai trò,

ảnh hưởng lẫn nhau của các yếu tố đó trong hệ thống chính trị. Thể chế chính trị

được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc nhằm hướng tới

việc xác định tổ chức và hoạt động của các lực lượng (đảng phái) chính trị, nhà

nước, các tổ chức chính trị - xã hội.

Thiết chế chính trị bao gồm cách thức tổ chức bộ máy quyền lực, các cơ

quan quyền lực các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể chính trị.

Thể chế và thiết chế chính trị được xem như là hệ thống công cụ hành động

nhằm đạt tới mục tiêu chính trị. Xem xét thể chế, thiết chế chính trị từ góc độ văn

hóa là căn cứ vào mục tiêu chính trị để nhìn nhận, đánh giá tính khoa học trong cách

thức xây dựng các định chế chính trị, sự phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc

và tiến bộ xã hội nói chung.

d) Hoạt động văn hóa chính trị

Sự vận hành của các thể chế và thiết chế VHCT xét về bản chất là các hoạt

động chính trị trong thực tiễn. Hoạt động chính trị là trong những hoạt động văn hóa

đặc thù trong xã hội có giai cấp, trong đó bao gồm tổng thể các cách thức thực hiện

các quan hệ chính trị trong xã hội, là sự tác động qua lại của các tổ chức, cá nhân

nhằm thực hiện lợi ích chính trị trong quá trình ứng xử với quyền lực, đây chính là

cơ sở hình thành sự vận hành của thể chế, thiết chế trong hoạt động chính trị.

Về nguyên tắc, trong xã hội có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp, xã hội

có giai cấp đối kháng thì hoạt động chính trị của các giai cấp đối kháng suy đến cùng

là sự đấu tranh nhằm chiếm hữu quyền lực. Giai cấp thống trị sẽ tìm mọi cách để

củng cố quyền lực, giữ vững và tiến hành các hoạt động thực thi quyền lực đảm bảo

cho lợi ích chính trị của giai cấp mình được bảo toàn. Giai cấp đối kháng (bị trị) cũng

tiến hành các hoạt động chính trị nhằm gây ra áp lực chính trị và hướng tới mục tiêu

giành lấy quyền lực chính trị từ giai cấp thống trị. Trong từng giai đoạn lịch sử, vai

trò của giai cấp cầm quyền thông qua hoạt động chính trị có ảnh hưởng mang tính

quyết định đến tính chất và khuynh hướng của nền VHCT của cộng đồng.

47

Văn hóa chính trị khác với bản thân chính trị, không đồng nhất với chính trị

và không phải tất cả hoạt động chính trị đều biểu hiện VHCT, chỉ có những hoạt

động chính trị hội tụ và kết tinh được những giá trị vì mục tiêu con người và tiến bộ

xã hội mới trở thành hoạt động văn hóa, là tiền đề sáng tạo ra văn hóa chính trị.

Hoạt động chính trị luôn gắn liền với quyền lực, căn cứ vào quan hệ quyền lực

chính trị hiện hành mà các hoạt động chính trị được xem là phù hợp hay không phù

hợp. Hay nói cách khác, nội dung hoạt động chính trị luôn bị quy định bởi các

nguyên tắc và quy phạm pháp luật.

Trong hoạt động chính trị, lãnh đạo chính trị là một nội dung có vai trò quyết

định, lãnh đạo chính trị là hoạt động đặc biệt gắn liền với tổ chức là đảng chính trị

bao gồm những đại biểu tiên phong của giai cấp. Lãnh đạo chính trị biểu hiện khả

năng thực hiện ý chí của chủ thể dựa trên uy tín người lãnh đạo và sự thừa nhận,

phục tùng của đối tượng bị lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo mang tính trí tuệ và thể

hiện sự sáng tạo trong thực tiễn của chủ thể chính trị.

Trong hoạt động chính trị, lãnh tụ chính trị luôn là nhân vật trung tâm, bất cứ

một cộng đồng nào cũng chịu tác động và ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng sự ảnh

hưởng của lãnh tụ chính trị luôn là sự ảnh hưởng rộng khắp và vượt lên trên tất cả.

Mỗi thời đại nhất định trong lịch sử đều có những mẫu hình lý tưởng về người lãnh

đạo chính trị.

Về mặt hình thức, hoạt động chính trị là hoạt động của các cá nhân, cộng

đồng hay tổ chức được khởi phát tự nhiên hay được tổ chức bởi các chủ thể chính

trị nhằm hướng tới lợi ích bản thân, giai cấp, cộng đồng. Trong thực tiễn, các hoạt

động như cách mạng xã hội, khởi nghĩa vũ trang, đảo chính, biểu tình, bầu cử chính

trị, cải cách chính trị… được xem là những hoạt động chính trị tiêu biểu.

2.1.2.2. Chức năng của văn hóa chính trị

Nói tới chức năng là nói tới “Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng

của một người nào, một cái gì đó” [155, tr.191]. Chức năng của VHCT là tác dụng,

vai trò đặc trưng của VHCT trong thực tiễn. Với tính cách là một thành tố của văn

hóa, VHCT cũng có đầy đủ các chức năng của văn hóa nói chung. Tuy nhiên VHCT

của một xã hội, một cộng đồng có vai trò quan trọng trong việc nhận thức, đánh giá,

điều chỉnh và đưa ra định hướng hành vi chính trị của các chủ thể nhằm đem lại

hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.

48

Xuất phát từ cách tiếp cận và quan niệm về văn hóa nói chung và VHCT nói

riêng, hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về chức năng

của VHCT. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, VHCT có những chức năng cơ bản

sau đây:

a) Chức năng nhận thức

Văn hóa chính trị có vai trò quan trọng trong việc nhận thức các hiện tượng

chính trị, các quá trình chính trị, đem lại cho chủ thể chính trị những tri thức cần thiết

để tham gia vào đời sống chính trị nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả chính trị

trong thực tiễn. Các tri thức chính trị là những vấn đề có tính quy luật, mang tính

nguyên tắc trong tổ chức, quản lý xã hội, quản lý nhà nước; các phương pháp,

phương thức, thao tác, vận hành nhằm thường xuyên phát huy tính tích cực chính trị

của công dân. Quá trình nhận thức các tri thức chính trị, trong đó nhận thức hệ tư

tưởng chính trị, những giá trị chính trị, những chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị là

những vấn đề cốt lõi.

Chức năng nhận thức của VHCT thể hiện trong môi trường chính trị, trong

quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, quan hệ giữa các cá nhân trong một tổ chức.

Quá trình nhận thức cũng là quá trình không ngừng sáng tạo các tri thức và giá trị

mới. Thông qua hành vi của cá nhân và cộng đồng, VHCT tiếp thu những tri thức

mới có tác dụng định hướng trong thực tiễn hoạt động chính trị.

b) Chức năng giáo dục

Chức năng giáo dục của VHCT thể hiện, thông qua các hoạt động chính trị

tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện các chủ thể, giúp cho chủ thể có được

những phẩm chất, năng lực theo tiêu chuẩn và khuôn mẫu chính trị nhất định.

VHCT quy định hành vi chính trị của các chủ thể trên cơ sở những chuẩn mực,

những giá trị chính trị đã được cộng đồng lựa chọn và thừa nhận, đây là cơ sở quan

trọng và là yếu tố mang tính quyết định trong việc hình thành nhân cách con người

chính trị.

Văn hóa chính trị, với chức năng giáo dục không chỉ giúp gìn giữ phát huy

những giá trị truyền thống mà còn sáng tạo nên những giá trị mới, tạo nên sự kế tục

mang tính lịch sử của mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Thông qua các tổ chức

chính trị với các cương lĩnh, điều lệ, sự giải thích, tuyên truyền, giáo dục giúp nâng

cao tính tích cực chính trị cho các thành viên trong cộng đồng hay tổ chức đó.

49

c) Chức năng tổ chức

Các tổ chức chính trị là đại diện hợp pháp cho các lực lượng xã hội được tập

hợp, liên kết lại trên cơ sở cùng nhau chia sẻ các giá trị, lợi ích, VHCT thể hiện chức

năng tổ chức qua việc liên kết xã hội, các cá nhân, các nhóm, các giai tầng tạo nên sự

đoàn kết, thống nhất trong một cộng đồng, tổ chức vì mục tiêu và nghĩa vụ chung.

Tuy nhiên, do sự đấu tranh vì lợi ích riêng của các nhóm xã hội diễn ra thường

xuyên và hết sức đa dạng, cho nên, chức năng tổ chức của VHCT thường không

thực sự triệt để.

d) Chức năng điều chỉnh

Văn hóa chính trị góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội - chính trị và nâng

cao chất lượng của chủ thể quyền lực. Trong quá trình chính trị, thông qua các hoạt

động chính trị, hình thành nên những khuôn mẫu chính trị. Căn cứ vào khuôn mẫu

chính trị, các chủ thể chính trị sẽ nhận thức được sự đúng, sai, tốt, xấu, từ đó tiến

hành điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, mỗi nhóm sao cho phù hợp với quan niệm

chung của cộng đồng, xã hội. Khi điều chỉnh, phải xem các giá trị VHCT là yếu tố

quan trọng nhất, giữ vai trò nền tảng tạo ra sự cân bằng cho hệ thống chính trị, giúp cho

sự ổn định xã hội. Văn hóa luôn là một dòng chảy, VHCT luôn có sự vận động và phát

triển, trong quá trình đó để không bị tụt hậu hoặc lệch chuẩn, các chủ thể phải luôn tự

đổi mới, tự điều chỉnh sao cho bắt kịp với sự vận động của thực tiễn.

e) Chức năng dự báo và định hướng

Trên cơ sở nhận thức, đánh giá các hiện tượng và quá trình chính trị, căn cứ

vào tri thức chính trị với định hướng theo khuôn mẫu và giá trị đã lựa chọn có thể

dự báo được những biến đổi chính trị trong tương lai, dự báo là một trong những

chức năng quan trọng của văn hóa chính trị.

Một trong những yếu tố cốt lõi trong cấu trúc của VHCT là triết lý chính trị,

biểu hiện qua hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nếu triết lý chính trị của giai cấp

thống trị xã hội mang tính chất cách mạng, khoa học thì sẽ tạo nên những chuẩn mực,

những khuôn mẫu mang tính nhân văn, hướng sự phát triển xã hội phù hợp với quy

luật khách quan và ngược sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực.

Văn hóa chính trị định hướng năng lực và phẩm chất của chủ thể tạo ra sự

nhạy bén chính trị, giúp cho sự chủ động và sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thử

thách vươn lên để thực hiện các giá trị lý tưởng đã chọn.

50

Ngoài những chức năng trên, các nhà nghiên cứu còn đưa ra các chức năng

khác như: chức năng đánh giá, chức năng xã hội hóa chính trị và chức năng đảm

bảo sự kế tục lịch sử hay còn gọi là chức năng trao truyền...

Văn hóa chính trị là một bộ phận của văn hóa xã hội, là sản phẩm sáng tạo

của con người trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng chính trị. Vai trò,

chức năng của VHCT thể hiện ở vị trí quan trọng trong việc nhận thức tri thức chính

trị, tập hợp và giáo dục quần chúng, điều chỉnh, định hướng và dự báo tương lai

nhằm không nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị trong thực tiễn.

2.2. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG

QUÂN ĐỘI

Vấn đề xây dựng QĐND Việt Nam về tư tưởng và văn hóa thường xuyên

nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP, giúp cho nhận thức

về văn hóa nói chung, VHCT nói riêng trong toàn quân có bước phát triển mới.

Nhiều vấn đề lý luận về văn hóa và văn hóa trong môi trường quân sự đã được luận

giải, làm rõ góp phần xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, trước

yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa chung và nâng cao VHCT nói riêng cho các

chủ thể trong quân đội vẫn còn nhiều vấn đề thuộc về lý luận văn hóa cần được lý

giải và làm rõ hơn. Xuất phát từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở kế thừa những thành

tựu mới trong nghiên cứu về cấu trúc văn hóa, chúng tôi đưa ra quan niệm về

VHCT của QĐND Việt Nam và VHCT trong nhà trường quân đội.

2.2.1. Văn hóa chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Trong Luật Quốc phòng ban hành năm 2018 xác định: QĐND Việt Nam là một

bộ phận và là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang Nhân dân bao gồm lực lượng

thường trực (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương) và lực lượng dự bị động viên.

Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức quân sự cách mạng do ĐCSVN

và Nhà nước Việt Nam lãnh đạo và quản lý; là quân đội kiểu mới mang bản chất

của giai cấp công nhân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến

đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì hạnh phúc của

Nhân dân.

Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo,

tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt của ĐCSVN và sự giáo dục rèn luyện của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, QĐND Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh; lớp lớp các thế hệ cán

bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì

51

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dựa vào Nhân dân, sát cánh cùng với Nhân

dân, lập nhiều chiến công, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng

dân tộc, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế; xứng

danh là Quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Những giá trị văn hóa của QĐND Việt Nam được biểu hiện tập trung qua

hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong suốt cuộc đấu tranh trường kỳ giải phóng dân tộc

cũng như trong công cuộc xây dựng Tổ quốc ngày nay, danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ”

đã được khẳng định là một giá trị văn hóa độc đáo, là sự kế thừa và phát huy truyền

thống văn hóa dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đồng thời có thể được

xem là biểu tượng anh hùng văn hóa trong thời đại Hồ Chí Minh.

Xuất phát từ những nhận thức trên, chúng tôi quan niệm: văn hóa chính trị

QĐND Việt Nam là tổng thể những dấu ấn kết tinh truyền thống văn hóa dựng nước

và giữ nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện trong chủ

thể chính trị, thang bậc giá trị chính trị, thể chế và thiết chế chính trị, hoạt động

chính trị của quân đội theo tiêu chí chân - thiện - mỹ, được tích lũy và sáng tạo ra

trong suốt quá quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của đội quân cách

mạng từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những giá trị VHCT cao nhất của dân tộc Việt Nam hướng tới là “Không có

gì quý hơn độc lập, tự do” hay nói ngắn gọn hơn là “Độc Lập - Tự Do - Hạnh

Phúc” đã được gửi gắm và giao phó cho QĐND Việt Nam, thể hiện trong chức

năng, nhiệm vụ của quân đội là sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; thực

hiện công tác vận động, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước; lao động sản xuất, kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội,

tham gia phòng thủ dân sự, cùng toàn dân xây dựng đất nước và nói ngắn gọn hơn

là, đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất.

Những giá trị truyền thống tiêu biểu đồng thời cũng là những giá trị VHCT

điển hình của QĐND Việt Nam đã được đúc kết trong lời khen ngợi của Chủ tịch

Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập (22/12/1944 - 22/12/1964):

“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập,

tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn

nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, đó cũng chính là sự hội tụ kết tinh

truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

52

2.2.2. Văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam luôn

được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán

bộ. Trước yêu cầu nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho cách mạng, Hội nghị Quân sự cách

mạng Bắc Kỳ họp từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 4 năm 1945, tại Hiệp Hòa, Bắc Giang,

đã quyết định một trong những nội dung quan trọng là thành lập Trường Quân chính

kháng Nhật (Tiền thân của TSQLQ1 ngày nay). Sự ra đời một nhà trường đầu tiên của

quân đội là dấu mốc quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân đội của

Đảng, đồng thời là một tất yếu khách quan, gắn liền với quá trình xây dựng, chiến đấu

và trưởng thành của QĐND Việt Nam anh hùng trong suốt hơn 75 năm qua.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, NTQĐ tiếp tục có những đóng quan trọng vào quá

trình thực hiện chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh

nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Với tính cách là một tổ chức quân đội mang tính đặc thù có nhiệm vụ chính

trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, hướng tới mục tiêu đào tạo cán

bộ quân đội của Đảng, chúng tôi quan niệm: văn hóa chính trị trong NTQĐ là

một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam trong đó chứa đựng những thang bậc

giá trị mang tính định hướng chính trị cao trong một thiết chế văn hóa đặc thù

do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động môi trường sư phạm quân

sự, nhằm tạo nên sức mạnh để hoàn thành thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo

của nhà trường quân đội.

Nhà trường quân đội là một thiết chế văn hóa đặc thù, VHCT trong NTQĐ

luôn gắn liền với hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm quân sự và

phản ánh các giá trị chính trị thông qua các nghi thức, chuẩn mực và các biểu trưng,

biểu tượng mang tính truyền thống và sự vận hành của thể chế, thiết chế chính trị;

và hoạt động chính trị của các chủ thể trong NTQĐ. VHCT trong NTQĐ phản ánh

trình độ, năng lực sáng tạo, sự chia sẻ và theo đuổi các giá trị của chủ thể văn hóa

sư phạm quân sự vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích dân tộc và sự tiến bộ của

xã hội. VHCT trong NTQĐ phản ánh những dấu hiệu đặc trưng VHCT của QĐND

Việt Nam và chịu sự tác động và chi phối bởi trình độ và đặc trưng của văn hóa dân

tộc Việt Nam.

53

2.2.3. Đặc trưng của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Xét trong tính hệ thống, văn hóa chính trị QĐND Việt Nam là sự hội tụ và kết

tinh của VHCT Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh và VHCT trong NTQĐ là

một bộ phận hợp thành VHCT của QĐND Việt Nam. Về thực chất, NTQĐ là

những đơn vị quân đội với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị QĐND

Việt Nam. Nếu như các đơn vị quân đội có nhiệm vụ chính trị trung tâm là huấn

luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu thì tính đặc thù của NTQĐ thể hiện ở

nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học. Những vấn đề

thuộc về đặc trưng của VHCT trong NTQĐ là chất lượng tổng hòa của các yếu tố

cấu thành như: hệ thống nhân cách chính trị của người lãnh đạo, chỉ huy, giảng

viên và học viên; hệ thống thang bậc giá trị chính trị với triết lý và tư tưởng

chính trị; chuẩn mực và niềm tin chính trị; di sản và truyền thống chính trị và

được biểu hiện qua các nghi thức của quân đội, các quy định trong điều lệnh,

điều lệ của quân đội gắn với mục tiêu yêu cầu đào tạo và lịch sử truyền thống

của NTQĐ. Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi một học viện, trường

quân đội không giống nhau, cho nên các giá trị chính trị được tạo ra bởi mỗi

NTQĐ cũng không đồng nhất, điều đó tạo nên uy tín hay còn được gọi là

“thương hiệu” của mỗi trường.

Những giá trị truyền thống tiêu biểu của NTQĐ là những biểu hiện cụ thể của

văn hóa giữ nước, bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam,

truyền thống vinh quang của ĐCSVN và truyền thống anh hùng của QĐND Việt Nam.

Trong phạm vi của luận án, với nhận thức, VHCT trong NTQĐ là VHCT của

QĐND Việt Nam trong một thiết chế văn hóa đặc thù của môi trường sư phạm quân

sự có vai trò quan trọng trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách; bồi đắp lý

tưởng, niềm tin chính trị, rèn luyện bản lĩnh chính trị trong quá trình đào tạo đội ngũ

quân nhân cách mạng, chúng tôi sẽ chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau:

Thứ nhất, chủ thể của VHCT trong NTQĐ được biểu hiện ở văn hóa cá nhân

với ba đối tượng chính: cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; giảng viên và học viên. Tiếp cận

chủ thể VHCT với tính cách là văn hóa cá nhân (nhân cách cá nhân, văn hóa công

dân), trong đó, bao gồm các yếu tố: phẩm chất chính trị (yếu tố nội tại bên trong),

hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố biểu hiện bên ngoài) và lý tưởng, niềm tin

chính trị (yếu tố bên trên).

54

Thứ hai, thang bậc giá trị VHCT trong NTQĐ biểu hiện trên các khía cạnh

sau: triết lý, tư tưởng chính trị gắn với hệ tư tưởng của ĐCSVN là lấy chủ nghĩa

Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi

hành động. Lý tưởng và niềm tin chính trị được biểu hiện trong chiến lược xây dựng

quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại và gắn với các nghi

thức quân đội; các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị được thể hiện trong các quy

định xây dựng chính quy và rèn luyện kỷ luật; di sản và truyền thống của NTQĐ

luôn gắn liền với những thành tích và đóng góp trong quá trình xây dựng, chiến đấu

và trưởng thành của mỗi học viện, trường quân đội.

Thứ ba, thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ gắn liền với quan điểm,

đường lối của Đảng, quy phạm pháp luật Nhà nước và các quy định về cơ cấu, tổ

chức cùng với sự vận hành các thiết chế mang tính đặc thù trong QĐND Việt

Nam nói chung và NTQĐ nói riêng.

Thứ tư, hoạt động VHCT trong NTQĐ gắn liền với hoạt động đặc thù của tổ

chức quân sự cách mạng như: hoạt động huấn luyện sẵn sàng chiến đấu; hoạt động

xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật; hoạt động hậu cần, kỹ thuật và tài chính;

hoạt động xây dựng các tổ chức, trong đó hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa

học được xem là nhiệm vụ chính trị trung tâm. Vì vậy luận án sẽ tập trung vào ba

hoạt động chính: dạy học, nghiên cứu khoa học và hoạt động xây dựng các tổ chức

trong nhà trường quân đội.

2.3. KHÁI LƯỢC VỀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

2.3.1. Khái quát chung về hệ thống nhà trường quân đội

Hiện nay hệ thống NTQĐ của QĐND Việt Nam được tổ chức hoàn chỉnh từ

trên xuống dưới và trải rộng khắp tất cả các quân chủng, binh chủng, các quân khu,

quân đoàn, các tổng cục và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhằm đáp

ứng yêu cầu đào tạo ở tất cả các cấp cho quân đội và phục vụ cho công cuộc công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.3.1.1. Cơ cấu tổ chức

Theo Thông tư số 51/2016/TT- BQP ngày 20 tháng 4 năm 2016 ban hành

“Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam” [18], tại Điều 6, mục

Hệ thống NTQĐ, gồm có: các học viện, trường sĩ quan, trường đại học và đơn vị

được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học; các trường cao đẳng, trường trung cấp; các

55

trường quân sự quân khu, quân đoàn và Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà

Nội; các trường quân sự tỉnh, thành phố và Trường Quân sự Bộ Tư lệnh Thành phố

Hồ Chí Minh và các trung tâm giáo dục nghề nghiệp [18, tr.11].

Theo phân cấp quản lý, hiện nay có Học viện Quốc phòng (Học viện Quân

sự cấp cao) trực thuộc Chính phủ; có 5 Học viện và 3 Trường sĩ quan trực BQP; có

5 học viện trực thuộc quân chủng, tổng cục, bộ tư lệnh, Ban Cơ yếu Chính phủ và có

6 trường đào tạo bậc cao đẳng và trung cấp.

Ngoài ra ở 7 quân khu và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; 4 quân đoàn và hầu hết

các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có các trường quân sự.

2.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ

Theo Thông tư số 51/2016/TT-BQP, quy định: NTQĐ có tư cách pháp nhân

thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng nhà trường chính

quy; cấp văn bằng, chứng chỉ theo quy định của Nhà nước và BQP. Các hoạt động của

nhà trường đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP, Bộ Tổng Tham mưu,

Tổng cục Chính trị, trên cơ sở phê duyệt của các cấp có thẩm quyền [18].

Nhà trường quân đội thực hiện nhiệm vụ đào tạo sĩ quan; bồi dưỡng cán bộ

lãnh đạo, quản lý nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; bồi dưỡng năng lực

thực hành cho cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, hạ sĩ quan, binh sĩ theo yêu

cầu của quân đội ở tất cả các bậc học và cấp học. Nghiên cứu, ứng dụng, phát triển

các hoạt động khoa học và công nghệ; liên kết, hợp tác đào tạo và thực hiện một số

nhiệm vụ do BQP giao [18].

Theo phân cấp đào tạo, NTQĐ triển khai thực hiện giáo dục, đào tạo từ

chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp với các trình độ từ sơ cấp,

trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Theo loại hình có đào tạo theo chức vụ

(chiến thuật, chiến dịch, chiến lược); theo học vấn (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại

học, thạc sĩ - bác sĩ chuyên khoa cấp 1, 2, tiến sĩ) và đào tạo liên kết, liên thông, bồi

dưỡng, giáo dục chuyên nghiệp.

Trải qua 75 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, cùng với sự lớn mạnh của

QĐND Việt Nam, NTQĐ đã đào tạo được hàng chục vạn cán bộ sĩ quan, nhân viên

chuyên môn đáp ứng kịp thời cho các nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ

quốc và xây dựng đất nước hiện nay, góp phần tô thắm thêm truyền thống “Dạy tốt,

học tốt, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ” [16, tr.10]

56

2.3.2. Khái quát về Học viện Chính trị

2.3.2.1. Lịch sử hình thành, phát triển

Khi Chiến dịch Biên giới 1950 kết thúc thắng lợi, Ban Chấp hành Trung

ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Tổng Quân ủy ra quyết định

thành lập “Trường Chính trị trung cấp QĐND Việt Nam” (tiền thân của HVCT

ngày nay) vào tháng 7 năm 1951, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng sức mạnh chính

trị tinh thần cho các đơn vị quân đội. Sau nhiều lần thay đổi tổ chức và tên gọi cho

phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, tháng 5 năm 1965, Nhà trường mang tên

Học viện Chính trị. Từ ngày thành lập đến năm 1954, Nhà trường được Chủ tịch Hồ

Chí Minh 3 lần về thăm (25/10/1951; 3/1952 và 5/1953); Ngày truyền thống của

HVCT là ngày 25 tháng 10, để kỷ niệm ngày Nhà trường vinh dự được đón Chủ

tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên đến thăm và huấn thị.

Trong quá trình đào tạo, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Học viện đã

liên tục phát triển, được bổ sung nhiệm vụ mới, đối tượng đào tạo ngày càng đa

dạng với nhiều loại hình và quy mô ngày càng được mở rộng. Hiện nay, vị thế, uy

tín của HVCT ngày càng được khẳng định trong hệ thống giáo dục quốc dân nói

chung và NTQĐ nói riêng.

2.3.2.2. Các giá trị tiêu biểu

- Sứ mệnh và mục tiêu đào tạo

Đối với HVCT, sứ mệnh được xác định là:

Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài cho quân

đội và quốc gia; nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng của

lĩnh vực khoa học Xã hội và Nhân văn, khoa học Giáo dục đạt trình độ

tiên tiến; góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội vững

mạnh về chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [54, tr. 15].

Về mục tiêu, nhiệm vụ và yêu cầu đào tạo của HVCT được BQP giao cho:

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị, chính ủy, giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa

học Xã hội và Nhân văn quân sự cấp trung, sư đoàn…có kiến thức chuyên sâu trong

một lĩnh vực khoa học, có trình độ đại học, sau đại học, có năng lực lãnh đạo, chỉ

huy, huấn luyện và thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ học vấn và chức

vụ đào tạo; có sức khỏe tốt và tiềm năng phát triển đáp ứng yêu cầu xây dựng quân

đội và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới [54, tr.7,17].

57

Hiện nay chức năng, nhiệm vụ của Học viện là đào tạo sĩ quan chính trị có

trình độ về chính trị, quân sự cấp chiến dịch, chiến thuật - “đội ngũ cán bộ quân sự

trung - cao cấp, đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị của quân đội có phẩm chất và năng

lực khi ra trường sẽ làm nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở cho mọi

mặt xây dựng quân đội” [16, tr.179]. Vì vậy, đối tượng đào tạo và bồi dưỡng của

Học viện tương đối đa dạng, bao gồm: đào tạo chính ủy cấp trung đoàn và sư đoàn

binh chủng hợp thành; đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn (văn bằng

đại học thứ 2); đào tạo ngắn cán bộ chính trị cấp trung đoàn; đào tạo hoàn thiện đại

học cán bộ chính trị cấp trung đoàn, trình độ đại học, ngành Xây dựng Đảng và

chính quyền Nhà nước.

- Danh hiệu và phần thưởng cao quý

Bằng những đóng góp quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

và nghiên cứu khoa học góp phần xây dựng QĐND Việt Nam, Học viện đã vinh dự

được Đảng, Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Sao

vàng; Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Quân công hạng Nhất; Huân

chương Chiến công; Huân chương Độc lập; Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang

nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Ngoài ra, Học viện đã 2 lần được Chính phủ

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng Huân chương Itxala; và nhiều phần

thưởng cao quý khác.

- Thành tích trong đào tạo và bồi dưỡng

Trải qua 69 năm xây dựng và trưởng thành, HVCT đã đào tạo, bồi dưỡng

được hàng vạn cán bộ chính trị, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học Xã hội và

Nhân văn của quân đội; hàng ngàn cán bộ QĐND Lào và Quân đội Hoàng gia

Campuchia. Sau gần 30 năm đào tạo trình độ sau đại học, đã đào tạo được hàng

trăm tiến sĩ; hàng nghìn thạc sĩ; hàng chục khóa đào tạo lý luận chính trị cao cấp

cho cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược; nhiều khóa bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng

và An ninh cho cán bộ đối tượng 2, hàng chục khoá bồi dưỡng nghiệp vụ công tác

đảng, công tác chính trị.

- Thành tích trong nghiên cứu khoa học

Công tác nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ chính trị trung

tâm của Học viện, vì vậy Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện luôn có sự quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo và đã đạt được kết quả quan trọng. Hệ thống giáo trình, tài liệu,

58

các bài giảng, sách chuyên khảo và sách chuyên đề do Học viện biên soạn đã được

phát hành lên đến hàng trăm sản phẩm có chất lượng tốt. Nhiều cuộc Hội thảo khoa

học cấp Học viện đã được tổ chức thành công với hàng hàng chục đầu sách và kỷ

yếu. Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị Quân sự của Học viện hoạt động đều, đã ấn

hành trên hàng trăm số. Hàng năm tổ chức các buổi thông tin khoa học phục vụ

nghiên cứu và giảng dạy. Tổ chức cho hàng trăm đoàn cán bộ, giảng viên đi nghiên

cứu thực tế ở các đơn vị trong và ngoài quân đội; đã viết hàng trăm bài báo khoa

học tham gia đấu tranh tư tưởng lý luận trên các báo, tạp chí Trung ương và ngành.

Trong những năm qua, Học viện đã hoàn thành đúng tiến độ, có chất lượng

các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước; cấp BQP; cấp ngành và cấp Học

viện, cấp viện, phòng, khoa, hệ. Kết quả nghiên cứu đã trực tiếp góp phần nâng cao

chất lượng đào tạo ở Học viện; góp phần đấu tranh chống các quan điểm sai trái thù

địch, bảo vệ Chủ nghĩa Marx - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đã góp phần cung cấp các

luận cứ khoa học cho QUTW và BQP trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự,

quốc phòng, xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị, xây dựng nền

quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.

- Giá trị truyền thống tiêu biểu và triển vọng phát triển trong tương lai

Phát huy truyền thống “Kiên định và sáng tạo, đoàn kết và kỷ luật, khắc phục

khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ” [162, tr.60], Học viện tiếp tục đổi mới toàn diện,

đồng bộ chương trình, nội dung đào tạo, đổi mới nội dung gắn với phương pháp dạy

học, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc về chất lượng giáo dục và đào tạo; đẩy

mạnh nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,

nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học, xứng tầm là trung tâm đào tạo

cán bộ chính trị, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, nghiên

cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục của quân đội và quốc gia.

2.3.2.3. Tính đặc thù trong cơ cấu tổ chức, biên chế và hoạt động đào tạo

Về cơ cấu, tổ chức, biên chế của HVCT bao gồm: Ban Giám đốc, trong đó

có Giám đốc, Chính ủy, các Phó Giám đốc và Phó Chính ủy; 7 phòng chức năng; 3

ban trực thuộc; 1 Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị Quân sự; 1 Viện Khoa học Xã

hội và Nhân văn quân sự; 14 khoa giảng viên; 7 hệ quản lý học viên. Về tổ chức

đảng, Học viện được tổ chức thành một đảng bộ trực thuộc QUTW và các đảng bộ,

59

chi bộ trực thuộc Đảng ủy Học viện và các tổ chức quần chúng như: Đoàn thanh

niên, Công đoàn, Phụ nữ được tổ chức ở cấp cơ sở trực thuộc Học viện.

Như vậy, tính đặc thù trong cơ cấu, tổ chức và biên chế của HVCT thể hiện ở

cách thức tổ chức các đơn vị quản lý học viên là các hệ, không phải các tiểu đoàn.

Điều này khác với các học viện, trường sỹ quan có tuyển sinh học viên đào tạo sỹ

quan được biên chế thành các tiểu đoàn. Khi biên chế thành hệ quản lý học viên,

nghĩa là đối tượng đào tạo là cán bộ sỹ quan. Một trong những nét đặc thù trong cơ

cấu của HVCT là có biên chế Viện nghiên cứu (Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn

quân sự), đây là sự thể hiện nét đặc thù trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu của

Học viện mà ở các trường sỹ quan không có. Các hoạt động đào tạo HVCT thiên về

nghiên cứu và cấp độ đào tạo cao hơn so với các trường sỹ quan, môi trường đào

tạo chủ yếu diễn ra trên giảng đường, thư viện và viện nghiên cứu.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Học viện được đào tạo cơ bản, có kinh

nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học; nhiều cán bộ, giảng viên đã trải

qua các cương vị thực tế chiến đấu, quản lý, chỉ huy đơn vị, có khả năng tổ chức tốt

hoạt động giảng dạy, quản lý giáo dục theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Hiện nay

100% giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có trình độ đại học và sau đại học, trong

đó có hàng chục giáo sư, phó giáo sư, hàng trăm tiến sĩ và nhiều thạc sĩ đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng khoa học

xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự, giải quyết những vấn đề lý luận và thực

tiễn đặt ra phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đội ngũ học viên là những cán bộ ưu tú trong quân đội được lựa chọn, quy

hoạch và phải vượt qua kỳ thi tuyển, xét tuyển, kiểm tra kiến thức đầu vào chặt chẽ

có tính sàng lọc cạo.

2.3.3. Khái quát về Trường Sĩ quan Lục quân 1

2.3.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Trường Sĩ quan Lục quân 1, tiền thân là Trường Quân chính kháng Nhật, là

nhà trường cách mạng, chính quy đầu tiên của QĐND Việt Nam, được thành lập

ngày 15 tháng 4 năm 1945 tại Xóm Khuổi Kịch, Xã Tân Trào, Huyện Sơn Dương,

Tỉnh Tuyên Quang theo Nghị quyết của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ do

Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 15 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4 năm

1945 và theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

60

Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Nhà trường đã có

nhiều lần đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử,

như: Trường Quân chính kháng Nhật (15/4/1945 - đầu tháng 9/1945); Trường Quân

chính Việt Nam (7/9/1945 - đầu tháng 10/1945); Trường Huấn luyện cán bộ Việt

Nam (15/10/1945 - 16/4/1946); Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (17/4/1946 - cuối

tháng 01/1948); Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn (đầu tháng 02/1948 -

cuối tháng 01/1950); Trường Lục quân Việt Nam (cuối tháng 01/1950 - 01/1956);

Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (tháng 01/1956 - 10/1975) và Trường Sĩ quan

Lục quân 1 (10/1975 - nay);

Ngày 28 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

1972/QĐ-TTg Về thành lập Trường Đại học Trần Quốc Tuấn trên cơ sở nâng cấp

Trường Sĩ quan Lục quân 1. Ngày nay, Nhà trường sử dụng đồng thời cả hai tên gọi:

TSQLQ1 là tên trường quân đội và Trường Đại học Trần Quốc Tuấn là tên giao dịch

dân sự [136, tr.142].

Sự ra đời của Trường Quân chính kháng Nhật năm 1945 đã kịp thời đáp ứng

nhiệm vụ đào tạo cán bộ làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang Nhân dân chuẩn

bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và đặt nền móng cho sự nghiệp đào tạo

cán bộ quân đội của Đảng. Sự phát triển của Nhà trường ngày càng được khẳng

định khi Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học, năm 1998; Thủ tướng Chính

phủ ký quyết định thành lập Trường Đại học Trần Quốc Tuấn trên cơ sở nâng cấp

TSQLQ1, năm 2010; Bộ Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ đào tạo thạc sĩ chuyên

ngành Nghệ thuật quân sự, năm 2011. Đây là những mốc son đánh dấu bước phát

triển vượt bậc, khẳng định uy tín và vị thế của Nhà trường trong giai đoạn mới.

2.3.3.2. Các giá trị tiêu biểu

- Sứ mệnh và mục tiêu đào tạo

Sứ mệnh của Nhà trường được tuyên bố như sau:

Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Đại học Trần Quốc Tuấn), nằm trong hệ

thống các trường đại học của Nhà nước, Quân đội; là tổ chức có tư cách

pháp nhân, được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và BQP giao nhiệm vụ:

Đào tạo trình độ Thạc sỹ Khoa học Quân sự, Chuyên ngành Nghệ thuật

Quân sự, đào tạo sĩ quan Chỉ huy tham mưu Lục quân cấp phân đội trình

61

độ đại học và các đối tượng đào tạo khác; cấp văn bằng, chứng chỉ tốt

nghiệp cho các đối tượng theo quy chế của Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ

Quốc phòng. Nghiên cứu nghệ thuật quân sự, ứng dụng và phát triển

khoa học kỹ thuật quân sự, khoa học quân sự, khoa học xã hội và nhân

văn quân sự, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cán bộ cho

Quân đội. Xây dựng Nhà trường cách mạng, chính quy, mẫu mực, có

môi trường văn hóa lành mạnh, Nhà trường vững mạnh toàn diện. Thực

hiện nghiêm pháp luật Nhà nước; điều lệnh, điều lệ, kỷ luật Quân đội;

chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện các

nhiệm vụ khác khi BQP giao [136, tr. 13].

Về mục tiêu đào tạo của TSQLQ1 đã được xác định :

Đào tạo quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng, thanh niên có

đủ tiêu chuẩn theo quy định của BQP trở thành Sĩ quan Chỉ huy - Tham

mưu Lục quân cấp phân đội trình độ đại học; có phẩm chất chính trị đạo

đức tốt; có trình độ năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành và

huấn luyện bộ đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Học viên tốt nghiệp được cấp bằng Chỉ huy - Tham mưu Lục quân; đảm

nhiệm chức vụ ban đầu là trung đội trưởng và tương đương, phát triển

đến tiểu đoàn trưởng, có tiềm năng phát triển lâu dài [19].

Hiện nay, nhiệm vụ của Nhà trường tập trung: đào tạo sĩ quan chỉ huy -

Tham mưu Lục quân trình độ đại học; đào tạo hoàn thiện đại học; đào tạo trình độ

thạc sĩ ngành Nghệ thuật quân sự; đào tạo giảng viên quân sự; đào tạo cao đẳng, đại

học Công an; đào tạo đại học giáo viên giáo dục quốc phòng an ninh; đào tạo học

viên ngành quân sự cơ sở với các trình độ đại học, cao đẳng và liên thông đại học

tại các trường quân sự quân khu phía Bắc và Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội; bồi dưỡng

học viên cử tuyển và đào tạo năm thứ nhất cho 11 học viện, nhà trường khu vực

phía Bắc; đào tạo sĩ quan cho QĐND Lào và nhiều đối tượng khác.

- Danh hiệu và phần thưởng cao quý

Trải qua 75 năm đào tạo, xây dựng, chiến đấu và phát triển, với vị thế của

một nhà trường cách mạng chính quy đầu tiên của QĐND Việt Nam, TSQLQ1 đã

vinh dự là NTQĐ đầu tiên được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý

62

“Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân” (1985) và trao tặng nhiều huân chương

cao quý như: 3 Huân chương Hồ Chí Minh; 5 Huân chương Quân công; 7 Huân

chương Chiến công; 3 Huân chương Lao động; 1 Huân chương Tự Do và 2 Huân

chương Itxala của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nhiều phần thưởng cao

quý khác [136 tr.145].

- Thành tích trong đào tạo và bồi dưỡng

Trải qua 75 năm, Nhà trường đã đào tạo được 87 khóa học sĩ quan, trong đó

83 khóa đã tốt nghiệp ra trường với trên 10 vạn cán bộ, chất lượng đào tạo không

ngừng được nâng lên; đào tạo thạc sĩ nghệ thuật quân sự được 8 khóa, trong đó 6

khóa đã tốt nghiệp ra trường. Cán bộ ra trường đều thực hiện tốt chức trách, nhiệm

vụ, phát huy tốt phẩm chất, năng lực trong chỉ huy chiến đấu và huấn luyện, quản lý

bộ đội, đáp ứng kịp thời nguồn cán bộ chỉ huy cho các đơn vị. Những cán bộ do

Nhà trường đào tạo đã trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng các học viện, nhà

trường trong toàn quân.

Thực hiện nhiệm vụ quốc tế, Nhà trường đã đào tạo được hơn 4 nghìn cán

bộ, giáo viên quân sự cho 14 quốc gia; cử hàng trăm lượt cán bộ giảng viên đi

chuyên gia và làm nhiệm vụ quốc tế; đón tiếp nhiều đoàn đại biểu quân sự các nước

đến thăm, trao đổi, học tập kinh nghiệm, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối

ngoại của Đảng, Nhà nước.

- Thành tích trong nghiên cứu khoa học

Cùng với nhiệm vụ đào tạo cán bộ, Nhà trường còn là một trung tâm nghiên

cứu khoa học nghệ thuật quân sự, tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, biên soạn tài

liệu, giáo trình kỹ thuật, chiến thuật và điều lệnh chiến đấu cho toàn quân. Đảng ủy,

Ban Giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác

nghiên cứu khoa học, trong đó tập trung nghiên cứu biên sạn giáo trình, tài liệu,

điều lệ chiến đấu và các đề tài khoa học cấp BQP, cấp ngành và cấp Nhà trường.

Các sản phẩm khoa học của Nhà trường đã nghiệm thu có chất lượng tốt và được

ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn huấn luyện và chiến đấu trong toàn quân. Hàng

năm Nhà trường đã tiến hành các cuộc Hội thảo khoa học và cho in ấn hàng chục

sách, kỷ yếu. Tạp chí Khoa học Quân sự Lục quân hàng năm xuất bản 4 kỳ với số

lượng hàng nghìn bản được phát hành trên 45 đầu mối toàn quân, làm cho uy tín

Nhà trường ngày càng được khẳng định.

63

- Giá trị truyền thống tiêu biểu và triển vọng phát triển trong tương lai

Trải qua 75 năm xây dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng thành, TSQLQ1 đã

luôn giữ vững và không ngừng phát huy những truyền thống tốt đẹp “Trung với Nước,

hiếu với Dân” mà Bác Hồ đã trao tặng cho Nhà trường ngày 26 tháng 5 năm 1946. Qua

quá trình xây dựng và đào tạo cán bộ, truyền thống “Trung với Nước, hiếu với Dân” đã

được phát triển thành “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết thắng” và được biểu

hiện thành: “Dạy tốt, học tốt, công tác tốt, nhà trường gắn liền với đơn vị, với chiến

trường; “học phải đi đôi với hành, học để mà hành, hành để mà học, có học hành mới

tiến bộ” như Bác Hồ đã dạy. Đoàn kết, kỷ luật, chính quy; tự lực, tự cường, chủ động,

sáng tạo xây dựng Nhà trường phát triển toàn diện” [136, tr. 13].

Trong những năm tới, mục tiêu tổng quát của Nhà trường là quán triệt sâu

sắc đường lối đổi mới của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của QUTW và BQP; phát huy

truyền thống Nhà trường anh hùng, tập trung đổi mới mạnh mẽ quy trình, chương

trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”, sát

thực tế chiến đấu và sự phát triển của quân đội; phát huy tính tích cực, chủ động,

sáng tạo của người học; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện

đại; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, xây

dựng đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán

bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trình độ học vấn ngày càng cao,

xây dựng Nhà trường chính quy, mẫu mực về mọi mặt, theo định hướng nhà trường

thông minh, xứng đáng là trường điểm của Bộ Quốc phòng.

2.3.3.3.Tính đặc thù trong cơ cấu tổ chức, biên chế và hoạt động đào tạo

Trường Sĩ quan Lục quân 1 có cơ cấu tổ chức hoàn thiện, đảm bảo đúng quy

định và phù hợp với sứ mạng và mục tiêu giáo dục. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của

Nhà trường bao gồm: Ban Giám hiệu, trong đó có Hiệu trưởng, Chính ủy, các Phó

Hiệu trưởng, Phó Chính ủy; 9 cơ quan chức năng, gồm 1 Văn phòng, 5 phòng và 3

ban trực thuộc; 14 khoa giảng viên; 21 hệ, tiểu đoàn quản lý học viên và 1 tiểu đoàn

phục vụ huấn luyện và có 1 Trung tâm Mô phỏng huấn luyện kỹ, chiến thuật. Về tổ

chức đảng, Nhà trường được tổ chức thành một đảng bộ trực thuộc QUTW và các

đảng bộ, chi bộ trực thuộc Đảng ủy Nhà trường; ngoài ra Nhà trường còn có các tổ

chức quần chúng như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ được tổ chức ở cấp cơ

sở trực thuộc Nhà trường.

64

Như vậy, tính đặc thù của TSQLQ1 thể hiện ở cách thức tổ chức các đơn vị

quản lý học viên là vừa có các hệ quản lý học viên là cán bộ vừa có các tiểu đoàn

quản lý học viên đào tạo sỹ quan. Nếu các học viện có biên chế Viện nghiên cứu thì

ở TSQLQ1 không có mà lại được biên chế 1 Trung tâm Mô phỏng nhằm huấn luyện

cho học viên đào tạo sỹ quan về kỹ thuật, chiến thuật bộ binh ở cấp phân đội. Các

hoạt động đào tạo TSQLQ1 thiên về dạy nghề (coi trọng huấn luyện thực hành) với

yêu cầu về kiến thức, kỹ năng ở cấp phân đội. Vì vậy, môi trường đào tạo diễn ra

trên thao trường chiếm khối lượng lớn hơn so với các hoạt động trên giảng đường

và thư viện.

Tiểu kết chương 2

Nói tới văn hóa là nói tới con người, con người vừa là chủ thể nhưng cũng

vừa là sản phẩm của văn hóa. Với tính cách là một thành tố của văn hóa, VHCT có

vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều chỉnh đối với thái độ và hành vi

chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng. Sự thực hành VHCT và quan niệm về

VHCT đã có từ rất sớm ở cả phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, khái niệm

VHCT chỉ thực sự gia nhập vào hệ thống với tư cách là một thuật ngữ khoa học vào

giữa thế kỷ XX ở phương Tây, cho đến nay VHCT đã được tiếp cận nghiên cứu từ

nhiều góc độ và đã khẳng định được vai trò trong tiến trình phát triển của mỗi cộng

đồng, quốc gia - dân tộc.

Trong tình hình hiện nay, cũng như khái niệm văn hóa, khái niệm VHCT cũng

như, đặc trưng, cấu trúc VHCT vẫn còn chưa thực sự thống nhất. Xuất phát từ nhận

thức, về mặt lý luận, nghiên cứu VHCT từ góc độ văn hóa học phải xuất phát từ

các khái niệm mang tính công cụ là khái niệm “văn hóa”, khái niệm “chính trị” và

đây chính là cơ sở lý luận trực tiếp góp phần hình thành quan niệm VHCT của tác

giả luận án. Từ góc độ văn hóa học, trên cơ sở tiếp cận cấu trúc văn hóa, chúng tôi

quan niệm,VHCT là một thành tố của văn hóa xã hội, trong đó chứa đựng những

thang bậc giá trị do các chủ thể sáng tạo ra trong thực tiễn hoạt động chính trị có

vai trò quan trọng trong việc tổ chức và quản lý để tạo nên sức mạnh chung của

cộng đồng.

Về mặt cấu trúc, VHCT được tiếp cận trên bốn thành tố chủ yếu: chủ thể VHCT;

thang bậc giá trị VHCT; thể chế, thiết chế VHCT và hoạt động văn hóa chính trị.

65

Là một bộ phận của văn hóa xã hội, VHCT có đầy đủ các chức năng của văn

hóa, trong đó có những chức năng chủ yếu như: nhận thức, giáo dục, tổ chức, điều

chỉnh và chức năng dự báo, định hướng.

Văn hóa chính trị trong NTQĐ là một bộ phận VHCT của QĐND Việt Nam,

mang những nét đặc trưng riêng của VHCT trong môi trường sư phạm quân sự. Vì

vậy, VHCT trong NTQĐ cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung, những

quan hệ đặc trưng trong quá trình phát triển văn hoá, đồng thời chịu sự chi phối, tác

động bởi những hoạt động mang tính đặc thù của môi trường sư phạm quân sự.

Trong hệ thống NTQĐ, chúng tôi lựa chọn hai nhà trường: HVCT và

TSQLQ1 để khảo sát xuất phát từ lý do chủ yếu sau:

Thứ nhất, TSQLQ1 là nhà trường đầu tiên của quân đội; về cấp đào tạo là

trường sĩ quan cấp phân đội; về loại hình đào tạo là cán bộ chỉ huy tham mưu Lục

quân và mang tính điển hình cho nhóm trường quân sự.

Thứ hai, HVCT là một trong những trường quân đội được thành lập sớm

(tháng 7 năm 1951); về cấp đào tạo là học viện; về loại hình đào tạo là cán bộ chính

trị cấp trung đoàn, sư đoàn và mang tính điển hình cho nhóm trường chính trị.

66

Chương 3

THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

3.1.1. Chủ thể văn hóa chính trị

Xuất phát từ tính chủ thể của văn hóa, VHCT trong NTQĐ được hiện diện

với tính cách văn hóa cá nhân của người quân nhân ở môi trường sư phạm quân

sự. Trong thực tế, chủ thể VHCT trong NTQĐ bao gồm từ lãnh đạo, chỉ huy đến

nhân viên và chiến sĩ. Trong khuôn khổ luận án chỉ tập trung vào ba đối tượng

chính: lãnh đạo, chỉ huy; giảng viên và học viên với các nhân tố phẩm chất chính

trị (yếu tố bên trong); hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài) và lý

tưởng, niềm tin chính trị (yếu tố bên trên) [Phụ lục 5, Bảng 5].

3.1.1.1. Đối với lãnh đạo, chỉ huy

Với ý nghĩa động từ, “lãnh đạo” được hiểu là “đề ra chủ trương, đường lối và

tổ chức, động viên thực hiện”, với ý nghĩa danh từ, “lãnh đạo”, được hiểu là “cơ

quan hoặc người lãnh đạo với người được lãnh đạo” [155, tr.544]. “Chỉ huy” là

“điều khiển sự hoạt động của một lực lượng, một tập thể có tổ chức” và với ý nghĩa

danh từ là “người chỉ huy” [155, tr.153]. Thuật ngữ lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ

là cách gọi chung nhằm chỉ những cán bộ được giao giữ các chức vụ lãnh đạo, quản

lý và chỉ huy các cấp, trong đó bao gồm Giám đốc hoặc Hiệu trưởng, Chính ủy và

cán bộ chỉ huy các cơ quan, khoa, đơn vị trong NTQĐ và còn được gọi là cán bộ

chủ trì, chủ chốt. Phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy được xét trong luận án

bao gồm các yếu tố: nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính trị.

- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)

Xét dưới góc độ lý luận về VHCT, nhân cách chính trị của chủ thể trong

NTQĐ chịu sự chi phối của nhân cách cá nhân lãnh đạo, chỉ huy. Bởi vì, lãnh đạo,

chỉ huy có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách

của các quân nhân, đặc biệt là học viên. Trong NTQĐ, cán bộ chủ trì, chủ chốt các

cấp không chỉ là người lãnh đạo, chỉ huy thuần túy mà còn giữ vai trò là nhà khoa

học, nhà giáo dục, người hướng dẫn thực hành các hoạt động sư phạm quân sự và là

67

người đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ trong mọi tình huống, điều này tạo

nên nét đặc thù riêng có của VHCT trong nhà trường quân đội.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của lãnh đạo, chỉ huy các cấp đối với mọi hoạt

động cũng như chất lượng và hiệu quả công tác của các cơ quan, khoa, đơn vị, cấp

ủy các cấp trong NTQĐ đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng nâng

cao năng lực toàn diện, trong đó tập trung xây dựng phẩm chất chính trị, củng cố

niềm tin, tạo chỗ dựa vững chắc cho tất cả cá nhân và tổ chức.

Tại TSQLQ1, khi xây dựng tiêu chí thực hiện việc học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng ủy Nhà trường đã xác định, đối với

cán bộ chủ trì, ngoài tiêu chí chung của đảng viên, còn phải chấp hành và thực hiện

nghiêm các quy định bắt buộc:

Có bản lĩnh chính trị thực sự vững vàng; có năng lực, uy tín, tập hợp

và điều hành cơ quan, khoa, đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

chính trị…quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ có

năng lực; cất nhắc, bố trí sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc; phát

huy dân chủ, trí tuệ tập thể, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong

cơ quan đơn vị [146, tr.4].

Trong báo cáo kết quả thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nghị quyết của Đảng, chỉ thị của

QUTW và BQP gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống cống hiến

tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, Đảng ủy Nhà trường đã đánh giá: “Nhà trường

đã phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ

chủ trì, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan khoa, đơn vị… thực sự là tấm gương, là

khuôn mẫu, hình ảnh đẹp cho học viên, quần chúng noi theo” [37, tr.5].

Phẩm chất chính trị của lãnh đạo chỉ huy là một trong những nhân tố trực

tiếp quyết định tạo ra sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của quân đội. Hiện nay, nhận

thức, tình cảm và ý chí chính trị của lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ đã có sự chuyển

biến, tiến bộ và tương đối toàn diện, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

68

Biểu đồ 3.1: Đánh giá về phẩm chất chính trị của lãnh đạo, chỉ huy (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Biểu đồ 3.1 của luận án cho thấy, khi đánh giá về phẩm chất chính trị của

lãnh đạo, chỉ huy theo ba yếu tố: nhận thức, tình cảm và ý chí cho thấy, số người

nhận định tốt trở lên chiếm tỷ lệ khá cao. Cụ thể: đối với nhân tố nhận thức chiếm

tỷ lệ 78,0%, nhân tố tình cảm là 72,6%, nhân tố ý chí là 69,7%, mức ý nghĩa thống

kê p < 0,05. Hầu hết lãnh đạo, chỉ huy có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhận thức

sâu sắc về lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan

điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: “Cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của

Nhà trường có trình độ lý luận, trình độ quản lý, năng lực thực tiễn, có kiến thức toàn

diện, có phương pháp, tác phong làm việc khoa học, sâu sát”. [Phỏng vấn sâu, nam, 46

tuổi, Thượng tá, Phó trưởng ban, TSQLQ1].

Mặc dù vậy, số người nhận định bình thường và không tốt cũng còn chiếm

tỷ lệ không nhỏ, 22% ở yếu tố nhận thức, 27,4% ở yếu tố tình cảm và 30,3% ở

biến ý chí, mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Điều này cho thấy, vẫn còn một số lãnh

đạo, chỉ huy trong NTQĐ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về phẩm chất chính trị,

cũng như cần nâng cao hơn nữa nhận thức, tình cảm và ý chí của bản thân trong

môi trường quân đội.

Trước những yêu cầu phát triển của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng quân đội

trong thời kỳ mới, vẫn còn một số lãnh đạo, chỉ huy bộc lộ những hạn chế nhất định

về trình độ, phương pháp, ý chí và tình cảm chính trị, ảnh hưởng đến uy tín của

quân đội và yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ: “Năng lực lãnh đạo của một số

69

chỉ huy đơn vị chưa ngang tầm nhiệm vụ, tác phong, phương pháp ứng xử, giải

quyết những vấn đề nảy sinh trong công tác, sinh hoạt và đời sống hàng ngày còn

hạn chế, chưa đúng điều lệnh, điều lệ quân đội [Phỏng vấn sâu, nam, 40 tuổi, Thiếu

tá, Chủ nhiệm bộ môn, HVCT].

Đánh giá về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục khoa học xã hội

và nhân văn; phổ biến giáo dục pháp luật và công tác cán bộ tại TSQLQ1, Đoàn

kiểm tra Bộ Tổng Tham mưu, đã chỉ ra những hạn chế:

Nắm, quản lý tư tưởng có thời điểm chưa thật hiệu quả; cán bộ, học

viên còn vi phạm kỷ luật phải xử lý… công tác tạo nguồn cán bộ đi

đào tạo sau đại học có thời điểm chưa được quan tâm đúng mức, chất

lượng đội ngũ cán bộ… còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ [22, tr.7].

- Hành vi hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)

Thái độ, năng lực và hành vi chính trị của lãnh đạo, chỉ huy có vị trí, vai trò

quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ. Trước hết, nó là nhân tố cơ bản quyết định chất

lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của nhà trường và bản thân mỗi cá nhân. Số

liệu bảng 3.1 cho thấy, đối với yếu tố thái độ chính trị, số người nhận định tốt và rất

tốt chiếm tỷ lệ 82,7%, số người nhận định là bình thường và không tốt là 17,3%.

Tương tự đối với yếu tố năng lực chính trị cũng cho kết quả ở mức độ tốt trở lên

chiếm tỷ lệ 89,7% và bình thường trở xuống là 10,3%, mức ý nghĩa thống kê p <

0,05. Điều này cho thấy mặc dù trên tổng thể khi đánh giá về thái độ và năng lực

chính trị của lãnh đạo, chỉ huy đạt ở mức khá cao, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận có

thái độ, năng lực chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn theo chức trách, nhiệm vụ.

Bảng 3.1. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của lãnh đạo, chỉ huy (%)

Bình Yếu tố Rất tốt Tốt Không tốt Tổng thường

15 2,3 Thái độ chính trị 26,3 56,4 100

8,3 2,0 Năng lực chính trị 28,7 61,0 100

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Hiện nay trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, để quân đội

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy phải có thái độ, năng lực

và hành vi tham gia các hoạt động chính trị, nhận diện những vấn đề cốt lõi và vận

dụng sáng tạo trong thực tiễn: “Trong bối cảnh hiện nay, cán bộ chủ trì các cấp phải

70

luôn đề cao cảnh giác và đấu tranh với mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch, muốn

vậy, cần phải có thái độ chính trị đúng, có năng lực và hành vi chính trị thực hiện tốt

mọi nhiệm vụ”. [Phỏng vấn sâu, nam, 53 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, HVCT].

Sức mạnh tổng hợp của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố

con người là quyết định nhất, đây thực chất là quán triệt tư tưởng “người trước súng

sau” của Hồ Chủ Tịch. Trước yêu cầu xây dựng quân đội và sự phát triển mạnh mẽ

của khoa học kỹ thuật quân sự, của vũ khí công nghệ cao, yếu tố con người ngày

càng giữ vai trò quyết định. Chủ thể VHCT trong NTQĐ, đặc biệt là cán bộ chủ trì

phải có thái độ, năng lực và hành vi tham gia hoạt động chính trị tốt mới có đủ khả

năng triển khai, thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả trong

thực hiện nhiệm vụ: “Mỗi cán bộ chủ trì cần nỗ lực để nâng cao trình độ, năng lực chỉ

huy, nâng cao chất lượng huấn luyện, bám sát tình hình thực tế để có thể xử lý kịp

thời và thắng lợi trong mọi tình huống”. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chủ

nhiệm khoa, TSQLQ1].

Tuy nhiên, trong thực tế tại NTQĐ, cán bộ chủ trì các cấp vẫn còn có những

hạn chế nhất định, biểu hiện: “Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ có lúc, có việc

chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của cơ quan trong hướng dẫn, kiểm tra đơn vị

cơ sở; còn có cán bộ cấp dưới trực tiếp vi phạm phải xử lý kỷ luật; mất an toàn

trong huấn luyện tập bơi ngoại khóa; một số dự án công trình xây dựng cơ bản chưa

quyết toán kịp thời” [20, tr.3].

Vì vậy, để hình thành thái độ đúng đắn và nâng cao năng lực toàn diện cho

lãnh đạo, chỉ huy, đặc biệt là năng lực, hành vi hoạt động chính trị, cần phải thường

xuyên đề cao cảnh giác, nhận thức rõ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của

các thế lực thù địch. Từ đó, xác định được nội dung, biện pháp để tuyên truyền, chủ

động phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội nói

chung và NTQĐ nói riêng.

- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)

Lý tưởng và niềm tin chính trị, xét về thực chất là một trong những vấn đề

thuộc về hệ tư tưởng của ĐCSVN, vì vậy, lý tưởng của lãnh đạo, chỉ huy là lý tưởng

của Đảng thể hiện đậm nét ở “Mười lời thề danh dự của quân nhân”. Qua kết quả

khảo sát cho thấy, tỷ lệ nhận định về ba yếu tố: lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

71

đều được đánh giá ở mức độ tốt trung bình là 61, 8%, rất tốt 12,1%. Tỷ lệ phần trăm

nhận định ở mức bình thường và không tốt chiếm trung bình 7,7%, mức ý nghĩa

thống kê p <0,05 cho thấy các biến số có mối tương quan chặt chẽ với nhau.

Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của lãnh đạo, chỉ huy (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ về cơ bản có lý tưởng cao đẹp và trong sáng,

điều đó giúp tạo dựng uy tín cho cán bộ: “Năng lực của người lãnh đạo là yếu tố

then chốt tác động đến sự thành công hay thất bại của tổ chức. Tuy nhiên, không

phải cán bộ nào cũng có khả năng làm được điều đó”. [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi,

Thượng tá, Trưởng Ban Cán hộ, Trường SQLQ1].

Lý tưởng, niềm tin của lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ còn được biểu hiện ở

khả năng lôi cuốn, truyền cảm hứng, biết quan tâm chia sẻ đối với cán bộ thuộc

quyền: “Cán bộ chủ trì, phải có khả năng truyền cảm hứng đến mọi quân nhân, tạo

ra được hứng thú trong việc thực hiện tầm nhìn của lãnh đạo. [Phỏng vấn sâu, nam,

53 tuổi, Đại tá, giảng viên, HVCT].

Một lãnh đạo, chỉ huy giỏi là người có nhiệt huyết và có khả năng lan tỏa tới

những người xung quanh, luôn đưa ra định hướng chiến lược, nhưng quan trọng

hơn họ có tài thuyết phục khiến cho mọi người làm việc hết mình vì mục tiêu chung

72

của đơn vị; lãnh đạo giỏi thường dùng biện pháp thuyết phục người khác thay vì

cưỡng ép hoặc kiểm soát. Đặc biệt là luôn biết lắng nghe và chia sẻ với cấp dưới,

khi có vấn đề khó khăn phải đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể để từ đó có hướng giải

quyết phù hợp.

3.1.1.2. Đối với giảng viên

- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)

Giảng viên là “tên gọi chung người làm công tác giảng dạy ở các trường chuyên

nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện các trường trên bậc phổ thông” [155, tr.391]. Giảng

viên trong NTQĐ là những sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng

làm nhiệm vụ giảng dạy, huấn luyện trong các học viện và trường sĩ quan.

Kết quả phân tích của luận án cho thấy, đối với giảng viên trong NTQĐ, nhận

thức chính trị là một yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng,

hiệu quả trong đào tạo. Số người nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ trung bình 73,8%.

Cụ thể: đối với nhân tố nhận thức chiếm tỷ lệ 70,6%, nhân tố tình cảm là 70,0%, nhân

tố ý chí là 78,7%. Số người nhận định bình thường và không tốt cũng còn chiếm tỷ lệ

không nhỏ, 27,4% ở yếu tố nhận thức, 30,0% ở yếu tố tình cảm và 21,3% ở biến ý chí,

mức ý nghĩa thống kê p < 0,05. Điều này chứng tỏ, vẫn còn một số giảng viên vẫn chưa

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác.

Biểu đồ 3.3: Đánh giá về phẩm chất chính trị của giảng viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Trước yêu cầu đổi mới giáo dục, đòi hỏi giảng viên phải có phẩm chất chính

trị tốt, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, hiểu rõ đối tượng người học, phải có nhận thức

73

đúng trong việc đánh giá các nhu cầu của học viên: “Nhận thức chính trị của đội

ngũ giảng viên có vai trò quan trọng và cần thiết trong môi trường quân đội, điều

này đòi hỏi các giảng viên phải am hiểu sâu sắc về đối tượng người học, nhằm giúp

định hướng những nội dung, phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với từng đối

tượng” [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chính trị viên hệ, HVCT].

Trước thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo quan

điểm Đảng và nhiệm vụ đào tạo đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân

đội, đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đội ngũ giảng viên trong

NTQĐ cả về phẩm chất chính trị, năng lực thực tiễn và đạo đức nghề nghiệp.

- Hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)

Thái độ, năng lực và hành vi tham gia các hoạt động chính trị là những yếu

tố có vai trò quan trọng và có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời đối với chủ

thể làm công tác giảng dạy trong NTQĐ, đó là các giảng viên. Xuất phát từ tính đặc

thù của NTQĐ, giảng viên là những người trực tiếp giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ

đang sung sức, nhiệt huyết và sáng tạo, các học viên luôn mong muốn ở người

giảng viên sự tâm huyết, trách nhiệm và nền tảng tri thức vững chắc.

Bảng 3.2. Nhận định về thái độ và năng lực chính trị của giảng viên (%)

Yếu tố Rất tốt Bình thường Không tốt Tổng Tốt

Thái độ chính trị 18,3 9,7 3,7 68,3 100

Năng lực chính trị 25 13 5,7 56,3 100

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Số liệu bảng 3.2 cho thấy, đối với yếu tố thái độ chính trị của giảng viên số

người nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ 86,6%, số người nhận định là bình thường và

không tốt là 13,4%. Tương tự đối với yếu tố năng lực chính trị cũng cho kết quả ở mức

độ tốt trở lên chiếm tỷ lệ 81,3% và bình thường trở xuống là 18,7%, mức ý nghĩa thống

kê p < 0,05. Tỷ lệ nhận định về năng lực chính trị không tốt và bình thường còn ở mức

cao 18,7% điều này cho thấy hiện nay đội ngũ giảng viên chất lượng cao vẫn chưa đủ

để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đào tạo trong giai đoạn mới.

Về phương pháp giảng dạy, vẫn còn có giảng viên thiếu cập nhật, chậm đổi

mới, lệ thuộc vào phương pháp truyền thống, thuyết trình là chủ yếu; số giảng viên có

74

khả năng sử dụng hiệu quả phương tiện dạy học hiện đại còn chưa nhiều; các hoạt động

chuyên môn nặng về hình thức:

Thông qua bài giảng của một số khoa chất lượng còn thấp, phê duyệt

chưa đúng quy định; sổ theo dõi hoạt động phương pháp ghi chưa thống

nhất. Tổ chức, phương pháp huấn luyện của một số giảng viên chưa sát

thực tế huấn luyện đơn vị… một số giảng viên vận dụng phương pháp

lên lớp, luyện tập chưa linh hoạt, rèn luyện kỹ năng thực hành của học

viên có nội dung chưa cụ thể [20, tr.4]

Trong NTQĐ, số giảng viên lâu năm có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm

nhưng chưa đủ khả năng gây ảnh hưởng tích cực làm chuyển biến đội ngũ giảng viên

trẻ; số lượng giảng viên trải qua chiến đấu và phục vụ chiến đấu ngày càng giảm, điều

này cũng có ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ giảng viên trong NTQĐ. Theo báo

cáo, hiện nay số lượng và chất lượng cán bộ của TSQLQ1 là 1371/819 (167,3%);

PGS: 04 đ/c (0,29%); trình độ sau Đại học: 562/1371 đ/c (40,74%); TS: 39 đ/c

(2,84%), Ths, CKI: 520 đ/c (37,87%; Đại học 811 đ/c (50,07%); chiến đấu 03 đ/c

(0,22%); qua chiến đấu, phục vụ chiến đấu 58 đ/c (4,22%) [22, tr.7]

Thái độ và hành vi thể hiện giá trị đạo đức và là cái gốc của mỗi con người,

dù bất cứ xã hội nào thì thái độ hay giá trị đạo đức cũng cần phải được coi trọng.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường, những giá trị về vật chất đang chiếm ưu thế trong

xã hội, nguy cơ lấn át và đẩy lùi những giá trị về tinh thần: “Vẫn còn có giảng viên

chạy theo thành tích, biểu hiện tiêu cực trong thi cử, gây nhiều phiền toái trong học

viên, làm xuống cấp đạo đức nhà giáo” [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá,

Phòng đào tạo, TSQLQ1].

Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giảng viên trong NTQĐ có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì, cho dù giảng viên có năng lực, trình độ cao về

chuyên môn nghiệp vụ, nhưng hạn chế về phẩm chất đạo đức thì cũng sẽ không đáp

ứng được mục tiêu, yêu cầu xây dựng NTQĐ và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng

xây dựng quân đội nói chung.

- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)

Giảng viên là những người trực tiếp giảng dạy, giáo dục và rèn luyện học

viên, vì vậy, lý tưởng và niềm tin chính trị của giảng viên có ảnh hưởng trực tiếp

đến uy tín chính trị và qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục, đào tạo.

75

Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị

của giảng viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Kết quả khảo sát cho thấy, nhìn chung số người nhận định về lý tưởng, uy tín

và niềm tin đối với giảng viên trong NTQĐ được đánh giá ở mức tốt trở lên chiếm

tỷ lệ trung bình 85,7%. Mặc dù vậy, nếu xét trong từng yếu tố, đánh giá ở mức độ

bình thường của yếu tố uy tín chính trị nhận định ở mức bình thường và không tốt

chiếm tỷ lệ cao hơn so với hai yếu tố còn lại, 19,7% so với 12,7 yếu tố lý tưởng

chính trị và 10% yếu tố niềm tin chính trị (xem bảng 3.6).

Uy tín của giảng viên chủ yếu được xây dựng trên cơ sở hai yếu tố quan trọng

đó là đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Đạo đức trong sáng giúp giảng

viên có thể tạo dựng được uy tín, góp phần tạo nên sức mạnh to lớn; năng lực

của giảng viên không chỉ biểu hiện ở trình độ lý luận, mà còn ở năng lực hoạt

động thực tiễn gắn với chuyên môn nghiệp vụ, đây là yếu tố quyết định trực tiếp

đến chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của các nhà giáo.

Như vậy, vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị có vai trò rất quan trọng

đối với giảng viên trong NTQĐ, lý tưởng, niềm tin chính trị được bộc lộ bằng uy

tín của nhà giáo và có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo

dục đào tạo. Trong công cuộc đổi mới hôm nay và trước yêu cầu nhiệm vụ xây

dựng quân đội thì vấn đề bồi dưỡng lý tưởng, niềm tin chính trị và uy tín chính

trị của cán bộ quân đội nói chung và nhà giáo quân đội nói riêng lại càng có ý

nghĩa hơn.

76

3.1.1.3. Đối với học viên

- Phẩm chất chính trị (yếu tố bên trong)

Kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy có mối quan hệ giữa nhận thức

chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính trị với việc định hướng VHCT trong

NTQĐ hiện nay là cần thiết và giữ vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu

sắc về phẩm chất chính trị của chủ thể, mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.

Biểu đồ 3.5: Đánh giá về phẩm chất chính trị của học viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Tính liên kết giữa ba yếu tố bên trong cho thấy, ý chí chính trị là nhân tố cốt lõi

mang tính quyết định đối với hai yếu tố còn lại và có tác động mạnh đến nhận thức

VHCT trong NTQĐ hiện nay. Kết quả phân tích trong luận án cho thấy số học viên

nhận định cần thiết và rất cần thiết chiếm tỷ lệ 79,7%, trong khi yếu tố nhận thức chính

trị chỉ chiếm 77,3% và tình cảm chính trị chiếm 77,0%. “Quá trình học tập tôi nhận

thấy, các học viên đều xác định đúng đắn nhiệm vụ, ra sức học tập rèn luyện vì ngày

mai lập nghiệp, nhận thức rõ ý thức chính trị, rèn luyện về ý chí chính trị cũng như

tình cảm của cá nhân trong quá trình học tập [Phỏng vấn sâu, nam, 39 tuổi, Thiếu tá,

học viên, HVCT].

Đối với học viên trong NTQĐ, ý chí được thể hiện thông qua các phẩm chất

như: tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính dũng cảm, tính bền bỉ (hay tính

kiên trì), những đức tính cần thiết cho học viên rèn luyện để trở thành những sĩ quan có

bản lĩnh chỉ huy sau khi ra trường. Trong đó, tính mục đích là phẩm chất quan trọng

hàng đầu của ý chí, tính mục đích cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào

mục đích tự giác, là kỹ năng của con người biết đề ra cho hoạt động và cuộc sống của

77

mình những mục đích gần và xa, biết bắt hành vi của mình phục tùng các mục đích ấy

[52, tr. 243], “Chúng tôi rất quan tâm đến tính mục đích trong học tập, bởi nó giúp tạo

ra được chí hướng phấn đấu và rèn luyện để đạt được mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ sau

khi tốt nghiệp”. [Phỏng vấn sâu, nam, 31 tuổi, Đại úy, học viên, Trường SQLQ1].

Qua biểu hiện phẩm chất chính trị của học viên, cho thấy, nếu có động cơ

học tập và rèn luyện đúng đắn, học viên sẽ có nỗ lực lớn để đạt được mục đích đó

và ngược lại, nếu động cơ mới dừng lại ở mức độ nhận thức thì sẽ không có ý chí để

đạt được mục đích đó hoặc chỉ đạt ở mức rất thấp. Kết quả phân tích của luận án

cho thấy, động cơ học tập của học viên trong NTQĐ hiện nay tập trung vào việc

tích lũy tri thức, kỹ năng nhề nghiệp cụ thể, theo yêu cầu của từng chuyên ngành.

Có sự khác biệt trong việc xác định động cơ học tập giữa học viên năm thứ nhất và

học viên năm cuối (chênh lệch 1,378 lần, với mức ý nghĩa thống kê p<0,001) [Phụ

lục 4, Bảng 6]. Sở dĩ có sự khác biệt này là do động cơ học tập năm thứ nhất còn rất

chung chung và mang ý nghĩa lý tưởng nhiều hơn so với học viên năm thứ tư.

Trong khi đó động cơ học tập của học viên năm thứ tư gắn liền với định hướng

nghề nghiệp sau khi ra trường.

Như vậy, động cơ của học viên có vị trí, vai trò quan trọng, là nhân tố thúc

đẩy sự nỗ lực vươn lên trong mỗi quân nhân trước yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, ở

đây chưa có căn cứ để đánh giá về tính có hiệu lực của động cơ học tập, mới chỉ có

căn cứ cho phép kết luận về tính đúng đắn về mặt nội dung của động cơ mà học

viên lựa chọn. Các động cơ học tập xuất phát từ việc phát triển tri thức của bản thân

được đặt lên hàng đầu, các động cơ học tập để được gắn liền với đặc thù quân sự

trong tương lai. Có sự khác biệt giữa học viên năm thứ nhất và năm thứ tư trong

việc xác định các động cơ thúc đẩy mạnh hay yếu đối với việc học tập rèn luyện của

học viên. Như vậy, học viên đã có sự quan tâm và nhận thức khá sâu sắc về phẩm

chất chính trị cần có của một học viên trong NTQĐ (nhận thức chính trị, tình cảm

chính trị, ý chí chính trị), đây là yếu tố bên trong cần thiết để cấu thành nên VHCT

trong NTQĐ hiện nay [Phụ lục 4, Bảng 10].

- Hành vi và hoạt động chính trị (yếu tố bên ngoài)

Một học viên có thái độ, năng lực và hành vi chính trị tốt sẽ luôn chấp hành

tốt đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội,

78

không vi phạm phong cách quân nhân, đó cũng là biểu hiện tích cực trong thái độ

chính trị. Hành vi và hoạt động chính trị của học viên phản ánh tính tích cực chính

trị, khả năng tham gia các hoạt động của học viên và điều đó sẽ mang lại giá trị cốt

lõi của VHCT trong NTQĐ hiện nay [Phụ lục 4, Bảng 11].

Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ nhận định về năng lực tham gia hoạt động chính trị và thái

độ chính trị của học viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Kết quả kiểm định thống kê với hệ số tương quan Pearson và mức ý nghĩa thống

kê p < 0,01 cho thấy, có mối quan hệ giữa thái độ chính trị và năng lực tham gia các

hoạt động chính trị với việc định hướng VHCT trong NTQĐ hiện nay là cần thiết và có

vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu sắc về hành vi và hoạt động chính trị

của bản thân cá nhân [Phụ lục 4, Bảng 11]. “Thái độ, năng lực hành vi hoạt động chính

trị là nhân tố quan trọng trong quá trình rèn luyện của bản thân tôi, hành vi tích cực

đúng đắn sẽ giúp tôi định hướng tốt hơn về nhân cách của bản thân, tham gia tích cực

các hoạt động chính trị” [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi, Trung tá, học viên, HVCT].

Tuy nhiên, số người nhận định bình thường, không cần thiết và rất không cần

thiết cũng chiếm tỷ lệ khá cao, 23,7% đối với năng lực tham gia các hoạt động

chính trị và 22,3% nhận định đối với thái độ chính trị, điều này cho thấy, do ảnh

hưởng mặt trái của cơ chế thị trường nên một số học viên có biểu hiện suy thoái về

tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống: “Do sự tiếp xúc với một số quan điểm, tư

tưởng, lối sống không phù hợp từ bên ngoài, đã có học viên có những suy nghĩ và hành

động sai trái ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường văn hóa sư phạm quân sự”.

[Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá, Trợ lý, TSQLQ1].

79

Năng lực, hành vi tham gia hoạt động chính trị là khả năng có thể hoạt động ở

nội dung liên quan đến việc đóng góp xây dựng đơn vị thông qua các tổ chức chính

trị, đoàn thể quần chúng. Học viên tham gia vào các hoạt động chính trị sẽ là điều

kiện để mỗi cá nhân bộc lộ, phát triển khả năng:“Tôi luôn tham gia tích cực các hoạt

động của đoàn thể trong nhà trường, qua môi trường này, giúp tôi trưởng thành và

tích cực hơn”. [Phỏng vấn sâu, nam, 24 tuổi, trung úy, học viên, TSQLQ1].

- Lý tưởng và niềm tin chính trị (yếu tố bên trên)

Kết quả kiểm định thống kê với hệ số tương quan Pearson và mức ý nghĩa

thống kê p < 0,01 cho thấy có mối quan hệ giữa lý tưởng chính trị, uy tín chính trị

cá nhân, niềm tin chính trị với việc định hướng VHCT trong NTQĐ hiện nay là cần

thiết và có vai trò quan trọng giúp học viên nhận thức sâu sắc về lý tưởng và niềm

tin chính trị của bản thân cá nhân [Phụ lục 4, Bảng 12].

Với yếu tố lý tưởng chính trị, với p<0, 01 cho thấy mối tương quan bền chặt

về việc nhận định sự cần thiết trong định hướng VHCT ở NTQĐ hiện nay với tầm

quan trọng của việc định hướng VHCT. Tương tự, hai yếu tố uy tín chính trị và niềm

tin chính trị cũng cho giá trị kiểm định p<0, 01, điều này chững minh có sự tương quan

logic với nhau về mối quan hệ tương tác giữa lý tưởng và niềm tin chính trị trong việc

định hướng VHCT cho học viên NTQĐ hiện nay. Số liệu của luận án đã chỉ ra, đa

phần người được hỏi đều nhận định tính tích cực và cần thiết của lý tưởng, uy tín và

niềm tin chính trị của học viên trong NTQĐ [Phụ lục 7, Bảng 12].

Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ nhận định về lý tưởng, uy tín và niềm tin chính trị của học

viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

80

Kết quả luận án cho thấy, nhìn chung các nhận định tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ

trung bình là 87, 3%. Với kết quả đó, bước đầu cho phép rút ra nhận định, trong

điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, giao lưu quốc tế, rất nhiều ảnh hưởng cả tích

cực và tiêu cực tác động đến học viên, đối tượng rất nhạy cảm với cái mới. Hầu hết

học viên năng động sáng tạo trong tiếp nhận cái mới, tích cực, có bản lĩnh chính trị

vững vàng, có lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, có đạo đức, có lối sống cao đẹp,

có hoài bão, có sức “đề kháng” trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch,

trước tiêu cực và tệ nạn xã hội: “Hiện nay, học viên trong NTQĐ nói chung và

HVCT nói riêng, luôn đề cao lý tưởng và niềm tin chính trị, bởi đây là những yếu tố

then chốt cần có của mỗi quân nhân, nhằm phấn đấu và rèn luyện bản thân trở thành

những quân nhân ưu tú” [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi, Đại tá, giảng viên, HVCT].

Tuy vậy, số còn lại nhận định bình thường và không tốt vẫn còn chiếm tỷ

lệ là 12,7%, nguyên nhân bước đầu được rút ra là do tác động mạnh mẽ của tình

hình thế giới và trong nước, đặc biệt là mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế, một bộ phận học viên tỏ ra dao động, mất phương hướng phấn đấu, xa rời

lý tưởng cao đẹp, suy giảm tình cảm cách mạng, từ đó dẫn đến mơ hồ về chính trị,

lệch lạc trong tư tưởng, lối sống, bị lôi kéo, mua chuộc, vi phạm pháp luật, ảnh

hưởng đến truyền thống tốt đẹp của quân đội: “Vẫn còn một số học viên có thái độ

thờ ơ chính trị, giảm sút niềm tin, chạy theo lợi ích cá nhân, thiếu tinh thần trách

nhiệm trong xây dựng tổ chức, trong tham gia các hoạt động của đơn vị”. [Phỏng

vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, Tiểu đoàn trưởng, TSQLQ1].

Thực tế hiện nay vẫn còn có một số học viên mang tính thụ động, lối sống

thực dụng, ích kỷ, biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, thiếu trách

nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, sống khép mình, nhận thức về xã hội và

chính trị hạn chế, mơ hồ về lý tưởng cách mạng, mắc tệ nạn…ảnh hưởng lớn tới

việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo, tạo cơ hội để các thế lực thù địch

lợi dụng lôi kéo, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta, ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hình ảnh người chiến sĩ QĐND Việt Nam

trong thời đại mới [62].

Đối với NTQĐ, vấn đề xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng lý tưởng niềm

tin cho các chủ thể chính trị là nhiệm vụ quan trọng luôn được đảng ủy, chỉ huy các

81

cấp quan tâm và là một trong những mặt cơ bản của hoạt động công tác đảng, công

tác chính trị. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục chính trị trong NTQĐ vẫn còn có

những hạn chế nhất định, đó là:

Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng có mặt còn dàn trải, chưa đi vào

trọng tâm, trọng điểm, đổi mới về hình thức, phương pháp còn chậm;

công tác quản lý tư tưởng, rèn luyện kỷ luật có đơn vị chưa đạt độ vững

chắc; một số ít cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ động cơ phấn đấu

không thường xuyên, vi phạm kỷ luật phải xử lý [145, tr.9].

Vấn đề lý tưởng và niềm tin chính trị là một trong những khía cạnh chủ yếu

của triết lý chính trị nói riêng, VHCT nói chung. Yêu cầu đặt ra cho các chủ thể

VHCT trong NTQĐ là, một lý tưởng chính trị tiến bộ phải được xây dựng trên cơ sở

của những tri thức và sự hiểu biết chính trị và hệ tư tưởng chính trị hướng tới mục

tiêu dân chủ và nhân văn, là cơ sở tạo ra niềm tin hay sự thuyết phục về chính trị,

giúp xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho các chủ thể chính trị trước những khó

khăn thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Qua khảo sát kết quả kiểm tra nhận thức chính trị trung bình hàng năm trong

giai đoạn 4 năm, từ 2016 - 2019 của HVCT là: 100% đạt yêu cầu, trong đó, tỷ kệ

khá, giỏi, xuất sắc là 93,57% (tỷ lệ giỏi 28,62%); của TSQLQ1 là: 100% đạt yêu

cầu, trong đó, tỷ kệ khá, giỏi, xuất sắc là 96,25% (tỷ lệ giỏi17,5%) và Học viện

Phòng không - Không quân là: 100% đạt yêu cầu, trong đó, tỷ kệ khá, giỏi, xuất sắc

là 85,12% (tỷ lệ giỏi 28,52%) [Phụ lục 8].

Điều đó cho thấy, nhìn chung nhận thức chính trị của khối các trường quân

sự và chính trị (HVCT và TSQLQ1) đồng đều và cao hơn khối trường kỹ thuật

(Học viện Phòng không - Không quân). Trong khi đó, tỷ lệ giỏi và xuất sắc của khối

học viện (HVCT và Học viện Phòng không - Không quân) cao hơn khối trường sỹ

quan (TSQLQ1). Kết quả đó một mặt phản ánh hiệu quả công tác giáo dục chính trị

tư tưởng của NTQĐ, mặt khác cũng thể hiện nét đặc trưng riêng theo mục tiêu, yêu

cầu đào tạo của mỗi trường.

Đối với việc phận loại cán bộ hàng năm, qua báo cáo tổng kết của các học

viện, trường quân đội, cho kết quả như sau:

Học viện Chính trị: 97,65% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không

hoàn thành niệm vụ là 0,68%; Trường Sĩ quan Lục quân 1 có 93,57% hoàn thành tốt

82

và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không hoàn thành niệm vụ là 1.03% và Học viện Phòng

không - Không quân có 95,7% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không

hoàn thành niệm vụ là 0,38% [Phụ lục 8].

Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên:

Học viện Chính trị: 93,4% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không

hoàn thành niệm vụ là 0,78%; Trường Sĩ quan Lục quân 1 có 93,04% hoàn thành tốt

và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không hoàn thành niệm vụ là 0,12% và Học viện Phòng

không - Không quân có 95,7% hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ không

hoàn thành niệm vụ là 0,38% [Phụ lục 8].

Khi so sánh kết quả nhận xét, phân loại cán bộ và đánh giá chất lượng đảng

viên của 3 trường, cho thấy, tỷ lệ hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ của khối học

viện cao hơn khối trường sĩ quan; tỷ lệ không hoàn thành nhiệm vụ (vi phạm kỷ

luật) khối trường sĩ quan cao hơn.

3.1.2. Thang bậc giá trị văn hóa chính trị

3.1.2.1. Triết lý và tư tưởng chính trị

Về nguyên tắc tổ chức, ĐCSVN lãnh đạo QĐND Việt Nam tuyệt đối và trực

tiếp về mọi mặt, VHCT trong NTQĐ với tính cách là hệ giá trị, thể hiện tính định

hướng cao về chính trị tư tưởng, lấy chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh

làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Những nguyên tắc tổ chức

cũng như hoạt động của quân đội đều nhằm cụ thể hóa và thực hiện các quan điểm,

chủ trương của Đảng gắn với sự tôn trọng và đề cao tính khoa học, cụ thể ở đây là

khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam và đây là vấn đề quan trọng trong thang bậc

giá trị VHCT của QĐND Việt Nam. Mọi hoạt động của NTQĐ đều phải tuân thủ

những định hướng chỉ đạo của QUTW và BQP, Tổng cục Chính trị và đặt dưới sự

lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của các đảng ủy NTQĐ và sự chỉ đạo, điều hành của

Ban Giám đốc hoặc Ban Giám hiệu.

Những biểu hiện cụ thể của triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ đó là

sự quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả đường lối xây dựng nền

quốc phòng toàn dân và chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính

quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; những giá trị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ

và hiện đại cũng chính là những giá trị văn hóa, những mục tiêu văn hóa mà NTQĐ

hướng tới. Trong đó, giá trị cách mạng được đặt lên hàng đầu nhằm khẳng định bản

83

chất của QĐND Việt Nam là đội quân cách mạng của giai cấp công nhân, từ Nhân

dân mà ra và vì Nhân dân mà chiến đấu, điều đó mang đậm triết lý và tư tưởng

chính trị của ĐCSVN.

Trên cơ sở mục tiêu yêu cầu đào tạo của NTQĐ, các chủ thể VHCT hướng

tới lý tưởng cao đẹp là được phấn đấu, rèn luyện để trở thành những cán bộ có bản

lĩnh chính trị vững vàng, trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa và với Nhân dân. Điều này được thể hiện rõ nét qua nhận định của

học viên về sự cần thiết của triết lý chính trị trong NTQĐ với 91,0% cho rằng cần

thiết và rất cần thiết [Phụ lục 5, Bảng 6].

Bảng 3.3. Nhận định về triết lý chính trị của học viên (%)

Nhận định Số người Tỉ lệ

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 7 2,3

Bình thường 16 5,3

Cần thiết 229 76,3

Rất cần thiết 44 14,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Ngoài những yếu tố thuộc về định hướng tư tưởng chính trị như mục tiêu, lý

tưởng chiến đấu cao đẹp, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng và tình cảm cao đẹp

làm nên sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam, thì những phẩm chất mang giá

trị như khát vọng không ngừng phấn đấu vươn lên làm chủ khoa học và làm giàu

kinh nghiệm tác chiến trong điều kiện mới cũng là những biểu hiện sinh động mang

tính đặc thù của VHCT trong NTQĐ hiện nay.

Đối với NTQĐ, triết lý và tư tưởng chính trị là nền tảng tư tưởng vững

chắc để mỗi quân nhân có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt,

trình độ năng lực tổ chức chỉ huy và đào tạo, hoàn thành sứ mệnh và mục tiêu

của mỗi trường.

Tại TSQLQ1, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường luôn quan tâm nâng cao

VHCT cho các chủ thể, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị, xây dựng

động cơ, thái độ và trách nhiệm đúng đắn, hình thành xu hướng nghề nghiệp cho

84

các đối tượng phấn đấu học tập, rèn luyện trở thành người sĩ quan quân đội vừa

hồng vừa chuyên, nhờ đó:

Nhận thức tư tưởng, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu cấp ủy,

chỉ huy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng được nâng lên

rõ rệt, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức được giữ vững và tăng cường,

không suy thoái về tư tưởng chính trị; trách nhiệm được đề cao, đoàn kết,

thống nhất được củng cố, dân chủ ngày càng được mở rộng; các nhân tố

tích cực được phát huy; các hiện tượng và hành vi tiêu cực đã được kịp

thời ngăn chặn, tạo chuyển biến tiến bộ toàn diện [36, tr.13, 14].

Trong Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng môi trường

văn hóa ở TSQLQ1 giai đoạn 1992 - 1997 đã nhấn mạnh, kết quả thực hiện cuộc vận

động đã góp phần quan trọng trong định hướng tư tưởng, chính trị và hình thành nhân

cách theo chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới:

Trình độ hiểu biết về lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm tư tưởng của Đảng trong đường lối chính trị, kinh tế, đạo

đức, văn hóa… là khả năng và tinh thần sẵn sàng đón nhận và hoàn thành

mọi nhiệm vụ được giao; là thái độ rõ ràng trước đúng, sai, biết bảo vệ

những giá trị truyền thống, giá trị nhân văn tốt đẹp, đấu tranh với mọi biểu

hiện sai trái, tiêu cực, lạc hậu [133, tr.3].

Đối với HVCT, Đảng ủy và Ban Giám đốc đã thường xuyên quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo quán triệt và cụ thể hóa chủ trương, đường lối Đảng về nhiệm vụ quân

sự, quốc phòng, trong đó đặc biệt chú trọng nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính

trị và đã được nhìn nhận đánh giá trong văn kiện Đại hội Đảng bộ Học viện nhiệm

kỳ 2015 - 2020: “Cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên chiến sĩ của Học viện kiện

định vững vàng về bản lĩnh, có trách nhiệm chính trị cao; nhận thức đúng vai trò, vị

thế của Học viện trong sự nghiệp giáo dục đào tạo quốc gia nói chung, của quân đội

nói riêng” [33, tr.16].

Một trong những ưu điểm của triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ là

trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, tuyệt đại đa số các chủ

thể có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của

Đảng; có nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh với

nhận định chiếm 89,4% số người được hỏi; quán triệt và thực hiện nghiêm chủ

85

trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và

quy định của nhà trường; trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân;

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; có tâm huyết với

nghề nghiệp, có động cơ thái độ đúng đắn trước yêu cầu nhiệm vụ; có phẩm chất

đạo đức tốt, lối sống trong sạch, giản dị, gắn bó máu thịt với Nhân dân, yêu thương

đồng chí, đồng đội, có tinh thần đoàn kết, xây dựng cơ quan, đơn vị; luôn cảnh giác

và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện

“phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch, xứng đáng với niềm tin mà

Đảng và Nhân dân giao phó.

Những ưu điểm về triết lý và tư tưởng chính trị là một trong những điểm

sáng nổi bật trong công tác tư tưởng văn hóa của Đảng trong quân đội nói chung và

NTQĐ nói riêng. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách nghiêm túc và khách quan, vấn đề

thuộc về triết lý và tưởng chính trị trong NTQĐ vẫn tồn những hạn chế như: sự suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; cá nhân chủ nghĩa; quan liêu, tham

nhũng; nói nhiều làm ít; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Hiện nay vẫn còn một bộ phận cán bộ và học viên có những biểu hiện

suy thoái về đạo đức lối sống, nói nhiều hơn làm việc thực tế, khiến công

việc kém hiệu quả. Một số có những biểu hiện nhũng nhiễu, cửa quyền,

ảnh hưởng đến sự đoàn kết trong đơn vị [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi,

Trung tá, học viên, HVCT].

Đối với NTQĐ những tiêu cực, hạn chế về mặt triết lý và tư tưởng chính

trị được biểu hiện trước hết ở tâm lý lười học tập chính trị của các chủ thể chính trị,

bàng quan, không kịp thời cập nhật những quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật Nhà nước; nhận thức của các chủ thể chưa thật đầy đủ và thiếu sâu

sắc về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới; chưa thực sự

tin tưởng vào sức mạnh chiến đấu của quân đội… ở một số ít cấp ủy cơ sở chưa

thực sự quan tâm giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị cho quân nhân dẫn đến hiệu

quả giáo dục chính trị thấp: “Những hạn chế về triết lý và tư tưởng chính trị là do cả

yếu tố khách quan và chủ quan của các chủ thể chính trị, tuy nhiên, nhìn nhận và

đánh giá một cách sâu sắc thì yếu tố chủ quan vẫn là chính” [Phỏng vấn sâu, nam,

51 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].

Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên được chỉ ra là:

86

Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng có mặt còn dàn trải, chưa đi vào

trọng tâm, trọng điểm, đổi mới về hình thức, phương pháp còn chậm;

công tác quản lý tư tưởng, rèn luyện kỷ luật có đơn vị chưa đạt độ vững

chắc; một số ít cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ động cơ phấn đấu

không thường xuyên, vi phạm kỷ luật phải xử lý [145, tr.9].

Thực trạng triết lý và tư tưởng chính trị trong NTQĐ hiện nay có hai mặt,

biểu hiện tích cực và biểu hiện tiêu cực. Các biểu hiện tích cực có tác dụng trong

việc củng cố và nâng cao tri thức và trình độ chính trị cho các chủ thể, góp phần xây

dựng và hoàn thiện nhân cách quân nhân. Ngược lại, các biểu hiện tiêu cực là lực

cản, tác động xấu đến chất lượng, hiệu quả các hoạt động của NTQĐ, ảnh hưởng

tiêu cực đến quân nhân, đến môi trường văn hóa sư phạm quân sự, làm phai nhạt lý

tưởng và xói mòn niềm tin và nghiêm trọng hơn đó còn là nguy cơ ảnh hưởng trực

tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.

3.1.2.2. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị

Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị của quân đội nói chung và NTQĐ nói

riêng là sự kết tinh những giá trị văn hóa, bao gồm: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ

và hiện đại, thể hiện định hướng chính trị quan trọng đồng thời là những vấn đề có

tính nguyên tắc trong xây dựng, tổ chức và trong quan hệ, ứng xử của QĐND Việt

Nam anh hùng.

Đối với NTQĐ, là đơn vị quân đội, sự hiện diện khuôn mẫu, chuẩn mực

chính trị được biểu hiện ở các quan điểm, phương châm, nguyên tắc mang tính đặc

thù sư phạm như: các quy định trong “Điều lệ công tác nhà trường QĐND Việt

Nam”; các định hướng: “3 quan điểm”, “8 nguyên tắc”, “6 mối kết hợp” trong huấn

luyện được quy định trong văn bản của Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam.

Tại các NTQĐ, tính chính quy trong mọi hoạt động luôn được đề cao, thực

hiện nghiêm tinh thần Nghị quyết số 93 của Đảng ủy quân sự Trung ương (nay là

QUTW): “làm mẫu và đi trước đơn vị” [41]. Các quy định trong “Điều lệnh quản lý

bộ đội”; “Điều lệnh đội ngũ” là những chuẩn mực, khuôn mẫu điển hình trong

quan hệ, ứng xử của quân nhân đồng thời phản ánh VHCT trong môi trường sư

phạm quân sự. Ngoài ra, những tiêu ngữ, khẩu hiệu hay tên gọi các cuộc vận động,

phong trào cũng phản ánh đậm nét những khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị như: “Nhà

trường gắn liền với chiến trường”; “Lấy nhà trường làm trận tuyến chống Mỹ cứu

87

nước, dồn hết sức mạnh vào nhiệm vụ đào tạo cán bộ với chất lượng cao nhất để cung

cấp cho tiền tuyến”; “Coi mỗi khóa học như một chiến dịch, mỗi khoa mục như một

trận chiến đấu” [138]; “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; “Vượt

nắng thắng mưa, say sưa luyện tập”… để từ đó tạo dựng nên một truyền thống vẻ

vang của QĐND Việt Nam anh hùng là “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết

thắng”, góp phần tôn vinh và đề cao hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.

Qua đây có thể nhận thấy, yếu tố chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị có một vai

trò rất quan trọng trong định hướng VHCT trong NTQĐ, mọi hoạt động đều được

dựa trên nguyên tắc, kỷ luật để điều hành, quản lý. Đa số học viên trong hai đơn vị

được khảo sát đều đánh giá tầm quan trọng với tỷ lệ 91,4% [Phụ lục 5, Bảng 6].

Bảng 3.4. Nhận định về chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của học viên(%)

Nhận định Số người Tỉ lệ

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 5 1,7

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 233 77,7

Rất cần thiết 41 13,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

“Trong môi trường quân đội những chuẩn mực và khuôn mẫu là những giá

trị văn hóa điển hình cần được thực hiện một cách nghiêm túc, coi trọng và đề cao

sự gương mẫu, tự giác trong chấp hành và thực hiện”. [Phỏng vấn sâu, nam, 24 tuổi,

Trung úy, học viên, TSQLQ1].

Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Bác Hồ, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của Nhân dân các địa phương nơi đóng

quân, NTQĐ đã không ngừng phát huy bản chất tốt đẹp và truyền thống của QĐND

Việt Nam anh hùng. Các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị không chỉ là những giá trị

văn hóa được chia sẻ mà còn là định hướng chính trị giúp các chủ thể hoàn thành

thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo,

3.1.2.3. Di sản và truyền thống chính trị

Cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội, những di sản và truyền

thống cao đẹp trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành đã luôn được

88

NTQĐ nói chung cũng như HVCT và TSQLQ1 nói riêng phát huy một cách hiệu

quả trong điều kiện mới.

Đối với TSQLQ1, những chiến công tiêu biểu như: Trận chiến đấu Tiễu phỉ ở

Tân Trào tháng 6 năm 1945; trận đánh địch nhảy dù ở Bắc Kạn ngày 07 tháng 10

năm 1947; trận Đầm Hồng - Bản Thi ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang ngày 18 tháng 10

năm 1947 và trận Tập kích đồn Yên Thịnh tháng 10 năm 1947 là những chiến công

oanh liệt mãi mãi ghi vào lịch sử truyền thống Nhà trường như những biểu tượng

sáng ngời về hình ảnh “Bộ đội Lục quân”, góp phần không ngừng xây đắp nên những

nét đẹp truyền thống tiêu biểu “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng thời cũng là những di sản chính

trị vô cùng quý giá để lớp lớp các thế hệ Lục quân tiếp tục gìn giữ và phát huy [138].

Bảng 3.5. Nhận định về di sản và truyền thống chính trị của học viên (%)

Nhận định

Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết Tổng Số người 4 10 16 230 40 300 Tỉ lệ 1,3 3,3 5,3 76,7 13,3 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Qua đây có thể nhận thấy, yếu tố di sản và truyền thống chính trị có một vai

trò rất quan trọng trong định hướng VHCT trong NTQĐ. Đa số học viên trong hai

đơn vị được khảo sát đều đánh giá sự cần thiết với tỷ lệ 90% [Phụ lục5, Bảng 6].

Hiện nay, những di sản và truyền thống chính trị của TSQLQ1 gắn liền với

quá trình đào tạo và trưởng thành của các thế hệ Lục quân nối tiếp nhau bồi đắp

thêm. Trong điều kiện mới, xuất phát từ quan điểm, phương châm giáo dục: quá

trình huấn luyện là quá trình truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và truyền thống tốt

đẹp của quân đội, của Nhà trường cho người học, người thầy vừa là người chỉ huy

quản lý, vừa là nhà giáo dục và đồng thời cũng là người đồng chí cùng chung chiến

hào, vì vậy tấm gương về những nhà giáo Lục quân tận tâm, tận lực cho sự nghiệp

đào tạo cán bộ quân đội của Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên

Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh những ngày đầu thành lập và Phạm Trung

Đôi, Nguyễn Văn Sự, Đỗ Hùng Vỹ, Phạm Hồng Sơn, Lê Viết Anh giai đoạn sau này

89

là những biểu tượng, những tấm gương thực sự cao đẹp, sáng ngời về phẩm chất của

các nhà chỉ huy, quản lý và là những nhà sư phạm mẫu mực. Những thành quả trong

nghiên cứu và đào tạo gắn liền với những chiến công điển hình, những thành tựu

trong các hoạt động là những di sản và truyền thống chính trị tiêu biểu của Nhà

trường trong suốt 75 năm qua.

Đối với HVCT, ngay những ngày đầu thành lập, nhà trường đã chú trọng

nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị của quân đội và nghiên cứu

khoa học. Với phương châm vừa chiến đấu, vừa huấn luyện theo nguyên tắc dạy và

học những gì chiến trường cần, thời kỳ này, nhà trường chủ yếu mở các lớp bồi

dưỡng cán bộ chính trị ngắn hạn, cấp tốc. Nội dung giáo dục là một số vấn đề lý

luận của Chủ nghĩa Marx- Lenin, đường lối kháng chiến của Đảng và kinh nghiệm

lãnh đạo bộ đội trong thực tiễn chiến đấu. Hoạt động nghiên cứu khoa học được gắn

kết với hoạt động dạy học, nhằm chuyển hóa các nội dung lý luận và thực tiễn chiến

trường thành nội dung dạy học. [91].

Tiếp bước các thế hệ cha, anh, thế hệ hôm nay của chúng tôi tiếp tục

phấn đấu bằng nhiệt huyết, truyền cảm hứng và niềm đam mê, sự cống

hiến cho thế hệ trẻ. Đồng thời nhân rộng và xây dựng củng cố phát huy

giá trị văn hóa trong thời kỳ mới. [Phỏng vấn sâu, nam, 46 tuổi, Trung tá,

học viên, HVCT].

Viết tiếp và tô thắm thêm truyền thống của các thế hệ Lục quân đi trước

để lại, ngày nay, chúng tôi cố gắng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, viết tiếp

những trang sử mới hào hùng của dân tộc, làm gương cho hế hệ mai sau,

đặc biệt là cho cán bộ, học viên trẻ, tiếp thu những giá trị tốt đẹp [Phỏng

vấn sâu, nam, 49 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].

Hiện nay, những di sản và truyền thống chính trị của NTQĐ tiếp tục được lưu

giữ và trao truyền qua các thế hệ nối tiếp nhau. Trong điều kiện mới, phương châm và

định hướng phát triển của NTQĐ là tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, nâng cao

chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trước hết, quán triệt sâu sắc và thực hiện

nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo

dục và đào tạo; Nghị quyết 86 của QUTW về công tác giáo dục và đào tạo trong tình

hình mới; Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong quân đội giai đoạn 2016 -

90

2020. Theo đó, NTQĐ đã chủ động đổi mới toàn diện, đồng bộ từ mô hình, mục tiêu,

chương trình, nội dung đến phương pháp, tạo điều kiện bảo đảm nhằm nâng cao chất

lượng giáo dục và đào tạo. Trong đó, đổi mới nội dung gắn với đổi mới phương pháp

nâng cao chất lượng dạy học là khâu đột phá, góp phần phát triển toàn diện năng lực,

phẩm chất, nhất là phát triển tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn công tác

đảng, công tác chính trị của người học, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội thời kỳ

mới, nhất là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị [88].

3.1.3. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị

Thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được xây dựng trên cơ sở nguyên

tắc tổ chức của Đảng và được tổ chức đặc thù theo biên chế của quân đội. Vấn đề

cốt lõi của thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được hình thành trên cơ sở nhận

thức và niềm tin chính trị của quân nhân. Trên cơ sở tìm hiểu những hình thái và

cấp độ biểu hiện của thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ, luận án phân tích làm

rõ: sứ mệnh, mục tiêu; hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo; uy

tín chính trị của thể chế và thiết chế VHCT.

3.1.3.1. Thực trạng sứ mệnh, mục tiêu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, yêu cầu nâng cao VHCT

là vấn đề quan trọng đối với sự phát triển bền vững của mỗi tổ chức để thích nghi

và phát triển, dựa trên cơ sở phát huy nguồn lực nội sinh và nguồn lực ngoại sinh.

Thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ chịu sự tác động của môi trường xã hội

và môi trường quân đội, sự tương tác với môi trường, bị chi phối bởi đặc điểm

văn hóa của từng cá nhân và quá trình biến đổi diễn ra tương đối chậm. Hiểu biết

về thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ là yếu tố quyết định hàng đầu trong

việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ trong NTQĐ hiện nay. Vì

vậy, đây cũng chính là mục tiêu quan trọng được NTQĐ nói chung và HVCT,

TSQLQ1 nói riêng đặt lên hàng đầu trong sứ mệnh, mục tiêu đào tạo.

Kết quả điều tra của luận án [Phụ lục5, Bảng 7] cho thấy, tỷ lệ phần trăm số

học viên được khảo sát tại hai nhà trường đều khẳng định về sứ mệnh, mục tiêu, yêu

cầu đào tạo gắn với chức năng và nhiệm vụ NTQĐ ở mức độ cần thiết và rất cần

thiết là 90,6%, tỷ lệ nhận định còn lại không nhiều số học viên trả lời mức độ bình

thường trở xuống 9,4% với hệ số tương quan Pearson là r = 0,136; t = 2,591; p <

91

0,05 thể hiện sự tương quan chặt chẽ nhận định của học viên về sứ mệnh mục tiêu

của VHCT trong NTQĐ là đặc biệt quan trọng.

Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ nhận định về vai trò sứ mệnh và mục tiêu của thể chế và

thiết chế văn hóa chính trị của học viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Trong thời gian tới, mục tiêu và sứ mệnh của Học viện vẫn sẽ là những

giá trị mà chúng tôi hướng tới, bởi trong bất cứ giai đoạn nào thì mục

tiêu và sứ mệnh vẫn luôn được coi là vấn đề cốt lỗi trong việc định

hướng VHCT, giúp tôi xác định được vai trò, trách nhiệm của bản thân.

[Phỏng vấn sâu, nam, 37 tuổi, Thiếu tá, học viên, HVCT].

Bên cạnh đó, hầu hết các cán bộ quản lý, giảng viên ở hai nhà trường được

khảo sát cũng khẳng định, hiện nay sự vận hành và tính hiệu quả của thể chế và

thiết chế VHCT trong NTQĐ cần được truyền thụ cho học viên rõ ràng, tuyên

truyền cho giảng viên về sứ mệnh, mục tiêu là điều hết sức cần thiết. Điều này hoàn

toàn phù hợp với kết quả điều tra về thực trạng thể chế và thiết chế VHCT trong

NTQĐ của học viên và nó cũng cho thấy nhận thức đúng đắn của học viên.

Về cơ bản, sứ mệnh của từng học viện, trường trong quân đội được công bố

công khai và tùy theo yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu đào tạo của từng học viện,

trường được xác định trong Thông tư của BQP. Đối với HVCT và TSQLQ1, sứ

mệnh mục tiêu và nhiệm vụ được thể hiện trong tính đặc thù gắn với nhiệm vụ đào

92

tạo của mỗi trường và được tuyên bố công khai như đã nêu trong phần giới thiệu về

khách thể nghiên cứu ở chương 2.

Xét về định hướng phát triển các tổ chức trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây

dựng quân đội, trước hết, cần khẳng định VHCT trong NTQĐ là một bộ phận của

VHCT của QĐND Việt Nam, là chất lượng tổng hòa hệ thống nhân cách chính trị

của người cán bộ chỉ huy, giảng viên, học viên và của tập thể quân nhân, của hệ

thống thang bậc giá trị và hệ thống vận hành của thể chế và thiết chế chính trị gắn

liền với hoạt động sư phạm quân sự. VHCT trong NTQĐ phản ánh năng lực sáng

tạo của chủ thể văn hóa sư phạm quân sự vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích

của dân tộc, đồng thời chịu sự tác động và chi phối bởi trình độ và đặc trưng của

văn hóa dân tộc Việt Nam.

Về định hướng phát triển chung, trước hết, cần quán triệt và thực hiện

nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, quan

điểm của Đảng về chiến lược xây dựng QĐND Việt Nam trong thời kỳ mới. Bám

sát yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, trên cơ sở định hướng chung, tập

trung quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt các nội dung giải pháp của Chỉ thị số 355-

CT/QUTW, ngày 20-4-2017, của QUTW “Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công

tác văn hóa, văn học, nghệ thuật trong quân đội giai đoạn hiện nay” [103], đó là: Tiếp

tục quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của

Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X; Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ

Chính trị khóa XII, Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về

“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với

thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ

đội Cụ Hồ”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn

Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những

biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; lãnh đạo, chỉ đạo, giáo dục

nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, văn nghệ sĩ. Trong đó, cần tập

trung nâng cao nhận thức cho cấp ủy, cán bộ chủ trì, cán bộ chính trị các cấp về vai

trò của văn hóa, văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay; tổ chức chặt chẽ, chủ

động tích cực đấu tranh chống quan điểm sai trái trong hoạt động văn hóa, văn học,

nghệ thuật, sự xâm nhập của các ấn phẩm độc hại, gây hủy hoại đạo đức xã hội; quan

tâm xây dựng và hoàn thiện nhân cách cho chủ thể.

93

Biểu đồ 3.9: Tỷ lệ nhận định về định hướng phát triển các tổ chức

trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội của học viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Các kết quả khảo sát định lượng của luận án cũng cho thấy tỷ lệ phần trăm số

học viên được khảo sát đều khẳng định về định hướng phát triển các tổ chức trong

NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội ở mức độ cần thiết và rất cần thiết là

88,3% [Phụ lục5, Bảng 7].

3.1.3.2. Hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo

Nhà trường quân đội là nơi đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng và cung cấp nguồn

cán bộ cho toàn quân. Hiện nay, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ

Tổ quốc và tác động của Cách mạngcông nghiệp lần thứ Tư, NTQĐ đã chủ động

tiếp cận các phương pháp giáo dục và đào tạo tiên tiến, không ngừng đổi mới quy

trình, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; quy mô và loại hình đào tạo

ngày càng được mở rộng, chất lượng của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và cơ

sở vật chất và năng lực đào tạo của nhà trường được nâng lên, góp phần nâng cao

chất lượng nguồn cán bộ cho quân đội: “Nhìn chung, đội ngũ giảng viên hiện nay

trước yêu cầu đổi mới giáo dục đã rất nỗ lực nâng cao trình độ, cập nhật những tri

thức mới, hiện đại; vận dụng tốt phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ

động của người học”. [Phỏng vấn sâu, nam, 51 tuổi, Đại tá, cán bộ, HVCT].

Hành động thực tiễn để hiện thực hóa mục tiêu đào tạo đó là, việc đổi mới quy

trình, chương trình, nội dung đào tạo phải bảo đảm tính kế thừa khoa học nghệ thuật

quân sự Việt Nam đã được đúc rút từ trong lịch sử giữ nước và dựng nước của dân

94

tộc, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và nghệ

thuật quân sự thế giới hiện nay, phù hợp với chủ trương của Bộ Chính trị. Cùng với

hệ thống chương trình đào tạo đã xây dựng, phải chú trọng nghiên cứu, xây dựng một

số chương trình đào tạo đối với các chuyên ngành đặc thù, lĩnh vực mũi nhọn mà nhà

trường có thế mạnh để đào tạo [16]. “Hiện nay Nhà trường đang nỗ lực đổi mới quy

trình, chương trình và nội dung đào tạo, mang tính vừa đảm bảo tính kế thừa vừa đáp

ứng yêu cầu cập nhật”. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, giảng viên, TSQLQ1].

Để đảm bảo hiện thực hóa mục tiêu yêu cầu đào tạo, NTQĐ cần tiếp tục lãnh

đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của

Đảng, Nhà nước, BQP về công tác giáo dục và đào tạo, bảo đảm nâng cao trình độ

mọi mặt cho đội ngũ cán bộ giảng viên. Đây là nội dung quan trọng nhằm tạo sự

chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, học viên

với công tác giáo dục đào tạo. Nội dung giáo dục, quán triệt tập trung vào các nghị

quyết, chỉ thị của Đảng, của QUTW và các đề án về công tác nhà trường, nhiệm vụ

giáo dục và đào tạo đã được BQP phê duyệt [77].

Để vận hành được hệ thống tại các NTQĐ hiện nay, buộc phải có sự

thống nhất trong lãnh đạo và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của, từng

bộ phận, các đơn vị này có mối quan hệ chặt chẽ và vận hành trong một

thể thống nhất [Phỏng vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].

Với việc xác định tầm quan trọng của sự vận hành thể chế, thiết chế VHCT

và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của NTQĐ ở mức độ quan trọng và rất

quan trọng chiếm tỷ lệ 87,3% (xem bảng 3.6).

Bảng 3.6. Nhận định về sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả

trong hoạt động thực tiễncủa học viên (%)

Nhận định

Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết Tổng Số người 9 11 18 217 45 300 Tỉ lệ 3,0 3,7 6,0 72,3 15,0 100,0 (Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ đạo và vận hành của các tổ chức trong NTQĐ

có một vai trò đặc biệt quan trọng, giúp quản lý và định hướng các chủ thể theo

95

đúng chức năng, nhiệm vụ. Mục tiêu đào tạo của NTQĐ là nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu, góp phần bồi dưỡng cán bộ và học viên có đủ phẩm chất chính trị, đạo

đức, năng lực, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy,

NTQĐ cần phát huy các thành tích đã đạt được, tích cực nghiên cứu, cụ thể hóa

thành các giải pháp để thực hiện hiệu quả các vấn đề nêu trên, bảo đảm không

ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần xây dựng quân đội.

3.1.3.3. Uy tín chính trị của tổ chức

Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân trong NTQĐ được thể hiện

qua mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa lãnh đạo, chỉ huy với các quân nhân, trong

đó, lãnh đạo, chỉ huy giữ vai trò quyết định vì: “Cán bộ là cái gốc của mọi công

việc” [86, tr.320], chiến sĩ là lực lượng có vai trò quan trọng trong thực hiện thắng

lợi mọi công việc: “Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng, thì

không làm được gì” [87, tr.207].

Mối quan hệ giữa cán bộ và học viên trong NTQĐ thực chất là các quan hệ

quân sự được hình thành, phát triển trong môi trường sư phạm quân sự. Sự đồng

thuận và gắn kết của tập thể quân nhân dựa trên nguyên tắc hoạt động, chức năng,

nhiệm vụ, điều lệnh, điều lệ, chế độ của quân đội và quy định của mỗi trường. Mặt

khác, sự đồng thuận dựa trên tình cảm đồng chí, đồng đội sâu sắc, đoàn kết gắn bó

với nhau như ruột thịt giữa những con người cùng chung lý tưởng.

Kết quả điều tra của luận án cho thấy, đa số học viên đã có nhận thức về sự

đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân trong NTQĐ là rất cần thiết 12,3% và

cần thiết 79%, số ít học viên nhận định bình thường, không cần thiết và rất không

cần thiết chiếm tỷ lệ nhỏ 8,7% (xem bảng 3.7).

Bảng 3.7. Nhận định về sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân của

học viên (%)

Nhận định

Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết

Tổng Số người 5 7 14 237 37 300 Tỉ lệ 1,7 2,3 4,7 79,0 12,3 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

96

Điều này cho thấy, sự gắn kết của tập thể quân nhân và đồng thuận là nhân tố

quan trọng, là nguồn sức mạnh to lớn để các chủ thể tạo dựng nên uy tín đồng thời

là vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Hơn nữa, sự đồng thuận và gắn kết còn được hình thành trên cơ sở của sự

gương mẫu tự giác đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ của lãnh đạo, chỉ huy, đồng thời

cán bộ phải biết tôn trọng, thương yêu và chia sẻ với cấp dưới, thực hiện phương

châm “hành động của người chỉ huy là mệnh lệnh không lời đối với chiến sĩ”. Trái

lại, nếu cán bộ chỉ huy không làm “mực thước” cho cấp dưới, quan liêu, hách dịch,

bè cánh thì chắc chắn cấp dưới sẽ xa lánh, đoàn kết của đơn vị sẽ ảnh hưởng tiêu

cực: “Tôi cho rằng, đoàn kết, nhất trí đã tạo sự đồng thuận giúp làm nên sức mạnh

của đơn vị; sự gương mẫu tự giác của cán bộ đã giúp chúng tôi củng cố thêm niềm

tin”. [Phỏng vấn sâu, nam, 44 tuổi, Trung tá, HVCT]; “Các nguyên tắc làm việc dựa

trên sự đồng thuận và cùng tập thể xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh,

gần gũi với người học, nhưng vẫn giữ được nguyên tắc trong quan hệ đặ thù quân

đội” [Phỏng vấn sâu, nam, 55 tuổi, Thượng tá, cán bộ, TSQLQ1].

Xét về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của mỗi tổ chức, mỗi thế hệ trưởng thành

trong quân đội, hướng theo sự phát triển chung của dân tộc đều mang theo những giá

trị truyền thống, lịch sử của đơn vị là sự tiếp nối trong sự phát triển mang tính lịch sử,

các thế hệ nối tiếp nhau bảo tồn, phát huy bản sắc của tổ chức trong NTQĐ, tiếp tục

sáng tạo những giá trị mới. Trên cơ sở phiếu điều tra 300 học viên của hai nhà trường

cho thấy, đa số học viên đã có nhận thức về sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức

trong NTQĐ là rất cần thiết và cần thiết 89,4%, số ít học viên nhận định bình thường,

không cần thiết và rất không cần thiết chiếm tỷ lệ 10,6%.

Bảng 3.8. Nhận định về sự giữ gìn và phát huy bản sắc

của tổ chức của học viên (%)

Nhận định

Rất không cần thiết Không cần thiết Bình thường Cần thiết Rất cần thiết

Tổng Số người 5 12 15 230 38 300 Tỉ lệ 1,7 4,0 5,0 76,7 12,7 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

97

Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ cần thiết phải bảo tồn và phát huy bản sắc của tổ

chức, cán bộ và học viên NTQĐ tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt việc học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng quân đội vững mạnh

về chính trị, góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Đó

chính là tiếp tục phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong

thời đại mới, để quân đội xứng đáng là một đội quân quyết chiến quyết thắng, một đội

quân văn hóa: “Nối tiếp thế hệ của cha anh đi trước, tôi luôn cố gắng phấn đấu và tiếp

tục phát huy ngọn lửa truyền thống về tinh thần đoàn kết, yêu nước, sẵn sàng cống hiến

cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. [Phỏng vấn sâu, nam, 33 tuổi, Đại úy, học viên,

HVCT]; “Tôi luôn cố gắng phấn đấu sao cho xứng đáng với lịch sử truyền thống vẻ

vang của Nhà trường”. [Phỏng vấn sâu, nam, 19 tuổi, Binh nhất, học viên, TSQLQ1].

Xét về nhân tố định hướng giá trị chính trị, kết quả điều tra của luận án cho thấy

91% học viên đều khẳng định là rất cần thiết và cần thiết, chỉ 9,0% số học viên cho

rằng bình thường, không cần thiết và rất không cần thiết thể hiện ở bảng 3.9.

Bảng 3.9. Nhận định về uy tín chính trị và định hướng giá trị của học viên (%)

Nhận định Số người Tỉ lệ

Rất không cần thiết 3 1,0

Không cần thiết 7 2,3

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 235 78,3

Rất cần thiết 38 12,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án).

Định hướng giá trị chính trị là cấu tạo tâm lý đặc trưng của nhân cách, là cơ sở

của hành vi, thúc đẩy các chủ thể chính trị hành động để đạt được mục đích trong cuộc

sống [124]. Định hướng giá trị chính trị NTQĐ có vai trò quan trọng đối với sự hình

thành và phát triển nhân cách của học viên, góp phần xây dựng lý tưởng, niềm tin

chính trị, hình thành đạo đức, lối sống, thúc đẩy động cơ lập thân, lập nghiệp, hình

thành ý thức và trách nhiệm công dân của học viên. Do đó, định hướng giá trị chính trị

trong NTQĐ là vấn đề luôn được đề cao: “Việc định hướng giá trị chính trị trong

NTQĐ là rất cần thiết, giúp tôi ý thức được được việc học tập của bản thân và định

98

hướng lối sống, trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội”. [Phỏng vấn sâu,

nam, 39 tuổi, Thiếu tá, học viên, HVCT].

Tại TSQLQ1, hằng năm, trên cơ sở chỉ đạo của QUTW, Hướng dẫn của Tổng

cục Chính trị, Đảng ủy Nhà trường xây dựng Kế hoạch về Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền

thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” gắn với thực hiện Nghị quyết

Trung ương 4 khóa XII trong Đảng bộ Nhà trường. Tùy thuộc vào đặc điểm nhiệm vụ

mà các tiêu chí phấn đấu của các chủ thể được bổ sung sao cho phù hợp [146, tr.1],

kết quả đã “góp phần nêu cao trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, tạo

sự chuyển biến rõ rệt về đạo đức, lối sống, khắc phục có hiệu quả những khâu yếu,

mặt yếu của từng tập thể, cá nhân, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên

của Nhà trường trong những năm qua” [43, tr.4].

Kết quả đánh giá, xếp loại tổ chức đảng qua các năm học của HVCT và

TSQLQ1 cũng như Học viện Phòng không - Không quân cũng đã phản ánh đậm nét

hiệu quả của sự vận hành thể chế, thiết chế VHCT và uy tín chính trị của các tổ

chức trong NTQĐ, trong đó vai trò tổ chức đảng giữ vị trí là hạt nhân lãnh đạo.

Ở cấp trực thuộc đảng ủy NTQĐ, kết quả trung bình chung trong 4 năm, từ

2016 - 2019, đối với HVCT là 83,83%; TSQLQ1 là 94,04% và Học viện Phòng

không - Không quân là 89,43% tổ chức đảng hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ.

Cấp cơ sở có kết quả là: HVCT là 84,84%; TSQLQ1 là 93,27% và Học viện Phòng

không - Không quân là 82,52%. Trong khi đó, tỷ lệ trung bình chung đánh giá tổ

chức đảng ở mức hoàn thành nhiệm vụ của các trường là: HVCT 16,67% (cấp cơ sở

là 15,16%); TSQLQ1 là 5,06% (cấp cơ sở là 6,73%) và Học viện Phòng không -

Không quân là 10,57% (cấp cơ sở là 17,48%) [Phụ lục 8].

Với kết quả trên, bước đầu rút ra, ngoài sự chi phối của đặc điểm, nhiệm vụ

theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo và yếu tố đặc thù mỗi trường, thì ở cấp học viện, tiêu

chí đánh giá mức độ hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ của tổ chức đảng đặt ra

yêu cầu cao hơn so với nhóm trường sĩ quan.

3.1.4. Hoạt động văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị được xem là giá trị cốt lõi, huyết mạch trong mỗi hệ thống

chính trị, đối với NTQĐ, hoạt động VHCT được biểu hiện qua hoạt động lãnh đạo và

99

triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ dạy học, nghiên cứu khoa học và hoạt động xây

dựng đơn vị.

Trong giai đoạn hiện nay, NTQĐ tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ

giáo dục, đào tạo; tiếp tục cụ thể hóa mục tiêu đổi mới, phát triển giáo dục, đào tạo

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; chủ động rà soát, bổ sung nội dung,

biện pháp thực hiện đề án, kế hoạch thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và Chiến lược

“Phát triển giáo dục, đào tạo trong Quân đội giai đoạn 2011 - 2020”; thực hiện gắn

chỉ tiêu, nhiệm vụ năm học 2019 - 2020 với lộ trình thực hiện mục tiêu của đề án, kế

hoạch đã đề ra và Kế hoạch hành động của hệ thống NTQĐ trước tác động của cuộc

Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (Ban hành kèm theo Quyết định 889/QĐ-BQP,

ngày 22-3-2018 của BQP). Đồng thời, tiếp tục có các biện pháp đột phá nhằm xây

dựng nhà trường chính quy, mẫu mực, có môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh,

quản lý, rèn luyện kỷ luật tự giác, nghiêm minh, cảnh quan xanh, sạch, đẹp, tạo cơ sở

để thực hiện tốt nhiệm vụ.

Việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo được NTQĐ thực hiện

quyết liệt và có chuyển biến rõ nét, đạt kết quả tốt: “Công tác giáo dục đào tạo tiếp

tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ về chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, nâng

cao chất lượng dạy học; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

hàng năm” [33, tr.34]. Đặc biệt, NTQĐ đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị

89/CT-BQP, ngày 09-11-2016 của BQP, tạo hiệu ứng mạnh mẽ, chuyển biến quan

trọng trong dạy và học ngoại ngữ.

Đánh giá về tầm quan trọng của vấn đề giảng dạy và nghiên cứu khoa học

trong các NTQĐ, kết quả khảo sát và tổng hợp phỏng vấn sâu học viên và giảng viên

cho thấy, có đến 70,0% số người được hỏi đều khẳng định là rất quan trọng và quan

trọng đối với nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 8].

Tuy nhiên, so với yêu cầu, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ trong NTQĐ vẫn

còn có những hạn chế nhất định: “Công tác tạo nguồn cán bộ đi đào tạo sau đại học

có thời điểm chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo

dục, giảng viên có trình độ sau đại học, nhất là trình độ tiến sĩ, chức danh giáo sư,

phó giáo sư còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ” [22, tr.7]. Trình độ, năng lực, nhất

là kinh nghiệm thực tiễn, trình độ ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ sư phạm của một

100

bộ phận nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới: “Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ

cán bộ, giáo viên, học viên đã được nâng lên, song chưa đáp ứng với yêu cầu tạo

nguồn đi đào tạo sau đại học, đào tạo ở nước ngoài và xét các chức danh, danh

hiệu nhà giáo” [21, tr.10]. Việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, phương

pháp dạy và học của nhà trường còn chậm, chưa đồng bộ: “Chương trình đào tạo

cán bộ các cấp có nội dung môn học còn trùng lặp; một số kiến thức chuyên

ngành, tổ chức diễn tập, phương pháp huấn luyện chưa gắn với nhiệm vụ huấn

luyện sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” [21, tr.9]. Công tác bảo đảm cho nhiệm vụ

giáo dục, đào tạo còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình: “Bảo đảm

tài liệu, giáo trình còn hạn chế; hệ thống thư viện chưa đủ hiện đại hóa; một số

phòng học chuyên ngành, phòng thí nghiệm chưa được đầu tư; hệ thống thao

trường, trường bắn chưa đáp ứng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng huấn luyện

thực hành, diễn tập” [21, tr.10].

Biểu đồ 3.10: Tỷ lệ nhận định về vai trò của hoạt động giảng dạy

và nghiên cứu khoa học của giảng viên, học viên (%)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án). Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, thời gian qua, NTQĐ đã luôn coi

trọng đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kết hợp chặt chẽ giáo dục, đào tạo

với nghiên cứu khoa học, hướng hoạt động nghiên cứu khoa học vào phục vụ trực

tiếp cho nhiệm vụ đào tạo; làm tốt công tác tuyển sinh, hợp tác, liên kết đào tạo.

Đẩy mạnh các phong trào thi đua, các cuộc vận động, tạo động lực để thực hiện

thắng lợi chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác: “Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa

101

học bám sát tình hình, nhiệm vụ Nhà trường; phát huy được tiềm năng, trí tuệ của

các lực lượng, tích cực nghiên cứu ứng dụng có hiệu quả đề tài, sáng kiến vào

nhiệm vụ giáo dục - đào tạo và xây dựng Nhà trường” [36, tr.6].

Thông qua kết quả phân loại tốt nghiệp và kết quả hoạt động nghiên cứu khoa

học trong 4 năm học giai đoạn từ 2016 - 2019 của một số trường quân đội đã phản ánh

đậm nét quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của các học viện, trường quân

đội, đồng thời cũng cho thấy thực trạng hoạt động VHCT trong NTQĐ hiện nay.

- Kết quả tốt nghiệp trung bình chung trong giai đoạn từ 2016 - 2019:

Học viện Chính trị: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 98,51% (giỏi 4,4%); tốt nghiệp

trung bình khá là 1,49%; không có học viên tốt nghiệp trung bình.

Trường Sĩ quan Lục quân1: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 88,33% (giỏi 5,3%);

tốt nghiệp trung bình khá và trung bình là 11,67% (vẫn có học viên không tốt nghiệp,

nhưng chỉ rất ít: năm học 2015-2016 có 05/1636; năm học 2018-2019 có 01/541).

Học viện Phòng không - Không quân: tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi là 70,54%

(giỏi 6,63%); tốt nghiệp trung bình khá là 28,11%; tốt nghiệp trung bình là 4,5%

[Phụ lục 8].

Một số nhận định và đánh giá bước đầu được rút ra: khối các trường quân sự

và chính trị có tỷ lệ tốt nghiệp khá, giỏi trung bình chung cao hơn khối trường kỹ

thuật, nhưng trong khi đó, tỷ lệ học viên giỏi của khối trường kỹ thuật cao hơn các

trường quân sự và chính trị.

Kết quả trên cũng cho thấy sự tương đồng giữa kết quả kiểm tra nhận

thức chính trị với kết quả tốt nghiệp. Điều này cho phép khẳng định, định hướng

giá trị VHCT có vai trò quan trọng, ảnh hưởng và chi phối đến kết quả đào tạo

cán bộ quân đội của NTQĐ hiện nay.

- Từ kết quả nghiên cứu khoa học hàng năm của 3 NTQĐ [Phụ lục 8], bước

đầu rút ra một số nhận định và đánh giá như sau:

Nhìn chung, các đề tài, sáng kiến của NTQĐ trung bình hàng năm dao động

từ 40 - 45 đề tài, sáng kiến; số lượng giáo trình, tài liệu của khối trường quân sự và

chính trị nhiều hơn khối trường kỹ thuật (HVCT: 102; TSQLQ1: 166 và Học viện

Phòng không - Không quân: 46). Khi so sánh cùng đối tượng đào tạo sĩ quan cấp

phân đội giữa TSQLQ1 và Học viện Phòng không - Không quân, cho thấy, xuất

102

phát từ đặc điểm là trường khối kỹ thuật và cấp đào tạo là học viện, vì vậy Học viện

Phòng không - Không quân hàng năm có sự tham gia nghiên cứu khoa học của đối

tượng học viên, đây là nét đặc thù trong hoạt động chuyên môn của học viện.

Hiện nay, trước sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang

đặt ra cho NTQĐ nhiệm vụ quan trọng phải đẩy mạnh phát triển khoa học và công

nghệ quân sự, nâng cao tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội,

vì vậy, việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học ở NTQĐ là rất cần thiết.

Trong thời gian tới HVCT và TSQLQ1 tiếp tục tập trung xây dựng tổ chức

đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực; đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với

Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ

Hồ”; thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”; giữ vững định hướng chính

trị trong quá trình giáo dục và đào tạo; nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, xây

dựng niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng và sự lãnh đạo của Đảng; tích cực

đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, các luận điệu phản động của các thế lực thù

địch, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.

Đối với hoạt động xây dựng tổ chức, trong thời gian qua, NTQĐ luôn chú

trọng phát huy vai trò của tổ chức đảng, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn,

Hội đồng quân nhân, qua đó, tuyệt đa số các chủ thể VHCT trong NTQĐ luôn giữ

vững và phát huy tốt truyền thống của đơn vị, nêu cao ý thức tự lực, tự cường, tích

cực, chủ động, sáng tạo tiếp thu cái mới, đấu tranh với các hành vi tiêu cực, sai trái,

giữ vững ổn định đơn vị.

Mặt khác, HVCT và TSQLQ1 luôn duy trì nghiêm túc, nề nếp chế độ sinh

hoạt đảng, thực hiện nghiêm túc Ngày đảng, tập trung nâng cao chất lượng sinh

hoạt trong các chi bộ nhằm phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở,

thông qua đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên sẽ có nhận thức, trách nhiệm cao, ý thức

tổ chức kỷ luật nghiêm minh, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu; kịp thời

nắm bắt được tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, những ý kiến phản ánh

của đảng viên, từ đó đề ra biện pháp lãnh đạo đúng đắn, hiệu quả, góp phần nâng

cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, xây dựng tổ chức đảng trong

sạch, vững mạnh.

103

Duy trì có nền nếp hoạt động công tác đảng, công tác chính trị sẽ phát huy

cao tính tự giác, ý thức trách nhiệm của đảng viên, kịp thời quán triệt, triển

khai thực hiện nghị quyết, chỉ thi, mệnh lệnh của cấp trên, nhiệm vụ của

đơn vị; ý thức và trách nhiệm của đảng viên được nâng lên; kỷ luật, kỷ

cương được củng cố; đoàn kết, thống nhất nội bộ được tăng cường.

[Phỏng vấn sâu, nam, 43 tuổi, Trung tá, Chủ nhiệm bộ môn, HVCT].

Thời gian qua, NTQĐ đã có nhiều đổi mới trong công tác lãnh đạo, nội

dung, hình thức nghị quyết lãnh đạo theo hướng tập trung, ngắn gọn, sát đúng với

chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; xác định rõ ràng, phù hợp,có biện pháp cụ thể,

khả thi. Cấp ủy và các cơ quan chuyên môn cấp trên luôn có kế hoạch phân công

cán bộ tham dự các buổi sinh hoạt đảng, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để

kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, bất cập, kịp thời giải quyết những

vấn đề phát sinh.

Việc duy trì “Ngày chính trị văn hóa tinh thần” đã được lãnh đạo, chỉ huy của

HVCT và TSQLQ1 quan tâm, triển khai toàn diện với nhiều nội dung, hình thức

phong phú, đa dạng; qua đó kịp thời giải quyết các vấn đề tư tưởng nảy sinh. “Ngày

chính trị và văn hóa tinh thần” được xem là diễn đàn đối thoại dân chủ trong đơn vị,

trong đó chú trọng việc đối thoại giữa cán bộ và chiến sĩ.

“Ngày chính trị văn hóa tinh thần” là một diễn đàn dân chủ, là dịp để cấp

trên tiếp xúc, đối thoại với cấp dưới, cán bộ gặp gỡ, tâm tình cùng chiến sĩ,

qua đó kịp thời định hướng tư tưởng, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của

quân nhân. [Phỏng vấn sâu, nam, 53 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, HVCT].

Ngoài “Ngày chính trị, văn hóa tinh thần”, NTQĐ còn thực hiện có hiệu quả

“Ngày pháp luật” theo quy chế giáo dục chính trị của quân đội. Đây cũng được xem

là một trong những hoạt động VHCT điển hình, một kênh tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất trong toàn

quân để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật cho mọi

quân nhân. HVCT và TSQLQ1 tổ chức “Ngày pháp luật” với nội dung sinh hoạt tập

trung vào những vấn đề chính như: tuyên truyền về nội dung pháp luật theo quy

chế; thông tin tình hình chấp hành pháp luật của đơn vị; tình hình chấp hành pháp

luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Ngoài ra, thông qua các hình thức sân khấu hóa để

104

phổ biến pháp luật cho các đối tượng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều đối

tượng trong đơn vị.

Trong ngày pháp luật chủ yếu tập trung vào các nội dung như phổ biến, giới

thiệu các văn bản pháp luật mới ban hành; quán triệt, phổ biến nội dung

chính sách trong các văn bản pháp luật, chú trọng các quy định liên quan

trực tiếp đến quốc phòng, quy định của Nhà trường nhằm giáo dục ý thức

và lợi ích của việc tôn trọng, tuân thủ chấp hành pháp luật, kỷ luật cho quân

nhân. [Phỏng vấn sâu, nam, 49 tuổi, Đại tá, Chủ nhiệm khoa, TSQLQ1].

3.2. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

Đặc điểm của một sự vật, hiện tượng được hiểu là: “Nét riêng biệt” [155,

tr.292], đặc điểm của VHCT trong NTQĐ là nét riêng và tiêu biểu của một bộ phận

VHCT đặc thù của QĐND Việt Nam. Với tính cách là môi trường văn hóa, VHCT

trong NTQĐ thể hiện chất lượng tổng hòa của hệ thống nhân cách chính trị, hệ

thống thang bậc giá trị chính trị, hệ thống thể chế, thiết chế chính trị và hệ thống

hoạt động chính trị gắn với các quan hệ văn hóa, hoạt động văn hóa và các thiết chế

văn hóa. Sự vận hành của các yếu tố cấu thành VHCT trong NTQĐ có tác dụng

giúp cho sự nâng cao trình độ chính trị cho chủ thể, nâng cao chất lượng dạy học và

nghiên cứu khoa học và quan trọng nhất là giúp cho sự hình thành và phát triển

nhân cách của quân nhân, trong đó đặc biệt là đối tượng học viên hướng tới chuẩn

mực chân, thiện, mỹ. Chất lượng nhân cách chủ thể VHCT phản ánh chất lượng

VHCT của nhà trường quân đội.

3.2.1. Đặc điểm chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Đặc điểm chủ thể VHCT trong NTQĐ xét về thực chất chính là đặc điểm

nhân cách chính trị của cá nhân được hiện diện trước hết với tư cách của quân nhân.

Những yếu tố thuộc về phẩm chất của người quân nhân cách mạng với nhận thức

chính trị sâu sắc, được giác ngộ về lợi ích cách mạng và lợi ích giai cấp; có tình cảm

đồng chí, đồng đội, tình cảm thầy, trò; luôn có tinh thần nỗ lực khắc phục khó khăn,

phấn đấu vươn lên hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, phản ánh nhân

cách chủ thể VHCT trong nhà trường quân đội.

Đặc điểm nhân cách chủ thể VHCT trong NTQĐ thể hiện ở những phẩm chất,

năng lực và những nét tâm lý xã hội cá nhân đó được hình thành và phát triển trong

105

môi trường sư phạm quân sự. Nhân cách chính trị quân nhân trong môi trường sư

phạm quân sự là nội dung cốt lõi bên trong của VHCT trong nhà trường quân đội.

Đặc điểm nhân cách chủ thể VHCT trong NTQĐ bao gồm phẩm chất chính

trị; hành vi và hoạt động chính trị và lý tưởng, niềm tin chính trị và được bộc lộ trên

các phương diện chủ yếu như: nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và ý chí chính

trị. Tri thức, trình độ chính trị có được trên cơ sở nhận thức chính trị, từ đó hình thành

động cơ phấn đấu, có thái độ chính trị đúng đắn, có tình cảm chính trị cao đẹp của

người quân nhân cách mạng và có năng lực thực tiễn của cá nhân trên từng cương vị

công tác gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao và biểu hiện mức độ hoàn thiện

nhân cách theo yêu cầu nhiệm vụ.

Nhân cách chủ thể VHCT của quân nhân trong NTQĐ với nhận thức chính

trị sâu sắc, lý tưởng cao đẹp, thể hiện khát vọng được cống hiến cho Tổ quốc, có

niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, những phẩm chất chính trị đó tạo nên

uy tín chính trị cá nhân. Đặc điểm nhân cách chính trị cá nhân trong NTQĐ chịu sự

chi phối, tác động của nhiều yếu tố: truyền thống dựng nước và giữ nước của dân

tộc Việt Nam; lý tưởng cách mạng của ĐCSVN, động cơ và lợi ích chính trị của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động; sức hút hay sự thuyết phục, lôi cuốn từ

hình ảnh của nhân vật anh hùng mang mẫu hình lý tưởng trong công cuộc đấu tranh

giải phóng dân tộc đã trở thành những biểu trưng văn hóa, biểu trưng chính trị là

người “Vệ quốc quân”, anh “Giải phóng quân” và ngày nay là danh xưng “Bộ đội

Cụ Hồ”, gắn với các yếu tố truyền thống trong xây dựng chiến đấu và trưởng thành

của QĐND Việt Nam anh hùng cũng như những di sản, truyền thống của nhà

trường quân đội.

Văn hóa chính trị trong NTQĐ thể hiện định hướng giá trị và uy tín của tổ chức

quân sự đặc thù của môi trường sư phạm quân sự. Ở đó, có sự gắn kết và đồng thuận

cao trong việc thụ hưởng, chia sẻ và theo đuổi những giá trị văn hóa quân sự đồng

thời chịu sự chi phối của nhân cách cá nhân: lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên và học

viên. Trong đó, đặc biệt là cá nhân giữ vai trò quan trọng là người chỉ huy, chính ủy,

chính trị viên các cấp. Vai trò của Giám đốc (Hiệu trưởng), Chính ủy có ảnh hưởng

rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của quân nhân, nhất là là đối tượng

học viên. Lãnh đạo, chỉ huy trong NTQĐ không chỉ là người lãnh đạo, quản lý thuần

106

túy mà còn giữ vai trò là người thầy, người hướng dẫn thực hành các hoạt động sư

phạm quân sự và là người đồng chí, đồng đội, đồng cam cộng khổ, điều này tạo nên

nét đặc thù riêng có của VHCT trong NTQĐ. Uy tín của NTQĐ phụ thuộc rất nhiều

vào sản phẩm đào tạo là những sĩ quan tương lai, chất lượng đào tạo cán bộ là tiêu chí

cơ bản làm nên “thương hiệu” của mỗi học viện, trường quân đội.

Trong khuôn khổ luận án, khi xem xét chủ thể VHCT, chúng tôi tập trung ở

ba đối tượng mang tính điển hình, đó là: lãnh đạo, chỉ huy (Giám đốc/ Hiệu

trưởng, Chính ủy và cán bộ chủ trì cấp trực thuộc nhà trường như: Trưởng

phòng, Trưởng khoa, Hệ trưởng/ Tiểu đoàn trưởng, Chính trị viên hệ, tiểu đoàn);

giảng viên và học viên. Bởi vì: mỗi một học viện, trường quân đội trước hết là

một đơn vị quân đội, cho nên đối tượng cần được xem xét trước hết phải là lãnh

đạo, chỉ huy. Mặt khác, tuy là đơn vị quân đội nhưng NTQĐ lại mang tính đặc

thù sư phạm, cho nên chịu sự chi phối đậm nét của quan hệ thầy (giảng viên) và

trò (học viên). Ngoài ra, trong NTQĐ còn có đông đảo các đối tượng phục vụ và

bảo đảm cho quá trình đào tạo.

3.2.2. Đặc điểm thang bậc giá trị văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội

Quân đội nhân dân Việt Nam từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu,

sự ra đời, trưởng thành và lớn mạnh của quân đội trong suốt hơn 75 năm qua luôn

gắn liền với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, đó là sự tiếp nối những giá trị

văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc điểm thang bậc giá trị VHCT trong NTQĐ

được thể hiện trên những phương diện sau:

3.2.2.1. Triết lý, tư tưởng chính trị

Một trong những vấn đề cốt lõi của triết lý chính trị là hệ tư tưởng chính trị,

ĐCSVN lấy chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng

và kim chỉ nam cho mọi hành động. VHCT trong NTQĐ thể hiện tính định hướng

cao về chính trị tư tưởng gắn với sự tôn trọng và đề cao tính khoa học, đây là vấn đề

quan trọng trong triết lý chính trị của ĐCSVN. Xuất phát từ mục tiêu yêu cầu đào

tạo và cũng là lý tưởng cao đẹp của mọi quân nhân khi vào học trong NTQĐ là

được đào tạo để trở thành những sỹ quan có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung

thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và với Nhân

dân. Những yếu tố thuộc về phẩm chất chính trị như mục tiêu, lý tưởng chiến đấu

107

cao đẹp; tinh thần anh dũng sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng và tình cảm cao đẹp làm

nên sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Tính định hướng cao về chính trị tư tưởng trong NTQĐ luôn gắn với sự tôn

trọng và đề cao tính khoa học và điều này làm nên đặc trưng giá trị VHCT trong

NTQĐ. Môi trường sư phạm quân sự đặt ra yêu cầu, mọi hoạt động phải là sự kết

tinh trí tuệ có hàm lượng khoa học cao và nhà trường phải làm mẫu và đi trước đơn

vị. Nghị quyết số 93 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (Nay là QUTW), năm 1994,

xác định: “Xây dưng nhà trường chính quy từng bước hiện đại, phù hợp với yêu cầu

của khoa học giáo dục và sự phát triển của các lực lượng vũ trang. Nhà trường phải

đi trước và làm mẫu cho đơn vị trong xây dựng chính quy” [41]. Mục tiêu đào tạo

của NTQĐ không chỉ dừng lại việc huấn luyện cho quân nhân thực hiện tốt nhiệm

vụ chuyên môn mà quan trọng hơn là phải biết thực hiện tốt vai trò của người chỉ

huy, quản lý và đồng thời là nhà sư phạm với khả năng nhận thức và giải quyết

những vấn đề thực tiễn của môi trường quân sự theo yêu cầu nhiệm vụ trong phạm

vi chức trách và quyền hạn trên cơ sở tri thức khoa học.

Tôn trọng và đề cao khoa học có quan hệ chặt chẽ với tính định hướng cao

chính trị tư tưởng, chỉ có thể xuất phát từ tri thức khoa học, quân nhân mới có nhận

thức chính trị đúng đắn, có niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng, làm cơ sở

để xây đắp và củng cố bản lĩnh chính trị vững vàng. Ngược lại, nếu không có tính

định hướng cao về chính trị, mục tiêu lý tưởng không rõ ràng thì không thể tiếp thu

những tri thức khoa học và đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự băn khoăn, dao

động, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của quân nhân trong

các tình huống cần thiết.

3.2.2.2. Chuẩn mực và khuôn mẫu chính trị

Các chủ thể VHCT chia sẻ những giá trị chính trị trên cơ sở những chuẩn

mực, khuôn mẫu chính trị giúp cho sự định hướng chính trị và điều chỉnh hành vi

chính trị của các thành viên trong cộng đồng hay tổ chức.

Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị của QĐND Việt Nam là sự kết tinh những

giá trị văn hóa quân sự, thể hiện định hướng chính trị của ĐCSVN về những vấn đề

có tính nguyên tắc trong xây dựng và tổ chức của đội quân “bách chiến, bách thắng”

từ Nhân dân mà ra vì Nhân dân mà chiến đấu, đồng thời thể hiện quan điểm,

phương châm xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện

108

đại. Những chuẩn mực, khuôn mẫu trong quan hệ, ứng xử của quân nhân được thể

hiện bằng các quy định cụ thể trong“Mười lời thề danh dự của quân nhân” [Phụ

lục 9] “Mười hai điều kỷ luật khi quan hệ với Nhân dân của quân nhân” [Phụ lục

10] các quy định trong “Điều lệnh quản lý bộ đội” và “Điều lệnh đội ngũ” ... và

đây được xem là những chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị điển hình.

Là đơn vị quân đội, sự hiện diện chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị trong

NTQĐ còn biểu hiện ở các quan điểm, phương châm, nguyên tắc mang tính đặc thù

sư phạm như: các quy định trong “Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam” [18]; các định hướng bao gồm: “3 quan điểm”, “8 nguyên tắc”, “6 mối

kết hợp trong huấn luyện” được quy định trong văn bản của Bộ Tổng Tham mưu

QĐND Việt Nam. Ngoài ra, những tiêu ngữ, khẩu hiệu hay tên gọi các cuộc vận

động, phong trào… cũng phản ánh đậm nét những khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị

như: “Kiên định và sáng tạo, đoàn kết và kỷ luật, khắc phục khó khăn, hoàn thành

nhiệm vụ” của HVCT; “Trung hiếu, tiên phong, mẫu mực, quyết thắng” của

TSQLQ1; các khẩu hiệu: “nhà trường gắn liền với chiến trường”; “Thao trường đổ

mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”; “Vượt nắng thắng mưa, say sưa luyện tập”…

Các chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị trong NTQĐ không chỉ là những giá trị

văn hóa được chia sẻ mà còn là định hướng chính trị giúp cho các chủ thể VHCT

trong NTQĐ xác định rõ mục tiêu, lý tưởng phấn đấu và động cơ hành động thực

hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

3.2.2.3. Di sản và truyền thống chính trị

Trải qua hơn 75 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo

của Đảng và Bác Hồ, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của của Nhân dân, QĐND Việt Nam

đã không ngừng phát huy bản chất tốt đẹp, vừa xây dựng, vừa chiến đấu và trưởng

thành. Cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu

tượng sáng ngời về một quân đội từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu và

phục vụ, QĐND Việt Nam đã không ngừng xây đắp nên những nét đẹp truyền

thống tiêu biểu “Bộ đội Cụ Hồ”, đồng thời cũng là những di sản chính trị vô cùng

quý giá để lớp lớp các thế hệ tiếp tục gìn giữ và phát huy.

Những di sản và truyền thống chính trị tiêu biểu của QĐND Việt Nam nói

chung và NTQĐ nói riêng được khái quát cô đọng trong lời khen của Chủ tịch Hồ

109

Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh

vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,

khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Đối với NTQĐ, những di sản và truyền thống chính trị gắn liền với quá trình

đào tạo và trưởng thành của các nhà trường. Xuất phát từ quan điểm, quá trình huấn

luyện là quá trình truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu và truyền thống tốt đẹp của quân

đội cho người học, người thầy vừa là người chỉ huy quản lý, vừa là nhà giáo dục và

đồng thời cũng là người đồng chí cùng chung chiến hào, vì vậy tấm gương về những

nhà giáo tận tâm, tận lực cho sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội của Đảng là những

biểu tượng thực sự cao đẹp. Những thành tựu nổi bật trong nghiên cứu và đào tạo gắn

liền với những chiến công điển hình là những di sản và truyền thống chính trị, đồng

thời cũng là đặc trưng VHCT của nhà trường quân đội.

3.2.3. Đặc điểm thể chế và thiết chế văn hóa hính trị trong nhà trường

quân đội

Đặc điểm thể chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ cũng là nét riêng và là một

trong những biểu hiện đặc thù của chủ thể VHCT với tính cách là VHCT cộng đồng.

VHCT với tính cách là văn hóa cộng đồng được biểu hiện ở vai trò của cộng đồng là

phương thức cơ bản để tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động vì mục đích chung.

Thể chế, thiết chế VHCT có vai trò quan trọng đối với VHCT cá nhân đồng thời

cũng chịu sự ảnh hưởng của VHCT cá nhân, đặc biệt là cá nhân người lãnh đạo chính

trị và phụ thuộc vào tính chất nhân văn, mức độ dân chủ, vào bản chất của chế độ chính

trị. Với ý nghĩa đó, K. Marx đã viết “Sự phát triển tự do của mỗi con người là điều

kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [83, tr.628].

Xuất phát từ những vấn đề có tính nguyên tắc là hình thức tổ chức cao nhất

trong hệ thống chính trị là đảng chính trị và tổ chức nhà nước cùng các tổ chức

đoàn thể - những chủ thể cơ bản của quyền lực cho nên đặc điểm thể chế, thiết chế

VHCT trong NTQĐ chịu sự chi phối và quyết định bởi các quan điểm, chủ trương,

đường lối của ĐCSVN và các quy phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Thể

chế và thiết chế VHCT trong NTQĐ được thể hiện thông qua định hướng lãnh đạo

và các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc nhằm hướng tới việc xác định cơ cấu

tổ chức và phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang nói chung và QĐND

Việt Nam nói riêng.

110

Với tính cách là môi trường quân sự, các thiết chế VHCT trong NTQĐ phản

ánh mối quan hệ con người với con người trong tổ chức quân sự cách mạng dưới sự

lãnh đạo của Đảng. Tính chất quân sự quy định cơ cấu, phương thức tổ chức, các

nguyên tắc hoạt động, các quan hệ của quân nhân trong NTQĐ. Hoạt động giáo

dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ luôn được xem là nhiệm vụ chính

trị trung tâm nhưng các hoạt động mang tính đặc thù của quân sự nhằm thực hiện

các chế độ quy định của quân đội với chức năng, nhiệm vụ đã được quy định cũng

đặt ra yêu cầu cao như các đơn vị quân đội nói chung.

Tổ chức QĐND Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN tuyệt đối,

trực tiếp về mọi mặt, sự quản lý của Nhà nước Việt Nam, với ý nghĩa đó, đặc điểm

thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ là đặc điểm văn hóa cộng đồng của tập thể

quân nhân với các loại hình như: tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy theo phân cấp và các

tổ chức đặc thù khác trong môi trường quân đội.

Trước hết, tổ chức cơ sở đảng theo phân cấp trong NTQĐ bao gồm đảng ủy

học viện (nhà trường), đảng ủy cơ sở trực thuộc và các chi bộ của các khoa, các hệ,

tiểu đoàn quản lý học viên. Về tổ chức chỉ huy, bao gồm Ban Giám đốc/Ban Giám

hiệu, các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo (phòng, ban) chức năng; các khoa giảng

viên/giáo viên (khoa, bộ môn); các đơn vị quản lý học viên (hệ, tiểu đoàn). Với loại

hình tổ chức tương đối đặc thù, tại NTQĐ còn có tổ chức Hội đồng quân nhân,

Đoàn Thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ.

Đặc điểm thể chế, thiết chế VHCT trong NTQĐ còn được thể hiện qua tính

chất quân sự đặc thù trong môi trường sư phạm. Tất cả hoạt động lãnh đạo, chỉ huy,

quản lý điều hành trong NTQĐ, đều hướng tới thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ

chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, không ngừng nâng cao chất

lượng đào tạo cán bộ. Hay nói cách khác, tất cả sự lãnh đạo, chỉ huy và điều hành

đều nhằm hướng tới hiện thực hóa sứ mệnh, mục tiêu và định hướng chiến lược

phát triển quân đội nói chung và NTQĐ nói riêng.

Tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy rằng, đặc điểm của VHCT trong NTQĐ

không đồng nhất với môi trường quân sự của các đơn vị QĐND Việt Nam nói chung.

Sự khác nhau thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức biên chế của nhà

trường so với đơn vị hay nói cách khác chính là ở tính đặc thù sư phạm trong môi

trường quân sự.

111

Về tổ chức, biên chế, mỗi một học viện, trường là một đơn vị có đầy đủ cơ

cấu, tổ chức như một đơn vị quân đội hoàn chỉnh. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là tại đây

không chỉ diễn ra các quan hệ quân sự và hoạt động quân sự với các thiết chế văn hóa

đặc thù quân sự mà còn có các hoạt động đặc thù mang tính sư phạm là hoạt động

dạy học và nghiên cứu khoa học. Hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa học trong

NTQĐ được xác định là nhiệm vụ chính trị trung tâm của NTQĐ. Tất cả các yếu tố

cấu thành VHCT trong NTQĐ đều mang đậm dấu ấn đặc trưng của môi trường sư

phạm quân sự, đó là tính sư phạm, tính giáo dục và đều nhằm hướng tới mục tiêu

không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ cho quân đội.

3.2.4. Đặc điểm hoạt động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Sự vận hành của thiết chế chính trị trong NTQĐ luôn gắn liền với hoạt động

quân sự đặc thù. Hoạt động quân sự là một dạng lao động xã hội đặc biệt - lao động

vũ trang gắn với con người, tổ chức và phương tiên quân sự do một giai cấp, nhà

nước, chính đảng tiến hành nhằm đạt được được mục tiêu chính trị nhất định.

QĐND Việt Nam do ĐCSVN sáng lập, lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, vì

vậy, về nguyên tắc, mọi hoạt động của quân đội không nằm ngoài quỹ đạo hệ tư

tưởng của Đảng và giai cấp công nhân, lý tưởng chiến đấu của quân đội chính là mục

tiêu, lý tưởng của Đảng; nguyên tắc lãnh đạo, phương thức tổ chức hoạt động của

quân đội đều trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

Xuất phát từ hệ thống các quan hệ trong môi trường quân sự, các hoạt động

chính trị trong quân đội nói chung và NTQĐ nói riêng phải tuân thủ và bảo đảm

những vấn đề có tính nguyên tắc như: bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và tổ

chức; cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng cấp trên; cá nhân phục tùng tổ chức; thiểu

số phục tùng đa số…

Tuy nhiên, đối với NTQĐ, do đặc thù của môi trường sư phạm quân sự, ngoài

sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động như trên là quy định bắt buộc thì các hoạt động

sư phạm quân sự có tính mềm dẻo và linh hoạt hơn như sự dân chủ tôn trọng và đề

cao khoa học được biểu hiện đậm nét hơn; tính mô phạm cũng điển hình hơn. Trong

NTQĐ không chỉ có quan hệ quân sự như: cấp trên - cấp dưới, chỉ huy - phục tùng,

đồng chí, đồng đội mà còn có các quan hệ mang đậm tính sư phạm trong môi trường

giáo dục: quan hệ giảng viên - học viên, quan hệ thầy - trò.

112

Xét về mặt hình thức, hoạt động chính trị QĐND Việt Nam nói chung và

hoạt động chính trị trong NTQĐ nói riêng, trước hết là hoạt động lãnh đạo của

Đảng ủy mỗi trường nhằm hướng tới lý tưởng đã được lựa chọn và mục tiêu yêu

cầu đào tạo tương ứng với các hình thức như hoạt động thường xuyên: giảng dạy,

học tập, huấn luyện, sinh hoạt, nghiên cứu khoa học, giao lưu, giao tiếp, trao đổi

thông tin… và các hoạt động tập trung theo kế hoạch được phê duyệt như: tham

quan, diễn tập, hội thao, hội thi… trong đó hoạt động lãnh đạo dạy học và nghiên

cứu khoa học là hình thức hoạt động chính trị điển hình trong NTQĐ.

Văn hóa chính trị trong NTQĐ được vận hành trong điều kiện tập trung thực

hiện nhiệm vụ đặc thù quân sự. Trước hết, đó là thông qua các hoạt động của quân

nhân với các chế độ trong ngày, trong tuần theo quy định. Tính chất quan hệ trong

môi trường quân sự cũng mang tính đặc thù, ngoài quan hệ thầy - trò như các nhà

trường dân sự, NTQĐ còn có sự đan xen của các mối quan hệ: chỉ huy - phục tùng,

cấp trên - cấp dưới, cán bộ - chiến sĩ, đây là quan hệ thể hiện tính chính quy, trang

nghiêm, mực thước và thống nhất của quân đội trên cơ sở cơ chế mệnh lệnh - chấp

hành, chỉ huy - phục tùng được quy định trong “Điều lệnh quản lý bộ đội” [17].

Ngoài ra, một trong những nét riêng của NTQĐ so với các nhà trường ngoài dân sự

là có sự tồn tại của “người thầy thứ hai” - những cán bộ quản lý đơn vị với vai trò

vừa là người chỉ huy và vừa là người trợ giáo.

Tiểu kết chương 3

Thông qua khảo sát và đánh giá thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay cho

thấy, chủ thể VHCT về cơ bản có nhận thức chính trị tốt; các thang bậc giá trị

VHCT đã được định hình và phát huy vai trò trong thực tiễn; thể chế, thiết chế

VHCT và hoạt động VHCT đã được vận hành và phát huy hiệu quả trong công tác

đào tạo cán bộ.Trong đó, thang bậc giá trị VHCT mang tính đặc thù quân sự được

hình thành rất sớm, trở thành truyền thống với sức sống và sức thuyết phục lớn. Đặc

biệt, triết lý chính trị, khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị điển hình đã trở thành những

yếu tố nổi bật không thể thiếu trong bất kỳ hệ giá trị nào trong VHCT của NTQĐ

hiện nay. Những giá trị chính trị đó cần được phát triển và phát huy, nhân rộng và

biến nó trở thành hình mẫu tiêu biểu, thành những triết lý sâu sắc, có tác dụng lan

tỏa và trở thành động lực chính trị cho sự phát triển của NTQĐ trong tương lai.

113

Bằng mô hình hồi quy và các biến số độc lập, phụ thuộc được xử lý trên

phần mềm SPSS, kết quả nghiên cứu của luận án đã chỉ ra sự khác biệt về các nhân

tố thuộc về cá nhân và nhân tố thuộc về đặc điểm gia đình học viên có ảnh hưởng

sâu sắc tới nhận thức của học viên về VHCT trong NTQĐ hiện nay. Đây là cơ sở

quan trọng để nhận diện những vấn đề đặt ra đối với VHCT trong NTQĐ, qua đó

góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội

vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ

được giao.

Tuy nhiên, qua những thông tin thu thập được và bằng số liệu khảo sát cũng

cho thấy thực trạng VHCT trong NTQĐ còn tồn tại những hạn chế, bất cập từ phía

chủ thể VHCT; thang bậc giá trị VHCT; thể chế và thiết chế VHCT; hoạt động

VHCT trong NTQĐ và từ đó đặt ra một số vấn đề như: nâng cao nhận thức cho các

chủ thể; giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc chủ động tiếp nhận

tri thức mới của nhân loại; nâng cao hiệu quả thiết chế VHCT gắn với thực hiện

nhiệm vụ chính trị trung tâm; gắn hoạt động VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết

và cuộc vận động của đất nước, quân đội.

Mặt khác, thực trạng VHCT trong NTQĐ cũng cho thấy những đặc điểm nổi

bật về chủ thể VHCT, thang bậc giá trị VHCT, thể chế và thiết chế VHCT và hoạt

động VHCT với những dấu ấn đặc trưng rõ nét của môi trường sư phạm quân sự.

Đó là môi trường sư phạm được đặt trong hệ thống tổ chức của QĐND Việt Nam

với các biểu hiện như: tính định hướng cao về chính trị tư tưởng, chặt chẽ về tổ

chức; tính khẩn trương, kỷ luật, tự giác nghiêm minh; tính kiên trì, mềm dẻo, linh

hoạt trong giáo dục; tính khoa học và dân chủ về trí tuệ và tính mô phạm của môi

trường giáo dục. VHCT trong NTQĐ chịu sự tác động của các yếu tố mang tính chủ

thể với các quan hệ: con người - với tư cách là chủ thể môi trường văn hóa; quân

nhân - với tư cách là chủ thể môi trường quân sự; giảng viên, học viên - với tư cách

là chủ thể môi trường sư phạm.

114

Chương 4

NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN

HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG

NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

Hiểu theo nghĩa chung nhất, tác động là “làm cho một đối tượng nào đó có

những biến đổi nhất định” [155, tr.882]. Những yếu tố tác động đến VHCT trong

NTQĐ là tác nhân làm cho VHCT chịu ảnh hưởng và tùy theo từng mức độ có

những biến đổi theo hướng tích cực hay tiêu cực ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị

trung tâm của nhà trường quân đội. Trong thực tế, sự tác động của các yếu tố đến

VHCT là không độc lập và riêng lẻ mà bao giờ cũng mang tính tổng thể. Vì vậy, tất

cả sự phân chia những yếu tố tác động đến VHCT trong NTQĐ đều chỉ mang tính

chất tương đối. Trong khuôn khổ luận án, nghiên cứu sinh lựa chọn cách phân chia

theo hướng những yếu tố tác động thuận chiều và những yếu tố tác động trái chiều

đến VHCT trong nhà trường quân đội.

4.1.1. Những yếu tố tác động thuận chiều

Trước hết phải khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhận thức mới về

văn hóa và con người Việt Nam ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn, tiếp cận

được với những giá trị chung của nhân loại; trong nước tình hình chính trị ổn

định, kinh tế phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống văn hóa

tinh thần và vật chất của Nhân dân ngày càng được nâng lên. Đây có thể được

xem là yếu tố tác động thuận chiều nổi bật và quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết

định đối với yêu cầu nâng cao VHCT nói chung và VHCT trong NTQĐ nói

riêng. Ngoài ra, còn có những yếu tố tác động thuận chiều như: toàn cầu hóa,

kinh tế thị trường và sự phát triển khoa học công nghệ và truyền thông; yếu tố

văn hóa, chính trị trong nước; sự phát triển của NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ

xây dựng quân đội trong tình mới [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.1. Tác động của toàn cầu hóa

Tác động thuận chiều của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa được thể hiện

ở sự giao lưu hội nhập quốc tế, giúp cho nhận thức về những vấn đề lý luận văn hóa

có cái nhìn đa chiều, rộng mở và có bước phát triển hơn. Những vấn đề cơ bản như

115

quan niệm về văn hóa, chức năng của văn hóa đã tiếp cận với văn minh thời đại và

được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn với những giá trị chung của nhân loại.

Đối với NTQĐ, nhờ có toàn cầu hóa và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế,

trong đó có giao lưu đối ngoại quốc phòng đã mang lại những lợi ích thiết thực trong

quá trình hiện đại hóa quân đội. Những thành tựu của văn minh nhân loại, đặc biệt là

những thành tựu công nghệ hiện đại, sự chuyên nghiệp hóa và khả năng khuyến khích

sự sáng tạo không chỉ tác động sâu sắc đến nhận thức của các chủ thể VHCT, mà còn

tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi tiếp thu, tiếp nhận những giá trị tinh hoa của

nhân loại, qua đó góp phần nâng cao chât lượng dạy học và nghiên cứu khoa học vốn

được xem là nhiệm vụ chính trị trung tâm của nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.2. Tác động của kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường cũng là một trong những yếu tố tác động mang tính tổng thể

trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội, trong đó tác động tới VHCT là hết

sức rõ nét. Ở nước ta, định hướng phát triển kinh tế thị trường đã được xác định và

làm rõ từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XI.

Đối với NTQĐ, tác động thuận chiều của yếu tố kinh tế thị trường biểu hiện

trong việc xóa bỏ lối tư duy bảo thủ bao cấp, phát triển tư duy sáng tạo và lối sống và

tác phong công nghiệp của các chủ thể; kinh tế thị trường giúp cho các chủ thể VHCT

trong NTQĐ trở nên tự chủ, năng động và nhạy bén hơn góp phần khuyến khích sự tìm

tòi, sáng tạo. Kinh tế thị trường cũng tác động tích cực đến việc đổi mới cơ chế vận

hành thiết chế VHCT cũng như hoạt động VHCT trở nên chuyên nghiệp và hiệu quả

hơn [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.3. Tác động của sự phát triển khoa học công nghệ và truyền thông

Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và truyền thông, đặc biệt là

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (Industry 4.0) đã tác động toàn diện đến

cuộc sống của con người, trong đó tác động đến VHCT là rất sâu sắc, vì vây, nếu chủ

động, chúng ta sẽ sớm tiếp cận với những thành tựu của nó, “đi tắt đón đầu”, nắm bắt

cơ hội để phát triển kinh tế và văn hóa, khoa học công nghệ; nếu dừng lại là tụt lùi.

Đối với NTQĐ, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và truyền

thông đã có tác động sâu sắc đến môi trường sư phạm quân sự, làm thay đổi nhận

thức và làm biến đổi lối sống của chủ thể; nhờ có thành tựu khoa học công nghệ và

truyền thông giúp cho sự kết nối của các cá nhân trong tập thể trở nên thuận lợi hơn,

116

bền chặt hơn và minh bạch hơn, khắc phục được sự chủ quan cảm tính trong chỉ

huy, quản lý và thực thi nhiệm vụ, tạo tiền đề cho sự phát huy dân chủ và sáng tạo.

Sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông cũng tác động thuận chiều

đến tất cả các hoạt động trong NTQĐ, trước hết là trong hoạt động dạy học, nó đặt

ra yêu cầu đổi mới toàn diện cả nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Sự

kết nối Internet dải rộng là một lợi thế mạnh mẽ trong việc đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo trong nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.4. Yếu tố văn hóa

Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, cả trong sản xuất vật

chất và sản xuất tinh thần; cả trong lao động sáng tạo và trong đấu tranh chống lại

thiên tai, địch họa vì sự sống còn của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm:

“Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó

mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi

hỏi của sự sinh tồn” [85, tr. 431].

Những tác động tích cực của giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống

đối với VHCT trong NTQĐ biểu hiện ở sự phát huy cao độ các phẩm chất đã được

kết tinh thành giá trị văn hóa trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc

trong suốt chiều dài lịch sử, đó là: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự cường của

dân tộc; tính cần cù sáng tạo chịu thương, chịu khó, “vì lợi ích của bản thân, gia đình,

tập thể và xã hội” [10, tr. 170]; lòng khoan dung, tinh thần hòa hiếu, làm bạn với tất

cả các nước, lấy tinh thần đối thoại thay cho đối đầu; đức tính giản dị và tinh thần

tương thân tương ái sẵn sàng chia sẻ. Những giá trị và phẩm chất nêu trên đã được

chủ thể VHCT trong NTQĐ tiếp nhận và phát huy tốt hơn nữa trong điều kiện mới,

qua đó tạo tiền đề thuận lợi cho công tác đào tạo cán bộ quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.5. Yếu tố chính trị

Sự nghiệp đổi mới đất nước đã có tác động sâu sắc làm biến đổi văn hóa và

con người Việt Nam trong thời gian qua, sự biến đổi đó có nhiều nhân tố tác động

nhưng một trong những nhân tố quan trọng và luôn đóng vai trò chủ đạo đó là nhân

tố chính trị. Khởi đầu của công cuộc đổi mới là đổi mới tư duy, trong đổi mới tư

duy thì đổi mới tư duy chính trị được xem là nhiệm vụ hàng đầu; trong đổi mới tư

duy chính trị yêu cầu trước tiên được đặt ra là quá trình đổi mới phải được tiến hành

117

thận trọng, từng bước, chắc chắn và luôn đặt yêu cầu giữ vững sự ổn định chính trị

là yếu tố quyết định hàng đầu.

Tác động thuận chiều của yếu tố chính trị trong nước đến VHCT trong

NTQĐ được biểu hiện: sự ổn định về chính trị giúp cho chủ thể VHCT sự bồi

dưỡng về lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước, tin

vào chế độ, từ đó hình thành động cơ, thái độ chính trị đúng đắn, có tình cảm chính

trị cao đẹp, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Sự ổn

định về chính trị là tiền đề vững chắc cho sự giác ngộ cách mạng của quân nhân làm

cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới. Đối với giá trị VHCT, sự ổn định về chính trị giúp khẳng định và củng cố tính

đúng đắn trong triết lý chính trị của Đảng, sự chuẩn tắc của các chuẩn mực chính

trị, đồng thời cũng là tiền đề giúp cho sự phát huy các di sản và truyền thống chính

trị. Khi nhân tố chính trị ổn định, sự vận hành của thể chế, thiết chế VHCT cũng

theo đó ổn định và hiệu quả hơn [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.1.6. Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu nhiệm vụ

xây dựng quân đội trong tình mới

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, thực hiện chiến lược xây dựng

quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sự phát triển của

NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình mới là động lực cơ

bản và là một trong những yếu tố tác động thuận chiều đến VHCT trong nhà

trường quân đội.

Mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là, hệ thống NTQĐ sẽ được tổ chức theo

hướng gọn, mạnh, hợp lý phù hợp với phương hướng xây dựng QĐND Việt Nam.

Tuy nhiên, về cơ bản giữ ổn định về cơ cấu tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ,

ngành nghề, lưu lượng, bậc học, trình độ đào tạo; thực hiện đổi mới, hoàn thiện quy

trình, chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, giảm lý

thuyết, tăng thực hành và tình huống thực tiễn, tăng nội dung chuyên ngành phù

hợp với đặc thù của quân đội, địa bàn chiến đấu, tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị

và vận dụng sáng tạo cách đánh truyền thống, bổ sung điều chỉnh cách đánh mới

với đối tượng tác chiến sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, quan

trọng trực tiếp, quyết định đến việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên

118

cứu khoa học trong các học viện, nhà trường. Vì vậy, mục tiêu đặt ra trong những

năm tới là: Đến năm 2020 là có 100% giảng viên các học viện, trường sĩ quan,

trường đại học có trình độ đại học, trong đó có hơn 60% trình độ sau đại học (25%

trở lên là tiến sĩ), thực hiện 100% giảng viên giảng dạy đại học có trình độ sau đại

học; 90% giáo viên các trường cao đẳng, trung cấp, trường quân sự quân khu, quân

đoàn có trình độ đại học, trong đó có 25% sau đại học [16].

Định hướng chung xây dựng và phát triển hệ thống NTQĐ có tác động toàn

diện và mạnh mẽ đến VHCT trong NTQĐ, theo đó, những vấn đề như: yêu cầu sắp

xếp trong tổ chức, biên chế của cả hệ thống NTQĐ; mục tiêu, yêu cầu đào tạo của

từng trường, mỗi cấp đào tạo sẽ có những đổi mới. Yêu cầu quy hoạch, sắp xếp lại

hệ thống NTQĐ đặt ra yêu cầu cao đối với chủ thể VHCT, đòi hỏi các cá nhân phải

có sự cố gắng nỗ lực vượt bậc và theo đó nhận thức, động cơ, thái độ trước yêu cầu

nhiệm vụ cũng được nâng lên; các giá trị chính trị cũng theo đó được phát huy trong

thực tiễn. Yêu cầu đổi mới sắp xếp và quy hoạch hệ thống NTQĐ cũng tạo tiền đề

thuận lợi cho thiết chế chính trị và hoạt động VHCT được hiệu quả hơn.

Định hướng phát triển NTQĐ luôn gắn với sự phát triển môi trường VHCT

tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng mà

trước hết là phát huy năng lực sáng tạo của các chủ thể, vì vậy, việc xây dựng môi

trường VHCT lành mạnh là một nội dung quan trọng để phát triển năng lực sáng tạo

của các chủ thể trong nhà trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.2. Những yếu tố tác động trái chiều

Những tác động trái chiều đến VHCT trong NTQĐ hiện nay bao gồm những

yếu tố chủ yếu sau: sự chống phá của các thế lực thù địch; toàn cầu hóa, kinh tế thị

trường; sự phát triển của khoa học công nghệ, truyền thông; tác động trái chiều của

yếu tố văn hóa, chính trị trong nước và tác động trái chiều từ những hạn chế, yếu

kém của công tác tác tư tưởng, văn hóa trong quân đội cũng như công tác xây dựng

nhà trường quân đội hiện nay.

4.1.2.1. Tác động từ sự chống phá của các thế lực thù địch

Trong giai đoạn hiện nay và dự báo trong thời gian tới, sự chống phá của các

thế lực thù địch vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, các thế lực vẫn chưa bao giờ từ bỏ

âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch

xuất phát từ nhiều hướng, nhiều mũi, cả bên ngoài và bên trong, vừa mang yếu tố

119

toàn cầu vừa mang tính cụ thể, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt

là trên mặt trận chính trị tư tưởng và văn hóa.

Đối với quân đội, cần phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn hết sức xảo

quyệt, tinh vi của các thế lực thù địch trên một số vấn đề chủ yếu sau: các thế lực

thù địch tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng, nhằm làm biến

chất chính trị quân đội; ra sức xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn

giáo ở Việt Nam, nhằm làm cho quân đội mất phương hướng chính trị và suy giảm

bản lĩnh chiến đấu; đẩy mạnh xuyên tạc quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng về

nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sai lệch về đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hiện nay.

Tác động trái chiều của “diễn biến hòa bình” đối với VHCT trong NTQĐ

biểu hiện: phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giảm sút niềm tin của các chủ

thể đối với chế độ, nhằm phá bỏ niềm tin chính trị và uy tín của cấp ủy, chỉ uy các

cấp; trong phá hoại về tư tưởng và văn hóa, tập trung phá hoại truyền thống văn hóa

dân tộc, truyền thống quyết chiến quyết thắng của quân đội, các chuẩn mực đạo

đức, lối sống, cổ xúy cho tệ sùng ngoại, xem nhẹ những giá trị văn hóa của dân tộc,

những giá trị chuẩn mực của người quân nhân cách mạng, cổ vũ cho lối sống thực

dụng, cá nhân vị kỷ, ham muốn làm giàu, ham muốn quyền lực cực đoan. Sự nguy

hiểm của “diễn biến hòa bình” đối với VHCT trong NTQĐ còn được thể hiện ở chỗ:

lợi dụng cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng để công phá niềm tin của quần

chúng vào Đảng, tạo ra những khoảng trống về lý luận và tư tưởng, mất định hướng

chính trị và hướng tới gây áp lực chính trị đòi thay đổi chế độ [Phụ lục 5, Bảng 9].

Các thế lực hiếu chiến và thù địch đề ra và thực thi chiến lược “diễn biến hòa

bình”, thông qua các con đường tuyên truyền tự do, dân chủ, nhân quyền, khuyếch

trương tính ưu việt của kinh tế, khoa học kỹ thuật công nghệ và các giá trị tư bản

khác... coi chủ nghĩa tư bản là “tấm gương”, rồi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,

dẫn đến hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn và xa rời chính trị” (Lời Tổng Bí thư

Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 11 nhiệm kỳ 2017-

2022, ngày 11/12/2017, tại Hà Nội), rơi vào âm mưu thâm độc của chúng.

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ để

thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, chống phá quân đội về

chính trị với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Đặc biệt thời

120

gian gần đây, sau những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, một số trí thức đã có

những phát ngôn không mang tính xây dựng, đáng chú ý trong đó có cả tướng lĩnh,

anh hùng lực lượng vũ trang, gây hoang mang trong dư luận và quân đội nói riêng.

Vì vậy, nhiệm vụ nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng, xây dựng, bồi dưỡng và

phát triển, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, quân đội, trong đó đặc biệt coi trọng

và đề cao các giá trị VHCT cho mọi quân nhân là một trong những yêu cầu cấp thiết

của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong QĐND Việt Nam nói chung,

trong đó có nhà trường quân đội.

4.1.2.2. Mặt trái của toàn cầu hóa

Những lợi thế do toàn cầu hóa mang lại là rất rõ ràng, tuy nhiên, không có

toàn cầu hóa kinh tế một cách thuần nhất, mà là sự mở rộng tới mọi lĩnh vực của đời

sống xã hội, như chính trị, văn hóa đồng thời đặt ra những thách thức với biểu hiện

đồng hóa văn hóa (hoặc các mặt kinh tế, xã hội), dưới sức ép của quyền lực nước

lớn muốn áp đặt văn hóa và hệ thống tư tưởng của mình lên các quốc gia khác trên

phạm vi toàn cầu. Từ đó cho thấy nguy cơ đang đặt ra những mối đe dọa và thách

thức lớn đối với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ảnh

hưởng tiêu cực đến VHCT trong nhà trường quân đội.

Trước hết, xem nhẹ tính kế thừa các giá trị văn hóa dân tộc, thúc đẩy sự

truyền bá các giá trị phương Tây, khai thác và cổ vũ cho tâm lý hưởng lạc vật chất

tầm thường, đánh vào thị hiếu thấp hèn của một bộ phận dân chúng và cán bộ, công

chức trong hệ thống chính trị làm thay đổi quan niệm về giá trị văn hóa truyền

thống đặc biệt là giới trẻ. Chủ thể VHCT trong NTQĐ cũng chịu những tác động

tiêu cực đến từ yếu tố toàn cầu, biểu hiện tâm lý ngại học, ngại rèn, không chịu khó

tìm hiểu lịch sử truyền thống đơn vị, truyền thống quân đội và đất nước, tiếp nhận

tràn lan những giá trị ngoại lai không phù hợp với môi trường sư phạm quân sự;

chạy theo thành tích, biểu hiện tiêu cực trong học tập và công tác.

Nhận định, đánh giá về những hạn chế, yếu kém trọng việc giao lưu, hội

nhập quốc tế về văn hóa, văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã viết: “Tình

trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước

ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là

lớp trẻ” [38, tr.45-46].

121

Chiến lược “diễn biến hòa bình” đã được các thế lực thù địch tận dụng toàn

cầu hóa và chính sách đối ngoại mở cửa của Việt Nam để thực hiện âm mưu phá

hoại chính trị tư tưởng và văn hóa, nhằm tạo ra tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển

hóa” về chính trị, tư tưởng và văn hóa. Đây là nguy cơ tiềm ẩn những nguy hiểm

lớn, cần có sự cảnh giác cao độ hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ được Đảng ta đề ra là

cần có sự chủ động trong hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa

nhân loại: “Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ

gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu

cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa” [38, tr.57-58].

Trong dự báo những nhân tố tác động đến sự phát triển văn hóa Việt Nam

giai đoạn 2011 - 2020, các nhà nghiên cứu đã nhận định sáu xu hướng chính ngày

càng gia tăng của văn hóa thế giới giai đoạn 2011 - 2020, bao gồm: xu hướng đan

xen giữa mở rộng giao lưu và khẳng định bản sắc riêng biệt ngày càng gia tăng; xu

hướng chuyển từ văn hóa đẳng cấp sang văn hóa đại chúng và phi đại chúng hóa

ngày càng gia tăng; xu hướng đề cao văn hóa trong đối ngoại ngày càng gia tăng;

xu hướng gắn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế ngày càng gia tăng; xu

thế đề cao giá trị văn hóa tinh thần trên thế giới và xu thế gắn kết chặt chẽ giữa

các thành tựu khoa học - công nghệ với sự phát triển các loại hình văn hóa ngày

càng gia tăng [46, tr.341-346].

4.1.2.3. Mặt trái của kinh tế thị trường

Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường làm xuất hiện tư tưởng “duy kinh tế” thể

hiện việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá dẫn tới xu hướng thương mại hóa văn

hóa, coi trọng mục tiêu kinh tế xem nhẹ thậm chí bỏ qua những mục tiêu văn hóa.

Nghiêm trọng hơn, nhân tố kinh tế thị trường đã và đang làm cho xu hướng đầu cơ,

trục lợi văn hóa ngày càng gia tăng, những giá trị đích thực của văn hóa nhiều khi

không được coi trọng.

Đối với VHCT trong NTQĐ, mặt trái của kinh tế thị trường đã ảnh hưởng

trực tiếp đến phẩm chất đạo đức và lối sống của các chủ thể, làm xuất hiện lối

sống vị kỷ, chạy theo lợi ích vật chất bằng mọi giá, lợi ích nhóm, tham nhũng,

tiêu cực, các giá trị, chuẩn mực bị xem nhẹ, suy thoái về chính trị và suy thoái về

đạo đức, lối sống. Đặc biệt trong thời gian qua, do sự tác động trái chiều của

nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kinh tế thị trường là quan trọng đã làm cho một số

122

tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp của quân đội bị kỷ luật khai trừ đảng và cách chức đã

ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin chính trị của chủ thể VHCT trong nhà

trường quân đội [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.2.4. Tác động của sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông

Xét về bản chất, sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông là

những thành tựu tiến bộ của văn minh nhân loại và đã đem lại những lợi thế nhất

định cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã triệt

để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ

và truyền thông để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta, tạo ra

sự tác động trái chiều trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa, trong đó có

VHCT trong nhà trường quân đội.

Đối với NTQĐ, biểu hiện rõ nét nhất là thông qua những thành tựu mới trong

lĩnh vực công nghiệp chế tạo vũ khí đã làm xuất hiện tư tưởng “vũ khí luận”, tấn

công trực diện vào luận điểm lý luận cách mạng của chủ ngĩa Marx - Lenin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh quyết định của yếu tố chính trị tinh thần, dẫn đến

coi thường yếu tố con người trong mối quan hệ giữa con người và vũ khí, làm cho

chủ thể VHCT dao động, mất niềm tin vào sức mạnh của ý chí, nghi ngờ tư tưởng

“người trước, súng sau”. Mặt khác, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt

là công nghệ số và Internet dải rộng đã kéo theo phương thức mới chống phá của

các thế lực thù địch, sử dụng triệt để không gian mạng chống phá Đảng, Nhà nước

trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn hóa diễn ra hết sức quyết liệt. Quan niệm về

tính chất, mức độ và hình thức của cuộc chiến tranh ngày nay đã có sự thay đổi căn

bản, chiến tranh không chỉ diễn ra ở không gian thực là trên không, trên biển và trên

bộ như quan niệm truyền thống mà còn là cuộc chiến trên không gian mạng và là

cuộc chiến diễn ra hàng ngày, hàng giờ; tính chất của cuộc chiến không còn căn cứ

vào tiếng súng…. Tất cả những thay đổi trên đều có tác động trái chiều đên VHCT

trong nhà trường quân đội [Phụ lục5, Bảng 9].

Dự báo trong những năm tới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ vận

động theo ba xu hướng chính và ngày càng gia tăng, bao gồm: xu thế phát triển khoa

học công nghệ gắn với sự phát triển văn hóa; xu thế vận động và phát triển khoa học

123

và công nghệ hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống con người và bảo vệ môi

trường; xu hướng đề cao khoa học xã hội và nhân văn gia tăng [46, tr.333-340].

4.1.2.5.Tác động trái chiều của yếu tố văn hóa và chính trị trong nước

Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, những giá trị văn hóa truyền thống dân

tộc cũng đặt ra những thách thức, bộc lộ những hạn chế, tiêu cực và có nguy cơ biến

đổi theo hướng tha hóa, những giá trị văn hóa tốt đẹp bị biến dạng, đạo lý “tôn sư

trọng đạo” đã có biểu hiện thành tệ tiêu cực trong giáo dục; tệ mê tín dị đoan trở nên

phổ biến, đáng chú ý là không chỉ trong một bộ phận dân chúng mà đã xuất hiện

nhiều quan chức tin vào bói toán và đánh mất niềm tin vào thực tiễn. Xét dưới góc độ

VHCT, những hạn chế, tiêu cực được chỉ ra có tác động sâu sắc đến lý tưởng, niềm

tin và thái độ chính trị của đông đảo quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và

chế độ, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động chính trị trong thực tiễn.

Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém được chỉ ra bao gồm sự ảnh hưởng

của văn hóa phương Tây, do toàn cầu hóa đem lại; sự tác động của mặt trái cơ chế

thị trường và một trong những nguyên nhân không thể không nhắc đến là trình độ

dân trí chưa theo kịp và chưa được nâng cao một cách có hệ thống như Nghị quyết

Hội nghị Trung ương Năm khóa VIII nhận định: “Công tác nghiên cứu lý luận chưa

làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc

xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong

việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn

hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế” [10, tr.204].

Đối với VHCT trong NTQĐ, mặt trái của những yếu tố văn hóa truyền thống

được biểu hiện ở những hạn chế, tiêu cực trong xây dựng môi trường văn hóa sư

phạm quân sự, tệ cục bộ địa phương, gây mất đoàn kết, tham nhũng, lợi ích nhóm

ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu, nhiệm vụ phát huy dân chủ ở cơ sở; từ nét đẹp tôn

sư trọng đạo đã có sự biến tướng thành tiêu cực trong giáo dục, chạy theo thành tích

ảnh hưởng nghiêm trọng đến định hướng xây dựng và phát triển VHCT trong nhà

trường quân đội.

Trong bước ngoặt chuyển đổi, cơ chế quản lý xã hội có nội dung chưa thực

sự hoàn thiện; hệ thống thể chế và thiết chế chính trị, xây dựng nền dân chủ và phát

huy sức sáng tạo trong Nhân dân còn có những hạn chế nhất định tác động trái

chiều đến VHCT nói chung.

124

Các yếu tố văn hóa và chính trị trong nước có tác động mạnh mẽ đến VHCT

trong NTQĐ, trước hết là tác động tới nhân cách chính trị cá nhân của các chủ

thể, ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất đạo đức, lối sống của quân nhân, lý

tưởng và niềm tin chính trị; những cải cách, đổi mới trong hệ thống chính trị dẫn

đến sự điều chỉnh về tổ chức biên chế trong quân đội nói chung và NTQĐ nói

riêng gây ra những băn khoăn, dao động cho các chủ thể. Các giá trị VHCT trong

NTQĐ cũng chịu sự tác động của yếu tố văn hóa và chính trị trong nước và từ đó

đặt ra yêu cầu phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội, trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân, không ngừng củng

cố và bồi đắp thêm những giá trị truyền thống tiêu biểu “quyết chiến, quyết

thắng” của quân đội, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội

của Đảng [Phụ lục 5, Bảng 9].

4.1.2.6. Tác động trái chiều từ những hạn chế của công tác tác tư tưởng,

văn hóa trong quân đội

Trong xây dựng quân đội cách mạng, công tác tư tưởng, văn hóa giữ vai trò

quan trọng, là một bộ phận trong hoạt động lãnh đạo của Đảng góp phần xây dựng

tổ chức đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo

động lực quan trọng giúp hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

Đối với NTQĐ, thời gian vừa qua, công tác tư tưởng, văn hóa đã giúp

tăng cường, củng cố sự lãnh đạo của Đảng tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với

nhiệm vụ đào tạo cán bộ quân đội, bảo đảm sự ổn định về chính trị, tư tưởng và

văn hóa trong nhà trường quân đội. Tuy nhiên, công tác tư tưởng, văn hóa trong

NTQĐ cũng bộc lộ những hạn chế bất cập. Trước hết, nhận thức của chủ thể về

công tác tư tưởng, văn hóa chưa thật đầy đủ; nội dung, hình thức và biện pháp

tiến hành công tác tư tưởng, văn hóa ở một số trường còn giáo điều, thiếu linh

hoạt, hiệu quả thấp; đầu tư trang bị cơ sở vật chất còn chậm đổi mới, thiếu đồng

bộ; chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng, các tổ chức trong tiến

hành công tác tư tưởng, văn hóa. Những hạn chế, bất cập trên đã tác động tiêu

cực đến VHCT trong NTQĐ, biểu hiện: đối với chủ thể VHCT, đặc biệt là chủ

thể giữ cương vị lãnh đạo, chỉ huy năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu trong

công tác tư tưởng, văn hóa còn hạn chế, biểu hiện: “Thiếu tu dưỡng, rèn luyện,

có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có biểu hiện lối

125

sống thực dụng, chưa hết mình vì tập thể, còn tư tưởng chủ nghĩa cá nhân; sa vào

tệ nạn xã hội” [121, tr.64]; các giá trị VHCT chưa được phát huy trong thực hiện

nhiệm vụ; sự vận hành của các thiết chế VHCT chưa đem lại hiệu quả thiết thực;

hoạt động VHCT chưa có sự gắn kết, hiệu quả chưa cao, ảnh hưởng trực tiếp đến

chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong nhà trường quân đội [Phụ lục

5, Bảng 9].

4.1.2.7. Tác động trái chiều từ công tác xây dựng nhà trường quân đội

hiện nay

Công tác xây dựng NTQĐ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược xây

dựng QĐND Việt Nam, trong những năm qua, được sự quan tâm của QUTW và

BQP, bằng sự nỗ lực cố gắng của của hệ thống nhà trường trong toàn quân, công tác

xây dựng NTQĐ đã đạt được những thành tích quan trọng, góp phần thực hiện

thắng lợi hiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ

ngày càng cao, công tác xây dựng NTQĐ còn một số hạn chế, khuyết điểm: “Quy

trình, chương trình đào tạo cán bộ còn trùng lặp, chất lượng giáo dục, đào tạo, xây

dựng chính quy của một số trường chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình

mới, còn để xảy ra vụ việc vi phạm kỷ luật, pháp luật, mất an toàn giao thông, mất

an toàn trong huấn luyện” [20, tr.10]. Tại TSQLQ1, qua kiểm tra toàn diện của Bộ

Tổng tham mưu năm 2019, đã chỉ ra những hạn chế trên các mặt công tác, đáng chú

ý là những hạn chế trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đó là: “Nắm, quản lý

tư tưởng có thời điểm chưa thật hiệu quả; cán bộ, học viên còn vi phạm kỷ luật phải

xử lý; 10 học viên vi phạm kỷ luật bị thải loại; kiểm tra nhận thức chính trị một số

học viên nắm kiến thức về chính trị, xã hội chưa toàn diện” [22, tr.7]

Những hạn chế, khuyết điểm trên có tác động tiêu cực đến VHCT trong

NTQĐ, biểu hiện: đối với chủ thể VHCT, nhận thức về chính trị xã hội chưa toàn

diện, năng lực thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có biểu hiện suy thoái về

chính trị, đạo đức, lối sống, thực dụng, lợi ích nhóm, cá nhân chủ nghĩa, sa vào tệ

nạn xã hội… ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu xây dựng và phát triển VHCT, các

giá trị VHCT trị như lý tưởng và niềm tin chính trị, tình cảm chính trị sẽ bị tác động

tiêu cực; sự vận hành các thiết chế VHCT, hoạt động VHCT sẽ không mang lại hiệu

quả như mong muốn qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ

trong nhà trường quân đội.

126

4.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

Thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ là tổng thể các cách thức, biện pháp

giúp cho nhân cách chủ thể VHCT ngày càng hoàn thiện hơn, các giá trị VHCT

ngày càng được phát huy và tỏa sáng; hệ thống thể chế, thiết chế chính trị được quy

hoạch, cơ cấu và vận hành đảm bảo tính khoa học, dân chủ và nhân văn hơn; hệ

thống hoạt động chính trị bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo cán bộ quân đội và

mang lại hiệu quả thiết thực hơn nữa trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất chất

lượng đào tạo cán bộ quân đội.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực

hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT đã

trở thành yêu cầu cấp thiết, quan trọng và có nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự

nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đối với

NTQĐ, yêu cầu nhiệm vụ nâng cao VHCT đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề đặt

ra cần phải giải quyết.

4.2.1. Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa

chính trị trong nhà trường quân đội

Văn hóa bao giờ cũng mang tính chủ thể, chủ thể VHCT trong NTQĐ bao

gồm cá nhân của từng quân nhân và tổ chức cơ sở đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức

quần chúng. Nhận thức và trách nhiệm của chủ thể VHCT là tiền đề quan trọng để

xác định phương hướng, mục tiêu, yêu cầu, nội dung và biện pháp thúc đẩy, nâng

cao văn hóa chính trị. Tính thuyết phục và hiệu quả của các chủ trương, kế hoạch

phụ thuộc vào mức độ nhận thức và trách nhiệm của chủ thể VHCT, đặc biệt là chủ

thể giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến nhận thức

và trách nhiệm của các chủ thể VHCT còn lại trong nhà trường quân đội.

Trong thực tế, VHCT đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng nhằm

xác định mức độ trưởng thành về nhân cách, tư cách công dân, trình độ văn hóa, lối

sống văn hóa của cá nhân, của tổ chức. Với vai trò quan trọng trong nhận thức các

hiện tượng, các quá trình chính trị, các tri thức chính trị sẽ giúp cho chủ thể có định

hướng chính trị đúng đắn.

Văn hóa chính trị của chủ thể trong NTQĐ được bộc lộ trên các phương diện

chủ yếu: phẩm chất chính trị; hành vi và hoạt động chính trị; lý tưởng và niềm tin

127

chính trị của lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên, học viên. Văn hóa chính trị cá nhân của

chủ thể VHCT trong NTQĐ chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: truyền

thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; lý tưởng cách mạng của

ĐCSVN; động cơ và lợi ích chính trị của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động;

các yếu tố truyền thống xây dựng chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam;

truyền thống đào tạo, chiến đấu, trưởng thành của mỗi trường. Nâng cao nhận thức

toàn diện cho chủ thể có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đảm bảo tính định hướng của

VHCT trong thực hiện mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường quân đội.

Yêu cầu đặt ra trong nâng cao VHCT trong NTQĐ, trước hết phải đảm bảo

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nói chung và nhiệm vụ đào tạo

cán bộ trong NTQĐ nói riêng. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc, cần phải nhận

thức và quán triệt sâu sắc, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt

của Đảng đối với quân đội. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã

và đang có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch bên ngoài và

các phần tử cơ hội, phản động trong nước ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến

hòa bình”, thực hiện âm mưu đòi “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy từng bước

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ quân đội. Vì vậy, cần phải nâng cao

nhận thức toàn diện, trong đó, nâng cao trình độ lý luận chính trị, tập trung nâng cao

nhận thức về chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng

về xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, VHCT nói riêng; yêu cầu nhiệm vụ

xây dựng quân đội trong tình mới

Thực tiễn hiện nay cho thấy, nhận thức chính trị của một số chủ thể VHCT

trong NTQĐ chưa toàn diện, thiếu sâu sắc; nhận thức về một số vấn đề cơ bản của

chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận về văn hóa

gắn với thực thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn xây dựng quân đội và yêu cầu

phát triển NTQĐ của một số ít cấp ủy, tổ chức đảng và cá nhân người đứng đầu

chưa thực sự đầy đủ, thiếu chiều sâu; sự quan tâm nhằm nâng cao năng lực lãnh

đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, duy trì và nâng cao chất lượng sinh

hoạt đảng vẫn còn ở mức hạn chế, thậm chí buông lỏng, dẫn đến vi phạm kỷ luật

phải xử lý, đã có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về

chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống trong môi trường sư phạm quân sự, ảnh

hưởng nghiêm trọng đến công tác đào tạo cán bộ.

128

Mặt khác, để nâng cao nhận thức toàn diện cho các chủ thể VHCT trong

NTQĐ cần phải trang bị những tri thức về khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo và

khoa học về văn hóa gắn với việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ theo

yêu cầu nhiệm vụ của từng chủ thể. Bởi vì, sự hiểu biết sâu sắc những tri thức khoa

học về chính trị, khoa học về văn hóa gắn với năng lực chuyên môn là yếu tố quyết

định đến chất lượng đội ngũ cán bộ, là điều kiện tiên quyết để tạo động lực mạnh

mẽ thúc đẩy nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội. Đặc biệt là đối với học

viên trong NTQĐ, cùng với trang bị những tri thức về chính trị, cần phải tập trung

trang bị tri thức khoa học quân sự gắn với định hướng nghề nghiệp và sự phát triển

hoàn thiện nhân cách của người quân nhân cách mạng. Vì vậy, phải thực hiện tốt

hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thông qua giáo dục thường xuyên và

giáo dục theo chuyên đề; có kế hoạch quy hoạch và bồi dưỡng cho lãnh đạo, chỉ huy

và cán bộ chuyên trách về các mặt công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp và chính

quy trong tất cả các hoạt động của nhà trường quân đội.

Yêu cầu nâng cao nhận thức toàn diện cho các chủ thể không chỉ là trách

nhiệm của một cá nhân lãnh đạo, chỉ huy hay một bộ phận, một tổ chức trong

NTQĐ, mà đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Hiện nay ở một số đơn vị

vẫn còn tồn tại nhận thức sai lệch về vấn đề này, biểu hiện là, xem nhẹ công tác

giáo dục chính trị tư tưởng, coi đó là công việc của cán bộ chính trị, của người chỉ

huy hoặc của cơ quan chính trị. Trong thực tế, mỗi tổ chức, mỗi lực lượng có vị trí,

vai trò và chức năng riêng nhưng đều có chung trách nhiệm trong việc nâng cao

nhận thức toàn diện cho các chủ thể. Vì vậy, để nâng cao nhận thức và trách nhiệm

cho chủ thể VHCT trong NTQĐ cần phải có sự vào cuộc của tất cả tổ chức và cá

nhân trong đơn vị nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống [PL10, tr. 249].

Nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho các chủ thể cần

tập trung vào một số vấn đề cơ bản như: trang bị những vấn đề lý luận cho các chủ

thể, những vấn đề lý luận cần được giáo dục thường xuyên bao gồm cả lý luận

chính trị và lý luận về văn hóa; bám sát sự vận động của thực tiễn, yêu cầu nhiệm

vụ đào tạo cán bộ quân đội; thường xuyên giáo dục động viên các chủ thể nắm vững

những vấn đề lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và

nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; giữ vững phẩm chất đạo

129

đức, lối sống và đề cao trách nhiệm của bản thân trước yêu cầu nhiệm vụ. Các yêu

cầu nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho chủ thể VHCT có

quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy cần phải vận dụng linh hoạt và tiến hành đồng bộ

tất cả các nội dung.

Để thực hiện tốt yêu cầu nội dung giáo dục nâng cao nhận thức và trách

nhiệm cho chủ thể VHCT trong NTQĐ cần tiến hành có hiệu quả những biện pháp

chủ yếu sau:

Thứ nhất, giáo dục, quán triệt cho các chủ thể VHCT nắm vững những vấn

đề cơ bản của chủ nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của

Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước; Điều lệnh, điều lệ của quân đội và quy

định của mỗi trường.

Lý luận đóng vai trò quan trọng vì nó là hệ thống tư tưởng chủ đạo được

hình thành trên cơ sở tổng hợp các tri thức và kinh nghiệm đã được tích lũy trong

quá trình lịch sử. Lý luận được đem ra giáo dục cho quân nhân, trước hết là lý luận

chính trị - tư tưởng, lý luận cách mạng của chủ nghĩa Marx - Lenin và tư tưởng Hồ

Chí Minh; lý luận liên quan trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tới

việc củng cố lập trường tư tưởng và nhân sinh quan của người cán bộ đảng viên và

của mọi quân nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đã lựa chọn đúng cán bộ cần

phải dạy bảo lý luận cho cán bộ” [86, tr.276]

Học tập chủ nghĩa Marx - Lenin là học tập tinh thần, lập trường, quan điểm

và phép biện chứng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, gắn chặt với

thực tiễn và không ngừng tổng kết thực tiễn. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh không

chỉ là học tập tư tưởng lý luận mà còn là học tập đạo đức và phong cách của Người.

Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức chủ nghĩa Marx - Lenin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, cần phải luôn luôn đề cao cảnh giác, nhận thức rõ đối tượng và

đối tác cho các chủ thể. Việc nắm vững quan điểm, đường lối chính trị của Đảng,

chính sách, luật pháp của Nhà nước, quy định của quân đội chính là cơ sở chủ yếu

để nâng cao VHCT cho chủ thể. Nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, giữ

vững tính kiên định chính trị, nhằm quán triệt đúng đắn đường lối chính trị, kiên trì

sự lãnh đạo của Đảng để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Bất kỳ một sự

dao động, nghiêng ngả hoặc vi phạm chính sách, luật pháp Nhà nước, kỷ luật quân

đội, đặc biệt là những vấn đề thuộc về nguyên tắc của Đảng đều có thể dẫn đến sự

130

suy thoái không chỉ VHCT của cá nhân mà còn gây hại lớn cho Đảng và chế độ,

ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và sức mạnh tổng hợp của quân đội.

Đối với chủ thể VHCT trong NTQĐ trước hết là lãnh đạo, chỉ huy, giảng

viên, phải tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Marx - Lenin; tư tưởng Hồ

Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp Nhà nước;

thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt điều lệnh, điều lệ quân đội và các quy định

của mỗi trường, xem đây là điều kiện cơ bản để nâng cao trình độ lý luận, khả năng

công tác và thực hành đạo đức cách mạng để nâng cao văn hóa chính trị.

Thứ hai, chủ động trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học chính trị, khoa

học lãnh đạo và những vấn đề lý luận văn hóa gắn với nâng cao trình độ chỉ huy,

năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, đặc biệt là

cán bộ chủ trì các cấp.

Chính trị là một lĩnh vực rất phong phú, vì vậy phải chủ động trang bị những

tri thức căn bản cho đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy và giảng viên và học viên giúp họ tránh

được những căn bệnh do ảo tưởng chính trị gây ra. Trong bối cảnh hiện nay, muốn

giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn chính trị đặt ra cần phải dựa chắc chắn

trên những luận cứ chính xác của khoa học. Khoa học chính trị và khoa học lãnh đạo

giúp trang bị kiến thức và kỹ năng, nắm bắt và phân tích kịp thời những sự kiện, quá

trình và tình huống chính trị cụ thể, khả năng phân tích tâm trạng, thái độ, phản ứng

chính trị ở những thời điểm khác nhau để có những quyết sách tương ứng và kịp thời.

Trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy và năng lực chuyên môn là nhân tố quan

trọng quyết định đến chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và giảng viên, do

vậy bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực toàn diện là một việc làm mang tính

thường xuyên và cần thiết nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

trong nhà trường quân đội.

Để nâng cao trình độ, năng lực toàn diện một cách hiệu quả, lãnh đạo chỉ huy

các cấp cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi cá nhân có ý

thức tự học, tự nghiên cứu. Phải xem nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy,

năng lực chuyên môn là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển, làm cho điều đó trở

thành những khát khao, thành nhu cầu tự thân, thành động lực bên trong của mỗi cá

nhân, có như vậy mới phát huy được tính tự chủ, tự giác, độc lập và sáng tạo trong

quá trình tự học, tự nghiên cứu để không ngừng hoàn thiện và vươn lên.

131

Đối với học viên, quá trình học tập và rèn luyện ở nhà trường, học viên được

trang bị đầy đủ kiến thức giáo dục đại cương, bao gồm những vấn đề lý luận chủ

nghĩa Marx - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức khoa học xã hội và nhân văn,

ngoại ngữ, tin học; nhóm kiến thức giáo dục chuyên nghiệp bao gồm, kiến thức cơ

sở ngành, kiến thức ngành và kiến thức chuyên ngành, đây là nhóm kiến thức quân

sự phục vụ trực tiếp cho định hướng nghề nghiệp của học viên sau khi ra trường.

Nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho học viên, trước hết là nâng cao nhận

thức về lý tưởng và niềm tin chính trị, hình thành xu hướng nghề nghiệp (binh

nghiệp) rõ ràng, khẳng định niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào

chế độ xã hội chủ nghĩa, sống có hoài bão, ước mơ chính đáng, có tình cảm đồng

chí, đồng đội trong sáng, đúng mực.

Những tiêu chí về phẩm chất, đạo đức, lối sống và năng lực học tập, công tác

của học viên được xác định: Có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, say mê nghiên

cứu, nắm vững kiến thức, có chí vươn lên; học đi đôi với hành, xung kích, sáng tạo,

sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đoàn kết, đồng cam cộng

khổ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, sống trung thực, giản dị, tiết kiệm, có văn hóa;

khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy

định của nhà trường và bảo đảm an toàn; kính thầy, yêu bạn, lễ phép với Nhân dân,

có trách nhiệm với bản thân, gia đình và đơn vị [42].

Thứ ba, bám sát sự chỉ đạo của cấp trên kết hợp phát huy tốt vai trò của các

tổ chức chính trị và của cán bộ chủ trì các cấp trong công tác kiểm tra, đôn đốc, kịp

thời biểu dương, khen thưởng động viên những tổ chức, cá nhân có thành tích trong

việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể đồng thời cũng chỉ ra được

những hạn chế, khuyết điểm để khắc phục.

Việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể VHCT trong NTQĐ

chỉ có thể có hiệu quả khi bám sát vào sự chỉ đạo của cấp trên và sự vào cuộc của

các tổ chức, các lực lượng. Trong đó, trước hết là tổ chức đảng, với vai trò là hạt

nhân lãnh đạo trong các cơ quan, khoa và đơn vị của mỗi nhà trường, phải quán triệt

sâu sắc nghị quyết, chỉ thị các cấp về công tác tư tưởng nói chung và giáo dục chính

trị nói riêng gắn với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi trường. Với tổ chức chỉ huy

và các tổ chức quần chúng như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Phụ nữ, trên cơ sở

nghị quyết lãnh đạo của đảng ủy, triển khai nhiệm vụ của người chỉ huy, căn cứ vào

132

chức năng, nhiệm vụ của tổ chức chủ động xây dựng kế hoạch hành động phù hợp,

coi trọng công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.

Như vậy, công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể

VHCT có vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả nâng

cao VHCT trong NTQĐ, qua đó tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo cán bộ

quân đội của Đảng [Phụ lục 5, Bảng 10].

4.2.2. Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động

lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại

Giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống của dân tộc và quân đội đi

đôi với chủ động trong lựa chọn và tiếp tnhận những tri thức mới của nhân loại

nghĩa là xuất phát từ vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của các giá trị truyền

thống, giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại đối với yêu cầu xây dựng quân đội trong

tình hình mới, thông qua đó nhằm làm cho nhận thức và trách nhiệm của chủ thể

VHCT trong NTQĐ ngày càng sâu sắc hơn đối với truyền thống tốt đẹp của dân

tộc, truyền thống vẻ vang của Đảng, truyền thống anh hùng của quân đội, của nhà

trường; làm cho niềm tự hào về các giá trị truyền thống kết hợp hài hòa với những

thành tựu mới của nhân loại trở thành sức mạnh nội sinh, thành động lực mạnh mẽ

thôi thúc các chủ thể khắc phục khó khăn hoàn thành tốt hơn nữa chức trách nhiệm

vụ được giao, góp phần thúc đẩy VHCT và phát triển môi trường văn hóa quân sự,

đưa sự nghiệp đào tạo cán bộ trong NTQĐ lên một tầm cao mới.

Khái niệm truyền thống được hiểu là tập hợp những tư tưởng, tình cảm,

những tập quán, những thói quen, những kinh nghiệm, lối sống, cách ứng xử của

các chủ thể trong một cộng đồng được hình thành trong lịch sử, mang tính ổn định,

bền vững và được lưu truyền qua các thế hệ. Truyền thống biểu hiện trong mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội nhưng tập trung chủ yếu ở lĩnh vực văn hóa.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính hai mặt của truyền thống

được gọi là hai loại truyền thống: truyền thống tốt đẹp (vẻ vang, quý báu) và truyền

thống lạc hậu. Người viết “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống

quý báu của ta” [87, tr.171]; những hủ tục lạc hậu, những thói hư, tật xấu cũng là kẻ

thù nguy hiểm đối với người cán bộ cách mạng: “Thói quen và truyền thống lạc hậu

cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ” [89, tr.287].

133

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, vấn đề

phát huy vai trò giá trị văn hóa truyền thống nhằm tạo ra nguồn lực nội sinh đáp

ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững là một trong những vấn đề cấp thiết được

đặt ra đối với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các nước đang

phát triển, trong đó có Việt Nam.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đề cao vai trò của văn hóa

trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc, vào năm 1961, trong một lần trả

lời phỏng vấn của một phóng viên nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

Nhân dân nước chúng tôi có ý chí phi thường là do lòng tự trọng muốn

sống làm người chứ không chịu làm nô lệ. Điều này cũng đúng với

những nhà tri thức nước chúng tôi thiết tha với nền văn hóa dân tộc,…

Có lẽ phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển

văn hóa,… Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho Nhân dân

chúng tôi tiến bộ [90, tr.190].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã

xác định những định hướng chính trị quan trọng, trong đó mục tiêu đặt ra đối với

văn hóa là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con

người có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.

Đối với quân đội, công tác giáo dục và phát huy giá trị truyền thống và chủ

động trong lựa chọn và tiếp thu cái mới luôn được cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm

xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và là yêu cầu khách quan được đặt

ra trong tổng thể quá trình xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh, từng

bước hiện đại, trước hết là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tạo cơ sở

nhằm giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, đấu tranh có hiệu quả

với hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “phi chính trị hóa” quân đội.

Đối với NTQĐ, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục và phát huy giá trị truyền thống

và tiếp thu cái mới giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong yêu cầu nâng cao VHCT,

xây dựng và phát triển môi trường văn hóa gắn với yêu cầu nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bởi vì:

Trước hết, chủ thể VHCT trong NTQĐ là nhân tố giữ vai trò định hướng tư

tưởng, xây dựng niềm tin và truyền cảm hứng cho bộ đội, giúp cho bộ đội có hoài

134

bão, ước mơ, lý tưởng cao đẹp, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; rèn luyện

phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống, hình thành những phẩm chất và

năng lực cần thiết cho những con người kế tục sự nghiệp cách mạng trong tương lai.

Mặt khác, xuất phát từ thực trạng việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền

thống và tiếp thu lựa cái mới chưa thực sự được coi trọng và đề cao ở một số cơ

quan, đơn vị trong NTQĐ, làm cho nhận thức của các chủ thể về giá trị văn hóa

truyền thống dân tộc nói chung và giá trị truyền thống của quân đội, của đơn vị nói

riêng chưa đầy đủ, hoặc là xem nhẹ, hoặc là có chiều hướng lạm dụng thái quá các

hoạt động mang tính cổ truyền hoặc tiếp nhận tràn lan, thiếu chọn lọc những yếu tố

ngoại lai ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu nâng cao VHCT và phát triển môi trường

văn hóa văn hóa sư phạm quân sự trong nhà trường quân đội.

Nhà trường quân đội là những đơn vị quân đội mang tính đặc thù sư phạm, vì

vậy hàm chứa trong đó đầy đủ những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt

Nam anh hùng. Trải qua quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, NTQĐ đã

viết nên những truyền thống vẻ vang vừa mang bản sắc riêng của trường, vừa góp

phần tạo nên những giá trị truyền thống hào hùng và chói lọi của đội quân bách

chiến bách thắng, với hình ảnh tiêu biểu và đã trở thành biểu tượng văn hóa của dân

tộc Việt Nam, với danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ”.

Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống

văn hóa dân tộc đi đôi với chủ động tiếp thu cái mới đã trở thành mối quan tâm

hàng đầu của rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề này vốn

được xem là đặc trưng của văn hóa dân tộc nhằm lưu giữ, bảo tồn và phát huy

những giá trị tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp dựng

nước và giữ nước hơn bốn nghìn năm qua. Học xưa để hiểu nay, học cũ để làm mới,

kết hợp với việc chủ động trong lựa chọn và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại

vừa là yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên vừa là yêu cầu cấp bách và được xem là

nhiệm vụ chiến lược lâu dài của Đảng ta trong công cuộc canh tân đất nước.

Đối với NTQĐ, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống

và chủ động trong lựa chọn tiếp thu cái mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm

mang tính khách quan được đặt ra trong tổng thể quá trình thúc đẩy, nâng cao

VHCT trong NTQĐ, đồng thời là một mặt trong công tác giáo dục chính trị tư

135

tưởng. Trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, nhiệm vụ giữ gìn và phát

huy hiệu quả giá trị truyền thống và chủ động trong lựa chọn tiếp thu cái mới có vai

trò hết sức quan trọng không chỉ nhằm củng cố, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử,

truyền thống, khơi dậy niềm tự hào, tạo ra sức đề kháng cho chủ thể trước những

tác động xấu của phản văn hóa; chủ động trong định hướng lựa chọn tiếp thu thành

tựu mới của nhân loại mà còn có tác dụng thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển

môi trường văn hóa quân sự, qua đó xây dựng phẩm chất, nhân cách người quân

nhân cách mạng góp phần tích cực xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần, làm cơ sở

tạo nên sức mạnh tổng hợp cho quân đội.

Mặt khác, NTQĐ là nơi tạo nguồn sĩ quan, những người kế tục sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì nhiệm vụ giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi

đôi với tiếp thu thành tựu mới lại càng quan trọng đặc biệt, nhất là trong bối cảnh

toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và truyền thông.

Thực tiễn xây dựng và phát triển VHCT trong NTQĐ thời gian vừa qua cho thấy,

khi mà các giá trị truyền thống chưa thực sự được phát huy, nhận thức của chủ thể

VHCT về giá trị truyền thống chưa đầy đủ, hoặc là xem nhẹ truyền thống, hoặc là

có chiều hướng lạm dụng thái quá các hoạt động mang tính cổ truyền; cổ vũ và tiếp

nhận tràn lan, thiếu chọn lọc những cái mới chưa được định hình, định hướng, điều

đó ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu nâng cao VHTCT trong NTQĐ và qua đó ảnh

hưởng tới chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.

Để giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc và quân đội với

yêu cầu chủ động trong lựa chọn và tiếp nhận tri thức mới của nhân loại, cần tập

trung thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau:

Một là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục

chính trị trong NTQĐ, trong đó coi trọng nội dung giáo dục truyền thống dân tộc,

truyền thống quân đội và lịch sử truyền thống của mỗi trường; kết hợp cập nhật trên

các diễn đàn, các buổi tọa đàm, sinh hoạt nhằm thông tin kịp thời, có lựa chọn, có

định hướng những thành tựu mới của nhân loại có tác động trực tiếp đến nhiệm vụ

xây dựng quân đội nói chung đào tạo cán bộ quân đội nói riêng của mỗi trường sao

cho linh hoạt, phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ của các chủ thể.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả việc giữ gìn và phát huy hiệu quả giá trị

truyền thống cần phải quan tâm đổi mới nội dung, chương trình, hình thức và

136

phương pháp giáo dục chính trị. Đây là biện pháp quan trọng, thông qua giáo dục

chính trị để trau dồi phẩm chất cách mạng, bồi dưỡng năng lực và đạo đức lối sống,

củng cố niềm tin, từ đó xây dựng bản lĩnh, ý chí của người quân nhân cách mạng.

Đổi mới nội dung, chương trình, yêu cầu phải linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng

và phải khẳng định những giá trị truyền thống đi đôi với việc bổ sung, phát triển

những giá trị mới tốt đẹp, ứng dụng có hiệu quả trang, thiết bị hiện đại trong hoạt

động giáo dục chính trị; kế thừa và phát huy tốt giá trị các di sản làm cho những giá

trị truyền thống không ngừng được làm mới trong thực tiễn.

Hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi đôi với việc tiếp

thu có chọn lọc những giá trị mới của nhân loại không chỉ dừng ở việc trang bị

những tri thức lịch sử, tiếp nhận và khai thác những thông tin trên mạng xã hội mà

điều quan trọng hơn là phải thận trọng, từng bước chuyển hóa những nhận thức tư

tưởng, tình cảm của chủ thể thành sức mạnh nội sinh, là động lực to lớn trong thực

hiện chức trách nhiệm vụ.

Hai là, thường xuyên gắn công tác giáo dục các giá trị truyền thống với phong

trào thi đua trong nhà trường quân đội. Đây cũng là một trong những biện pháp quan

trọng góp phần nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội.

Với phương châm “học xưa để hiểu nay” và “hiểu cũ để làm mới” Đảng và Nhà

nước luôn quan tâm giáo dục và phát huy các giá trị truyền thống. Hồ Chủ Tịch đã viết:

“Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Tìm hiểu, học tập và

phát huy các giá trị truyền thống đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cá nhân

và tổ chức. Các cuộc vận động của đất nước, quân đội, các phong trào thi đua và các

cuộc thi tìm hiểu và sự lồng ghép vào các hoạt động của tổ chức trong đơn vị. Trong đó

đặc biệt là cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ

đội Cụ Hồ” đã thực sự đem lại những hiệu quả thiết thực.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng thể của các thiết chế chính trị và thiết chế

văn hóa trong NTQĐ cũng là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả trong

việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống đi đôi với tiếp thu những tinh hoa văn

hóa nhân loại.

Các chủ trương, biện pháp chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành triển

khai đồng bộ trong thực tiễn hoạt động của các tổ chức ở mỗi trường. Trước hết là

tổ chức đảng với vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đơn vị cơ sở phải nâng cao

137

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ

thị các cấp, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đơn vị, ra nghị quyết lãnh

đạo toàn diện và thường xuyên coi trọng nội dung giáo dục chính trị, giáo dục

truyền thống và phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống tiêu biểu của cơ quan,

đơn vị cũng như của quân đội, đất nước.

Đối với tổ chức chỉ huy, cơ quan chính trị và các tổ chức quần chúng, trên cơ

sở nghị quyết của cấp trên và cấp mình, nghiên cứu xây dựng kế hoạch chương

trình hành động cụ thể và tổ chức thực hiện nghiêm kế hoạch đã xác định. Khai thác

có hiệu quả phòng truyền thống, các bảng hiệu và các thiết chế văn hóa khác trong

đó bao gồm cả cảnh quan văn hóa của nhà trường quân đội.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh loại bỏ các biểu hiện tiêu cực, nhận thức lệch

lạc chưa đúng về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, cấp ủy, chỉ huy các

cấp về nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống cũng như trong lựa

chọn tiếp thu cái mới.

Trong thực tế, ở mỗi cơ quan, đơn vị, do tác động tiêu cực của nhiều mặt

của đời sống xã hội làm cho nhận thức của các đối tượng không tránh khỏi có

những nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ chính trị nói chung và nhiệm vụ giữ

gìn và phát huy các giá trị truyền thống và cập nhật các thành tựu mới nói riêng.

Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện, lãnh

đạo, chỉ huy các cấp, bên cạnh việc biểu dương, khen thưởng kịp thời những

thành tích của các cá nhân, tập thể cần phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ những

tư tưởng lệch lạc, xem nhẹ các giá trị truyền thống, thiếu chọn lọc trong tiếp

nhận những phản văn hóa, phản giá trị núp dưới danh nghĩa cái mới, hay những

tư tưởng, nhận thức chưa thấu đáo, xem việc giáo dục, gìn giữ và phát huy các

giá trị truyền thống và tiếp thu thành tựu mới chỉ là việc làm của cơ quan chính

trị, của cán bộ chính trị…

Giáo dục gìn giữ và phát huy có hiệu quả các giá trị truyền thống không chỉ

khơi dậy lòng biết ơn, sự tự hào đối với truyền thống vẻ vang của dân tộc, của

Đảng, của quân đội và của nhà trường mà còn làm cho đời sống văn hóa tinh thần ở

đơn vị cơ sở đa dạng, phong phú và linh hoạt, tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ,

góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân

đội ngày càng hùng mạnh, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhân dân giao phó.

138

Nhà trường quân đội, với chức năng, nhiệm vụ là trung tâm đào tạo sĩ quân

đội và là trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự đã không ngừng viết nên trang sử vẻ

vang hào hùng về bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, đồng thời cũng luôn là những đơn vị

đi đầu trong tiếp nhận và phát triển những thành tựu công nghệ mới của nhân loại. Sự

nghiệp đào tạo cán bộ quân đội luôn gắn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sự

nghiệp đó luôn được các thế hệ nối tiếp nhau xây dựng và bồi đắp đó là bản chất cách

mạng, là kết tinh truyền thống, là lý tưởng cao đẹp mang đậm bản chất văn hóa, tính

khoa học và phát triển, bản chất đó là niềm tự hào, là tinh hoa, là giá trị truyền thống

tiêu biểu của QĐND Việt Nam anh hùng [Phụ lục 5, Bảng 10].

4.2.3. Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực

hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội

Là đơn vị quân đội, NTQĐ được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và

mọi mặt của QUTW và BQP, thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo;

nghiên cứu khoa học; xây dựng nhà trường chính quy và cấp văn bằng, chứng chỉ

theo quy định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Tất cả các hoạt động của NTQĐ

đều hướng tới mục tiêu thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là đào tạo sĩ quan,

nhân viên chuyên môn kỹ thuật; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước về

nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nghiên cứu, ứng dụng, phát triển các hoạt động khoa

học và công nghệ. Vì vậy, yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ phải có sự gắn kết

chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị trung tâm và mục tiêu, yêu cầu đào tạo cũng như

đặc thù riêng của mỗi trường là một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra

trong bối cảnh hiện nay.

Yêu cầu nâng cao VHCT là một mặt quan trọng trong hoạt động công tác

đảng, công tác chính trị của NTQĐ nhằm bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy

các cấp và người chỉ huy trong quán triệt và giữ vững định hướng chính trị, xây

dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo,

nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học góp phần xây dựng

quân đội ngày càng chính quy, hùng mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Xét trên tổng thể, trong thời gian qua, sự kết hợp giữa yêu cầu nâng cao

VHCT gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong NTQĐ đã được lãnh

đạo, chỉ huy các cấp quan tâm, giúp cho nhận thức về văn hóa nói chung và VHCT

139

nói riêng của các chủ thể ở NTQĐ trong thực hiện nhiệm vụ đã có bước phát triển,

mỗi học viện, trường quân đội thực sự đã trở thành những pháo đài vững chắc về

chính trị, tư tưởng; là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, phát triển văn hóa

người quân nhân cách mạng, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần đấu

tranh ngăn chặn và đẩy lùi những lây nhiễm độc hại, những phản giá trị và tệ nạn xã

hội, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, việc gắn kết giữa yêu cầu nâng cao

VHCT với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của các cơ quan, khoa, đơn vị

trong NTQĐ vẫn còn tồn tại những hạn chế, đó là, việc cụ thể hóa những chỉ thị,

nghị quyết và hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên vào thực hiện nhiệm vụ ở cấp cơ sở

còn chung chung, hình thức: “Quá trình tổ chức thực hiện có lúc chưa phát huy vai

trò, tính chủ động của lãnh đạo, chỉ huy, sự nhạy bén và vận dụng vào tình hình cụ

thể của đơn vị mình… việc phối kết hợp, lồng ghép nội dung phong trào thi đua với

công tác tuyên truyền thực hiện còn thiếu chiều sâu” [56, tr.6]; “Chỉ đạo xây dựng

môi trường văn hóa trong cơ quan, khoa, đơn vị có lúc chưa thường xuyên; triển

khai thực hiện còn có tính thời vụ, chưa trở thành thói quen và hành động tích cực

để góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm, xây dựng đơn vị vững

mạnh toàn diện” [147, tr.8].

Một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra trước yêu cầu nâng cao

VHCT trong NTQĐ là phải nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị. Bởi

vì, hiệu quả của các thiết chế VHCT có vai trò quan trọng vừa là công cụ, phương

tiện để truyền đạt thông tin và chuyển tải các giá trị VHCT đến với chủ thể VHCT

trong NTQĐ, qua đó cũng cho thấy sự tác động của VHCT đến việc nâng cao chất

lượng dạy học và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ là một tất yếu khách quan. Là

tổ chức vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt,

NTQĐ có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ như các đơn vị quân đội, nhưng nét đặc thù

của NTQĐ biểu hiện ở nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa

học. Mặt khác, những yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới giáo dục đào tạo

nước nhà được Đảng khởi xướng cũng cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả

các thiết chế VHCT trong việc nâng cao chất lượng dạy học góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.

140

Nâng cao hiệu quả các thiết chế VHCT gắn với nâng cao chất lượng dạy học

và nghiên cứu khoa học trong NTQĐ là tổng thể các cách thức, biện pháp lãnh đạo,

chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch nhằm làm cho

nhận thức của chủ thể VHCT và sự vận hành của thiết chế VHCT trong NTQĐ thực

sự đem lại hiệu quả, có tác dụng tích cực, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, hành

động, hình thành động cơ, thái độ đúng đắn cho các chủ thể trước yêu cầu nhiệm vụ

chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học.

Tại TSQLQ1, sự vận hành của các thiết chế VHCT đã góp phần phát huy

những yếu tố thuộc về nhân cách cá nhân và tổ chức, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà

trường đã xây dựng tiêu chí phấn đấu phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ cho từng đối

tượng và từng cơ quan, khoa, đơn vị. Trong đó, đối với giảng viên yêu cầu đặt ra là:

Có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, say mê nghiên cứu, nắm vững

kiến thức, có chí vươn lên; học đi đôi với hành, xung kích, sáng tạo, sẵn

sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đoàn kết, đồng

cam cộng khổ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, sống trung thực, giản dị, tiết

kiệm, có văn hóa; khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà

nước, kỷ luật quân đội, quy định của Nhà trường và bảo đảm an toàn;

kính thầy, yêu bạn, lễ phép với Nhân dân, có trách nhiệm với bản thân,

gia đình và đơn vị [42, tr.3].

Tại HVCT, Đảng ủy, Ban Giám đốc đã có nhiều chủ trương, biện pháp nâng

cao hiệu quả của các thiết chế văn hóa nói chung, trong đó có VHCT vào thực hiện

nhiệm vụ chính trị trung tâm. Cụ thể là đã đưa nội dung xây dựng môi trường văn

hóa học đường “vào hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng trường; các chuyên

ngành đào tạo khoa học xã hội và nhân văn đã nghiên cứu đưa bộ môn Văn hóa học,

Đạo đức học và các vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử vào chương trình, nội

dung dạy học cho các đối tượng đào tạo tại Học viện” [56,tr.1]. Thông qua đó, kết

qủa dạy học và nghiên cứu khoa học đã đạt được những thành tích nổi bật:

Từ năm 1992 đến nay (2017), Học viện đã được Thủ tướng Chính phủ

tặng 17 Cờ thi đua; BQP tặng 8 Cờ thi đua; Sơ kết 5 năm thực hiện Cuộc

vân động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú

trong quân đội” Học viện có 3 đơn vị được BQP khen thưởng. Từ kết

quả đó đã góp phần xây dựng Đảng bộ Học viện vững mạnh về chính trị,

141

tư tưởng và tổ chức, xây dựng Học viện chính quy, tiến tiến, mẫu mực

hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. [56, tr.3]

Để nâng cao VHCT nói chung và thiết chế VHCT nói riêng gắn với thực

hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của NTQĐ, cần quán triệt và thực hiện tốt một số

nội dung sau:

Thứ nhất, cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và các tổ chức trong

NTQĐ cần duy trì và thực hiện có nền nếp hoạt động công tác đảng, công tác chính

trị, trong đó tập trung nâng cao hiệu quả của thiết chế VHCT, bởi vì hiệu quả thiết

chế VHCT chỉ có thể được tạo ra trên cơ sở hoạt động có nền nếp của các cấp ủy, tổ

chức đảng và tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng trong đơn vị. Đảng ủy, chỉ

huy NTQĐ cần chỉ đạo chặt chẽ theo hướng thống nhất, ổn định về tổ chức và từng

bước nâng cao chất lượng các hoạt động xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, coi

trọng tính chính quy trong tất cả các hoạt động, đi đôi với yêu cầu thường xuyên

củng cố và kiện toàn cả về cơ sở vật chất cũng như cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và quy

trình tổ chức thực hiện. Cùng với hoạt động củng cố về tổ chức cần xây dựng được

đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ trì các cấp có nhận thức sâu sắc về yêu cầu

nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng, trình độ

năng lực tổ chức chỉ huy và đào tạo.

Thứ hai, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp trong

vận hành các thiết chế văn hóa như Phòng Hồ Chí Minh, Nhà văn hóa, Câu lạc bộ,

Nhà truyền thống, Thư viện và các thiết chế văn hóa khác, bao gồm cả cảnh quan

môi trường phù hợp với đặc thù nhiệm vụ đào tạo của mỗi trường để thu hút chủ thể

VHCT, tránh sự đơn điệu, hình thức. Bởi vì, hệ thống thiết chế văn hóa và cảnh

quan văn hóa là cơ sở, điều kiện tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh có tác

dụng giúp cho các hoạt động sinh hoạt, học tập và rèn luyện của chủ thể VHCT

ngày càng phát huy hiệu quả trong thực tiễn, qua đó góp phần thúc đẩy nâng cao

chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong điều kiện hiện nay, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần

quan tâm tổ chức nhiều hơn nữa các hình thức sinh hoạt chính trị, đối thoại, kết hợp

với sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể thao, các diễn đàn thanh niên, tọa đàm và các

hội thi tìm hiểu truyền thống. Chủ động trong định hướng tư tưởng chính trị cho các

chủ thể VHCT, đặc biệt là trong việc lựa chọn và chia sẻ các thông tin trên mạng xã

142

hội, luôn cảnh giác và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa

bình”, thực hiện “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch

Thứ ba, quan tâm đầu tư kịp thời cơ sở vật chất đảm bảo cho thiết chế văn

hóa luôn cập nhật với những thành tựu mới của công nghệ; duy trì thường xuyên

chế độ thông tin qua hệ thống phát thanh và truyền hình, tuyên tuyền và quảng bá

gương người tốt, việc tốt trong đơn vị; quan tâm nâng cấp hệ thống bảng tin, pano,

áp phích và tranh cổ động, ảnh tư liệu truyền thống… nhằm tạo ra cảnh quan môi

trường xanh, sạch, đẹp lành mạnh có ý nghĩa giáo dục cao. Nếu như cơ sở vật chất

không được quan tâm hoặc quan tâm không kịp thời sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng

đến hiệu quả thiết chế VHCT qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo

của nhà trường quân đội. Phát huy tốt tinh thần trách nhiệm của chủ thể VHCT, vận

dụng linh hoạt và thực hiện tốt phương châm giữ tốt dùng bền và khai thác tối đa

công năng sử dụng của cơ sở vật chất trong NTQĐ cũng là một trong những yêu

cầu biện pháp quan trọng.

Như vậy, vấn đề đặt ra đối với yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ là cần

phải có những giải pháp phù hợp, kịp thời khắc phục những hạn chế yếu kém nêu

trên, gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ với thực hiện có

hiệu quả nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu khoa học, trong đó

tập trung nâng cao hiệu quả các thiết chế VHCT gắn với yêu cầu nâng cao chất

lượng giáo dục, đào tạo có thể được xem là một trong những định hướng chính có

vai trò quan trọng hàng đầu. [PL10, tr. 250].

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, nhiệm vụ xây dựng

và phát triển văn hóa nói chung và nâng cao VHCT nói riêng được đặt ra như một

yêu cầu tất yếu khách quan. Trên cơ sở những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao VHCT

trong NTQĐ, lãnh đạo, chỉ các cấp, cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ

chức quần chúng trong NTQĐ cần nhận diện, quán triệt và giải quyết tốt bốn vấn đề

đã được đề cập ở trên. Các vấn đề được đề cập có quan hệ chặt chẽ với nhau, quá

trình thực hiện không được quá đề cao, tuyệt đối hóa mà cần phải tiến hành đồng bộ

và vận dụng linh hoạt các nội dung, biện pháp sao cho phù hợp với đặc thù riêng

từng trường [Phụ lục 5, Bảng 10].

143

4.2.4. Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, nghị

quyết và các cuộc vận động

Trước hết, yêu cầu thúc đẩy, nâng cao VHCT trong NTQĐ là một bộ phận

trong tổng thể các chủ trương, giải pháp nhằm phát huy vai trò và sức mạnh của văn

hóa trong trong công cuộc đổi mới đất nướcvà yêu cầu xây dựng quân đội trong tình

hình mới. Để nâng cao VHCT trong NTQĐ thực sự có hiệu quả trong thực tiễn,

việc kết hợp nâng cao VHCT với thực hiện các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận

động lớn của đất nước, quân đội và đặc điểm nhiệm vụ của mỗi trường là yêu cầu

tất yếu khách quan. Trong đó, tập trung vào những vấn đề mang tính định hướng

như: quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người

Việt Nam; các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động lớn của đất nước, quân đội

và phong trào thi đua của mỗi trường. Bởi vì, đối với NTQĐ, xuất phát từ mục tiêu,

yêu cầu đào tạo cán bộ quân đội, trong đó yêu cầu về phẩm chất chính trị luôn được

đặt lên hàng đầu cho nên những định hướng chính trị lại càng có ý nghĩa hơn.

Xuất phát từ quan điểm của Đảng, vấn đề xây dựng văn hóa trước hết là vấn

đề xây dựng con người, nâng cao VHCT về thực chất là làm cho giá trị chính trị

được lan tỏa trong thực tiễn, giúp phát huy tính tích cực chính trị của chủ thể, xây

dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, tránh được nguy cơ

tha hóa về chính trị. Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và của cấp ủy các cấp cũng

như mục tiêu của các cuộc vận động lớn của đất nước và quân đội là những định

hướng chính trị quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng hướng tới

mục tiêu xây dựng con người và vì con người.

Nâng cao VHCT trong NTQĐ, xét về thực chất là nhiệm vụ xây dựng và phát

triển môi trường văn hóa quân sự gắn với thực hiện phong trào thi đua quyết thắng

ở đơn vị vì sự hoàn thiện nhân cách chủ thể văn hóa chính trị. Trong khi đó, nhân

cách con người chỉ có thể hình thành và phát triển trong môi trường văn hoá nhất

định. Môi trường văn hoá giúp cho nhân cách chủ thể phát triển đúng với tính chất

xã hội của nó. Môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú và đa dạng vừa là chiếc

nôi nuôi dưỡng và nâng đỡ cho sự phát triển con người một cách toàn diện vừa có

tác dụng bảo vệ, ngăn ngừa và chống lại mọi sự xấu, độc xâm nhập vào trong đời

sống con người.

144

Đối với NTQĐ, môi trường văn hóa được hiểu là môi trường văn hoá sư

phạm quân sự, ở đó, phong trào thi đua là động lực chính tạo nên sức mạnh giúp

cá nhân và tổ chức hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Thực tiễn xây

dựng và phát triển môi trường văn hoá sư phạm quân sự và thực hiện phong trào

thi đua quyết thắng trong NTQĐ thời gian vừa qua đã thu được những kết quả tích

cực, giúp cho đời sống tinh thần của bộ đội trở nên tốt đẹp, phong phú, lành mạnh,

góp phần ngăn chặn các phản giá trị và tệ nạn xã hội ảnh hưởng tới đời sống tinh

thần của quân nhân. Tuy nhiên, hiện nay, trước yêu cầu mới, việc xây dựng và

phát triển môi trường văn hoá sư phạm quân sự và thực hiện phong trào thi đua

gặp không ít khó khăn, trở ngại như do nhận thức về văn hóa nói chung và môi

trường văn hóa quân sự nói riêng thiếu sâu sắc, các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua chưa

sát với đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu

quả xây dựng VHCT trong hệ thống các đơn vị đào tạo cán bộ của quân đội.

Về nội dung nâng cao VHCT với thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng

và các cuộc vận động lớn của đất nước và quân đội, trước hết, chủ thể VHCT trong

NTQĐ phải quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa

XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

và Chỉ thị số 788-CT/QUTW của Thường vụ QUTW về việc phát động Cuộc vận

động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; Chỉ thị

số 143/CT của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam về “Xây dựng môi trường văn

hóa tốt đẹp lành mạnh, phong phú trong các đơn vị quân đội” và Chỉ thị 355-

CT/QUTW ngày 20 tháng 4 năm 2017, “Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công

tác văn hóa, văn học, nghệ thuật trong Quân đội giai đoạn hiện nay”. Tích cực rèn

luyện đạo đức, lối sống gắn liền với nâng cao ý thức pháp luật và gương mẫu, tự

giác chấp hành các chế độ, quy định. Mỗi quân nhân phải là tấm gương sáng về sự

tự phấn đấu, rèn luyện không ngừng, xứng đáng với niềm tin cậy và yêu mến của

Nhân dân. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, chạy theo lợi ích cá

nhân, ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của người quân nhân cách mạng. Lãnh đạo,

chỉ huy phải luôn gương mẫu đi đầu trong các nhiệm vụ, thể hiện tinh thần dám

nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; là giảng viên phải tâm huyết với nghề, tận

tâm, tận lực, hết lòng vì học viên; là học viên phải luôn xung kích đi đầu trong khắc

phục khó khăn vươn lên trong học tập và công tác.

145

Là người tiêu biểu về tính tích cực chính trị, chủ thể VHCT trong NTQĐ phải

không ngừng học tập nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

nhiệm vụ. Những lãnh đạo, chỉ huy, giảng viên, học viên còn có những biểu hiện băn

khoăn, dao động lười học, lười suy nghĩ, tự bằng lòng với mình sẽ là trở lực, kìm hãm

sự nghiệp đổi mới giáo dục, ảnh hưởng không tốt đến môi trường sư phạm. Trong môi

trường sư phạm quân sự, các chủ thể phải thường xuyên khổ luyện, kiên trì phấn đấu

để đạt được một nền tảng trí tuệ vững chắc cùng với một phẩm chất cao đẹp. Mặt khác

cần phải quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban chấp hành

Trung ương Đảng khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,

đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn

biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” gắn với thực hiện có hiệu quả các mục tiêu cuộc

vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”, góp

phần làm lành mạnh hóa sự nghiệp đào tạo cán bộ quân đội của Đảng.

Để nâng cao VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các cuộc vận

động lớn của đất nước, quân đội cần tập trung thực hiện tốt biện pháp sau:

Thứ nhất, trên cơ sở quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản của các chỉ thị

nghị quyết, mục tiêu, chỉ tiêu của cuộc vận động, chủ thể VHCT trong NTQĐ căn

cứ vào đặc điểm nhiệm vụ, chức trách của cá nhân, tổ chức, chủ động xây dựng kế

hoạch, chương trình hành động và triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính

trị trung tâm. Năng lực cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết là thước đo về hiệu quả hoạt

động chính trị của chủ thể. Phát huy vai trò VHCT của các chủ thể để lôi cuốn cả

tập thể sư phạm vào hoạt động chính trị - xã hội, phát triển tính tích cực chính trị, sự

phản ứng nhanh chóng với những hiện tượng chính trị, những nhiệm vụ của Đảng

và Nhà nước, quân đội và nhà trường giao cho.

Phát huy tốt vai trò chủ thể VHCT sẽ khơi dậy được sự sáng tạo của cá nhân,

của tập thể trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là dạy học và nghiên cứu

khoa học. Trình độ VHCT là điều kiện bảo đảm cho các chủ thể nắm bắt và thực

hành dân chủ trên các mặt quân sự, chuyên môn; chính trị và kinh tế, đời sống, tạo

cơ sở vững chắc giữ vững sự ổn định và phát triển của đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí

Minh viết: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực

lượng của Nhân dân đưa cách mạng tiến lên” [89, tr.592].

Thứ hai, kết hợp thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động lớn của

đất nước, quân đội với phong trào thi đua quyết thắng của mỗi trường và xem đây là

146

một trong những nội dung quan trọng để thúc đẩy, nâng cao VHCT trong nhà

trường quân đội. Coi trọng và đề cao những kinh nghiệm hay, những việc làm tốt để

các cơ quan đơn vị trong trường học tập; thường xuyên rà soát, bổ sung những mục

tiêu, chỉ tiêu thi đua bảo đảm tính vừa sức và tính khả thi. Trong thời gian qua, quân

đội nói chung và NTQĐ nói riêng đã thường xuyên coi trọng và đề cao công tác thi

đua khen thưởng, các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua khen thưởng đã bám sát nhiệm vụ

chính trị trung tâm của mỗi đơn vị và tạo ra động lực quan trọng thúc đẩy nâng cao

chất lượng hiệu quả các thiết chế chính trị trong xây dựng đơn vị của toàn quân,

thông qua đó làm cho đời sống văn hóa tinh thần bộ đội được nâng lên góp phần

xây dựng và củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.

Thứ ba, kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, sai trái trong nhận

thức và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết và các cuộc vận động. Trước hết

là đấu tranh với các biểu hiện lười nghiên cứu học tập chính trị của chủ thể, dẫn đến

lơ là mất cảnh giác, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đên suy thoái về chính trị; triển

khai thực hiện qua loa, đại khái, nặng về hình thức, các mục tiêu, chỉ tiêu được xác

định không bám sát tình hình của đơn vị; biểu hiện che giấu khuyết điểm, chạy theo

thành tích, làm láo báo cáo hay và đây là nguyên nhân dẫn đến suy thoái về đạo đức

lối sống của cán bộ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và hiệu quả xây dựng

VHCT trong NTQĐ hiện nay.

Như vậy, đối với NTQĐ, yêu cầu nâng cao VHCT phải được đặt trong

tổng thể tình hình chung của đất nước, quân đội và gắn với phong trào thi đua

quyết thắng của đơn vị. Vấn đề đặt ra là nâng cao VHCT trong NTQĐ phải giải

quyết hài hòa, linh hoạt mối quan hệ cơ bản của môi trường văn hoá sư phạm

quân sự và đặt yêu cầu nhiệm vụ nâng cao VHCT trong tổng thể tình hình đất

nước, quân đội cũng như yêu cầu, nhiệm vụ mang tính đặc thù riêng của mỗi

trường [Phụ lục 5, Bảng 10].

Tiểu kết chương 4

Văn hóa chính trị trong NTQĐ chịu sự tác động nhiều chiều của nhiều yếu tố

vừa mang tính toàn cầu và các yếu tố văn hóa, chính trị trong nước. Tùy theo mức

độ ảnh hưởng nhiều hay ít và xu hướng tích cực hay tiêu cực đến nhiệm vụ giáo dục

và đào tạo trong NTQĐ, để từ đó nhận diện đầy đủ những vấn đề đặt ra trước yêu

cầu nâng cao VHCT trong NTQĐ hiện nay.

147

Tuy nhiên, sự tác động của các yếu tố đến VHCT là không độc lập và riêng

lẻ mà bao giờ cũng mang tính tổng thể. Vì vậy, sự phân chia những yếu tố tác động

đến VHCT trong NTQĐ chỉ mang tính chất tương đối. Trong khuôn khổ luận án,

nghiên cứu sinh lựa chọn cách phân chia theo hướng, những yếu tố tác động thuận

chiều và những yếu tố tác động trái chiều đến VHCT trong nhà trường quân đội.

Trong đó, các yếu tố nhận thức mới về văn hóa và con người Việt Nam ngày càng

đúng đắn và đầy đủ hơn, tiếp cận được với những giá trị chung của nhân loại, đặc biệt

là những thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi

xướng lãnh đạo được xem là yếu tố tác động thuận chiều nổi bật và quan trọng nhất,

có ý nghĩa quyết định đối với yêu cầu nâng cao VHCT nói chung và VHCT trong

NTQĐ nói riêng. Khi xem xét những tác động trái chiều đến VHCT trong NTQĐ,

cho thấy, sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch là một trong

những những khó khăn, trở ngại chính, tạo ra lực cản ảnh hưởng tiêu cực đến yêu cầu

nâng cao VHCT trong NTQĐ giai đoạn hiện nay.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực

hiện công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hiện nay, vấn đề nâng cao VHCT đã

trở thành yêu cầu cấp thiết, quan trọng và có nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự

nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, đối với

NTQĐ, yêu cầu nâng cao VHCT đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề đặt ra cần

phải được giải quyết một cách linh hoạt và đồng bộ trong tổng thể yêu cầu xây dựng

và phát triển văn hóa chung, trong đó, tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: yêu cầu

nâng cao hơn nữa nhận thức toàn diện cho các chủ thể; giữ gìn và phát huy vai trò

văn hóa truyền thống đi đôi với chủ động trong lựa chọn và tiếp thu cái mới; nâng

cao hiệu quả thiết chế VHCT gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của

NTQĐ, đồng thời gắn các hoạt động VHCT với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các

cuộc vận động.

148

KẾT LUẬN

Văn hóa chính trị trong NTQĐ là hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ ở nước

ta những năm gần đây, nội dung này tuy chưa được nghiên cứu một cách hệ thống,

sâu sắc, nhưng đã có những công trình đề cập đến những vấn đề liên quan. Đây là

hướng nghiên cứu vừa cơ bản, vừa mang tính cấp thiết, đòi hỏi phải có cách tiếp

cận toàn diện dưới góc độ Văn hoá học.

Văn hóa chính trị vừa là một bộ phận quan trọng của văn hóa xã hội, vừa là

yếu tố quan trọng trong thể chế chính trị. Văn hóa chính trị trong NTQĐ vừa mang

những đặc điểm chung VHCT của QĐND Việt Nam, lại vừa mang những đặc thù

riêng của môi trường sư phạm quân sự, thể hiện ở tính ưu trội của các giá trị VHCT,

phản ánh trực tiếp đời sống và hoạt động quân sự; hoạt động hoạt động dạy học và

nghiên cứu khoa học. Tính đặc thù của VHCT trong NTQĐ thể hiện ở tính đồng bộ

giữa môi trường văn hóa và môi trường sư phạm quân sự, điều đó được phản ánh ở

tính nghiêm cách trong quá trình truyền bá giá trị của hệ thống thiết chế chính trị.

Văn hóa chính trị trong NTQĐ luôn có những tác động tổng thể tới con người quân

sự, vừa góp phần đáp ứng nhu cầu VHCT và phát triển đời sống tinh thần của chủ

thể, góp phần hoàn thiện nhân cách quân nhân và xây dựng tập thể quân nhân văn

hóa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội.

Thông qua kết quả điều tra xã hội học; qua thăm dò, trực tiếp trao đổi với cán

bộ, học viên cũng như kết quả tổng kết trên các mặt hoạt động của NTQĐ, trong đó

tập trung ở HVCT và TSQLQ1, cho thấy, đa số quân nhân, đặc biệt là đối tượng học

viên đã nhận thức được vị trí, vai trò của VHCT đối với sự nghiệp phát triển của nhà

trường quân đội. Kết quả xây dựng, phát triển văn hóa nói chung và yêu cầu nâng cao

VHCT nói riêng trong NTQĐ đã góp phần quan trọng vào hình thành, phát triển nhân

cách người học viên, đồng thời giúp người học viên xác định rõ chức trách và khả

năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, xứng đáng với vai trò quan trọng, là

những người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tương lai.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra những khó khăn, thách

thức trong việc nâng cao VHCT trong NTQĐ, đó là vấn đề nhận thức còn hạn chế

của các chủ thể VHCT trong NTQĐ, tính hình thức, sự kém hiệu quả trong các hoạt

động văn hóa hay sự gắn kết giữa yêu cầu nâng cao VHCT với yêu cầu nâng cao chất

lượng giáo dục đào tạo trong nhà trường quân đội…

149

Dự báo trong thời gian tới, các yếu tố mang tính toàn cầu và yếu tố kinh tế,

chính trị, xã hội trong nước; yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, quân đội trong giai

đoạn cách mạng mới; đặc thù của môi trường sư phạm trong NTQĐ cũng như tác động

từ các chủ thể giáo dục đối với VHCT; tác động từ sự phát triển của nhiệm vụ giáo dục

và đào tạo; các điều kiện đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động giáo

dục và đào tạo… sẽ tiếp tục vận động và phát triển, tác động mạnh mẽ cả chiều thuận

và chiều nghịch đến yêu cầu nâng cao VHCT trong nhà trường quân đội.

Từ thực trạng VHCT trong NTQĐ hiện nay, trước yêu cầu nâng cao VHCT

trong NTQĐ cũng đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết, đó là: vấn đề nâng cao

nhận thức toàn diện cho các chủ thể; vấn đề phát huy hiệu quả giá trị văn hóa truyền

thống với chủ động lựa chọn và tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại; vấn đề

kết hợp nâng cao hiệu quả thiết chế VHCT với nhiệm vụ chính trị trung tâm của

NTQĐ hiện nay và nâng cao VHCT phải gắn với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và

cuộc vận động của đất nước, quân đội và của mỗi trường.

Nâng cao VHCT trong NTQĐ là yêu cầu bảo đảm cho sự phát triển những

yếu tố cấu thành của VHCT như: yếu tố thuộc về nhân cách cá nhân của chủ thể

VHCT; phát huy và phát triển các thang bậc giá trị VHCT; hoàn thiện thể chế, thiết

chế VHCT và phát huy hiệu quả hoạt động VHCT, giúp việc nâng cao trình độ

chính trị cho các chủ thể; nâng cao chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học góp

phần hoàn thiện nhân cách của quân nhân. Nâng cao VHCT là góp phần bồi đắp

phẩm chất của quân nhân, góp phần xây dựng nền nếp, kỷ cương, kỷ luật, trang bị

cho chủ thể những kiến thức cơ bản về chuyên môn, lý tưởng sống và nâng cao đạo

đức, lối sống, làm cho hệ giá trị đạo đức cách mạng trở thành yếu tố bên trong, điều

chỉnh suy nghĩ, hành vi của mỗi quân nhân phù hợp với mục tiêu, lý tưởng đã lựa

chọn. Nói cách khác, nâng cao VHCT trong NTQĐ là phải biết không ngừng củng

cố niềm tin, xây dựng lối sống lành mạnh, giúp chủ thể VHCT vững vàng, kiên định

trước mọi cám dỗ, cạm bẫy trong xã hội và sự lôi kéo của các thế lực thù địch,

không sa vào lối sống buông thả, tự do, thực dụng, cơ hội, vị kỷ, cá nhân tránh được

nguy cơ tha hóa.

Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa nói chung và nâng cao VHCT

nói riêng trong NTQĐ là một trong những định hướng cơ bản, quan trọng mang tính

khách quan được đặt ra trước yêu cầu xây dựng quân đội, là nội dung quan trọng

150

trong hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của quân đội nói chung, trong đó

có nhà trường quân đội. Thông qua đó, nhằm khẳng định và phát huy hiệu quả các

giá trị truyền thống, khơi dậy lòng biết ơn, sự tự hào đối với truyền thống tốt đẹp,

vẻ vang của Đảng, của dân tộc; truyền thống của quân đội và của mỗi nhà trường, là

tiền đề để tiếp thu, tiếp nhận, bổ sung những giá trị mới, làm cho đời sống văn hóa

tinh thần trong NTQĐ trở nên lành mạnh, đa dạng, phong phú góp phần nâng cao

chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học, có tác dụng nuôi dưỡng và phát triển

nhân cách của người quân nhân cách mạng, đồng thời tạo ra sức đề kháng cao, có

khả năng miễn dịch trước những lây nhiễm độc hại trong bối cảnh toàn cầu hóa và

xu thế hội nhập hiện nay.

Việc nghiên cứu VHCT trong NTQĐ hiện nay là cơ sở đánh giá đúng đắn

thực trạng cũng như nhìn nhận rõ xu hướng và vấn đề đặt ra để nâng cao hơn nữa

VHCT trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu VHCT trong NTQĐ có thể sử dụng

làm tài liệu tham khảo trong học tập, rèn luyện, giúp nâng cao nhận thức và định

hướng chính trị đúng đắn cho các chủ thể. Đồng thời, cung cấp luận cứ khoa học

cho QUTW và BQP, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong NTQĐ đề ra chủ trương, biện

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, góp phần

nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu,

nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nghiên cứu về VHCT trong NTQĐ hiện nay là vấn đề khoa học mới mẻ,

phạm vi rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau. Những

vấn đề được trình bày trong luận án chỉ là kết quả bước đầu, tác giả mong muốn sự

cộng tác, giúp đỡ của các nhà nghiên cứu. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả tiếp tục

nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc, toàn diện hơn, góp phần thiết thực vào sự

nghiệp đào tạo đội ngũ cán bộ QĐND Việt Nam đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. /.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Văn Tách (2015), “Góp phần tìm hiểu quan hệ truyền thống - hiện đại trong

phát triển môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở”, Tạp chí Văn hóa Quân sự,

(115), tr. 6-7.

2. Lê Văn Tách (2015), “Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa trong các

đơn vị quản lý học viên ngành quân sự cơ sở”, Tạp chí Dân quân Tự vệ

Giáo dục quốc phòng, (91 (135), tr.50-52.

3. Lê Văn Tách (2015), “Tác động quan hệ truyền thống - hiện đại trong phát triển

môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (102), tr.50-52.

4. Lê Văn Tách (2015), “Phát huy hiệu quả giá trị truyền thống tiêu biểu ở Trường

Sĩ quan Lục quân 1”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (227), tr.159-161.

5. Lê Văn Tách (2016), “Công tác giáo dục truyền thống ở Trường Sĩ quan Lục

quân 1 - Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số

5/2016), tr.95-97.

6. Lê Văn Tách (2016), “Xây dựng và phát triển môi trường văn hóa quân sự ở

đơn vị cơ sở dưới góc độ quan hệ truyền thống và hiện đại”, Tạp chí

Giáo dục Lý luận, (243), tr.54-55.

7. Lê Văn Tách (2017), “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giảng vên ở

Trường Sĩ quan Lục quân 1”, Tạp chí Quân huấn, (603), tr.43-45.

8. Lê Văn Tách (2018), “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ giảng viên trong

Nhà trường Quân đội hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (272), tr.76-

80,88.

9. Lê Văn Tách (2018), “Định hướng phát triển văn hóa chính trị trong nhà

trường quân đội”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (số đăng ngày 12-4-2018).

10. Lê Văn Tách (2019), “Xây dựng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Quân sự, (164), tr.8-9.

11. Lê Văn Tách (2019), “Đặc trưng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội

nhân dân Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, (206), tr. 60-66.

12. Lê Văn Tách (2019), “Nhận diện các yếu tố tác động và định hướng phát triển

văn hóa chính trị ở nhà trường quân đội hiện nay”, Tạp chí Khoa học

Chính trị quân sự, số 4(47), tr.35-39.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu Tiếng Việt

1. I. Acnônđốp (1993), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, (Hoàng Vinh, Nguyễn

Văn Hy dịch), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (1996), Giản yếu - Hán - Việt từ - điển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

3. Đào Duy Anh (2004), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

4. Đỗ Ngọc Anh và Đỗ Thị Minh Thúy (2013), Vấn đề phát triển văn hóa (Qua văn kiện

Đại hội Đảng lần thứ XI), NXB Văn hóa - Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.

5. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hóa và phát triển,

NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

6. Ban liên lạc khóa 1 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (2011), 65 năm dưới lá cờ

Trung với nước, hiếu với dân, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

7. Ban liên lạc Khóa V (2009), Trường trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa V -

Khóa chuẩn bị tổng phản công, NXB Lao động, Hà Nội.

8. Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một số chủ

trương của Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam khóa XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội

đại biểu Toàn quốc lần thứ XII của Đảng, (Dùng cho cán bộ chủ chốt và

báo cáo viên), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

10. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội

nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn hóa - Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.

12. Hoàng Chí Bảo (2010), Văn hóa và con người Việt Nam trong đổi mới và hội

nhập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Chí Bền (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

153

14. Nguyễn Vương Bình (2017), Định hướng giá trị văn hóa của học viên đào tạo

sĩ quan trong các trường Quân đội, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường

Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

15. Trần Văn Bính (2000), Vai trò văn hóa trong hoạt động chính trị của Đảng ta

hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội.

16. Bộ Quốc phòng (2004), Nhà trường quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

17. Bộ Quốc phòng (2011), Điều lệnh quản lý bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam,

NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

18. Bộ Quốc phòng (2016), Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt

Nam, Hà Nội.

19. Bộ Quốc phòng (2019), Thông tư số 42/2019/TT-BQP ngày 19/4/2019 của Bộ

Quốc phòng

20. Bộ Tổng Tham mưu - Cục Nhà trường (2019), số 1870/NT-KH, ngày 16 tháng

10 năm 2019, Về việc Kết quả thực hiện Kết luận của Quân ủy Trung

ương, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu đối với Trường Sĩ quan Lục quân

1, Hà Nội.

21. Bộ Tổng Tham mưu - Cục Nhà trường (2019), số 1474/BC-NT, ngày 15 tháng 8

năm 2019, Báo cáo Tổng kết năm học 2018 -2019, phương hướng nhiệm vụ

năm học 2019 -2020, Hà Nội.

22. Bộ Tổng Tham mưu - Đoàn kiểm tra (2019), số 1854/KT-ĐKT ngày 24 tháng 7

năm 2019, Kết luận Kiểm tra công tác giáo dục, đào tạo và xây dựng chính

quy Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.

23. Hoàng Đình Chiều (2012), Nhập thân văn hóa trong phát triển nhân cách Bộ

đội Cụ Hồ của thanh niên quân đội hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,

Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

24. Tạ Thành Chung (2017), Văn hóa chính trị của công an nhân dân trong điều kiện

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Chính

trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

25. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới và hội nhập, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

154

26. Đinh Xuân Dũng (1999), Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến

sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

27. Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

28. Đinh Xuân Dũng (2014), Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đinh Xuân Dũng (2016), Văn hóa & con người Việt Nam hiện nay - Mấy suy

nghĩ từ thực tiễn, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

30. Lê Văn Dũng (2004), Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị -

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

31. Thành Duy (2007), Văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu: Thời cơ và thách

thức, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

32. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

33. Đảng bộ Học viện Chính trị (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học

viện Chính trị lần thứ XV nhiệm kỳ 2015 - 2020, Hà Nội.

34. Đảng bộ Quân đội - Đảng ủy Học viện Chính trị, số 10 - BC/ĐU, ngày 16 tháng

6 năm 2016, Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 124 - CT/QUTW

ngày 31 tháng 3 năm 2011 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng

cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai

đoạn mới (2011-2016), Hà Nội.

35. Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2010), Lịch sử Đảng bộ Trường Sĩ quan

Lục quân 1 (1945- 2010), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

36. Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ

XVI nhiệm kỳ 2015 - 2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

37. Đảng bộ Quân đội - Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2018), số 7790-

BC/ĐU, ngày 10 tháng 12 năm 2018, Báo cáo Kết quả đẩy mạnh học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực

hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh

đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,

lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”

và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng

danh Bộ đội Cụ Hồ” trong Đảng bộ Nhà trường năm 2018, Lưu hành nội

bộ, Hà Nội.

155

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành Trung ương khóa XI, Lưu hành nội bộ, Văn phòng Trung ương

Đảng, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng kết

(2015) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi

mới (1986-2016), Lưu hành nội bộ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng ủy Học viện Chính trị - CQTTĐUHV (2018), số 800/BC-CQTT ngày 28

tháng 5 năm 2018, Báo cáo Kết quả 2 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW

ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.

41. Đảng ủy Quân sự Trung ương (1994), Nghị quyết số 93/ ĐUQSTW về công tác

Nhà trường quân đội, Hà Nội.

42. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2008), số: 1683-TB/BCĐ ngày 16 tháng 6

năm 2008, Thông báo của Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục

quân 1, Hà Nội.

43. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), số 1795-BC/ĐU ngày 08 tháng 4

năm 2016, Báo cáo Tổng kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của

Bộ Chính trị, Chỉ thị 317-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung

ương về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh”; kết quả 02 năm thực hiện Chỉ thị số 778-CT/QUTW về

phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng,

xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, Hà Nội.

44. Đảng ủy Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), số 7216-BC/ĐU ngày 26 tháng 12

năm 2016, Báo cáo Kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh - Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng,

xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” năm 2016 và triển khai thực hiện Chỉ thị 05-

CT/TW, Chỉ thị 87-CT/QUTW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Hà Nội.

45. Phạm Duy Đức (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.

Những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

156

46. Phạm Duy Đức (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Xu

hướng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Lê Quý Đức (2014), Văn hóa chính trị Việt Nam (Giáo trình cao học, chưa xuất

bản), Viện Văn hóa và Phát triển - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

48. Vũ Văn Đức (1996), Xây dựng môi trường văn hóa đơn vị cơ sở trong quân đội

hiện nay, Luận văn Cao học, Học viện Chính trị, Hà Nội.

49. Trần Thanh Giang và Đỗ Minh Hợp (2017), Văn hóa và khoa học về văn hóa,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

50. Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hóa và xây

dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

51. Phạm Minh Hạc (2015), Tìm hiểu các giá trị dân tộc Việt Nam với tâm lý học

và giáo dục học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

52. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lý học, Tập 1, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

53. Dương Phú Hiệp (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa

và con người Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

54. Học viện Chính trị (2015), Báo cáo tự đánh giá (Dùng để đăng ký kiểm định chất

lượng giáo dục Học viện Chính trị), Hà Nội.

55. Học viện Chính trị - Báo cáo Tổng kết các năm học 2015 - 2016; 2016 - 2017;

2017 - 2018 và 2018 - 2019, Hà Nội.

56. Học viện Chính trị (2017), số 1703/BC-HV5, ngày 23 tháng 11 năm 2017, Báo

cáo Kết quả xây dựng môi trường văn hóa học đường, ứng xử văn hóa tại

Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

57. Học viện Chính trị - Phòng Chính trị (2017), số 1303/BC-CT ngày 22 tháng 9

năm 2017, Báo cáo Tổng kết 25 năm thực hiện Cuộc vân động “Xây

dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”

gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”

(1992 - 2017), Hà Nội.

58. Học viện Chính trị (2017), Quy chế làm việc của Học viện Chính trị (Ban hành

kèm theo Quyết định số 621/QĐ-HV1 ngày 12 tháng 5 năm 2017 của

Giám đốc Học viện Chính trị), Hà Nội.

157

59. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Đường lối của Đảng Cộng

sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, tập 8 -

Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Tái bản lần 3, NXB Lý luận chính

60. Học viện Chính trị (2013), Truyền thống Học viện Chính trị, Cổng thông tin

trị, Hà Nội.

điện tử Học viện Chính trị, ngày 09/12/2013.

61. Học viện Chính trị (2018), Quy định xây dựng chính quy ở Học viện Chính trị

(Ban hành kèm theo Quyết định số 1234/QĐ-HV1 ngày 31 tháng 7 năm

2018 của Giám đốc Học viện), Hà Nội.

62. Nguyễn Văn Hùng (2016), Niềm tin chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

63. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa từ góc nhìn giá trị học, NXB

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

64. Đỗ Huy (2005), Văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

65. Đỗ Huy (2013), Văn hóa Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội nhập

và phát triển, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

66. Nguyễn Văn Huyên (2000), Triết lí phát triển C. Mác - Ph. Ănghen - V.I Lênin,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

67. Nguyễn Văn Huyên (2007), Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,

NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

68. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn và Nguyễn Văn Vĩnh (2009), Bước đầu

tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

69. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Quan niệm của Các Mác về tha hóa và ý

nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay

(Sách chuyên khảo), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

70. Nguyễn Hữu Khiển (2006), Phân tích triết học - Những vấn đề cơ bản về chính trị

và khoa học chính trị, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

71. Nguyễn Xuân Kính (2002), Con người, môi trường và văn hóa, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

158

72. Lưu Ngọc Khải, Nguyễn Văn Tùng (2014), Thanh niên quân đội với việc giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

73. Nguyễn Minh Khoa (2016), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây dựng

văn hóa chính trị Việt Nam, Sách tham khảo, NXB Chính trị Quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

74. Nguyễn Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và

thực tiễn, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

75. Nguyễn Hữu Lập (2017), Xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho học

viên đào tạo chính ủy trung, sư đoàn ở Học viện Chính trị hiện nay, Báo

cáo tổng hợp đề tài cấp Học viện, Học viện Chính trị, Hà Nội.

76. Nguyễn Hiến Lê (2017), Lão Tử - Đạo đức kinh, NXB Văn hóa - Văn nghệ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

77. Ngô Xuân Lịch (2018), Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu

cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện

đại, Tạp chí điện tử, Học viện Hậu cần, số ra ngày 28/8/2018.

78. Đặng Vũ Cảnh Linh (2010), Con người Việt Nam truyền thống - Những giá trị

đối với sự phát triển, NXB Lao động, Hà Nội.

79. Luận ngữ (1992), Lê Phục Thiện (dịch), NXB Văn học, Hà Nội.

80. Lê Quốc Lý (2014), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

81. C. Mác-Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

82. C. Mác - Ph. Ăngghen (1998), Toàn tập, tập 1, phần I, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

83. C. Mác-Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh, (2001), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh, (2002), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

159

91. Nguyễn Đình Minh (2016), Xây dựng Học viện Chính trị vững mạnh, trở thành

trung tâm đào tạo có uy tín, Tạp chí Quân đội Nhân dân, Học viện Chính trị.

92. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hóa vì phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

93. Nghiêm Thị Thu Nga (2018), Văn hóa chính trị thời thịnh Trần, luận án tiến sĩ

Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

94. Đỗ Văn Ngoan (2009), Quan hệ thống nhất - đa dạng trong phát triển môi trường

văn hóa quân sự ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện

nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.

95. Trịnh Thị Kim Ngọc (2009), Con người và văn hóa - từ lý luận đến thực tiễn

phát triển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

96. Nhiều tác giả (2019), Các lý thuyết văn hóa (Đỗ Thúy Lai tuyển chọn và giới

thiệu), NXB Hồng Đức, Hà Nội.

97. Nhiều tác giả (2019), Giáo dục giá trị trong nhà trường, NXB Đại học Huế, Huế.

98. Nhiều tác giả (2009), Quân đội nhân dân học tập và làm theo lời dạy của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

99. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện

đại, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội,

100. Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ lãnh

đạo ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

101. Lê Văn Quang và Văn Đức Thanh (2002), Văn hóa quân sự Việt Nam, Hà Nội.

102. Quân ủy Trung ương - Cơ quan thường trực QUTW về học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - Bộ phận giúp việc (2016), số

2940/BC-BPGV ngày 05 tháng 10 năm 2016, Báo cáo Kết quả bước đầu

triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính

trị, Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân, Hà Nội.

103. Quân ủy Trung ương (2017), số 355-CT/QUTW, ngày 20 tháng 4 năm 2017,

Chỉ thị Về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa, văn học,

nghệ thuật trong Quân đội giai đoạn hiện nay, Hà Nội.

104. GS Radugin. A. A. (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, (Người dịch Vũ

Đình Phòng), Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

160

105. Radughin. A. A. (2004), Văn hóa học - Những bài giảng, Viện Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

106. Nguyễn Hồng Sơn (2004), Văn hóa và phát triển - Sự nhận thức và vận dụng

trong thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

107. Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm đề tài) (2017), Văn hóa chính trị Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập quốc tế, (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài

cấp Bộ năm 2016), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện

Chính trị học, Hà Nội.

108. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Hà Nội.

109. Văn Đức Thanh (2014), Văn hóa quân sự Việt Nam - Truyền thống và hiện

đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

110. Văn Đức Thanh (2016), Triết học văn hóa (Giáo trình), NXB Chính trị Quốc

gia - Sự thật, Hà Nội.

111. Văn Đức Thanh và Nguyễn Mạnh Hưởng, Tư tưởng chiến tranh nhân dân trong

sự nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

112. Nguyễn Toàn Thắng (2010), Sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ 1930 đến

nay, Đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.

113. Trần Ngọc Thêm (2015), Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai

đoạn hiện tại, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.

114. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP Hồ Chí

Minh, Hồ Chí Minh.

115. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị Văn hóa

truyền thống trong đổi mới và hội nhập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

116. Phạm Bá Toàn (2012), Giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ (Qua hồi ký, nhật ký

chiến tranh), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

117. Tổng cục Chính trị (1992), Chỉ thị về xây dựng môi trường văn hóa mới trong

các đơn vị quân đội, Hà Nội.

118. Tổng cục Chính trị (2000), Công tác tư tưởng văn hoá trong xây dựng quân

đội về chính trị, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

119. Tổng cục Chính trị (1998), Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị, tập I,

NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

161

120. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Cục Tuyên huấn (2016),

Phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

121. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Cục Tuyên huấn (2018),

Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay (Tài liệu dùng cho nghiên cứu, học tập chính trị trong

quân đội), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

122. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2015), Tài liệu nghiên cứu,

học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần

thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

123. Tổng cục Chính trị (2002), Tổng kết 10 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng

môi trường văn hóa, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

124. Tổng cục Chính trị (2007), Xây dựng niềm tin của cán bộ, chiến sĩ vào vũ khí

trang bị kỹ thuật sẵn sàng đánh thắng chiến tranh kiểu mới, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

125. Tổng cục Chính trị (2005), Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở đơn vị cơ sở

trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, NXB Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

126. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (2002), “Giáo trình Văn hóa

học”, (2009) (dùng cho đào tạo bậc đại trong các nhà trường quân đội hiện

nay), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

127. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc văn hóa dân tộc và hiện đại trong văn hóa, Hà Nội.

129. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa và phát triển từ lý luận đến thực tiễn, NXB

Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

130. Bế Xuân Trường, Nguyễn Bá Dương (2013), Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

trong tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

131. Trường Sĩ quan Lục quân 1, Báo cáo Tổng kết các năm học 2015 - 2016; 2016 -

2017; 2017 - 2018 và 2018 - 2019, Hà Nội.

132. Trường Sĩ quan Lục quân 1- Ban Chỉ đạo lấy ý kiến phản hồi (2018, 2019),

Báo cáo Kết quả khảo sát học viên Khóa 82,83 tốt nghiệp năm 2018,

2019 về chất lượng giáo dục - đào tạo, Hà Nội.

162

133. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (1997), Báo cáo sơ kết 5 năm Cuộc vận động xây

dựng môi trường văn hóa ở Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.

134. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2000), Công tác đảng, công tác chính trị

Trường Sĩ quan Lục quân 1 1945 - 2000 (Biên niên sự kiện), NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

135. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2010), 65 năm xây dựng chiến đấu và trưởng

thành của Trường Sĩ quan Lục quân 1, Hà Nội.

136. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2014), Báo cáo tự đánh giá để đăng ký kiểm định

chất lượng Giáo dục Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Đại học Trần Quốc

Tuấn, Hà Nội.

137. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Chương trình Giáo dục đại học, đào tạo Sĩ

quan Chỉ huy - Tham mưu cấp phân đội, Hà Nội.

138. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm

ngày truyền thống Trường Sĩ quan Lục quân 1 (15/4/1945 - 15/4/2015),

Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

139. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học 70 năm xây

dựng, chiến đấu, đào tạo và trưởng thành của Trường Sĩ quan Lục quân

1, Hà Nội.

140. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2019), Quy chế Giáo dục - Đào tạo của Trường Sĩ

quan Lục quân, (Ban hành kèm theo Quyết định số: 888/QĐ-LQ ngày 24

tháng 01 năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1), Hà Nội.

141. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2016), Quy định về xây dựng chính quy, bảo đảm an

toàn, sẵn sàng chiến đấu của Trường Sĩ quan Lục quân 1, (Ban hành kèm

theo Quyết định số 4876/QĐ-LQ ngày 09 tháng 9 năm 2016), Hà Nội.

142. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2017), số: 2689/QĐ-LQ ngày 15 tháng 5 năm

2017, Quyết định về việc ban hành Quy chế làm việc của Trường Sĩ quan

Lục quân 1, Hà Nội.

143. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2017), Quy chế làm việc của Trường Sĩ quan Lục

quân 1, Hà Nội.

144. Trường Sĩ quan Lục quân 1 (2015), Mạch nguồn chảy mãi, NXB Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

163

145. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2015), số: 1931/BC-CT ngày

03 tháng 5 năm 2015, Báo cáo Kết quả lãnh đạo công tác giáo dục chính

trị tư tưởng (từ năm 2010 - 2015), Hà Nội.

146. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2017), số: 1297/CT-TH ngày 13

tháng 3 năm 2017, V/v thống nhất tiêu chí học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của các đối tượng trong Nhà trường,

Hà Nội.

147. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2017), số: 6013/BC-CT ngày 28

tháng 9 năm 2017, Báo cáo Tổng kết 25 năm thực hiện Cuộc vận động

“Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân

đội” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hóa”, Hà Nội.

148. Trường Sĩ quan Lục quân 1 - Phòng Chính trị (2018), số: 6964/HD-CT ngày 09

tháng 11 năm 2018 Hướng dẫn thực hiện nếp sống văn hóa trong thanh

niên Nhà trường, Hà Nội.

149. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý

ở nước ta hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

150. Phạm Hồng Tung (2010), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa

chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

151. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2007), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

152. Hàn Phi Tử (2005), Phan Ngọc (dịch), NXB Văn học, Hà Nội.

153. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng (2010), Nâng cao

văn hóa lãnh đạo của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở

Quân đội nhân dân Việt Nam, Đề tài, NXB Quân đội nhân, Hà Nội.

154. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2010), Phát huy truyền thống bộ đội Cụ Hồ

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

155. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ

điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

156. Huỳnh Khái Vinh (1998) Những vấn đề thời sự văn hóa, NXB Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

164

157. Huỳnh Khái Vinh (2001), Phát triển văn hóa - phát triển con người, NXB Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

158. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước

ta, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

159. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam

hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

160. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên), (2007), Tập bài giảng Chính trị học, Viện Khoa

học Chính trị, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

161. Ngô Doãn Vịnh (2013), Giải thích thuật ngữ trong nghiên cứu phát triển (Bối

cảnh và điều kiện của Việt Nam), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

162. Phạm Văn Xây (2017), Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường Quân đội hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

163. Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2003), Tâm lý học đại

cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

B. Tài liệu tiếng nước ngoài

164. Almond G. (1956), Comparative Political System, The Journal of Politics (8),

pp. 12 - 15.

165. Almond G. and Verba S.(1963), The Civic Culture, Boston: little, Brown & Co.

166. Almond G. and Verba S.(1963), The Civic Culture: Politiccal Attitues and

Democracy in five Nations, Pricenton University Press.

ngày 18/6/2016.

167. Culture denfinition: http//www.tamu.edu/faculty/choudhury/culture.html. Truy cập

168. Dennis Kavannagh (1972), Political Culture, London Basinstocke, Macmillan.

169. Pye L. (1968), Political Culture, International Encyclopedia of the Social

Sciences, Vol. 12, London, Macmillan.

170. Rosenbaum W. (1995), Political Culture, N. Y

165

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN (Mẫu dành cho học viên)

Trang

PHỤ LỤC 2 BẢNG HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

166

PHỤ LỤC 3 ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ

171

DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN

PHỤ LỤC 4 KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU CỦA LUẬN ÁN TỪ PHẦN MỀM SPSS 178

PHỤ LỤC 5 KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH

174

TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

PHỤ LỤC 6 BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU LUẬN ÁN

191

PHỤ LỤC 7 SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIÊN SỐ

203

PHỤ LỤC 8 SỐ LIỆU VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN VÀ HOẠT

ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG

218

NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

PHỤ LỤC 9 MƯỜI LỜI THỀ DANH DỰ CỦA QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI

220

NHÂN DÂN VIỆT NAM

PHỤ LỤC 10 MƯỜI HAI ĐIỀU KỶ LUẬT KHI QUAN HỆ VỚI NHÂN DÂN

226

CỦA QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

PHỤ LỤC 11 MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN VĂN

228

HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

PHỤ LỤC 12 Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC

VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

229

237

166

PHỤ LỤC 1

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

(Mẫu dành cho học viên)

Bảng hỏi số……

Khảo sát viên…........ Thời gian khảo sát……….. Địa điểm khảo sát………

Mục đích khảo sát: nhằm tìm hiểu những nhận thức và đánh giá của học

viên về thực trạng “văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay”, qua đó, góp phần bổ sung, làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực

tiễn về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, từ đó để rút ra những vấn đề

làm cơ sở cho việc thúc đẩy, nâng cao văn hóa chính trị, hướng tới mục tiêu không

ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.

Đối tượng khảo sát: Học viên của hai nhà trường: Học viện Chính trị và

Trường Sĩ quan Lục quân 1.

Các đồng chí vui lòng khoanh tròn vào phương án trả lời được lựa chọn và có

thể ghi ý kiến khác vào bên cạnh. Chúng tôi cam kết thông tin các đồng chí cung cấp

chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học, ngoài ra không sử dụng vào bất cứ

một mục đích nào khác. Rất mong nhận được sự hợp tác của các đồng chí.

Xin chân thành cảm ơn sự tham gia của các đồng chí.

I. THÔNG TIN VỀ CÁ NHÂN

Nam Câu 2 Giới tính? Nữ

Dưới 35 tuổi

Từ 35 đển 45 tuổi Câu 3 Độ tuổi?

Trên 45 tuổi

Hạ sĩ quan (biến đối chứng)

Cấp úy Câu 4 Cấp bậc Thiếu tá, trung tá

Câu 1 Họ và tên (Không bắt buộc): …………………………………......…… 1  2  1  2  3  1  2  3  4  Thượng tá, đại tá

167

Câu 5 Ngành/Chuyên ngành học? …………………………..………………

1  Năm thứ nhất

2  Năm thứ hai Câu 6 Học viên năm thứ mấy? 3  Năm thứ ba

4  Năm thứ tư

Học viện Chính trị-Bộ quốc phòng 1  Câu 7 Trường đang học? 2  Trường Sĩ quan Lục quân 1

1  Nghèo

2  Trung bình Câu 8 Điều kiện sống của gia đình học viên

3  Khá giả trở lên

2  Nông thôn Câu 9 Nơi ở của học viên sinh sống (trước khi học tập) 3  Thị trấn/thành phố

II. NỘI DUNG CHÍNH

Câu 1. Đối với đồng chí việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà

trường quân đội hiện nay có cần thiết hay không? (Chọn 1 phương án trả lời)

Có 1  Không 2 

Câu 2. Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

hiện nay đã giúp đồng chí những điều gì? (khoanh tròn vào con số chỉ mức độ)

Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay đã giúp đồng chí Đồng ý Không đồng ý

2.1. Nâng cao nhận thức của cá nhân về chính trị

2.2. Hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân

2.3. Được nói lên tâm tư, nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản thân mình.

2.4. Có niềm tin, ý chí và lý tưởng đối với văn hóa chính trị

2.5. Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị

2.6. Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội và chính trị

168

Câu 3. Mức độ hài lòng của đồng chí về việc định hướng văn hóa chính

trị trong nhà trường quân đội hiện nay

Hoàn toàn không hài lòng 1  Không hài lòng 2 

Bình thường 3  Hài lòng 4 

Rất hài lòng 5  Không có ý kiến 99 

Câu 4. Theo đồng chí, việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà

trường quân đội hiện nay là cần thiết hay không?

Rất không cần thiết 1  Không cần thiết 2 

Bình thường 3  Cần thiết 4 

Rất cần thiết 5  Không có ý kiến 99 

Câu 5. Dưới đây là thực trạng của văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà

đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng nội dung. Trong đó có 5 mức độ

tương ứng: 1. Rất không cần thiết; 2. Không cần thiết; 3. Bình thường; 4. Cần

thiết; 5. Rất cần thiết)

Thực trạng của văn hóa chính trị Mức độ

5a. Chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

5a1. Nhận thức chính trị 3 4 5 1 2

5a2. Tình cảm chính trị 3 4 5 1 2

5a3. Ý chí chính trị 3 4 5 1 2

5a4. Thái độ chính trị 3 4 5 1 2

5a5. Năng lực tham gia các hoạt động chính trị 3 4 5 1 2

5a6. Lý tưởng chính trị 3 4 5 1 2

5a7. Niềm tin chính trị 3 4 5 1 2

5a8. Uy tín chính trị cá nhân 3 4 5 1 2

169

Thực trạng của văn hóa chính trị Mức độ

5b. Thang bậc giá trị văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội

5b1. Triết lý chính trị 1 2 4 5 3

5b2. Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị 1 2 4 5 3

5b3. Di sản và truyền thống chính trị 1 2 4 5 3

5c. Thể chế, thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội

5c1. Sứ mệnh, mục tiêu, yêu cầu đào tạo cần gắn liền với 1 2 3 4 5 chức năng và nhiệm vụ NTQĐ

5c2. Vai trò của sứ mệnh, mục tiêu nhà trường quân đội 1 2 3 4 5

5c3. Hành động để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo 1 2 3 4 5

5c4. Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị 1 2 3 4 5

5c5. Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân 1 2 3 4 5

5c6. Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức 1 2 3 4 5

5c7. Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ 1 2 3 4 5

5d. Hoạt động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

5d1. Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học 1 2 3 4 5

5d2. Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học 1 2 3 4 5

5d3. Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức 1 2 3 4 5

3 4 5 5d4. Các hoạt động khác 1 2

Câu 6. Dưới đây là những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà

trường quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà

đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng yêu cầu. Trong đó có 5 mức độ tương

ứng: 1. Rất không quan trọng; 2. Không quan trọng; 3. Bình thường; 4. Quan trọng; 5.

Rất quan trọng)

6a. Tác động thuận chiều Mức độ

6a1. Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công 1 2 3 4 5

170

6a. Tác động thuận chiều Mức độ

nghệ, truyền thông

6a2. Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước 1 2 3 4 5

6a3. Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu, 1 2 3 4 5 nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới

6b. Tác động trái chiều

6b1. Sự chống phá của các thế lực thù địch 1 2 3 4 5

6b2. Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công 1 2 3 4 5 nghệ, truyền thông

6b3. Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước 1 2 3 4 5

6b4. Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng, văn 1 2 3 4 5 hóa trong quân đội và công tác xây dựng nhà trường quân đội

Câu 7. Dưới đây là một số vấn đề đặt ra đối với hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay (trong mỗi hàng, đồng chí hãy khoanh vào 01 mức độ mà đồng chí thấy phù hợp và quan trọng cho từng yêu cầu. Trong đó có 5 mức độ tương ứng: 1. Rất không quan trọng; 2. Không quan trọng; 3. Bình thường; 4. Quan trọng; 5. Rất quan trọng)

Nội dung vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị trong nhà Mức độ trường quân đội

1 2 3 4 5

1 2 3 4 5

7a. Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội 7b. Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại 7c. Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực 1 2 3 4 5 hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội

Một lần nữa xin cảm ơn sự cộng tác của các đồng chí!

7d Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, 1 2 3 4 5 nghị quyết và các cuộc vận động

171

PHỤ LỤC 2

BẢNG HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU

A. DÙNG CHO GIẢNG VIÊN

Đối tượng là giảng viên, cán bộ quản lý đang công tác tại Học viện Chính trị -

Bộ Quốc phòng và Trường Sĩ quan Lục quân 1.

1. Chủ đề: Công tác quản lý và hỗ trợ học viên trong việc nâng cao văn

hóa chính trị trong nhà trường quân đội

2. Mục đích: Với việc sử dụng phương pháp này, nhằm mục đích thu thập

được những thông tin cần thiết liên quan đến quan điểm của cán bộ giảng viên Học

viện Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1 trong công tác quản lý học viên về

định hướng nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, hướng tới mục

tiêu không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội của Đảng, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.

3. Đối tượng tham gia vào cuộc phỏng vấn: Cán bộ giảng viên Học viện

Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1

4. Thời lượng: 30 phút/đối tượng (Kết hợp quan sát và ghi hình ảnh)

5. Định hướng phỏng vấn:

5.1. Thông tin cá nhân người được phỏng vấn: Họ và tên, tuổi, trình độ học

vấn, chức vụ hiện tại, thời gian công tác tại đơn vị.

5.2. Tình hình định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay ra sao? Việc định hướng các giá trị đó có ý nghĩa như thế

nào đối với học viên (nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị; nâng cao năng lực,

hứng thú, tính cách của học viên; nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội

và chính trị…)

5.3. Đánh giá thực trạng trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện

nay như thế nào? (Nhận thức chính trị; tình cảm chính trị; ý chí chính trị; thái độ

chính trị; uy tín chính trị cá nhân; niềm tin chính trị; triết lý chính trị, chuẩn mực,

khuôn mẫu chính trị…)

5.4. Đánh giá những yếu tố tác động thuận chiều và trái chiều đến văn hóa

chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay?

172

5.5. Ý kiến đề xuất nhằm nâng cao vai trò của cán bộ giảng viên Học viện

Chính trị và Trường Sĩ quan Lục quân 1 trong quản lý và hỗ trợ học viên nâng cao

văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

B . DÙNG CHO HỌC VIÊN

Đối tượng là học viên đang học tập tại Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

và Trường Sĩ quan Lục quân 1.

1. Chủ đề phỏng vấn: Tìm hiểu việc định hướng nâng cao văn hóa chính trị

trong nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

2. Mục đích: Tìm hiểu, đánh giá thực trạng và việc định hướng các giá trị

văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Thông

qua đó phát huy tích cực văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội.

3. Đối tượng tham gia vào cuộc phỏng vấn: đối tượng là học viên đang học

tập tại Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng và Trường Sỹ quan Lục quân 1. Các đối

tượng được hỏi sẽ được lựa chọn dựa trên các tiêu chí về độ tuổi, học vấn, chuyên

ngành, học viên năm thứ mấy, trường đang học…

4. Thời lượng: 30 phút/đối tượng (Kết hợp quan sát và ghi hình ảnh)

5. Định hướng phỏng vấn:

5.1. Thông tin cá nhân người được phỏng vấn: Họ và tên, tuổi, giới tính, học

vấn, chuyên ngành học, học viên năm thứ mấy, trường đang học tập....

5.2. Môi trường học tập của người được phỏng vấn: Học tập năm thứ mấy,

kết quả học tập trong năm học gần nhất, môi trường học tập có ảnh hưởng lớn tới

việc định hướng văn hóa chính trị với cá nhân người được phỏng vấn hay không?

5.3. Tình trạng người được phỏng vấn theo môi trường học tập

- Lý do chọn môi trường học tập này là gì? (do gia đình định hướng, do nhu

cầu của xã hội, do cơ chế chính sách ở địa phương, do sở thích cá nhân,…..)

- Học ở đây từ năm nào? Hiện tại đang là học viên năm thứ mấy?

- Học chuyên ngành nào? Cấp bậc hiện nay ra sao? Độ tuổi như thế nào?

- Dự định hiện tại như thế nào? Dự định trong thời gian sắp tới là gì?

5.4. Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam

- Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội nhân dân Việt

Nam hiện nay đã giúp đồng chí những điều gì? (Nâng cao nhận thức cá nhân về

173

chính trị; hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân; được nói

lên tâm tư nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản thân; có niềm

tin, ý chí đối với văn hóa chính trị…)

- Việc định hướng văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay có cần thiết hay không?

- Những biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân

Việt Nam hiện nay là gì? (Nhận thức chính trị; tình cảm chính trị; ý chí chính trị;

thái độ chính trị; uy tín chính trị cá nhân; niềm tin chính trị; triết lý chính trị, khuôn

mẫu chuẩn mực chính trị…)

5.5. Những yếu tố tác động đến văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội

nhân dân Việt Nam hiện nay là gì?

- Tác động thuận chiều: toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công

nghề, truyền thông; tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước và sự phát

triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong

tình hình mới.

- Tác động trái chiều: sự chống phá của các thế lực thù địch; toàn cầu hóa,

kinh tế thị trường và sự phát triển công nghề, truyền thông; tác động của yếu tố văn

hóa chính trị trong nước và tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng, văn

hóa trong quân đội với công tác xây dựng nhà trường quân đội hiện nay

5.6. Nhận định của đồng chí về những vấn đề đặt ra đối văn hóa chính trị

trong nhà trường quân đội

- Vị trí, vai trò nhận thức của chủ thể đối với yêu cầu xây dựng văn hóa

chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay?

- Yêu cầu nâng cao văn hóa chính trị có cần thiết phải đặt trong bối cảnh

chung của tình hình đất nước, quân đội và thực tiễn của của mỗi trường?

- Vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong việc nâng cao văn hóa chính

trị hiện nay?

- Nâng cao văn hóa chính trị có vai trò như thế nào trong việc nâng cao

chất lượng dạy học, nghiên cứu khoa học và trong việc hoàn thiện nhân cách của

các chủ thể.

5.7. Mong muốn của đồng chí để việc nâng cao văn hóa chính trị trong nhà

trường Quân đội nhân dân Việt Nam được tốt hơn trong thời gian tới ?

174

PHỤ LỤC 3

ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

VÀ DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN

A. ĐẶC ĐIỂM MẪU KHẢO SÁT, NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN

Đơn vị Học viện Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1

N (người) (%) N (người) (%) Đặc điểm

1. Giới tính

150

100,0 150 100,0 Nam

0

0,0 0 0,0 Nữ

100,0 150 150 100,0 Tổng

2. Tuổi

30,0 45 139 92,7 Dưới 35 tuổi

50,0 75 11 7,3 Từ 35 đển 45 tuổi

20,0 30 0 0,0 Trên 45 tuổi

150 100,0 150 100,0 Tổng

3. Học viên năm

33

24,0 36 22,0 Năm thứ nhất

39

24,7 37 26,0 Năm thứ hai

44

27,3 41 29,3 Năm thứ ba

34

24,0 36 22,7 Năm thứ tư

150 100,0 150 100,0 Tổng

4. Cấp bậc

0,0 0 141 94,0 Hạ sĩ quan

16,0 24 5 3,3 Cấp úy

78,0 117 4 2,7 Thiếu tá, trung tá

6,0 9 0 0,0 Thượng tá, đại tá

150 100,0 150 100,0 Tổng

175

Đơn vị Học viện Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 1

N (người) (%) N (người) (%) Đặc điểm

5. Ngành/chuyên ngành

34,0 51 -

Cán bộ Chính ủy Trung đoàn, sư đoàn

34,7 52 -

Giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự

31,3 47 Cán bộ nghiên cứu -

- 46 30,7

Chỉ huy tham mưu Lục quân binh chủng hợp thành

- Giảng viên quân sự 54 36,0

- Thạc sĩ nghệ thuật quân sự 50 33,3

Tổng 150 100,0 150 100,0

6. Điều kiện sống của gia đình học viên

14,0 21 Nghèo 19 12,7

44,7 67 Trung bình 56 37,3

41,3 62 Khá giả 75 50,0

Tổng 150 100,0 150 100,0

7. Nơi ở của học viên sinh sống (trước khi học tập)

Nông thôn 106 70,7 108 72,0

Thị trấn/thành phố 44 29,3 42 28,0

Tổng 150 100,0 150 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

176

B. DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN

1. Cán bộ, giảng viên và học viên của Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị Ghi chú Năm sinh Cấp bậc

1 Bùi Ngọc Quỵnh 1966 Đại tá Chủ nhiệm khoa Khoa Kinh tế Chính trị Giảng viên trực tiếp giảng dạy

2 Trương Sao Hôm 1968 Đại tá Trưởng ban Cán bộ cơ quan Ban Khảo thí &ĐBCLGD

Hệ 6 3 Nguyễn Anh Tuấn 1970 Đại tá

Hệ 7 4 Dương Đình Lâm 1968

5 Đoàn Đức Khánh 1973 Thượng tá Thượng tá

6 Bùi Xuân Quỳnh 1976 Trung tá

7 Nguyễn Hải Yến 1979 Thiếu tá Phòng Sau Đào tạo Khoa Triết học Khoa Ngoại ngữ

8 Nguyễn Xuân Khánh 1979 Thiếu tá Hệ 6

9 Lê Ngọc Tường 1980 Chính trị viên Hệ Phó Hệ trưởng Trưởng ban NCS Chủ nhiệm bộ môn Chủ nhiệm bộ môn Chủ nhiệm khối Trợ lý ban kế hoạch Thiếu tá

10 Trần Đức Thái 1986 Đại úy Trợ lý Phòng Sau đại học Phòng Chính trị Cán bộ chính trị quản lý đơn vị Cán bộ quân sự quản lý đơn vị Cán bộ cơ quan Giảng viên trực tiếp giảng dạy Giảng viên trực tiếp giảng dạy Cán bộ quản lý đơn vị Cán bộ cơ quan Cán bộ cơ quan

11 Nguyễn Danh Hân 1975 Học viên Hệ 6

12 Nguyễn Đức Hùng 1976 NCS Hệ 6

13 Mùa A Khương 1980 Học viên Hệ 1

14 Lê Xuân Dũng 1982 NCS Hệ 6 Trung tá Trung tá Thiếu tá Thiếu tá

15 Nguyễn Thanh Hùng 1987 Đại úy Học viên Hệ 2 HV đào tạo SĐH HV đào tạo SĐH HV đào tạo CU HV đào tạo SĐH Đào tạo giảng viên

177

2. Cán bộ, giảng viên và học viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1

TT Họ và tên Chức vụ Đơn vị Ghi chú Năm sinh Cấp bậc

1 Nguyễn Văn Thanh 1970 Đại tá Chủ nhiệm khoa Giảng viên trực tiếp giảng dạy Khoa Chiến thuật

2 Nguyễn Thế Sơn 1964 Tiểu đoàn 6 Thượng tá Tiểu đoàn trưởng Cán bộ quân sự quản lý đơn vị

3 Lê Văn Quang 1968 Thượng tá Chủ nhiệm bộ môn Giảng viên trực tiếp giảng dạy Khoa Công tác đảng, Công tác chính trị

4 1968 Dương Quang Thủy Thượng tá Trưởng Ban Cán bộ Cán bộ cơ quan Phòng Chính trị

5 Lê Duy Thứ 1970 Trợ lý Cán bộ cơ quan Thượng tá Phòng Đào tạo

6 Vũ Trọng Đại 1972 Tiểu đoàn 2 Thượng tá Chính trị viên Tiểu đoàn Cán bộ chính trị quản lý đơn vị

7 Phạm Hồng Quân 1973 Thượng tá Ban Khảo thí & ĐBCLGD Phó trưởng ban Cán bộ cơ quan

8 Bùi Thị Mát 1981 Trung tá Giảng viên trực tiếp giảng dạy Phó Chủ nhiệm bộ môn Khoa Ngoại ngữ - Tiếng Việt

9 Nguyễn Tuấn Anh 1993 Tiểu đoàn 8 Thượng úy Chính trị viên đại đội Cán bộ chính trị quản lý đơn vị

10 Lê Quang Thắng 1995 Tiểu đoàn 9 Trung úy Trung đội trưởng Cán bộ quân sự quản lý đơn vị

11 Hà Văn Hòa 1988 Đại úy Học viên Hệ 14 Cao học

12 Đỗ Văn Huy 1995 Học viên Hệ 7 Giáo viên Trung úy

13 Phạm Văn Việt 1997 Học viên Tiểu đoàn 2 CHTM Thượng sĩ

14 Nguyễn Hữu Kiên 1998 Trung sĩ Học viên Tiểu đoàn 9 CHTM

15 Lê Như Dũng 2000 Học viên Tiểu đoàn 13 CHTM Binh nhất

178

PHỤ LỤC 4

KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU CỦA LUẬN ÁN TỪ PHẦN MỀM SPSS

Bảng 1: Mô tả các biến số độc lập trong phân tích

Tên biến số độc lập Định nghĩa

Dưới 35 tuổi = 1 (biến đối chứng), từ 35 đến 45 tuổi = Độ tuổi 2, 45 tuổi trở lên = 3

Hạ sĩ quan = 1 (biến đối chứng), cấp úy = 2, cấp thiếu Cấp bậc quân hàm tá và trung tá = 3, cấp thượng tá và đại tá = 4

Trường đang học HVCT = 1, TSQLQ1 = 2 (biến đối chứng)

Năm thứ nhất = 1 (biến đối chứng), Năm thứ hai = 2, Học viên năm mấy Năm thứ ba = 3, Năm thứ tư = 4

Điều kiện sống của gia Nghèo = 1, trung bình = 2, khá giả = 3 (biến đối chứng) đình học viên

Nơi ở của học viên sinh Nông thôn = 1, thị trấn/thành phố = 2 (biến đối chứng) sống (trước khi học tập)

Cán bộ Chính ủy trung đoàn, sư đoàn = 1, Giảng viên

khoa học xã hội nhân văn quân sự = 2 , Cán bộ

nghiên cứu = 3 (biến đối chứng 1), Chỉ huy tham mưu Chuyên ngành Lục quân binh chủng hợp thành = 4, Thạc sĩ nghệ

thuật quân sự = 5 (biến đối chứng 2) Giảng viên quân

sự = 6

179

Bảng 2: Đặc điểm cá nhân của học viên và việc định hướng VHCT

Đơn vị tính: %

Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không

159 25 184 N Dưới 35 tuổi 60,7% 65,8% 61,3% %

78 86 8 N Từ 35 đến 45 tuổi 29,8% 21,1% 28,7% %

25 30 5 N Trên 45 tuổi 9,5% 13,1% 10% %

262 38 300 N

% 100,0% 100,0% 100,0% Độ tuổi*** Tổng

119 22 141 N Hạ sĩ quan 45,4% 57,9 47,0% %

22 29 7 N Cấp úy 8,4% 18,4 9,7% %

116 121 5 N Thiếu tá, trung tá 44,3% 13,2 40,3% %

5 9 4 N Cấp bậc quân hàm*** Thượng tá, đại tá 2,3% 10,5 3,0% %

262 38 300 N

Tổng

% 100,0% 100,0% 100,0%

139 11 150 N Học viện Chính trị 53,1% 28,9% 50% %

123 27 150 N Trường Sĩ quan Lục quân 1 Trường đang học** 46,9% 71,1% 50% %

262 38 300 N

Tổng

100,0% 100,0% 100,0% %

180

Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không

Học viên năm Năm 1 56 13 69 N

mấy*** 21,4% 34,2% 23,0% %

Năm 2 64 12 76 N

24,4% 31,6% 25,3% %

Năm 3 7 85 78 N

29,8% 18,4% 28,3% %

Năm 4 6 70 64 N

24,4% 15,8% 23,4% %

262 38 300 N

Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %

5 51 46 N Chuyên Cán bộ Chính ủy trung

ngành*** đoàn, sư đoàn % 17,6% 13,2% 17,0%

5 52 47 N Giảng viên khoa học xã

hội nhân văn quân sự % 17,9% 13,2% 17,3%

8 47 39 N Cán bộ nghiên cứu % 14,9% 21,0% 15,7%

5 46 41 N Chỉ huy tham mưu Lục

quân binh chủng hợp thành % 15,6% 13,2% 15,3%

8 54 44 N Thạc sĩ nghệ thuật quân sự % 16,8% 21,0% 18,0%

5 50 45 N Giảng viên quân sự % 17,2% 13,2% 16,7%

N 262 38 300

% 100,0% 100,0% 100,0% Tổng

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

181

Bảng 3: Đặc điểm của gia đình học viên và việc định hướng VHCT

Đơn vị tính: %

Định hướng VHCT Các biến số Tổng Có Không

Nơi ở của học viên 201 13 214 N Nông thôn sinh sống (trước khi 80,2% 34,2% 71,3% %

học tập)*** 61 25 86 N Thị trấn/

thành phố 19,8% 65,8% 28,7% %

262 38 300 N

% 100,0% 100,0% 100,0%

Điều kiện sống của 34 6 40 N Nghèo gia đình học viên*** 13,0% 15,8% 13,3% %

113 10 123 N Trung bình 43,1% 26,3% 41,0% %

115 22 137 N Khá giả 43,9% 57,9% 45,7% %

262 38 300 N

Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

182

Bảng 4: Ma trận tương quan giữa các yếu tố đặc điểm cá nhân

của học viên và việc định hướng VHCT

Trường Định Cấp Độ Học viên Chuyên hướng đang năm mấy ngành bậc VHCT tuổi học

300 300 300 300 300 300 N

Pearson Correlation 1 ,226** ,219** ,317** Độ tuổi

,000 ,000 ,000 Sig.

300 300 300 300 N

Pearson Correlation ,219** 1 -,237** ,226** -,218** ,336** Cấp bậc

,000 ,000 ,000 ,000 Sig.

300 300 300 300 300 300 N

Pearson Correlation ,237** ,237** ,222** -,241** ,319** 1 Trường

đang học Sig. ,000 000 000 000 ,000

300 300 300 300 300 300 N

Pearson Correlation 237** 237** ,237** 1 -,242** ,336** Học viên

năm mấy ,000 000 000 ,000 Sig.

300 300 300 300 300 N

Pearson Correlation 217** ,211** ,237** ,000 1 ,336** Chuyên

ngành ,000 000 000 ,000 Sig.

300 300 300 300 N 300

1 Pearson Correlation ,317** ,336** ,319* ,237* Định

hướng 0,00 000 Sig.

VHCT 300 300 300 N

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

183

Bảng 5: Ma trận tương quan giữa đặc điểm hộ gia đình học viên

và việc định hướng VHCT

Nơi ở của học viên Điều kiện Định

sinh sống (Trước sống của gia hướng

khi học tập) đình học viên VHCT

Nơi ở của học Pearson Correlation -,064 ,073 ,154**

viên sinh sống Sig. ,142 ,269 ,000 (Trước khi

N 300 300 300 học tập)

Điều kiện sống Pearson Correlation 1 -,653** -,288**

của gia đình ,000 ,000 Sig. học viên

300 300 300 N

Pearson Correlation -,714** 1 ,218**

,000 Sig. ,000

385 385 385 N

Định hướng Pearson Correlation -,288** ,218** 1

VHCT ,000 ,000 Sig.

300 300 300 N

Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

184

Bảng 6: Kết quả ước lượng mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm cá nhân của

học viên tác động đến việc việc định hướng VHCT

Biến số độc lập Odds Ratio Mức ý nghĩa (p)

Dưới 35 tuổi (biến đôi chứng)

Từ 35 đến 45 tuổi Độ tuổi

Trên 45 tuổi 2,324 0,000

Hạ sĩ quan (biến đối chứng)

Cấp úy Cấp bậc 1,219 0,000

Thiếu tá, trung tá Thượng tá, đại tá

Năm 1 (biến đối chứng)

Năm 2

Học viên năm mấy Năm 3

Năm 4 1,378 0,000

Học viện Chính trị 0,392 0,000

Trường Sĩ quan Lục quân 1 (biến đối chứng)

Trường đang học Cán bộ Chính ủy trung đoàn, sư đoàn 0,324 0,001

Giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự

Cán bộ nghiên cứu (biến đối chứng 1)

Chỉ huy tham mưu Lục quân binh chủng hợp thành 0,493 0,001

Thạc sĩ nghệ thuật quân sự (biến đối chứng 2) Chuyên ngành học Giảng viên quân sự

300 Số quan sát N

0,001 Prob> Chi2

26,4% Pseudo R2

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

73,069 Loglikelihood

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

185

Bảng 7: Dự đoán kết quả mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm cá nhân của

học viên tác động đến việc việc định hướng VHCT

Dự đoán Tỷ lệ dự Quan sát Định hướng VHCT đoán đúng 1.00 0.00

245 9 96,5 1.00 Định hướng VHCT 13 33 71,7 0.00

92,7 Tỷ lệ phần trăm tổng thể dự đoán đúng

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 8: Kết quả ước lượng mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm hộ gia đình

học viên tác động đến việc định hướng VHCT

Odds Mức ý

Biến số độc lập Ratio nghĩa (p)

Nghèo 2,105 0,000 Điều kiện sống của Trung bình gia đình Khá giả (biến đối chứng)

Nông thôn 1,428 0,000 Nơi ở của học viên sinh

Thị trấn/thành phố (biến sống (trước khi học tập)

đối chứng)

300 Số quan sát N

0,000 Prob> Chi2

21,5% Pseudo R2

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

112,455 Loglikelihood

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

186

Bảng 9: Dự đoán kết quả mô hình logistic về các yếu tố đặc điểm hộ gia đình

học viên tác động đến việc định hướng VHCT

Dự đoán

Tỷ lệ dự Định hướng VHCT Quan sát đoán đúng

1.00 0.00

Định hướng 1.00 250 12 95,4

VHCT 0.00 27 11 31,6

87,0 Tỷ lệ phần trăm tổng thể dự đoán đúng

(Nguồn: Số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 10: Đặc điểm phẩm chất chính trị của học viên

Đơn vị tính: %

Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không

11 5 6 N Nhận thức Rất không cần thiết chính 2,3% 13,1% 3,7% %

trị** 17 8 9 N Không cần thiết 3,4% 21,1% 5,7% %

40 6 34 N Bình thường 13,0% 15,8% 13,3% %

130 9 121 N Cần thiết 23,7% 43,3% 46,2 %

10 102 92 N Rất cần thiết 26,2% 34,0% 35,1 %

38 300 262 N

Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%

187

Định hướng VHCT Các biến số Tổng Không Có

Tình cảm 6 7 13 N Rất không cần thiết chính trị** 2,7% 15,8% 4,3% %

6 11 17 N Không cần thiết 4,2% 15,8% 5,7% %

7 35 42 N Bình thường 13,3% 18,4% 14,0% %

8 121 129 N Cần thiết 46,2% 21,0 43,0% %

88 11 99 N Rất cần thiết 33,6% 28,9 33,0% %

262 38 300 N

Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %

4 5 10 N Ý chí chính Rất không cần thiết trị ** 1,9% 10,5% 3,3% %

6 12 17 N Không cần thiết 4,6% 15,8% 5,7% %

8 26 34 N Bình thường 9,9% 21,1% 11,3% %

9 125 134 N Cần thiết 47,7% 23,7% 44,7% %

94 11 105 N Rất cần thiết 35,9% 28,9% 35,0% %

262 38 300 N

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

Tổng 100,0% 100,0% 100,0% %

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

188

Bảng 11: Đặc điểm hành vi và hoạt động chính trị của học viên

Đơn vị tính: %

Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không

N 7 6 13

Rất không cần thiết % 2,7% 15,8% 4,3%

N 11 7 18 Không cần thiết % 4,2% 18,4% 6,0%

N 29 7 36 Bình thường % 11,0% 18,4% 12,0%

N 105 8 113 Cần thiết % 40,1% 21,1% 37,7%

N 110 10 120 Thái độ chính trị *** Rất cần thiết % 42,0% 26,3% 40,0%

N 262 38 300

Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%

N 10 7 17

Rất không cần thiết % 3,8% 18,4% 5,7%

Năng lực tham gia các hoạt động chính trị*** N 14 6 20 Không cần thiết % 5,4% 15,8% 6,7%

N 27 7 34 Bình thường % 10,3% 18,4% 11,3%

N 102 9 111 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%

N 109 9 118 Rất cần thiết % 41,6% 23,7% 39,3%

N 262 38 300

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

189

Bảng 12: Đặc điểm lý tưởng và niềm tin chính trị của học viên

Đơn vị tính: %

Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không

N 20 15 5 Rất không cần thiết % 5,7% 13,1% 6,7%

N 19 13 6 tưởng Lý chính trị*** Không cần thiết % 5,0% 15,8% 6,3%

N 42 33 9 Bình thường % 12,6% 23,7% 14,0%

N 111 102 9 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%

N 108 99 9 Rất cần thiết % 37,8% 23,7% 36%

N 262 38 300

% 100,0% 100,0% 100,0% Tổng

N 19 13 6 Rất không cần thiết % 5,0% 15,8% 6,3% Uy tín chính trị cá nhân***

N 20 13 7 Không cần thiết % 5,0% 18,4% 6,7%

N 40 33 7 Bình thường % 12,6% 18,4% 13,3%

N 111 102 9 Cần thiết % 38,9% 23,7% 37,0%

N 110 101 9 Rất cần thiết % 38,5% 23,7% 42,0%

N 262 38 300

Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%

190

Định hướng VHCT Tổng Các biến số Có Không

N 8 6 14 Rất không cần thiết % 3,1% 15,8% 4,7%

N 11 6 17 Không cần thiết % 4,2% 15,8% 5,7%

N 32 7 39 Bình thường % 12,2% 18,4% 13,0%

N 114 9 123 Cần thiết % 43,5% 23,7% 41,0%

N 97 10 107 Rất cần thiết % 37,0% 26,3% 35,6%

N 262 38 300

(Mức ý nghĩa thống kê: *p<0,1 **p<0,05 ***p<0,01)

Niềm tin chính trị*** Tổng % 100,0% 100,0% 100,0%

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

191

PHỤ LỤC 5

KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VHCT

TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

Bảng 1. Nhận định về vai trò định hướng VHCT trong nhà trường quân đội

Đơn vị tính: %

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Hoàn toàn không quan trọng 3 1,0

Không quan trọng 11 3,7

Bình thường 23 7,7

Quan trọng 218 72,7

Rất quan trọng 41 13,7

Không ý kiến 4 1,3

300 100,0 Tổng

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 2. Mức độ hài lòng về việc định hướng VHCT trong nhà trường quân đội

Đơn vị tính: %

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Hoàn toàn không quan trọng 2 0,7

Không quan trọng 17 5,7

Bình thường 35 11,7

Quan trọng 190 63,3

Rất quan trọng 51 17,0

Không ý kiến 5 1,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

192

Bảng 3. Sự cần thiết định hướng VHCT trong nhà trườngquân đội hiện nay

Đơn vị tính: %

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Hoàn toàn không quan trọng 4 1,3

Không quan trọng 13 4,3

Bình thường 20 6,7

Quan trọng 171 57,0

Rất quan trọng 86 28,7

Không ý kiến 6 2,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 4. Nhận định về vai trò định hướng VHCT trong nhà trường

quân đội hiện nay

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Nâng cao nhận thức của cá nhân về chính trị

Đồng ý 277 92,3

Không đồng ý 23 7,7

Tổng 300 100,0

Hiểu được phần nào năng lực, hứng thú, tính cách của bản thân

Đồng ý 269 89,7

Không đồng ý 31 10,3

Tổng 300 100,0

Được nói lên tâm tư, nguyện vọng, mong muốn về tình cảm chính trị của bản

thân mình

Đồng ý 268 89,3

Không đồng ý 32 10,7

Tổng 300 100,0

193

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

270 30 300 90,0 10,0 100,0

Có niềm tin, ý chí và lý tưởng đối với văn hóa chính trị Đồng ý Không đồng ý Tổng Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị

91,3 274 Đồng ý

8,7 26 Không đồng ý

100,0 300 Tổng

Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động xã hội và chính trị

87,7 263 Đồng ý

12,3 37 Không đồng ý

100,0 300 Tổng

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 5. Chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội hiện nay

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Nhận thức chính trị

1,7 5 Rất không cần thiết

5,0 15 Không cần thiết

10,0 30 Bình thường

73,0 219 Cần thiết

10,3 31 Rất cần thiết

100,0 300 Tổng

Tình cảm chính trị

1,7 5 Rất không cần thiết

3,7 11 Không cần thiết

8,0 24 Bình thường

76,7 230 Cần thiết

10,0 30 Rất cần thiết

100,0 300 Tổng

194

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Ý chí chính trị

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 15 5,0

Bình thường 31 10,3

Cần thiết 214 71,3

Rất cần thiết 36 12,0

Tổng 300 100,0

Thái độ chính trị

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 12 4,0

Bình thường 30 10,0

Cần thiết 211 70,3

Rất cần thiết 41 13,7

Tổng 300 100,0

Năng lực tham gia các hoạt động chính trị

Rất không cần thiết 7 2,3

Không cần thiết 10 3,3

Bình thường 19 6,3

Cần thiết 219 73,0

Rất cần thiết 45 15,0

Tổng 300 100,0

Lý tưởng chính trị

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 8 2,7

Bình thường 18 6,0

Cần thiết 229 76,3

Rất cần thiết 39 13,0

Tổng 300 100,0

195

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Uy tín chính trị cá nhân

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 11 3,7

Bình thường 15 5,0

Cần thiết 238 79,3

Rất cần thiết 31 10,3

Tổng 300 100,0

Niềm tin chính trị

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 9 3,0

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 233 77,7

Rất cần thiết 35 11,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 6. Thang bậc giá trị hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Triết lý chính trị

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 7 2,3

Bình thường 16 5,3

Cần thiết 229 76,3

Rất cần thiết 44 14,7

Tổng 300 100,0

196

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Chuẩn mực, khuôn mẫu chính trị

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 5 1,7

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 233 77,7

Rất cần thiết 41 13,7

Tổng 300 100,0

Di sản và truyền thống chính trị

Rất không cần thiết 4 1,3

Không cần thiết 10 3,3

Bình thường 16 5,3

Cần thiết 230 76,7

Rất cần thiết 40 13,3

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 7. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường

quân đội hiện nay

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Mục tiêu, yêu cầu đào tạo cần gắn liền với chức năng và nhiệm vụ NTQĐ

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 6 2,0

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 232 77,3

Rất cần thiết 40 13,3

Tổng 300 100,0

197

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Định hướng phát triển các tổ chức trong NTQĐ gắn với yêu cầu xây dựng quân đội

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 12 4,0

Bình thường 18 6,0

Cần thiết 222 74,0

Rất cần thiết 43 14,3

Tổng 300 100,0

Sự vận hành của thiết chế chính trị và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn của NTQĐ

Rất không cần thiết 9 3,0

Không cần thiết 11 3,7

Bình thường 18 6,0

Cần thiết 217 72,3

Rất cần thiết 45 15,0

Tổng 300 100,0

Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 9 3,0

Bình thường 2 ,7

Cần thiết 252 84,0

Rất cần thiết 32 10,7

Tổng 300 100,0

Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 7 2,3

Bình thường 14 4,7

Cần thiết 237 79,0

Rất cần thiết 37 12,3

Tổng 300 100,0

198

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức

Rất không cần thiết 5 1,7

Không cần thiết 12 4,0

Bình thường 15 5,0

Cần thiết 230 76,7

Rất cần thiết 38 12,7

Tổng 300 100,0

Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ

Rất không cần thiết 3 1,0

Không cần thiết 7 2,3

Bình thường 17 5,7

Cần thiết 235 78,3

Rất cần thiết 38 12,7

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 8. Hoạt động văn hóa chính trị

Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 8 2,7

Bình thường 21 7,0

Cần thiết 223 74,3

Rất cần thiết 42 14,0

Tổng 300 100,0

Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 8 2,7

Bình thường 21 7,0

Cần thiết 223 74,3

Rất cần thiết 42 14,0

Tổng 300 100,0

199

Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 8 2,7

Bình thường 21 7,0

Cần thiết 223 74,3

Rất cần thiết 42 14,0

Tổng 300 100,0

Hoạt động văn hóa chính trị trong các hoạt động khác của NTQĐ

Rất không cần thiết 6 2,0

Không cần thiết 8 2,7

Bình thường 21 7,0

Cần thiết 223 74,3

Rất cần thiết 42 14,0

Tổng 300 100,0

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

Bảng 9. Yếu tố tác động văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Tác động thuận chiều

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển của công nghệ, truyền thông

Rất không quan trọng 3 1,0

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 16 5,3

Quan trọng 234 78,0

Rất quan trọng 40 13,3

Tổng 300 100,0

200

Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước

Rất không quan trọng 6 2,0

Không quan trọng 6 2,0

Bình thường 11 3,7

Quan trọng 247 82,3

Rất quan trọng 30 10,0

Tổng 300 100,0

Sự phát triển của nhà trường quân đội gắn với yêu cầu xây dựng quân đội

Rất không quan trọng 4 1,3

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 13 4,3

Quan trọng 237 79,0

Rất quan trọng 39 13,0

300 100,0

Tổng

Tác động trái chiều

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Tác động từ sự chống phá của các thế lực thù địch

Rất không quan trọng 3 1,0

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 16 5,3

Quan trọng 234 78,0

Rất quan trọng 40 13,3

Tổng 300 100,0

Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển của công nghệ, truyền thông

Rất không quan trọng 6 2,0

Không quan trọng 6 2,0

Bình thường 11 3,7

Quan trọng 247 82,3

Rất quan trọng 30 10,0

Tổng 300 100,0

201

Tác động của yếu tố văn hóa chính trị trong nước

Rất không quan trọng 4 1,3

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 13 4,3

Quan trọng 237 79,0

Rất quan trọng 39 13,0

Tổng 300 100,0

Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội

Rất không quan trọng 5 1,6

Không quan trọng 6 2,0

Bình thường 17 5,7

Quan trọng 221 73,7

Rất quan trọng 51 17

Tổng 300 100

Bảng 10. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị

trong nhà trường quân đội

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho chủ thể văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội Rất không quan trọng 1,0 3

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 16 5,3

Quan trọng 234 78,0

Rất quan trọng 40 13,3

Tổng 300 100,0

Giữ gìn, phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận những tri thức mới của nhân loại Rất không quan trọng Không quan trọng Bình thường 2,0 2,0 3,7 6 6 11

Quan trọng Rất quan trọng 247 30 82,3 10,0

Tổng 300 100,0

202

Tiêu chí Số người Tỉ lệ (%)

Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa chính trị gắn với thực hiện nhiệm vụ

chính trị trung tâm trong nhà trường quân đội

Rất không quan trọng 4 1,3

Không quan trọng 7 2,3

Bình thường 13 4,3

Quan trọng 237 79,0

Rất quan trọng 39 13,0

Tổng 300 100,0

Gắn các hoạt động văn hóa chính trị với thực hiện chỉ thị, nghị quyết và các

cuộc vận động

Rất không quan trọng 5 1,6

Không quan trọng 6 2,0

Bình thường 17 5,7

Quan trọng 221 73,7

Rất quan trọng 51 17

Tổng 300 100

(Nguồn: số liệu khảo sát của luận án)

203

PHỤ LỤC 6

BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU LUẬN ÁN

Học viên năm thứ mấy

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid Năm thứ nhất 68 22,7 22,7 22,7

Năm thứ hai 72 24,0 24,0 46,7

Năm thứ ba 78 26,0 26,0 72,7

Năm thứ tư 82 27,3 27,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

Trường đang học

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid Học viện Chính trị - Bộ 150 50,0 50,0 50,0 quốc phòng

Trường sĩ quan Lục quân 1 50,0 50,0 100,0 150

Total 100,0 100,0 300

Vai trò định hướng VHCT trong nhà trường Quân đội NDVN

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid Hoàn toàn không quan trọng 1,0 1,0 3 1,0

Không quan trọng 3,7 3,7 11 4,7

Bình thường 7,7 7,7 23 12,3

Quan trọng 218 72,7 72,7 85,0

Rất quan trọng 13,7 13,7 41 98,7

Không ý kiến 4 1,3 1,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

204

Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

277 Valid Đồng ý 92,3 92,3 92,3

23 Không đồng ý 7,7 7,7 100,0

300 Total 100,0 100,0

Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân

Percent Valid Percent Frequency Cumulative Percent

Valid Đồng ý 269 89,7 89,7 89,7

Không đồng ý 31 10,3 10,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân

Percent Valid Percent Frequency Cumulative Percent

Valid Đồng ý 268 89,3 89,3 89,3

Không đồng ý 32 10,7 10,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid Đồng ý 90,0 90,0 90,0 270

Không đồng ý 10,0 10,0 100,0 30

Total 300 100,0 100,0

205

Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị

Cumulative Frequency Percent Valid Percent Percent

Valid Đồng ý 274 91,3 91,3 91,3

Không đồng ý 26 8,7 8,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị

Cumulative Frequency Percent Valid Percent Percent

Valid Đồng ý 263 87,7 87,7 87,7

Không đồng ý 37 12,3 12,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

Mức độ hài lòng về việc định hướng VHCT trong nhà trường quân đội

Valid Cumulative Frequency Percent Percent Percent

Valid Hoàn toàn không hài lòng ,7 ,7 2 ,7

Không hài lòng 5,7 5,7 17 6,3

Bình thường 11,7 11,7 35 18,0

Hài lòng 190 63,3 63,3 81,3

Rất hài lòng 17,0 17,0 51 98,3

5 Không có ý kiến 1,7 1,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

206

Sự cần thiết định hướng VHCT trong nhà trường QĐND VN hiện nay

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết

13 4,3 4,3 5,7 Không cần thiết

20 6,7 6,7 12,3 Bình thường

171 57,0 57,0 69,3 Cần thiết

86 28,7 28,7 98,0 Rất cần thiết

6 2,0 2,0 100,0 Không có ý kiến

Total 300 100,0 100,0

Nhận thức chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết

15 5,0 5,0 6,7 Không cần thiết

30 10,0 10,0 16,7 Bình thường

219 73,0 73,0 89,7 Cần thiết

31 10,3 10,3 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

Tình cảm chính trị

Percent Valid Percent Cumulativ e Percent Frequency

5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết

11 3,7 3,7 5,3 Không cần thiết

24 8,0 8,0 13,3 Bình thường

230 76,7 76,7 90,0 Cần thiết

30 10,0 10,0 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

207

Ý chí chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3

Không cần thiết 15 5,0 5,0 6,3

Bình thường 31 10,3 10,3 16,7

Cần thiết 214 71,3 71,3 88,0

Rất cần thiết 36 12,0 12,0 100,0

Total 300 100,0 100,0

Thái độ chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0

Không cần thiết 12 4,0 4,0 6,0

Bình thường 30 10,0 10,0 16,0

Cần thiết 211 70,3 70,3 86,3

Rất cần thiết 41 13,7 13,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

Năng lực tham gia các hoạt động chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 7 2,3 2,3 2,3

Không cần thiết 10 3,3 3,3 5,7

Bình thường 19 6,3 6,3 12,0

Cần thiết 219 73,0 73,0 85,0

Rất cần thiết 45 15,0 15,0 100,0

Total 300 100,0 100,0

208

Lý tưởng chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0

Không cần thiết 8 2,7 2,7 4,7

Bình thường 18 6,0 6,0 10,7

Cần thiết 229 76,3 76,3 87,0

Rất cần thiết 39 13,0 13,0 100,0

Total 300 100,0 100,0

Niềm tin chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 6 2,0 2,0 2,0

Không cần thiết 9 3,0 3,0 5,0

Bình thường 17 5,7 5,7 10,7

Cần thiết 233 77,7 77,7 88,3

Rất cần thiết 35 11,7 11,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

Uy tín chính trị cá nhân

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7

Không cần thiết 11 3,7 3,7 5,3

Bình thường 15 5,0 5,0 10,3

Cần thiết 238 79,3 79,3 89,7

Rất cần thiết 31 10,3 10,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

209

Triết lý chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3

7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết

16 5,3 5,3 9,0 Bình thường

229 76,3 76,3 85,3 Cần thiết

44 14,7 14,7 100,0 Rất cần thiết

100,0 100,0 300 Total

Khuôn mẫu, chuẩn mực chính trị

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3

5 1,7 1,7 3,0 Không cần thiết

17 5,7 5,7 8,7 Bình thường

233 77,7 77,7 86,3 Cần thiết

41 13,7 13,7 100,0 Rất cần thiết

Total 300 100,0 100,0

Di sản và truyền thống chính trị

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết

10 3,3 3,3 4,7 Không cần thiết

16 5,3 5,3 10,0 Bình thường

230 76,7 76,7 86,7 Cần thiết

40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

210

Sứ mệnh, mục tiêu yêu cầu đào tạo gắn với chức năng, nhiệm vụ NTQĐ

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7

6 2,0 2,0 3,7 Không cần thiết

17 5,7 5,7 9,3 Bình thường

232 77,3 77,3 86,7 Cần thiết

40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết

100,0 100,0 300 Total

Vai trò của sứ mệnh, mục tiêu trong nhà trường quân đội

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7

12 4,0 4,0 5,7 Không cần thiết

18 6,0 6,0 11,7 Bình thường

222 74,0 74,0 85,7 Cần thiết

43 14,3 14,3 100,0 Rất cần thiết

300 Total 100,0 100,0

Hành động để hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu đào tạo

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

9 3,0 3,0 3,0 Valid Rất không cần thiết

11 3,7 3,7 6,7 Không cần thiết

18 6,0 6,0 12,7 Bình thường

217 72,3 72,3 85,0 Cần thiết

45 15,0 15,0 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

211

Sự vận hành và theo đuổi những giá trị chính trị

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7

9 3,0 3,0 4,7 Không cần thiết

2 ,7 ,7 5,3 Bình thường

252 84,0 84,0 89,3 Cần thiết

32 10,7 10,7 100,0 Rất cần thiết

100,0 100,0 300 Total

Sự đồng thuận và gắn kết của tập thể quân nhân

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 5 1,7 1,7 1,7

7 2,3 2,3 4,0 Không cần thiết

14 4,7 4,7 8,7 Bình thường

237 79,0 79,0 87,7 Cần thiết

37 12,3 12,3 100,0 Rất cần thiết

300 Total 100,0 100,0

Sự giữ gìn và phát huy bản sắc của tổ chức

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

5 1,7 1,7 1,7 Valid Rất không cần thiết

12 4,0 4,0 5,7 Không cần thiết

15 5,0 5,0 10,7 Bình thường

230 76,7 76,7 87,3 Cần thiết

38 12,7 12,7 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

212

Uy tín chính trị và định hướng giá trị chung của NTQĐ

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 3 1,0 1,0 1,0

7 2,3 2,3 3,3 Không cần thiết

17 5,7 5,7 9,0 Bình thường

235 78,3 78,3 87,3 Cần thiết

38 12,7 12,7 100,0 Rất cần thiết

100,0 100,0 300 Total

Hoạt động văn hóa chính trị trong dạy học

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 4 1,3 1,3 1,3

7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết

16 5,3 5,3 9,0 Bình thường

229 76,3 76,3 85,3 Cần thiết

44 14,7 14,7 100,0 Rất cần thiết

300 Total 100,0 100,0

Hoạt động văn hóa chính trị trong nghiên cứu khoa học

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết

5 1,7 1,7 3,0 Không cần thiết

17 5,7 5,7 8,7 Bình thường

233 77,7 77,7 86,3 Cần thiết

41 13,7 13,7 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

213

Hoạt động văn hóa chính trị trong xây dựng các tổ chức

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

4 1,3 Valid Rất không cần thiết 1,3 1,3

10 3,3 Không cần thiết 3,3 4,7

16 5,3 Bình thường 5,3 10,0

230 76,7 Cần thiết 76,7 86,7

40 13,3 Rất cần thiết 13,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

Các hoạt động khác

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

6 2,0 Valid Rất không cần thiết 2,0 2,0

8 2,7 Không cần thiết 2,7 4,7

21 7,0 Bình thường 7,0 11,7

223 74,3 Cần thiết 74,3 86,0

42 14,0 Rất cần thiết 14,0 100,0

300 Total 100,0 100,0

TÁC ĐỘNG THUẬN CHIỀU

Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công nghệ, truyền thông

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0

Đồng ý 235 78,3 78,3 80,3

Rất đồng ý 55 18,3 18,3 98,7

Không có ý kiến 4 1,3 1,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

214

Yếu tố văn hóa và chính trị trong nước

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Không đồng ý 12 4,0 4,0 4,0

Đồng ý 234 78,0 78,0 82,0

Rất đồng ý 49 16,3 16,3 98,3

Không có ý kiến 5 1,7 1,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

Sự phát triển của NTQĐ gắn với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội

Percent Valid Percent Cumulative Percent Frequency

Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0

Đồng ý 238 79,3 79,3 81,3

Rất đồng ý 51 17,0 17,0 98,3

Không có ý kiến 5 1,7 1,7 100,0

Total 300 100,0 100,0

TÁC ĐỘNG TRÁI CHIỀU

Sự chống phá của các thế lực thù địch

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Không đồng ý 6 2,0 2,0 2,0

Đồng ý 235 78,3 78,3 80,3

Rất đồng ý 55 18,3 18,3 98,7

Không có ý kiến 4 1,3 1,3 100,0

Total 300 100,0 100,0

215

Toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và sự phát triển công nghệ, truyền thông

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

5 1,7 1,7 1,7 Valid Không đồng ý

244 81,3 81,3 83,0 Đồng ý

47 15,7 15,7 98,7 Rất đồng ý

4 1,3 1,3 100,0 Không có ý kiến

Total 300 100,0 100,0

Yếu tố văn hóa và chính trị trong nước

Percent Valid Percent Cumulative Percent Frequency

12 4,0 4,0 4,0 Valid Không đồng ý

234 78,0 78,0 82,0 Đồng ý

49 16,3 16,3 98,3 Rất đồng ý

5 1,7 1,7 100,0 Không có ý kiến

Total 300 100,0 100,0

Tác động từ những hạn chế của công tác tư tưởng văn hóa trong quân đội và

công tác xây dựng nhà trường quân đội

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết 3 1,0 1,0 1,0

Không cần thiết 5 1,7 1,7 2,7

Bình thường 15 5,0 5,0 7,7

Cần thiết 223 74,3 74,3 82,0

Rất cần thiết 54 18,0 18,0 100,0

Total 300 100,0 100,0

216

Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải dựa trên cơ sở

nhận thức sâu sắc của các chủ thể

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

3 1,0 1,0 1,0 Valid Rất không cần thiết

7 2,3 2,3 3,3 Không cần thiết

16 5,3 5,3 8,7 Bình thường

234 78,0 78,0 86,7 Cần thiết

40 13,3 13,3 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải được đặt trong

bối cảnh chung của tình hình đất nước, quân đội và đặc điểm của mỗi trường

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

6 2,0 2,0 2,0 Valid Rất không cần thiết

6 2,0 2,0 4,0 Không cần thiết

11 3,7 3,7 7,7 Bình thường

247 82,3 82,3 90,0 Cần thiết

30 10,0 10,0 100,0 Rất cần thiết

300 100,0 100,0 Total

Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải được đặt trên cơ

sở phát huy hiệu quả các giá trị truyền thống và chủ động lựa chọn, tiếp nhận

những tri thức mới của nhân loại

Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent

4 1,3 1,3 1,3 Valid Rất không cần thiết

7 2,3 2,3 3,7 Không cần thiết

13 4,3 4,3 8,0 Bình thường

237 79,0 79,0 87,0 Cần thiết

39 13,0 13,0 100,0 Rất cần thiết

300 Total 100,0 100,0

217

Nâng cao văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội phải gắn với thực hiện

nhiệm vụ chính trị trung tâm

Percent Frequency Valid Percent Cumulative Percent

Valid Rất không cần thiết ,7 ,7 ,7 2

Không cần thiết 2,3 2,3 3,0 7

Bình thường 2,7 2,7 5,7 8

Cần thiết 79,7 79,7 85,3 239

Rất cần thiết 14,7 14,7 100,0 44

Total 100,0 100,0 300

218

PHỤ LỤC 7

SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIÊN SỐ

Correlations

Học viên năm thứ mấy Trường đang học Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị

1 ,096 -,105 ,020 ,004 ,066 -,086 ,132* Học viên năm thứ mấy

,098 300 300 ,070 300 ,732 300 ,941 300 ,256 300 ,138 300 ,022 300

1 -,288** -,339** -,346** -,333** -,308** -,375** ,096 Trường đang học

300 ,098 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300

-,105 -,288** 1 ,396** ,387** ,322** ,490** ,425**

Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị ,070 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300

,020 -,339** ,396** 1 ,876** ,763** ,868** ,572**

Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N ,732 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300

219

Học viên năm thứ mấy Trường đang học Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT Giúp nâng cao nhận thức cá nhân về chính trị Hiểu được phần nào năng lực, tính cách của bản thân Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị

,004 -,346** ,387** ,876** 1 ,749** ,815** ,527**

Nói lên được tâm tư nguyện vọng, tình cảm của bản thân ,941 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300

,066 -,333** ,322** ,763** ,749** 1 ,806** ,754**

Có niềm tin, ý chí, lý tưởng đối với VHCT

,256 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 300 ,000 300 ,000 300

-,086 -,308** ,490** ,868** ,815** ,806** 1 ,641**

,138 ,000 ,000 ,000 ,000 ,000 ,000

Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N 300 300 300 300 300 300 300 300

,132* -,375** ,425** ,572** ,527** ,754** ,641** 1

Thấy được trách nhiệm, thái độ của bản thân với hoạt động chính trị Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N ,000 300 ,000 300 300 ,022 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300 ,000 300

*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

220

PHỤ LỤC 8

SỐ LIỆU VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC ĐẢNG,

CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

A. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

TS: 1437; TS: 1558; TS: 1498; TS: 1357;

Giỏi: 52; Giỏi: 70; Giỏi: 75; Giỏi: 62; PHÂN LOẠI Khá: 1369; Khá: 1468; Khá: 1396; Khá: 1271; TỐT NGHIỆP TB Khá: 16; TB Khá: 20; TB Khá: 27; TB Khá: 24;

TB: 0; TB: 0; TB: 0; TB: 0;

Đề tài: 15; Đề tài: 18; Đề tài: 25; Đề tài: 22;

GT-TL: 55; GT-TL: 165; GT-TL: 128; GT-TL: 63;

SK: 20; SK: 32; SK: 23; SK: 28; NGHIÊN CỨU

HT: 18; HT: 15; HT: 14; HT: 169 KHOA HỌC

WEB:503; WEB:503; WEB: 437; WEB: 438;

BV: 135 BV: 156 BV: 154 BV: 124

221

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

TS: 1602; TS: 1900 TS: 1783 TS: 1928

HTXSNV: 174; HTXSNV: 183; HTXSNV: 164; HTXSNV: 203; PHÂN MỨC HTTNV: 1365 HTTNV: 1654; HTTNV: 1776; HTTNV: 1689; CÁN BỘ HTNV: 61; HTNV: 44; HTNV: 75; HTNV: 29;

KHTNV: 02; KHTNV: 19; KHTNV: 21; KHTNV: 07;

TS: 33 (ĐB, CBCS); TS:33 (ĐB, CBCS); TS:33 (ĐB, CBCS); TS:33(ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 19; HTXSNV (TSVM): 24; HTXSNV (TSVM): 17; HTXSNV (TSVM): 07; HTTNV: 09; HTTNV: 04 HTTNV: 07; HTTNV: 23; HTNV: 04; HTNV: 05 HTNV:09 HTNV: 03; ĐÁNH GIÁ KHTNV: 01

TỔ CHỨC ĐẢNG TS: 96 (Chi bộ); TS: 72 (Chi bộ); TS: 88 (Chi bộ); TS: 108 (Chi bộ);

HTXSNV (TSVM): 40; HTXSNV (TSVM): 44; HTXSNV (TSVM): 41; HTXSNV (TSVM): 20;

HTTNV: 18; HTTNV: 23; HTTNV: 36; HTTNV: 86;

HTNV: 18; HTNV: 05; HTNV: 11; HTNV: 02;

222

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

TS: 1968 (Đảng viên); TS: 2006 (Đảng viên); TS: 2036 (Đảng viên); TS: 2238 (Đảng viên);

HTXSNV: 170; HTXSNV: 183; HTXSNV: 164; HTXSNV: 203; ĐÁNH GIÁ HTTNV: 1759; HTTNV: 1760; HTTNV: 1776; HTTNV: 1989; ĐẢNG VIÊN HTNV: 21; HTNV: 44; HTNV: 75; HTNV: 39;

KHTNV: 18; KHTNV: 19; KHTNV: 21; KHTNV: 07;

100% ĐYC; 100% ĐYC; 100% ĐYC; 100% ĐYC; GIÁO DỤC

90% KG (28% G) 92,80% KG (29.05% G) 96,32% KG (28,12% G) 95,18% KG (29,37% G) CHÍNH TRỊ

B. TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 1

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

TS: 404; TS: 480; TS: 1636; TS: 541;

Giỏi: 15; Giỏi: 41; Xuất sắc: 02 Giỏi: 38;

Khá: 367; Khá: 390; Giỏi: 58; Khá: 436; PHÂN LOẠI TB Khá: 22; TB Khá: 44; Khá: 1357; TB Khá: 58; TỐT NGHIỆP TB Khá: 214; TB: 0; TB: 5; TB: 8;

TB: 0; Y (KTN): 1

Yếu (KTN): 05

223

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Đề tài: 14; GT-TL: 47; SK: 24; HT: 12; WEB:755; BV: 113 Đề tài: 24; GT-TL: 265; SK: 20; HT: 8; WEB:503; BV: 90 Đề tài: 21; GT-TL: 292; SK: 43; HT: 13; WEB: 511; BV: 104 Đề tài: 18; GT-TL: 63; SK: 28; HT: 7; WEB: 528; BV: 114

PHÂN MỨC CÁN BỘ

TS: 1336; HTXSNV: 174; HTTNV: 1081; HTNV: 71; KHTNV: 10; TS: 1346; HTXSNV: 118; HTTNV: 1084; HTNV: 121; KHTNV: 23; TS: 1387; HTXSNV: 149; HTTNV: 1182; HTNV: 48; KHTNV: 08; TS: 1436; HTXSNV: 138; HTTNV: 1225; HTNV: 57; KHTNV: 16;

TS: 41 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 17 HTTNV: 18 HTNV: 6 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 21 HTTNV: 20 HTNV: 01 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 14 HTTNV: 27 HTNV: 01 Y, K: 0 TS: 42 (ĐB, CBCS); HTXSNV (TSVM): 08 HTTNV: 33 HTNV: 01 Y, K: 0

ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC ĐẢNG

TS: 176 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 72 HTTNV: 82 HTNV: 22 Y, K: 0 TS: 172 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 66 HTTNV: 90 HTNV: 16 Y, K: 0 TS: 174 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 30 HTTNV: 137 HTNV: 06 Y, K: 01 TS: 177 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 32 HTTNV: 143 HTNV: 02 Y, K: 0

224

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

ĐÁNH GIÁ ĐẢNG VIÊN

TS: 3867 (Đảng viên); HTXSNV: 425 HTTNV: 3135 HTNV: 301 KHTNV: 06 TS: 2811(Đảng viên); HTXSNV: 211 HTTNV: 2363 HTNV: 230 KHTNV: 07 TS: 2948 (Đảng viên); HTXSNV: 326 HTTNV: 2505 HTNV: 116 KHTNV: 01 TS: 2780 (Đảng viên); HTXSNV: 295 HTTNV: 2473 HTNV: 10 KHTNV: 02

100% ĐYC; 96,72% KG 100% ĐYC; 95,80% KG (19.05% G) 100% ĐYC; 94,19% KG (14,69% G) 100% ĐYC; 98,43% KG (18.04% G) GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

C. HỌC VIỆN PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

TS: 725; TS: 825; TS: 797; TS: 865;

Giỏi: 35; Giỏi: 48; Giỏi: 62; Giỏi: 68; PHÂN LOẠI Khá: 420; Khá: 560; Khá: 506; Khá: 567; TỐT NGHIỆP TB Khá: 245; TB Khá: 268; TB Khá: 186; TB Khá: 204;

TB: 25; TB: 51; TB: 43; TB: 26;

Đề tài, SK: 24 Đề tài, SK: 43 Đề tài, SK: 56 Đề tài, SK: 58

GT-TL: 22 GT-TL: 56 GT-TL: 59 GT-TL: 49 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Đề tài HVNCKH: 43 Đề tài HVNCKH: 40 Đề tài HVNCKH: 46 Đề tài HVNCKH: 48

225

KẾT QUẢ NỘI DUNG 2015-2016 2016-2017 2017-2018 2018-2019

PHÂN MỨC CÁN BỘ

TS: 1620; HTXSNV: 114; HTTNV: 1418; HTNV: 78; KHTNV: 10; TS: 1900; HTXSNV: 119; HTTNV: 1707; HTNV: 72; KHTNV: 02; TS: 1783; HTXSNV: 97; HTTNV: 1609; HTNV: 74; KHTNV: 03; TS: 1722; HTXSNV: 98; HTTNV: 1561; HTNV: 51; KHTNV: 12;

TS:30 (Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 15; HTTNV: 10; HTNV: 05; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 16; HTTNV: 12; HTNV: 03; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 06; HTTNV: 22; HTNV: 03; TS:31(Đảng bộ cơ sở); HTXSNV (TSVM): 06; HTTNV: 23; HTNV: 02;

ĐÁNH GIÁ TỔ CHỨC ĐẢNG

TS: 95 (Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 40; HTTNV: 49; HTNV: 06; TS: 94(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 41; HTTNV: 46; HTNV: 07; TS: 93(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 14; HTTNV: 71; HTNV: 08; TS: 90(Chi bộ); HTXSNV (TSVM): 19; HTTNV: 67; HTNV: 04;

ĐÁNH GIÁ ĐẢNG VIÊN

TS: 1620 (Đảng viên); HTXSNV: 114; HTTNV: 1418; HTNV: 78; KHTNV: 10; TS: 1900 (Đảng viên); HTXSNV: 119; HTTNV: 1707; HTNV: 72; KHTNV: 02; TS: 1783 (Đảng viên); HTXSNV: 97; HTTNV: 1609; HTNV: 74; KHTNV: 03; TS: 1722 (Đảng viên); HTXSNV: 98; HTTNV: 1561; HTNV: 51; KHTNV: 12;

GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ 100% ĐYC; 85% KG (28% G) 100% ĐYC; 86.4% KG (24.5% G) 100% ĐYC; 86,9% KG (29.2% G) 100% ĐYC; 86.2% KG (32.4% G)

226

PHỤ LỤC 9

MƯỜI LỜI THỀ DANH DỰ CỦA QUÂN NHÂN

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Chúng tôi, Quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, lấy danh dự

người chiến sĩ cách mạng, xin thề dưới lá cờ vinh quang của Tổ quốc:

1. Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ

nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

“Xin thề”

2. Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều

tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác.

“Xin thề”

3. Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa, tinh thần

quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu,

bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng

không nản chí “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù

nào cũng đánh thắng”.

“Xin thề”

4. Ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ

thuật, nghiệp vụ, triệt để chấp hành điều lệnh, điều lệ, rèn luyện tính tổ chức, tính

kỷ luật và tác phong chính quy, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, luôn luôn

sẵn sàng chiến đấu.

“Xin thề”

5. Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, làm tròn nhiệm vụ

chiến đấu bảo vệ tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối, chủ trương

của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước.

“Xin thề”

227

6. Luôn luôn cảnh giác, tuyệt đối giữ bí mật quân sự và bí mật quốc gia. Nếu

bị quân địch bắt, dù phải chịu cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng

trung thành với sự nghiệp cách mạng, không bao giờ phản bội xưng khai.

“Xin thề”

7. Đoàn kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp; hết

lòng giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận; thực hiện toàn quân một ý chí.

“Xin thề”

8. Ra sức giữ gìn vũ khí trang bị, quyết không để hư hỏng hoặc rơi vào tay

quân thù. Luôn nêu cao tinh thần bảo vệ của công, không tham ô, lãng phí.

“Xin thề”

9. Khi tiếp xúc với nhân dân làm đúng ba điều nên:

- Kính trọng dân

- Giúp đỡ dân

- Bảo vệ dân

và ba điều răn:

- Không lấy của dân

- Không dọa nạt dân

- Không quấy nhiễu dân

Để gây lòng tin cậy, yêu mến của nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.

“Xin thề”

10. Giữ vững phẩm chất tốt đẹp và truyền thống quyết chiến, quyết thắng của

quân đội nhân dân, luôn tự phê bình và phê bình, không làm điều gì hại tới danh dự

của quân đội và quốc thể nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

“Xin thề”

228

PHỤ LỤC 10

12 ĐIỀU KỶ LUẬT KHI QUAN HỆ VỚI NHÂN DÂN CỦA QUÂN NHÂN

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1. Không lấy cái kim , sợi chỉ của nhân dân.

2. Mua bán phải công bằng, sòng phẳng.

3. Mượn cái gì của nhân dân phải hỏi, dùng xong phải trả, làm hỏng, làm mất

phải đền.

4. Đóng quân nhà dân không được làm phiền nhiễu nhân dân, phải giữ gìn

nhà cửa sạch sẽ.

5. Phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách dân tộc tôn trọng tự do, tín

ngưỡng, phong tục, tập quán của nhân dân.

6. Phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, kính già, yêu trẻ, đứng đắn với phụ nữ.

7. Không doạ nạt, đánh mắng nhân dân.

8. Phải bảo vệ tính mạng, tài sản của tập thể và của Nhà nước.

9. Phải đoàn kết, tôn trọng và ủng hộ các cơ quan dân, chính, đảng, các lực

lượng vũ trang địa phương.

10. Phải gương mẫu chấp hành mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nước.

11. Phải tích cực tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nhân dân thực hiện mọi

đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

12. Phải giữ gìn bí mật và vận động nhân dân giữ bí mật của Nhà nước và

quân đội.

229

PHỤ LỤC 11

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

14.1. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị nhiệm kỳ 2015-2020 (Ảnh chụp ngày

14.2. Bảo vệ Luận văn thạc sĩ tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 14

19 tháng 8 năm 2015 - Nguồn Ban Tuyên huấn Phòng Chính trị Học viện Chính trị)

tháng 6 năm 2019)

14.3. Lễ khai giảng năm học 2018 - 2019 của Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả

230

14.4. Đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam bắt tay động

chụp ngày 14 tháng 9 năm 2018)

viên học viên quốc tế trong dịp khai giảng năm học 2018 - 2019 của Học viện

Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 14 tháng 9 năm 2018)

14.5. Hội thảo khoa học tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp ngày 9 tháng 5

231

14.6. Hưởng ứng ngày sách Việt Nam lần thứ 4 tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác

năm 2019)

giả chụp ngày 21 tháng 4 năm 2017)

14.7. Hội thao năm học 2018 - 2019 của Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả chụp

232

ngày 17 tháng 12 năm 2018)

14.8. Giao lưu tặng quà các cháu thiếu nhi tại Học viện Chính trị (Ảnh do tác giả

chụp ngày 01 tháng 6 năm 2019)

14.9. Lễ Tuyên thệ chiến sĩ mới năm 2019 tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do

233

14.10. Một buổi học môn chiến thuật tai Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác

tác giả chụp ngày 18 tháng 5 năm 2019)

giả chụp ngày 19 tháng 11 năm 2018)

14.11. Hình ảnh diễn tập chiến thuật của Trường sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả

234

14.12. Giờ học môn Triết học tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả chụp

chụp ngày 5 tháng 3 năm 2019)

ngày 18 tháng 11 năm 2018)

14.13. Bảo vệ Luận văn thạc sĩ khoa học quân sự tại Trường Sĩ quan Lục quân 1

235

14.14. Trong giờ học Điều lệnh đội ngũ tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác

(Ảnh do tác giả chụp ngày 11 tháng 6 năm 2018)

giả chụp ngày 05 tháng 4 năm 2019)

14.15. Giờ giải lao trên thao trường tại của học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1

236

14.16. Hoạt động văn hóa văn nghệ tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Ảnh do tác giả

(Ảnh do tác giả chụp ngày 12 tháng 2 năm 2019)

chụp ngày 05 tháng 4 năm 2018)

237

PHỤ LỤC 12

Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC

VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

SỐ TÊN VẤN ĐỀ CẦN Ý KẾN CHUYÊN GIA TT CHUYÊN GIA TƯ VẤN

Quan niệm về Quan niệm về văn hóa chính trị phải được xuất phát từ quan niệm văn hóa. Theo đó,

văn hóa chính trị văn hóa có hai dạng biểu hiện chính: 1 GS.TS. Đinh Xuân Dũng - Hội đồng Lý

luận phê bình Văn - Một là, văn hóa là chính nó, tức là những gì nhìn thấy được, nghe thấy được với

học nghệ thuật các dạng sản phẩm như văn học, nghệ thuật, lễ họi, phong tục, kiến trúc…

Trung Ương - Hai là, văn hóa là những gì cảm thấy, biến từ chính nó để thẩm thấu vào tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội và từ đó, người ta cảm nhận rõ ràng, văn hóa đang nằm

sâu và trở thành một thành tố hữu cơ trong các lĩnh vực đó. Văn hóa chính trị cùng

với văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa ứng xử, văn hóa giao thông, văn

hóa gia đình, văn hóa ẩm thực… được hình thành trên cơ sở đó.

Khi nói văn hóa chính trị là đã bao hàm sự đánh giá tính đúng đắn, hợp quy luật,

hợp lòng dân, tính nhân văn của chính trị.

2

Quan niệm về văn hóa chính trị

Nguyễn GS.TS. Văn Huyên - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hiện nay có nhiều cách tiếp cận văn hóa chính trị, nhưng nhìn chung có thể hiểu, văn hóa chính trị là các giá trị được biểu hiện thành mô thức, chuẩn mực. Các chuẩn mực đó thể hiện trong ý thức (suy nghĩ, lý tưởng), trong hành vi (hành động), trong con người (người có đủ chuẩn mực văn hóa đó là nhân cách chính trị).

238

TÊN VẤN ĐỀ CẦN SỐ Ý KẾN CHUYÊN GIA CHUYÊN GIA TƯ VẤN TT

Quan niệm về Tìm hiểu cấu trúc của văn hóa chính trị nghĩa là xem xét những yếu tố nào cấu tạo

cấu trúc của văn nên văn hóa chính trị. Trong đó, văn hóa được cấu tạo bởi những yếu tố nào thì văn

hóa chính trị hóa chính trị, trước hết, cũng được tạo nên bởi những yếu tố đó.

Cấu trúc của văn hóa chính trị gồm các yếu tố tri thức và tri thức chính trị; tình cảm,

lý tưởng và tình cảm, lý tưởng chính trị; ý chí, bản lĩnh và ý chí, bản lĩnh chính trị…

tất cả chúng tạo nên năng lực, kỹ năng, khoa học và nghệ thuật thực hành chính trị. Tất cả những cái đó thể hiện thành các giá trị, các chuẩn mực cho tư duy, hành động.

Cho nên, ở một góc độ khác, cấu trúc của văn hóa chính trị thể hiện ở giá trị, hành

động, phẩm chất con người hàm chứa bên trong của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng.

Quan niệm về Cấu trúc của văn hóa chính trị bao gồm các thành tố: (1) Triết lý, tư tưởng chính trị -

3 PGS.TS. Lê Quý Đức - Cựu Giáo chức Thành phố Hà Nội cấu trúc của văn hóa chính trị Hệ thống định hướng; (2) Thể chế, thiết chế chính trị - Hệ thống công cụ hành động; (3) Công nghệ chính trị; (4) Nhân cách chủ thể chính trị; (5) Ngoại hiện chính trị

4

Quan niệm về văn hóa chính trị

Phạm PGS.TS. Duy Đức - Học viện Chính trị Quốc gia Văn hóa chính trị là quá trình xác lập, truyền bá, chia sẻ các giá trị, các chuẩn mực văn hóa tạo thành niềm tin, thành các quy ước có tính quy phạm được cộng đồng chính trị và xã hội thừa nhận và tạo thành nề nếp, phong cách, bản sắc riêng của tổ

Hồ Chí Minh

chức và cá nhân các thành viên tham gia vào hệ thống chính trị, phục vụ cho mục tiêu chế độ chính trị, phát huy vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động chính trị. Văn hóa chính trị có hai cấp độ: văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức.

239

SỐ TÊN VẤN ĐỀ CẦN Ý KẾN CHUYÊN GIA TT CHUYÊN GIA TƯ VẤN

Quan niệm về văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội hiện nay Biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội

Quan niệm về văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là văn hóa chính trị của một thiết chế văn hóa giáo dục đặc biệt. Thiết chế văn hóa này hướng tới mục tiêu đào tạo đội ngũ quân nhân cách mạng nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những biểu hiện của văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội, tập trung chủ yếu ở các yếu tố sau: 1. Chủ thể văn hóa chính trị (Lãnh đạo, quản lý nhà trường quân đội; giảng viên và học viên). 2. Giá trị văn hóa chính trị gắn liền với mục tiêu đào tạo. 3. Thể chế và thiết chế văn hóa chính trị trong nhà trường quân đội. 4. Các hoạt động văn hóa chính trị. Văn hóa chính trị là hệ thống tri thức kết tinh thành giá trị về việc giành, phát huy quyền lực và giữ quyền lực trong quản lý xã hội của một quốc gia, thể hiện phẩm chất và năng lực của Nhà nước nhằm thực hiện mục đích, lý tưởng chính trị

PGS.TS. Nguyễn Hữu Thức - Đại học Sư phạm Nghệ thuật - TƯ

Cấu trúc của văn hóa chính trị

Cấu trúc của văn hóa chính trị, có nhiều cách tiếp cận, có thể quan tâm đến ba thành tố chính: - Triết lý văn hóa chính trị. - Văn hóa nhà chính trị (văn hóa làm quan, nay là văn hóa cán bộ). Văn hóa của tổ chức trong hệ thống chính trị