
15
DẪN NHẬP CÁC YẾU TỐ VĂN HÓA VÀO VIỆC DẠY VÀ HỌC CHO
SINH VIÊN NGÀNH NGÔN NGỮ NHẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - TÀI CHÍNH (UEF)
ThS. Lý Như Quỳnh
Trường Đại Học Kinh Tế -Tài Chính Tp.HCM
Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa Quốc tế
Tóm tắt:
Kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao lần đầu tiên vào năm 1973
đến nay, quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng phát triển toàn diện và
sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Chính vì thế, nhu cầu giao lưu văn hóa và học tập
tiếng Nhật cũng tăng dần theo mối quan hệ tốt đẹp của hai nước cùng với sự rộng
mở của thị trường lao động biết tiếng Nhật. Do đó, việc giảng dạy tiếng Nhật
không chỉ dừng lại ở kiến thức ngôn ngữ, từ vựng hay ngữ pháp... mà còn phải chú
trọng ở năng lực giao tiếp, đặc biệt là giữa các nền văn hóa khác nhau. Nói cách
khác, việc lồng ghép, dẫn nhập các yếu tố văn hóa vào giảng dạy ngôn ngữ là vô
cùng quan trọng. Bài viết tập trung đề cập đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa nói chung, tầm quan trọng của việc đưa các yếu tố văn hóa vào việc giảng dạy
cũng như một số gợi ý dẫn nhập các yếu tố văn hóa vào giảng dạy ngữ pháp nhằm
nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Nhật cho sinh viên trường đại học Kinh tế -
Tài chính (UEF).
Từ khóa: giảng dạy, ngôn ngữ Nhật, sinh viên, văn hóa
1. Đặt vấn đề.
Mục đích của việc học ngoại ngữ là học cách giao tiếp bằng ngôn ngữ đích, để
tìm hiểu phong tục và truyền thống của cộng đồng ngôn ngữ đó, thúc đẩy và đáp
ứng nhu cầu học tập, làm việc và giao lưu của con người đối với thế giới bên ngoài
trong bối cảnh xã hội hóa, toàn cầu hóa hiện nay.
Tuy nhiên, trong quá trình học ngoại ngữ, người học không chỉ gặp trở ngại
trong việc khác biệt về ngữ âm, hệ thống chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, v.v... giữa
tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích mà còn do những đặc trưng văn hóa ẩn chứa trong
ngôn ngữ. Thực tế cho thấy, khó khăn của người học ngoại ngữ phần lớn đến từ

16
nguyên nhân người học thường có thói quen biểu đạt suy nghĩ và giao tiếp bằng
việc chuyển tải một cách vô thức ngôn ngữ chịu ảnh hưởng của văn hóa nguồn
sang ngôn ngữ đích. Sự khác biệt về văn hóa giữa hai ngôn ngữ có thể gây ra nhiều
hiểu lầm và mâu thuẫn trong quá trình giao tiếp, vì thế, việc học ngôn ngữ đòi hỏi
người học phải có kiến thức và cảm nhận về ngôn ngữ đích. Sự hiểu biết về các
yếu tố văn hóa có trong ngôn ngữ sẽ giúp cho người học không chỉ lý giải được ý
nghĩa của từ vựng, ngữ pháp, v.v... mà còn nắm bắt được cách sử dụng sao cho
phù hợp với từng tình huống, ngữ cảnh, khiến cho quá trình giao tiếp được thuận
lợi, cũng như nâng cao khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ đích.
Bên cạnh ý thức tự học, tự tìm hiểu của người học, những nhà giáo dục ngôn
ngữ, mà cụ thể ở đây là giảng viên cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
việc phát triển năng lực giao tiếp của người học thông qua việc kết hợp và lồng
ghép các yếu tố văn hóa vào quá trình giảng dạy.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Khái niệm văn hóa và khái niệm ngôn ngữ
2.1.1. Khái niệm văn hóa
Theo E.B.Taylor, trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy”, xuất bản lần đầu năm
1871: “Văn hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, năng lực, tập quán và những khả năng khác được con người
chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội.” [3]
GS Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.”
[4, tr10]
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh

17
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” [1, tr431]
UNESCO đã định nghĩa về văn hóa vào năm 2001 như sau: “Văn hoá được
coi là hệ thống các đặc điểm về tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc của xã hội
hay một nhóm người trong xã hội và văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn học, phong
cách sống, cách thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng.”
[7]
Có rất nhiều khái niệm về văn hóa được định nghĩa theo nhiều khía cạnh khác
nhau nhưng tóm lại, văn hóa có thể được hiểu theo 2 cách:
- Về nghĩa rộng: văn hóa là toàn bộ những giá trị cả về vật chất lẫn tinh thần,
do con người sáng tạo ra, tiêu biểu cho những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
trong tiến trình lịch sử.
- Về nghĩa hẹp: văn hóa là sản phẩm và những hoạt động trong lĩnh vực tinh
thần như văn học, nghệ thuật, v.v.
2.1.2. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất phục vụ cho việc giao tiếp
của con người và được phản ánh trong ý thức tập thể, độc lập với ý tưởng, tình
cảm và nguyện vọng cụ thể của con người, trừu tượng hóa khỏi những tư tưởng,
tình cảm và nguyện vọng đó. [6]
Theo Mác và Ăngghen: “... Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn... và cũng
như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với
người khác.” [2, tr8]
Từ những định nghĩa trên, có thể thấy, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của
con người, có tính chất xã hội, là tài sản của chung của một cộng đồng, một quốc
gia, một dân tộc, là sản phẩm của tư duy và trí tuệ của nhân loại.
2.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ
Văn hóa và ngôn ngữ có một mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời. Khi học
một ngôn ngữ mới, nó không chi liên quan đến chữ viết, cách sắp xếp từ, quy tắc

18
ngữ pháp, v.v.. mà còn là học về những phong tục, tập quán, hành vi xã hội của
ngôn ngữ đích.
Như đã nói, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp bằng âm thanh hay chữ viết có
ý nghĩa của con người. Và ý nghĩa này không chỉ giới hạn qua sự diễn giải trong
từ điển mà nó còn phụ thuộc vào ngữ cảnh, vào mối quan hệ xã hội, tình cảm và
mục đích giao tiếp nhất định của người sử dụng. Ở một khía cạnh nào đó, ngôn
ngữ là sự đại diện cho một nền văn hóa cụ thể. Mặt khác, văn hóa lại là cơ sở và
có sự tác động, ảnh hưởng đáng kể đến cách sử dụng ngôn ngữ.
Ravi Zacharias – một nhà biện giáo người Mỹ đã từng phát biểu: “Những thay
đổi trong ngôn ngữ thường phản ánh những giá trị đang thay đổi của một nền văn
hóa.” Nói cách khác, ngôn ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa và văn hóa chứa
đựng trong ngôn ngữ.
3. Dẫn nhập các yếu tố văn hóa vào việc giảng dạy ngôn ngữ.
3.1. Vai trò của văn hóa trong việc dạy và học ngoại ngữ
Ngôn ngữ là một sản phẩm cao cấp của ý thức con người, là công cụ để con
người giao tiếp, trao đổi và thấu hiểu lẫn nhau. Mỗi một ngôn ngữ đều gắn liền với
sự đặc trưng của nền văn hóa sản sinh ra nó. Văn hóa đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong việc dạy và học ngoại ngữ, như 2 mặt của một đồng xu, là sự tồn
tại và hỗ trợ qua lại lẫn nhau. Vì thế, nếu không có sự nghiên cứu về văn hóa, thì
việc giảng dạy ngoại ngữ sẽ không đầy đủ và thiếu tính chính xác. Tương tự, việc
thiếu hiểu biết về văn hóa của ngôn ngữ đích, hay giảng dạy ngôn ngữ mà không
lồng ghép văn hóa vào quá trình giảng dạy đó thì thứ mà người học tiếp thu được
chỉ là những ký hiệu mơ hồ, vô nghĩa, thậm chí còn gây hiểu lầm, hiểu sai hoàn
toàn.
Bên cạnh đó, mục đích của việc học ngoại ngữ là để người học có thể sử dụng,
giao tiếp bằng ngôn ngữ mà mình đã học và nhiệm vụ của người giảng dạy là
hướng dẫn, khuyến khích sự tò mò của người học về văn hóa mục tiêu, tạo động
lực cho người học trên con đường chinh phục ngôn ngữ đó.

19
Như vậy, cốt lõi của việc giảng dạy chính là rèn luyện cho người học có năng
lực giao tiếp và giao tiếp liên văn hóa đối với ngôn ngữ đích. Người học phải biết
cách chào hỏi, cách xưng hô, cách bày tỏ lòng cảm ơn, nhờ vả, yêu cầu, thể hiện
thái độ... nghĩa là phải biết kết hợp giữa ngôn ngữ và hành vi văn hóa cho phù hợp.
3.2. Các phương pháp tiếp cận, tích hợp văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ
Có nhiều phương pháp để tích hợp văn hóa trong việc giảng dạy ngoại ngữ,
một trong số đó có thể kể đến cách tiếp cận sau đây:
- Giảng dạy văn hóa một cách tường minh: giảng viên sẽ trang bị cho người
học – sinh viên cơ sở, kiến thức để phát triển văn hóa của ngôn ngữ đích. Tuy
nhiên, việc giảng dạy theo cách tiếp cận này có nhược điểm là nội dung văn hóa
mà người học nắm bắt được chỉ ở mức tương đối, cách tích hợp và cách lồng ghép
văn hóa vào ngôn ngữ như thế nào vẫn chưa được giải quyết phù hợp.
- Giảng dạy theo phương pháp giao tiếp: giảng viên có thể thông qua phương
pháp này nhấn mạnh vào chức năng giao tiếp, tích hợp văn hóa với ngôn ngữ một
cách tự nhiên, lồng ghép các nội dung văn hóa vào trong việc sử dụng ngôn ngữ,
giúp sinh viên tiếp thu kiến thức bằng sự trải nghiệm theo hình thức “học đi đôi
với hành”.
- Giảng dạy theo phương pháp giao tiếp liên văn hóa: là sự kết hợp của cả hai
phương pháp trên, giúp người học không chỉ nắm bắt, học hỏi được kiến thức về
ngôn ngữ đích mà còn có khả năng phát triển nhận thức: từ chưa biết đến biết, từ
biết đến hiểu, có kinh nghiệm, kiến thức về một nền văn hóa mới.
3.3. Một số gợi ý dẫn nhập các yếu tố văn hóa vào việc giảng dạy tiếng Nhật
Mục đích chính của việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng Nhật nói
riêng là giúp cho người học có năng lực giao tiếp một cách hiệu quả trong công
việc và cuộc sống bằng ngôn ngữ đích. Trong quá trình giao tiếp, con người truyền
thông tin bằng cách sử dụng ngôn ngữ với nhiều ký hiệu khác nhau và đối phương
– người nghe phải giải mã được những ký hiệu này để phân tích ra thông tin chính
xác. Cả quá trình truyền thông tin và phân tích thông tin này đều có liên quan đến
văn hóa, bởi vì nếu người nghe không hiểu được văn hóa của người nói thì sẽ giải