af
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
ISO 9001:2015
LÊ THÚY AN
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
TRÀ VINH, NĂM 2020
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
LÊ THÚY AN
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Ngành: VĂN HÓA HỌC
Mã ngành: 9229094
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. PHAN AN
2. PGS.TS. NGUYỄN XUÂN HƯƠNG
TRÀ VINH, NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ này là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phan An và PGS.TS. Nguyễn Xuân Hương. Nếu
có gì không đúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Trà Vinh, ngày … tháng … năm 2020
Tác giả
i
Lê Thuý An
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phan An và PGS.TS. Nguyễn Xuân
Hương. Thầy và cô đã tận tình hướng dẫn tôi từ lúc mới hình thành ý tưởng đề tài cho
đến quá trình sưu tập tài liệu và thực hiện luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô ở Trường Đại học Trà Vinh truyền đạt
kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Trường; chân thành cảm ơn những
cán bộ địa phương hỗ trợ tôi trong quá trình kết nối với cộng đồng người Khmer ở Sóc
Trăng, An Giang, Trà Vinh để phỏng vấn; chân thành cảm ơn những vị Sư, Achar,
những hộ dân đã cung cấp tư liệu trong suốt quá trình tôi phỏng vấn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã
ii
luôn hỗ trợ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. viii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... ix
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................... 1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................. 3
2.1. Mục tiêu chung ............................................................................................... 3
2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................................... 3
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT ....................... 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 3
3.2. Đối tượng khảo sát ......................................................................................... 3
4. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ......................................................................... 3
5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU ...................... 4
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 5
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN .................................................................................... 6
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................................................... 7
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................ 7
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận ........................................................ 7
1.1.1.1. Công trình của tác giả nước ngoài ........................................................... 7
1.1.1.2. Công trình của các tác giả trong nước ..................................................... 8
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu thực tiễn ................................................... 11
1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài ................................................... 11
1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước ................................................... 15
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................ 26
1.2.1. Một số khái niệm ....................................................................................... 26
iii
1.2.1.1. Văn hoá (culture) .................................................................................... 26
1.2.1.2. Văn hóa ứng xử (behaviour) .................................................................. 28
1.2.1.3. Môi trường tự nhiên (environment) ....................................................... 29
1.2.1.4. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên ............................................... 31
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu ................................................................................ 33
1.2.2.1. Thuyết sinh thái văn hoá (cultural ecology) .......................................... 33
1.2.2.2. Thuyết chức năng (functionalism) ......................................................... 37
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN .................................................................................... 39
1.3.1. Môi trường cư trú và phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long ............................................................................................................. 39
1.3.1.1. Môi trường cư trú của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ....... 39
1.3.1.2. Phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ........... 40
1.3.2. Văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer đồng bằng sông
Cửu Long ........................................................................................................... 42
1.3.2.1. Văn hoá vật thể ....................................................................................... 42
1.3.2.2. Văn hoá phi vật thể ................................................................................ 46
CHƯƠNG 2 VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI ĐẤT VÀ NƯỚC CỦA NGƯỜI
KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................ 53
2.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐẤT ................................................................. 53
2.1.1. Quan niệm về đất (ដី = đây) và phân loại đất ........................................... 53
2.1.1.1. Quan niệm về đất ................................................................................... 53
2.1.1.2. Phân loại đất ........................................................................................... 54
2.1.2. Đất ở (ដីនៅ = đây nâu) ............................................................................ 56
2.1.3. Đất sản xuất (ដីផលិត = đây phol lít) ....................................................... 58
2.1.3.1. Đất canh tác (ដីបង្កបនង្ក
ើនផល = đây bòng co bòng cơn phol) ............ 58
2.1.3.2. Đất trong nghề thủ công (ដីក្ន ុង្សិលបៈហតថក្ម្ម = đây k-nông sil-lặk-pắc hách-tặc-căm) ...................................................................................................... 60
iv
2.1.4. Đất thể hiện qua tín ngưỡng, phong tục (ដីក្ន
ុង្ជននឿ,ទំននៀម្ទម្លា ប់ =đây
k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm lóp) ................................................................. 61
2.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI NƯỚC .............................................................. 63
2.2.1. Quan niệm về nước (ទឹក្=tứk) .................................................................. 64
2.2.1.1. Nước là nguồn gốc của sự sống ............................................................. 64
2.2.1.2. Nước có ý nghĩa trong sạch, có chức năng thanh tẩy ............................ 66
2.2.2. Nước sinh hoạt (ទឹក្ន្បើ្ាស់ = tứk p-rơ p-rá) ........................................ 67
2.2.3. Nước trong sản xuất (ទឹក្ក្ន
ុង្ផលិតក្ម្ម = tứk k-nông phol-lít-tặt căm) 69
2.2.3.1. Ứng xử với thiếu nước ........................................................................... 69
2.2.3.2. Ứng xử với dư nước ............................................................................... 71
2.2.3.3. Ứng xử với nước phèn, nước mặn ......................................................... 72
2.2.4. Ứng xử với nước thể hiện trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội
(ទឹក្ក្ន
ុង្ជំននឿ, ទំននៀម្ទម្លា ប់,បុណ្យទាន = tứk k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm
lóp, bonh tean) ..................................................................................................... 74
2.2.4.1. Yếu tố thanh tẩy ..................................................................................... 74
2.2.4.2. Lễ nghi cầu nước, đưa nước ................................................................... 80
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 83
CHƯƠNG 3 VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI THỜI TIẾT, ĐỘNG VẬT, THỰC
VẬT CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG .............. 86
3.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ THỜI TIẾT (ធាតុអាកាស = thiêch à cás) .............. 86
3.1.1. Đặc điểm thời tiết vùng đồng bằng sông Cửu Long ................................. 86
3.1.2. Ứng xử với thời tiết mùa khô .................................................................... 88
3.1.3. Ứng xử với thời tiết mùa mưa ................................................................... 91
3.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT .............................. 92
3.2.1. Đặc điểm động vật, thực vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ............. 92
3.2.2. Văn hoá khai thác và tận dụng động vật, thực vật .................................... 94
3.2.2.1. Khai thác và tận dụng động vật .............................................................. 94
3.2.2.2. Khai thác và tận dụng thực vật ............................................................... 99
v
3.2.3. Động vật, thực vật trong đời sống tâm linh ............................................ 109
3.2.3.1. Tín ngưỡng liên quan đến động vật ..................................................... 109
3.2.3.2. Tín ngưỡng liên quan đến thực vật ...................................................... 112
CHƯƠNG 4 VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA
NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG – MỘT SỐ BIẾN
ĐỔI VÀ NHỮNG BÀN LUẬN ...................................................................... 117
4.1. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ........................................................................................................ 117
4.1.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với đất ................................................... 117
4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá vật thể ........................... 117
4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá phi vật thể ..................... 118
4.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với nước ................................................ 119
4.1.3. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng, vật nuôi .......................... 122
4.1.3.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng ...................................... 122
4.3.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với vật nuôi ........................................ 124
4.1.4. Biến đổi trong ứng xử với thời tiết ......................................................... 126
4.2. MỘT SỐ XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI PHƯƠNG THỨC SINH KẾ ĐỂ THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ......................................................... 127
4.3.1. Chuyển đổi trong kĩ thuật nuôi trồng ...................................................... 127
4.3.2. Chuyển đổi phương thức sinh kế ............................................................ 130
4.3. MỘT VÀI VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................... 134
4.3.1. Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường tự nhiên trong cộng đồng Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long ................................................................................ 134
4.3.1.1. Phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu ................................................ 134
4.3.1.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về môi trường tự nhiên .......................... 138
4.3.2. Phát huy hơn nữa vai trò của chức sắc và những trí thức có uy tín trong
cộng đồng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ............................................... 140
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 146
vi
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 149
Văn bản pháp luật .............................................................................................. 149
Tài liệu tiếng Việt (sách, tạp chí, kỉ yếu) .......................................................... 149
Tài liệu tiếng nước ngoài .................................................................................. 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................. 1
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 2
PHỤ LỤC 1: NHẬT KÍ ĐIỀN DÃ .................................................................... 2
Điền dã tại Trà Vinh .............................................................................................. 3
Điền dã tại An Giang ............................................................................................. 6
Điền dã tại Sóc Trăng .......................................................................................... 12
PHỤ LỤC 2: HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ ............................................................... 17
PHỤ LỤC 3: CÁC TRUYỆN DÂN GIAN KHMER ..................................... 26
Sự tích sấm sét ..................................................................................................... 26
Sự tích Mưa, Gió, Mặt Trời và Mặt Trăng ......................................................... 27
Cá thác lác đi xin lúa ........................................................................................... 28
Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức ............................................................................ 30
Sự tích Ao Bà Om ............................................................................................... 31
Sự tích giếng chị và giếng anh ............................................................................ 33
Truyền thuyết phum Thil - Thôl ......................................................................... 35
Lễ vào năm mới ................................................................................................... 35
Sự tích thả đèn gió và đua ghe ngo ngày lễ Ok - Om - Bok ............................... 37
Sự tích đua ghe ngo ............................................................................................. 38
Sự tích tượng rồng trước cổng chùa .................................................................... 38
Sự tích hình chim Grut ở chùa ............................................................................ 38
Sự tích hình voi ở chùa........................................................................................ 39
Sự tích bông cau trong ngày cưới ....................................................................... 40
Ba bông hoa cau trong ngày cưới........................................................................ 41
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT Bảo vệ môi trường
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
KHKT Khoa học kỹ thuật
MTTN Môi trường tự nhiên
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
viii
tr. Trang
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
ix
Bảng 2.1. Thay đổi trong ứng xử với nước trong truyền thống và hiện nay ................ 73
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất cực nam của Việt Nam còn
được gọi là vùng đồng bằng Nam Bộ hay miền Tây Nam Bộ. Ngày nay, ĐBSCL thuộc
địa bàn của 13 tỉnh, thành là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long,
Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành
phố Cần Thơ. Với vị trí như một bán đảo, ba mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển
(đường bờ biển dài 700 km), phía Bắc giáp Đông Nam Bộ, phía Tây có đường biên
giới giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan và phía Đông Nam là biển
Đông, vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và được bồi dần qua
từng kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Địa hình của ĐBSCL nhìn chung tương đối
bằng phẳng tuy vài nơi có những cồn cát cao ven biển, vùng trũng và đầm lầy. Độ cao
trung bình của vùng là từ 1 mét đến 2 mét (trừ những nơi có cồn cát ven biển độ cao
có khi lên đến 5 mét) so mới mực nước biển. Những sóng đất cao ven sông hàng năm
được bồi đắp thêm lượng phù sa do nước lũ mang lại. Những giồng cát cao hay những
vùng sóng đất hơi cao so với địa hình bằng phẳng khác là nơi ưu tiên cư trú của các cư
dân đến ở.
Khí hậu ở ĐBSCL có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô được luân phiên
nhau hết mùa mưa đến mùa khô. Mùa mưa và mùa khô ở ĐBSCL tương đối rõ rệt
nhưng đôi khi lại phân bố không đều, năm nắng hạn, năm lại mưa nhiều. Từ sự đa
dạng và phức tạp này của môi trường tự nhiên (MTTN) cho nên các cư dân nơi đây
phải chọn lựa cách ứng xử cho phù hợp trong quá trình cư trú và phát triển của mình.
Mỗi cách ứng xử của một tộc người phản ánh nét văn hoá đặc trưng của tộc người đó.
Người Khmer ở ĐBSCL là một tộc người có dân số đứng thứ hai sau người
Việt. Trong quá trình định cư và sinh sống nơi đây, người Khmer đã có quá trình thích
nghi, ứng phó với MTTN và tạo nên các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của
mình. Trong lịch sử cư trú, lao động, sản xuất, người Khmer đã lựa chọn cho mình
cách thích nghi với tự nhiên và hình thành hệ thống kinh nghiệm dân gian trong thích
ứng và điều tiết MTTN. Cách thích nghi với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL trong
truyền thống đa phần dựa vào sự xem xét MTTN theo kinh nghiệm dân gian của cha
1
ông truyền lại; tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, MTTN ở ĐBSCL đang có những
biến đổi nhất định, đó là những thay đổi do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây nên những
hiện tượng như nước nhiễm mặn, nhiễm phèn ngày một nặng hơn, thời gian diễn ra
kéo dài hơn, sự nóng lên của khí hậu, hiện tượng nước biển dâng, sạt lở.v.v. Một vấn
đề mang tính cấp bách hiện nay là ĐBSCL hiện nay đang đứng trước những thách thức
lớn bởi vì nơi đây là một trong những nơi bị ảnh hưởng của BĐKH nghiêm trọng nhất
trên thế giới. Theo Uỷ ban liên chính phủ về BĐKH, qua phân tích và phỏng đoán các
tác động của nước biển dân đã công nhận ba vùng châu thổ được xếp trong nhóm cực
kì nguy cấp do BĐKH là vùng hạ lưu sông Mekong (ĐBSCL ở Việt Nam), sông
Ganges – Brahmaputra (Banladesh) và sông Nile (Ai Cập). Tại Việt Nam, 2 vùng
Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL chịu ảnh hưởng nặng nhất. Khi nước biển dâng cao
1 mét, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô
thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng (Viện Khoa
học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường, 2011). Những hiện tượng biến đổi khí hậu
đang diễn biến phức tạp có nguy cơ làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực, kinh tế và
chất lượng sống của con người. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền
vững của cư dân ĐBSCL nói chung và của người Khmer ở ĐBSCL nói riêng.
Từ những biến động của MTTN, người Khmer nói riêng và các cư dân ở
ĐBSCL nói chung đã và đang có những động thái thay đổi phương thức sinh kế,
chuyển đổi vật nuôi cây trồng, nhằm thích nghi với BĐKH. Người Khmer đã ứng xử
với MTTN như thế nào trong truyền thống và có những biến đổi gì trong quá trình
thích ứng với BĐKH? Văn hoá ứng xử với MTTN trong truyền thống, những kinh
nghiệm dân gian có còn giá trị trong bối cảnh BĐKH hiện nay hay không? Việc
nghiên cứu văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer không chỉ giúp nhận diện
những giá trị văn hoá ứng xử trong truyền thống, thấy được giá trị trong bản sắc văn
hoá Khmer trong lao động và sản xuất, trong quá trình tận dụng, khai thác và ứng phó
với MTTN mà còn giúp chỉ ra những dự báo trong tương lai về những biến đổi trong
khai thác MTTN của người Khmer đang và sẽ diễn ra. Vì các lí do đó chúng tôi chọn
đề tài: “Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer vùng đồng bằng
2
sông Cửu Long” để làm đề tài cho luận án.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu nghiên cứu của luận án: nghiên cứu văn hóa ứng xử với các yếu tố tự
nhiên như đất, nước, thời tiết, động vật, thực vật trong văn hóa vật thể và văn hoá phi
vật thể của người Khmer; từ đó, phân tích những giá trị trong truyền thống và biến đổi
trong cách ứng xử với tự nhiên của người Khmer trước những thách thức về biến đổi
khí hậu trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống những giá trị về văn hoá hoá ứng xử với MTTN (đất, nước, thời tiết,
động vật, thực vật) trong văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer ở ĐBSCL;
Phân tích, đánh giá và đề xuất một số khuyến nghị mang tính dự báo về những
biến đổi trong ứng xử với MTTN của người Khmer trước những thách thức của
BĐKH; kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm một nghiên cứu về văn hóa của
người Khmer ở ĐBSCL về phương diện văn hóa ứng xử với MTTN.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL cụ thể là văn
hoá ứng xử với đất; văn hoá ứng xử với nước; văn hoá ứng xử với thời tiết; văn hoá
ứng xử với động vật, thực vật.
3.2. Đối tượng khảo sát
Luận án tập trung vào đối tượng khảo sát chính là người Khmer có nghề nghiệp
chính là làm nông nghiệp ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang. Cụ thể hơn, ở
mỗi tỉnh chúng tôi chọn địa điểm nghiên cứu tập trung như tại An Giang nghiên cứu
tại ấp Phnôm- Pi (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn); tại Sóc Trăng nghiên cứu tại khóm
Cà Lăng A Biển (phường 2, thị xã Vĩnh Châu) và tại Trà Vinh nghiên cứu tại ấp Bà
Tây B (xã Tập Sơn, huyện Trà Cú).
4. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Không gian nghiên cứu: người Khmer cư trú phân bố khắp vùng ĐBSCL; tuy
nhiên, chúng tôi chọn điểm nghiên cứu là không gian văn hoá ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà
Vinh, An Giang làm địa bàn nghiên cứu chính vì các lý do sau đây:
Thứ nhất: Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang là ba khu vực có điều kiện địa hình
3
tự nhiên vừa có nét chung vừa có nét riêng thể hiện được điều kiện tự nhiên sinh sống
ở vùng cao và vùng ven biển của người Khmer (An Giang có hai loại địa hình là đồng
bằng phù sa và đồng bằng ven núi; Sóc Trăng và Trà Vinh có địa hình đồng bằng ven
biển);
Thứ 2: Kinh tế nông nghiệp của người Khmer tại ba tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh
và An Giang đều có liên quan mật thiết đến dòng chảy của sông Mekong đổ về (An
Giang là đầu nguồn dòng chảy sông Cửu Long, Sóc Trăng và Trà Vinh là hạ nguồn
dòng chảy đổ ra sông Hậu và sông Tiền).
Thời gian nghiên cứu: từ sau năm 1975 khi bắt đầu có nhiều tư liệu, tài liệu
nghiên cứu tập trung về tộc người Khmer.
Chủ thể nghiên cứu: tộc người Khmer ở ĐBSCL Việt Nam.
5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Thông qua cách ứng xử với MTTN trong văn hóa vật thể và phi vật thể của
người Khmer ĐBSCL, câu hỏi nghiên cứu thứ nhất chúng tôi đặt ra là: “Tộc người
Khmer đã ứng xử với MTTN (đất, nước, thời tiết, động thực vật) như thế nào?” Trong
quá trình thích nghi và đối phó với MTTN, người Khmer đã làm gì để tận dụng những
giá trị có lợi và đối phó với những điều bất lợi để phục vụ cho nhu cầu ăn uống, nhà
cửa, đi lại của mình?
Câu hỏi nghiên cứu thứ hai chúng tôi đề ra là: “Trong bối cảnh biến đổi của
MTTN hiện nay, người Khmer đã có sự biến đổi như thế nào trong văn hoá ứng xử với
MTTN để đảm bảo sự thích nghi và phát triển bền vững?”.
Từ hai câu hỏi nghiên cứu được nêu, chúng tôi đề ra hai giả thuyết nghiên cứu là:
Thứ nhất, chúng tôi cho rằng, MTTN là yếu tố có giá trị rất quan trọng trong văn hoá vật
thể và phi vật thể của người Khmer. Trong quá trình lịch sử của mình, người Khmer đã
có những kinh nghiệm dân gian trong sự thích nghi với môi trường. Giả thuyết nghiên
cứu thứ hai đề ra là: trước những biến động của môi trường, người Khmer đã có những
thay đổi nhất định so với hệ thống tri thức trong truyền thống. Sự biến đổi này là sự
thích nghi có chọn lọc, nghĩa là thích nghi những điều có lợi, giữ lại những tri thức vẫn
còn nguyên giá trị nhưng đồng thời cũng sẽ loại bỏ những giá trị lỗi thời không còn phù
hợp nữa. Sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt dần tài nguyên, cùng với chính sách, chủ trương
4
của nhà nước đã góp phần làm thay đổi cách ứng xử với MTTN của người Khmer.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
MTTN là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành khác nhau: sinh thái
học, địa lý học, xã hội học... Trong những chuyên ngành nghiên cứu về con người như
văn hoá học, nhân học, tâm lý học hay văn học thì MTTN được nghiên cứu dưới góc
độ về mối quan hệ tương tác giữa con người và MTTN; trong đó, hướng nghiên cứu
chú trọng nhiều nhất là ứng xử giữa con người với MTTN. Để thực hiện luận án này,
chúng tôi chọn cách tiếp cận và các phương pháp sau:
Ở cách tiếp cận, chúng tôi chọn cách tiếp cận liên ngành. Với đối tượng nghiên
cứu là văn hoá ứng xử với MTTN, chúng tôi vận dụng hướng tiếp cận liên ngành với
các khoa học giáp ranh thuộc khoa học xã hội và nhân văn như: nhân học, xã hội học,
văn học...Cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc giúp chúng tôi tiếp cận văn hóa ứng xử với
tự nhiên của người Khmer theo một hệ thống: văn hóa nhận thức – văn hóa ứng xử.
Cách tiếp cận văn hóa - sinh thái giúp chúng tôi nhận diện sự thích nghi trong văn hóa
của người Khmer gắn với điều kiện môi trường ở ĐBSCL.
Các phương pháp chính được sử dụng cho luận án chúng tôi chọn hai phương
pháp: phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp quan sát tham dự.
Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bằng hình thức phỏng vấn
sâu, phỏng vấn bán cấu trúc ở cấp cộng đồng giúp phản ánh tâm thức đối phó và thích
nghi với MTTN trong văn hoá vật thể của đồng bào Khmer. Phương pháp này giúp
cho chúng tôi có được tư liệu khi tham dự vào các hoạt động sinh hoạt trong đời sống
văn hóa vật thể và phi vật thể trong ứng xử với tự nhiên của người Khmer giúp nhận
diện và phân tích được các giá trị, sự thích ứng và đối phó với những biến đổi trong
MTTN hiện nay. Khi nghiên cứu về văn hoá ứng xử với MTTN và những biến đổi trong
ứng xử với MTTN trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi lại khó có thể sử dụng phương pháp
điều tra xã hội học, với những bảng hỏi vì những vấn đề thuộc về kinh nghiệm dân gian
tộc người khó có thể định lượng chính xác. Ngay cả phương pháp phỏng vấn sâu theo cấu
trúc cũng khó được sử dụng do ứng xử với MTTN trong quá khứ đến hiện tại là một quá
trình lâu dài, phức tạp mà bản thân chủ thể văn hoá cần phải có thời gian và những gợi mở
nhất định để có thể cho chúng ta những thông tin cần thiết, phục vụ công việc nghiên cứu.
Vì vậy, phương pháp quan sát tham dự và phỏng vấn phi cấu trúc được chọn nhằm có thể
thu thập được nhiều thông tin nhất có thể cho công tác nghiên cứu. Hai phương pháp này
dành cho đối tượng sự thuận lợi nhất, không bị bó buộc về thời gian hay khuôn mẫu thông
5
tin, để cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho người nghiên cứu.
Phương pháp quan sát tham dự được tiến hành triển khai ở các điểm nghiên
cứu: ấp Phnôm - Pi (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang); ấp Bà Tây B (xã
Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh); ấp Cà Lăng A Biển (phường 2, thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng). Mỗi địa điểm chúng tôi chọn đối tượng phỏng vấn là người
nông dân Khmer có nghề trồng lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chăn nuôi thuỷ sản,
nghề tiểu thủ công nghiệp hoặc những người Khmer có nghề theo thời vụ như đánh bắt
gần bờ, làm đường thốt nốt v.v.
Bên cạnh hai phương pháp chính chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh
lịch đại nhằm phân tích, so sánh đối chiếu văn hoá ứng xử với MTTN của người
Khmer từ trong truyền thống cho đến hiện nay. Các phương pháp này nhằm mục đích
tìm ra những đặc trưng trong ứng xử của người Khmer, những ứng xử mang tính
truyền thống dân tộc và những ứng xử được hình thành trong quá trình giao lưu tiếp
biến văn hoá với các tộc người cùng sinh sống.
Ngoài cách tiếp cận và phương pháp nêu trên, để chứng minh cho những luận
điểm được nêu ra trong luận án chúng tôi còn sử dụng tư liệu từ ngành văn học như:
văn học dân gian Khmer, chuyên khảo, biên khảo… để bổ trợ cho các phương pháp
nghiên cứu.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được
kết cấu gồm 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn (45
trang).
Chương 2. Văn hoá ứng xử với đất và nước của người Khmer ĐBSCL (32
trang).
Chương 3. Văn hoá ứng xử với thời tiết, động thực vật của người Khmer
ĐBSCL (28 trang).
Chương 4. Văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL – một số biến
6
đổi và những bàn luận (27 trang).
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ trước đến nay, MTTN của một tộc người là đối tượng tiếp cận nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như dân tộc học, nhân học, văn hóa học,
tâm lý học, văn học,... và trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, việc
nghiên cứu về ứng xử với tự nhiên càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Dưới góc tiếp cận
liên ngành, ngoài việc tiếp cận các tài liệu được nghiên cứu của ngành văn hóa học
chúng tôi còn tiếp cận tài liệu của các ngành nhân học, văn học để có cách nhìn tổng
quát và hệ thống về vấn đề nghiên cứu. Với khối lượng công trình đã được tiếp cận
khá lớn, chúng tôi nhóm lại thành hai nhóm là những công trình nghiên cứu lý luận và
những công trình nghiên cứu thực tiễn.
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận
1.1.1.1. Công trình của tác giả nước ngoài
Để phục vụ nhu cầu nghiên cứu về văn hoá ở Việt Nam, các Trung tâm, Viện
nghiên cứu văn hoá đã tổ chức dịch các công trình của các tác giả nước ngoài như năm
2001 Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia đã dịch các nghiên cứu của các nhà văn hoá học, nhân học, xã hội học trên
thế giới như: White. Leslie A, Kutyrev V. A. .v.v. với tựa đề công trình là Văn hoá học
và văn hoá thế kỉ XX (Viện Thông tin Khoa học Xã hội , 2011).
Viện Văn hóa – Thông tin cũng đã tuyển chọn và dịch một số công trình của
các tác giả nước ngoài như: A.A. Radughin (chủ biên) (2004) Văn hóa học những bài
giảng; Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học – Những phương pháp nghiên cứu; Chris
Barker (2011) Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành. Các công trình này đã cung
cấp các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cần thiết cho luận án, nhất là phương
pháp nghiên cứu định tính, phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc được vận dụng trong
luận án (Radughin, 2004); (Nhiều tác giả , 2007); (Barker, 2011).
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiếp cận các công trình lý thuyết và phương pháp
7
của ngành nhân học giúp bổ trợ cho công trình nghiên cứu như: H. Russel Bernard
(2009), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học – tiếp cận định tính và định
lượng; R. Jon MC. Gee - Richard L. Warms (2010), Lý thuyết nhân học – giới thiệu
lịch sử; Alan Barnard (2015), Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà (dịch), Lịch sử và lý
thuyết nhân học, nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội (Alan Barnard, 2015). (H.
Russel Bernard, 2009); (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010); (Alan Barnard
(Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà dịch) , 2011).
Nhóm tài liệu về lý thuyết và phương pháp của các tác giả nước ngoài này đã
được chúng tôi tiếp cận kế thừa về phương pháp định tính, tham dự và phỏng vấn cộng
đồng. Các lý thuyết được áp dụng trong luận án cũng được kế thừa từ các công trình
này như lý thuyết sinh thái học văn hoá, lý thuyết chức năng. Tóm lại, các tài liệu này
đã cung cấp cho chúng tôi những lý thuyết và phương pháp tiếp cận liên ngành phù
hợp với đề tài.
1.1.1.2. Công trình của các tác giả trong nước
Nghiên cứu về MTTN vùng ĐBSCL, chúng tôi đã có điều kiện tiếp cận quyển
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Đây là một bộ sử liệu có giá trị cao về
lịch sử, địa lí và văn hóa Nam Bộ. Tập sách là những ghi chép và mô tả tỉ mỉ về núi
sông, khí hậu cùng các phong tục tập quán, tính cách sinh hoạt của cư dân cùng các địa
danh xưa ở Nam Bộ. Mặc dù không gian nghiên cứu của luận án chỉ tập trung ở
ĐBSCL (còn gọi là Tây Nam Bộ) nhưng đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng
tôi tham khảo để nghiên cứu không gian địa lý và không gian văn hóa của luận án
(Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm 2016).
Lê Bá Thảo là tác giả có nhiều nghiên cứu về thiên nhiên Việt Nam nói chung
và thiên nhiên ĐBSCL nói riêng. Hai công trình được chúng tôi tiếp cận tham khảo
là Địa lý đồng bằng sông Cửu Long (1986) và Thiên nhiên Việt Nam (2002) và. Các
công trình này không chỉ dừng lại ở mô tả tự nhiên khí hậu, địa lý Nam Bộ mà còn
đề cập đến văn hóa ứng xử của người Nam Bộ với MTTN (Lê Bá Thảo, 1986); (Lê
Bá Thảo, 2009).
Nguyễn Xuân Kính là tác giả đã có những nghiên cứu về mối quan hệ giữa con
người, môi trường và văn hóa. Quyển Con người môi trường và văn hóa của tác giả
Nguyễn Xuân Kính được xuất bản năm 2003 là tập hợp các bài viết của tác giả, trong
đó có nội dung “Con người và môi trường”, tác giả đã chia ra thành ba loại môi
8
trường: môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái nhân văn, môi trường xã
hội. Bài viết giúp chúng tôi có cái nhìn về mối quan hệ giữa con người và môi trường,
phân biệt được sự khác nhau giữa môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái
nhân văn và môi trường xã hội. Con người sống trong môi trường, tác động vào môi
trường và có thể làm biến đổi môi trường (Nguyễn Xuân Kính, 2003).
Ngô Văn Lệ với công trình Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và
Đông Nam Á xuất bản năm 2003 là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa
tộc người. Với cách tiếp cận nhân học văn hóa, tác giả có cái nhìn khái quát về đặc
trưng văn hóa của người Việt và các tộc người thiểu số ở Nam Bộ cũng như đặc trưng
văn hóa của cư dân Đông Nam Á. Điểm cốt lõi để chúng tôi kế thừa công trình này là
tác giả chú trọng đến mối liên hệ phát triển của hệ sinh thái và tộc người. Cùng với
cách tiếp cận nhân học văn hóa và tư liệu điền dã, đây là một trong những tài liệu quý
giá giúp chúng tôi có thêm nguồn tham khảo cho luận án (Ngô Văn Lệ, 2003).
Công trình Nhân học văn hóa - con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới
siêu nhiên của tác giả Vũ Minh Chi xuất bản năm 2004 ngoài việc trình bày đối
tượng, phương pháp nghiên cứu của nhân học văn hóa còn phân tích mối quan hệ
giữa con người và môi trường sinh thái. Để tồn tại, con người có những cách ứng xử
khác nhau với MTTN và từ đó hình thành những nét văn hóa riêng biệt. Đây là quan
điểm rất quan trọng được chúng tôi tiếp cận, kế thừa trong nghiên cứu về ứng xử với
MTTN của người Khmer ở vùng ĐBSCL (Vũ Minh Chi, 2004).
Tác giả Trần Quốc Vượng với quyển Môi trường con người & Văn hóa xuất
bản năm 2005 là tập hợp tất cả bài viết về vấn đề sinh thái văn hóa. Bằng cách tiếp cận
lịch sử - văn hóa, địa - văn hóa tác giả đã mang đến nhiều đóng góp khi nghiên cứu về
vấn đề môi trường qua các vùng miền ở Việt Nam. Có thể kể đến các bài nghiên cứu
liên quan đến đề tài như: Triết lý môi trường; Khảo cổ - văn hóa - môi trường sinh
thái; Yếu tố nước trong văn hóa Việt Nam; Di tích và môi trường; Người Đông Sơn và
môi trường sinh thái Đông Sơn; Văn hóa biển và sông nước ở (Phía Bắc) miền Trung
Việt Nam, một cái nhìn sinh thái nhân văn; Nam Bộ, các tiểu vùng sinh thái khảo cổ -
nhân văn và huyền tích khởi nguyên luận, v.v... (Trần Quốc Vượng, 2005).
Công trình Văn hóa sinh thái – nhân văn (giáo dục môi trường) xuất bản năm
2005 của tác giả Trần Lê Bảo là công trình nghiên cứu văn hóa sinh thái dưới cách tiếp
cận cấu trúc chức năng. Tác giả chia môi trường sinh thái – tự nhiên thành các thành
9
tố: nước; không khí; động vật, thực vật; đất đai; đồng thời, tác giả có sự quan tâm đến
văn hóa ứng xử với môi trường sinh thái, giáo dục văn hóa sinh thái ở Việt Nam hiện
nay (Trần Lê Bảo, 2005).
Chúng tôi còn được tiếp cận công trình Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng
dụng (2013) là một công trình mang tính hệ thống về lý thuyết nghiên cứu văn hóa học
của tác giả Trần Ngọc Thêm. Trong đó, tác giả nghiên cứu vấn đề lý luận văn hóa học
có đề cập đến nước và văn hóa nước. Dưới góc tiếp cận hệ thống cấu trúc, tác giả chia
văn hóa nước thành: văn hóa tận dụng nước, văn hóa đối phó với nước, văn hóa lưu
luyến nước và văn hóa sùng bái nước. Tác giả đã nhìn nhận sâu sắc, toàn diện về nước
trong đời sống văn hóa con người. Cũng trong công trình này, tác giả có nghiên cứu cụ
thể về vấn đề “Nước, Văn hóa và hội nhập”. Tác giả nêu lên một số quan điểm về nước
và văn hóa nước từ đó đưa ra một số nhận định về văn hóa nước và ảnh hưởng của nước
đến tâm thức người Việt. Tất cả kết quả nghiên cứu trên giúp chúng tôi có thêm điểm
nhìn về văn hóa nước của Việt Nam trong cái nhìn hệ thống loại hình (Trần Ngọc Thêm,
2013).
Tiếp nối với lý thuyết hệ thống - loại hình, vào năm 2013 Trần Ngọc Thêm đã
công bố công trình Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do tác giả chủ biên. Công
trình tập hợp nhiều bài viết một cách hệ thống về văn hóa nhận thức, văn tổ chức, văn
hóa ứng xử với tự nhiên và xã hội của người Việt vùng Tây Nam Bộ và đây là nguồn
tài liệu giúp chúng tôi đối chiếu, so sánh với văn hóa ứng xử với MTTN của người
Khmer (Trần Ngọc Thêm (chủ biên) , 2013).
Để phục vụ cho tra cứu các tư liệu về không gian văn hóa ĐBSCL, chúng tôi
còn sử dụng tư liệu từ các công trình dưới dạng biên khảo, bút kí của Sơn Nam và
Vương Hồng Sển. Các tác phẩm đã phản ánh không gian cư trú, không gian sinh hoạt
của người Khmer ở ĐBSCL như Sơn Nam, 1998: Đồng bằng sông Cửu Long; Sơn
Nam, 2005: Tìm hiểu đất Hậu Giang & Lịch sử đất An Giang; Sơn Nam, 2007: Đồng
bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa; Vương Hồng Sển, 2012: Di cảo Ăn cơm
mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang, Ba Thắc. Thông qua các tác phẩm này chúng tôi nhận
diện được nhiều tri thức dân gian, kinh nghiệm dân gian của người Nam Bộ trong đời
sống văn hóa vật thể như ăn uống, nhà cửa, đi lại và trong đời sống văn hóa phi vật thể
như lễ tục, tín ngưỡng... (Sơn Nam, 1998); (Sơn Nam, 2005); (Sơn Nam, 2007);
10
(Vương Hồng Sển , 2012).
Tóm lại, nhóm công trình nghiên cứu lý luận của các tác giả ngoài nước và
trong nước là nguồn tài liệu quan trong giúp chúng tôi làm điểm tựa nghiên cứu ở các
nội dung sau:
Thứ nhất: những công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước giúp chúng
tôi tham khảo về phương pháp nghiên cứu được vận dụng cho luận án là phương pháp
nghiên cứu định tính; phương pháp quan sát tham dự và phương pháp phỏng vấn bán
cấu trúc.
Thứ hai: những công trình lý luận của các tác giả trong nước giúp chúng tôi
tham khảo về quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu. Một số công trình của
các tác giả Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm là điểm tựa về lý thuyết, cung cấp
thêm quan điểm khi nghiên cứu về văn hoá ứng xử với MTTN của một tộc người.
Những công trình này chủ yếu nghiên cứu về người Việt tuy nhiên là cơ sở dữ liệu
giúp chúng tôi so sánh khi chủ thể nghiên cứu của luận án là nghiên cứu về người
Khmer ở ĐBSCL.
Thứ ba: Quan điểm của tác giả Vũ Minh Chi về việc con người có những cách
ứng xử khác nhau với MTTN và từ đó hình thành những nét văn hóa riêng biệt. Đây
là quan điểm được chúng tôi tiếp tục kế thừa, vận dụng trong triển khia nghiên cứu
về văn hóa ứng xử với MTTN của người Khmer ở vùng ĐBSCL.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu thực tiễn
1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài
Ứng xử với MTTN là một mảng nghiên cứu rộng lớn và từ lâu đã được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Năm 1922, Bronislaw Malinowski là người khởi
xướng cho quan điểm phản thực chứng, ông đã có những mô tả, diễn giải ý nghĩa của
những hiện tượng văn hoá trong một bối cảnh cụ thể. “Thực chất của Kula” (The
Essentials of the Kula) là chương thứ ba trong chuyên khảo “Nhà hàng hải Tây Thái
Bình Dương” (Agronauts of the Western Pacific) đã được viết dưới góc độ là người
trong cuộc. Trong chuyên khảo này, Malinowski đã thảo luận về các luật tục trao đổi
kula, những thông tin về ca-nô, chèo thuyền, những nghi lễ và ma thuật liên quan đến
ca-nô. Tiếp theo đó, ông đưa ra các thông tin chi tiết và cụ thể hơn về những nội dung
đã nêu, bao gồm các chuyến hải hành bằng ca-nô, kula và ma thuật. Malinowski đưa ra
giả thuyết là khi người Trobriand đánh cá gần bờ và sử dụng các ngư cụ thô sơ thì họ
11
không cần đến ma thuật. Nhưng khi họ đánh bắt xa bờ, mức độ nguy hiểm càng gia
tăng thì họ sẽ dùng đến các biện pháp ma thuật nhằm trấn an tinh thần. Với lý thuyết
chức năng cùng với chất liệu nghiên cứu về cách thích nghi với tự nhiên, Malinowski
đã chỉ ra các nguyên nhân và chức năng của ma thuật qua các loại hình sinh kế
(L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010).
Nghiên cứu thực tiễn thứ hai được chúng tôi tiếp cận là nghiên cứu của tác giả
E.E. Evans – Pritchard. E.E. Evans – Pritchard là người đã dành nhiều thời gian và
công sức nghiên cứu về người Nuer trong công trình “The Nuer” công bố năm 1940.
Với điều kiện sinh thái của mình, người Nuer ở Sudan sống bằng nghề trồng trọt và
chăn nuôi; bên cạnh đó, họ cũng săn bắn, đánh bắt, hái lượm trái dại và củ rễ. Tuy đa
dạng sinh kế nhưng người Nuer nhận thức rằng dinh dưỡng từ thịt gia súc là lớn hơn
cả, nó giúp cho mắt của họ tốt hơn; vì thế, dù khi có nền kinh tế pha tạp nhưng người
Nuer vẫn sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Evans – Pritchard đặc biệt quan tâm đến
mối quan hệ sinh thái học với tổ chức xã hội. Điều này đã khiến cho ông được xem là
người tiên phong của ngành sinh thái học hiện đại. Với nghiên cứu này, chúng tôi
tiếp cận kế thừa về phương pháp nghiên cứu và kể cả những ứng dụng nghiên cứu.
Mặc dù, về không gian (miền Đông Châu Phi), tộc người (người Nuer) trong nghiên
cứu của Evans – Pritchard không giống với không gian (ĐBSCL) và tộc người
(người Khmer) nhưng nghiên cứu này vẫn có giá trị đáng kể để chúng tôi kế thừa bởi
quan điểm sinh thái học hiện đại. Người Khmer ở ĐBSCL mặc dù bối cảnh, môi
trường sống không giống với người Nuer những cách họ lựa chọn trong sinh kế, cách
họ tương tác với MTTN để có thực phẩm thì gần giống như nhau, đặc biệt giống
nhau ở điểm khi họ có sự đa dạng về kinh tế những họ cũng rất coi trọng trồng trọt
và chăn nuôi (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010).
Nghiên cứu thực tiễn thứ ba được chúng tôi kế thừa là công trình của tác giả
Julian Steward - người đã đặt nền móng cho thuyết sinh thái văn hóa (Cultural
ecology) và đề ra khái niệm thích nghi với môi trường. Sinh thái văn hóa là sự thích
nghi của con người với MTTN theo những cách khác nhau và sáng tạo ra những giá trị
văn hóa đa dạng. Julian Steward cho rằng: “những nền văn hóa trong cùng môi trường
phát triển có xu hướng theo những chuỗi phát triển giống nhau và lập thành công thức
tương tự nhau đáp ứng với những thay đổi của môi trường” (L.Warms, R.Jon MC.
Gee- Richard, 2010), tr 319. Để chứng minh cho lý thuyết của mình, Steward đã có
12
nghiên cứu về nhóm người Shoshoni và người Bushmen. Với người Shoshoni, do điều
kiện vật chất (săn bắn) đã làm xuất hiện các hình thái xã hội phụ hệ. Steward giả định
về những khác biệt sinh học giữa nam và nữ để giải thích nguồn gốc chế độ phụ hệ.
Theo đó, với đặc thù kiếm sống (săn bắn) cần dùng sức lực cơ bắp nên người đàn ông
đóng vai trò quyết định trong việc tìm kiếm thức ăn và từ đó đã hình thành chế độ phụ
hệ.
Với nghiên cứu về người Bushmen, Steward lại cho rằng những hạn chế về môi
trường như đất đai khô cằn, không sinh lợi đã ảnh hưởng đến cư trú và hình thành
nhóm gia đình theo chế độ phụ hệ. Thuyết tiến hóa của Steward là thuyết tiến hóa đa
tuyến vì theo ông, văn hóa có thể tiến triển theo nhiều mô hình khác nhau bất kỳ, tùy
thuộc vào các hoàn cảnh môi trường của chúng. Ông nhấn mạnh đến sự thích nghi của
văn hóa cá nhân với những điều kiện môi trường riêng biệt. Theo ông, những nền văn
hóa trong những môi trường tương tự nhau sẽ có xu hướng phát triển theo những quá
trình giống nhau và sẽ tạo nên những đáp trả tương tự đối với những thách thức của
môi trường. Ông gọi những đặc điểm văn hóa đó kết hợp chặt chẽ với những phong
tục là hạt nhân văn hóa.
Dự báo về những thách thức với MTTN của những công dân toàn cầu được hai
tác giả Aurelio Peccei và Daisaku Ikeda nêu lên trong quyển “Tiếng chuông cảnh tỉnh
cho thế kỉ XXI”. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, cả thế giới tiến vào một giai đoạn mới
và ngỡ rằng đã làm chủ được tất cả khi khoa học công nghệ phát triển một cách nhanh
chóng. Tuy nhiên, vẫn có những hiện tượng nằm ngoài tầm với của nhân loại đó là sự
phản ứng trở lại của tự nhiên khi hàng loạt các thiên tai trên thế giới liên tục xảy ra đó
là: hạn hán, lũ lụt, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên... Tác phẩm cung cấp cho chúng tôi
những điểm nhìn tham chiếu, giúp có sự liên tưởng đến những thách thức của các tộc
người thiểu số trước những dự báo mang tính toàn cầu là những vấn đề về biến đổi khí
hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày một phức tạp hơn ở ĐBSCL (Aurelio Peccei –
Daisaku Ikeda , 1993).
Trên cơ sở thực địa Châu Á, Bức khảm văn hóa Châu Á tiếp cận Nhân học do
Grant Evant (chủ biên) xuất bản năm 2001 là tập hợp những phần trình bày thú vị về
hệ thống lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của ngành nhân học. Công trình giúp
chúng tôi nhận biết sự tương đồng và khác biệt trong sự đa dạng văn hóa của các dân
tộc ở Châu Á trong đó có Việt Nam. Dưới góc tiếp cận nhân học kinh tế, tác giả John
13
Clammer với nghiên cứu “Ngư dân, dân du canh, người bán hàng rong, nông dân và
dân chăn nuôi” đã trình bày về sự gắn kết giữa kinh tế với sự hiểu biết về sinh thái. Sự
hiểu biết và tôn trọng tự nhiên sẽ quyết định đến sự tác động vào tự nhiên và từ đó tạo
ra các hiệu quả kinh tế, thói quen kinh tế của tộc người (Grant Evant , 2001).
“Địa đàng ở Phương Đông” của Stephen Oppenheimer (2005) là một công
trình đưa ra các giả thuyết về quá trình biển dâng, biển lùi ở Đông Nam Á. Những
trận đại hồng thủy, nguồn gốc thủy tổ của một số tộc người có sự tương đồng nhau
giữa các tộc người trên thế giới. Dù những giả thuyết của Stephen Oppenheimer –
một bác sĩ, nhà thám hiểm, nhà dân tộc học vẫn còn nhiều điều cần trao đổi khi đã
tuyên bố Đông Nam Á là nơi khởi nguyên của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, câu
chuyện chúng tôi quan tâm là thủy tổ, cách giải mã nguồn gốc tộc người liên quan
đến nước và cách ứng xử của cư dân Đông Nam Á với tự nhiên được tác giả đề cập.
Dựa trên quan điểm này, chúng tôi có thể giải mã, lý giải một số phong tục liên quan
đến nước của người Khmer - một tộc người có lịch sử cư trú lâu đời ở Đông Nam Á
(Oppenheimer, 2005).
Lévy Bruhl trong công trình “Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người
nguyên thủy” (2008) đã có những phân tích sâu sắc về tư duy của người nguyên thủy.
Theo đó, trong quá trình tác động vào tự nhiên để sinh sống như bắt cá hay săn mồi
người nguyên thủy xem đó là điềm may rủi và ma thuật. Những sự bất thường trong
cuộc sống khi xảy ra với họ, điều họ bận tâm hàng đầu là yếu tố bất thường và may
rủi. Chẳng hạn như khi họ bị mất mùa, không có mưa hay không đủ nước, con mồi lẩn
trốn các thợ săn, con cá lẫn trốn những ngư dân, phụ nữ trong nhóm người vẫn vô
sinh, trẻ em chết yểu…. người nguyên thủy lập tức kết luận họ là nạn nhân của những
rủi ro hay do một thế lực xấu nào đó ám hại họ. Và đặc biệt là khi cơ may đến, họ lại
chẳng nghĩ ngợi nhiều. Khi xảy ra những biến cố, những rủi ro mới khiến người
nguyên thủy nghĩ tới những yếu tố may rủi và ma thuật. Có thể thấy rằng, từ trong tư
duy thô sơ của người nguyên thủy, trước tác động của môi trường họ cho rằng đó là sự
tác động của những đấng siêu nhiên, đầy huyền năng và cần phải ứng xử trở lại bằng
những hành động ma thuật (Bruhl, 2008).
Năm 2008 tác giả Trịnh Hiểu Vân đã xuất bản công trình Văn hóa nước. Đây là
công trình khá chi tiết về cách ứng xử với nước của người Thái dưới cách tiếp cận văn
hoá sinh thái. Nước không chỉ là nguồn sống thiết yếu mà gắn với nó là những yếu tố
linh thiêng. Người Thái vừa tôn kính vừa sợ hãi nước và có hẳn những luật tục để bảo
14
vệ nguồn nước. Trịnh Hiểu Vân đã phác thảo một nét khái quát văn hoá nước của
người Thái với việc bảo vệ môi trường nước hiện nay. Từ quan niệm về nước, mối
quan hệ của nước với cư trú, sinh kế, yếu tố nước trong tôn giáo tín ngưỡng và nước
trong đời sống xã hội, sự ảnh hưởng của văn hoá nước với môi trường nước. Qua đó,
cần phải xây dựng văn hoá nước với những giá trị mới trong bối cảnh biến đổi khí hậu
hiện nay. Xây dựng được văn hoá nước sẽ giúp con người ý thức được giá trị cũng như
sự cân bằng giữa con người với tự nhiên: cần phải yêu quý nước, tôn kính nước và bảo
vệ môi trường nước (Trịnh Hiểu Vân, 2008).
Những công trình nghiên cứu về ứng xử với nguồn tài nguyên nước, đất và rừng
phần nào cho thấy được tình hình nghiên cứu văn hóa sinh thái của các tác giả trên thế
giới từ trước đến nay rất quan tâm. Những công trình nghiên cứu này đã có sự đóng
góp lớn cho hướng nghiên cứu về văn hóa sinh thái và cũng là nguồn tài liệu quan
trọng cho chúng tôi tham khảo và so sánh khi nghiên cứu về ứng xử với MTTN trong
văn hóa của người Khmer ở ĐBSCL. Các tài liệu về sinh thái văn hóa của các tác giả
ngoài nước mặc dù về điểm chọn nghiên cứu, không gian nghiên cứu của các tác giả
khác với không gian ĐBSCL của Việt Nam nhưng đây là những cứ liệu quý giá có ý
nghĩa rất nhiều giúp chúng tôi tham khảo về phương pháp và thao tác trong quá trình
thực hiện luận án.
1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước
a. Nhóm công trình ứng xử với tự nhiên của một số tộc người trong không gian
văn hóa Việt Nam
Văn hóa ứng xử với MTTN của người Việt và các tộc người thiểu số khác như
người Dao Đỏ, người Thái, người Lào cũng là một hướng nghiên cứu được nhiều tác
giả quan tâm. Trong số các công trình đã khảo sát, chúng tôi tiếp cận được nhiều nhất
là các nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Việt ở các vùng miền trong không
gian văn hóa Việt Nam. Các công trình này giúp chúng tôi có cái nhìn đối sánh khi
nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL.
Đầu tiên là công trình Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên
nhiên do Nguyễn Viết Chức chủ biên (2002) là công trình được các tác giả tập trung
làm rõ mối quan hệ giữa môi trường thiên nhiên và văn hóa ứng xử đối với môi trường
thiên nhiên của người Hà Nội từ truyền thống đến hiện đại. Trước thách thức của toàn
cầu hóa trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tác giả đã đề xuất
một số phương hướng, quan điểm, giải pháp và điều kiện xây dựng văn hóa ứng xử
15
của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên. Đây là một chủ đề mới nhưng chỉ dừng
lại ở một địa phương cụ thể là Hà Nội. Giới hạn cuốn sách đặt ra là dừng lại ở quan hệ
của người Hà Nội chỉ với môi trường thiên nhiên và đặt nó trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa (Nguyễn Viết Chức, 2002).
“Nước trong văn hóa Việt Nam” (2006) của Tô Ngọc Thanh là một bài mở
đầu cho một hội thảo khoa học Văn hóa sông nước miền Trung và văn hóa sông
nước Phú Yên đã chỉ ra những giá trị của nước trong đời sống người Việt. Nước
với những đặc tính mềm mại, uyển chuyển và có cả sức mạnh ma thuật thần bí đã
trở thành yếu tố không thể thiếu trong lễ nghi của người Việt. Đây là dạng bài viết
mang tính chất gợi mở, chưa nghiên cứu sâu về những ứng xử với nước của người
Việt (Tô Ngọc Thanh, 2006).
Trần Thúy Anh với công trình Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của
người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ (2009), tác giả đã cho rằng: văn hóa
Bắc Bộ có tính chất hướng đạo cho cả nước và tính cách người nông dân Bắc Bộ là
tính cách nông dân điển hình. Đối tượng chính nghiên cứu của công trình là người
Việt, chủ yếu là người nông dân Việt ở Bắc Bộ bởi tính cách người Việt ở đây là tính
cách nông dân điển hình. Văn hóa Bắc Bộ có tính hướng đạo cho cả nước nên ứng xử
người Việt Bắc Bộ vì vậy cũng mang tính chất đại diện tiêu biểu cho cả nước Việt
Nam. Thế ứng xử, cách ứng xử quy định các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
giữa con người với con người ở tính chất quan thiết nhất: tính xã hội nhân văn của bản
thân các mối quan hệ này. Đề tài lấy ca dao, tục ngữ làm điểm tựa văn học dân gian để
giải thích, chứng minh cho các luận điểm được nêu ra; qua đó thể hiện sinh động và
sâu sắc diễn trình lịch sử, chiều sâu văn hóa và các sắc thái riêng biệt trong ứng xử của
người Việt với cái tự nhiên bao quanh họ và trong lòng họ, những tiếp biến văn hóa
trong ứng xử cổ truyền với xã hội của học từ trong lịch sử (Trần Thuý Anh, 2009).
Tri thức dân gian về ứng xử với MTTN trong đời sống vật chất người Việt vùng
U Minh Thượng (2011) tác giả Nguyễn Diệp Mai đã miêu tả một số hiện tượng văn
hóa dân gian người Việt vùng U Minh Thượng nhằm hệ thống hóa tư liệu, cung cấp
những thông tin khái quát về tri thức dân gian trong đời sống vật chất thông qua thái
độ ứng xử với MTTN. Qua đó, tác giả đã phân tích, so sánh tìm ra nét chung và riêng
trong từng hiện tượng văn hóa và nêu những giá trị của tri thức dân gian về ứng xử với
16
MTTN của người Việt vùng U Minh Thượng (Nguyễn Thị Diệp Mai, 2011).
Luận án Văn hóa ứng xử với thiên nhiên qua không gian ở của người Việt của
Võ Thị Thu Thủy (2013) đã nhận diện những đặc trưng về văn hóa ứng xử của con
người với thiên nhiên qua các phương diện khai thác, ứng phó và thích ứng với thiên
nhiên thể hiện trong không gian ở của người Việt tại ba miền Bắc, Trung, Nam. Tác
giả đã xác định các giá trị nổi bật và đặc trưng về văn hóa ứng xử với thiên nhiên của
người Việt trong không gian ở, góp phần làm rõ một phần về bản sắc văn hóa dân tộc
thông qua nếp nhà và văn hóa cư trú của người Việt (Võ Thị Thu Thuỷ, 2013).
Nghiên cứu về cư dân và ngư dân vùng biển Nam Bộ dưới góc tiếp cận Nhân học
biển (Maritime Anthropology) có sự đóng góp của Phan Thị Yến Tuyết với công trình
Đời sống xã hội - kinh tế văn hóa của ngư dân và cư dân ven biển Nam bộ (2014). Đây
là một công trình quan trọng về việc nghiên cứu về cộng đồng ngư dân ven biển Nam bộ
dưới góc nhìn Nhân học biển tác giả đã cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện về
MTTN cũng như diện mạo kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng ngư dân và cư
dân sinh sống ở vùng ven biển, hải đảo của 9 tỉnh, thành Nam bộ. Ngoài ra, một số cộng
đồng ngư dân ven biển được tác giả tập trung giới thiệu cụ thể như: Vàm Láng (Tiền
Giang), An Thủy (Bến Tre), Bình An (Kiên Giang),… (Phan Thị Yến Tuyết , 2014).
Nghiên cứu ứng xử với MTTN của một số tộc người qua các tri thức bản địa
còn có nghiên cứu Ứng xử của người Dao Đỏ ở Sapa trong cư trú, khai thác và bảo
vệ rừng, nguồn nước (2015) của Phạm Công Hoan hay công trình Tri thức dân gian
về nước của người Lào ở tỉnh Điện Biên (2015) của các tác giả Đặng Thị Ngọc
Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung. Hai công
trình này nghiên cứu về cách ứng xử của người Dao Đỏ và người Lào với MTTN
như ứng xử với rừng, với nguồn nước v.v. Mỗi tộc người có văn hoá ứng xử khác
nhau với MTTN như trong văn hoá vật thể họ khai thác tự nhiên như khai thác các
loại cây rừng, lá rừng để làm nhà ở, để làm thực phẩm; trong văn hoá phi vật thể họ
có những tín ngưỡng dân gian liên quan đến tự nhiên như lễ cúng bến nước, lễ cúng
rừng mỗi khi họ đốt rừng làm rẫy hoặc sau mỗi vụ thu hoạch. Nhìn chung, các
nghiên cứu này chỉ ra tâm thức và văn hoá ứng xử với MTTN của các tộc người
thiểu số là họ có thái độ trân trọng và có ý thức bảo vệ MTTN khá tốt. Trong cuộc
sống họ nương tựa vào tự nhiên nên họ rất tôn kính tự nhiên dẫn đến họ có các tín
ngưỡng tự nhiên. Các công trình này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên
17
cứu của luận án, là điểm tựa so sánh để chúng tôi nhận diện văn hoá ứng xử với
MTTN của người Khmer ở ĐBSCL (Phạm Công Hoan, 2015); (Đặng Thị Ngọc
Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung , 2015).
Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số tại chỗ ở Đắk Nông (2017) của hai
tác giả Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu (chủ biên) là một công trình nghiên cứu về tri
thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đắk Nông. Công trình được thực hiện theo
hướng nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội như văn học, văn hoá học, nhân học, xã
hội học... đã nghiên cứu về những tri thức bản địa trong ứng xử trong khai thác tự
nhiên: khai thác rừng, khai thác nguồn nước tự nhiên trong các hoạt động: trồng trọt,
chăn nuôi và nghề thủ công của các tộc người M’Nông, Mạ, Ê Đê. Tài liệu là nguồn
tham khảo khá quan trọng để chúng tôi nghiên cứu về dân tộc thiểu số là người Khmer
ở ĐBSCL (Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu , 2017).
Ngoài những nghiên cứu dưới tiếp cận nhân học văn hóa chúng tôi còn tham
khảo một số công trình từ chuyên ngành văn học như:
Nguyễn Thị Kim Ngân (2015) với tập chuyên khảo Thiên nhiên với sắc thái văn
hóa vùng trong ca dao Nam Trung Bộ đã tập trung làm rõ diện mạo của thiên nhiên
trong ca dao miền Trung trên cơ sở phân biệt khái niệm thiên nhiên theo góc độ tự
nhiên và thiên nhiên theo góc độ nghệ thuật. Sử dụng tư liệu là ca dao miền Trung,
công trình tập trung vào các đối tượng: cảnh trời (mặt trời, mặt trăng, sao, mây, gió),
cảnh đất (núi, rừng, sông, hồ,...) cảnh biển (biển, sóng, đảo, vịnh,...) và thế giới động
vật, thực vật. Công trình dừng lại ở khảo sát, thống kê, mô tả những cảnh vật của thiên
nhiên “hoang dã”, không khảo sát thiên nhiên đã được thuần hóa (ruộng lúa, nương
dâu, trâu, bò, gà, vịt, ao…) (Nguyễn Thị Kim Ngân, 2015).
Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian Thái của Đặng Thị Oanh
(2016) đã giải mã biểu tượng nước qua văn hóa dân gian tộc người Thái. Nghiên cứu
này sử dụng hướng tiếp cận văn hóa văn học để nghiên cứu văn hóa ứng xử với nước
của người Thái. Công trình sử dụng tư liệu văn học dân gian Thái để giải mã nước
mang các đặc tính như: tính nữ; không gian thiêng; sức mạnh thanh tẩy, hủy diệt, tái
sinh; dấu hiệu dự báo các hiện tượng tự nhiên, xã hội Thái; chất kết nối tình cảm, thiết
lập và cố kết cộng đồng (Đặng Thị Oanh, 2016).
Nghiên cứu phê bình sinh thái như một hướng nghiên cứu mới thu hút khá
nhiều sự quan tâm của các học giả Việt Nam. Các nghiên cứu này chỉ ra mối quan hệ
giữa văn học và MTTN như tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh lấy tư liệu
18
khảo sát văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 đã trình bày về sự gắn kết của con người với
MTTN từ trong tâm thức đến những biểu hiện trong cuộc sống; quyển Rừng khô, suối
cạn, biển độc…và văn chương – phê bình sinh thái (2017) của Nguyễn Thị Tịnh Thy
giới thiệu khá đầy đủ về lý thuyết, nguồn gốc, phát sinh, sự khác nhau về các quan
niệm, quan điểm phê bình sinh thái. Không dừng lại ở những trình bày khô cứng về lý
thuyết, tác giả còn có những phân tích sâu về các truyện ngắn của một số tác giả Việt
Nam, Trung Hoa và Nhật Bản dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Đóng góp của tác giả
Nguyễn Thị Tịnh Thy thể hiện trong quan niệm “chỉnh thể sinh thái” khi cho rằng mọi
yếu tố không còn là yếu tố mà là chủ thể có giá trị tự thân, độc lập và liên đới nhau,
nếu phá vỡ một chủ thể nào đó sẽ phá vỡ cả chỉnh thể: con người, động vật, cây cối,
đất, rừng, sông, biển, trái đất... (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh , 2016); (Nguyễn
Thị Tịnh Thy , 2017).
b. Nhóm công trình về ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long
Có thể nói, những ghi chép, nghiên cứu về người Khmer đã được thực hiện từ
khá sớm. Trước năm 1975 có công trình tiêu biểu của tác giả Lê Hương nghiên cứu về
người Khmer đó là Người Việt gốc Miên. Đây là công trình sưu tầm và giới thiệu về
nguồn gốc, cách thức sinh hoạt, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của người
Khmer ở Nam bộ. Trong công trình này, tác giả Lê Hương đã giới thiệu bức tranh
tương đối hoàn chỉnh về người Khmer truyền thống ở Nam Bộ. Thông qua các nghi
thức trong đời sống sinh hoạt vật vất và đời sống sinh hoạt tinh thần đã thấy được văn
hóa ứng xử với tự nhiên trong quá trình sinh sống hòa nhập của người Khmer với điều
kiện môi sinh ở Nam Bộ (Lê Hương , 1969).
Sau năm 1975, việc nghiên cứu các dân tộc ít người ở phía Nam, trong đó có
người Khmer ở ĐBSCL được nhiều nhà khoa học quan tâm. Một số vấn đề kinh tế, xã
hội, văn hóa tộc người của người Khmer đã được nghiên cứu một cách khoa học; tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu vẫn còn trong giai đoạn mới hình thành. Trong đó,
phải kể đến công trình Người Khmer Cửu Long (1987) là công trình hợp tác giữa Viện
văn hóa và Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cửu Long, một công trình biên khảo về người
Khmer ở tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh hiện nay. Chương 1 của công trình khái
quát về điều kiện môi sinh, dân cư, đặc điểm sinh hoạt văn hóa vật thể: kinh tế nông
nghiệp, dụng cụ cày bừa, tổ chức nhà ở… thể hiện được cách ứng xử của người Khmer
19
với đất đai, khí hậu. Chúng tôi kế thừa và đây là nguồn tài liệu giúp chúng tôi đối sánh
với những thay đổi trong văn hóa ứng xử với tự nhiên của người Khmer trong giai
đoạn hiện nay (Huỳnh Ngọc Trảng , 1987).
Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ (1988) là tập hợp những bài báo
cáo, tham luận về người Khmer ở Nam Bộ trên các phương diện: dân số, địa bàn cư
trú, tổ chức xã hội, sản xuất nông nghiệp. Các bài viết “Khái quát về người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Thạch Voi, “Văn hóa Khmer trong quá trình
giao lưu và phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Đinh Văn Liên đã khái
quát tương đối đầy đủ về điều kiện môi sinh và quá trình thích nghi của người Khmer
truyền thống với sinh thái của vùng ĐBSCL (Viện Văn Hóa , 1988).
Từ sau năm 1990 trở đi nhiều thành tố văn hóa Khmer được nhiều nhóm tác giả
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Đây là giai đoạn vùng đất ĐBSCL bước vào công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các nhà
khoa học đã có những nhận thức đầy đủ hơn về vai trò và vị trí của dân tộc Khmer
trong sự phát triển của vùng. Mặt khác, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước đối với dân tộc Khmer đã đặt ra những vấn đề cần quan tâm, cần có những
cơ sở khoa học; thêm nữa là những quan hệ tộc người, lịch sử vùng ĐBSCL, cũng cần
có một hiểu biết, một cơ sở nhận thức khoa học liên quan đến người Khmer, một trong
những chủ nhân tham dự công cuộc khai phá vùng đất này. Đó là tất cả những lý do
khiến giai đoạn này có rất nhiều công trình nghiên cứu về các giá trị văn hoá vật thể và
phi vật thể của người Khmer ở ĐBSCL. Trước những yêu cầu thực tiễn đó, việc
nghiên cứu về người Khmer đòi hỏi phải đi vào chiều sâu, kết hợp giữa lý luận, nhận
thức khoa học với thực trạng vùng dân tộc Khmer. Vấn đề nghiên cứu người Khmer
được đặt trong một bối cảnh rộng lớn hơn, gắn với yêu cầu phát triển với công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tình hình đó, nhiều nhà khoa học, nhiều
tổ chức khoa học của các viện, các trường đại học, của một số cơ quan trung ương, địa
phương đã tham gia nghiên cứu, khảo sát thực tế vùng nông Khmer ở ĐBSCL. Các
vấn đề được các học giả quan tâm nghiên cứu xoay quanh vấn đề đói nghèo, giáo dục,
bảo tồn và phát huy các giá trị vật thể và phi vật thể trong đồng bào Khmer Nam Bộ.
Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long (1990) của Viện Khoa học xã hội TP.
HCM là công trình nghiên cứu khá dày dặn, phong phú của nhiều học giả: Nguyễn
Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường cùng khá nhiều cộng tác viên về văn hóa của
các cư dân ở vùng ĐBSCL. Trong đó, chương IV là chương viết về môi sinh và đời
20
sống của dân tộc ít người (chủ yếu là người Khmer), cách ứng phó với điều kiện tự
nhiên của người Khmer ở các địa hình cư trú khác nhau (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân
Diệm, Mạc Đường , 1990).
Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long (1991) do Mạc Đường chủ biên là
công trình tập hợp bài nghiên cứu: “Đặc điểm môi sinh và dân số ở vùng người
Khơme đồng bằng sông Cửu Long” – Đinh Văn Liên, “Một số vấn đề kinh tế - xã hội
của vùng nông Khơme đồng bằng sông Cửu Long” – Phan An, “Một số đặc điểm văn
hóa vật chất của người Khơme và người Chăm ở ĐBSCL” – Phan Thị Yến Tuyết là
các bài nghiên cứu sâu về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh sống của người Khmer ở
ĐBSCL (Mạc Đường , 1991).
Công trình Văn hoá người Khmer đồng bằng sông Cửu Long (1993) là công
trình với sự tham gia của nhiều tác giả như: Trường Lưu, Thạch Voi, Đặng Vũ Thị
Thảo, Huỳnh Ngọc Trảng, Hoàng Túc, Lê Văn. Công trình đã giới thiệu khá đầy đủ về
văn hóa truyền thống của người Khmer ĐBSCL; trong đó, có các bài viết liên quan
đến lễ hội, phong tục tập quán của người Khmer là nguồn tư liệu quan trọng để chúng
tôi tham khảo (Viện Văn Hóa , 1988).
Chúng tôi còn được tiếp cận công trình Nhà ở - trang phục - ăn uống của các
dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (1993) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết. Đây
là công trình viết về văn hóa vật chất của các tộc người ở ĐBSCL và vấn đề ăn, mặc, ở
được tác giả cho là ba phương diện quan trọng nhất đảm bảo đời sống con người. Mặc
dù là văn hóa vật chất nhưng các giá trị tinh thần vẫn được thể hiện tạo nên đặc trưng
văn hóa tộc người (trong đó có người Khmer ĐBSCL) (Phan Thị Yến Tuyết, 1993).
Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long (1998) của tác giả Nguyễn Khắc
Cảnh là công trình khá công phu, hệ thống về phum sóc của người Khmer. Phum, sóc
là đơn vị tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Tác giả trình bày việc
nghiên cứu phum, sóc Khmer dưới nhiều góc độ khác nhau, đó là một đơn vị cư trú
truyền thống của người Khmer, về cấu trúc và chức năng, về những biến động trong
lịch sử. Theo đó, phum là một tập hợp người Khmer dựa trên mối quan hệ huyết thống
là chính, còn sóc là một tập hợp người dựa trên cùng cư trú trên một địa vực nhất định.
Xã hội truyền thống phum sóc của người Khmer đã và đang lùi vào quá khứ, nhường
chỗ cho một cơ chế quản lý hành chính hiện tại. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất
định, một số yếu tố của xã hội truyền thống phum sóc vẫn còn chi phối đời sống của
người nông dân Khmer ở ĐBSCL như tính cộng đồng, tính tự quản v.v… Trong tác
21
phẩm này, tác giả dành chương một để viết về địa lí môi sinh, đặc điểm phân bố dân
cư và cư trú của người Khmer. Nội dung này là nguồn tham khảo giúp chúng tôi có cái
nhìn toàn diện hơn về cách ứng xử với tự nhiên trong vấn về cư trú của người Khmer ở
ĐBSCL (Nguyễn Khắc Cảnh , 1998).
Trần Văn Bổn với công trình Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng
sông Cửu Long (1999) là công trình sơ khảo về phong tục, tín ngưỡng của người
Khmer. Tác giả Trần Văn Bổn tập trung khảo tả một mảng đời sống văn hóa tinh
thần rất phong phú, đa dạng trong đó có một hệ thống lễ nghi, lễ hội. Mỗi người
Khmer từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi đã trải qua nhiều nghi lễ đánh dấu sự
chuyển tiếp và trưởng thành đó là các lễ thức sinh đẻ, kiêng cữ của các bà mẹ và trẻ
sơ sinh, lễ đánh dấu sự trưởng thành của con trai bằng cách vào tu ở chùa khoảng 12
– 13 tuổi (ở con trai) và lễ vào bóng mát (ở con gái); tiếp theo là lễ cưới, và cuối
cùng là lễ tang. Trong một năm, người Khmer có nhiều lễ hội, như lễ mừng năm mới
(Chôl - Chnăm - Thmây), lễ giỗ tổ tiên (Đôlta), lễ cúng trăng (hay còn gọi là lễ đút
cốm dẹp) Ok - Om - Bok và một số nghi lễ Phật giáo như lễ Phật đản, lễ nhập hạ…
Tác giả Trần Văn Bổn đã tập trung miêu tả các nghi lễ, phong tục của người Khmer
và đã có bước giải thích các sự tích, nguồn gốc các lễ nghi dưới góc tiếp cận văn hóa
chức năng. Đây là công trình giúp chúng tôi có nhận thức sâu hơn về văn hóa Khmer
truyền thống. Thông qua tài liệu này, chúng tôi có thể lý giải tâm thức ứng xử với
MTTN của người Khmer qua các phong tục và lễ hội (Trần Văn Bổn , 1999).
Tác giả Nguyễn Khắc Cảnh có bài viết Chùa Khmer Nam Bộ - Công trình nghệ
thuật kiến trúc độc đáo đã trình bày kết quả nghiên cứu văn hoá truyền thống người
Khmer từ góc nhìn về ngôi chùa. Thông qua những điểm nhìn về nhân sinh quan của
người Khmer với tôn giáo được thể hiện qua kiến trúc ngôi chùa, tác giả đã cho thấy
những sự gần gũi, hoà nhập với thiên nhiên trong việc tác tạo khuôn viên nhà chùa của
người Khmer. Sự hoà nhập với thiên nhiên được phản ánh qua việc xây dựng nhà chùa
như những hàng rào tre, cây sao, dầu, thốt nốt được người Khmer trồng xung quanh
chùa như tạo nên một khu rừng nhỏ (Nguyễn Khắc Cảnh, 2008).
Quyển Dân tộc Khmer Nam Bộ (2009) của tác giả Phan An là một công trình góp
thêm nghiên cứu về người Khmer trên phương diện lịch sử và bản sắc văn hóa tộc người.
Quyển sách giới thiệu về điều kiện địa lý, dân cư, đặc trưng cư trú, sinh hoạt kinh tế, văn
hóa xã hội của người Khmer Nam Bộ (Phan An, 2009).
Chính sách đất đai & văn hóa tộc người – nghiên cứu trường hợp tại Sóc Trăng
22
(2011) là kết quả nghiên cứu của hai tác giả Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương thuộc dự
án nghiên cứu của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường. Đây là công trình
nghiên cứu về chính sách đất đai của các dân tộc tại địa bàn Sóc Trăng trong đó có
phân tích khá sâu về việc phân chia, sở hữu và ứng xử với đất đai của người Khmer.
(Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương , 2011).
Huỳnh Thanh Quang cũng là một tác giả có nghiên cứu văn hoá Khmer qua
công trình Giá trị văn hoá Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long (2011). Với
hướng tiếp cận giá trị, công trình của Huỳnh Thanh Quang đã có những phân tích
khá sâu sắc về văn hoá Khmer với sự nhận diện các giá trị trong văn hoá Khmer,
nhận diện những thực trạng, những vấn đề đặt ra trong việc phát huy các giá trị trong
văn hoá Khmer đồng thời nêu lên những phương hướng, giải pháp để tiếp tục phát
huy các giá trị văn hoá trong giai đoạn hiện nay. Cũng trong năm 2011, công trình
nghiên cứu về người Khmer là Văn hoá Khmer Nam Bộ: nét đẹp trong bản sắc văn
hoá Việt Nam các tác giả Phạm Thị Phương Hạnh (chủ biên) là công trình khá hoàn
chỉnh về văn hóa đặc trưng của người Khmer. Tuy nhiên, công trình mang tính khái
quát và chưa tập trung nghiên cứu sâu về văn hóa ứng xử của người Khmer. Hai
công trình này nghiên cứu văn hoá Khmer dưới góc tiếp cận giá trị học góp thêm
những nghiên cứu về đặc trưng, giá trị bản sắc văn hoá Khmer xưa và nay (Huỳnh
Thanh Quang , 2011), (Phạm Thị Phương Hạnh, 2011).
Công trình Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh (2012)
của hai tác giả Trần Dũng và Đặng Tấn Đức là công trình nằm trong chuỗi nghiên cứu
của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhằm sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền
dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các tộc người Việt Nam. Công trình chủ yếu
khảo sát tín ngưỡng và lễ hội dân gian của các tộc người Việt, Hoa, Khmer ở Trà
Vinh. Đề tài chúng tôi nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL
nên tài liệu này cung cấp cho chúng tôi một kênh thông tin về ứng xử với tự nhiên
được thể hiện trong văn hóa tinh thần của tộc người Khmer ở Trà Vinh (Trần Dũng,
Đặng Tấn Đức , 2012).
Là người có nhiều quan tâm đến vấn đề giáo dục trong đồng bào Khmer
ĐBSCL, tác giả Trần Thanh Pôn trong bài viết “Truyền thống giáo dục Phật giáo Nam
Tông Khmer với môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa dân tộc” (2014) có những
bàn luận về vai trò của nhà chùa trong giáo dục ý thức giữ gìn môi trường sinh thái.
Bên cạnh sự cần thiết của việc đào tạo ngôn ngữ, chữ viết, đạo lý làm người thì giáo
23
dục việc giữ gìn môi trường sinh thái trong cộng đồng Khmer là hết sức cần thiết
nhằm giữ gìn và phát huy giá trị trong bản sắc văn hóa Khmer. Đóng góp của bài viết
thể hiện ở khía cạnh tác giả có những đề xuất cần phải có dự án bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa sinh thái trong đồng bào Khmer để có môi trường phát triển bền
vững trong cộng đồng Khmer nói riêng và cộng đồng các dân tộc trên cả nước nói
chung (Trần Thanh Pôn, 2014).
Quyển Lễ hội truyền thống của người Khmer Nam Bộ (2015) của hai tác giả
Tiền Văn Triệu và Lâm Quang Vinh đã góp phần nghiên cứu về các lễ hội truyền
thống của người Khmer ở ĐBSCL. Công trình đã có những miêu tả về không gian,
thời gian cùng với những diễn biến chính của lễ hội của người Khmer. Cùng với sự kế
thừa các công trình đi trước viết về lễ hội truyền thống của người Khmer, quyển sách
còn cung cấp những kết quả điều tra điền dã tại địa bàn Sóc Trăng và Trà Vinh góp
phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL. Công trình
còn có những nghiên cứu mang tính mới khi có những nghiên cứu một cách hệ thống
về lễ hội Phước Biển, lễ hội Đạp cồng – Thác Cuôn (Sóc Trăng), lễ hội đua bò (An
Giang),… (Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh , 2015).
Đề tài về văn hoá người Khmer còn được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu thực hiện đề tài các cấp.
Tác giả Ngô Thị Phương Lan với đề tài mang tên “Sinh kế của người Khmer
ở ĐBSCL trong bối cảnh phát triển hiện nay” được thực hiện cấp Đại học Quốc gia
TP. HCM với mã số đề tài C2016-18B-06. Đến năm 2019, tác giả Ngô Thị Phương
Lan (chủ biên) công bố công trình Sinh kế và biến đổi văn hoá của người Khmer ở
huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh trình bày về các yếu tố tác động đến sinh kế; các động
thái sinh kế; sinh kế và các biến đổi sinh kế của người Khmer. Trong công trình
này, tác giả cùng với các đồng tác giả có trình này đến các nhân tố ảnh hưởng đến
sinh kế của người Khmer trong đó có những thách thức đến từ MTTN đã ảnh
hưởng rất lớn đến việc biến đổi sinh kế của người Khmer (Ngô Thị Phương Lan ,
2019).
Liên quan trực tiếp đến đề tài, tính đến thời điểm hiện nay, chúng tôi khảo sát
được một số nghiên cứu dưới dạng bài báo được công bố trên tạp chí của các tác giả:
Phan Thị Yến Tuyết, Hứa Sa Ni và Phan Anh Tú. Kết quả nghiên cứu của các tác giả
này cho rằng trong quan niệm của người Khmer, nước không chỉ là yếu tố thiết yếu để
24
sinh hoạt thường nhật như: ăn, uống, làm ruộng, trồng hoa màu, ... mà còn trở thành
một biểu tượng mang tính linh thiêng trong sinh hoạt văn hóa tinh thần: tín ngưỡng,
tôn giáo, phong tục, lễ hội (Phan Thị Yến Tuyết, 2006), (Hứa Sa Ni , 2015), (Phan
Anh Tú , 2017).
Nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Khmer, chúng tôi còn vận dụng
hướng tiếp cận liên ngành cụ thể là sử dụng nguồn tư liệu văn học dân gian Khmer để
làm rõ hơn tri thức bản địa của người Khmer trong ứng xử với tự nhiên. Nhóm công
trình này là sự tổng hợp, khảo sát từ các thể loại văn học dân gian của nhiều tác giả khác
nhau:
Huỳnh Ngọc Trảng với Truyện dân gian Khmer Nam Bộ xuất bản năm 1987 là
một công trình gồm các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện cười...
Thông qua những câu chuyện kể này chúng tôi có thể khai thác được yếu tố văn hóa
ứng xử mới MTTN của người Khmer. Bên cạnh đó, chúng tôi còn khảo sát các công
trình văn học dân gian Khmer của tác giả sưu tầm như: tác giả Tiền Văn Triệu đã có
công trình sưu tầm về thần thoại, truyền thuyết và sự tích của người Khmer được in
trong Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng (2011). Tư liệu văn học dân gian Khmer
giúp chúng tôi nhận diện tâm thức của người Khmer trong ứng xử với tự nhiên khi nói
về nguồn gốc tộc người Khmer hay những ứng xử với đất, nước, núi, ao, hồ trong quá
trình lao động sản xuất đã tác động vào tự nhiên và đã có sự cư xử hài hòa với tự nhiên
(Huỳnh Ngọc Trảng , 1987), (Tiền Văn Triệu , 2011).
Tất cả các nghiên cứu của các tác giả trong nước về của người Khmer ĐBSCL
có ý nghĩa quan trọng giúp chúng tôi tham khảo và nhận diện một bức tranh tổng thể
về tộc người Khmer, không gian cư trú của tộc người Khmer, văn hoá ứng xử với môi
trường tự nhiên của người Khmer ở ĐBSCL. Các công trình không nghiên cứu cụ thể
về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer còn khá ít ỏi và nếu có phần nhiều tập
trung vào những mô tả, phân tích về văn hoá ứng xử với những thành tố của MTTN
như ứng xử với đất, ứng xử với nước; đặc biệt nhất là những công trình nghiên cứu
văn hoá ứng xử với nước của người Khmer ĐBSCL thong qua những lễ hội liên quan
đến nước như Ok - Om - Bok của các tác giả Phan Thị Yến Tuyết, Hứa Sa Ni là những
thông tin hữu ích giúp chúng tôi tham khảo để nghiên cứu cho luận án. Mặc dù có một
số lượng lớn các nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL, văn hoá ứng xử với tự nhiên
của người Khmer nhưng tính đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một công trình nào
25
nghiên cứu cụ thể về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL. Kết quả
nghiên cứu của luận án này hi vọng sẽ góp thêm một nghiên cứu tập về MTTN của
người Khmer ở ĐBSCL trên sở sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Văn hoá (culture)
Văn hoá là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Đến nay đã có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về văn hoá. Có thể nói, tuỳ vào quan điểm tiếp cận, tuỳ vào chuyên
ngành tiếp cận mà mỗi định nghĩa về văn hoá sẽ có những nội hàm khác nhau. Văn
hoá thực sự được nghiên cứu từ rất sớm tuy nhiên đến năm 1871 khái niệm văn hoá
mới được nêu lên bởi nhà nhân học Edward B. Tylor trong công trình Văn hoá nguyên
thuỷ: “Văn hoá hay văn minh, hiểu theo ý nghĩa dân tộc bao quát của nó, là một tổng
thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục
và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con người với tư cách thành viên
của xã hội” (Edward B. Tylor , 2000), tr. 13. Theo định nghĩa này, Tylor chưa phân
biệt sự khác nhau giữa văn hoá và văn minh và đồng nhất văn hoá với văn minh trong
khi cách hiểu hiện nay về văn hoá lại có sự phân biệt khác nhau rõ rệt văn hoá và văn
minh. Văn hoá là tất cả những hoạt động của con người, nằm ngoài và khác với tự
nhiên.
Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh cho rằng: “hai tiếng văn hoá chẳng qua là
chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng:
Văn hoá tức là sinh hoạt (Đào Duy Anh , 2003).
Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là
một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình” (Trần Ngọc Thêm, 2006), tr. 25.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá nhưng có thể tạm quy về hai loại
Văn hóa hiện theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử… Văn hóa hiểu
theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn và tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà
có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ, xét từ khía cạnh tự nhiên thì văn hóa là “cái tự
nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều
là văn hóa”. Văn hoá chính là sản phẩm của con người. Con người thoát khỏi tự nhiên
26
khi nào thì từ đó có sự xuất hiện của văn hoá (Nguyễn Từ Chi , 2003), tr. 55.
Từ các định nghĩa khác có thể thấy có 3 cách hiểu nhau về văn hoá:
Thứ nhất: văn hoá được hiểu là những phong tục, nếp sống và kiểu định nghĩa
này đại diện là của E. B. Tylor.
Thứ hai: văn hoá được hiểu là sự ứng xử trong đó có sự khác nhau giữa văn hoá
ứng xử với xã hội và văn hoá ứng xử với tự nhiên. Dạng định nghĩa này chỉ rõ mối quan
hệ khăng khít giữa con người và tự nhiên, con người là một cá thể không tách bạch với tự
nhiên mà nương tựa vào tự nhiên, từ tự nhiên, thoát khỏi tự nhiên và tạo ra các giá trị văn
hoá. Đại diện cho dạng định nghĩa này là các định nghĩa của các tác giả Trần Ngọc Thêm
và Nguyễn Từ Chi.
Thứ ba: văn hoá là những sinh hoạt bao gồm các tập tục, phong tục, tín ngưỡng
và các thói quen của con người. Đây là cách hiểu tiêu biểu mà Đào Duy Anh đã sử
dụng.
Mỗi định nghĩa, mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm và hạn chế khác nhau.
Các cách tiếp cận không mâu thuẫn nhau mà hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tuỳ vào đối
tượng nghiên cứu, bối cảnh nghiên cứu mà có thể dựa và cách tiếp cận nào cho phù
hợp. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng cách tiếp cận văn hoá là sự ứng xử
(behaviour).
Văn hoá là một chỉnh thể. Văn hoá không thể tồn tại biệt lập nếu không có các
yếu tố tạo thành như con người và môi trường tác động. Theo cách tiếp cận này, Trần
Ngọc Thêm chia văn hoá thành 4 thành tố: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức, văn
hoá ứng xử với MTTN, văn hoá ứng xử với môi trường xã hội.
Đây là cách tiếp cận hợp lý và phù hợp với đề tài. Xét về định nghĩa văn hoá,
Nguyễn Từ Chi cho rằng văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay
“tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”; hay Trần Ngọc Thêm “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình”. Trong hai định nghĩa này đều nhắc đến mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên.
Con người sống và tồn tại qua quá trình tác động vào tự nhiên, biến đổi tự nhiên
để tạo ra các giá trị phục vụ con người. Các giá trị đó chính là văn hoá. Con người
27
sống cần các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở và đi lại, con người tác động vào tự nhiên
(thực vật, động vật, nước, đất…) để tạo ra thức ăn, làm nhà để ở, tạo ra trang phục để
che thân và để ứng phó với thời tiết, khí hậu.
1.2.1.2. Văn hóa ứng xử (behaviour)
Từ ứng xử trong tiếng Anh là Behaviour (từ điển Anh – Anh), Behavior (từ
điển Anh – Mỹ): là cách ai đó đối xử với con người, động vật, thực vật và các hoạt
động khác trong những trường hợp nhất định.
Ứng xử (behaviour) còn được một số học giả ở Việt Nam cho là “hành vi”.
Nếu đối với động vật, các nhà sinh học Việt Nam có lúc dịch là “hành vi”, khi khác
cho là “tập tính”.
Ứng xử (behaviour) còn được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học. Tâm lý học
ứng xử buổi đầu được đại diện bởi thuyết ứng xử (Behaviourism) đầu thế kỉ XX. J.B.
Watson cho là chỉ nên quan sát mối kích động bên ngoài đã gây ra phản ứng (ứng xử
bằng hành động nào đó) tác động qua lại giữa chủ thể và MTTN, môi trường xã hội.
Watson và các nhà hành vi chủ nghĩa đã bỏ qua những suy diễn về nội tâm mà hầu như
chỉ xét đến hành vi máy móc (P. Wesley Schultz , 2002).
Quan niệm giản đơn hơn của trường phái thuyết ứng xử Mỹ sau này được điều
chỉnh trong khuynh hướng tâm lí ứng xử của B.F. Skinner đã vận dụng thêm những
khái niệm ngôn ngữ, tư duy, ý thức một cách khách quan. Theo ông, những kích động
bên ngoài không tạo ra phản ứng (ứng xử) một cách máy móc mà chỉ có tác dụng
chuyển lực những tiềm năng. Thuyết tâm lí ứng xử được vận dụng để nghiên cứu ứng
xử tự nhiên và xã hội của con người (P. Wesley Schultz , 2002).
Trong xã hội học, ứng xử dùng để chỉ cách hành động (và nói) như thế nào đó
của một vai trò xã hội này đối diện với một vai trò khác. Và đó là những hành động
hoặc gọi là phản ứng theo một cách tương đối. Ứng xử không chỉ giới hạn các vai trò
xã hội với nhau còn ứng xử với mình, ứng xử với đồ vật, với tự nhiên (Barker, 2011).
Bên cạnh những nghiên cứu về ứng xử như là những hành vi, tác động còn có
những nghiên cứu về ứng xử như là lối sống, trong một chừng mực nhất định, là cách
ứng xử của những người cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan
quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của
con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư (Phạm Đức Dương , 2013).
Một quan điểm khác cũng xem ứng xử như một hệ giá trị, như là phép đo chuẩn
mực trong quá trình tương tác giữa con người với con người và giữa con người với
28
ĐBSCL. Như Hồ Sĩ Vịnh cho rằng “Văn hoá ứng xử là một bộ phận của văn hoá đạo
đức và nhân cách con người. Đó là những hành vi, lời nói, phương thức tiến hành một
cách văn minh, lịch sự, đẹp, thích hợp trong việc giao tiếp với gia đình, cộng đồng xã
hội, đối với môi trường sinh thái và MTTN (Hồ Sĩ Vịnh, 2006), tr. 67.
Với phương pháp hệ thống cấu trúc – loại hình, Trần Ngọc Thêm cho rằng các
giá trị văn hoá gồm có 3 loại: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức và văn hoá ứng xử.
Văn hoá ứng xử xét về đối tượng ứng xử có thể chia thành văn hoá ứng xử với MTTN
và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội. Cụ thể là “Cộng đồng người (chủ thể văn
hoá) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường – MTTN (thiên nhiên,
khí hậu,...) và môi trường xã hội (các dân tộc, quốc gia láng giềng)”. Con người không
thể nào sống ngoài MTTN và môi trường xã hội. Sự tác động vào MTTN là một sự
thích nghi. Sự thích nghi này nếu tương hợp sẽ tận dụng để tạo ra các giá trị trong ăn,
mặc, ở và đi lại; nếu không tương hợp sẽ ứng phó như ứng phó với thời tiết, với
khoảng cách và với những điều kiện không có lợi cho con người hay cụ thể hơn là ứng
phó với những yếu tố phi giá trị của con người (Trần Ngọc Thêm, 2006), tr 26.
Như vậy, ứng xử (behaviour) từng là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên
ngành khác nhau như tâm lý học, sinh học, xã hội học v.v. và trong chuyên ngành văn
hoá học, ứng xử được nghiên cứu như một “hành vi” tạo nên một thói quen trong tâm
tính một tộc người. “Hành vi” này cần trải qua một thời gian nhất định, được cộng
đồng tộc người công nhận và trở thành đặc trưng văn hoá của tộc người đó.
Văn hoá ứng xử là hệ thống các quan hệ tương tác, các phản ứng được thực
hiện bởi con người để thích nghi với môi trường (tự nhiên và cộng đồng). Qua sự
tương tác, tác động để thích nghi hay để ứng phó sẽ tạo ra các giá trị văn hoá. Kế thừa
nghiên cứu về văn hoá ứng xử của các tác giả đi trước, khái niệm văn hoá ứng xử với
MTTN được sử dụng để nghiên cứu cho luận án này theo chúng tôi là: Văn hoá ứng
xử với MTTN là sự thích nghi và sự ứng phó với MTTN để tạo ra các giá trị văn
hoá.
1.2.1.3. Môi trường tự nhiên (environment)
Môi trường - environment (từ điển Anh - Anh) có nghĩa là những điều kiện ảnh
hưởng đến cách cư xử, sự phát triển của ai đó hoặc cái gì đó, những điều kiện vật lý
mà ai đó hoặc cái gì đó tồn tại bên trong nó. Một thế giới tự nhiên mà ở đó con người,
động vật và thực vật sinh sống.
Tự nhiên - nature (từ điển Anh - Anh) có nghĩa là tất cả thực vật, động vật, thực
29
thể tồn tại ở toàn cầu và không được tạo nên bởi con người. Tự nhiên có một phạm vi
bao quát rộng lớn: vũ trụ, thiên hà, thế giới vật lý, thế giới sinh học. Đó là đá, đất, nước,
không khí, quặng, các chất trong hành tinh, ngoài hành tinh, trên mặt đất, dưới lòng đất,
biển, ao, hồ... và tất cả các sinh vật kể cả con người. Song hành cùng mối quan hệ xã
hội, với chính mình và với quá khứ (hay lịch sử, hoặc còn gọi là chiều tâm linh), mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên là một nội dung rất quan trọng của đời sống văn
hóa. Con người tồn tại và phát triển trong, cùng và với MTTN.
Con người tồn tại trong tự nhiên, cùng phát triển với MTTN, mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa. Vật chất trong
con người do MTTN cung cấp, không khí con người hít thở, nước con người uống đều
lấy từ MTTN, thức ăn của con người cũng vậy. Tự nhiên đang thay đổi chậm chạp và
điều đó có liên quan đến con người trong mọi lĩnh vực hoạt động. Vấn đề cơ bản là
xác định vị trí con người trong tự nhiên và mối quan hệ của con người với tự nhiên.
Con người cũng có phần tự nhiên (bản năng, bẩm sinh...) và con người bao giờ cũng
phải sống với tự nhiên.
Như vậy, tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải do ý muốn, hiểu biết
và sáng tạo của con người. Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm những
thực thể - hiện tượng tự nhiên mà cơ thể, quần thể, loài (quần xã) có quan hệ trực tiếp,
trước hết bàng các mối quan hệ thích nghi, rồi sau đó mới là biến đổi. MTTN là một
bộ phận trong môi trường lớn, là tổng thể các nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta
như bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng sản,
bức xạ mặt trời...
Vậy, MTTN là gì?
Theo quan niệm sinh học: MTTN được coi là tất cả những gì bao quanh các
sinh thể, gồm các yếu tố vô sinh và hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự
sống, sự tồn tại, phát triển và sinh sản của sinh vật (môi trường đất, môi trường nước,
môi trường không khí, môi trường bức xạ, ánh sáng, nhiệt độ và môi trường sinh vật).
Mọi sinh vật luôn có xu hướng thích nghi và biến đổi.
Tóm lại, MTTN là nơi các quá trình sống phải thích nghi và bảo tồn. Trong
MTTN có sự vận động của các quy luật vật lý giữa đất, nước, không khí và sự tương
tác giữa các vật thể vật lý, các sinh thể. Sự thích nghi là một loại hình ứng xử và để tồn
30
tại, mọi sinh vật đều dựa vào tự nhiên, có quan hệ với môi trường sống chung quanh.
1.2.1.4. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
Văn hoá ứng xử với MTTN đã được quan tâm trong những nghiên cứu về văn
hoá. Như Nguyễn Xuân Kính (2003) từng cho rằng:
Con người tồn tại trong môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái
nhân văn và môi trường xã hội. Trong đó, môi trường sinh thái tự nhiên là
không khí, ánh sáng, mặt trời, gió, mưa, nóng, lạnh, núi, rừng (tự nhiên),...
là chưa có sự tác động, chưa có dấu ấn bàn tay và trí não của con người;
Môi trường sinh thái nhân văn là môi trường sinh thái đã có sự tác động của
con người: nhà ở, công viên, ao hồ, sông đào, rừng do con người trồng, đê
do con người đắp..; Môi trường xã hội là mối quan hệ và liên hệ giữa các cá
thể người, là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Con
người sống trong môi trường, tác động vào môi trường và có thể làm biến
đổi môi trường (Nguyễn Xuân Kính, 2003) tr. 9.
Với cách tiếp cận lịch sử - văn hóa, địa - văn hóa, Trần Quốc Vượng đã có
những nghiên cứu về vấn đề môi trường qua các vùng miền ở Việt Nam. Tác giả đã có
nghiên cứu về triết lý môi trường và cho rằng:
Con người muốn tồn tại phải có môi trường sống. Một văn hoá muốn phát
triển không thể thiếu điều kiện tự nhiên - với cảnh quan và môi trường sinh
thái.v.v. Nghiên cứu một tộc người không thể nghiên cứu tách biệt như một
thực thể độc lập, không gắn gì với môi trường văn hoá là không được (Trần
Quốc Vượng, 2005) tr.14.
Khi nghiên cứu về văn hóa và văn hóa Việt Nam với cách tiếp cận hệ thống -
loại hình, Trần Ngọc Thêm cũng đã chỉ ra văn hoá ứng xử với MTTN. Theo Trần Ngọc
Thêm, nền văn hoá phương Đông và phương Tây có sự đối lập nhau trong cách ứng xử
với MTTN. Người phương Đông thuộc văn hoá trọng tĩnh, thiên về văn hoá gốc nông
nghiệp nên cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nên đã có ý thức tôn trọng tự nhiên
và hướng đến sống hòa hợp với tự nhiên. Như người Việt Nam hay có câu cửa miệng là
“lạy trời’’, “ơn trời’’, “nhờ trời’’: “Lạy trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng
tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp’’; “Ơn trời mưa nắng phải thì, Nơi thì bừa
cạn nơi thì cày sâu’’ (Trần Ngọc Thêm, 2006) tr. 39.
Phạm Đức Dương với nghiên cứu “Con người và môi trường từ góc nhìn văn
31
hóa học” đã chỉ ra mối quan hệ gắn kết giữa con người và tự nhiên. Trong đó, tác giả
trình bày quan niệm về tự nhiên có sự khác biệt trong nền văn hóa phương Tây và
phương Đông. Người phương Đông với truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước nên
cần nương nhờ vào tự nhiên và từ đó có cách ứng xử hài hòa với tự nhiên. Cách ứng
xử với tự nhiên đã trở thành nhân tố mang tính quyết định đối với nhân cách văn hóa -
một hệ giá trị đạo đức khu biệt với giá trị sử dụng và gắn chặt hơn với giá trị thẩm mỹ
và được đo bằng những thước đo của hệ thống bậc thang giá trị với những chuẩn mực
được xã hội thừa nhận (Phạm Đức Dương, 2002).
Khi nghiên cứu về văn hoá tộc người, Ngô Văn Lệ cũng có đề cập đến mối liên
hệ giữa hệ sinh thái và tộc người, mối liên hệ biện chứng của sự phát triển giữa con
người và tự nhiên. Mỗi tộc người được hình thành và phát triển trên một lãnh thổ với
những điều kiện địa lý tự nhiên nhất định. Điều kiện tự nhiên nơi tộc người đó sinh
sống chi phối ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tộc người, được thể hiện qua các
yếu tố văn hóa vật chất văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội (Ngô Văn Lệ, 2003).
Trong buổi bình minh lịch sử nhân loại, khi con người chưa có khả năng khắc
phục những trở ngại do thiên nhiên gây ra thì chính những yếu tố địa lý tự nhiên ảnh
hưởng sâu sắc đến việc hình thành các chủng tộc và phân bố dân cư. Những điều kiện
địa lý nơi tộc người cư trú có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển, không chỉ trong quá
khứ, khi khả năng khắc phục còn hạn chế mà ngay cả trong thời đại hiện nay, khi con
người được sự giúp sức của các thành tựu khoa học.
Trong những nghiên cứu trước đây, ta thường chỉ xem xét và coi trọng mối
quan hệ giữa con người với con người và xem thường mối quan hệ giữa con người và
MTTN. Tuy nhiên, từ trong thực tế xa xưa, con người đã rất ý thức mối quan hệ giữa
con người và MTTN, đã biết khai thác những nguồn lợi của thiên nhiên để tồn tại và
phát triển, nhưng không phải khai thác đến mức kiệt quệ mà thường kết hợp một
cách hài hòa giữa khai thác và bảo vệ. Các tộc người thường có những quy định khá
chặt chẽ cho các thành viên của họ trong quá trình khai thác và săn bắt, ví dụ như
cộng đồng chỉ được chặt những loại cây nào, săn những loại thú nào. Thành viên
cộng đồng nào vi phạm sẽ bị căn cứ vào những luật tục để xét xử. Những biện pháp
như vậy có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ sinh thái nơi các tộc người sinh sống,
tạo nên sự gắn bó, sự hài hòa giữa con người và MTTN.
Từ khi chuyển từ hoạt động kinh tế chiếm đoạt sang hoạt động kinh tế sản xuất là
lúc bắt đầu những tác động tiêu cực của con người với môi trường xung quanh. Do sự
32
gia tăng về dân cư nên nhu cầu lương thực ngày một nhiều dẫn đến khai thác đất đai một
cách ồ ạt, làm ô nhiễm đất, nước và phá huỷ sự cân bằng của môi trường. Sự tác động
tiêu cực đến môi trường ngày càng tăng lên khi các nhà máy mọc lên khắp nơi, những
cuộc chiến tranh tàn khốc, những vấn đề kinh tế - xã hội của những nước nghèo làm cho
vấn đề môi trường vốn đã khó khăn phức tạp càng khó khăn phức tạp hơn (Ngô Văn Lệ,
2017).
Quan niệm về văn hoá ứng xử với MTTN đã được các nghiên cứu của rất nhiều
tác giả đề cập đến. Trong đó, các tác giả có phản ánh sự khác biệt giữa quan điểm của tư
duy phương Đông và phương Tây có sự khác nhau trong ứng xử với MTTN. Do chiến
lược kiếm thức ăn khác nhau trong thời gian dài, giữa con người phương Tây và phương
Đông đã hình thành rất nhiều phương thức ứng xử khác nhau đối với MTTN nói riêng
và môi trường sinh thái nói chung. Cách ứng xử tín ngưỡng, tôn giáo trong đánh giá và
nhận thức thiên nhiên Thiên chúa giáo, Tin lành giáo ở phương Tây và Phật giáo, Đạo
giáo ở phương Đông đều có cách ứng xử riêng với thiên nhiên tạo nên một truyền thống
văn hóa.
Các thay đổi công nghệ mới làm cho các hệ thống quản lý và ứng xử cổ truyền
suy giảm đi: các xã hội bộ lạc cổ xưa có một thái độ thành kính và tôn giáo đối với
thiên nhiên và ứng xử với mọi thứ trong thiên nhiên như một niềm kính trọng thiêng
liêng. Họ có tục thờ cây đa, bến nước và không ăn thịt chim, thịt những con vật thờ.
Thái độ ứng xử biết ơn và trân trọng tự nhiên đã ăn sâu vào tập quán xã hội.
Như vậy, tuỳ vào tâm thức văn hoá của tộc người khi họ đứng từ tư duy phương
Đông hay phương Tây sẽ có cách ứng xử khác nhau với MTTN. Từ những tiếp cận
quan điểm của các tác giả, theo chúng tôi cho rằng: Văn hoá ứng xử với MTTN là
một quá trình tương tác qua lại giữa con người với tự nhiên nhằm tạo ra các giá trị
vật chất và tinh thần.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
1.2.2.1. Thuyết sinh thái văn hoá (cultural ecology)
Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là một thuật ngữ tương đối còn khá mới
trong ngành nghiên cứu văn hoá. Để đi đến lý thuyết về sinh thái văn hoá cần điểm
qua những tiền đề đã dẫn đến sự xuất hiện và những tên tuổi đã đề ra lý thuyết này.
Trước hết phải kể đến lý thuyết vùng văn hoá (culture area). Vùng văn hóa là
khái niệm chỉ một vùng lãnh thổ, một khu vực địa lý có sự tương đồng về môi trường
33
tự nhiên; có quá trình lịch sử lâu dài, ở đó có các dân tộc cư trú khá lâu đời và trong
quá trình đó ngoài bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc còn giữ được, còn thể hiện
sự tương đồng chung về kinh tế, văn hóa, xã hội nên đã tạo thành sắc thái văn hóa đặc
trưng của vùng. Thuyết vùng văn hoá đã xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ XX tại Mỹ.
Từ những ý kiến của F. Boas (đánh giá thấp thuyết khuếch tán văn hoá), các nhà nhân
chủng học C. Wissler và A.L.Kroeber đã phản đối thuyết khuếch tán văn hoá (cultural
diffusion) và đề ra thuyết vùng văn hoá. Tìm hiểu vùng văn hóa có thể thấy được dấu
ấn văn hóa của con người, thấy được đặc trưng văn hóa của con người trong quá trình
lịch sử và trên một vùng không gian cụ thể. Qua đó có thể phân biệt được văn hóa của
vùng này với vùng khác, so sánh những yếu tố văn hóa nào tương đồng, những yếu tố
nào dị biệt. Qua nghiên cứu vùng văn hóa, người ta có thể thấy được sự thích nghi của
con người với MTTN, sự thích nghi với hệ sinh thái, nơi mà con người sinh sống lâu
đời cũng như sự thích nghi của họ với môi trường xã hội mà họ cùng sinh sống
(Barker, 2011).
Từ những nghiên cứu tiền đề của A. L. Kroeber, một người học trò của ông là
Julian Steward đã có sự phát triển và đề xuất thuyết sinh thái học văn hóa (cultural
ecology). Mặc dù từng học A. Kroeber nhưng J. Steward lại thuộc trường phái phê
phán phương pháp thực chứng cá biệt của chủ nghĩa lịch sử vốn được F. Boas đặt nền
móng và A. Kroeber phát triển. Khác với quan điểm thực chứng cá biệt, J. Steward
quan tâm đến những đặc tính chung của các nền văn hóa cách xa nhau về địa lý. Về
tiến hóa luận, ông phê phán thuyết tiến hóa đơn hệ của Morgan và thuyết tiến hóa
chung của L. White. Theo ông, mỗi nền văn hóa có cách tiến hóa khác nhau tùy thuộc
vào những điều kiện đặc thù của nền văn hóa đó. Để chứng minh điều này, ông tiến
hành nghiên cứu so sánh các cách tiến hóa của nhiều nền văn hóa qua phân tích quá
trình phát triển lịch sử của mỗi nền văn hóa. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của môi trường trong sự biến đổi mang tính tiến hóa của văn hóa. Ông gọi
nghiên cứu của mình là sinh thái học văn hóa (cultural ecology) và nghiên cứu văn hóa
theo lập trường của tiến hóa đa hệ.
J. Steward là người có sự quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa con người,
môi trường, kỹ thuật, cấu trúc xã hội cũng như cách thức tổ chức công việc. Ông đã
dành nhiều thời gian để tiến hành nhiều đợt điền dã khảo cổ ở California, Nevada,
Idaho và Oregon. Từ năm 1935, J. Steward xuất bản nhiều công trình có giá trị, trong
34
đó có công trình Các nhóm chính trị xã hội thổ dân vùng thung lũng-cao
nguyên (Basin-Plateau Aboriginal Sociopolitical Groups), xuất bản năm 1938 và đến
năm 1955 xuất bản công trình Lý thuyết về biến đổi văn hóa – Phương pháp luận về
tiến hóa đa hệ (Theory of Cuture Change – The Methodology of Multilinear
Evolution) thể hiện khá đầy đủ lý thuyết về sinh thái học văn hóa, đánh dấu bước
chuyển biến mới của nền nhân loại học Mỹ (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard,
2010).
Thuyết tiến hóa đa tuyến do Steward đề xuất là một nỗ lực để tránh tính phổ
quát và những quan điểm mơ hồ của thuyết tiến hóa đơn tuyến. Tiến hóa đa tuyến
tránh các khó khăn đó bằng cách thừa nhận những quỹ đạo đa dạng của tiến hóa công
nghệ và xã hội ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Những quỹ đạo đó về cơ bản bị
giới hạn bởi các thực trạng sinh thái, bởi những quyết định mang tính lịch sử về công
nghệ và những yếu tố hạn chế của MTTN có tầm quan trọng hơn rất nhiều. Do đó,
thuyết tiến hóa đa tuyến gắn chặt với tư tưởng của sinh thái học văn hóa.
Thuyết tiến hóa đa tuyến của J. Steward thoạt nhìn có vẻ hoàn toàn đối lập với
thuyết tiến hóa chung của L. White, nhưng thực ra có không ít điểm tương đồng, đó là
cùng tiếp nhận quan điểm về tiến hóa, cùng đặc biệt coi trọng kỹ thuật, xem đó như là
chìa khóa để hiểu tính đa dạng của văn hóa và tổ chức xã hội. Thuyết tiến hóa đa tuyến
của J. Steward là sự bổ sung cần thiết cho quan điểm tiến hóa văn hóa, trong đó những
quan điểm và phương pháp nghiên cứu về sinh thái văn hóa, về những đặc điểm có
tính quy luật của biến đổi văn hóa thực sự có đóng góp lớn cho ngành nhân loại học
văn hóa. Theo J. Steward, trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ thuộc rất
nhiều vào tự nhiên. Ở các xã hội có trình độ càng thô sơ thì xã hội đó càng phụ thuộc
nhiều vào MTTN; bởi vì, ở những xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật cao, con người
tương đối một phần nào đã chinh phục được tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ theo ý
muốn của con người để rồi trên bối cảnh sinh thái đó, con người trải nghiệm, sáng tạo
văn hóa và kỹ năng sinh sống của cộng đồng mình dựa trên tâm lý và bản sắc văn hóa
của dân tộc. Từ những thành tựu văn hóa có được qua sự thích nghi môi trường sinh
thái tại chỗ, có thể hình thành nên những loại hình văn hóa như là một tập hợp những
sắc thái văn hóa đặc trưng và tạo nên yếu tố cốt lõi của nền văn hóa. Qua nghiên cứu
sinh thái văn hóa, người ta sẽ hiểu được cách con người sử dụng văn hóa để thích nghi
với môi trường cụ thể ra sao. Sinh thái văn hóa là cách con người sử dụng văn hóa để
thích nghi với MTTN mà họ tồn tại. Trong lý thuyết sinh thái văn hóa, con người có
35
thể thích nghi để tồn tại bằng những tri thức riêng của họ. Những tri thức đó thuộc về
bản sắc văn hoá tộc người và có thể truyền thừa qua các thế hệ. Các tri thức này còn có
thể được trao đổi, chuyển giao qua lại giữa các tộc người cùng sinh sống trên một khu
vực địa lý nhất định.
Tóm lại, Steward được xem như là kiến trúc sư về thuyết tiến hóa đa tuyến
nhưng các lí thuyết của ông cũng có những nền tảng dựa trên thuyết khuếch tán văn
hóa. Chúng tôi sử dụng thuyết văn hóa sinh thái để làm cơ sở lý thuyết cho luận án bởi
vì điểm đặc biệt của Steward so với các học giả đi trước là ông đã nhấn mạnh đến việc
so sánh xuyên văn hoá và những chuyên khảo của ông quan tâm đến loại hình văn
hoá. Lý thuyết sinh thái của Steward đáng được chúng tôi vận dụng, học hỏi bởi các
điểm sau:
Thứ nhất: phương pháp sinh thái văn hoá ông đề ra không phải dựa trên quan
điểm quyết định kinh tế cứng nhắc. Ông đã xem nó như một cách để phân tích xã hội,
một cách để hiểu các dữ liệu văn hoá.
Thứ hai: lý thuyết này cho rằng các nền văn hoá được định hình bởi nhiều yếu
tố khác nhau chứ không phải chỉ có yếu tố môi trường và kĩ thuật. Ở điểm này đã có
những tiến bộ và hợp lý hơn so với thuyết xem môi trường là điều kiện quyết định duy
nhất và tuyệt đối đến một nền văn hóa.
Mặc dù lý thuyết sinh thái văn hoá J. Steward được đề xuất trên kết quả nghiên
cứu về các chủ thể (các tộc người thổ dân) ở các điểm nghiên cứu (California, Nevada,
Idaho và Oregon) có phần khác biệt với chủ thể (tộc người Khmer) và không gian
nghiên cứu của luận án (vùng ĐBSCL) nhưng tư tưởng, phương pháp luận của thuyết
này là đáng để học hỏi và vận dụng cho luận án. Hiện nay có rất nhiều quan điểm liên
quan đến thuyết nghiên cứu văn hóa sinh thái trong giới khoa học. Việc nhận thức con
người là một bộ phận của giới tự nhiên, sống và tương tác với tự nhiên đã khiến nhiều
nhà nghiên cứu nhân học, văn hóa học bàn đến nhiều về sự ảnh hưởng, tác động của tự
nhiên với văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người. Trong các nghiên cứu, có
thể có những tư duy nghiên cứu không giống nhau nhưng khi xét mối quan hệ giữa
môi trường và văn hóa, xã hội, các nhà nghiên cứu đều có cùng quan điểm điều kiện
môi trường nơi tộc người cư trú thường có những ảnh hưởng đến văn hóa đời sống của
36
tộc người đó.
1.2.2.2. Thuyết chức năng (functionalism)
“Thuyết chức năng” (functionalism) là một thuật ngữ rộng. Theo nghĩa rộng
nhất, nó bao gồm cả thuyết chức năng (theo nghĩa hẹp) và thuyết cấu trúc chức năng.
Lý thuyết chức năng bắt đầu từ thế kỉ XX và đã thống lĩnh nhân học xã hội
Anh. Đến khoảng năm 1960 đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới Mỹ và những nơi khác.
Thuyết chức năng ra đời như một sự đối thoại, bổ khuyết cho thuyết tiến hoá. Nhiều
nhà tiến hoá luận cổ điển như Tylor đã từng phân tích, so sánh các hiện tượng văn hoá
để xác lập quy luật phát triển mà không chú ý đến nền văn hoá như một hệ thống.
Trong khi đó, thuyết chức năng đã nghiên cứu những tích hợp của nền văn hoá, giữ
cho nó vận hành một cách có hệ thống. Có thể nói, thuyết chức năng đã bổ sung cho
thuyết tiến hoá tính có hệ thống. Thuyết chức năng không nghiên cứu theo hướng lịch
đại mà nghiên cứu đồng đại dựa trên chứng cứ thực nghiệm (L.Warms, R.Jon MC.
Gee- Richard, 2010).
Khi nói đến thuyết chức năng là nói đến các tư tưởng có liên quan đến
Bronislaw Malinowski và những người cùng trường phái và tư tưởng với ông, đó là tư
tưởng tập trung vào các hành động giữa các cá nhân, sự kềm chế do các thể chế xã hội
áp đặt lên các cá nhân, và mối quan hệ giữa nhu cầu cá nhân và sự thỏa mãn các nhu
cầu đó thông quan các cơ chế văn hóa xã hội. Vị thế của Malinowski trong nhân học
Anh cũng tương tự như vị thế của Boas trong nhân học Mĩ. Cũng như Boas,
Malinowski là một nhà khoa học tự nhiên Trung Âu đến với nhân học và đến với cộng
đồng nói tiếng Anh do những tình huống đặc biệt. Và cũng như Boas, ông phản đối
thuyết tiến hóa đơn tuyến và tạo lập phương pháp nghiên cứu thực tế dựa trên ngôn
ngữ bản địa và “quan sát thông quan tham gia”.
Ngày nay cụm từ “nhân học Malinowski” có hai ý nghĩa. Thứ nhất đó là
phương pháp nghiên cứu thực địa với những giả định lí thuyết và phong cách mô tả
dân tộc học gợi lại các chuyên khảo của Malinowski về thổ dân trên quần đảo
Trobriand Islanders. Ý nghĩa thứ hai là lí thuyết rõ ràng hơn về văn hóa và phổ quát
văn hóa dựa trên các giả định trong các tác phẩm cuối đời của Malinowski, đặc biệt là
trong tuyển tập “Lí thuyết khoa học về văn hóa”. Malinowski cổ vũ nghiên cứu thực
địa dài hạn, với liên hệ chặt chẽ và lâu dài với những người cung cấp thông tin.
Có thể nói đến công trình nổi tiếng của ông là “Nhà hàng hải Tây Thái Bình
37
Dương” (Agronauts of the Western Pacific, 1922) như một công trình minh chứng
cho lý thuyết của Malinowski. Cuốn sách đã bắt đầu bằng quan điểm về chủ đề,
phương pháp và phạm vi. Sau đó ông mô tả đặc điểm địa lý của Trobriand và việc
họ đến quần đảo này. Ông tiếp tục thảo luận về các luật tục trao đổi kula, thông tin
về ca-nô, chèo thuyền và những nghi lễ và ma thuật liên quan đến ca-nô. Tiếp theo
đó, công trình này nêu ra các thông tin chi tiết và cụ thể hơn về các chuyến hải
hành bằng ca-nô, kula và ma thuật. Ông đã kết thúc cuốn sách bằng một chương
“trầm tư” hay ta gọi là phản tư về “ý nghĩa của kula”. Trong phần kết này ông
không tiếp tục mạo hiểm với các phỏng đoán lý thuyết mà thay vào đó là bình luận
về tầm quan trọng của dân tộc học để cổ vũ cho sự khoan dung với những phong
tục xa lạ và cung cấp thêm cho độc giả thông tin về mục đích của những phong tục
rất khác biệt với những phong tục của độc giả. Đây chính là điều có giá trị nhất mà
những độc giả của Malinowski ngưỡng mộ ông nhất dẫn theo (L.Warms, R.Jon MC.
Gee- Richard, 2010).
Khi vận dụng thuyết chức năng cho luận án, chúng tôi mong muốn vận dụng lý
thuyết này phân tích những chức năng của MTTN trong đời sống của người Khmer
đồng ĐBSCL. Đất, nước, thực vật, động vật được trình bày trong luận được phân loại
và trình bày theo đặc trưng, chức năng trong văn hoá vật chất và tinh thần của người
Khmer. Mỗi một sự vật đều có chức năng riêng biệt, phục vụ cho nhu cầu về lương
thực, thực phẩm, trang phục, nhà ở và cả trong nhu cầu về tín ngưỡng, tâm linh và
phong tục lễ hội của người Khmer Nam Bộ.
Tóm lại, để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng hai lý thuyết đó là thuyết sinh
thái văn hoá và thuyết chức năng. Hai lý thuyết này được vận dụng vào nghiên cứu
văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở phương diện văn hoá vật thể và phi vật
thể và hai lý thuyết này được vận dụng vào nghiên cứu không gian văn hoá Khmer ở
các địa điểm Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang ở ĐBSCL. Trong quá trình sưu tầm tài
liệu, tư liệu để phục vụ nghiên cứu, chúng tôi còn nghiên cứu về các trường hợp các
cộng đồng, nhóm người trên thế giới ứng xử với MTTN như những người da đỏ sống
ở dải bờ biển Thái Bình Dương hẹp kéo dài từ Alaska đến eo biển Puget. Đây là
nghiên cứu của tác giả Ruth Benedict với những mô tả về cách những người da đỏ
sống nhờ vào biển cả, cách họ bắt cá, sinh kế của họ đều từ biển và từ đó tác giả có
những kết luận về tính cách của người thổ dân này là những người có tính cách nôi nổi
38
và độc đoán, văn hoá của họ không có một trật tự nào cả (Ruth Benedict, 2018), tr.
195. Từ nghiên cứu cách con người tương tác con người ứng xử với MTTN, tác giả đã
chỉ ra tính cách văn hoá của họ. Trong luận án này, chúng tôi không áp dụng triệt để
không gian văn hoá của các lý thuyết mà chúng tôi tiếp cận bởi vì các lý thuyết sinh
thái văn hoá và thuyết chức năng, các giả đều nghiên cứu về các tộc người mà không
gian văn hoá của họ hoàn toàn khác với không gian văn hoá mà chủ thể văn hoá là
người Khmer sinh sống. Vì thế, chúng tôi chỉ áp dụng lý thuyết, phương pháp nghiên
cứu và dựa vào không gian văn hoá sinh sống cụ thể của người Khmer ở ĐBSL mà
đưa ra những lập luận, phân tích cho những luận điểm, đề xuất sẽ được trình bày trong
các chương của luận án.
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Môi trường cư trú và phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng
sông Cửu Long
1.3.1.1. Môi trường cư trú của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
Người Khmer phân bố rải rác khắp nơi ở ĐBSCL nhưng tập trung đông ở Trà
Vinh, Sóc Trăng và An Giang. Ở mỗi tỉnh, người Khmer sinh sống tập trung ở từng
vùng khác nhau như: huyện Tịnh Biên, Tri Tôn (An Giang); thị xã Vĩnh Châu (Sóc
Trăng); huyện Trà Cú, Duyên Hải, Châu Thành (Trà Vinh). Những lớp cư dân người
Khmer đầu tiên di cư đến Nam Bộ đã sớm chọn những vùng đất giồng để cư trú và canh
tác.
Người Khmer ở ĐBSCL đa phần sinh sống bằng canh tác nông nghiệp. Cư trú
rải rác ở các tỉnh nhưng tựu trung lại người Khmer cư trú theo từng tiểu vùng văn hóa
nhất định. Theo Trần Ngọc Thêm, vùng văn hóa ĐBSCL được chia thành 5 tiểu vùng
cơ bản: Tiểu vùng Phù sa ngọt, Tiểu vùng Giồng duyên hải, Tiểu vùng Ngập hở (Tứ
giác Long Xuyên), Tiểu vùng Ngập kín (Đồng Tháp Mười) và Tiểu vùng Ngập mặn.
Trong 5 tiểu vùng trên thì tiểu vùng Giồng duyên hải là nơi tập trung cư trú đông đúc
của người Khmer và tập trung ở 2 tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Ngoài ra, người Khmer
còn cư trú tại vùng Ngập hở (Tứ giác Long Xuyên) và tập trung nhiều ở Tri Tôn, Tịnh
Biên. Dựa vào cách phân chia tiểu vùng như trên, ta có thể thấy vùng cư trú của người
Khmer phần lớn tập trung ở những giồng cát ven biển: Trà Vinh và Sóc Trăng. Một bộ
phận khác cư trú rải rác ở những vùng trũng thấp. Nhìn chung, cư trú đặc trưng của
39
người Khmer là cư trú trên những vùng đất giồng ven biển với hình thức canh tác lúa
nước là chính với tập quán cư trú có thể quy về ba hình thức cư trú chính: cư trú đất
giồng, cư trú ven biển và cư trú vùng đồi núi.
1.3.1.2. Phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL là vùng đất đa tộc người và cũng là kết quả của quá trình di cư và cộng
cư của các dân tộc khác nhau với những nền văn hóa đa dạng. Đây được xem là quá
trình cùng cộng cư, sinh sống của các tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm, ... để cùng
khai khẩn đất đai, làm ăn sinh sống và trên cơ sở đó họ có điều kiện để tiếp xúc, giao lưu
văn hoá với nhau. So với các dân tộc anh em cùng cư trú, người Khmer được xem là tộc
người có lịch sử cư trú sớm nhất. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 2019,
người Khmer có tổng dân số là 1.319.652 người và tỷ lệ sống ở khu vực nông thôn là
76,5 % (Tổng cục thống kê, 2019).
Nhiều cứ liệu lịch sử cùng với kết quả nghiên cứu của của khảo cổ học, dân tộc
học cho rằng vùng đất nay là ĐBSCL từ những thế kỉ đầu công nguyên đã từng tồn tại
nền văn hóa Óc Eo phát triển rực rỡ. Nhiều kết quả nghiên cứu tiếp theo về sau chứng
minh rằng văn hoá Óc Eo là sản phẩm thuộc vương quốc Phù Nam. Vùng đất này là một
vùng phát triển sầm uất và là cửa ngõ giao thương với các nước trong khu vực. Tuy
nhiên, theo những thăng trầm lịch sử vùng đất này trở nên hoang vu do những biến cố từ
con người và thiên nhiên. Khi nền văn hóa Óc Eo tàn lụi, vương quốc Phù Nam bị Chân
Lạp xâm chiếm và sáp nhập vào lãnh thổ. Từ đây xuất hiện tên gọi “Thủy Chân Lạp” để
phân biệt với vùng cao hơn là “Lục Chân Lạp”. Với thói quen khai thác và cư dân còn ít
ỏi nên vương triều Chân Lạp vẫn không đủ sức khai thác vùng Thủy Chân Lạp còn
hoang vu, sình lầy. Một thời gian dài vùng Lục Chân Lạp vừa bị triều đình Chân Lạp bỏ
rơi vừa là bãi chiến trường tranh chấp giữa các đế quốc nên người dân lần lượt lưu tán.
Những nạn ngập lụt và phù sa của sông Cửu Long là những tác nhân chính
làm hoang phế và vùi lấp nền văn hóa này (Óc Eo). Trong nhiều thế kỉ tiếp
theo, vùng đất đồng bằng sông Cửu Long lại trở nên hoang vu. Từ thế kỉ thứ
X trở đi, do biển rút dần, những giồng đất được nổi lên ở vùng Sóc Trăng,
Trà Cú, Giồng Riềng trở thành những vùng đất đai màu mỡ thu hút dân cư
đến cư trú (Nguyễn Khắc Cảnh , 1998), tr. 29.
Khi vương quốc Phù Nam sụp đổ vào khoảng thế kỉ VI đến thế kỉ XVI, người
Khmer là cư dân chủ yếu sinh sống ở ĐBSCL, họ sống rải rác trên những giồng đất
40
cao. Đến thế kỉ XVII, vùng ĐBSCL lại có thêm những lượt di cư rải rác của người
Việt từ miền Trung vào cùng sinh sống và khai vùng đất này với thành phần cũng hết
sức đa dạng. Họ đa phần là những người nông dân nghèo, người thợ thủ công không
thể chịu đựng nạn phân tranh, sự bóc lột hà khắc của chế độ phong kiến nên họ xuôi về
phương Nam để tìm nguồn sống. Cạnh đó, lớp người di cư còn có những người vốn
giàu có nhưng muốn tìm vùng đất mới để mở rộng việc làm ăn. Cuối thế kỉ XVII, có
thêm người Hoa đến và cùng chung sống hòa đồng như những tộc người anh em trên
vùng đất này. Như vậy, so với các dân tộc anh em cùng cộng cư, người Khmer có mặt
tương đối sớm và cùng khẩn hoang, khai phá đất đai và sinh sống với người Việt,
người Hoa. Để có được vùng đất đai có đa thành phần tộc người, cùng chung lưng đấu
cật, chống chọi với thiên nhiên, khai thác vùng đất vốn hoang vu, nhiềm hiểm trở
thành vùng đất bạt ngàn cây cối xinh tươi như hiện nay, vùng đất này đã tiếp nhận
nhiều lượt di cư của các tộc người khác nhau. Họ không đến ồ ạt mà phải trải qua từng
lượt người di cư rải rác đến ở, khi thấy thích hợp họ mới ở lại lâu hơn, tạo lập nhà cửa,
ruộng vườn, sinh con đẻ cái. Các tộc người cùng nhau tương trợ để thích nghi và ứng
phó với MTTN vừa thuận lợi nhưng cũng vừa khắc nghiệt nơi đây. Sự cùng nhau cư
trú của các dân tộc ở ĐBSCL luôn diễn ra trong sự hoà hợp, tương trợ và giao lưu học
hỏi lẫn nhau. Đây cũng là nét văn hoá đặc trưng tạo nên văn hoá của vùng ĐBSCL.
Trong những ngày đầu đến vùng đất hoang vu, sinh lầy và đầy hiểm trở, những
người Khmer cổ đã chọn những giồng đất cao để sinh sống. Những giồng đất với đặc
tính cao ráo giúp người Khmer đối phó với với những mùa nước lên ở nơi đây. Đất
giồng là loại phù sa cổ với đặc tính trên mặt là đất cát pha, dưới sâu là đất sét nên khô,
dễ thoát nước. Có thể nói cách chọn cứ trú trên những giồng đất cao là một cách ứng
phó với tự nhiên của người Khmer. Người Khmer còn cư trú những vùng ven biển.
Khi cư trú tại vùng đất ven biển người Khmer đã gặp không ít khó khăn trong khai
thác và dự trữ nước ngọt để ăn uống và trồng trọt. Vùng ven biển có người Khmer cư
trú bao gồm vùng Trà Cú (Trà Vinh), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Vùng đất này thường
xuyên nhiễm mặn, nhiễm phèn nên hàng năm có khoảng 6 tháng thiếu nước ngọt. Để
ứng phó với môi trường khắc nghiệt, người Khmer rất quan tâm đến việc cải tạo môi
trường nước. Trong đó, công tác làm thủy lợi được người Khmer đặc biệt quan tâm.
Công tác làm thủy lợi này gồm có: đắp đê ngăn mặn, đào bờ để giữ nước ngọt, đào
41
mương đưa nước.... “Người Khmer là cư dân nông nghiệp sớm phát triển hệ thống
thủy lợi: đào ao giữ nước, dẫn thủy nhập điền…” (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm,
Mạc Đường , 1990), tr. 220.
Số cư dân người Khmer cư trú trên những vùng đồi núi chiếm số lượng khá
lớn. Đó là vùng đồi núi phía Tây Nam bao gồm vùng tứ giác Long Xuyên, vùng An
Giang và Kiên Giang. Tại những vùng đồi núi này, địa điểm tụ cư của người Khmer –
những phum, sóc được hình thành trên những sườn núi tạo thế cư trú theo hình vành
khăn dọc chân núi. Để đối phó với tình trạng ngập nước người Khmer ở những vùng
này thường ở trên những nhà sàn cao. Cư dân Khmer ở vùng này thường cư trú khá
thưa hơn vùng đất giồng và đất cát ven biển. Có thể do hoàn cảnh khắc nghiệt về thiên
nhiên, do tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng mà dân cư có phần thưa thớt hơn
những vùng khác.
Tập quán cư trú ở nơi cao ráo đã phần nào thể hiện cách ứng xử với tự nhiên
của người Khmer ở ĐBSCL. Cách chọn những vùng cao để ở vừa để thuận tiện cho
làm ăn, sinh sống vừa thể hiện được đặc trưng cư trú của người Khmer.
1.3.2. Văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer đồng bằng sông
Cửu Long
1.3.2.1. Văn hoá vật thể
a. Văn hóa ăn
Văn hóa ăn của người Khmer vừa có những nét chung vừa có nét riêng với các
tộc người khác ở ĐBSCL. Đó là do kết quả lựa chọn và thích nghi trong quá trình
tương tác với MTTN quy định từ cách họ lựa chọn nguyên vật liệu đến cách ăn đều
thiên về thuận theo tự nhiên là chính.
Trong văn hóa truyền thống của người Khmer là họ lựa chọn thực phẩm theo
mùa, mùa nào thức ấy. Cách lựa chọn thực phẩm theo mùa vừa chọn được những loại
thực phẩm ngon nhất, giá trị dinh dưỡng cao nhất vừa thể hiện được văn hoá thích nghi
với MTTN của một tộc người. Vào mùa mưa, khi các loại thực vật trên cạn và thủy
sinh phát triển tốt, họ thường ăn các loại thức ăn là sản phẩm của sông nước như các
loại rau tập tàng, các loại rau như bông điên điển, bông súng...Bên cạnh đó, các loại
thủy sản họ rất ưa chuộng vào mùa mưa là các loại cá sông như cá linh, cá sặc, cá rô,
cá lóc. Vào khoảng tháng 9, tháng 10 hàng năm, khi nước từ thượng nguồn đổ về,
người Khmer nói riêng và các dân tộc khác ở ĐBSCL nói chung nhận được sự ưu ái từ
42
thiên nhiên là các loại thủy sản sinh sôi và phát triển nhiều. Những khi ăn không hết,
người Khmer thương làm mắm, làm khô để tích trữ ăn dần vào những tháng mùa khô.
Từ cách lựa chọn nguyên liệu là cách tận dụng những gì sẵn có trong tự nhiên đã hình
thành nên văn hóa ăn của người Khmer cũng thường rất đơn giản trong những bữa ăn
hàng ngày.
Bên cạnh cách chọn nguyên liệu ăn, cách ăn của người Khmer cũng thể hiện rõ
văn hóa ứng xử với MTTN. Cơ cấu bữa ăn chính thường gặp của người Khmer truyền
thống là cơm, rau, cá và mắm. Trong văn hóa ăn của người Khmer, cơm có hai loại là
cơm gạo tẻ và cơm gạp nếp. Cơm tẻ thường xuất hiện trong bữa ăn thường nhật và
thường ăn kèm với các loại thức ăn khác như rau, cá, mắm, thịt...; còn cơm gạo nếp
thường xuất hiện trong những dịp đặc biệt như đám tiệc, lễ hội. Gạo nếp thường được
nấu xôi, làm bánh như bánh tét, bánh dừa v.v.
Trong bữa ăn thường nhật của người Khmer, cơm đóng vai trò chính, kế đến đó
là rau. Có thể nói, rau đóng vai trò khá quan trọng trong bữa ăn của người Khmer. Các
loại rau được người Khmer chọn ăn cũng rất phong phú. Đó là những loại rau tự mọc
xung quanh nhà và phát triển xanh tốt vào mùa mưa hoặc được họ trồng xen canh
trong các vụ mùa. Cá và mắm là hai loại thức ăn xuất hiện rất thường xuyên trong ẩm
thực của người Khmer truyền thống. Cá có thể chế biến thành các món ăn đơn giản
như kho, chiên hoặc có thể dùng để làm mắm hoặc khô và đây là món ăn rất đặc trưng
của người Khmer ở ĐBSCL. Tuy cùng là mắm nhưng cách thức làm mắm và vị mắm
của người Khmer ở An Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng cũng rất khác nhau. Người
Khmer An Giang làm mắm thiên về vị ngọt do được nêm bằng đường thốt nốt. Người
Khmer Trà Vinh làm mắm thiên về vị mặn từ rất nhiều muối, trong đó có thể món
mắm Pro-hoc mặn đặc trưng dùng để chế biến món bún nước lèo rất nổi tiếng của
vùng đất này, còn vị mắm của người Khmer Sóc Trăng có vẻ như được trung hoà từ vị
mắm ngọt của đất An Giang và vị mắm mặn của người Khmer Trà Vinh.
Trong cơ cấu bữa ăn của người Khmer có sự khác nhau giữa bữa ăn ngày thường
và bữa ăn trong các dịp lễ tết, lễ hội. Cũng giống như các tộc người khác, bữa ăn thường
ngày của người Khmer khá đơn giản chỉ có cơm cùng các món ăn kèm. Người Khmer
có tục dâng cơm cúng sư sãi đi khất thực. Những món được dâng cúng thường là thịt gà,
vịt, heo hoặc cá kho. Nếu như có món canh thường là canh chua, canh khổ qua nhồi thịt
và cũng thường cho rất ít nước vì tránh bị đổ nước canh trong quá trình sư đi khất thực.
43
Những bữa ăn hàng ngày đơn giản gồm có canh và kho mặn nhưng bữa ăn vào các dịp
lễ hội, lễ tết được người Khmer chăm chút cầu kì và kĩ lưỡng hơn. Bởi vì ngoài dùng
tiếp đãi khách thì quan trọng hơn hết họ phải dâng cơm cho sư sãi ở chùa và cúng ông
bà tổ tiên ở nhà. Các món thường thấy trong dịp lễ của người Khmer ngoài các món
kho, canh còn có thêm món xào, cà ri, lẩu, v.v… Cách chế biến món ăn cầu kì, tinh tế
thể hiện sự chăm chút, chu đáo, cẩn thận và cả lòng thành kính mang tính tâm linh của
người Khmer.
b. Văn hóa mặc
Theo (Phan Thị Yến Tuyết, 1993):
Trang phục của người Khmer bản địa ở ĐBSCL trước đây qua tài liệu thư
tịch chỉ để lại vài chi tiết lờ mờ đó là những chiếc “chăn” hoặc vải lụa, khi
mặc xếp mối về phía trước, những chiếc “khố” của nam giới cùng với sở
thích để mình trần đi chân đất. Nam giới Khmer (nhất là người lớn tuổi) vẫn
còn mặc loại “sampốt hôl” vào dịp lễ lạt hoặc lễ cưới.
Trong những dịp lễ truyền thống, nam giới thường mặc sampốt hôl với áo
kín cổ, tay dài vào lễ cưới, hoặc mặc “chăn” trong những dịp lễ khác.
Người phụ nữ Khmer thường mặc áo “tầm pông” hoặc áo wện là loại áo có
thân dài, tay dài và cổ tròn sát cổ (tr.149).
Người Khmer ở ĐBSCL có trang phục truyền thống mang tính đặc trưng văn
hoá tộc người. Họ có sự phân biệt khá rõ rệt giữa trang phục trong dịp lễ tết, lễ hội và
trang phục thường nhật. Vào các dịp đặc biệt như Chôl - Chnăm - Thmây hay Sen Đôn
- ta trang phục của người Khmer thường chọn trang phục có màu sắc tươi sáng và khá
cầu kì. Phụ nữ Khmer khi đi chùa những dịp lễ tết chọn cho mình những loại trang
phục kín đáo thể hiện được nét dịu dàng, tinh tế của dân tộc. Những người phụ nữ lớn
tuổi khi đi chùa thường chọn áo trắng may dài tay đồng thời còn choàng qua người
một chiếc khăn trắng. Trong trang phục lễ cưới, cô dâu Khmer mặc sampol hol màu
cùng với áo ngắn bó chẽn hoặc áo dài Tampong màu, quàng khăn ngang người, đội
vương miện nhỏ trang trí hạt cườm, kim tuyến lấp lánh; còn chú rể mặc chiếc hol hoặc
sampot với áo tay dài, cổ áo đứng, giữa thân áo cài khuy và khăn vắt vai trái. Ngoài ra,
chú rể còn đeo con dao nhỏ bên hông với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Trang phục lễ tết, lễ
hội thường cầu kì, nhiều hoạ tiết cùng với kết nhiều kim sa, kim tuyến nên khá nóng
rất khó sử dụng trong thường nhật. Trang phục thường nhật của người Khmer là áo
44
ngắn, quần dài, kiểu may đơn giản, ít hoạ tiết và không kết kim sa, kim tuyến. Xưa kia
người Khmer Nam Bộ rất thích mặc màu sáng (dù cho lễ tết hay thường nhật) như
cam, hồng, xanh, vàng, v.v… Tuy nhiên, hiện nay kiểu dáng và màu sắc của người
Khmer ở ĐBSCL cũng không khác với các dân tộc khác [Xem thêm Phụ lục hình ảnh:
hình 39, 40, 41, 42, 43, 44].
Hiện nay, các dân tộc ở ĐBSCL có sự giao lưu văn hoá qua trang phục. Trong
trang phục thường ngày chúng ta khó có thể phân biệt được trang phục của các dân tộc
ở ĐBSCL. Các dân tộc thường mặc trang phục giống nhau nhằm tạo sự thuận tiện,
thoải mái cho công việc. Sự phân biệt trang phục chỉ thật sự rõ nét qua trang phục giữa
các dân tộc trong các dịp lễ hội.
c. Văn hóa nhà ở
Nhà ở của người Khmer ĐBSCL có sự khác biệt rõ rệt giữa truyền thống và
hiện đại. Về chọn nơi chọn đất làm nhà người Khmer thường nơi cao ráo để tạo lập nơi
ở. Đó là những gò đất cao tránh ngập lũ vào mùa nước lên ở ĐBSCL. Trong tâm thức
của người Khmer, nơi cao ráo còn tránh được những thế lực xấu dưới lòng đất, tránh
được tà ma có thể làm hại đến chủ nhà. Vì thế, mỗi khi dựng nhà, người Khmer
thường phải mời Achar đến cúng xin thần đất và các vị thần khác để bảo trợ cho việc
dựng nhà được thuận lợi, tốt lành.
Về chất liệu làm nhà, người Khmer truyền thống thường tận dụng những chất
liệu từ tự nhiên đó là cột và mái nhà bằng tre, các loại gỗ và lợp bằng lá dừa. Các loại
chất liệu này giúp chống lại với khí hậu nắng nóng. Tuy nhiên, lợp bằng lá dừa thời
hạn sử dụng rất ngắn, thường 3 đến 4 năm lại phải thay bằng lá mới.
Cấu trúc nhà ở của người Khmer cũng khá đơn giản. Trong nhà thường chia
làm gian tiếp khách, gian ở và gian bếp (thường là chái bếp được cơi nới cạnh với gian
nhà chính). Thông thường, các gian trong nhà thường được ngăn khá đơn sơ nhằm tạo
được không gian thoáng mát cho ngôi nhà. Nếu trong nhà có người lớn tuổi, không
gian của người lớn là cái giường cạnh với gian tiếp khách, còn các gian buồng (phòng
riêng) thường được ngăn bằng tấm màn mỏng dùng để dành cho các cặp vợ chồng
hoặc các cô gái mới lớn. Nhìn chung, trong văn hoá nhà ở của mình, người Khmer xưa
thường đơn giản hoá bởi vì theo quan niệm của người người Khmer cho rằng, cuộc
sống hiện tại của một người chỉ là tạm bợ nên khi làm có của cải, tiền bạc họ chỉ mang
đến cúng cho việc xây chùa để tích luỹ phước báu cho kiếp sau. Vì thế, khi đến các
45
vùng Khmer sinh sống trong truyền thống sẽ thường thấy những không gian nhà nhỏ
nhắn và đơn giản nhưng những ngôi chùa lại vô cùng nguy nga, tráng lệ [Xem thêm
Phụ lục hình ảnh, hình 23, 24 và 28].
Tuy nhiên, trong văn hoá nhà ở hiện nay của người Khmer có thay đổi. Ở
ĐBSCL hiện nay chúng ta thường khó phân biệt giữa nhà của người Khmer với các
tộc người khác. Người Khmer vẫn dành rất nhiều tiền bạc, của cải vào việc xây dựng
chùa chiền nhưng họ có phần chú trọng hơn trong việc dựng nhà ở. Nhiều người
Khmer hiện nay khi rời nông thôn lập nghiệp tại các khu đô thị lớn trong cả nước khi
trở về họ dành tiền xây dựng nhà cửa khang trang hơn. Về kiến trúc nhà ở, họ xây theo
các kiểu nhà hiện đại như nhà mái Thái với mái nhà to, nhọn và hơi nhô về phía trước.
Bên trong nhà, họ thường xây phòng có cửa, vách ngăn các phòng cho không gian
riêng tư của các thành viên trong gia đình. Theo quan sát thực tế, chúng ta chỉ có thể
nhận ra nhà của người Khmer qua bàn thờ Têvôđa (bàn thờ thiên) ở trước mỗi nhà của
người Khmer mà thôi.
1.3.2.2. Văn hoá phi vật thể
a. Tín ngưỡng, tôn giáo
Người Khmer ĐBSCL có đời sống tín ngưỡng dân gian phong phú. Trước khi
tiếp nhận văn hoá Phật giáo Nam Tông, tín ngưỡng dân gian đã từng có thời gian tồn
tại sâu chắc trong văn hoá của người Khmer. Và cả khi chịu ảnh hưởng lớp văn hoá
Phật giáo, tín ngưỡng dân gian vẫn không mất đi mà vẫn tồn tại song song trong đời
sống tinh thần của người Khmer. Đó là tín ngưỡng Arak, Neak-ta và các vị thần bảo hộ
khác như các vị thần cai quản đất đai, nhà cửa, ao hồ sông rạch và có khi là những vị
thần cai quản chuồng trại, ruộng lúa, v.v… Trong các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng
Neak-ta là hình thức tín ngưỡng ảnh hưởng sâu đậm nhất và tồn tại lâu đời nhất của
người Khmer. Neak-ta là một vị thần có chức năng cai quản đất đai, phum sóc. Người
Khmer có Neak-ta phum, sóc, Neak-ta ruộng, Neak-ta chùa (miếu thờ Neak-ta trong
khuôn viên chùa)... Về hình tượng Neak-ta cũng có sự khác nhau giữa các địa phương
như Neak-ta được hiện thân là những hòn đá to, nhẵn bóng hoặc là hình tượng một cụ
già tóc bạc phơ, chống gậy (Neak-ta ở ấp Quy Nông, huyện Châu Thành, tỉnh Trà
Vinh). Tuy nhiên, Neak-ta được thờ nhiều nhất là những hòn đá to, nhẵn và thường
được phủ vải đỏ bên trên. Miếu thờ Neak-ta cũng thường đơn giản (người Khmer
thường gọi là nhà Neak-ta). Xưa kia, miếu thờ Neak-ta thường được làm bằng tre, lá
có thể ở ruộng hoặc ngay đường đi. Ngày nay, khi có điều kiện, người Khmer thường
46
sửa sang miếu lại, xây gạch, lợp xi măng rất khang trang, sạch sẽ. Người Khmer có
niềm tin tuyệt đối vào Neak-ta, không bao giờ dám bất kính với Neak-ta và cả miếu
Neak-ta. Ngày trước, khi có tranh chấp trong các vấn đề xã hội như mất cắp, nghi kị
nhau vấn đề gì đó, người Khmer chỉ cần đến miếu Neak-ta xin được phân xử và thề
thốt. Những ai có thái độ bất kính với nhà Neak-ta như làm dơ bẩn, ô uế hoặc lời lẽ bất
kính với Neak-ta thì họ tin rằng người đó sẽ bị trừng phạt. Niềm tin tín ngưỡng này
vẫn tồn tại cho đến hiện nay trong đời sống văn hoá tinh thần của người Khmer.
Lễ cúng Neak-ta thường diễn ra vào khoảng tháng 5 dương lịch hàng năm (sau
Chôl – Chnăm - Thmây). Vật phẩm lễ cúng Neak-ta thường là đầu heo, thịt gà, thịt vịt
luộc, bánh ngọt, trái cây, hoa, nhang đèn và nhất định không thể thiếu rượu. Khi diễn
ra lễ cúng người Khmer đem lễ vật đến miếu Neak-ta và Achar là người thực hiện nghi
thức. Một số nơi trong lễ cúng Neak-ta còn có mời các vị sư tụng kinh cầu an cho bà
con trong phum, sóc. Kết thúc buổi lễ, những vật phẩm cúng (còn được gọi là “phước
thực”) được chia cho tất cả người tham dự lễ, cùng nhau ăn uống tại chỗ.
Về tôn giáo, đa phần người Khmer nơi đây gởi trọn niềm tin vào Phật giáo Nam
Tông hay còn được gọi là Phật giáo Theraveda, Phật giáo Tiểu thừa. Nam Tông Khmer
đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Khmer. Nhà
chùa vừa là nơi thực hiện chức năng tôn giáo, chức năng giáo dục chữ viết, rèn luyện
đạo đức vừa là nơi sinh hoạt trong những dịp lễ Tết, lễ hội. Ba lễ hội lớn trong năm của
người Khmer phần lớn đều diễn ra hoặc có dấu ấn của nhà chùa là tết năm mới (Chôl -
Chnăm - Thmây), lễ cúng ông bà (Sen Đôn - ta) và lễ hội đút cốm dẹp (Ok - Om - Bok).
Lễ Chôl – Chnăm - Thmây diễn ra trong ba ngày thì trong ba ngày đó đều có nghi thức
được diễn ra tại chùa như: rước Maha Sangkran, dâng cơm cho sư, đắp núi cát, tắm
Phật..; lễ Sene Đônta xưa kia diễn ra trong 13 ngày thì trong 13 ngày đó người Khmer
đều mang cơm đến chùa để dâng lên cúng dường cho sư và để cầu siêu cho ông bà cha
mẹ; lễ Ok - Om - Bok thì có các nghi thức cúng trăng, thả đèn nước, thả đèn gió... cũng
được thực hiện tại chùa. Ngoài những lễ hội lớn trong năm người Khmer còn có rất
nhiều lễ hội khác cũng được tổ chức tại chùa như lễ nhập hạ, lễ cầu an, lễ dâng y
Kathina... Nhìn chung, nhà chùa có nhiều chức năng quan trọng trong đời sống tâm linh
tôn giáo lẫn trong đời sống sinh hoạt cộng đồng của người Khmer.
Cùng với nhà chùa, sư sãi cũng tầm ảnh hưởng lớn trong trong việc hướng dẫn
bà con Khmer sinh hoạt tôn giáo, rèn luyện đạo đức và nhân cách sống. Nam thanh
47
niên Khmer đến tuổi trưởng thành phải được xuất gia đi tu để học giáo lý, tu dưỡng
đạo đức, học chữ viết và có khi còn được học nghề để lập thân, lập nghiệp về sau. Đến
khi về già, người Khmer cũng gửi trọn đời sống tâm linh, tinh thần của mình nơi nhà
chùa. Khi con cái đã trưởng thành, người già sẽ cạo tóc, mặc áo trắng đến chùa để tu
thiếp (tu thiền). Vai trò nhà chùa và sư sãi đóng góp rất lớn cho việc rèn luyện, định
hướng, giáo dục cho bà con đồng bào Khmer từ khi còn trẻ đến lúc về già.
Với đời sống văn hoá trọng tâm linh nên người Khmer thường xuyên dâng cúng
tiền của cho việc xây dựng và tu sửa chùa để tích luỹ phước báu về sau. Ngôi chùa
Khmer thường được xây dựng trong những khuôn viên rất rộng và rất khang trang.
Trung tâm khuôn viên chùa là chính điện quay mặt về hướng đông. Xung quanh chính
điện là tăng xá nơi các nhà sư học tập và sinh hoạt. Chùa Khmer Nam tông thường
được trang trí hoa văn sặc sỡ và có rất nhiều điêu khắc mang dấu ấn là tàn tích của tín
ngưỡng Bà – La – Môn còn sót lại như: thần bốn mặt, chim thần Krut, nữ thần Apsara,
Chằn, khỉ thần Hanuma, rắn thần Naga, voi và rất nhiều hoa văn văn mềm mại khác
như hình dây, lá và cả hoa. Chùa Khmer còn được bao quanh, che chở bởi những hàng
cây cổ thụ như sao, dầu... để tạo bóng mát và cũng là nơi trú ngụ của rất nhiều loài
sinh vật như chim, cò. Cách xây dựng, trang trí này phản ánh được sự ứng xử hài hoà
với thiên nhiên của nhà sư và các Phật tử Khmer. Các sư sãi Khmer cũng thường răn
dạy bà con Phật tử về sự từ bi và văn hoá ứng xử hài hoà với thiên nhiên qua việc ứng
sử với môi trường sinh thái xung quanh chùa như không được chặt phá cây cối, không
được bắt cá hay không được tổn hại đến các loài sinh vật trong chùa.
b. Lễ tết, lễ hội
Người Khmer ở ĐBSCL có đời sống văn hoá tinh thần vô cùng phong phú.
Hàng năm, người Khmer có 3 lễ lớn là Chôl - Chnăm - Thmây; Sen Đôn - ta và Ok -
Om - Bok. Người Khmer truyền thống có kinh tế chính là nông nghiệp lúa nước nên
mỗi lễ, hội thường gắn với chu kì của nông nghiệp.
Lễ Chôl - Chnăm - Thmây là lễ Tết đón mừng năm mới và đây cũng là lễ lớn
nhất trong năm của người Khmer. Lễ diễn ra vào khoảng giữa tháng 4 dương lịch
và theo người Khmer đó là tháng “chét”1. Người Khmer có cách tính lịch riêng dựa
theo sự chuyển động của mặt trăng và mặt trời. Ảnh hưởng khoa thiên văn từ Ấn
Độ sang, người Khmer tính ngày đầu năm bằng hai lối vào: Chôl có nghĩa là tính
theo sự vận chuyển của mặt trăng; Chnăm là tính theo sự vận chuyển của mặt trời
1 Tháng chét “chett”: tháng nắng gắt
48
và đánh dấu bước vào năm mới. Thường Chôl được tính vào đầu trung tuần tháng
chét và tháng 5 của người Khmer vào khoảng ngày 12, 13, 14, 15 tháng 4 dương
lịch.
Ý nghĩa về một lễ nghi nông nghiệp trong lễ Chôl - Chnăm - Thmây của
người Khmer còn được thể hiện qua những nghi thức được diễn ra trong lễ trong đó
quan trọng nhất là ngày tắm tượng Phật. Nghi lễ tắm Phật tiến hành tắm Phật trước
rồi đến đến tắm các vị sư cao niên nhằm cầu chúc may mắn, gột rửa những phiền
muộn, không vui và chưa may mắn trong năm cũ để sang năm mới sẽ may mắn,
thuận lợi và nhiều phước báu hơn. Hiện nay, việc tắm những nhà sư còn khá ít chùa
thực hiện. Tuy nhiên, nghi thức tắm cho ông bà ở nhà vẫn còn được một bộ phận
người Khmer duy trì. Nước dùng để tắm Phật là loại nước thơm (Tưk – op) được
làm từ nước sạch, cho thêm cánh hoa thơm hoặc vài giọt tinh dầu thơm. Nước thơm
sau khi tắm Phật ở chùa, bà con Phật tử mang về nhà tắm cho người lớn tuổi trong
nhà để cầu chúc sức khỏe, hạnh phúc và bình an. Người Khmer quan niệm rằng,
người già khi được nhiều con cháu tắm cho trong ngày này sẽ vô vùng phước báu.
Trong ngày Tết năm mới này còn có lễ cầu siêu gọi là “Băng skol”. Các vị sư
sau khi tắm Phật ở chính điện đến các tháp xung quanh chùa tụng kinh cầu siêu nhằm
chúc phước lành cho người quá cố. Lễ này thường kéo dài khá lâu. Sau khi tụng kinh
cầu siêu, các nhà sư dùng nước rảy vào ngôi tháp và rảy vào con cháu người quá cố
quỳ dưới chân tháp. Mọi người rất hạnh phúc khi được rảy nước vào mình. Đó như
một lời chúc phước lành trong ngày đầu năm mới. Nước mang một ý nghĩa tinh thần
rất quan trọng trong tâm thức của người Khmer vì người Khmer cho rằng nước có khả
năng thanh tẩy, xua đi những điều không may, muộn phiền của năm cũ và mang đến
sự thanh sạch, may mắn trong năm mới.
Một lễ hội lớn trong năm nữa của người Khmer là lễ Ok - Om - Bok. Ok - Om
- Bok thường được tổ chức vào giữa tháng 10 âm lịch hàng năm để cúng trăng nhằm
cảm tạ thần mặt trăng. Tín ngưỡng mặt trăng phần nào nhận thấy mức độ quan trọng
của tín ngưỡng nông nghiệp trong văn hóa của người Khmer. Là một dân tộc sống
dựa vào nông nghiệp là chính, người Khmer quan niệm mùa màng thất bát hay bội
thu không chỉ do yếu tố con người mà yếu tố tự nhiên đóng vai trò điều phối. Chính
vì thế các lễ hội của người Khmer đậm chất nông nghiệp và thường diễn ra vào
49
những thời điểm đầu hoặc cuối mùa vụ. Lễ hội cúng trăng là một lễ hội diễn ra khi
vùng ĐBSCL gần kết thúc mùa mưa. Lễ cúng trăng đã biểu hiện rõ tính chất tống
tiễn mùa mưa, chào đón mặt trời, ánh nắng của mùa khô.
Người Khmer quan niệm mặt trăng là đối tượng thờ cúng thiêng liêng. Sau một
năm làm mùa người Khmer lại cúng để cảm tạ mặt trăng đã phù hộ mưa thuận gió hòa,
mang đến cho người nông dân những vụ mùa bội thu. Các lễ vật dùng để cúng là khoai
lang, chuối, dừa, … và nhất định phải có cốm dẹp. Cốm dẹp là loại cốm được làm từ
những hạt lúa nếp non và mới, được rang và giã thành cốm. Cốm dẹp do được làm từ
lúa nếp mới nên rất thơm và ngon. Đây được xem là vật phẩm quý giá nhất bằng tấm
lòng thành của người Khmer dâng lên cúng thần mặt trăng. Người chủ lễ cúng trăng
thường là các vị Achar hoặc các vị sư (nếu lễ được thực hiện tại chùa). Dưới sự hướng
dẫn của chủ lễ, người Khmer ngồi xếp hàng ngang trước bàn lễ vật và hướng về phía
trăng mọc để cầu cúng. Cuối buổi lễ, các thành viên tham gia được chủ lễ cho ăn cốm
dẹp (còn được gọi là Ok - Om - Bok có nghĩa là đút cốm dẹp).
Có thể thấy rằng, trong lễ hội của người Khmer dù là phần lễ hay hội cũng
mang dấu ấn của lễ nghi nông nghiệp dù nét đậm nhạt có khác nhau. Đây là những lễ
hội đánh dấu thời vụ trong năm: đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Nếu như Chôl -
Chnăm - Thmây là lễ hội trong thời điểm nắng hạn thì Ok - Om - Bok là lễ hội ở vào
thời điểm mùa mưa. Ở thời điểm nắng hạn người Khmer cầu mưa đến còn ở thời điểm
mùa mưa người Khmer cầu cho mưa dứt, nước rút để họ vào vụ mùa mới.
Lễ cầu an (Bon Kom - San - Sroc ) diễn ra trong phạm vi phum, sóc của người
Khmer cư trú. Đến ngày cúng, bà con Khmer sắm lễ vật: đầu heo, gà, hoa quả, nhang
đèn đến miếu Neak-ta để làm lễ. Mức độ tin tưởng sẽ được thể hiện qua lễ vật cầu cúng.
Buổi lễ được diễn ra dưới sự hướng dẫn của Achar. Những người tham gia lễ xếp thành
một hàng trước miếu, sau đó đi vòng quanh miếu ba lần rồi từng người cắm nhang vào
bàn thờ Neak-ta. Sau đó, mỗi người chắp tay trước ngực khấn vái tụng niệm theo hướng
dẫn của Achar hoặc nhà sư.
Nghi lễ cầu an của người Khmer mỗi nơi thực hiện có phần khác nhau, tuỳ vào
điều kiện, văn hoá của vùng nhưng vẫn không mất đi ý nghĩa cầu bình an, cầu mưa
thuận gió hoà và sức khoẻ cho cộng đồng. Nghi thức cầu mưa, cầu nước xuất hiện
trong tín ngưỡng của các cư dân làm nông nghiệp. Các dân tộc làm nông nghiệp ở
ĐBSCL cũng vậy, mỗi dân tộc có các nghi thức, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu
trung là sự thể hiện tôn sùng các vị thần tự nhiên như: thần Đất, thần Nước, thần Gió,
50
thần Mưa, thần Mặt trăng, thần Mặt trời và các vị thần cây cối hay động vật khác. Tất
cả những vị thần tự nhiên đó vẫn tồn tại trong niềm tin, trong tâm linh và tín ngưỡng
của cư dân nông nghiệp nói chung và cư dân Khmer ở ĐBSCL nói riêng.
Tiểu kết chương 1
MTTN là yếu tố cần thiết và không thể thiếu trong quá trình sinh tồn và phát
triển của con người. Sự tương tác với môi trường tự nhiên thường diễn ra ở phương
diện thích nghi và ứng phó. Khi thuận lợi, cần tận dụng những yếu tố cần thiết, con
người sẽ thích nghi; ngược lại, khi bất lợi con người sẽ đối phó. Sự thích nghi và đối
phó chính là văn hoá ứng xử với tự nhiên để tạo ra các giá trị vật chất phục vụ nhu
cầu sinh tồn của con người.
Toàn bộ nội dung chương 1, chúng tôi đã tập trung giải quyết ba vấn đề lớn liên
quan đến văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer vùng ĐBSCL đó là:
(1) Về tổng quan các công trình nghiên cứu, chúng tôi đã tập trung khảo sát một
khối lượng tương đối bao quát về vấn đề nghiên cứu văn hoá ứng xử của tộc người, cụ
thể là của người Khmer ở ĐBSCL. Với lượng công trình khá lớn, chúng tôi đã nhóm
thành hai nhóm lớn là nhóm nghiên cứu lý luận và nhóm nghiên cứu thực tiễn. Trong
mỗi nhóm, chúng tôi lại tiếp tục chia nhỏ ra nhóm nghiên cứu của các tác giả ở trong
nước và ngoài nước. Các công trình này là nguồn tài liệu, tư liệu quý giúp chúng tôi
làm tiền đề nghiên cứu cho luận án.
(2) Về mặt lý luận, nghiên cứu văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên được
các học giả phương Đông và phương Tây nghiên cứu từ lâu. Theo các quan niệm
phương Đông là gần gũi, hoà hợp và ứng xử hoài hoà với MTTN còn quan niệm
phương Tây là ứng phó và chinh phục tự nhiên. Hai quan điểm và hai nét ứng xử này
tạo nên sự đa dạng của văn hoá. Nghiên cứu về ứng xử với MTTN cũng được nghiên
cứu về mặt lý thuyết. Đã có rất nhiều công trình với nhiều học giả đưa ra các lý thuyết
cùng các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh cho các lý thuyết. Tuy nhiên, những
lý thuyết thuộc trường phái tiến hoá đa tuyến là phù hợp hơn đối với nghiên cứu về tự
tương tác của con người với tự nhiên. Chúng tôi đã tập trung khai thác và vận dụng hai
lý thuyết chính làm điểm tựa là lý thuyết sinh thái học và lý thuyết chức năng. Lý
thuyết sinh thái học văn hoá nhằm làm rõ cùng một MTTN nhưng mỗi tộc người có
những cách ứng xử khác nhau. Điều đó dựa trên tâm thức và văn hoá của tộc người.
Lý thuyết chức năng được dùng để phân tích chứng minh về cách ứng xử với MTTN
51
của tộc người thông qua các lễ tết, lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng.
(3) Về cơ sở thực tiễn, chúng tôi trình bày về những tiền đề cơ sở về lịch sử cư
trú, môi trường sinh thái cư trú, sự phân bố dân cư của người Khmer ở ĐBSCL.
MTTN ở ĐBSCL mang những đặc điểm riêng biệt vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt dẫn
đến văn hoá ứng xử của cư dân ĐBSCL nói chung và người Khmer nói riêng phải có
những cách ứng xử linh hoạt cho phù hợp với môi sinh và từ đó tạo nên văn hoá ứng
xử mang đặc trưng văn hoá của cư dân nơi đây. Người Khmer là một tộc người có lịch
sử cư trú khá sớm ở ĐBSCL. Trong qua trình sinh sống trên vùng đất này người
Khmer đã có sự thích nghi với MTTN để tạo ra các giá trị phục vụ nhu cầu văn hoá vật
thể và phi vật thể. Quá trình sinh tồn đó đã hình thành các thói quen, đặc trưng hay
đúng hơn là văn hoá ứng xử dân gian mang bản sắc văn hoá của người Khmer.
Nhìn chung, chương 1 đã trình bày về tiền đề cơ sở lý luận với các khái niệm,
lý thuyết, các công trình tổng quan liên quan đến luận án. Ngoài ra, chương 1 còn trình
bày về thực tiễn, bối cảnh, không gian, thời gian và chủ thể nghiên cứu là người
Khmer ở ĐBSCL. Toàn bộ nội dung chương là tiền đề cần thiết giúp làm rõ hơn khi
trình bày chi tiết về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL được trình
52
bày ở chương 2 và chương 3.
CHƯƠNG 2
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI ĐẤT VÀ NƯỚC
CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đất đai và nước là hai yếu tố thiết yếu giúp người Khmer có thể cư trú và sinh
kế. Trong sự thích ứng với đất, người Khmer thường chọn những giồng đất cao ráo,
những giồng đất nổi để làm nơi sinh tụ, cư trú và tạo lập nhà cửa. Trong trồng trọt,
người Khmer sẽ thích ứng tuỳ vào điều kiện đất đai họ có được. Những nơi đất cao, họ
lập thành phum, sóc, xây chùa, làm nhà. Với những vùng đất thấp hơn, họ làm ruộng
rẫy, trồng lúa và hoa màu. Tuỳ vào loại đất họ sẽ thích ứng hay ứng phó khác nhau.
Sau đất là nước là yếu tố rất quan trọng trong sinh tồn của người Khmer. Người
Khmer quan niệm rằng, nước giúp họ trồng trọt và nước còn giúp họ loại đi những yếu
tố bất lợi cho đất như đất phèn, đất mặn. Lợi dụng thuỷ triều, người Khmer còn tận
dụng nước lên xuống để thau chua, rửa mặn. Sự thích ứng nước cũng đòi hỏi nhiều
kinh nghiệm và sự linh hoạt cao.
2.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐẤT 2.1.1. Quan niệm về đất (ដី = đây) và phân loại đất
2.1.1.1. Quan niệm về đất
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Mekong, là
vùng đất được tạo nên bởi những lớp phù sa cổ với phía lớp bên dưới là nền đá cứng.
Những lớp phù sa mới do sông Mê-Kông bồi đắp hàng năm, nhiều đợt tạo thành đê thiên
nhiên, đồng ngập trũng, bưng lầy, đất giồng, đất phèn, đất mặn, đất than bùn và đất phù
sa.
Trước sự đa dạng từ môi sinh, trong quan niệm của mình người Khmer rất coi
trọng đất đai. Trong thái độ ứng xử của mình với đất, người Khmer xem đất đai là nơi
ở, là tư liệu sản xuất, là quê hương và có những tình cảm thiêng liêng với đất. Người
Khmer có thói quen cư trú ổn định trên phần đất của mình, ít chịu di chuyển và mở
rộng khai phá đất đai (giai đoạn khai khẩn vùng ĐBSCL). (Sơn Nam, 2007) cũng có
viết về thói tập quán ứng xử với đất của người Khmer như sau:
Rừng rậm, đồng cỏ ẩm thấp, sông rộng là nơi ngự trị của thần thánh, ma quỉ
53
đáng kiêng nể, bởi vậy không đặt nặng việc khẩn thêm diện tích hoặc giao
lưu. Truyền thống tiêu tưới thu hẹp trong việc đắp bờ, chăm sóc từng mảng
nhỏ (tr.17).
Cũng giống như các cư dân khác ở ĐBSCL, người Khmer xưa nay luôn chọn
thế ứng xử nương tựa vào tự nhiên, tận dụng tự nhiên hơn là đối phó với tự nhiên. Dù
là đất để xây dựng nhà ở hay đất để sản xuất người Khmer cũng có thái độ tôn kính
nhất định đối với đất. Trong tâm thức, họ luôn cho rằng đất đai luôn có tiềm ẩn thế lực
siêu nhiên bên dưới. Thế lực này sẽ là những vị thần sẽ bảo trợ, che chở cho con người
nếu con người tôn trọng, gửi trọn niềm tin; còn nếu ngược lại, con người có thái độ bất
kính với đất thì những thế lực siêu nhiên đó sẽ không bảo trợ nữa mà sẽ gây hại đến
con người.
Với tâm thức vừa trân trọng, vừa mang tâm lý có phần sợ hãi những thế lực siêu
nhiên có thể gây hại nên thái độ ứng xử với đất đai của người Khmer luôn có một niềm
tin nhất định. Mỗi khi có những hành động liên quan đến đất, người Khmer luôn phải
cầu xin, khấn vái để được các thế lực này che chở, bảo hộ.
2.1.1.2. Phân loại đất
a. Phân loại theo đặc tính của đất
Theo Gia Định thành thông chí, trong quá trình người Việt, người Khmer cùng
nhau khai phá đất đai để canh tác đã phân biệt thành hai loại ruộng là ruộng núi và ruộng
cỏ. Mỗi loại ruộng với đặc tính khác nhau nên các cư dân cần áp dụng biện pháp khác
nhau.
Ruộng núi là loại ruộng cao có nhiều cỏ, ngày đầu khai khẩn phải đốn cây
chặt cây cỏ, để khô đốt làm phân tro đợi khi mưa thì trồng lúa. Loại ruộng
này tập trung ở Bà Rịa, Đồng Nai và một ít ở giồng cao ở Mỹ Tho, Long
Hồ. Ruộng cỏ (ruộng tốt) là loại ở nơi đất thấp, ruộng đầy lùng (năn), lác,
bùn sình, mùa nắng khô thì nứt nẻ như lằn vân mu rùa, có chỗ thành kẽ nứt
sâu to; đợi có nước mưa ngấm đầy, thấm đủ, bùn đất tan rã mới canh tác.
(Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm 2016), tr.193.
Như vậy đất ở ĐBSCL hiện nay là loại ruộng cỏ như trong Gia Định thành
thông chí đã nhắc đến. Đây là cách phân loại theo đặc tính của đất của người ĐBSCL
xưa. Cách phân loại theo đặc tính của đất được người Khmer ĐBSCL phân loại đối
với đất canh tác nông nghiệp như sau (đối với người Khmer, đất nông nghiệp có nhiều
54
cách phân loại):
Thứ nhất, họ phân theo đặc tính cao thấp của ruộng và chia thành ruộng cao
và ruộng thấp. Tuỳ theo độ cao thấp của ruộng mà họ chọn cách gieo trồng sớm hay
muộn.
Đối với ruộng thấp (trũng nước) thường nhận được nước mưa sớm, gọi là
ruộng sớm, ẩm ướt nên họ gieo mạ vào khoảng tháng tư âm lịch, cấy vào
tháng sáu và gặt vào tháng mười; còn ruộng cao được nước mưa thấm ướt
sau, gọi là ruộng muộn, họ gieo mạ vào tháng năm, cấy vào tháng bảy và
gặt vào tháng mười một (Huỳnh Lứa (chủ biên) , 1987) tr. 84).
Thứ hai, họ phân theo chất của đất mà chia thành đất chua (đất phèn), đất mặn
và đất ngọt.
b. Phân loại theo mục đích sử dụng
Người Khmer ở ĐBSCL phân chia ba khu vực đất đai như sau: đất để ở, đất sản
xuất nông nghiệp và đất của nhà chùa.
Trong lịch sử cư trú, người Khmer cũng có quá trình chọn lựa khá đa dạng cho
phù hợp với điều kiện môi sinh, thổ nhưỡng của ĐBSCL. Trong những giai đoạn lịch
sử vùng ĐBSCL còn khá hoang vu, đất đai bạt ngàn, con người thưa thớt nên những
người Khmer đến trước đã chọn những vùng đất giồng cao ráo, không phèn, không
úng, nước chảy lưu thông để làm nơi cư trú. Trong đó, họ chọn nơi cao nhất để làm
nhà cửa, tạo lập phum sóc.
Với đất đai dùng để sản xuất họ thường chọn vùng đất thấp hơn, dễ thoát nước
và gần với sông rạch (tuy nhiên không quá xa nhà ở để tiện cho việc làm đồng). Người
Khmer xưa nay thường phân loại đất sản xuất thành 3 loại cơ bản: đất chua (đất phèn),
đất mặn và đất ngọt. Tuỳ vào đặc tính của đất, họ có phương pháp cải tạo và canh tác
khác nhau.
Bên cạnh đất ở, đất canh tác, quan niệm của người Khmer còn có sự phân biệt
khá rõ trong phần đất đai của nhà chùa. Đất chùa thường là phần đất cao ráo, rộng lớn
và là phần đất có giá trị linh thiêng đối với cả cộng đồng. Trong phần đất chùa nơi cao
ráo nhất được chọn xây dựng chánh điện, xung quanh là tăng xá, tháp. Ranh giới giữa
đất nhà chùa với bên ngoài được phân biệt bởi một hàng rào chắc chắn, chạm khắc tỉ
mỉ và được bao bọc bởi rất nhiều cây cổ thụ. Một số chùa còn có sở hữu đất ruộng
nhưng thông thường sư sãi không trực tiếp làm ruộng mà bà con phum sóc sẽ làm
55
ruộng rồi đem lúa vào chùa.
2.1.2. Đất ở (ដីនៅ = đây nâu)
Từ những ngày đầu cư trú, người Khmer đã sớm có những lựa chọn không gian
sống thể hiện được văn hoá tận dụng và đối phó với môi sinh của vùng đất này. Những
vùng đất cao và các giồng cát có nước ngọt ven biển là những địa bàn thuận lợi cho
việc xuất hiện những nhóm người đầu tiên (vùng núi An Giang, vùng đất cao phù sa cổ
Tây Bắc Long An, vùng giồng cát gần biển Trà Vinh, Vĩnh Châu, Sóc Trăng, Giồng
Riềng và Hà Tiên (Mạc Đường , 1991), 1991.
Trong ứng xử với đất, người Khmer thường vận dụng kinh nghiệm dân gian
mang tính đặc trưng của tộc người. Xưa kia, nhóm người Khmer đầu tiên đến cư trú ở
ĐBSCL đã chọn những vùng đất giồng để sinh cơ lập nghiệp. Đất giồng là vùng đất
được tạo nên do sự phân chia dòng chảy của các con sông mang nhiều phù sa, lớp trên
là đất cát pha thịt và dưới sâu là đất sét nên nước dễ dàng thoát ở mặt trên mà vẫn
được giữ lại ở dưới sâu. Người Khmer chọn đất giồng để cư trú còn vì đất giồng là loại
đất tốt, dễ canh tác lúa nước. Đất giồng là những gò đất cao ven sông hoặc ven biển.
Mặt khác, cư trú trên đất giồng vừa để đối phó với vùng trũng và mùa nước lên ở
ĐBSCL.
Người Khmer sinh sống theo từng cụm gia đình gọi là Phum. Mỗi Phum có
khoảng 5 đến 10 hộ gia đình và cũng có khi nhiều hơn, nhiều Phum được gọi là Sóc.
Người đứng đầu Phum, Sóc được gọi là Mê Phum, Mê Sóc. Các Sóc thường có tên gọi
riêng, tùy theo vị trí trên đất giồng, hoặc những đặc điểm tự nhiên như: sóc phía đông,
sóc giữa. Càng về sau, do dân cư ngày một tăng lên, để đáp ứng cho nhu cầu làm nông
nghiệp nên người Khmer khai phá thêm những vùng đất thấp hơn xung quanh đất
giồng. Cách cư trú trên đất giồng đi sâu vào tâm thức người Khmer được thể hiện qua
các truyện dân gian phản ánh nhiều câu chuyện có chi tiết giồng đất nổi như: Sự tích
Prặc Trapeng, sự tích Giồng Lức … Tất cả thường mở đầu bằng cụm từ “Ngày xưa ở
đây là biển…” hoặc “Ngày xưa ở đây còn ngập nước..”. Như sự tích Prặc Tràpeng (Ao
Phật) khi giải thích tại sao gọi là Tràpeng (Trà Vinh) đã nhấn mạnh chi tiết nơi đây là
vùng đất sình lầy bên bờ một cái ao. Sự tích Giồng Lức (thuộc xã Đa Lộc, huyện Châu
Thành, Trà Vinh) gọi đây là phnoo-doc - tức là Giồng Đất Nổi. Truyền thuyết về Nàng
Chanh vùng với địa danh Bãi Xàu của người Khmer ở Sóc Trăng cũng là câu chuyên
phản ánh quá trình tìm nơi cư trú của người Khmer xưa. Truyền thuyết kể rằng Nàng
56
Chanh là người đầu bếp bị nhà vua ra lệnh bắt để xử tội vì có kẻ gièm pha là nàng đã
nêm nếm các món ăn dâng cho nhà vua bằng chất bẩn bàn tay út của nàng. Nàng
Chanh hoảng sợ và bỏ trốn bằng cách quá giang ghe buôn, xuôi theo dòng sông Hậu
đến Đại Ngãi rồi rẽ vào con rạch nhỏ và dừng lại đó để nấu cơm. Nấu cơm chưa chín
nhưng nàng lại tiếp tục bị truy đuổi nên nơi đó được gọi là Bãi Xàu (cơm sống) và tên
gọi địa danh này tồn tại cho đến ngày nay. Dần dà về sau, do tình hình thực tế đất chật
người đông nên cách chọn cư trú của đồng bào không còn phải là vùng đất cao nữa mà
cư trú như các tộc người khác, cư trú xen kẻ với người Việt và người Hoa. Tâm thức
giồng đất nổi hiện hữu trong văn hoá nhận thức của người Khmer và được phản ánh
trong từng câu chuyện giải thích về địa danh của người Khmer cho đến hiện nay. Như
vậy, dù không hiện hữu rõ ràng nhưng tâm thức về “giồng đất nổi” và thói quen cư trú
trên giồng cao đã tồn tại trong văn hoá của người Khmer từ xưa đến nay.
Trong cách ứng xử với đất khi cất nhà, người Khmer truyền thống có cách cư
trú theo kiểu nhà sàn. Tuy nhiên, người Khmer hiện nay ở ĐBSCL không còn cất nhà
sàn khi ở nữa mà đa phần chọn ở kiểu nhà trệt như người Việt và người Hoa. Kiểu cư
trú nhà sàn chỉ xuất hiện nhiều ở nơi ngập nước vài tháng trong năm như tiểu vùng
ngập hở: Tri Tôn, Châu Phú (An Giang). Và đó chỉ là một loại nhà sàn dùng để đối
phó với nước ngập. Ở những tiểu vùng giồng duyên hải không bị ngập nước nên nhà
sàn chỉ còn tồn tại trong tâm thức và xuất hiện ít ỏi trong các chùa của người Khmer.
Khi đến các chùa Khmer, bên cạnh hoặc có khi và phía sau chính điện sẽ có dãy nhà
tăng xá dành cho các vị sư để ở và tu học. Những dãy nhà này thường được làm liền kề
nhau và cất theo kiểu nhà sàn sao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Ở một số chùa ở Trà
Vinh, khu vực sinh hoạt của sư và Phật tử cũng được xây dựng cao theo kiểu nhà sàn
truyền thống như chùa Ktưng (chùa Chim) ở phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà
Vinh. Cách cư trú trên nhà sàn cao này làm nên đặc trưng văn hóa của người Khmer ở
ĐBSCL khi họ phải ứng xử linh hoạt cho phù hợp với điều kiện đất đai ở vùng này.
Khi chọn được đất ở, người Khmer có hệ thống kinh nghiệm dân gian trong
việc chọn đất để cất nhà, an cư lạc nghiệp. Tâm thức chọn đất cất nhà của người
Khmer cũng là những nền đất cao, nếu đất thấp cũng phải đắp nền cho cao mới làm
nhà. Người Khmer thường tránh làm nhà trên những vùng trũng, trên những giếng
nước đào dù được lấp lại. Trong chuyến thực địa tại Phường 2, thị xã Vĩnh Châu,
chúng tôi phỏng vấn ông Thạch Rương về kinh nghiệm dân gian trong chọn đất cất
57
nhà và được ông cho biết: “Xưa kia trong việc chọn đất cất nhà, người Khmer có
những kiêng kị nhất định. Đó là tránh cất nhà trên những nền đất thấp, bởi về mặt tâm
linh, đất thấp là đất có những thế lực xấu cư ngụ bên dưới” (Phụ lục 1, Nhật kí điền dã
tại Sóc Trăng). Khi đó, bắt đầu làm nhà, người Khmer thường thể hiện sự tôn kính
nhất định với những vị Neak-ta, vị thần cai quản đất đai, trú ngụ phía tầng sâu dưới
mặt đất. Nghi thức cúng thần đất khi làm nhà ở được thực hiện đơn giản nhưng trang
nghiêm. Lễ vật cúng thường có một thức mặn (gà hoặc thịt heo luộc), thức ngọt như
trái cây, bánh ngọt cùng với hoa và nhang, đèn. Nghi thức thường được Achar hoặc
những người lớn tuổi có kinh nghiệm thực hiện nhằm thể hiện lòng thành kính của chủ
nhà đến các vị thần cai quản đất đai. Các vị Achar thường khấn các vị thần cai quản
đất đai phù hộ cho gia chủ cất nhà được thuận lợi, suôn sẻ, gia chủ bình an và tránh
bệnh tật. Khi làm nhà xong, người Khmer đem gạo và muối vào nhà trước với niềm tin
về sau sẽ không bị thiếu hụt gạo, muối để ăn.
Như vậy, thói quen cư trú ở không gian cao là thói quen cư trú điển hình của
người Khmer. Nó thể hiện văn hoá ứng xử với đất thấp trũng của ĐBSCL. Thói quen
đó hiện nay không còn nữa, chỉ còn trong tâm thức hoặc trong các kiến trúc truyền
thống tại các chùa. Cách cư trú hiện nay của người Khmer đã thay đổi và ở trên những
ngôi nhà trệt như các cộng đồng dân cư khác ở ĐBSCL.
2.1.3. Đất sản xuất (ដីផលិត = đây phol lít)
2.1.3.1. Đất canh tác (ដីបង្កបនង្កើនផល = đây bòng co bòng cơn phol)
Đối với đất đai trong canh tác, người Khmer xưa nay thường phân loại đất thành 3 loại cơ bản: đất chua (đất phèn) (ដីជូរ = đây chu), đất mặn (ដីប្រប = đây p-ray) và
đất ngọt (ដីផ្ផែម = đây ph-em). Tuỳ vào đặc tính của đất họ có phương pháp cải tạo và
canh tác khác nhau. Đối với đất ngọt, tức đất không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, người Khmer thường trồng lúa (ររូវ = s-râu) và các loại hoa màu (ដំណំ = đòm năm); còn với đất
ven biển thường xuyên chịu nhập nhập mặn và nhiễm phèn, đồng bào thường cách tác
các loại hoa màu chịu được mặn như đậu phộng, hành tím, tỏi, củ cải trắng…Kinh
nghiệm xem đất để canh tác của người Khmer còn được thể hiện qua câu: “Đất nhiều ើផ្ររ,ដីតិររតូវដំបផ្នែ = đây ch-rơn t-râu th-vơ s-re, nên làm ruộng, đất ít nên trồng rau” (ដីនររើនរតូវន្វ
đây tích t-râu đăm bònh le ) hoặc “Đừng làm ruộng gần đường voi đi” (ក ំន្វ ើផ្ររផ្កែរនលែ ដំរីនដើរ
58
=cùm th-vơ s-re k-be ph-lâu đòm rây đơ) . Với người Khmer, họ luôn trân trọng đất,
quý đất như câu: “Đàn ông quý như đất, đàn bà quý như phân” (ប ររ់រំខាន់ដូរដី, ស្តររ ីរំខាន់ដូរជី = bồ
rós sòm khanh đốch đây, sách t-rây sòm khanh đốch chi) để cho thấy đất đai luôn được
xem trọng hàng đầu.
Nhìn chung, điều kiện đất đai vùng ĐBSCL có sự phân hoá khá đa dạng. Tuỳ
vào điều kiện sẵn có mà người Khmer tận dụng hoặc cải tạo để phù hợp với nhu cầu
sinh kế của mình. Cụ thể, đất ở vùng này thường xuyên nhiễm phèn, vì thế, để trồng
được lúa, người Khmer xưa kia phải vận dụng kinh nghiệm dân gian của mình. Thứ
nhất, khi cày đất, họ thường tránh cày sâu để tránh tăng độ phèn. Thứ hai, họ thường
có biện pháp tháo chua rửa phèn để làm giảm bớt độ chua trong đất. Khi có lũ về,
người Khmer thường không đắp đập ngăn lũ mà cho nước lũ tràn về đầy các đồng
ruộng để khi nước lũ rút mang đi độ phèn và để lại dư lượng phù sa. Như người
Khmer có câu: “Bờ không kín thì nước chảy” (ភ្ែ ឺមិនជិតទឹកនឹង្ហូរ = ph-lư mình chích tức nừng
hô) cho thấy được kinh nghiệm trong việc đắp đặp ngăn nước của họ. Đây có thể được
xem là cách vừa ứng xử với đất vừa ứng xử với nước của đồng bào Khmer.
Kinh nghiệm dân gian trong ứng xử với đất ngoài việc xác định, phân loại, xử lý
đất còn có công đoạn canh tác đất cũng cực kì quan trọng. Đất ở ĐBSCL còn có loại
đất cứng và đất mềm. Để ứng phó với đất cứng, người Khmer có một phát minh trong
lao động sản xuất là tạo ra chiếc nọc cấy. Nọc cấy là công cụ dùng để cấy lúa ở ruộng
đã phát cỏ và chế gốc, làm bằng gỗ nhọn để chọc lỗ xuống đất và cấy lúa vào lỗ. Để độ
sâu của lỗ cấy không quá sâu hoặc không quá cạn, ở gần chỗ mũi nhọn của nọc cấy có
lắp một thanh gỗ ngang với mặt ruộng. Tuỳ theo vùng (đất cứng) lỗ của lọc cấy sẽ có
độ to hay nhỏ khác nhau. Nọc cấy của người Khmer thường được chạm trỗ hoa văn
đẹp mắt. Nọc cấy của người Khmer cũng rất đa dạng về hình dáng: nọc cấy ngắn dành
cho đất cạn, nọc cấy dài dành cho đất sâu; loại nọc cấy nhọn cho đất cứng còn nọc cấy
dẹt dành cho đất mềm. Loại đất cứng ở vùng đất giồng cao thường rất khó dùng tay để
cấy lúa nên người Khmer phải sử dụng chiếc nọc cấy để chọc lỗ cấy lúa. Trong những
ngày đầu khẩn hoang, đất đai ở ĐBSCL còn khá hoang hoá nên rất cứng. Khi phát cỏ
xong, trong đất vẫn còn gốc cỏ, rễ cây đâm tua tủa, nhọn, dễ đứt tay và khá cứng nên
người Khmer đã sử dụng chiếc nọc cấy giúp cây lúa bám chắc và không bị nổi chân.
Trong sự ứng xử với đất đai, người Khmer xưa nay thường khá linh hoạt trong
thích nghi với đất cao và đất trũng. Với vùng đất cao, dễ thoát nước, họ có thể trồng
59
lúa, trồng hoa màu. Tuy nhiên, những vùng trũng, dễ ngập nước vào mùa nước nổi thì
việc trồng lúa có chút khó khăn. Sự nương tựa, thích nghi với điều kiện tự nhiên cao
đã thể hiện qua việc tìm được giống lúa nổi để đối phó với nạn nước ngập vào mùa
mưa. Lúa nổi là giống lúa khá đặc biệt, lúa có thể chịu đựng được nước ngập sâu, nước
lên cao bao nhiêu lúa lên cao bấy nhiêu. Lúa nổi có thể cao qua khỏi đầu người hoặc
có khi cao đến 3 mét. Với các loại hoa màu, người Khmer cũng có những cách tận
dụng đất để phù hợp với từng loại hoa màu khác nhau như “Trồng rau giồng ngắn,
trồng cải giồng dài” (ដំបផ្នែរង្ខ្ែ ី, ដំប្រៃរង្ផ្វង្ = đăm bònh le ruông kh-lây, đăm s-pi ruông veng )
hoặc “Trồng hành thì làm giồng, trồng mướp thì làm giàn” (ដំខ្ទ ឹមរតូវន្វ ើរង្, ដំននោង្រតូវន្វ ើនរទើង្ = đăm
kh-tưm t-râu th-vơ ruông, đăm nồ nôn t-râu th-vơ t-rơng).
Trong khai thác đất, tận dụng đất để trồng trọt người Khmer ở phường 2 (Vĩnh
Châu, Sóc Trăng) được quy hoạch hai vùng sản xuất rõ rệt: 7 khóm khu vực I (Cà
Săng, Cà Lăng A Biển, Cà Lăng A, Vĩnh An, Vĩnh Bình, Cà Lăng B, Sân Chim)
chuyên trồng lúa, lúa- màu, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ven bờ; 4 khóm khu vực
II: (Giồng Me, Vĩnh Trung, Soài Côn, Đai Rụng) chuyên nuôi trồng thủy sản. Đối với
7 khóm khu vực II, người dân đã tận dụng vòng quay của đất sản xuất màu 3 vụ/năm,
cá biệt có nhiều hộ sản xuất 4 vụ/năm. Các loại màu chính là củ hành tím, của cải
muối, rau, quả củ các loại. Đây là các loại nông sản được sản xuất theo quy trình
Global G.A.P rất được thị trường ưa chuộng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường
trong nước và xuất khẩu. Trên diện tích đất lúa xen màu, sau khi thu hoạch lúa người
dân cải tạo đất và dưa màu xuống chân ruộng với các loại màu chính là củ hành tím,
bắp và các loại rau đậu phụ khác.
Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL tương đối đa dạng, phức tạp về chủng loại.
Trước sự biến đổi phức tạp về MTTN hiện nay, môi trường đất cũng có nhiều biến
động nhất định như sự gia tăng độ mặn, độ phèn. Tuy nhiên, dù có dự biến đổi như thế
nào thì cách ứng xử của người Khmer ở ĐBSCL cũng là cách ứng xử thích nghi hơn là
đối phó.
2.1.3.2. Đất trong nghề thủ công (ដីកនុង្រិលែៈហតថកមម = đây k-nông sil-lặk-pắc hách-tặc-
căm)
Đất được xem như một tài nguyên vô giá trong đời sống con người. Đất cho
con người nền tảng để tạo ra lương thực, nơi cư trú và đất còn cho con người những
60
sản phẩm thủ công. Người Khmer vùng Tri Tôn tỉnh An Giang tận dụng loại đất vùng
chân núi cùng với những lúc nông nhàn đã tạo ra các loại vật dụng như cà ràng (bếp),
nồi đất, khuôn bánh khọt. Sản phẩm gốm tại ấp Phnôm Pi (bà con nơi đây vẫn còn
quen gọi là sóc Phnôm Pi) ở xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang xưa kia rất
nổi tiếng và được nhiều thương lái ở các tỉnh ĐBSCL tới thu mua. Vào mùa khô,
những người phụ nữ Khmer ở đây đến chân núi Nam Quy để chở đất về chế tác đồ
dùng. Đất Nam Quy có đặc tính dẻo, khi nung lên những sản phẩm rất bền chắc được
khắp nơi ưa chuộng.
Theo chị Thạch Thị Tum (nữ- 28 tuổi) tại sóc Phnôm-Pi cho biết:
Đất làm gốm thường được khai thác dưới chân núi Nam Quy, cách sóc
Phnôm-Pi khoảng hơn 1 kí-lô-mét. Theo người dân Khmer nơi đây chỉ có
đất ở ven núi Nam Quy mới làm được đồ gốm. Đây là một loại đất sét xám,
pha nhiều cát mịn, đào những hố sâu xuống khoảng 1,5 mét mới gặp lớp đất
sét này. Đất khai thác làm gốm sau khi mang về nhà được luyện kĩ trên một
tấm ván gỗ hoặc đá nhằm loại bỏ các hạt sạn và sỏi và cũng để làm đất tơi
mịn. Sau đó, đất được nhồi với nước để đất được quánh, dẻo. Công việc tạo
hình gốm đòi hỏi sự khéo kéo của những người phụ nữ lớn tuổi và có kinh
nghiệm. Lò gốm sau khi được tạo hình xong phải được phơi nắng cho khô
rồi với đem đi nung (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại An Giang).
Kĩ thuật làm gốm của người Khmer Tri Tôn là không dùng bàn xoay hoặc ứng
dụng bất kì phương tiện kĩ thuật nào để tạo hình mà chỉ đơn thuần bằng tay và kinh
nghiệm. Đây cũng là nghề khá đặc biệt của người Khmer ở An Giang. Đất sét vùng Tri
Tôn khá dẻo nên khi sử dụng làm nồi đất đặc biệt rất bền chắc và do dễ tạo hình nên
tính thẩm mỹ cũng rất cao. Những sản phẩm này trước kia được các thương buôn từ
các tỉnh đến mua rất nhiều và mang lại giá trị kinh tế rất cao cho người Khmer vùng
này. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu sử dụng cà ràng, nồi đất ngày càng ít đi nên các hộ
gia đình làm nghề nặn đất ở Tri Tôn ngày một thưa thớt. Khi điền dã tại đây chúng tôi
ghi nhận chỉ còn năm hộ còn làm nghề này. Tuy nhiên, đây cũng không phải là nghề
chính mà chỉ là nghề phụ để kiếm thu nhập thêm cho gia đình [ 2.1.4. Đất thể hiện qua tín ngưỡng, phong tục (ដីកន ុង្ជននឿ,ទំននៀមទម្លែ ប់ =đây k-nông
chùm nưa, tùm niêm tùm lóp)
Nhìn chung, người Khmer vùng ĐBSCL rất linh hoạt trong thích nghi và ứng
phó với đất. Sự thích nghi đó không chỉ đơn thuần trong sinh hoạt sinh kế hàng ngày
61
mà còn được phản ánh trong tâm thức của người Khmer trong tín ngưỡng thần đất.
Sống dựa vào tự nhiên, dựa vào đất đai để cư trú và làm nông nghiệp nên từ xa xưa
người Khmer đã có tín ngưỡng thần đất (Prah phum, nữ thần Him Tholny) trong tín
ngưỡng dân gian của mình.
Trong những dịp quan trọng liên quan đến đất đai như động thổ cất nhà, gieo hạt,
thu hoạch người Khmer đều có nghi thức cúng thần đất. Để cúng thần đất, người Khmer
xếp các thứ bánh làm từ gạo và nếp vào một chram (cây tre chẻ quanh một đầu tủa ra
như hình phễu để trái dừa ở giữa và bánh rượu) rồi cắm vào đất (đất ruộng). Sau mỗi
mùa thu hoạch lúa, tôm hoặc hành tím người Khmer Sóc Trăng thường có nghi thức
cúng tạ ơn thần đất cùng những vị thần cai quản đất. Lễ vật cúng thường đơn giản như
bánh, trái cây, đầu heo hoặc gà, vịt và nhang đèn, nếu mùa thu hoạch nào bội thu thì lễ
vật cúng còn có cả heo quay. Lễ cúng này nhằm cảm tạ thần đất đai, các vị thần khác đã
phò trợ cho người dân một mùa màng thuận lợi, bội thu. Người Khmer nuôi tôm ở Sóc
Trăng không chỉ cúng thần đất khi thu hoạch mà khi khởi sự vụ mùa như trước khi thả
tôm họ cũng cúng để cầu xin. Nghi thức cúng cũng thường đơn giản như vịt luộc, trà
rượu, nhang đèn.
Như khi người Khmer xây dựng nhà cửa trên đất có các nghi thức như: “chọn
nền nhà”, “lễ mua đất của thổ thần” (gọi là lễ “Krong phum”). Người chủ lễ thường là
các Achar sẽ thực hiện các nghi thức cúng thổ thần và các vị thánh thần khác nhằm cầu
mong việc xây cất nhà được thuận lợi, suôn sẻ. Trong các nghi thức có nghi thức mà
theo chúng tôi mang yếu tố tâm linh liên quan đến thần đất đó là ông Achar cầm 8 hòn
đất trong tay, đọc kinh xong thổi vào 8 hòn đất đó rồi ném đi 8 hướng. Người Khmer tin
rằng nhờ có lời kinh và làm phép như thế nơi cư trú sẽ được yên lành, không sợ tà ma
quấy phá.
Trong những lễ hội của người Khmer như lễ dâng y Kathina hay lễ Kiết giới
Sima (lễ khánh thành chùa) người Khmer thường có nghi thức cúng thần đất trước
khi diễn ra các nghi lễ chính. Người Khmer cúng đất đai với ý nghĩa cầu mong thần
đất cho phép và phò trợ các nghi thức được diễn ra được thuận lợi, suôn sẻ. Lễ vật
cúng gồm có nhang, hoa, bánh, cơm và thức ăn. Tất cả được bày trong mâm tròn và
nghi thức thực hiện bởi Achar.
Trong tín ngưỡng dân gian, người Khmer cũng có niềm tin tưởng và thực hiện
những nghi thức khi có tác động đến đất đai. Xưa kia khi muốn phá một góc rừng làm
rẫy, người Khmer thường lựa một gốc cây lớn nhất, dọn dẹp xung quanh sạch sẽ, cất
62
cái miễu nhỏ bằng cây lá và thỉnh ông Tà (Neak-tà) trong rừng về ở tại miễu. Trong
quan niệm của người Khmer, ông Tà là vị thần bảo hộ và thường được hình tượng
bằng hòn đá nhẵn thờ ở Phum, sóc hoặc ruộng rẫy. Vì thế mà người Nam Bộ có câu:
“ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng” là thế. Khi bắt đầu cày ruộng, họ cúng vái ông
Tà, xin phù hộ cho mùa màng được tốt. Trong mảnh ruộng nào có ông Tà (Điền thần)
người ta sẽ giữ nguyên không dám xâm lấn hay phá vỡ.
Trải qua thời gian dài trong lịch sử, văn hoá người Khmer hiện nay được tiếp
biến nhiều lớp văn hoá khác nhau. Trong văn hoá bản địa, người Khmer có tín ngưỡng
thần đất được thể hiện trong các nghi thức nông nghiệp. Khi tiếp nhận văn hoá Phật
giáo, hình tượng nữ thần đất được hoà nhập vào văn hoá Phật giáo và hoà nhập vào
Phật tích. Trong đó có câu chuyện khi Phật Thích ca sắp thành đạo có chằn tinh đến
phá rối, muốn chiếm đoạt ngôi vị Phật đang ngự. Lúc đó, nữ thần đất (Prah Thorni) đã
đấu tranh để giành lại ngôi vị cho Đức Phật. Trong một số ngôi chùa của người
Khmer, phía sau chính điện có điêu khắc nữ thần Đất với hình dáng là một người phụ
nữ có mái tóc dài mang đến sự giàu có, đất đai màu mỡ, phù trợ, che chở nơi đất Phật
linh thiêng. Vì niềm tin tôn giáo, niềm tin vào thế lực siêu nhiên nên người Khmer
quan niệm rằng đất đai nơi Phật ngự trị là đất đai thiêng. Trong cuộc sống, người
Khmer luôn ý thức về việc tránh xâm hại đến đất đai của nhà chùa. Dưới góc nhìn sinh
thái học Phật giáo, ta thấy có những quy định của tôn giáo giúp cho việc giữ gìn tài
nguyên thiên nhiên trong đó có bảo vệ tài nguyên đất.
2.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI NƯỚC
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng lớn ở hạ nguồn sông Mekong.
Sông Mekong có lưu lượng nước khá lớn – đứng thứ 10 trên thế giới với chiều dài
khoảng 4200km. Ở phía trên Phnôm-Pênh (Campuchia) sông Mekong có một nhánh
hợp lưu với Tonlé Sap. Từ Phnôm-Pênh, sông chia làm hai nhánh: nhánh phía Bắc đổ
vào sông Tiền; nhánh phía Nam đổ vào sông Hậu (Wikipedia, “Mekong”, 2018).
Hệ thống sông Cửu Long có rất nhiều sông rạch chằng chịt với khoảng 2500
km sông rạch tự nhiên và khoảng 2500 km sông rạch do con người đào. ĐBSCL được
hình thành từ trầm tích phù sa ngọt cổ, được bồi đắp qua từng kỉ nguyên thay đổi mực
nước biển, kéo theo sự hình thành những giồng cát chạy dọc theo bờ biển. Ngoài lưu
lượng nước sông mang lại, vùng ĐBSCL còn được tiếp nhận một lượng nước mưa rất
lớn hàng năm. Gió mùa Tây Nam đưa mưa về và cũng đưa mùa lũ làm ngập cả vùng
đồng bằng. Đợt lũ đầu tiên trong năm thường đổ về khoảng tháng 6, tháng 7 và sau đó
63
tuỳ vào cường độ gió mùa mà có thêm những đợt lũ khác.
Diện tích vùng ĐBSCL khoảng 40.577 km2 với gần 21,49 triệu người (Tổng
cục thống kê, 2019). Hàng năm một diện tích rộng hơn 2 triệu héc-ta ở phía Bắc
ĐBSCL bị ngập do lũ sông Mekong, gần 2 triệu héc-ta ven biển bị nhiễm phèn, vùng
sâu, vùng xa thiếu nước ngọt, cơ sở hạ tầng của vùng còn yếu kém… ĐBSCL còn có
nguồn nước mặt khá phong phú. Nước sông Tiền và sông Hậu có chất lượng thay đổi
theo mùa rõ rệt. Mùa khô, hàm lượng các chất hòa tan cao, mùa lũ hàm lượng này thấp
hơn, nhưng bù lại nước có hàm lượng nước trong vùng ĐBSCL khá phức tạp, chịu sự
chi phối từ điều kiện tự nhiên, chế độ khí hậu, thủy văn và hoạt động phát triển kinh tế
xã hội của con người.
2.2.1. Quan niệm về nước (ទឹក=tứk) 2.2.1.1. Nước là nguồn gốc của sự sống
Người Khmer ở ĐBSCL có nhiều câu chuyện giải thích sự tạo lập thế gian hình
thành con người, giải thích hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc dân tộc liên quan đến yếu
tố nước.
Trước hết, để giải thích sự tạo lập thế gian hình thành ra con người người
Khmer có truyện Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Truyện giải thích về sự có mặt của
con người trên thế gian này xuất phát từ trong biển nước, phản ánh quá trình tạo lập
của người Khmer trên vùng đất đầm lầy ở đây. Với lối cư trú truyền thống trên những
gò đất cao đã hình thành trong tâm thức của người Khmer trong truyện Nguồn gốc vũ
trụ và muôn loài như sau: “bốn bề là một biển nước bao la vô cùng tận”, “những
mảng bọt nước khô dần, rồi cứng lại thành những lục địa” (Huỳnh Ngọc Trảng , 1987)
tr. 24, 25. Có thể, những hình ảnh biển nước mênh mông, hoang vu sình lầy ở ĐBSCL,
những gò đất cao còn lại sau những đợt biển lùi đã trở thành một nét ký ức và phản
ánh lại trong những câu chuyện giải thích nguồn gốc loài người của người Khmer.
Trong một truyện khác người Khmer cũng giải thích về sự hình thành của giới tự
nhiên trong vũ trụ đó là truyện Sự hình thành trái đất và loài người (Chu Xuân Diên
(chủ biên) , 2002) tr.17, 18. Câu chuyện nói về 4 vị thần hóa thân phát nguyện thành
các hiện tượng tự nhiên như: Gió, Ánh sáng (mặt trời, mặt trăng), Nước và Lửa. Câu
chuyện còn giải thích rằng những yếu tố tự nhiên này là 4 yếu tố hình thành nên cơ thể
con người. Cùng với các câu chuyện dân gian giải thích các hiện tượng tự nhiên, người
Khmer còn có truyện Sự tích mưa, gió, mặt trời và mặt trăng. Câu chuyện kể về mối
64
quan hệ ứng xử giữa các người con là bốn anh em trong một gia đình. Ba người anh
với bản tính tham lam, háo ăn khi chết đi hoá thành Mưa, Gió và Mặt trời còn người
em bản tính hiền lành, biết nhường nhịn nên khi chết hoá thành Mặt trăng. Mưa, Gió
và Mặt trời ngoài sự hữu ích mang đến cho cuộc sống loài người thì cũng mang lại
nhiều bất lợi, tai hoạ như mưa dầm gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây
cối hoặc nắng hạn làm cho đất ruộng nứt nẻ, không ai gieo cấy được. Đó là dấu ấn về
tính cách của ba người anh bất hiếu, ham ăn chỉ riêng người em út với bản tính hiền
lành nên hoá thành Mặt Trăng với ánh sáng hiền diệu, tươi mát muôn nơi. [Phụ lục 3,
Truyện dân gian Khmer].
Dân tộc nào cũng có những câu chuyện giải thích các hiện tượng tự nhiên xảy
ra xung quanh. Khi mà nhận thức con người còn giản đơn, cuộc sống con người chưa
có sự tham gia của tri thức khoa học, con người chỉ có thể giải thích tự nhiên bằng
những suy nghĩ hồn nhiên tùy theo điều kiện sinh sống, quan hệ xã hội của dân tộc
mình. Người Khmer ở ĐBSCL cũng giải thích hiện tượng lũ lụt bằng câu chuyện Niếc
tà Phnum và Niếc tà Tức. Câu chuyện kể về cuộc tranh chấp giành lấy tình yêu của hai
vị thần: Niếc tà Phnum (thần Núi) và Niếc tà Tức (thần Nước). Niếc tà Phnum mang lễ
vật đến trước nên cưới được công chúa, Niếc tà Tức mang lễ vật đến sau nên thua cuộc
và mang lòng căm hận về biển. Tuy nhiên, hàng năm Niếc tà Tức vẫn mang lòng căm
hận và dâng nước cao làm ngập ruộng vườn, nhà cửa gây thiệt hại cho cuộc sống
người dân. Với mô – típ Thần Núi - Thần Nước, câu chuyện Niếc tà Phnum và Niếc tà
Tức đã thể hiện những ấn tượng của người Khmer về nạn lũ lụt. Sự phản ánh về hiện
tượng tự nhiên mưa, gió, thần Núi, thần Nước trong thần thoại của người Khmer phần
nào phản ánh tâm thức ứng xử với nước của người Khmer (Phụ lục 3, Truyện dân gian
Khmer, Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức).
Tâm thức về ứng xử với nước trong quá trình chinh phục tự nhiên còn được
phản ánh qua truyền thuyết của một ngôi chùa ở Trà Vinh. Ngôi chùa này có tên là
Bodhisàlaraja (theo tiếng Phạn), người Khmer gọi là Wat Kompong (dịch nghĩa là
chùa Bến) và được người Trà Vinh hiện nay gọi là chùa Ông Mẹt. Truyền thuyết kể
rằng, vùng đất Trà Vinh xưa kia có một trận lụt lớn, toàn vùng ngập trong biển nước.
Sau khi nước rút đi có một tượng Phật lớn nổi lên. Người dân đã xây dựng một ngôi
chùa để làm nơi thờ Phật. Vùng đất này được người Khmer gọi là “Preak Traveng” với
ý nghĩa là “Ao Phật”. Sau đó, khi người Việt đến đã gọi trại đi là “Traveng”, “Tra
65
Vang” rồi sau cùng đến tận bây giờ là Trà Vinh (Phan An, 2009).
Có thể nhìn nhận rằng những truyền thuyết về nạn hồng thủy hoặc truyền thuyết
giải thích về các hiện tượng tự nhiên phần nào đã phản ánh được quan niệm của người
Khmer đối với nước. Trong quá trình thích ứng tới tự nhiên, người Khmer đã phải sớm
đương đầu với những khó khăn, tổn thất do tự nhiên mang lại, trong đó có nước. Với
người Khmer, nước không chỉ mang đến những nguồn lợi mà nước còn là khởi nguồn
của mọi sự sống trên thế gian.
2.2.1.2. Nước có ý nghĩa trong sạch, có chức năng thanh tẩy
Đặc tính thông thường của nước mang tính hai mặt: vừa tốt (tái sinh) vừa xấu
(hủy diệt, nhấn chìm). Trong tâm thức của người Khmer nước thường chỉ mang ý
nghĩa tốt. Nước xua đi những cái xấu và mang tới điềm may, điều tốt lành cho con
người. Người Khmer ở ĐBSCL rất quý trọng nước và từ trong tâm thức, người Khmer
quan niệm nước có chức năng thanh tẩy và cầu phúc
Trong các nghi thức tôn giáo, nghi thức tín ngưỡng dân gian, nước được dùng
dưới dạng nước thơm (Tưk-op). Loại nước này có tác dụng xua đuổi tà ma, mang đến
nhiều điềm phúc lành cho con người. Nước này thường được ướp bằng các loại hoa,
chất tinh dầu hoặc nhang thơm. Đây là loại nước do các nhà sư hoặc các Achar vừa
vẩy vừa đọc kinh cầu an, cầu phúc mới có hiệu lực.
Trong văn hóa tinh thần của người Khmer, hành động thanh tẩy bằng nước
không chỉ dùng lại ở việc vẩy nước thơm mà còn cả hành vi xối nước, tắm nước. Hành
vi xối nước dường như trở thành một nét văn hóa riêng của người Khmer. Nó không
đơn thuần là việc kì cọ làm sạch thân thể tại nhà nữa mà nó trở thành một hành động
mang tính thiêng. Người Khmer ở ĐBSCL có tục xối nước trừ tà, cầu may. Khi một
người nào đó gặp chuyện xui xẻo cho rằng bị một thế lực nào đó phá hoại, trù ếm,
hoặc chỉ đơn giản là muốn cầu phúc người Khmer tìm đến chùa nhờ các vị sư tụng
kinh và xối nước lên đầu. Người Khmer ở Trà Vinh có thói quen là mỗi khi có chuyện
không may họ sẽ đến chùa Âng (tiếng Khmer là Anggorràjapurì) để nhờ sư tụng kinh
xối nước. Những người Khmer cho rằng, dù không có bị tà ma quấy phá nhưng mỗi
khi có cảm giác buồn phiền hoặc có trục trặc trong cuộc sống họ cũng đến chùa để
được xối nước. Người Khmer nghĩ rằng chỉ có oai lực của kinh tụng và sức mạnh tẩy
uế của nước mới có thể rũ mọi chuyện chẳng lành và mang đến một sự thanh sạch, yên
lành cho cuộc sống. Việc nhờ sư sãi tụng kinh và xối nước trở thành một hành động rất
66
gần gũi và đời thường trong cuộc sống của người Khmer (Lê Thuý An , 2012).
Trong nhận thức của người Khmer ĐBSCL nước còn là cầu nối để hồi hướng,
phước báu đến vong linh người quá cố. Trong các lễ cầu siêu đến các vong linh đã
khuất, các vị Achar thường đổ nước xuống đất để vong linh nhận được phước báu của
người cúng. Nước mang chức năng chuyển tải nguyện vọng của con cháu và cầu phúc
cho vong linh người thân sớm siêu thoát.
Nước mang ý nghĩa thanh tẩy, cầu phúc xuất hiện nhiều trong các nghi lễ dân
gian, nghi lễ tôn giáo của người Khmer ở ĐBSCL. Nước vừa mang chức năng thanh
tẩy nhằm xóa sạch vết nhơ tội tỗi để con người trở về với trạng thái thanh sạch vừa
mang chức năng cầu phúc, cầu bình an. Dù có chức năng gì hay mang ý nghĩa gì trong
nhận thức của người Khmer nước mang tính lợi và luôn giúp đỡ con người về mặt tinh
thần. Đó chính là dạng nước sạch, nước thơm mà người Khmer luôn trân trọng và yêu
quý. Xét dưới góc độ lý thuyết chức năng, những hành vi trong nghi lễ tôn giáo, tín
ngưỡng đều có một chức năng nhất định. Nó phục vụ để thoả mãn nhu cầu tinh thần
của con người. Xét hành vi ứng xử với nước trong văn hoá của người Khmer đối chiếu
với thuyết chức năng, chúng tôi cho rằng, nước có chức năng rất rõ ràng trong đời
sống văn hoá tinh thần, nó giúp thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh của
người Khmer ở ĐBSCL. Những ý nghĩa mà người Khmer cho rằng mang đến sự thanh
sạch, xua đi những buồn phiền, không may mắn hay không sạch sẽ đó là biểu hiện của
chức năng thanh tẩy của nước trong tâm thức của người Khmer.
2.2.2. Nước sinh hoạt (ទឹកនរបើរារ់ = tứk p-rơ p-rá) Văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL là nền văn hoá trọng cộng đồng. Người
Khmer luôn tôn trọng không không gian, tài sản sử dụng chung, trong đó phải nói đến
là giếng nước chung của cộng đồng. Mỗi phum, sóc của đồng bào thường có một hoặc
nhiều hơn giếng nước chung dùng để lấy nước cho việc ăn uống, sinh hoạt cho cả
phum, sóc. Vì vậy, nguồn nước chung này không đơn thuần là nước dùng cho sinh
hoạt mà văn hoá ứng xử với nước chính là văn hoá sinh hoạt cộng đồng của dân tộc.
Nếu như bến nước được xem là biểu tượng, là văn hoá ứng xử cộng đồng của người
Việt thì giếng nước chung được xem như một biểu tượng cho tính cộng đồng của
người Khmer. Giếng nước là nơi để họ đến lấy nước về sinh hoạt nhưng cũng chính là
nơi để gặp gỡ, trao đổi và kéo theo đó là các quy tắc ứng xử cộng đồng.
Người Khmer xưa kia có những quy tắc riêng dành cho ứng xử với nguồn nước
chung của cộng đồng. Mặc dù không được ghi chép thành luật tục nhưng những quy tắc
67
này được giáo dục bằng cách truyền miệng trong cộng đồng như một luật bất thành văn.
Quy ước truyền truyền khẩu này được cộng đồng chấp nhận, tuân thủ và thực hiện nó một
cách nghiêm túc. Khi sử dụng nguồn nước, người Khmer không được chăn thả súc vật
gần giếng nước, không được ném vật dơ xuống giếng để không làm dơ bẩn nguồn nước
chung.
ĐBSCL là vùng đất vừa thừa nước vừa thiếu nước. Thế nên, từ xa xưa, người
Khmer cùng các tộc người ở vùng đất này có kinh nghiệm dân gian trong quá trình tìm
kiếm nguồn nước, khai thác nước và đối phó với nạn khan hiếm nước. Tâm thức về
hình trình tìm kiếm nguồn nước của người Khmer được phản ánh qua những câu
chuyện về đào ao, đào giếng như sự tích Ao Bà Om và sự tích Giếng Anh, Giếng Chị.
Sự tích Ao Bà Om kể về cuộc tranh tài thi đào ao của một nhóm nam và một
nhóm nữ. Ngày xưa, trong phong tục cưới xin của người Khmer người nữ phải đi cưới
người nam. Để phân định lại, họ đã tổ chức cuộc thi đào ao từ đêm tới đến khi sao Mai
mọc thì cuộc thi chấm dứt. Nếu nhóm nam thua thì về sau nam phải đi cưới nữ và
ngược lại. Người dẫn đầu nữ có tên là Bà Om. Nhóm nữ biết sức yếu nên siêng năng
chăm chỉ đào còn nhóm nam thì ỷ lại có sức mạnh nên vừa làm vừa nghỉ. Đến gần
sáng, nhóm nữa cho treo đèn giả làm sao Mai nên nhóm nam tưởng mình đã thua nên
không cần đào nữa. Cuộc thi kết thúc và nhóm bà Om đã giành chiến thắng. Kết quả là
hiện nay người Khmer không còn tục bên nữ đi cưới bên nam nữa. Theo chúng tôi,
đây là câu chuyện nằm trong mô-típ thi tài của người Khmer. Câu chuyện có nhiều
tầng nghĩa khác nhau vừa phản ánh tàn tích văn hoá mẫu hệ xưa kia của người Khmer
vừa phản ánh được quá trình đấu tranh ứng phó với thiên nhiên để tìm nguồn nước của
cộng đồng. Câu chuyện ao Bà Om còn phản ánh đúng với kinh nghiệm tìm nguồn
nước trong dân gian của đồng bào. Ngày xưa, kinh nghiệm tìm nguồn nước của người
Khmer thường phải được diễn ra vào ban đêm. Người có kinh nghiệm sẽ ra đồng
trống, cảm nhận đất nơi nào mát thì chắc hẳn sẽ có mạch nước ngầm tốt bên dưới lòng
đất (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích Ao Bà Om)
Xét theo lý thuyết sinh thái học văn hoá của Steward, cách ứng xử với MTTN
của người Khmer thiên về tận dụng, thích nghi với điều kiện sẵn có đồng thời ứng phó
với những điều kiện khó khăn. Để có thể thích nghi và sinh tồn trên vùng đất hiểm trở
và có phần khó khăn của ĐBSCL trong những ngày đầu cư trú, người Khmer phải đối
mặt với những khó khăn về môi sinh, về khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng… Có thể nói, tri
68
thức dân gian về giữ gìn nguồn nước phần nào phản ánh quá trình đi tìm nguồn nước
được lưu lại bằng những câu chuyện giải thích địa danh, những truyền thuyết liên quan
đến ao, hồ, của người Khmer. Mỗi câu chuyện là một sự phản ánh hình thức tìm kiếm
và bảo quản nguồn nước khác nhau nhưng giữa các câu chuyện lại có chung một điểm
là khát vọng tìm kiếm nguồn sống để sinh tồn. Câu chuyện về thi đào ao ở Trà Vinh
hay câu chuyện đào giếng ở Sóc Trăng phần nào phản ánh tâm thức khao khát tìm
kiếm nguồn sống và thể hiện được hệ thống tri thức thức dân gian vô cùng phong phú
của người Khmer xưa (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích giếng Anh, giếng
Chị). Những câu chuyện dân gian này luôn nhắc nhở cho người Khmer về những khó
khăn trong sự thiếu thốn nguồn nước sạch trong quá trình di cư và định cư sinh sống
trên vùng đất ĐBSCL.
2.2.3. Nước trong sản xuất (ទឹកកន ុង្ផលិតកមម = tứk k-nông phol-lít-tặt căm)
Từ bao đời nay, kinh tế chính của đồng bào Khmer ở ĐBSCL là canh tác nông
nghiệp lúa nước. Tuỳ vào điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng mà họ chọn canh tác
độc canh cây lúa hay xen canh cây lúa với các loại hoa màu. Có khi cùng một loại hình
thổ nhưỡng nhưng khi điều kiện thời tiết, khí hậu môi trường thay đổi họ cũng thay đổi
phương thức canh tác. Để đảm bảo điều kiện sinh trưởng, tăng trưởng cho cây trồng
người Khmer thường tận dụng nguồn nước sẵn có là nước mưa, nước từ ao hồ, sông
rạch. Kinh nghiệm dân gian của người Khmer đối với điều kiện nước cho cây trồng
được thể hiện qua câu “Trời mưa tốt lúa, trời nắng tốt vườn” (នមឃនភ្ែៀង្លែររូវ,នមឃនតរ លែរំការ = mếc
ph-iêng lò o s-râu, mếc c-đao lò o chòm ca); “Làm ruộng nhờ nước, đánh giặc nhờ cơm”
(ន្វ ើផ្ររពឹង្ទឹក, ន្វ ើរឹកពឹង្ាយ។ = th-vơ s-re pưng tứk, th-vơ sấc pưng bai) hay “Làm ruộng với nước,
làm nấm với meo”. Các câu thành ngữ cho thấy người Khmer rất quan trọng vai trò của
nước đối với việc chăm sóc cây trồng.
2.2.3.1. Ứng xử với thiếu nước
ĐBSCL là vùng đất nhận được hai lượng nước từ tự nhiên đó là nước mưa và
nước từ thượng nguồn sông Mê-Kông đổ về. Đây là lượng nước tự nhiên khá lớn để các
cư dân nơi đây làm ruộng và sinh hoạt. Tuy nhiên, lượng nước này chỉ dồn vào một số
tháng là từ khoảng tháng sáu đến tháng mười. Các tháng còn lại hầu như người dân chỉ
có thể dùng nước tích trữ từ ao, hồ, kênh, rạch. Hơn nữa, vào khoảng tháng 6 đến tháng
8 vùng ĐBSCL thường xuyên xảy ra “hạn bà chằn” làm khô hạn và thiếu nước trầm
69
trọng cho toàn vùng. Lượng nước mưa hàng năm ĐBSCL thường phân bố không đồng
đều nên dẫn đến tình trạng hạn hán kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cây trồng
của người dân.
Để đối phó với nạn thiếu nước hàng năm, người Khmer thường đẩy mạnh
thủy lợi nội đồng, đào vét kênh mương, bơm nước vào ruộng và đào giếng. Người
Khmer rất có kinh nghiệm trong công tác dẫn thủy nhập điền. Ở những nơi gần sông
rạch, người Khmer sẽ tận dụng nguồn nước này, họ tát nước vào ruộng bằng gàu tay
hoặc về sau họ bơm nước vào ruộng bằng máy chạy bằng kole. Họ biết cách tận dụng
dòng chảy của nước, lợi dụng thuỷ triều lên xuống để đưa nước vào ruộng.
Tuy nhiên, những năm hạn hán kéo dài, mùa mưa đến muộn, sông rạch cạn
nước người Khmer sẽ tận dụng nước từ giếng nước của rẫy. Thông thường trên những
ruộng rẫy của người Khmer có rất nhiều giếng nước. Giếng này dùng để trữ nước để
người Khmer trồng rẫy trong mùa khô. Kĩ thuật ứng phó với hạn hán và tri thức dân
gian về việc đào giếng được chúng tôi ghi nhận trong đợt điền dã năm 2018 ở hai điểm
Sóc Trăng và Trà Vinh. Qua quá trình đối phó với thiên nhiên, người Khmer tích luỹ
kinh nghiệm trong việc tìm nguồn nước giếng như sau:
Theo ông T.N (khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng)
cho biết về kinh nghiệm dân gian tìm nguồn nước của địa phương ông là:
Để tìm mạch nước tốt, thông thường việc tìm kiếm sẽ diễn ra vào ban đêm.
Khi đêm đến, người ta đi ra ngoài đồng để tìm, nếu đi tới chỗ nào mà đất
dưới chân có cảm giác mát hơn, hơi se lạnh hơn thì đất chỗ đó đào giếng sẽ
có nước ngọt cho tưới tiêu và sinh hoạt (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Sóc
Trăng).
Một đối tượng phỏng vấn khác là ông T.R (ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện
Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) cho biết:
Công việc trồng lúa của người Khmer Trà Cú là dựa vào nước mưa và nước
giếng. Ngày xưa, người Khmer ở đây đào giếng không dựa vào kinh
nghiệm nào mà cứ ra đồng tìm nơi đất trống, thuận tiện làm giếng thì đào.
Mỗi khi đào không có nước thì lấp lại và tìm chỗ khác đào. Ngày nay,
người dân đã có nước máy, nước bơm nên các giếng được lấp đi hoặc bỏ
hoang rồi tự bồi dân và việc đồng án cũng không lệ thuộc nước mưa, nước
70
giếng như xưa nữa (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Sóc Trăng).
Để ứng phó với tình trạng thiếu nước vào mùa khô và cũng vào thời điểm
xuống giống trồng màu, người Khmer phải sử dụng thêm nước ngầm từ các giếng
khoan. Tuy nhiên lượng nước giếng khoan vẫn không đủ phục vụ cho tưới tiêu và sinh
hoạt, họ phải sử dụng thêm nước từ trạm cấp nước (đóng tại các phường, xã). Thực tế
là nhu cầu sử dụng nguồn nước phục vụ tưới tiêu rất lớn so với nguồn nước ngầm từ
các giếng khoan và các giếng khoan phần lớn là khoan cạn, chưa đảm bảo độ sâu để
lấy nước; tầng nước ngầm giáp tầng đất sản xuất nhanh cạn, độ ẩm cao nên thiếu nước
xảy ra thường xuyên.
2.2.3.2. Ứng xử với dư nước
Môi trường tự nhiên ở ĐBSCL vừa thuận lợi vừa có những khó khăn nhất định.
Trong năm, vào nhưng tháng mùa mưa, người dân đồng bằng phải đối phó với nạn nước
lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về. Nước lũ ở sông Cửu Long thường dâng cao vào
khoảng tháng 6 làm ngập sâu một số vùng trũng như Đồng Tháp Mười và nước rút dần
vào khoảng tháng 9, tháng 10. Song song đó, vào khoảng thời điểm tháng 5 đến tháng 10
vùng ĐBSCL còn tiếp nhận một lượng nước mưa khá lớn. Lượng mưa mùa này có khi
chiếm đến khoảng 90% lượng mưa cả năm. Lượng nước dồn vào một số tháng trong năm
dễ gây ra tình trạng ngập úng nên gây nên rất nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Xưa nay thiệt hại do lũ gây ra ở ĐBSCL hầu như rất ít được nhắc đến. Có thể do khi dân
cư còn thưa thớt, đa phần sống ở các gò cao ven sông rạch, sản xuất ít ỏi, cơ sở hạ tầng
còn đơn giản nên những thiệt hại do lũ gây ra không đáng kể. Cho đến đầu thế kỉ XX,
năm 1904 (Giáp Thìn) nước lũ làm nhiều nhà ngập sâu đến khoảng 2 mét. Trận lũ này
làm cho trong dân gian có câu thành ngữ “Năm Thìn bão lụt” được lưu truyền cho đến
hiện nay.
Trong thói quen cư trú truyền thống, người Khmer thường cư trú trên những
vùng giồng cao ít khi phải ứng phó với nước lũ. Mặc dù không phải đối phó với nước
lũ như những vùng ngập kín ở Đồng Tháp Mười nhưng người Khmer ở vùng tứ giác
Long Xuyên hay ở những vùng ngập hở (An Giang) cũng phải chống chọi với nạn dư
nước vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch do lượng nước mưa và nước từ dòng
Mê – Kông cùng đến một thời điểm. Kết quả điền dã của chúng tôi tại vùng Vĩnh Châu
(Sóc Trăng) và vùng Tri Tôn (An Giang) cho thấy người Khmer có những phương
cách khác nhau để ứng phó với nước ngập. Chẳng hạn như khi bị ngập nước trên cánh
71
đồng trồng hoa màu ở Vĩnh Châu, người Khmer phải bơm nước ra khỏi đồng để tránh
ngập úng cho hành tím và các loại hoa màu khác. Trong những điều kiện không thể
đưa nước ra thì vụ hành sẽ bị ảnh hưởng chất lượng và hư hại nhiều. Đối với vùng Tri
Tôn, hiện tượng ngập nước cũng ảnh hưởng nặng đến năng suất cây trồng nhưng có
những năm bà con phải chấp nhận xổ lũ (không đắp đập ngăn nước) nhằm làm sạch
đồng ruộng. Như trong chuyến điền dã năm 2018 tại An Giang bà còn Khmer ở Tri
Tôn cho biết đây là năm xổ lũ, tuy nước ngập ruộng nhưng bù lại lượng cá linh trúng
rất lớn. Nước lũ là một khái niệm khá gần gũi của người Khmer đồng bằng sông Cửu
Long. Sống chung với lũ, thích nghi với lũ là một lựa chọn trong ứng xử với môi
trường tự nhiên của cư dân ĐBSCL.
2.2.3.3. Ứng xử với nước phèn, nước mặn
ĐBSCL có mạng lưới kênh đào dày đặc và có phần phức tạp về thuỷ tính. Vùng
này còn chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều của biển Đông vì thế nước sông rạch lên
xuống hai lần trong ngày. Thuỷ triều còn là một trong những hiện tượng kì diệu của
thiên nhiên. Thuỷ triều trong các sông ở ĐBSCL là do từ biển truyền vào. Nước dâng
lên mạnh nhất (nước lớn nhất) vào ngày mồng một và ngày rằm trong tháng. Những
vùng giồng duyên hải chế độ thuỷ triều đưa nước lên xuống làm nước biển xâm nhập
và sông gây nên hiện tượng nước mặn. Độ mặn trong nước còn bị ảnh hưởng bởi hạn
hán trong năm. Ngoài tình trạng xâm nhập mặn do nước biển và do hạn hán kéo dài,
ĐBSCL còn có hiện tượng chua phèn. Thông thường vào đầu mùa mưa, các trận mưa
đầu mùa làm tan vỡ các váng phèn được đọng lại và tích luỹ trong suốt mùa khô trên
bề mặt đồng ruộng rồi mang tải vào các lòng sông kênh làm ô nhiễm nguồn nước trong
các tháng 5, 6, 7 và 8 với độ pH phổ biến từ 2 đến 4, sau đó được dòng lũ tràn làm pha
loãng dần.
Khi mùa mưa bắt đầu, người Khmer sẽ ứng phó bằng cách đắp kĩ các bờ ruộng
để giữ nước. Kĩ thuật đắp bờ chủ yếu dùng để giữ nước hoặc tháo nước khi cần. Điều
hòa nước cho đồng ruộng là một kĩ thuật rất quan trọng và được người Khmer đặt biệt
chú trọng. Từ xưa, đồng bào đã có các công trình thuỷ nông với quy mô lớn họ biết lợi
dụng hệ thuỷ triều, dòng chảy các con sông ở đồng bằng. Ở những vùng gần sông, họ
lợi dụng nước triều lên để đưa nước vào ruộng, sau đó, họ đắp đặp để giữ nước, lợi
dụng nước để rửa phèn cho đồng ruộng. Khi lúa sắp lên đồng, họ xổ phèn và lợi dụng
72
thuỷ triều lên đắp đập một lần nữa để giữ lại lượng nước sông chứa phù sa. Còn ở
những vùng xa sông rạch họ đắp bờ thành ô để giữ nước. Cách lợi dụng thuỷ triều để
tháo nước và giữ nước là một cách tận dụng môi trường tự nhiên của người Khmer.
Trước sự đa dạng của hệ tự nhiên, người Khmer không ngừng thích nghi và
sáng tạo trong ứng xử với môi trường. Trong quá trình canh tác, họ dần tích luỹ những
phương pháp, kinh nghiệm trong chọn lựa, thích ứng với môi sinh tự nhiên. Họ tận
dụng, thích nghi những yếu tố có lợi và đối phó với những bất lợi của tự nhiên mang
lại. Ngày nay, người Khmer đã tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại, ứng dụng các kĩ
thuật thuỷ nông giúp cho điều tiết nước trong đồng ruộng thuận lợi và hiệu quả hơn.
Văn hoá ứng xử với nước của đồng bào Khmer có sự thay đổi theo thời gian.
Trong điều kiện thô sơ, họ dựa vào kinh nghiệm dân gian do cha truyền con nối là
chính nhưng khi khoa học kĩ thuật tiến bộ, nông nghiệp có sự hỗ trợ của máy móc thì
quá trình ứng xử với môi sinh tự nhiên của người Khmer cũng có thay đổi. Trong quá
trình nghiên cứu, so sánh lịch đại chúng tôi ghi nhận lại những thay đổi trong ứng xử
với nước trong truyền thống và hiện nay theo bảng sau:
Bảng 2.1. Thay đổi trong ứng xử với nước trong truyền thống và hiện nay
Nội dung Truyền thống Hiện nay
Nhận thức về vai
trò của nước Rất quan trọng trong nông
nghiệp
Dễ dàng hơn do có các Khó khăn trong tìm nguồn nước, phương tiện dò tìm mạch khó khăn trong việc đào giếng nước Tìm nguồn nước
Dựa hoàn toàn vào nước mưa, Được cải thiện do có nguồn
nước giếng, nước từ kênh rạch nước giếng khoan
Khó khăn khi nước ngập (nước lên, rút không kịp gây ngập úng,
Ứng xử với nước chất lượng nông sản thấp, sản lượng không cao)
Khó khăn khi hạn hán
73
Có các nghi lễ cảm tạ, cầu xin Còn thực hiện, cúng chung Tâm linh liên thần nước cùng các vị thần khác các vị thần: thần đất đai, quan đến nước khi kết thúc hoặc bắt đầu vụ mùa thần nước cùng các vị thần
khác
Khi hạn hán, các vị sư sẽ tụng Còn rất ít nơi thực hiện kinh cầu mưa
2.2.4. Ứng xử với nước thể hiện trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội (ទឹកកន ុង្ជំននឿ,
ទំននៀមទម្លែ ប់,ប ណ្យទាន = tứk k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm lóp, bonh tean)
2.2.4.1. Yếu tố thanh tẩy
a. Nước trong nghi lễ vòng đời (ទឹកកន ុង្ពិ្ីប ណ្យវដរជីវិត = tứk k-nông pi thi bonh vót chì
vích)
Thời xa xưa, nước được coi là sự chuyển trạng thái, đánh dấu những cột mốc
quan trọng trong cuộc đời con người: tắm sau khi sinh (xuất hiện trong hầu hết các nền
văn minh); tắm theo nghi thức trước khi kết hôn; tắm cho người chết để gột rửa linh
hồn.
Người Khmer xưa nay rất xem trọng việc mang thai và sinh nở. Sự sinh nở
được coi là không sạch sẽ không chỉ đối với người mẹ mà còn đối với đứa trẻ. Người
mẹ và đứa trẻ sau khi được sinh ra xem là dơ bẩn, vì thế, cả mẹ và con cần phải lánh
mặt để tránh làm ô uế người khác. Trong thời gian ở cữ, người mẹ được dành một gian
riêng trong nhà và tránh tiếp xúc với người bên ngoài. Đứa trẻ sau khi sinh được bảy
ngày hoặc trong một tháng được tổ chức lễ cắt tóc trả ơn mụ và đặt tên. Trong buổi lễ,
các lễ vật cần thiết cho cầu cúng là: nhang, đèn, trái cây, hoa... Ngoài các lễ vật trên
không thể thiếu một bình nước thơm (Tưk-op) do chính Achar làm. Achar dùng nước
thơm rảy lên đầu đứa trẻ để cầu thần linh ban cho đứa trẻ sự khỏe mạnh, thông minh
và những điều tốt lành khác. Trong quan niệm của người Khmer, loại nước thơm này
có chức năng đặc biệt làm cho em bé sức mạnh và có thể xua được ma quỷ. Nghi lễ
này được đánh giá là khá quan trọng bởi đây là lúc chính thức trình đứa trẻ ra mắt để
thần linh chứng giám và chính thức được công nhận như một thành viên trong cộng
đồng.
Trong lễ cắt tóc trả ơn mụ, ngoài việc cầu phúc cho đứa trẻ, người mẹ còn dùng
nước thơm rửa tay bà mụ để cảm ơn sự giúp đỡ của bà mụ trong thời gian ở cử. Nước
có chức năng thanh tẩy đặc biệt trong lễ cắt tóc và đặt tên. Đây là lễ tục đầu tiên trong
74
vòng đời con người, nó đánh dấu “bước ngoặt” của một đời người. Nghi lễ thanh tẩy
cho đứa trẻ không chỉ có ý nghĩa về phương diện văn hóa, xã hội mà còn cả về tín
ngưỡng tôn giáo nhằm đành dấu sự chuyển trạng thái: từ một thai nhi thành một thành
viên được xã hội thừa nhận. Trong việc sinh nở của người Khmer, nước có chức năng
thanh tẩy giúp cho người mẹ trở về trạng thái thanh sạch và giúp đánh dấu quá trình
chuyển hóa của một bào thai trong bụng trở thành một cá nhân được cộng đồng thừa
nhận. Nghi lễ thanh tẩy là một nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của một
con người. Nước với đặc tính thanh khiết, mềm mại, chuyển hóa có chức năng thanh
tẩy trong nghi lễ sinh nở của người Khmer.
Đứa trẻ khi lớn lên được một giáp (12 tuổi) cũng có nghi thức dùng nước để
thanh tẩy một lần nữa. Lễ này đánh dấu giai đoạn đứa trẻ tròn giáp và đánh dấu chuyển
sang một giai đoạn mới. Gia đình đứa trẻ tổ chức lễ giáp tuổi để cúng trả ơn tổ tiên,
thần thánh đã phò trợ họ nuôi con qua một con giáp được thuận lợi, suôn sẻ. Mặc khác,
lễ này có những nghi thức để bảo vệ đứa trẻ khỏi bị những hồn ma quấy phá và nhận
được nhiều điều tốt lành. Trong buổi lễ, gia chủ chuẩn bị lễ vật, mời sư sãi đến tụng
kinh cầu an, cầu phúc rồi dùng nước thơm (Tưk-op) tưới vào đứa trẻ để xua đuổi tà
ma, không cho chúng đến gần để làm hại đứa trẻ.
Lễ cưới là một lễ tục quan trọng trong nghi lễ đời người sau lễ tục sinh nở. Lễ
cưới đánh dấu sự chuyển biến trạng thái từ hai thành viên riêng biệt trở thành một gia
đình thống nhất. Đó không chỉ là sự gắn kết của đôi trai gái mà còn là sự gắn kết của
hai dòng họ trong mối quan hệ xã hội.
Trong lễ cưới của người Khmer truyền thống có rất nhiều lễ nhưng có thể chia
làm hai lễ lớn: lễ hỏi và lễ cưới. Lễ cưới ngày nay của người Khmer vẫn giữ theo nghi
thức truyền thống nhưng bỏ đi một số lễ thức không còn phù hợp: lễ nhuộm răng, lễ
trình diện Neak-ta, lễ tắm trước khi cưới. Người Khmer ở ĐBSCL không còn thực
hiện nghi thức tắm trước khi cưới. Tắm là nghi thức đầu tiên đánh dấu sự chuyển đổi
trạng thái của con người, còn được gọi là nghi lễ chuyển đổi như tắm khi vừa mới
được sinh ra, tắm khi thực hiện lễ cưới và tắm trước khi được khâm liệm trong lễ tang.
Trong các nghi lễ chuyển đổi, đám cưới là một dịp trọng đại ghi dấu sự trưởng thành
của một con người. Cô dâu và chú rể có những nghi lễ liên quan đến nước nhằm thanh
tẩy để chuẩn bị cho giai đoạn mới của cuộc đời, được cả cộng đồng thừa nhận là một
gia đình riêng. Sau khi được tẩy rửa, cuộc sống trở nên thanh sạch, không còn vết tích
75
tội lỗi.
Nhìn chung, lễ cưới của người Khmer ĐBSCL đã thay đổi một số lễ tục tùy
thuộc vào quan hệ hôn nhân (phối hôn của người Khmer với người Việt thì nghi thức
biến cải cho phù hợp với cả hai gia đình), tùy thuộc vào tình hình kinh tế của gia chủ
mà lễ thức có thể giảm bớt cho phù hợp. Trong nhiều lễ thức ngày cưới của người
Khmer, lễ tụng kinh cầu phước là một lễ không được bỏ qua. Lễ tụng kinh cầu phước
được tổ chức vào buổi chiều hoặc tối của ngày thức hai của lễ cưới. Đôi vợ chồng ngồi
ở vị trí trang trọng trong nhà, được sư sãi tụng kinh và vẩy nước thơm cầu chúc phúc
lành. Nước thơm mang đến sự thanh sạch cho đôi vợ chồng mới, rũ bỏ mọi điều không
may trước đó và chúc họ bước vào cuộc sống hôn nhân đầy mỹ mãn.
Nghi lễ vòng đời quan trọng cuối cùng trong cuộc đời người là lễ tang. Người
Khmer quan niệm rằng chết không có nghĩa là hết. Chết là sự trở về thế giới bên kia và an
hưởng phước phần đã được tích lũy khi còn sống. Người Khmer rất xem trọng tội và
phước cho nên trong cuộc sống của mình, họ cố gắng tích phước: đi chùa, làm việc
thiện,... để khi chết được thanh thản, nhẹ nhàng và khi tái sinh ở kiếp sau được nhiều điều
tốt đẹp như xinh đẹp, giàu có và có học thức. Trong cuộc đời mỗi người Khmer có ít nhất
hai lần cần phải thanh tẩy: khi sinh ra và khi chết đi. Khi nhà có người chết, người Khmer
thường mời Achar – một người thông thạo các nghi thức tang lễ đến chỉ dẫn. Người chết
được lau rửa bằng nước thơm để tẩy uế những dơ bẩn để cơ thể, giúp trả cơ thể trở về
thanh sạch.
Người Khmer ở ĐBSCL đa phần theo tục hỏa thiêu. Nghi lễ hỏa táng được diễn
ra trong một cái tháp đặt trong phum, sóc. Tháp thiêu này có khi được đặt trong khuôn
viên chùa. Sau khi hỏa thiêu, xương người chết được rửa bằng nước dừa hoặc nước
sạch với mong muốn gột rửa nhơ bẩn lần cuối trong một cuộc đời người. Đến khi
người chết được 100 ngày hoặc một năm, con cháu sẽ làm đám giỗ để nhớ ơn và tạo
phước cho linh hồn người chết. Trong đám giỗ 100 ngày, ông Achar sau khi cúng
xong kêu gọi con cháu người chết đốt nhang cầu nguyện và xin được cởi bỏ khăn tang.
Sau đó, ông Achar đọc kinh và vẩy nước cầu phước lành cho con cháu người chết. Sau
nghi thức tụng kinh xin tháo bỏ khăn tang và vẩy nước cầu phước, họ được cởi bỏ
những ràng buộc thời kì để tang và trở về với cuộc sống bình thường.
Dùng nước để thanh tẩy là một đặc trưng ở các nước Châu Á. Trong cuộc sống của
tín đồ Bà La Môn có đầy các nghi thức tẩy. Từ khi sinh ra, con người cần phải tắm gội và
76
tẩy uế áo quần. Những nghi thức đó được tiếp tục cho đến già, khi thì dưới hình thức tắm
rửa và rảy nước kèm theo những hành vi tôn giáo trọng thể. Trong vài hình thức thanh tẩy
của tín đồ Ấn Độ giáo còn dùng cả nước tiểu của một con bò cái thiêng. Tuy nhiên,
phương tiện được họ dùng nhiều nhất để thanh tẩy thân thể và linh hồn vẫn là nước.
Có thể thấy, từ khi con người sinh ra đến khi chết đi trong nghi lễ vòng đời người
đều có sự hiện diện của yếu tố nước. Với chức năng thanh tẩy, nước khởi đầu cuộc đời
mới trong nghi lễ sinh nở. Nước lại mang ý nghĩa cầu chúc phước lành trong lễ cưới của
người Khmer. Và khi con người giã từ sự sống về với thế giới bên kia, nước lại một lần
nữa đưa tiễn con người ra đi thanh thản. Nước vừa có chức năng thanh tẩy vừa để cầu
chúc phước lành mang đến sự thanh sạch và may mắn cho con người. Nước thơm và oai
lực trong những lời kinh tụng chúc phúc của nhà sư hoặc các vị Achar sẽ mang đến những
phước báu cho người được hưởng sự thanh sạch mà nước mang lại. Nước thực sự đã trở
thành một phần không thể thiếu trong nghi lễ vòng đời của người Khmer ĐBSCL.
b. Nước trong lễ tết, lễ hội (ទឹកកន ុពិ្ីប ណ្យ = tứk k-nông pi thi bonh)
Chôl - Chnăm - Thmây là một lễ tết lớn nhất trong năm của người Khmer. Lễ
này có ý nghĩa mừng năm mới, cảm tạ công ơn ông bà tổ tiên. Ngoài ý nghĩa mừng
năm mới và nhận một tuổi mới gọi là “chịu tuổi” lễ hội này còn là một lễ nghi nông
nghiệp mục đích cầu mùa màng tốt tươi mà cụ thể là cầu mùa khô mau dứt và mùa
mưa mau tới để có nước làm ruộng. Đây là thời gian đã hoàn thành việc đồng áng,
mùa khô sắp qua đi và mùa mưa sắp đến. Vào thời gian diễn ra lễ hội Chôl - Chnăm -
Thmây là lúc thời tiết nắng nhất trong năm, đất đai khô cằn, nứt nẻ, các cánh đồng hầu
như không còn sức sống. Cho nên, với thời tiết như vậy hoàn toàn không thể nào làm
ruộng và chỉ chờ đến lúc mưa xuống, đất đai màu mỡ trở lại người nông dân Khmer
mới có thể xuống ruộng bắt đầu mùa vụ mới.
Tết vào năm mới của người Khmer thường được tổ chức trong 3 ngày. Ngày
thứ nhất là ngày lễ rước Đại lịch “Maha Sangkran” mới. Trong ngày đầu năm mới này
sau khi tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, người Khmer mang nhang đèn đến chùa,
dưới sự chỉ dẫn của vị Achar, tất cả mọi người xếp thành hàng rồi đi vòng quanh
chánh điện 3 lần để làm lễ đón chào năm mới. Ngày thứ hai: mỗi gia đình đều đem
cơm cho sư sãi vào buổi sáng và buổi trưa. Sau khi thọ thực, các sư sãi bắt đầu tụng
kinh chúc phúc. Buổi chiều, mọi người đến chùa để làm lễ đắp núi cát để mong gặp
nhiều điều may mắn. Núi cát thường được đắp vào những ngày gần Tết. Vào những
77
ngày giáp Tết, các nhà sư trong chùa thường tiến hành đắp núi cát (Phnom - Khsach)
theo hình tháp (Sthâup) xung quanh chính điện. Ngày nay, một số chùa ở Trà Vinh hay
đắp núi lúa thay vì đắp núi cát. Dù núi cát hay núi lúa cũng đều là nghi thức nhằm cầu
mùa mưa. Người Khmer xưa quan niệm rằng: núi có thể cản mây, đắp núi là có thể
ngăn lại các đám mây, cầu cho mưa mau đến để họ khởi sự làm mùa. Ngày thứ ba là
ngày tắm tượng Phật và cũng là một ngày lễ quan trọng nhất trong lễ Chôl - Chnăm -
Thmây. Nghi lễ tắm tượng Phật liên quan rất nhiều đến tâm thức ứng xử với nước của
người Khmer Nam Bộ. Nghi lễ tắm Phật tiến hành như sau: khi dâng cơm sáng cho
các vị sư xong, mọi người trong phum, sóc đem nước ướp hương thơm2 cùng nhang
đèn đến bàn thờ Phật để cùng làm lễ tắm tượng Phật. Sau khi tắm Phật là đến tắm các
vị sư cao niên nhằm rửa sạch hết những cái cũ trong năm cũ để sang năm mới hoàn
toàn mới. Hiện nay, việc tắm những nhà sư không còn nữa mà chỉ còn tắm ông bà ở
nhà. Nước thơm sau khi tắm Phật, người Khmer mang về tắm cho người lớn tuổi trong
nhà để cầu chúc sức khỏe, bình an.
Trong ngày Tết năm mới này còn có lễ cầu siêu gọi là “Băng skol”. Các vị sư
sau khi tắm Phật ở chính điện đến các tháp xung quanh chùa tụng kinh cầu siêu nhằm
chúc phước lành cho người quá cố. Lễ này thường kéo dài. Sau khi tụng kinh cầu siêu,
các nhà sư dùng nước vẩy vào ngôi tháp và vẩy vào con cháu người quá cố quỳ dưới
chân tháp. Mọi người rất hạnh phúc khi được vẩy nước vào mình. Đó như một lời chúc
phước lành trong ngày đầu năm mới.
Hiện nay, trong lễ Chôl - Chnăm - Thmây của người Khmer ở ĐBSCL thường
ngừng lại ở nghi thức tắm Phật ở chùa rồi đến tắm ông bà ở nhà và không còn phổ biến
tục té nước nữa. Theo khảo sát của chúng tôi còn một số chùa trên địa bàn Trà Vinh
còn duy trì tục té nước này là chùa Bổn Thanh, tại xã Ngũ Lạc, huyện Duyên Hải và
chùa Chim (Ktưng Wat) tại Trà Vinh là còn tục té nước. Nghi thức này được tiến hành
như sau: trước khi bắt đầu lễ tắm Phật, các sư sãi bắt đầu chuẩn bị nước đầy các thùng
lớn (tại chùa Chim còn cho hoa tươi vào nước) để chuẩn bị té nước. Sau khi tắm Phật
xong, bà con cùng nhau lấy nước tưới vào nhau bất kể người lớn hay trẻ con. Ai ai
cũng vui cười đón nhận nước, thậm chí các nhà sư cũng được té nước để cầu phúc.
Không phân biệt tuổi tác, địa vị, tất cả mọi người đến với ngày hội té nước là để cầu
2 Nước ướp hương thơm (tưk – op): là một thứ nước sạch được người Khmer cho vào có khi là hoa vạn thọ, có khi là nước dầu thơm. Khi chúng tôi điền dã đã thấy tại một số chùa Khmer tại Trà Vinh tiến hành làm nước thơm như sau: mỗi người mang một ca nước sạch đến chùa. Nhà sư dùng ba cây nhang bẻ cong, đốt cho cháy rồi bỏ vào ca nước sạch đậy nắp lại. Nước thơm này sẽ được dùng tắm Phật và sau đó mang về tắm ông bà ở nhà
78
phúc lành và cùng vui chơi thỏa thích.
Không chỉ té nước ở chùa, một số người còn chạy xung quanh sóc té nước vào
nhau. Bà con trong phum, sóc rất mong chờ đến ngày hội té nước này. Lễ hội này
được diễn ra vào những tháng nóng nhất trong năm nên khi té nước vào nhau mọi
người càng trở nên thích thú vì được giải tỏa sức nóng của mặt trời. Nước được xem
như điềm lành để con người cầu chúc nhau. Không những thế, nước còn giúp con
người thanh thản, vượt qua bao nỗi ưu tư muộn phiền để cùng nhau đón một năm mới
với bao điều ước mong tốt lành.
Nước đã mang bao ý nghĩa quan trọng trong ngày Tết vào năm mới của người
Khmer ở ĐBSCL. Thế nhưng, hiện nay từ trong nhận thức người Khmer nước đang
mất dần những giá trị và ý nghĩa ban đầu của nó. Theo khảo sát của chúng tôi hiện
nay, người Khmer ở ĐBSCL chỉ nghĩ rằng té nước là những thói quen do tàn tích để
lại mà chưa hiểu hết tầm quan trọng cũng như ý nghĩa sâu xa của nó. Chẳng hạn như
khi chúng tôi phỏng vấn sư cả chùa Bổn Thanh tại xã Ngũ Lạc huyện Duyên Hải tỉnh
Trà Vinh về ý nghĩa của việc nhà chùa cho nước trong lễ hội Chôl - Chnăm - Thmây
thì sư cả cho rằng: té nước vừa để cho bà con vui chơi vừa để bảo lưu những giá trị
văn hóa của người Khmer. Tìm hiểu lý do khiến tục té nước ngày càng phai nhạt trong
văn hoá của người Khmer, chúng tôi phỏng vấn một số nhà sư và thu được kết quả như
sau: ở một số nơi, do ý thức của một số ít người dân còn hạn chế, khi tham gia té nước
có tình trạng một số người dùng nước bẩn té vào người khác gây mất vệ sinh... Cũng
có ý kiến cho rằng: té nước làm cho mọi người ướt và không thể đi chơi hội được nữa
bởi vì sau khi tắm Phật, người Khmer tổ chức đi đến nhà bạn bè hoặc đi nhiều nơi
khác nữa.
Yếu tố nước có chức năng đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của
người Khmer trong truyền thống. Những phân tích bên trên cho thấy, nước tưng tồn
tại và xuất hiện ở hầu hết các lễ hội và nghi lễ vòng đời người. Người Khmer tin
rằng, được thanh tẩy bởi nước, con người trở nên thanh sạch, hạnh phúc và mọi
mong muốn, nhu cầu về tâm linh đều được viên mãn. Điều đó cho thấy, nước có một
chức năng đặc biệt trong tâm thức của người Khmer xưa và nay và chưa bao giờ thay
đổi. Điều này thật khó lý giải được. Nếu như nói rằng, xưa kia nếu như con người bị
phụ thuộc bởi tự nhiên, con người bé nhỏ trước các hiện tượng thiên nhiên nên con
người từ tâm lý sợ hãi dẫn đến tôn kính. Tuy nhiên, hiện nay con người đã có thể dự
79
đoán thiên nhiên, các hiện tượng tự nhiên đều được giải thích bởi khoa học nhưng
những giá trị tôn kính với thiên nhiên vẫn còn hiện hữu trong tâm thức của người
Khmer. Có thể nói rằng, với tâm lý của một tộc người trọng đời sống tâm linh, trọng
những giá trị truyền thống thì chắc chắn rằng giá trị tinh thần của nước sẽ còn tiếp
tục tồn tại trong văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL.
2.2.4.2. Lễ nghi cầu nước, đưa nước
Trong tín ngưỡng của người Khmer, nước có ý nghĩa về mặt vật chất lẫn tinh
thần. Vào những tháng mùa khô, khi trời nắng hạn không đủ nước để người Khmer
làm ruộng họ sẽ có nghi lễ cầu mưa (cầu đảo). Lễ nghi cầu mưa của người Khmer có
nơi được thực hiện riêng lẻ, có nơi được tích hợp với nghi lễ cầu an (Bon Kom – San –
Sroc) của phum, sóc.
Thời điểm thực hiện nghi lễ cầu mưa diễn ra vào khoảng tháng 4 dương lịch
hàng năm. Có những năm hạn hán kéo dài, nghi lễ này được thực hiện ở khắp các
phum, sóc. Lễ vật thực hiện cúng gồm có: đầu heo hoặc thịt heo luộc, gà luộc, hoa
quả, bánh ngọt và nhang đèn. Buổi lễ được diễn ra dưới sự hướng dẫn của Achar và
được tổ chức tại miếu Neak-ta (vì vậy một số nơi tích hợp lễ cầu an với lễ cúng Neak-
ta của phum, sóc). Những người tham gia lễ xếp thành một hàng trước miếu Neak-ta
sau đó đi vòng quanh miếu ba lần rồi từng người cắm nhang vào bàn thờ Neak-ta.
Ngày xưa, những nơi có ghe (thuyền), họ còn tổ chức cúng lễ và đua ghe trên cạn (um
Tuk – lơ – kôk). Nếu như các nghi lễ cầu mưa đã xong mà vẫn không có mưa sẽ có
một lễ khác gọi là “Bon sâum tuk phliêng” (lễ xin nước mưa). Lễ xin nước mưa được
tiến hành bằng cách mời khoảng mười vị sư sãi ra đứng phơi nắng ở giữa sân chùa, sân
nhà hoặc đứng ngay giữa cánh đồng khô cháy. Trước mặt các vị sư sẽ là một hố sâu,
hoặc một chậu khô. Trong hố và chậu thả con cá lóc, ếch, cua…Đây có thể là một
phương thuật, biểu hiện cùng cực của sự khô cháy làm “động lòng” để trời ban phước,
mưa xuống cứu vớt chúng sinh. Lễ cầu mưa vẫn tồn tại cho đến nay mỗi khi thời tiết
khô hạn kéo dài.
Nghi thức cầu mưa, cầu nước xuất hiện trong tín ngưỡng của các cư dân làm
nông nghiệp. Các dân tộc làm nông nghiệp ở ĐBSCL cũng vậy. Mỗi dân tộc có các
nghi thức, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu trung là sự thể hiện tôn sùng và cần có
nước. Nước giúp cho cây lúa, hoa màu tốt tươi và nước mang đến cho một cuộc sống
80
ấm no, an lành.
Nước là một phần rất quan trọng trong đời sống của người Khmer. Trong sinh
hoạt, sản xuất họ cần nước vừa đủ để sinh sống và canh tác. Khi nước quá thừa hoặc
quá thiếu vượt ngoài năng lực con người tác động họ sẽ trông chờ vào các thế lực siêu
nhiên. Vì thế, người Khmer không chỉ có nghi lễ cầu nước mau đến còn có các nghi lễ
mang ý nghĩa cầu nước mau rút đi. ĐBSCL là vùng khi nắng hạn, thiếu nước cho sản
xuất khi lại mưa nhiều, nước dâng gây ngập úng đồng ruộng. Lễ hội Ok - Om - Bok
ngoài ý nghĩa cảm tạ thần mặt trăng còn mang ý nghĩa cầu nước mau rút để người
Khmer có thể làm vụ mùa mới.
Ok - Om - Bok là một lễ hội lớn của người Khmer được tổ chức thống nhất
ngày 15, 16 và 17 tháng 10 dương lịch để cảm tạ thần mặt trăng. Người Khmer coi mặt
trăng là một vị thần bảo hộ cho mùa màng tốt tươi. Họ quan niệm mặt trăng là đối
tượng thờ cúng thiêng liêng. Sau một năm làm mùa người Khmer lại cúng để cảm tạ
mặt trăng đã phò trợ cho mưa thuận gió hòa, mang đến cho người nông dân những vụ
mùa bội thu. Lễ cúng mặt trăng được tổ chức vào thời điểm thu hoạch lúa mới. Để cảm
tạ công ơn của mặt trăng người Khmer lấy lúa nếp mới giã thành cốm để cúng trăng.
Lễ cúng trăng được tiến hành trước khi trăng lên. Trước tiên, người Khmer
thường chọn những khoảng đất trống trong chùa hoặc khuôn viên rộng rãi trong phum,
sóc nhưng đặc biệt phải là nơi cao ráo và không có bóng cây che khuất. Các lễ vật
dùng để cúng là khoai lang, chuối, dừa… và nhất định phải có cốm dẹp (Om – Bok).
Các thành viên trong buổi lễ được ngồi hàng ngang trước bàn lễ vật và hướng về phía
trăng mọc để cầu cúng. Người đứng ra tổ chức cầu cúng cho buổi lễ nếu ở chùa là sư
sãi còn nếu như ở phum, sóc thường là những vị Achar.
Trong đêm của lễ cúng trăng, các chùa còn tổ chức lễ thả đèn nước và thả đèn
gió. Đèn nước có hình dáng như một ngôi đền làm bằng thân và bẹ chuối. Đầu đèn,
người ta treo cờ phướn, chung quanh cắm đèn cầy và nhang, bên trong bày các vật
cúng như trái cây, bánh, kẹo, gạo, muối… Mở đầu buổi lễ, sư sãi và thành viên trong
phum, sóc cắm đèn cầy và nhang xung quanh đèn và đọc kinh tưởng nhớ đến Đức
Phật, xin lỗi đất và nước. Người Khmer cho rằng trong suốt một năm trồng lúa và hoa
màu họ đã làm cho đất và nước bị ô uế. Sau nghi thức đọc kinh người Khmer thả
những chiếc đèn xuống nước. Nơi thả đôi khi là kênh, rạch hay ao xung quanh chùa.
Hàng năm, ở Trà Vinh nghi thả đèn nước được thực hiện tại Ao Bà Om diễn ra rất
long trọng, lễ hội thu hút hàng ngàn người dân trong và ngoài tỉnh đến tham dự. Hiện
81
nay, lễ hội này không chỉ là một lễ hội truyền thống của riêng người Khmer mà dường
như đã trở thành một lễ hội chung của các tộc người cùng sinh sống. Trong lễ hội,
người Khmer, người Việt, người Hoa cùng tham gia hội như một lễ hội của chung của
cộng đồng. Đó là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc anh
em ở ĐBSCL.
Trong đời sống thường nhật, người Khmer tôn trọng và gìn giữ nguồn nước.
Khi cảm thấy có lỗi với nước người Khmer lại có những nghi thức cầu cúng tạ tội
mong thần nước bỏ qua và mang đến nguồn nước dồi dào phong phú để họ có một vụ
mùa suôn sẻ. Người Khmer làm nông và sống dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên nên tâm
thức tín ngưỡng tự nhiên nói chung và tín ngưỡng nước nói riêng là một điều dễ hiểu.
Tín ngưỡng nước của người Khmer thể hiện rõ nét trong lễ hội Ok - Om -
Bok. Ngoài lễ cúng trăng, nghi thức thả đèn nước, tín ngưỡng nước còn thể hiện
trong hội đua ghe ngo. Có thể nói, hội đua ghe ngo là một ngày hội được người
Khmer mong chờ nhiều nhất trong năm. Lễ đua ghe ngo được xem là lễ tống tiễn
thần nước, thần của mùa mưa. Ghe ngo là một loại thuyền độc mộc dài khoảng 24m,
đoạn giữa rộng khoảng 1,2m, thường được làm bằng các loại gỗ tốt. Ghe ngo có hình
dáng thon, dài mô phỏng như thân hình của rắn Naga. Ghe ngo là một loại ghe thiêng
chỉ dùng vào mục đích bơi thi trong ngày hội. Sau khi tham gia hội xong ghe được
đưa về cất giữ và bảo quản cẩn thận trong chùa. Vì ghe ngo mang tính thiêng nên
trước khi tổ chức bơi thường có nghi thức cúng ghe. Lễ vật không cầu kì chỉ có ít trái
cây, hoa, nhang , đèn... Phía trước đầu ghe ngo thường treo cờ cá sấu. Cờ cá sấu là
một biểu tượng cho tín ngưỡng tô tem của người Khmer.
Trong lễ hội Ok - Om - Bok, ngoài hội đua ghe ngo phải tổ chức ban ngày, hầu
hết các nghi thức của lễ hội đều diễn ra ban đêm. Tổng hợp các yếu tố “ban đêm”,
“nước lớn” và “trăng tròn” có ý nghĩa nhấn mạnh yếu tố âm tính nhằm cảm tạ thần
nước đã phò trợ cho mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi nảy nở và đưa tiễn nước trở
lại nguồn biển. Ở góc độ nghiên cứu văn hóa tộc người thì việc thả đèn trời và đua ghe
“ngor’’ cũng chính là những nghi thức mang tính saman giáo để tiễn mùa mưa, và cầu
khấn cho sự may mắn cuộc sống, công việc trong năm mới (Phan An, 2009).
Trong lễ hội của người Khmer ở ĐBSCL dù là phần lễ hay hội cũng đậm chất
lễ nghi nông nghiệp. Và thực sự là những lễ hội này đánh dấu thời vụ trong năm: đầu
mùa mưa và cuối mùa mưa. Nếu như Chôl - Chnăm - Thmây là lễ hội trong thời điểm
82
nắng hạn thì Ok - Om - Bok là lễ hội ở vào thời điểm cuối mùa mưa. Ở thời điểm nắng
hạn người Khmer cầu mưa đến còn ở thời điểm mùa mưa người Khmer cầu cho mưa
dứt, nước rút để họ vào vụ mùa mới. Ok - Om - Bok vừa là lễ hội cúng trăng vừa để tạ
lỗi và cám ơn thần nước. Cảm ơn là để cho người nông dân Khmer một vụ mùa tốt
tươi, tạ lỗi vì trong năm đã gây tổn hại và ô nhiễm nguồn nước. Trong lễ hội Ok - Om
- Bok còn có nhiều nghi thức khác liên quan đến nước: thả đèn nước, đua ghe ngo…
Thủy lợi là vấn đề quan trọng đối với nông dân Khmer trồng lúa nước nên ở
nhiều dạng khác nhau lễ cầu nước vẫn tồn tại dai dẳng vào những ngày nắng hạn.
Người Khmer ở Sóc Trăng còn có lễ cúng phước biển cũng mang ý nghĩa cầu mùa,
cầu phúc. Lễ này được tổ chức tại chùa Cà Săng vào ngày 14 và 15 tháng 2 âm lịch
hàng năm. Trong phần hội của lễ lễ hội cúng phước biển có tổ chức các trò chơi dân
gian mô phỏng các cô gái Khmer gánh nước tưới hoa màu, chàng trai Khmer đẩy xiệp
đánh bắt cá, đánh xe bò, đua ghe ngo trên cạn phản ánh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày
của người Khmer. Có thể nói, nước có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn
hoá của người Khmer và sự cần thiết đó phản ánh dấu ấn của nước trong các phong tục
lễ hội của họ.
Tiểu kết chương 2
Tóm lại, nội dung chương 2 đã tập trung phân tích văn hoá ứng xử với hai yếu
tố đất và nước trong văn hoá ứng xử của người Khmer ĐBSCL.
Trong văn hoá ứng xử với đất, chúng tôi phân tích hai giá trị văn hoá trong văn
hoá của người Khmer là đất trong văn hoá vật chất và đất trong văn hoá tinh thần.
Người Khmer ở ĐBSCL rất quan trọng đất, cụ thể là đất ở và đất canh tác. Từ giai
đoạn đầu cư trú, họ có kinh nghiệm lựa chọn những giồng đất cao để ở và để trồng
trọt. Tùy vào điều kiện có được mà người Khmer đã linh hoạt trong văn hoá ứng xử
với môi trường tự nhiên của mình. Với đất cao người Khmer tận dụng để làm nơi cư
trú và trồng những loại cây thích nghi được với đất cao như hành tím, mía...; còn với
đất thấp, người Khmer dùng để nuôi tôm, trồng lúa và các loại cây chịu ngập khác.
ĐBSCL từ trước đến nay thường được cho rằng đây là vùng đất trù phú, được mẹ thiên
nhiên ưu đãi, là vùng đất con người chỉ cần làm chơi mà ăn thật; tuy nhiên, có thể đây
chỉ là cách nói ví von và chỉ nói đến các sản vật như thực vật, thuỷ sản chứ về nguồn
tài nguyên đất, nước thì không như cách nói ví von đó. Để ứng phó với môi sinh đất,
nước, cư dân vùng đất này phải chung lưng đấu cật, dùng sức lực và tâm trí rất nhiều
83
mới có thể lúc thì đối phó, lúc thì thích nghi.
Văn hoá ứng xử với đất của người Khmer không chỉ trong phương diện văn hoá
vật thể mà nội dung chương 2 còn khai thác giá trị văn hoá phi vật thể. Trong văn hoá
ứng xử với đất, thái độ của người Khmer đối với đất là sự tôn kính và có tâm thức tín
ngưỡng đối với đất. Mỗi khi có sự tác động vào đất như đào giếng, cất nhà người
Khmer ĐBSCL đều phải có những nghi thức để cúng thần đất. Người Khmer rất coi
trọng thái độ đối với đất, họ cho rằng bên dưới đất luôn tồn tại thần trú ngụ nên các
hành động làm dơ bề mặt đất cũng được xem như thái độ bất kính đối với các vị thần
đó. Tín ngưỡng đất của người Khmer còn được coi trọng hơn trong việc xác định giới
hạn đất đai của nhà chùa. Mỗi chùa người Khmer thường có hình tượng nữ thần đất
được trang trí phía sau chính điện. Nữ thần đất có chức năng che chở cho sự yên bình
của nhà chùa. Bên cạnh đó, trong quan hệ cộng đồng, người Khmer luôn có sự tôn
kính nhất định với phạm vi đất đai của nhà chùa. Đất của chùa dù là đất ruộng hay đất
ở cũng không có một thành viên nào có ý nghĩ hay thực hiện lấn đất, chiếm đất của
chùa.
Trong văn hoá ứng xử với nước, ở chương 2 này, chúng tôi cũng đã tập trung
phân tích văn hoá ứng xử với nước trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
người Khmer. Nước là yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong sinh hoạt cũng như
trong canh tác của người Khmer. Vì những lý do đó, người Khmer luôn có cách ứng
xử trân trọng, giữ gìn nguồn nước. Thái độ tôn trọng nước được biểu hiện qua các tín
ngưỡng, lễ hội liên quan đến nước của người Khmer. Trong các nghi lễ vòng đời, nghi
lễ tôn giáo, nước thường xuyên xuất hiện với chức năng thanh tẩy đặc biệt. Với người
Khmer, nước thơm (tưk-op) có chức năng xua đi những điều không may mắn, không
sạch sẽ và nước thơm cùng với những bài kinh tụng của nhà sư có chức năng mang
đến sự bình an, hạnh phúc cho con người. Lý thuyết chức năng của Malisnowki được
chúng tôi vận dụng để giải mã những tâm thức ứng xử của người Khmer đối với nước,
chức năng của nước trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer.
Theo lý thuyết sinh thái văn hóa của Steward chúng tôi nêu ở chương 1, con
người có thể thích nghi để tồn tại bằng những tri thức riêng thuộc về bản sắc tộc
người. Ở đây, phân tích trong chương 2 của chúng tôi về cách ứng xử của người
Khmer đối với đất và nước cũng cho thấy người Khmer cũng có những cách ứng xử
rất riêng mang bản sắc văn hoá tộc người. Đó là thái độ vừa tôn kính vừa sợ hãi đối
84
với đất và nước. Những tri thức về ứng xử đó có thể truyền thừa qua các thế hệ và có
thể được trao đổi, chuyển giao qua lại giữa các tộc người cùng sinh sống trên một khu
vực địa lý nhất định. Có thể nói, lý thuyết sinh thái văn hoá của Steward là điểm tựa đã
giúp chúng tôi lấy làm cơ cở để phân tích văn hoá ứng xử với đất và nước trong văn
85
hoá của người Khmer ở ĐBSCL.
CHƯƠNG 3
VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI THỜI TIẾT, ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT
CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Thời tiết, động vật và thực vật là các yếu tố đòi hỏi sự thích nghi và ứng phó
trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer. Người Khmer truyền
thống có những kinh nghiệm dân gian trong việc dự đoán về những chuyển biến theo
chu kì hay những chuyển biến bất thường của thời tiết. Những kinh nghiệm này hiện
nay vẫn còn giúp ích rất nhiều trong nông nghiệp của người Khmer.
Động vât, thực vật là hai yếu tố tồn tại trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của
người Khmer. Trong quá trình tương tác với môi trường xung quanh, họ đã thích nghi,
tận dụng những động vật, thực vật có lợi cho đời sống văn hoá vật chất, phục vụ cho
văn hoá ăn, mặc và đi lại; qua đó, hình thành nên những giá trị văn hoá về mặt tinh
thần đó là những yếu tố tín ngưỡng tâm linh đến động vật và thực vật.
3.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ THỜI TIẾT (ធាតុអាកាស = thiêch à cás)
3.1.1. Đặc điểm thời tiết vùng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới cận xích đạo
và là khu vực chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của gió mùa Châu Á. Hướng gió mùa đông
và hướng gió mùa hè hoàn toàn đối lập nhau, tương ứng với hai mùa gió là hai mùa
khô và mưa rõ rệt. Giữa hai mùa thường có giai đoạn chuyển tiếp nhưng thường không
dài.
Khí hậu nhiệt đới làm cho ĐBSCL có hai đặc điểm cơ bản là nóng ẩm và mưa
nhiều. Nhiệt độ và độ ẩm của vùng khá cao (khoảng 80,4%) và tập trung cao nhất
vào các tháng mùa mưa. Nhiệt độ không khí trung bình khoảng 28,20C thuộc cao
nhất nước (so với vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 25,20C). Nhiệt độ trung bình
của vùng dao động từ 250C đến không quá 340C. Vào mùa khô, nhiệt độ cao nhất
khoảng 330C - 340C và thấp nhất khoảng 230C - 240C; vào mùa mưa, nhiệt độ cao
nhất khoảng 320C và thấp nhất khoảng 210C. Chế độ gió mùa đã tạo ra hai mùa rõ rệt
luân phiên nhau là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng năm đến tháng mười tập
trung đến khoảng 80-90% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng mười một đến tháng
tư là thời kì của gió mùa Đông - Bắc khô hanh. Lượng mưa mùa mưa lớn lại trùng
86
vào mùa nước lũ của sông MeKong đổ về hạ lưu nên dễ tạo ra tình trạng úng ngập ở
một số địa phương ảnh hưởng nặng đến sinh hoạt và sản xuất. Với khí hậu cận xích
đạo, mưa nhiều, nóng ẩm là điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp đặc biệt là cây
lúa nước và các loại cây trồng khác.
Ngoài những hiện tượng thông thường của thời tiết như mưa, nắng, ĐBSCL còn
có những hiện tượng đặc biệt tác động đến cuộc sống của cư dân như lốc xoáy, vòi
rồng, mưa đá và hạn hán. Những hiện tượng này tuy không thường xuyên nhưng
những tác hại của nó ảnh hưởng khá lớn đến cuộc sống con người, tàn phá nặng nề đến
cây trồng và vật nuôi. Lốc xoáy, vòi rồng và mưa đá thường xuất hiện ở những vùng
đồng bằng và đồi núi trọc. Vì vậy, để phòng chống, người dân phải trồng rừng phủ
xanh đồi trọc (vùng An Giang), trồng nhiều cây phân tán ở đồng bằng để tạo hàng rào
vật cản làm giảm tốc độ di chuyển và diện tích hoạt động của chúng. Cùng với lốc
xoáy, hạn hán (còn được người dân gọi là “hạn bà chằn”) là hiện tượng thời tiết rất
đáng lo ngại đối với cư dân ĐBSCL. Được gọi là “hạn bà chằn” là bởi vì vào khoảng
thời gian từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 8 hàng năm do hoạt động của gió mùa Tây -
Nam, áp thấp nóng phía Tây dễ gây ra một thời gian dài không mưa, đất đai khô cằn,
thiếu nước trầm trọng nên cư dân địa phương đã đặt tên gọi như thế. Tuy nhiên, tuỳ
vào điều kiện hoạt động cụ thể của các hệ thống hoàn lưu khí quyển từng năm mà năm
đó hạn bà chằn có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xuất hiện sớm hay muộn và kéo
dài hay ngắn. Thời gian xảy ra hạn thường trùng với thời kì sinh trưởng của lúa mùa,
lúa hè thu. Vì vậy năm nào hạn kéo dài sẽ ảnh hưởng nặng đến năng suất cây lúa.
Người Khmer xưa nay ở ĐBSCL luôn có kinh nghiệm dân gian kiểu cha
truyền con nối để xem xét thời tiết phục vụ cho nông nghiệp và cuộc sống của mình.
Cũng như các tộc người khác, người Khmer đã có quá trình tích luỹ kinh nghiệm dân
gian của mình tạo thành hệ thống thành ngữ phản ánh những kinh nghiệm ứng xử với
thời tiết như: “Mây trôi nhanh thì biển động mạnh, gió thổi hiu hiu thì biển yên”;
“Trời xanh trời gió, trời đỏ trời mưa” hay “Sao đưa đi đưa lại thì biển động, sao
đứng thì biển yên”. Những kinh nghiệm này đã giúp ích rất nhiều cho người Khmer
trong việc xem thời tiết như trời mưa, trời nắng để canh tác và đi lại. Từ xa xưa, con
người chỉ biết quan sát và dự đoán những sự kiện thiên nhiên đó qua những thay đổi
của sao, của mây hoặc gió...
Hiện nay, vùng ĐBSCL đang có những vấn đề mang tính cấp bách về môi
87
trường đó là tình hình biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp. Bằng những quan sát
thông thường chúng ta cũng có thể biết được sự biến đổi khí hậu như hạn hán nhiều
hơn vào mùa khô, ngập lụt nhiều hơn vào mùa mưa. Những biến động của thời tiết đã
làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, nhiều loại dịch bệnh, sâu rầy tấn công và miễn
dịch với các loại thuốc. Để thích ứng và đối phó với những diễn biến của thời tiết, môi
trường đòi hỏi những cư dân ĐBSCL nói chung và cư dân Khmer nói riêng phải có
những ứng xử cho phù hợp.
3.1.2. Ứng xử với thời tiết mùa khô
a. Chọn thực phẩm
Thời tiết ở vùng ĐBSCL được chia thành hai mùa khô và mùa mưa. Tuỳ vào
thời tiết hàng năm mà mùa mưa đến sớm hay muộn, thông thường từ khoảng tháng 5,
tháng 6 đến tháng 10 là thời điểm mưa nhiều nhất. Vào những tháng chuẩn bị đến mùa
mưa, thời tiết thường rất oi bức, dễ xảy ra các loại bệnh ảnh hưởng đến cả con người,
cây trồng và vật nuôi. Để đối phó với nắng nóng, người Khmer có những kinh nghiệm
dân gian trong lựa chọn nguồn thực phẩm để vừa cung cấp năng lượng, vừa phòng
ngừa với các loại bệnh do biến đổi của thời tiết mang lại.
Để ứng phó với cái nắng của mùa khô, người Khmer thường chọn và chế biến
thức ăn thành các loại có nước, thức ăn có vị chua, vị đắng để cân bằng thân nhiệt cơ
thể.
Những thức ăn có nước thường được người Khmer ưu tiên chế biến trong bữa
ăn hằng ngày là các loại canh như canh xiêm-lo, canh chua hay canh ngọt (được tổng
hợp từ các loại rau dại mọc quanh vườn nhà). Cách chế biến món canh chua (xiêm lo
mchu) của người Khmer ở các nơi có sự đa dạng khác biệt. Để tạo vị chua, người
Khmer thường cho thêm me (trái me chín hoặc lá me non), khế hoặc cơm mẻ. Người
Khmer có món canh chua chuối xiêm xanh hoặc canh chua bắp chuối là sự kết hợp
giữa vị chua và chát. Chuối xiêm xanh bỏ một phần vỏ cho bớt chát, xắt lát nấu với cá
(có khi là cá khô) hoặc thịt gà, nêm thêm cơm mẻ, các loại rau om, tần dày lá, ngò gai,
sả và mắm pro-hoc.
Ngoài các món canh, người Khmer còn chế tạo thêm nhiều món nước khác để
có thể ăn kèm với bún (num-chok) như bún nước lèo ở Trà Vinh, bún mắm ở Sóc
Trăng, bún cá ở An Giang. Cùng làm món bún, chan nước có nêm với các loại mắm
nhưng các món bún mắm của người Khmer ở các địa phương có sự thêm thắt, gia
88
giảm mang dấu ấn địa phương rõ nét. Món bún cá của người Khmer ở An Giang khác
với bún cá ở các địa phương khác. Loại cá để nấu bún thường được chọn là cá lóc. Cá
lóc xào với sả, nghệ, gừng cho thơm rồi cho vào nước dùng có nêm mắm cá linh hoặc
cá sặc. Món bún cá An Giang còn được gia tăng thêm hương vị khi ăn với bông điên
điển – đặc sản mùa nước nổi ở ĐBSCL mang dấu ấn đặc trưng vùng miền. Các món ăn
là sự kết hợp hài hoà, cân bằng giữa vị mắm (pro-hoc) cùng với các gia vị đặc trưng:
sả, ớt, cá, tôm,… tạo hương vị riêng. Món bún nước lèo của người Khmer ở Trà Vinh
có cách chế biến khác. Cá dùng nấu bún có thể bất kì loại cá nào người ta tìm được, có
thể là cá lóc, cá kèo, cá phi đều được. Cá được luộc chín, rỉa bỏ xương rồi lấy thịt cá
giã nhuyễn với sả bằm, ớt, riềng và ngãi bún. Món bún nước lèo Trà Vinh nếu không
có vị ngãi bún sẽ không tạo nên hương vị đặc trưng. Trong cách chế biến món ăn của
người Khmer, họ biết cách kết hợp hài hoà giữa các tính hàn, nhiệt của món ăn giúp
cân bằng cơ thể khi thưởng thức. Các món mắm khi chế biến có tính hàn nên được cân
bằng vị lại bằng cái nhiệt của sả, ớt, riềng .v.v. Có thể nói, các món ăn được chế biến
có nước của người Khmer không chỉ là sự cân bằng giữa con người với thời tiết trong
khi ăn mà còn là sự cân bằng hàn nhiệt bên trong cơ thể người. Ứng phó với thời tiết
của người Khmer không chỉ là cách ứng xử giữa con người với bên ngoài mà còn là sự
ứng xử nội tại bên trong con người.
Để ứng phó với thời tiết nóng, ngoài sự lựa chọn các món ăn có nước, người
Khmer còn rất ưa chuộng chế biến các món ăn có vị chua, thanh giúp giải nhiệt cho cơ
thể rất hữu hiệu. Trong cơ cấu bữa ăn của mình, họ thường chế biến các món dưa
chua, vừa giúp đỡ ngán vừa giúp thanh nhiệt cơ thể. Các món dưa chua phổ biến nhất
là dưa chua được muối từ các loại hoa màu như: dưa gang, lưa leo, cải củ, cải bẹ
trắng… Đây chính là các loại nông sản sẵn có, đồng bào thường trồng xen canh vào
các vụ lúa vừa cải tạo đất vừa tăng thêm thu nhập và có lương thực để dự trữ. Dưa
gang, dưa leo sau khi thu hoạch xong, các loại lớn thường được tuyển chọn riêng để
bán cho thương lái, các loại còn lại được dành riêng muối dưa để ăn dần, nếu dư ra thì
có thể bán cho bà con trong phum, sóc. Ngoài các loại nông sản dùng để muối dưa kể
trên, người Khmer còn rất linh hoạt trong chọn lựa các loại hoa màu, rau màu khác
như: hoa điên điển, súng, sen, ngó môn, lục bình…Các loại thực vật này sinh trưởng
nhiều vào mùa mưa, đến cuối mùa họ thu hoạch, muối dưa để ăn dần vào mùa nóng.
Trong văn hoá ẩm thực của người Khmer, cách ăn phổ biến nhất là ăn theo mùa, mùa
89
nào thức ấy.
Khi điền dã tại ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh chúng tôi
khảo sát được người Khmer nơi đây có làm kinh tế phụ là trồng các loại hoa màu dùng
để muối dưa. Loại rau dùng muối dưa phổ biến ở đây là cải bẹ (người địa phương hay
gọi là cải bẹ cùi, cải tùa xại). Cải bẹ là loại cây ngắn ngày, dễ trồng nhưng lại mang giá
trị kinh tế cao. Người Khmer gieo hạt cải được 25 ngày thì nhổ lên trồng nơi khác (gọi
là tỉa cải). Cách trồng tỉa này giúp cây cải có khoảng cách, giúp cải có bắp to hơn. Cải
trồng lại khoảng 40 ngày là có thể thu hoạch. Cải khi thu hoạch xong đem phơi nắng cho
héo (khoảng 1 nắng) thì đem luộc sơ. Sau đó, nấu nước muối ngâm khoảng 5 đến 6 ngày
sẽ có cải chua rất ngon, màu vàng đẹp. Người Khmer nơi đây cho biết, món cải chua là
món ăn rất dễ ăn. Vị chua của món dưa giúp bữa ăn thêm phần hấp dẫn, không ngấy mà
lại giúp dễ tiêu hoá hơn, nhất là vào những ngày nắng nóng.
Cạnh các loại thức ăn có vị chua, người Khmer ở ĐBSCL còn rất chuộng các
món ăn có vị đắng. Các loại thức ăn có vị đắng thường rất khó ăn, kén người ăn nhưng
với đồng bào Khmer thường ai cũng có thể ăn được vị đắng và các món ăn có vị đắng
được đồng bào lựa chọn rất cao trong hệ thống ẩm thực của mình. Các loại rau, quả có
vị đắng được người Khmer ưa chuộng là: rau đắng, lá sầu đâu, bông đu đủ, khổ qua
v.v. Những loại rau quả này có vị rất đắng khi ăn nhưng lại đọng lại vị ngọt nơi cổ
họng (người ĐBSCL hay gọi là hậu ngọt). Hơn nữa, thời tiết Nam Bộ nóng ẩm, khi ăn
nhiều các loại thức ăn đắng có thể hạ nhiệt cơ thể, giúp cơ thể thanh mát và chống lại
các loại bệnh về nhiệt. Có thể nói, món ăn có đầy đủ các vị chua, đắng, chát mà hầu
như người Khmer nào cũng rất yêu thích đó là món Bok-L’hong. Bok-L’hong gồm có
Pro-hoc được nêm với gia vị, tỏi, ớt rồi ăn kèm với các loại rau như: khế, chuối sống,
bông đu đủ, xoài non (có khi còn có đọt khoai mì). Ăn mắm sống kết hợp với các loại
rau quả chua chát sống rất dễ lạnh bụng nên để cân bằng người Khmer sẽ uống thêm
chút rượu.
b. Chọn trang phục
Trang phục của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay cũng giống như trang phục
của các tộc người cùng cộng cư khác đó là loại Âu phục mặc khi giao tiếp công sở, đi
học, đi làm. Chỉ có một số trường dân tộc nội trú, nữ sinh Khmer mặc xiệp (váy dài tới
mắt cá chân) khi đi học.
Trong quá trình giao lưu, ảnh hưởng qua lại với các tộc người khác, người
90
Khmer thường mặc những loại trang phục đơn giản và khá giống với người Việt, người
Hoa trong sinh hoạt thường ngày. Về kiểu dáng họ thường chú trọng trang phục rộng rãi
thoáng mát để giúp cho việc di chuyển, làm ruộng rẫy được thuận tiện và hơn cả là phù
hợp với khí hậu nóng ở đây. Trong lúc làm đồng ngoài nắng nóng, kiểu trang phục của
phụ nữ thường thấy là áo tay dài, thân dài và cổ tròn sát cổ. Vì trời nắng nên trang phục
càng kín (che chắn được nhiều) sẽ không bị nắng bắt vào da như vậy sẽ chống được
nắng nóng. Ngoài ra, người Khmer còn có chiếc khăn rằn như một vật dụng hữu hiệu để
đối phó với thời tiết. Chiếc khăn rằn với những ô vuông đen trắng, đỏ trắng và xanh
trắng như một loại phụ kiện rất đặc biệt của người Khmer. Khi đi làm đồng, người phụ
nữ Khmer dùng khăn rằn quấn sát đầu, che kín cổ rồi đội nón lá lên trên. Chiếc khăn
quấn sát đầu giúp cho sức nóng không thể len vào cơ thể. Đối với nam giới, chiếc khăn
rằn được cột ngang trán, phần nút khăn nhô lên trên. Chiếc khăn còn được cả nam giới
lẫn nữ giới dùng làm vật thấm mồ hôi khi nắng gắt.
Ứng xử với thời tiết trong trang phục không chỉ ở kiểu dáng mà còn trong việc
sử dụng chất liệu. Nếu những loại trang phục lễ tết, lễ cưới, người Khmer dùng chất
liệu cầu kì như kim tuyến lấp lánh, ren, kim sa để tăng thêm tính thẩm mỹ thì trang
phục hàng ngày thường chọn chất liệu thô và màu đơn sắc. Chất liệu phổ biến được
người Khmer sử dụng là các loại ka-tê, vải bông và đặc biệt nhất là loại vải được
nhuộm từ trái mặc nưa vừa bền chắc vừa mát vào mùa khô và ấm vào mưa. Về màu
sắc, trong sinh hoạt thường ngày, người Khmer chuộng màu đen, nâu và trắng. Những
cụ già khi vào chùa đi thiếp thường mặc màu trắng, choàng khăn trắng. Khi đi làm
đồng, người Khmer thường chọn màu đen hoặc nâu đậm cũng là một cách ứng phó với
nắng nóng và phù hợp với thổ nhưỡng sình lầy của vùng ĐBSCL xưa.
3.1.3. Ứng xử với thời tiết mùa mưa
Mùa mưa ở ĐBSCL là thời điểm các loài thực, động vật sinh sôi phát triển
mạnh. Về thực vật, nhiều loại rau, quả rừng khi gặp mùa mưa, nước ngọt và đủ nước
cung cấp nên tươi tốt hơn mùa khô rất nhiều. Các loại rau dây leo như bình bát, nhãn
lồng là các loại không cần trồng, chỉ cần mùa mưa đủ nước sẽ mọc khắp nơi. Vào cuối
mùa mưa, nước ngập ruộng đồng các loại rau thân nước lại càng thuận lợi sinh trưởng.
Trong đó có các loại như: ngò om, năng, kèo nèo, tai tượng, ngau ngổ, cần nước, mã
tiền, rau chóc, rau đắng biển v.v... là các loại thực vật rất được người Khmer ưa
chuộng. Về động vật, mùa mưa có rất nhiều loại thuỷ sản nội đồng như cá linh, cá lóc,
cá trê, ếch, nhái v.v... Các loại thực phẩm mùa mưa là tương đối dồi dào. Người
91
Khmer thường ứng xử lựa chọn tận dụng các loại thực phẩm sẵn có. Trong văn hoá
truyền thống, họ chỉ tập trung làm ruộng để có lúa ăn cả năm, còn thực phẩm hàng
ngày thì chỉ đi hái lượm, đánh bắt là có thể dư dả ăn mà không cần phải mua.
Các loại thực phẩm sẵn có được người Khmer chế biến, kết hợp lại với nhau
một cách hoà quyện. Như vào mùa mưa, sẵn các loại cá, rau đắng thì người Khmer có
món cháo cá lóc ăn với rau đắng giúp giải cảm, làm ấm cơ thể. Để có thể chống lại cái
mưa ẩm, người Khmer còn gia giảm thêm các loại gừng, tiêu, mắm nước giúp cân
bằng món ăn và thân nhiệt. Các món cháo vào mùa mưa còn được người Khmer kết
hợp linh hoạt, họ không chỉ có món cháo cá lóc mà còn có món cháo ếch, cháo cóc
v.v...
Vào mùa mưa, khi thời tiết bắt đầu chuyển mùa, tiết trời ẩm ướt rất dễ sinh ra
các bệnh cảm lạnh. Một chút rượu uống kèm trong bữa ăn giúp cho cân bằng thân
nhiệt trong cơ thể, tránh được các bệnh gió trời. Đa phần người Khmer (nam cũng như
nữ) đều có thể uống rượu. Đó là loại rượu được nấu từ gạo lúa thơm nếu uống vừa
phải rất có lợi cho sức khoẻ những lúc giao mùa.
Trong kinh nghiệm chế biến rượu của mình, người Khmer ngâm rượu chung
với các loại thực vật và động vật nhằm tăng hương vị và tăng chất (bổ). Các loại thực
vật phổ biến được ngâm chung với rượu là trái nhàu, trái quách, chùm ruột hoặc các
loại rể cây. Các loại động vật được người Khmer ưa chuộng ngâm với rượu là rắn, tắc
kè, bìm bịp, bửa củi v.v… Người Khmer cho rằng, rượu ngoài giúp cân bằng thân
nhiệt còn giúp tăng thêm sức khoẻ (sức đề kháng) trong những lúc làm đồng vất vả.
Người phụ nữ Khmer sinh con lúc nào cũng phải uống ít rượu ngâm với nếp than hoặc
với các loại thực vật giúp lưu thông máu huyết và làm ấm cơ thể.
3.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT
3.2.1. Đặc điểm động vật, thực vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Với đặc điểm là vùng đất đai trù phú, hệ thống sông ngòi chằng chịt, vùng
ĐBSCL có hệ sinh thái động vật, thực vật khá phong phú với nhiều chủng loại khác
nhau. Trong Gia Định Thành thông chí của (Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm
2016), có viết:
Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản có: lúa, gạo, cá, muối, cây gỗ, chim muông.
Về ngũ cốc có lúa gạo. Lúa gạo có rất nhiều loại, đại để có 2 loại lúa tẻ và lúa
92
nếp trong đó có xen thứ lúa dẻo; lúa tẻ là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ mà
mềm, mùi rất thơm, hạt lúa có cái mang; nếp là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn.
Ngoài ra còn có các loại bắp, đậu, ma (mè), khoai, qua (dưa)… (tr.191, 192).
Tuỳ vào địa hình rừng núi, đồng bằng và ven biển sẽ có hệ thực vật và động vật
ứng với địa hình đó. Từ ngàn xưa, khi bắt đầu khai phá vùng đất này, các cư dân đã biết
cải biến đất rừng thiên nhiên giữa các sông rạch thành đất định cư và canh tác. Dân cư
ngày một phát triển nên đã dần dần lấn các rừng tràm vùng nước ngập mặn. Về phía đồng
bằng, trên những giồng cát và đồng bằng xưa kia là rừng dày, rừng rậm và rừng nhiều
tầng.
Thảm thực vật ở ĐBSCL khá đa dạng có thể chia thành thảm thực vật tự nhiên
và thảm thực vật canh tác.
Trong thảm thực vật tự nhiên, thảm thực vật đồi núi tập trung ở An Giang, cụ
thể là vùng Bảy Núi thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây là vùng rừng rậm, có
nhiều loại gỗ như dầu, vên vên, sao xanh, căm xe v.v..; Thảm thực vật đất ngập nước
và bưng trũng thuộc những nơi địa hình thấp. Thực vật vùng này có tràm (rừng ngập
mặn Trà Sư (An Giang); rừng tràm (Kiên Lương, Kiên Giang) v.v… Bên cạnh đó có
các loại cây khác như: cây mắm, cây bần, cây sú, cây vẹt… Các loại thực vật ven biển
này hiện nay vẫn được cư dân ĐBSCL tích cực giữ gìn và trồng mới nhằm bảo vệ,
phòng hộ cho đất rừng. Thảm thực vật trên đất canh tác là các loại lúa. Việc khai
hoang, cải tạo đất của cư dân ĐBSCL đã chuyển từ lúa nổi chỉ mỗi năm một vụ sang
các loại lúa cao sản có thể thâm canh từ hai đến ba vụ trong một năm. Thiên nhiên
vùng đất này còn tạo điều kiện cho các loại cỏ sinh trưởng mạnh; để đạt được năng
suất lúa, người dân phải đối phó với nạn cỏ dại. Các loại cỏ phổ biến trên thảm thực
vật canh tác là cỏ lồng vực, lông công, đuôi phụng, cỏ cháo, rau bợ, rau mác, gạc nai,
cỏ vòi voi v.v…
Trên thảm thực vật canh tác gồm có canh tác lúa cao sản; canh tác màu và canh
tác cây ăn trái. Canh tác lúa cao sản gồm có hai hình thức là chuyên canh cây lúa và
hình thức luân canh cây lúa- màu. Hình thức chuyên canh cây lúa ở ĐBSCL thường có
lúa hai vụ là lúa đông xuân và lúa hè thu; lúa ba vụ là lúa đông xuân, lúa hè thu và lúa
thu đông. Còn hình thức luân canh cây lúa - màu có hai vụ lúa và một vụ màu như sau:
lúa đông xuân, màu xuân hè và lúa hè thu. Hệ canh tác lúa ở vùng An Giang còn có
canh tác lúa nổi gồm có một vụ màu (đông xuân) với một vụ lúa nổi hoặc hai vụ màu
93
(đông xuân và hè thu) với một vụ lúa nổi. Lúa nổi ở An Giang được xuống giống vào
đầu mùa mưa vào khoảng tháng 4, 5 và được thu hoạch vào khoảng tháng 12. Khi
nước rút đến đâu người nông dân tiến hành thu hoạch lúa nổi và sạ màu đến đó để
tranh thủ độ ẩm. Lớp rạ lúa nổi còn sót lại trên đồng có tác dụng giữ ẩm tốt cho cây
màu phát triển trong khoảng tháng đầu mà không cần phải tưới. Các loại cây màu như
đậu nành, đậu xanh thường được sạ ngay trên rạ lúa nổi.
Đồng bằng sông Cửu Long còn có những vùng giồng cao chuyên trồng các
cây hoa màu ngắn ngày (đất rẫy). Các cây màu phổ biến gồm có bắp, đậu nành, đậu
phộng, dưa hấu, thuốc lá, mía đường, các loại khoai mì, khoai lang và rau dưa các
loại. Vùng trồng màu ở Sóc Trăng, người Khmer còn tiếp thu cách làm rẫy của người
Hoa, họ trồng các loại cải củ (xá bấu), hành tím, hành lá phù hợp với địa hình đất
giồng ven biển. Trên những vùng chuyên trồng màu người nông dân thường trồng từ
hai đến ba vụ màu / năm.
Môi trường tự nhiên ở ĐBSCL còn là nơi quy tụ của nhiều loài động vật, chim,
thú quý hiếm như cò trắng, cò đen, rắn và cả sếu đầu đỏ. Địa hình rừng ngập mặn còn
là điều kiện để các loài thuỷ sản nước mặn, nước lợ phát triển như tôm, tép, cá nâu, cá
đối, thòi lòi, bống sao, ba khía, chù ụ, … Theo nhiều cứ liệu lịch sử cùng các giai thoại
để lại, vùng đất ĐBSCL xưa còn là nơi sinh sống của rất nhiều loài thú như nai, cọp,
bò tót, chim, cá sấu… Nhiều địa danh hiện nay vẫn còn thể hiện dấu ấn của các loài
động vật đó như: cù lao Hổ (Cù Lao Dung ở Sóc Trăng hiện nay), cồn Chim (Châu
Thành, Trà Vinh). Ở Trà Vinh và Sóc Trăng có nhiều nơi vẫn còn bảo tồn làm nơi trú
ngụ của các loại chim, cò, dơi như chùa Giồng Lớn (huyện Trà Cú), chùa Hang (huyện
Châu Thành), Chùa Khleang (Sóc Trăng), …
Sự phong phú và đa dạng của các loại thực và động vật cung cấp nguồn tài
nguyên thiên nhiên và cũng là tiềm năng kinh tế phục vụ khai thác tự nhiên và phục vụ
cho xu hướng khai thác kinh tế du lịch của các tỉnh ĐBSCL hiện nay.
3.2.2. Văn hoá khai thác và tận dụng động vật, thực vật
3.2.2.1. Khai thác và tận dụng động vật
Cùng là cư dân nông nghiệp truyền thống nên người Khmer xưa kia gắn bó mật
thiết với con vật nuôi phục vụ nông nghiệp là trâu và bò. Trâu có nhiều công dụng lớn
như kéo cày, bừa trục lộ, đạp lúa, kéo ghe khi nước cạn. Theo nhà văn (Sơn Nam,
94
2007):
Trâu lại lội giỏi, đạp nước khá mạnh. Trâu còn có thể dễ dàng sống nơi ẩm
thấp (nước ngập, bùn sình). Vào mùa nước nổi, cư dân ĐBSCL làm hầm
cho trâu ngủ, dưới hầm là nước và bùn (tr. 31).
Trâu là con vật vừa có thể dùng để kéo vật nặng, vừa có thể dùng cày bừa ở
vùng đất sình lầy. Đây là con vật rất có giá trị cho nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân
ĐBSCL khi xưa. Người Khmer ở An Giang xưa kia còn có nghề nuôi trâu để bán theo
các buổi chợ và nghề len trâu được xem là một nghề khá đặc biệt ở vùng ĐBSCL.
“Len” trong tiếng Khmer là đi tự do; “len trâu” là cho trâu đi tự do. Vào khoảng tháng
9, tháng 10 là mùa nước ngập sâu ở một số vùng, cư dân ở ĐBSCL phải đưa trâu đi
đến vùng cao như An Giang để tìm nguồn cỏ và để tránh nước nổi; và từ đó có hẳn
nghề len trâu. Nghề len trâu là vừa ứng xử với nước nổi vừa là cách ứng xử linh hoạt
với vật nuôi của người Khmer ĐBSCL.
Bò là con vật gắn liền với cơ nghiệp của người Khmer. Bò được tận dụng sức
kéo để chuyên chở người và đồ đạc. Di chuyển bằng xe bò là phương tiện di chuyển khá
phổ biến của người Khmer truyền thống. Vì những sự giúp ích của bò mà xưa kia còn có
Lễ rước bò mùa xuân. Theo “Người Việt gốc Miên” của Lê Hương, lễ rước bò mùa
xuân thường được diễn ra vào đầu năm. Khi bắt đầu mùa xuân, bà con nông dân thường
nặn tượng trâu bò bằng đất sình rồi đem phơi khô. Sau đó, họ đem các tượng này đặt
giữa ruộng để cầu xin và cầu mong được tẩy uế các loại bệnh cho trâu bò. Lễ rước bò
mùa xuân hiện nay tuy không còn nữa nhưng nó vẫn tồn tại trong tâm thức của người
Khmer. Nó vẫn được nhắc đến trong lúc tửu hậu, trà dư (Lê Hương , 1969).
Trâu và bò không chỉ là một loại vật nuôi mà đối với tâm thức người Khmer nói
riêng và người dân ĐBSCL nói chung, chúng còn được xem như bạn thậm chí có cả
những tín ngưỡng tâm linh liên quan đến trâu bò. Ngày trước, cứ vào đầu năm, người
Khmer nặn một tượng bò bằng đất rồi đem để giữa ruộng với chức năng mong muốn
tẩy uế tất cả bệnh tật làm hại loài bò. Có nơi người Khmer lại nặn hình con trâu để trừ
bệnh cho loài trâu. Xưa kia khi trâu, bò bị bệnh giữa mùa cày, người Khmer sẽ cầu xin
ông Tà (thần Neak-ta) phù trợ cho con vật khỏi bệnh và họ sẽ đền ơn Neak-ta bằng
cách sẽ cúng con vật giống như thế. Khi lời cầu xin được thành hiện thực, trâu bò khỏi
bệnh như ý nguyện, người Khmer chuẩn bị một mâm cơm gồm bốn món thức mặn,
bốn món thức ngọt và ở giữa có một con trâu hay bò nắn bằng bột gạo đem ra miếu tạ
95
ơn.
Khi phỏng vấn một số Achar về cách ứng xử với các loại gia súc họ cho biết:
ngày xưa nuôi gia súc khá vất vả vì nạn muỗi mòng ở ĐBSCL vào mùa mưa rất hại
đến sức khoẻ trâu, bò. Tuy nhiên, khi đó lại không có thuốc diệt muỗi, không có chăn
màn như bây giờ thì người Khmer sẽ đối phó bằng cách lấy rơm cuộn lại cho chặt rồi
đốt gần chuồng trại để đuổi muỗi vào các buổi chiều tối. Nếu chuồng dơ bẩn đầm lầy
thì họ sẽ kiếm cây để lót cho nền khô ráo tránh gây bệnh cho trâu, bò. ĐBSCL là vùng
đất vốn có điều kiện thuận lợi cho nhiều loại muỗi phát triển. Những vùng đầm lầy
hoặc vào mùa mưa là điều kiện để muỗi sinh trưởng mạnh. Khi nuôi trâu, bò nếu để
muỗi chích nhiều trâu, bò rất dễ bệnh hoặc chậm lớn. Thông thường, vào buổi chiều
người nuôi trâu, bò sẽ dùng lá khô đốt lên (ung khói) để giảm muỗi. Họ không đốt lửa
cháy mạnh mà chỉ quạt nhẹ để khói lên xua muỗi. Hiện nay, một số người vẫn sử dụng
cách này nhưng lại tốn nhiều thời gian nên hầu như họ đối phó bằng cách giăng mùng
cho trâu, bò hoặc phun thuốc diệt muỗi, phát hoang bụi rậm, vệ sinh chuồng trại theo
hướng dẫn của các cán bộ Y tế Dự phòng.
Theo thông tín viên ở Sóc Trăng cho biết, ngày xưa nuôi trâu, bò hay gặp phải
bệnh “sa”. Bệnh này làm cho trâu, bò bị trướng bụng vì thức ăn không tiêu hoá được,
không thải được ra ngoài và có thể sẽ làm cho trâu, bò chết nếu không chữa trị kịp
thời. Mỗi khi gặp bệnh này người Khmer thường chữa bằng biện pháp dân gian đó là
họ sẽ lấy đòn gánh để cạo trên lưng của trâu, bò họ gọi đó là cạo gió như cạo gió cho
người và biện pháp này ngày xưa sử dụng khá là hiệu quả.
Trong quan niệm người Khmer thì chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm rất
quan trọng và có khi có thần canh giữ (gọi là ma chas huộng). Khi vật nuôi bị bệnh
người ta còn đi xem bói để coi có làm gì phật ý thần hay không để về nhà cúng tạ lỗi
với thần để thần không làm trâu, bò bệnh. Mặc dù hiện nay không còn cúng tạ lỗi và
niềm tin về các vị thần giận dữ gây ra bệnh cho trâu bò nhưng ở một số gia đình ở
ĐBSCL vẫn tin là có vị thần bảo trợ chuồng trại của con vật nuôi nên khi nhà có đám
giỗ, người Khmer sẽ dành một mâm cơm canh cúng vị thần chuồng trại để cầu mong
vị thần này sẽ phò trợ giúp cho con vật nuôi mạnh khoẻ, mau lớn, bình an và việc chăn
nuôi được suông sẻ.
Người Khmer ở ĐBSCL đa phần cư trú tại những vùng đất giồng cao với sinh
kế nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, người Khmer vùng giồng ven biển còn có thêm
sinh kế đánh bắt thuỷ sản. Nếu như người Việt có truyền thống đi biển và đánh bắt xa
96
bờ thì người Khmer lại có tập quán đánh bắt nội đồng nhiều hơn. Với tập quán sống
vùng cao, ít tiếp xúc nước sâu nên người Khmer ở ĐBSCL có chung cách đánh bắt gần
bờ. Người Khmer vùng ven biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng) dùng xiệp để đánh bắt cá ở
những khu vực nước biển cạn; còn người Khmer ở vùng Trà Vinh, An Giang dùng các
loại ngư cụ như xà ngôn, xà di, nôm, chài, lưới, câu cắm... để đánh bắt cá nội đồng ở
khu vực kênh, ao hoặc bờ sông.
Các loại thuỷ hải sản đánh bắt được, người Khmer chế tạo ra các món ăn rất đa
dạng giàu đạm từ thuỷ sản trong đó đặc biệt nhất là món pro-hoc (còn được người Việt
gọi là bò hóc). Món Pro-hoc có thể làm từ cá đồng hoặc cá biển đều được. Pro-hoc
được người Khmer xưa kia nêm vào các món ăn để tăng hương vị và đây cũng chính là
đặc trưng riêng trong ẩm thực của người Khmer. Ngoài món Pro-hoc truyền thống,
người Khmer rất giỏi trong chế biến các loại mắm (làm từ các loại cá đánh bắt nội
đồng) như mắm cá lóc, cá linh, cá sặc… Vào khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, một
lượng nước lớn từ thượng nguồn sông Mekong đổ về sông Tiền và sông Hậu. Nước
thượng nguồn này mang theo cả phù sa và một lượng thuỷ hải sản vô cùng phong phú.
Để tận dụng nguồn thuỷ sản mùa nước nổi này, người Khmer chế tạo ra các món mắm,
khô dùng để ăn dần trong năm. Có thể nói, mắm của người Khmer có vị riêng bởi có
sự kết hợp của các loại đường của vùng đất này như đường thốt nốt, đường mía… Các
loại cá dùng để làm mắm phải được cắt bỏ đầu, ruột và rửa thật sạch, phơi cho ráo
nước. Sau đó họ cho cá vào hũ sành với tỉ lệ một lớp cá và một lớp muối. Cứ thế cá và
muối ủ trong vài tháng thì cho ra món mắm rất ngon. Có nơi người Khmer chao đường
cho vào mắm để giảm vị mặn và tăng thêm hương vị thơm ngon cho mắm. Trong các
loại mắm ở ĐBSCL thì mắm của vùng An Giang là nổi tiếng nhất vì độ thơm ngon bởi
được gia giảm chế biến thêm nhờ món đường thốt nốt. Tất cả làm nên bản sắc văn hoá
trong hệ thống ẩm thực của người Khmer An Giang nói riêng và người Khmer ĐBSCL
nói chung.
Ngoài món mắm từ cá, người Khmer còn tận dụng nguyên liệu từ các loại tép
nhỏ (tép rong, tép nhảy) để làm bò-ót (mắm bò-ót). Bò-ót là một loại mắm khá đặc
trưng của người Khmer. Loại mắm này được làm từ nguyên liệu rất đơn giản là các
loại tép nhỏ được đánh bắt nội đồng. Để bắt được loại tép này, người Khmer có kinh
nghiệm riêng như khi làm mồi nhử, họ rang gạo cho thơm, giã nhuyễn cho vào xà
ngôn để bắt tép. Để làm loại mắm này, người Khmer rửa sạch tép, để ráo sau đó cho
97
thêm muối, nước mắm nấu chín vào và ủ trong vài tháng sẽ thành món mắm rất ngon.
Để món mắm tăng hương vị, đồng bào thường đem phơi nắng để mắm “mau chín”.
Người Khmer ở xã Đại An và Định An (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) là vùng có món
bò-ót khá nổi tiếng. Món mắm này có thể ăn nguyên vị hoặc có thể trộn chung với đu
đủ, gừng, tỏi, ớt rất ngon miệng và mang hương vị đặc trưng trong ẩm thực truyền
thống.
Môi trường sinh thái vùng ĐBSCL vô cùng đa dạng, nhất là vào mùa mưa từ
tháng 5, 6 đến tháng 11. Mùa này nhiều loài vật sinh sôi nảy nở và cũng là nguồn thức
ăn cực kì dồi dào. Với thói quen kinh kế đánh bắt nội đồng nên người Khmer rất thạo
việc soi ếch, nhái, cóc. Các loài này được chế biến thành nhiều món ăn ngon, thanh mát
như ếch, nhái được om hoặc xào với lá cách, lá nhàu hoặc ram với sả, nghệ, gừng. Cóc
được chế biến thành món cháo đậu xanh cực kì bổ dưỡng. Đối với người Khmer vùng
Bảy Núi An Giang cụ thể là vùng Tri Tôn còn có cả nghề bắt ve sầu vào khoảng tháng 5
đến tháng 6 hàng năm. Cũng như dế cơm, bọ rầy, ve sầu là loài sinh trưởng rộ vào mùa
mưa và còn được xem là đặc sản của vùng Tri Tôn. Vào lúc trời vừa sụp tối, những trẻ
em Khmer được hướng dẫn bởi người lớn hoặc những người có kinh nghiệm sẽ len lỏi
vào chân núi để bắt ve. Kinh nghiệm được truyền nhau là ve thường trú ẩn ở những nơi
có nhiều cây cổ thụ. Dụng cụ để bắt ve cũng thật đơn giản. Những trẻ em Khmer chỉ cần
có một cái đèn pin và một chai nhựa chưa ít nước muối pha loãng. Khi bắt được ve, các
em sẽ cho vào chai nhựa để rửa sạch những kí sinh trùng bám trên thân ve. Theo kinh
nghiệm của người dân nơi đây, ve ngon nhất là loại ve sữa. Ve sữa bắt về rửa thêm
nhiều lần với nước muối pha loãng và chiên nước mắm được xem là đặc sản của vùng
Bảy Núi.
Trong khai thác nội đồng, người Khmer cũng rất yêu thích các món ăn từ ốc
bươu, ốc đắng, ốc dừa,… Các loại ốc này có rất nhiều ở các ao, kênh, rạch. Người
Khmer bắt về ngâm với nước vo gạo rồi luộc với lá sả, lá ổi rồi ăn kèm với nước mắm
được chế biến với cơm mẻ hoặc với sả ớt bằm nhuyễn. Lá sả, lá ổi, sả, ớt có tác dụng
giúp cân bằng tính hàn của ốc.
Đối với cư dân Khmer vùng biển Vĩnh Hải - Vĩnh Châu còn khai thác thuỷ hải
sản phong phú từ biển là cá, tôm và ruốc. Sản lượng từ biển mang lại một nguồn kinh
tế tương đối khá lớn cho cư dân Khmer nơi đây. Trong đó phải nói đến nghề te ruốc
của cư dân Vĩnh Hải. Ruốc là một loại giáp xác có 10 chân, thân hình nhỏ hơn tôm rất
98
nhiều. Để te được ruốc, người dân Khmer gắn hai cây gỗ trước ghe, phía dưới gắn lưới
để bắt được ruốc. Mùa ruốc rộ nhất là vào mùa khô vào khoảng tháng 3 đến tháng 6 vì
ruốc cần nắng để phơi mới giữ được chất lượng của ruốc.
Với người Khmer vùng ĐBSCL, ăn uống có thể kết hợp với chữa được bệnh.
Một số loại động vật có thể làm món ăn để trị bệnh như thịt cóc, thịt lươn, thịt rắn, thịt
rùa, … Người Khmer cho rằng thịt cóc có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng cho trẻ
con và chữa bệnh suy nhược cơ thể cho người lớn. Theo (Phan Thị Yến Tuyết, 1993)
cho rằng:
Con cóc trước khi nấu phải làm sạch gan và trứng. Cóc làm sạch nấu cháo
với đậu xanh có thể giúp người bệnh mau bình phục. Đối với lươn và rắn là
loại động vật có thể dùng để trị nhức mỏi. Hai con vật này khi chế biến phải
kết hợp với lá nhàu, lá lốt hoặc lá cách. Những món ăn này còn có thể giúp
cho sản phụ sinh nở dễ dàng, người Khmer cho rằng, trước khi sinh nên ăn
một con rùa nhỏ (khoảng 200 gram) sẽ giúp sản phụ chịu được những cơn
đau khi sinh con (tr.165).
3.2.2.2. Khai thác và tận dụng thực vật
a. Trong cư trú
Người Khmer ở ĐBSCL có thói quen cư trú trên những giồng đất cao. Những
giồng đất phù sa cổ thích hợp để người Khmer trồng các loại cây cổ thụ chịu được sự
thiếu nước vào những tháng mùa khô. Trong xây dựng chùa chiền, nhà cửa, người
Khmer chuộng xử dụng các loại gỗ để xây dựng. Chùa Khmer thường được sử dụng
các loại gỗ quý, thân to để làm cột, mái, dùng lá để lợp. Ngày nay các chùa hầu như
thay bằng lợp ngói nhưng vẫn giữ lại cột gỗ, mái gỗ. Trong xây cất nhà ở, người
Khmer truyền thống thường chọn chất liệu gỗ, lá để xây dựng, phổ biến nhất là cách
làm nhà sàn. Nhà sàn của người Khmer có bộ khung gỗ liền cột chịu lực, chân sàn cao,
mái nhà dốc gồm hai có khi ba hoặc bốn mái. Một loại nhà khác được cải tiến từ nhà
sàn và cũng dùng chất liệu gỗ để xây dựng. Loại nhà này thay vì để sàn trống họ dừng
vách như kiểu nhà trệt có ván của người Việt. Nội thất bên trong nhà của người Khmer
như bàn ghế, giường, tủ cũng đa phần sử dụng chất liệu thực vật như ván gỗ hoặc tre.
Trong văn hoá ứng xử với thực vật của người Khmer, họ cho rằng thực vật
ngoài giá trị vật chất, phục vụ nhu cầu cư trú còn có những giá trị về mặt tinh thần. Đó
có các loại cây sao, cây dầu và cây mù u là những loại cây cổ thụ có rất nhiều xung
quanh nơi cư trú của người Khmer. Theo quan niệm của người Khmer, các loài thực
99
vật đều có linh hồn và các loại cổ thụ thường có thần linh trú ngụ. Trong khuôn viên
chùa Khmer, nhiều loài sinh vật như chim, cò đến trú ngụ trên các cây cổ thụ này. Sư
sãi và bà con phum sóc không đuổi đi mà ngược lại còn rất trân quý và nghiêm cấm
hành vi săn bắt trong khuôn viên chùa. Việc trồng cây trong chùa còn giúp cho bà con
Phật tử tích được nhiều phước báu đồng thời việc chặt phá cây, làm tổn hại đến cây
trong chùa là một điều cấm kị đối với bà con Phật tử Khmer.
Cây sao là loại cây gỗ quý được trồng khá nhiều tại những nơi cư trú của người
Khmer. Cây sao là loại cây lấy gỗ, thân suông thẳng, có cành nhánh ít và không đối
xứng. Sao thường trổ bông vào khoảng tháng ba âm lịch. Cây sao trưởng thành có
chiều cao khoảng 30 đến 40 mét. Cây sao với đặc tính suông thẳng nên phù hợp để lấy
gỗ. Gỗ sao là loại gỗ tốt nên người Khmer thường dùng cho việc đóng ghe Ngo, xây
cất chùa và cũng có thể dùng để điêu khắc tượng Phật. Người Khmer thường cho rằng,
gỗ sao là gỗ quý và mang giá trị tâm linh nên không được dung gỗ sao cho việc xây
cất nhà ở. Nếu xây cất nhà ở bằng gỗ sao gia chủ sẽ không may mắn và gặp nhiều bất
trắc về sức khoẻ và việc làm ăn. Do gắn với yếu tố tâm linh nên hiện nay cây sao đa
phần được sử dụng cho việc đóng ghe Ngo hoặc xây cất chùa. Trong khuôn viên chùa,
người Khmer trồng rất nhiều sao nhưng không ai làm tổn hại đến loại cây này bởi
người Khmer cho rằng nó có chức năng che chắn, bảo vệ khuôn viên chùa. Cây sao
còn là nơi trú ngụ của nhiều sinh vật như chim, cò, dơi, v.v…
Bên cạnh cây sao, cây dầu là loại cây được người Khmer trồng rất nhiều tại
phum, sóc của mình. Dầu là loại cây thân gỗ lớn và có thể dùng làm bóng mát, che
chắn cho khuôn viên chùa. Cây dầu không gắn với yếu tố tâm linh như cây sao mà
mang tính ứng dụng và giá trị kinh tế khá cao trong văn hoá người Khmer. Dầu là loại
cây sinh trưởng nhanh hơn sao. Người Khmer thường dùng cây dầu trong nghi lễ hoả
táng. Khi chẳng may nhà có người chết, người Khmer thường dùng cây dầu để đóng
thành quan tài. Công việc này thường do những người có kinh nghiệm của phum, sóc
thực hiện. Quan tài bằng gỗ dầu rất dễ cháy dù cho cây còn tươi. Với đặc tính như thế
nên cây dầu có giá trị trong nghi lễ hoả táng của người Khmer.
Bằng đầu óc tinh tế và rất giỏi trong nghệ thuật tạo hình, người Khmer còn tận
dụng những rễ cây, gốc cây cổ thụ để tạo ra những sản phẩm điêu khắc tinh tế. Sản
phẩm điêu khắc được sáng tạo đa dạng thành bàn, ghế hoặc những con vật dùng để
trang trí. Tuỳ vào kích thước và hình dáng sẵn có của rễ cây, các nghệ nhân Khmer
100
dựa vào đó để tạo ra những sản phẩm phù hợp. Tại chùa Hang, Châu Thành, Trà Vinh,
các nhà sư Khmer tạo ra rất nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo. Các nhà sư
theo học tại chùa ngoài việc tu học giáo lý nhà Phật còn được truyền dạy cả nghề điêu
khắc.
b. Trong lương thực
Trong quá trình canh tác ở vùng ĐBSCL, Người Khmer đã biết khai thác đất
đai để trồng lúa nước. Trong quá trình cộng cư giữa các tộc người, người Khmer,
người Việt đã trao đổi, đúc kết kinh nghiệm để tạo nên nguồn lương thực dồi dào như
hiện nay. Để tạo nên một vụ mùa có năng suất cao, ngoài kinh nghiệm chọn đất, cải
tạo đất, xem xét thời tiết thì khâu chọn giống cho phù hợp với kiều kiện thổ nhưỡng là
khâu vô vùng quan trọng. Sách Gia Định thành thông chí của (Trịnh Hoài Đức, tái bản
lần thứ 1 năm 2016), có viết:
Gia Định đất tốt lại rộng. Lúa có nhiều loại như lúa tàu, lúa sá, lúa móng
tay, lúa móng chim, lúa mo cải, lúa cà dông, lúa cà nhe, lúa tráng sẻ nhất,
lúa chàng cô (co), tuỳ tên khác nhau, và sớm muộn, dẻo xốp khác nhau
nhưng thứ thơm ngon nhất là lúa tàu, nhì là lúa cà nhe. Nếp có nếp hương,
nếp sáp, lại có thứ nếp đen có tên nữa là nếp than, sắc tím, nước cốt đen,
dung nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín (tr.
191).
Người Khmer ở ĐBSCL đã sớm tích luỹ những kinh nghiệm quý báu trong
thích nghi với môi sinh đất đai, thổ nhưỡng trong việc chọn giống lúa, chăm sóc cây
lúa. Đối với vùng có 3 đến 4 tháng bị ngập trong năm như vùng An Giang bà con
Khmer tìm được giống lúa nổi. Cây lúa nổi là loại lúa có thể vươn mình và tồn tại trên
mặt nước mênh mông. Cây lúa nổi của cư dân An Giang được xem là một biểu tượng
về sự thích nghi và sức sống mãnh liệt trong quá trình mở đất và giữ đất. Lúa nổi hiện
nay chỉ còn tên gọi chứ không còn giống lúa nữa. Tuy nhiên, điều đó cũng chứng minh
cho một quá trình lao động sáng tạo không ngừng nghỉ của đồng bào.
Ở ĐBSCL có rất nhiều giống lúa khác nhau và các giống lúa này được tập hợp,
lưu truyền qua nhiều nguồn khác nhau. Đến thời điểm hiện nay, theo khảo sát của
chúng tôi, các giống lúa được đồng bào chọn trồng từ ba nguồn khác nhau: các giống
lúa được mang theo từ hành trang của các cư dân đi mở cõi từ miền Trung vào; giống
lúa của cư dân tại chỗ và giống lúa được du nhập nước nước ngoài. Do được du nhập
101
từ nhiều nguồn gốc khác nhau nên về tên gọi các giống lúa cũng hết sức đa dạng mà
trong văn hoá truyền thống của đồng bào Khmer, các giống lúa thường gọi ghép với từ
Nàng (Neang). Cụ thể có các giống lúa như: Nàng Hương, Nàng Dâu, Nàng Dụ, Nàng
Gông, Nàng Lài…
Đối với đồng bào Khmer ở Nam Bộ, cây lúa có một giá trị rất lớn trong đời
sống vật chất cũng như tinh thần. Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nên từ ngàn
xưa, đồng bào có hệ thống tri thức trong canh tác trồng lúa từ khâu xem đất, chọn
nước, chọn giống, xem thời tiết đến tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Đối
với đồng bào, mỗi một một khâu đều mang một ý nghĩa cực kì quan trọng, quyết định
rất lớn đến năng suất của cây lúa. Người Khmer đã đúc kết kinh nghiệm dân gian trong
toàn bộ đời sống sinh trưởng của cây lúa. Từ khi là cây mạ, người Khmer có câu: “Mạ
cậy đất, gái cậy trai” để nói lên vai trò của đất từ khi cây lúa còn nhỏ; cho đến khi cây
lúa trưởng thành họ có kinh nghiệm để xem cây lúa có trúng mùa hay không qua câu:
“Lúa gục xuống thì được mùa, lúa thẳng ngọn thì mất mùa”.
Trong khâu chọn giống, xưa kia được bà con Khmer chọn rất linh hoạt, tuỳ vào
hộ gia đình. Có gia đình chọn giống khi gặt lúa, thấy lúa nào tốt, hạt đều, tròn thì chọn
riêng để làm giống cho mùa vụ sau. Tuy nhiên, cũng có những hộ sau khi gặt và cho
vào bồ lúa cất giữ rồi đến mùa vụ lại lấy ra riêng, ngâm hạt, làm giống. Dù chọn bằng
cách nào thì xưa kia, đồng bào thường có nghi thức cúng giống lúa và cúng vào ngày
xuống giống. Trong văn hoá truyền thống của đồng bào Khmer, các nghi thức liên
quan đến sinh trưởng của cây lúa đều được bà con tiến hành các lễ nghi cụ thể như:
cúng xuống giống; cúng nhổ mạ; cúng sân lúa…
Bên cạnh đó, để thể hiện tấm lòng thành khẩn với lúa, đồng bào còn có nghi lễ
gọi hồn lúa. Theo quan niệm xưa kia của đồng bào, lúa cũng có linh hồn và có khi lúa
còn được tôn vinh như một vị thần. Trong kho tàng văn học dân gian Khmer, có một
số truyền thuyết về lúa, lúa mang linh hồn và có các đặc tính như con người. Câu
chuyện truyền thuyết về cây lúa cho thấy lúa mang hình tượng là một nữ thần đó là
Pras Mê (nữ thần lúa). Khi con người còn lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nên những
hiện tượng như thất mùa, được mùa được con người cho rằng lúa đó là do thần linh hài
lòng hay tức giận. Đồng bào Khmer cũng vậy, trong những năm mất mùa, đồng bào
xưa kia cho rằng hồn lúa đã tức giận và bỏ đi nơi khác làm cho đời sống của bà con rơi
vào cảnh đói khổ, khó khăn. Với tư duy vạn vật hữu linh như thế nên bà con Khmer có
102
cách để kêu gọi hồn lúa quay trở lại, phò trợ cho con người. Lễ gọi hồn lúa thường
diễn ra khi chuẩn bị bắt đầu mùa vụ mới. Đồng bào thường đem theo bông lúa để cầu
hồn lúa năm sau mang đến vụ mùa bội thu, sung túc. Lễ cầu hồn lúa hiện nay hầu như
còn rất ít nơi ở ĐBSCL thực hiện mà chỉ còn là những câu chuyện kể thể hiện tàn tích
dấu ấn văn hoá nông nghiệp của bà con.
Câu chuyện Cá thác lác đi xin lúa cũng phản ánh về giá trị tinh thần của cây lúa
trong văn hoá Khmer. Thưở xa xưa, khi loài người không đông đúc như ngày nay và
thiên nhiên cũng dồi dào hoa trái. Con người đi hái lượm không phải nhọc nhằn lắm
cũng có thể no bụng. Lúc bấy giờ con người không phải gieo cấy lúa công phu và cực
nhọc mà tự nhiên lúa mọc đầy đồng. Đến mùa lúa chín vàng, rồi tự do bay về mọi nhà,
rào rào như ong về tổ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị kho lẫm để
đón lúa về, không phải ra đồng gặt hái, gồng gánh vất vả.
Một hôm lúa chín bay về cả đàn định đổ xuống một gia đình nọ, thì gặp phải
một người đàn bà quét sân. Là một người vợ lười biếng, nên mặc dù người chồng đã
nhắc chị dọn dẹp trong ngoài để đón lúa về nhưng mãi đến khi lúa bay về, chị mới cầm
chổi quét được mấy nhát. Tiện có cây chổi trong tay, lại vốn là người lười nhác, thiếu
ý thức, nên đã vung chổi tứ tung, xua đuổi lúa. Bị đánh bất ngờ, cả bầy lúa hốt hoảng
bay vội vào núi, trốn vào trong một khe đá hẹp, không dám về nhà ai nữa. Năm ấy, cả
vùng, mọi nhà đều không có thóc ăn. Cá thác lác ở dưới sông thấy người đói khổ nên
thác lác chúa bèn rủ cả cháu con, chắt, chít của mình, kéo nhau thành đàn lách sâu vào
khe núi để tìm gặp thần lúa, yêu cầu thần lúa trở về để mọi người, mọi nhà được no
ấm. Đường đi vô cùng vất vả, đàn cá thác lác phải vượt qua những thác ghềnh hiểm
trở, những khe đá khúc khuỷu, những chỗ nước cạn quanh co. Cuối cùng đàn cá thác
lác vẫn đến được nơi thần lúa ẩn nấp. Mặc dù cá thác lác đã đem hết lời nài nỉ thần lúa
vẫn chưa hết sợ, không dám trở về với con người. Nhưng cá thác lác vẫn nài nỉ,
khuyên lơn mãi làm cho thần lúa vẫn phải xiêu lòng, thuận trở về, với điều kiện là ở
ngoài đồng ruộng chứ không dám vào nhà. Từ đó, con người phải làm lụng chăm sóc
cây lúa vất vả. Khi lua chín phải lo gặt hái, gồng gánh chuyên chở về nhà. Truyền
thuyết này ngày nay vẫn còn được kể phổ biến trong đồng bào Khmer ĐBSCL. Để
nhớ ơn loài vật đã tận tình với con người, hàng năm trên mâm cơm cúng thần lúa,
đồng bào thường nước một xâu cá thác lác để bên cạnh những bát gạo mới đầu
103
mùa.
Là cư dân nông nghiệp lúa nước nên cây lúa có một ý nghĩa rất quan trọng
không chỉ trong đời sống vật chất mà còn có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của
người Khmer. Trong những nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ tôn giáo của người Khmer
thường xuất hiện vật phẩm từ lúa. Trong lễ cắt tóc trả ơn mụ hoặc trong đám tang
người Khmer dùng cái thúng trong đựng đầy lúa (gọi là Chơng - Thbâung) làm vật
dâng cúng. Hoặc trong các lễ tết, người Khmer đem thóc, gạo dâng vào chùa để cầu
phước với ý nghĩa dâng lên vật phẩm quý giá nhất của đồng bào. Như trong lễ Chôl -
Chnăm - Thmây hiện nay người Khmer ở một số nơi có nghi thức đắp núi lúa (thay vì
đắp núi cát).
Trong ẩm thực của người Khmer ở ĐBSCL được xem là khá đơn giản. Người
Khmer vốn có lối sống giản đơn nên các sinh hoạt ăn, ở thường ngày cũng không quá
cầu kì mà chủ yếu là tận dụng những nguyên liệu sẵn có xung quanh. Điều đó thể hiện
được tính cách văn hoá dung dị, lối ứng xử hài hoà, linh hoạt trong ứng xử với môi
trường tự nhiên.
Bữa ăn hàng ngày của người Khmer thiên về thực vật và đạm thuỷ sản với cơ
cấu bữa ăn là cơm, rau và cá. Người Khmer ăn cơm là chính. Điều này cũng dễ hiểu
bởi thói quen ăn uống này phản ánh đúng với văn hoá sinh kế lúa nước của người
Khmer. Người Khmer dùng từ hup-bai (dùng cơm) để mời nhau hoặc hỏi thăm nhau
trước các bữa ăn. Bữa ăn chính sau cơm là rau và cá. Trong những dịp lễ đặt biệt,
người Khmer sẽ làm rất nhiều loại bánh từ việc tận dụng các nguyên liệu thực vật.
Nguyên liệu bánh thường được sử dụng từ nếp, gạo, bột từ gạo, bột từ nếp, bột từ cây
nưa, bột mì… Kết hợp với các loại bột này cũng là các loại đậu, chuối, lá… cũng hoàn
toàn từ các vật liệu thực vật từ tự nhiên.
Trong dịp đón năm mới như Chôl - Chnăm - Thmây, người Khmer làm bánh
bánh tét, bánh ít để dâng cúng ông bà ở nhà và đem vào chùa dâng cho sư sãi. Bánh tét
là loại bánh được làm từ gạo nếp ngâm với bồ ngót giã lấy nước. Bánh tét của người
Khmer truyền thống thường gói với nhân chuối, nhân đậu xanh cùng mỡ heo. Bánh tét
là loại bánh làm từ lúa nếp và có mặt hầu hết các lễ hội, lễ tết quan trọng của đồng
bào. Món bánh này mang ý nghĩa là một vật phẩm thể hiện thành quả lao động, cụ thể
là quá trình làm nông nghiệp của đồng bào nhằm dâng lên thần linh để bày tỏ tất cả
lòng thành kính của mình.
Vào lễ hội Ok - Om - Bok người Khmer lấy nhưng hạt lúa nếp mới thu hoạch
104
rang lên rồi giã thành cốm. Cốm dẹp là loại thức cúng không thể thiếu trong lễ hội
cúng trăng này. Cốm dẹp là một vật phẩm dùng để dâng lên thần Mặt Trăng, thể hiện
lòng cảm tạ của người Khmer với thần đã cho họ một năm thuận lợi, có nhiều sản vật
và đồng thời cũng để cầu xin một năm mới, một mùa vụ mới mưa thuận gió hoà, cây
cối tốt tươi. Vật phẩm dâng cúng kèm với cốm dẹp còn có các loại nông sản khác như:
khoai lang, khoai mì, khoai môn, chuối… hoặc những loại bánh được làm từ thực vật
như bánh pía (vùng Sóc Trăng). Nhìn chung, lúa là một dạng vật chất nhưng lại vừa có
ý nghĩa vật chất và vừa có ý nghĩa tinh thần đối với đồng bào Khmer. Dâng cúng vật
phẩm từ lúa là thể hiện tấm lòng tạ ơn những vị thần đã ban cho một vụ mùa tốt tươi
và cũng cầu mong cho vụ mùa tới cũng được một vụ mùa bội thu.
Bên cạnh cây lúa, cây thốt nốt có một vai trò, chức năng rất quan trọng trong
đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Khmer ở ĐBSCL. Thốt nốt (có nơi gọi
là thốt lốt) là một loại cây thuộc họ cau có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần đối với
đồng bào Khmer Nam Bộ. Đồng bào thường rất tự hào về cây thốt nốt vì nó mang tính
biểu tượng và có ý nghĩa biểu trưng trong văn hoá Khmer.
Về hình dáng, thốt nốt có hình dáng thẳng đứng, cao có thể đến 30 mét và tuổi
thọ có thể đến 100 năm tuổi. Thốt nốt khi nhỏ sinh trưởng rất chậm nhưng càng về sau
thì nhanh hơn. Theo đồng bào Khmer cho biết, khi cây còn nhỏ, có khi mỗi năm cây
chỉ phát triển được một nách lá. Thân thốt nốt suông thẳng và có khi to hơn cả thân
cây dừa. Lá thốt nốt có thể vươn ra đến tận 3 mét. Thốt nốt có hai loại là thốt nốt đực
và thốt nốt cái. Thốt nốt đực không cho quả. Thốt nốt cái thường cho 50 đến 60 quả
một lần. Thốt nốt với các đặc tính chịu được hạn, được nước ngập, thời tiết nóng nên
rất thích hợp sinh trưởng ở ĐBSCL.
Về công dụng của cây thốt nốt, bà con Khmer thường tận dụng nước thốt nốt và
trái thốt nốt để làm được nhiều món ăn. Nước thốt nốt có vị ngọt mát, thanh và có gas
nhẹ. Nước thốt nốt được thu hoạch từ hoa thốt nốt, thường hoa thốt nốt cái sẽ cho
nhiều nước hơn hoa thốt nốt đực. Công việc lấy nước thốt nốt thường khá vất vả
nhưng lại giá trị kinh tế không cao. Vào chiều tối, người lấy nước thốt nốt sẽ leo lên
cây, cắt một đường trên thân hoa, buộc một đầu vào ống tre (khoảng 50 - đến 60 cm)
hoặc có khi là một bình nhựa. Đến sáng, họ sẽ lại leo lên một lần nữa để mang ống
nước thốt nốt xuống. Một đêm người lấy nước thốt nốt sẽ thu được khoảng một lít
nước trên một cây. Nước thốt nốt khi thu về có thể bán nước tươi làm nước giải khát
hoặc có thể nấu để làm đường thốt nốt. Với nước thốt nốt tươi khi uống có thể cho
105
thêm trái thốt nốt non, một ít đá để trở thành món giải khát rất thanh mát có chức năng
giải nhiệt rất cao. Khách du lịch khi đến các vùng có nhiều thốt nốt như An Giang
thường thích thưởng thức món thốt nốt tươi này. Tuy nhiên, nước thốt nốt có vị ngọt,
có gas nhẹ nên thường không bảo quản được lâu. Bà con thường chỉ sử dụng trong
ngày sau khi thu hoạch xong. Nếu vận chuyển đi xa phải được giữ lạnh mới có thể bảo
quản được hai đến ba ngày.
Nước thốt nốt tươi còn được chế biến thành đường thốt nốt (người Khmer gọi là
skor thnot) rất thơm ngon và mang hương vị đặc trưng của ẩm thực đồng bào Khmer.
Nước thốt nốt được thu hoạch để làm đường là vào khoảng từ tháng 12 đến tháng 5
hàng năm. Đây là thời điểm thu hoạch thốt nốt rộ nhất trong năm. Nước thốt nốt khi
thu hoạch về được nấu trên bếp khoảng 3 đến 5 tiếng mới có thể ra sản phẩm nước cô
đặc, đó chính là đường thốt nốt. Nước được nấu trên chảo hoặc nồi to, khuấy đều tay
và cho lửa nhỏ. Đến khi nước gần cô đặc, đồng bào cho vào các khuôn nhỏ, tròn làm
bằng lá thốt nốt và chờ cho đông cứng lại. Đường thốt nốt được tận dụng chế biến
thành các món ăn khác nhau như nấu chè, kho cá có mùi thơm ngọt ngào từ hoa thốt
nốt và màu vàng nâu rất đặc trưng. Trong đó, đường thốt nốt còn dùng để chao mắm
làm nên các món mắm đặc sản vùng Châu Đốc tỉnh An Giang.
Nghề làm đường thốt nốt hiện nay còn rất ít. Trong đợt điền dã năm 2018,
chúng tôi đến An Giang khảo sát tại làng nghề nấu đường tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi
còn rất ít hộ gia đình theo nghề. Theo gia đình anh C.N cho biết:
Nghề lấy nước thốt nốt rất nguy hiểm, hầu như chỉ những người đàn ông có
sức khoẻ mới có thể leo cây lấy nước được. Tuy nhiên, khi lấy nước về làm
đường lại vất vả (nấu ra thành phẩm mất khoảng nửa ngày) mà hiệu quả
kinh tế lại rất thấp, giá thành bán ra rẻ, không đủ chi phí để thuê mướn nhân
công leo cây lấy nước thốt nốt. Hiện gia đình còn duy trì nghề nấu đường
nhưng vẫn phải làm các nghề khác như chăn nuôi gia súc thêm để tăng thu
nhập” (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại An Giang).
Người Khmer An Giang còn có món bánh thốt nốt (còn gọi là bánh bò thốt nốt)
rất nổi tiếng. Bánh thốt nốt được làm từ trái thốt nốt già, chà vào rổ để lấy bột và trộn
với bột gạo, chút dừa nạo vắt nước rồi gói bằng lá rừng hoặc lá thốt nốt, hấp chín. Bánh
thốt nốt khi hấp chin có màu vàng đậm, vị ngọt và có mùi thơm đặc trưng của trái thốt
nốt.
Người Khmer ĐBSCL rất chuộng dùng các loại cây trái rừng như nho rừng, trái
106
trâm, lá giang v.v… Các loại cây trái rừng được người Khmer ưa thích thường có vị
chua, chát và có khi cả đắng. Cây trái rừng có khi được ăn sống kèm với mắm hoặc
được chế biến lên tạo món ăn đặc trưng của người Khmer. Ngoài các loại cây trái,
người Khmer cũng rất chuộng ăn các loại rau củ rừng như cải nước, kim thất, môn
nước; các loại khoai có khoai môn, khoai mài, củ năn, củ chuối, củ lùng. Có khi mất
mùa, gặp cảnh khó khăn, đồng bào ta khi xưa còn dùng củ nầng (có nơi gọi là nừng)
xắt lát, ngâm nước (hoặc nước muối) để thải bớt chất độc, đem hấp lên rồi ăn với dừa
nạo hoặc muối mè. Các loại củ rừng nếu không biết cách sơ chế ăn dễ bị say hoặc có
khi dễ bị ngộ độc nếu thể trạng yếu.
c. Trong nghề thủ công
Bên cạnh ngành nghề sinh kế chính là nông nghiệp, người Khmer còn rất giỏi
trong tiểu thủ công nghiệp. Tranh thủ lúc nông nhàn, đồng bào tận dụng tre để tạo ra
những sản phẩm tinh tế từ: giường, ghế, bàn đến các nông cụ và các vật dụng thiết yếu
hằng ngày. Trong sự phân công lao động, người đàn ông sẽ phụ trách các việc nặng
nhọc như chặt tre, chuốt tre còn người phụ nữ với đôi bàn tay khéo léo, tinh tế đã tạo
ra những sản phẩm thủ công vừa có tính ích dụng vừa mang giá trị thẩm mỹ cao. Khi
đến các vùng cư trú của đồng bào, len vào các phum sóc, chúng ta dễ bắt gặp hình ảnh
những người nông dân Khmer chất các sản phẩm như giường, ghế, thang tre… trên
những chiếc xe kéo tay đi bán khắp nơi. Nghề thủ công tre rất vất vả, cực nhọc và khi
tìm đầu ra lại rất khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh thị trường của rất nhiều sản phẩm
công nghiệp. Nắm bắt tình hình đó, nhằm lưu giữ lại nghề truyền thống của đồng bào,
đồng thời cũng là một sự ứng xử thân thiện với môi trường nên bà con Khmer vùng
Trà Cú tỉnh Trà Vinh cố gắng duy trì nghề truyền thống này. Làng nghề truyền thống ở
vùng Trà Cú được hình thành rất lâu năm, cung cấp sản phẩm đến các huyện lân cận
trong tỉnh và các tỉnh lân cận khác như Sóc Trăng, Bạc Liêu… Làng nghề tiểu thủ
công nghiệp Đại An, xã Đại An, huyện Trà Cú có các dòng sản phẩm mây tre, đặc biệt
là các sản phẩm nhỏ tinh xảo từ tre như xà neng, xà ngôn, rổ… dùng để trang trí nội
thất rất đẹp mắt và có giá trị kinh tế tương đối khá cao.
Người Khmer còn rất giỏi trong sử dụng lát để làm chiếu có hẳn làng nghề
chiếu Cà Hom ở xã Hàm Giang huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh. Ở vùng huyện Tri Tôn
tỉnh An Giang, người Khmer có nghề đan đệm và dệt chiếu rất lâu đời. Chiếc đệm có
chức năng như chiếc chiếu có thể dùng trải giường, phản hoặc loại nhỏ hơn dùng để
107
trải ngồi. Người Khmer vùng Sóc Trăng có nghề dệt chiếu lâu đời. Chiếu chiếc làm ra
với màu sắc và hoa văn tinh tế rất được người Việt và người Hoa yêu thích. Hoa văn,
màu sắc trên chiếu phản ánh được bản sắc văn hoá của đồng bào Khmer.
Vùng Vĩnh Châu vào khoảng những năm 80 của thế kỷ 20, phường 2 có một số
làng nghề dệt chiếu tại Khóm Cà Săng, Soài Côn, Đai Rụng, Vĩnh Trung và Giồng Me
(phường 2, Vĩnh Châu). Mặt hàng chiếu tự dệt của người Khmer tại các làng nghề rất
được người dân cả thị xã ưa chuộng do bền, đẹp với nhiều hoa văn, mẫu mã phong
phú, để bán và tặng cho các nhà chùa để làm lễ. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 21, vào
khoảng những năm 2003-2006 do chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ đất lúa, rừng, hoang
sang nuôi tôm, nguyên liệt dệt chiếu (chủ yếu là lát) không còn nên dần mất đi các
làng nghề này. Hiện nay chỉ còn dệt theo hình thức sử dụng hộ gia đình, cưới xin, lễ
hội, không còn tập trung dệt như trước.
d. Trong chữa bệnh
Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam được cho là nước đứng thứ
16 trên thế giới về sự đa dạng, phong phú sinh vật. Với mức độ đa dạng về hệ thực vật,
Việt Nam kế thừa một tài nguyên cây thuốc quý của cộng đồng các dân tộc khác nhau
trong việc chăm sóc sức khoẻ và phát triển kinh tế. Việt Nam lại là một quốc gia đa
dạng tộc người, các tộc người đều có những kinh nghiệm, những bí quyết gia truyền
trong việc chữa bệnh và cách sử dụng cây cỏ xung quanh trong việc làm thuốc chữa
bệnh. Trong đó, phải kể đến tộc người Khmer ở ĐBSCL. Người Khmer tuy không có
những ghi chép cụ thể về thuyết âm dương, hàn nhiệt, ngũ hành, lục khí như y học cổ
truyền Trung Hoa hay như y học cổ truyền Việt Nam nhưng từ lâu đời họ đã hình
thành tập quán sử dụng thực vật và có những quan điểm riêng trong cách trị bệnh.
Tận dụng thực vật để chữa bệnh của người Khmer ở ĐBSCL có thể chia ra làm
hai phần là phòng bệnh và trị bệnh. Để phòng bệnh người Khmer thường ăn những
loại thực phẩm đắng, chát từ các loại rau, quả dại. Người Khmer cho rằng, ăn những
loại rau quả đắng cũng là một cách phòng bệnh. Để chữa bệnh, họ dùng các loại thực
vật dễ tìm kiếm, mọc rất nhiều ở ĐBSCL như: lược vàng, cây mật gấu, cây nhàu, cỏ
mực, cỏ mần trầu, cỏ bạc đầu, sả, nghệ.v.v. Cùng là một loại cây nhưng sự kết hợp các
loại theo nhiều cách sẽ ra được những bài thuốc dân gian trị các bệnh khác nhau. Ví dụ
để trị bệnh cảm, người Khmer xưa kia dùng các loại lá như sả, lá ổi, lá tre, lá bưởi cho
vào nồi, đậy nắp kín rồi nấu sôi lên và xông. Trong quá trình xông có khi họ cho thêm
dầu nước xanh hoặc rượu gạo. Khi xông họ để nồi nước lá trước mặt, trùm chăn kín và
108
xông đến khi mồ hôi ra khắp người bệnh cảm sẽ khỏi. Như vậy trước kia, khi bị
cảmngười Khmer không cần đến thuốc kháng sinh mà chỉ cần dung các loại lá dại, dẽ
tím thấy gần nhà là có thể chữa khỏi bệnh. Cách trị bệnh này ngày nay vẫn được người
Khmer áp dụng và trị bệnh rất hữu hiệu.
Khi phỏng vấn một số vị cao niên tại Sóc Trăng, Trà Vinh chúng tôi ghi nhận
được một số bài thuốc dân gian từ tận dụng các loại lá cây như sau:
Để trị bệnh ho, người Khmer dùng cây cam thảo đất. Đây là loại cây mọc rất
nhiều ven đường và rất dễ tìm. Cam thảo đất đem về có thể để tươi hoặc phơi khô rồi
nấu lấy nước uống có thể trị ho hiệu quả.
Để làm mát cơ thể và giúp an thần, ngày xưa người già thường dùng lá cây
nhãn lồng đem phơi khô rồi nấu nước uống. Lá cây nhãn lồng giúp an thần và ngủ
ngon.
Các loại lá như: cỏ mực, cỏ voi có tác dụng ngăn máu rất tốt thường hay
được dùng khi gặp tai nạn ngoài ruộng đồng. Khi bị sốt thì lấy lá rau má băm
nhuyễn chất lấy nước uống rất hiệu quả. Nếu sốt cao thường người xưa hay lấy lá
cây gòn để nấu nước uống.
Như vậy, các loại thực vật xung quanh được người Khmer truyền miệng trong
dân gian các bài thuốc để trị những bệnh đơn giản: ho, sốt, cảm hay cần cầm máu.
Bằng những kinh nghiệm dân gian này, hiện nay tại một số vùng nông thôn ở ĐBSCL
vẫn còn được sử dụng hiệu quả mặc dù có sự can thiệp của y học hiện đại.
3.2.3. Động vật, thực vật trong đời sống tâm linh
3.2.3.1. Tín ngưỡng liên quan đến động vật
Trong quá trình lao động, sản xuất, người Khmer thường xuyên phải đối mặt
với các loài động vật trong tự nhiên. Quá trình khai phá vùng đất đầy hiểm trở của
vùng ĐBSCL từ xa xưa, người Khmer phải đối mặt với các loại động vật lớn, nguy
hiểm từ dưới nước đến trên cạn như các loài rắn, cá sấu đến cọp và các loài thú dữ
khác. Trong tín ngưỡng dân gian của người Khmer, các hình thức tín ngưỡng liên quan
đến động vật thể hiện khá rõ nét tâm thức văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên. Là
một tộc người sống gần gũi với môi trường sông nước nên những hình tượng như rắn,
cá sấu …sớm đi vào nhận thức của người Khmer. Những hình tượng rắn Naga, cá sấu
thường xuất hiện trong các chạm trổ trong chùa, trong nhà và thậm chí trên cả các
công cụ lao động của người Khmer.
Trong tiếng Khmer, Naga có nghĩa là rắn, Niệk có nghĩa là rồng. Naga hiện
109
thân là một loại rắn thần chứ không phải là loại rắn bình thường. Hình tượng Naga
xuất hiện rất nhiều trong kiến trúc chùa Khmer. Naga không chỉ xuất hiện trong tín
ngưỡng dân gian của người Khmer còn xuất hiện trong tín ngưỡng Phật giáo Tiểu
Thừa. Trong truyền thuyết về Đức Phật mà người Khmer hiện nay còn lưu truyền là
rắn Naga đã có công che chở cho Đức Phật dưới trời mưa khi Phật ngồi thiền định.
Trong nhiều chùa hiện nay, ngay trong chính điện chùa vẫn còn hình ảnh rắn Naga che
chở cho Phật Thích Ca. Hoặc ngay tại các cổng chùa luôn điêu khắc Naga 5 đầu hoặc
7 đầu. Naga trong quan niệm của người Khmer là con vật hiền, có công bảo vệ, che
chở cho Đức Phật Thích Ca (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích tượng rồng
trước cổng chùa).
Sinh sống trong môi trường sông nước ở ĐBSCL, người Khmer đã hình tượng
hóa nước và những con vật sống gần nước như những vị thần. Điều đó phần nào hình
thành nên nhiều tín ngưỡng liên quan đến nước. Đó là hình tượng những con vật gắn
với nước: Naga, cá sấu... Như tác giả (Hồ Liên , 2002) có viết:
Nếu thờ chim làm vật tổ chủ yếu ở dân cư miền núi, thì thờ rắn thuồng
luồng, cá sấu làm vật tổ là tín ngưỡng của cư dân vùng đồng bằng sông
nước (tr.63).
Bên cạnh tín ngưỡng thờ rắn, người Khmer còn có tín ngưỡng thờ cá sấu. Hình
tượng cá sấu được biểu hiện qua hình tượng lá cờ cá sấu. Cờ cá sấu có hai dạng: cờ
trắng được dùng trong lễ tang, cờ màu vàng được trang trí lộng lẫy được dùng trong lễ
hội cụ thể là lễ hội đua ghe ngo của người Khmer. Trong các miếu thờ Neak-ta Phum
(vị thần bảo hộ cho Phum) thường để các đầu lâu cá sấu hoặc những bộ xương cá sấu
nhằm tượng trưng cho quá trình chinh phục thiên nhiên của người Khmer vùng
ĐBSCL.
Tín ngưỡng các loại động vật còn được thể hiện thông qua hình tượng các loài
vật được vẽ, điêu khắc trong các ngôi chùa của người Khmer ở ĐBSCL. Vào các ngôi
chùa Khmer, phía trên mái bên hiên chính điện sẽ thường có hình tượng chim Grut
được điêu khắc tinh xảo, tỉ mĩ. Người Khmer có cả câu chuyện về sự tích chim Grut ở
chùa để giải thích cho sự xuất hiện khá nhiều của loài vật này. Truyện kể về Ở một
vương quốc của vua Prùm-mà-thọt có một người con gái xinh đẹp tên là Ca-ky, nàng
sống bằng nghề ca hát. Nàng Ca-ky rất thích quyến rũ đàn ông, nàng yêu tất cả đàn
ông trong nước. Do say đắm sắc đẹp của nàng, vua Prùm-mà-thọt cưới nàng làm vợ.
110
Dù đã là vợ vua nhưng nàng vẫn có nhiều người tình, do đó là bản tính của nàng.
Trong nước Prùm-mà-thọt có một con chim đại bàng rất lớn, có phép thuật cao,
tên là Grut, chim cũng đem lòng say đắm sắc đẹp của nàng nên trong một buổi tiệc,
khi nàng Ca-ky đang múa hát thì chim Grut tạo ra một cơn gió lớn thổi vào hoàng
cung và cướp đi nàng Ca-ky bay đi. Sau khi cướp nàng nàng Ca-ky, chim thả nàng vào
một hang động và sống cùng nàng ở đấy. Do bản tính đa tình nên sau đó nàng cũng
yêu chim Grut, sống vui vẻ cùng chim Grut nơi hang động. Nhưng chỉ sau một thời
gian ngắn nàng đã thấy buồn vì không được đi đâu cũng không được gặp ai.
Vua Prùm-mà-thọt sau khi bị mất nàng Ca-ky liền gọi Hôra vào bói và biết
được nơi chim Grut cất giấu nàng Ca-ky. Vua liền dẫn một đoàn quân đi tìm nơi ở của
chim Grut. Hai bên giao đấu với nhau không phân thắng bại. Đấu mãi đến khi cả hai
đều mệt thì họ nghĩ nàng Ca-ky là người không chung tình, chính nàng mới đáng chết,
khi đó nhà vua liền chém chết nàng. Chim Grut sau đó cũng đi tu để tạ tội với vua.
Chim Grut chính là một tiền kiếp của Đức Phật. Ngày nay, xung quanh chánh điện,
người ta thường khắc tượng chim Grut để tưởng nhớ đến một tiền kiếp của Đức Phật.
(Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích chim Grut ở chùa).
Ngoài các loài vật nêu trên, voi cũng là một hình tượng rất thường xuyên được
vẽ trong chùa người Khmer ở ĐBSCL. Để giải thích cho điều này, người Khmer có
câu chuyện Sự tích hình voi ở chùa. Chuyện kề rằng khi Đức Phật đã đắc đạo, ngày
càng thu hút được nhiều tín đồ thì cũng là lúc Đức Phật bị nhiều người ganh ghét, tìm
cách hãm hại, trong đó có ông Thìa-và-thọt. Thìa-và-thọt xuất thân trong dòng dõi vua
chúa, là một người bà con của Đức Phật, ông tu học nơi Đức Phật nhưng ông chỉ đắc
đạo ở mức phàm tăng, còn các chư tăng khác đắc đạo A-ra-hăng, do đó ông hết sức
hận Đức Phật.
Thìa-và-thọt mới kéo băng nhóm và lập một giáo phái mới cho riêng mình, tìm
cách giết Đức Phật để làm bá chủ. Vào thời ấy, Phật giáo được vua Phùm-phì-sa tài trợ
mọi thứ. Vua là một người nhân từ nhưng ông có một người con rất độc ác tên là A-
chịa-rạt-sa-tốt. Thìa-và-thọt liên kết với A-chịa-rạt-sa-tốt để lập mưu làm bá chủ. Ông
nói với hoàng tử: “Ngài về tìm cách giết cha của ngài để lên làm vua và làm cho Đức
Phật phải thiếu thốn và đói chết. Còn tôi sẽ tìm cách giết Đức Phật để lên làm Phật”
Hoàng tử A-chịa-rạt-sa-tốt liền tìm cách bắt vua cha bỏ vào lồng, không cho ăn
uống gì cả. Ông hành hạ vua cha đến chết và lên ngôi vua. Thìa-và-thọt sau đó cũng
111
tìm được cách hại Đức Phật. Một ngày nọ, ông biết Đức Phật sẽ đi ngang núi, ông liền
trèo lên đỉnh núi chờ khi Đức Phật đi ngang thì xô tảng đá từ trên đỉnh núi xuống
nhằm đè chết Đức Phật.
Đức Phật khi ấy đã biết rõ là Thìa-và-thọt chuẩn bị đá đè mình nhưng ngài vẫn
tự nhiên đi qua núi. Ngài nghĩ: “Nếu ta không để Thìa-và-thọt ném đá trúng thì ông ấy
sẽ nổ tung thành bảy miếng. Ta phải chịu bị thương một chút để Thìa-và-thọt hài
lòng”. Và Ngài đã để tảng đá trúng vào chân mình và chảy máu. Khi mắc tội này thì
Thìa-và-thọt đã phải xuống địa ngục rồi nhưng cái nghiệp ấy chưa đến.
Ném đá giết Phật không được, Thìa-và-thọt tìm cách khác để giết Phật. Ông
nghĩ ra cách thả con voi Ki-ri-mia-ca-rặc, con voi chuyên đi đánh giặc, ra để nó giẫm
chết Đức Phật. Ông ta chờ khi Đức Phật đi bát ngang qua chuồng voi mới sai người
giữ voi thả voi ra để voi đạp chết Đức Phật.
Khi Đức Phật đi bát cùng các A-ra-hăng ngang qua chuồng voi, thấy voi dữ
xuất hiện các A-ra-hăng nói với Đức Phật: “Ngài hãy tránh đi, con voi này dữ lắm”.
Phật trả lời: “Ta không né tránh đâu, ta sẽ không bao giờ sát sinh”. Nói xong, ngài cứ
đi tiếp tục. Đức Phật vừa đi thì con voi cũng đã đến trước mặt Ngài. Nhưng con voi ấy
cảm động trước tấm lòng từ bi của Đức Phật nên khi đến trước mặt Đức Phật, nó liền
quỳ xuống lạy Đức Phật. Voi lạy xong, Đức Phật liền dẫn voi vào chuồng.
Thìa-và-thọt và A-chịa-rạt-sa-tốt sa đó đều bị đày xuống địa ngục.
Người Khmer thường vẽ những bức họa thể hiện nội dung câu truyện này trên
tường quanh chánh điện hoặc khắc hình voi quanh lối đi vào chánh điện như muốn nói
rằng cái thiện và lòng từ bi có thể cảm hóa mọi thứ.
Như vậy, hình tượng các loài động vật luôn xuất hiện trong đời sống văn hoá
tâm linh của người Khmer từ những tín ngưỡng dân gian xuất phát trong quá trình
chinh phục thiên nhiên đến tín ngưỡng Phật giáo, hình tượng các loài vật luôn xuất
hiện, nhất là trong các câu chuyện dân gian, các hình vẽ hoặc điêu khắc. Dù được biểu
hiện dưới hình thức, sự tồn tại của hình các loại động vật phần nào cũng thể hiện được
văn hoá tôn trọng thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên của người Khmer ở ĐBSCL.
3.2.3.2. Tín ngưỡng liên quan đến thực vật
Trong hệ thống các loại thực vật sinh sống xung quanh mình, đồng bào Khmer
có sự ứng xử tinh tế, hài hoà và hầu như trong văn hoá của người Khmer, mỗi loại cây,
ngoài các giá trị vật chất đều gắn với một ý nghĩa tinh thần và có giá trị về mặt tâm
112
linh rất rõ nét.
Cây chuối được xuất hiện khá nhiều trong các nghi lễ của người Khmer.
Trong lễ Sene Đôlta, vào ngày cuối của lễ, đồng bào Khmer làm một chiếc thuyền
bằng thân cây chuối để làm vật dụng đưa tiễn vong linh ông bà về bên kia thế giới.
Thân cây chuối được chọn, cắt, và trang trí thành hình thuyền. Trên đó, họ để rất
nhiều vật phẩm như gạo, muối, bánh, hoa quả, nhang đèn rồi mang đến kênh, sông
gần chùa để thả. Ở các chùa không gần kênh rạch, đồng bào sẽ đến ao, hồ xung
quanh chùa để thả. Nghi thức thả bè chuối được các vị sư, các vị Achar chủ trì thực
hiện với mong ước cầu mong, đưa tiễn ông bà được đầy đủ, ấm no khi về bên kia thế
giới, thể hiện lòng hiếu thuận của con cháu.
Cây chuối với đặc tính là dễ sinh sôi, nảy nở và phải chăng vì thế mà trong các
nghi lễ vòng đời của đồng bào Khmer thường xuất hiện biểu tượng của chuối. Trong lễ
cưới của đồng bào thường có tục trồng chuối vàng, chuối bạc trước cổng của lễ cưới.
Tục này hiện nay vẫn còn được thực hiện tại Trà Vinh. Khi bắt đầu trang hoàng nhà
cửa để chuẩn bị lễ cưới, những người đàn ông sẽ đi chọn hai cây chuối tốt và đang có
buồng chuối cũng phải to, đẹp, tròn đều. Đem về, họ thường sơn hai màu vàng và bạc
rồi trồng ở hai bên cổng cưới. Khi khảo sát, chúng tôi có hỏi về ý nghĩa của tục trang
trí (trồng) chuối vàng, chuối bạc này, đồng bào thường trả lời đây là phong tục có từ
xa xưa do ông bà để lại, dùng để trang trí cho đẹp và vì chuối dễ sinh sôi, cho rất nhiều
trái nên cũng mong cho vợ chồng mới cưới cũng sẽ sinh nhiều con cháu, sống sung túc
về sau. Cạnh đó, trong lễ vật ngày cưới của nhà trai đem qua nhà gái bao giờ cũng phải
có một nải chuối sống. Rất có thể, chuối còn được mang ý nghĩa dễ tái sinh nên có thể
vì thế mà được người Khmer sử dụng trong nghi lễ tang ma. Người chết trước khi
được khâm liệm sẽ được để trên bụng một nải chuối sống.
Trong những nghi lễ tôn giáo còn xuất hiện các sla-tho được làm từ thân cây
chuối được cắt tỉa và trang trí lên nhiều hoa. Sla-tho xuất hiện rất nhiều trong các nghi
lễ của người Khmer như lễ cầu an, lễ tu và các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng. Để trang
trí sla-tho, người Khmer sẽ tách các lớp vỏ bên ngoài của thân cây chuối, chỉ lấy lõi
non bên trong. Sau đó, họ cắm hoa vạn thọ, nhang vào xung quanh thân chuối cho thật
đẹp. Khi được hỏi về ý nghĩa vì sao chọn thân chuối làm sla-tho thì phần nhiều người
Khmer trả lời vì thân chuối mềm xốp dễ cắt tỉa và đặc biệt là chuối là một loại cây rất
dễ tìm ở vùng ĐBSCL. Cây chuối trong trường hợp này có chức năng dễ tìm kiếm,
113
chức năng tiện dụng và dễ tận dụng. Tuy nhiên, nếu xét dưới thuyết chức năng thì cây
chuối là một loại cây dễ trồng, dễ mọc và khả năng sinh tồn đặc biệt nó mang ý nghĩa
mong ước của con người về sự trường tồn, và tái sinh.
Cau và hoa cau có một ý nghĩa quan trọng trong nghi lễ cưới hỏi của người
Khmer. Lễ hỏi của người Khmer được gọi là “lễ ăn cau” còn lễ cưới thì có tục lệ “cắt
hoa cau”. Hoa cau trong nghi lễ cưới hỏi có ý nghĩa thể hiện sự trinh trắng của cô dâu.
Trong ngày cưới, sính lễ nhà trai mang qua nhà gái sẽ là các loại bánh mứt, trái cây,
trầu cau, rượu, thuốc hút,… và một buồng hoa cau còn trong bẹ (Phụ lục 3, Truyện dân
gian Khmer, Sự tích bông cau ngày cưới).
Trái dừa không chỉ được làm một loại nước uống mà còn được người Khmer
dùng làm một vật phẩm để dâng cúng trong các nghi lễ. Trong tục lễ cưới ngày xưa
của người Khmer có nghi thức cô dâu đút chuối cho chồng ăn và hai vợ chồng chia
nhau uống nước dừa để mong ước một tình yêu ngọt ngào, hạnh phúc. Trái dừa tươi
được người Khmer dâng cúng trong lễ hội Ok-Om-Bok như một vật phẩm không thể
thiếu. Dừa tươi được cúng nguyên trái chỉ vạt mặt để cầu mong sự tinh khiết của nước
dừa mang đến những lời cầu nguyện đến với các đấng thần linh. Trái dừa tươi còn trở
thành một vật phẩm không thể thiếu trong lễ hội Thác Côn (lễ hội đạp cồng) của đồng
bào Khmer ở huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Lễ hội Thác Côn thường diễn ra vào
giữa tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong lễ hội này, có một vật phẩm đặc trưng điển hình
là salathođôn (trái dừa là sla-tho) nên lễ hội còn được gọi là lễ hội cúng dừa. Không
chỉ dừa tươi mà trái dừa khô còn được người Khmer sử dụng làm vật phẩm trong lễ tu.
Trong lễ tu, họ kết salatho bằng những trái dừa khô. Dừa khô được dùng khoảng năm
trái phía trên có gắn hoa cau trang trí rất đẹp mắt. Khi tiến hành nghi thức đưa vào
chùa, gia đình có người tu sẽ cầm những salatho này vào chùa để dâng lên các vị sư.
Trong tâm thức của người Khmer, cây cối và nhất là các cây cổ thụ đều có giá
trị linh thiêng. Người Khmer cho rằng trong mỗi gốc cây cổ thụ đều có thần linh trú
ngụ. Vì vậy, khi muốn đốn các cây cổ thụ như sao, dầu hay cây me người Khmer phải
làm nghi lễ cúng tế rồi mới đốn cây. Chẳng hạn như muốn phá góc rừng làm rẫy,
người ta lựa một gốc cây lớn nhất, dọn dẹp xung quanh sạch sẽ, cất một cái miễu bằng
cây lá và thỉnh vị thần (còn lại là ông Tà - Neak-ta) ở rừng về ngôi miếu ấy trú ngụ. Ở
Trà Vinh hiện nay có một cây dầu cổ thụ và được người dân khắp nơi tín ngưỡng. Cây
dầu có chiều cao hơn 20 mét, tán cây rộng, thân to khoảng 3 đến 4 người ôm. Không ai
114
biết cây dầu có bao nhiêu tuổi, những người cao niên cho rằng có khi tồn tại hơn trăm
năm. Người dân địa phương lập miếu Neak-ta phía bên dưới gốc cây và được người
dân tin tưởng đến cúng kiếng với niềm tin tưởng tuyệt đối.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 là chương tập trung phân tích văn hoá ứng xử với thời tiết, thực vật và
động vật trong đời sống vật chất và tinh thần của người Khmer ở ĐBSCL.
Trong văn hoá ứng xử với thời tiết, người Khmer xưa có thế ứng xử tương đối thụ
động và lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Để dự đoán sự biến đổi theo chu kì hay đột biến của
thời tiết họ chỉ dựa vào những kinh nghiệm dân gian được truyền từ đời này qua đời khác.
Do tâm lý phụ thuộc nên thường nảy sinh các dạng thức tín ngưỡng các hiện tượng tự
nhiên như thần mưa, thần gió. Hiện nay, được sư hỗ trợ của công nghệ, truyền thông,
người Khmer không còn dựa nhiều vào kinh nghiệm dân gian nữa mà có thể xem tin tức
về thời tiết trên truyền hình, radio và điện thoại di động. Từ đó cũng dẫn đến ít nhiều sự
thay đổi trong văn hoá ứng xử với thời tiết của người Khmer.
ĐBSCL có hệ thực vật và động vật vô cùng phong phú. Với điều kiện khí hậu
nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa đã tạo điều kiện thích hợp để phát triển nhiều loài thực vật,
động vật. Trong văn hoá ứng xử với thực vật, động vật Khmer vùng ĐBSCL chủ yếu
là thích nghi và ứng phó để phù hợp môi sinh vùng đất này. Trong chương này, chúng
tôi chủ yếu phân tích đặc trưng văn hoá tận dụng, đối phó với các loại động vật có mối
liên kết gần gũi trong đời sống của người Khmer. Để có sức kéo, chuyên chở đồ vật và
con người, người Khmer xưa tận dụng sức kéo của trâu, bò. Để có nguồn thực phẩm
trong ăn uống, người Khmer tận dụng nhiều loại thuỷ hải sản đánh bắt nội đồng như
cá, tôm, tép, ếch, nhái .v.v. Ngoài các loại thuỷ hải sản, nguồn thực phẩm của người
Khmer còn rất phong phú như ve sầu, bọ rầy, đuông, dế v.v. Các loại thực phẩm này
cung cấp một lượng dinh dưỡng khá cao trong hệ thống ẩm thực của người Khmer
Văn hoá ứng xử với thực vật được chúng tôi tập trung phân tích cách ứng xử
với thực vật được thể hiện qua các thành tố văn hoá của người Khmer như: trong cư
trú, trong lương thực, trong chữa bệnh và trong nghề thủ công. ĐBSCL là noi có điều
kiện tự nhiên thuận lợi để các loại thực vật sinh trưởng. Người Khmer ở ĐBSCL đã có
quá trình tương tác với MTTN để tạo ra các giá trị vật chất phục vụ cho mình. Trong
xây dựng nhà cửa, người Khmer thường tận dụng các loại gỗ lớn như cây dầu và các
loại cây thân gỗ khác. Trong lương thực thực phẩm, người Khmer có kinh nghiệm
trồng lúa và chủ nhân của nhiều giống lúa nổi tiếng. Bên cạnh đó, người Khmer còn
115
tận dụng loại thực vật khác mang đặc trưng văn hoá Khmer đó là thốt nốt. Thốt nốt là
loại cây có rất nhiều ở An Giang và Trà Vinh. Cây thốt nốt được tận dụng lấy trái, lấy
nước để làm ra loại đường thốt nốt rất nổi tiếng của người Khmer. Ngoài ra, người
Khmer còn rất có kinh nghiệm trong việc dùng các loại thực vật rừng. Cây trái rừng có
khi được ăn sống kèm với mắm hoặc được chế biến lên tạo món ăn đặc trưng của
người Khmer. Ngoài các loại cây trái, người Khmer cũng rất chuộng ăn các loại rau củ
rừng như cải nước, kim thất, môn nước; các loại khoai có khoai môn, khoai mài, củ
năn, củ chuối, củ lùng.
Từ nghiên cứu cho thấy, người Khmer đã có hệ thống kinh nghiệm khá phong
phú trong quá trình thích ứng với môi sinh ĐBSCL cụ thể là ứng xử với thời tiết, động
vật và thực vật. Trong quá trình tương tác, họ vừa thích nghi vừa đối phó. Với những
giá trị có lợi, họ thích nghi, với những giá trị bất lợi, họ đối phó. Trong quá trình thích
nghi và đối phó đó, có những giá trị từ thiên nhiên mà họ không thể kiểm soát được
như những bất trắc từ thời tiết, những loại động vật dữ mà họ không chế ngự được họ
có tâm thức đối phó được thông qua hệ thống tín ngưỡng dân gian với những đối
tượng này. Cụ thể, chúng tôi đã phân tích hệ thống tín ngưỡng dân gian đối với thời
tiết là tín ngưỡng thần mưa, thần mặt trăng và mặt trời; tín ngưỡng dân gian đối với
các loại động vật dữ là cá sấu, rắn hổ mang (rắn thần Naga); tín ngưỡng dân gian đói
với thực vật là các loại cây cổ thụ như sao, dầu v.v.
Tóm lại, văn hoá ứng xử với thời tiết, thực vật và động vật trong đời sống văn
hoá người Khmer ĐBSCL là sự ứng xử cân bằng sinh thái. Trong quá trình đó, họ khai
thác nhưng vẫn bảo tồn chứ không hề huỷ diệt. Cụ thể như cách bảo tồn những loài
chim, cò hay các loại cây cổ thụ, cây gỗ quý vẫn còn tồn tại đến nay. Theo nhận định
của chúng tôi, cách ứng xử bảo tồn này nhờ vào văn hoá trọng tâm linh của người
Khmer. Với những giá trị cần bảo tồn thường gắn với giá trị tâm linh. Họ kiêng dè,
không dám khai thác triệt để bởi họ tin rằng những giá trị đó có linh hồn.
Hệ thống tín ngưỡng dân gian này đã giúp ích rất nhiều trong việc gìn giữ và
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thực vật và động vật ở ĐBSCL nhất là khi hiện nay
MTTN ở ĐBSCL có những biến động lớn do ảnh hưởng của BĐKH. Đồng bào Khmer
cần giữ gìn, bảo tồn những tri thức trong ứng xử với môi trường nhằm tác động giáo
dục ý thức cho cộng đồng hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của điều kiện tự nhiên trong
cuộc sống và cũng để đảm bảo sự phát triển bền vững trong cộng đồng Khmer ở
116
ĐBSCL.
CHƯƠNG 4
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG –
MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG BÀN LUẬN
4.1. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI
TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG HIỆN NAY
4.1.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với đất
4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá vật thể
Theo tập quán cư trú truyền thống của người Khmer ở ĐBSCL, họ thường chọn
những giồng đất cao để ở nhằm tránh những tác hại từ môi trường tự nhiên như mưa
lũ, ngập úng. Tuy nhiên, do điều kiện thực tế một bộ phận người Khmer khi đến định
cư sau họ không còn chỗ đất cao nữa hoặc do nhu cầu sinh kế họ vẫn chọn những nơi
khác như gần sông, gần trục lộ giao thông để thuận tiện làm ăn, mua bán. Một số ít
người Khmer ở ĐBSCL còn cư trú ngay trên đất ruộng, tuy nhiên con số không nhiều
bởi rất khó cho di chuyển và các sinh hoạt cộng đồng.
Hiện nay, qua khảo sát của chúng tôi về cách chọn nơi cư trú cho thấy, người
Khmer không còn theo tập quán như xưa nữa. Nếu như trước kia, đất đai có được là do
kết quả của quá trình khai hoang, ai đến trước ở trước, họ được có sự lựa chọn thì ngày
nay đất đai là tài sản được thừa kế từ gia đình và dòng họ nên họ cứ cư trú trên phần
đất được chia thừa kế. Trong văn hoá hoá gia đình người Khmer, khi dựng vợ gả
chồng cho con cái họ thường chia một phần đất để cất nhà ở và phần đất ruộng để làm
ăn sinh sống. Phần đất ở họ thường ở gần nhau, có khi mặt nhà xoay vào nhau làm
thành một ngôi làng thu nhỏ. Phần đất ruộng rẫy cũng vậy, họ được cha mẹ chia đất
khi lập gia đình rồi cứ thế mà sinh kế. Nếu làm ăn dư dả, họ dành dụm để có thể mua
thêm ruộng đất.
Một sự biến đổi trong cách cư trú của người Khmer hiện nay ở ĐBSCL là cách
cư trú ở nhà sàn cao cùng không còn nữa. Khi đến các ấp, xóm cư trú của người
Khmer hiện nay có thể thấy được nhà ở của người Khmer đa phần là ở nhà trệt, kết cấu
nhà cũng không khác gì so với nhà của các dân tộc khác ngoại trừ một bộ phận nhỏ
117
người Khmer ở An Giang là còn cư trú kiểu nhà sàn. Nhà sàn của người Khmer ở An
Giang được xây cất cao hơn so với mặt đất khoảng 1 mét đến 1.5 mét nhằm để đối phó
với nước lũ. Như vậy, nhà ở của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay không còn có kiểu
kết cấu sàn cao như trong truyền thống. Tuy nhiên, khi đến ĐBSCL chúng ta vẫn có
thể bắt gặp những ngôi nhà sàn trong các chùa Khmer. Mặc dù phần đất để xây chùa
thường được chọn là nhưng phần đất cao nhất nhưng chánh điện hay tăng xá vẫn được
xây cao hơn nhiều so với mặt đất. Hiện nay, người Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng, ở
những vùng cao ráo không ngập nước nhưng có thể do một thói quen tâm thức mà dấu
tích nhà sàn vẫn còn trong quần thể kiến trúc chùa Khmer. Các ngôi tăng xá trong chùa
thường được làm bằng gỗ, lợp lá và cất cao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Lối đi lên nhà
cũng làm bằng cầu thang gỗ mang dáng dấp dấu ấn của ngôi nhà sàn xưa của người
Khmer. Theo quan sát và nhận định của người nghiên cứu, có thể các ngôi nhà sàn này
là tàn tích trong thói quen tâm thức cư trú không gian cao của đồng bào Khmer.
4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá phi vật thể
Người Khmer xưa kia gởi trọn niềm tin với các vị thần tự nhiên, trong đó có
thần đất. Dù trong nhà chùa hay trong nhà ở của người Khmer đều thấy dấu ấn của nữ
thần đất bởi vì họ cho rằng đó là vị thần có chức năng bảo trợ, che chở mang mang đến
sự bình yên cho con người. Trong các nghi lễ, phong phục có liên quan đến đất, người
Khmer đều thực hiện các nghi thức để cảm tạ hoặc cầu xin như cảm tạ đất sau mỗi vụ
mùa. Hiện nay, niềm tin với đất trong văn hoá của người Khmer vẫn còn nhưng có
phần mờ nhạt. Các nghi thức được thực hiện nghiêm túc chỉ được diễn ra ở những gia
đình có người lớn tuổi, có am hiểu về tập quán văn hoá truyền thống. Còn ở những gia
đình trẻ, các nghi thức thể hiện niềm tin với đất có phần biến đổi, nếu có thực hiện, họ
chỉ thực hiện qua loa bởi vì niềm tin của họ không còn như trước nữa.
Sự biến đổi này theo chúng tôi là do quy luật về sự vận động và phát triển. Đối
chiếu với thuyết sinh thái văn hoá của J. Steward cho thấy, trong quá trình sinh tồn của
mình, con người phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Khi xã hội có trình độ thô sơ thì xã
hội đó sẽ phụ thuộc nhiều vào MTTN; nhưng khi xã hội bắt đầu có trình độ khoa học
kỹ thuật cao, con người chinh phục được tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ theo ý muốn
của con người thì những niềm tin thô sơ của con người vào tự nhiên sẽ dần biến đổi.
Sự biến đổi trong ứng xử với đất trong đời sống văn hoá tinh thần của người Khmer ở
ĐBSCL là do hiện nay khi còn người đã có điều kiện thừa hưởng thành tựu khoa học
118
kĩ thuật cho nên niềm tin của người Khmer về đất không còn như xưa nữa. Qua quan
sát thực tế của chúng tôi, những giá trị tinh thần với đất trong truyền thống giúp cho
con người tôn kính và từ đó có cách ứng xử hài hoà, trân trọng đất. Còn hiện nay,
những biến đổi trong nhận thức về đất trong đời sống tinh thần sẽ dễ dẫn đến tâm lý
xem thường đất, xem thường tài nguyên thiên nhiên và dễ dẫn đến các hành động làm
tổn hại đến đất, ô nhiễm đất như thực tế đang diễn ra. Như vậy, cần giữ gìn những giá
trị niềm tin thiêng liêng với MTTN nói chung và môi trường đất nói riêng bởi vì nhờ
có niềm tin, con người sẽ có những ứng xử phù hợp, yêu thương và trân trọng MTTN.
4.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với nước
Theo tập quán truyền thống, để có nước cho sinh hoạt, người Khmer ở ĐBSCL
thường sử dụng nước tự nhiên như nước mưa hay nước từ sông rạch. Đối với những
nơi không gần sông rạch họ sẽ đào giếng để có nguồn nước dùng chung cho cộng đồng
trong mùa khô. Ngày nay, tập quán sử dụng nước của người Khmer không còn như
xưa nữa, họ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào nước mưa hay nước giếng mà còn có
nguồn nước sạch từ các trạm cấp nước. Từ năm 2004, Chính phủ đã triển khai chương
trình 134 nhằm hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Chương trình 134 có 8 điều, trong đó điều
2 liên quan đến vấn đề chính sách đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho dân
tộc thiểu số ở Việt Nam. Chương trình 134 nêu rõ:
1. Đối với đất sản xuất: mức giao đất sản xuất tối thiểu là 0.5 hecta đất
nương, rẫy hoặc 0.25 hecta đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 hecta đất
ruộng lúa nước hai vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng địa phương, khả
năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và khả năng của ngân sách địa
phương.
2. Đối với đất ở: mức giao diện tích đất ở tối thiểu 200m2 cho mỗi hộ đồng
bào sống ở nông thôn. Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào
dân tộc Khmer nghèo do đặc thù của vùng ĐBSCL, Nhà nước sẽ có chính
sách riêng
3. Về nhà ở: đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả
đồng bào dân tộc Khmer) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã
hư hỏng, dột nát thì thực hiện phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ
trợ và cộng đồng giúp đỡ
119
4. Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt
Đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó
khăn về nguồn nước sinh hoạt thì ngân sách Trung ương hỗ trợ 0.5 tấn xi
măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/hộ để
đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt (Chính sách 134, 2004).
Sau 4 năm tổ chức triển khai thực hiện chương trình 134 ở 53 tỉnh, thành phố
trên cả nước đã đáp ứng được niềm mong đợi của một bộ phận đồng bào dân tộc và
tháo gỡ cho nhiều địa phương những khó khăn bức bách về đất sản xuất, đất ở, nhà ở
và nước sinh hoạt. Như trên địa bàn tỉnh Trà Vinh – nơi có đông đồng bào Khmer
sinh sống các vấn đề về nước sinh hoạt cũng được cải thiện rất đáng kể. Trong báo cáo
tổng kết tình hình thực hiện Chỉ thị 68 của Ban Bí thư (khóa VI) "về công tác vùng
đồng bào dân tộc Khmer" của Tỉnh ủy Trà Vinh ngày 10 tháng 8 năm 2011 được nêu:
Nhờ sự quan tâm đầu tư chỉ đạo toàn diện của Trung ương cùng với sự
phấn đấu, nỗ lực của địa phương, trong đó có sự tự lực vươn lên của đồng
bào dân tộc Khmer, kinh tế của vùng đồng bào Khmer trong tỉnh không
ngừng được cải thiện, nâng lên. Sản xuất nông nghiệp trong vùng đồng bào
Khmer hiện nay phổ biến từ 02 vụ lúa, có nơi 02 vụ lúa - 01 vụ màu hoặc
03 vụ lúa/năm với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng. Công tác
khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư từng bước chuyển biến tốt, đẩy
mạnh công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, chuyển
đổi giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, thúc đẩy mạnh
việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất,
kinh doanh trong vùng đồng bào dân tộc; mở rộng diện tích, tăng năng suất,
sản lượng cây trồng, vật nuôi, năng suất lúa tăng hàng năm, nâng tổng sản
lượng lương thực lên trên 1,1 triệu tấn/năm; nâng giá trị sản xuất trên đơn
vị diện tích từ 28,5 triệu đồng/ha/năm 2003, lên 45 triệu đồng/ha/năm 2010;
trên 90% hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh (Tỉnh uỷ Trà
Vinh, 2011).
Sau chương trình này đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước đều được hỗ trợ
nước sạch để sử dụng. Khi chúng tôi điền dã tại ấp Phnôm-pi (ở huyện Tri Tôn, tỉnh
An Giang) là một ấp thuộc vùng chân núi An Giang chúng tôi nhận thấy nơi đây vẫn
còn những giếng nước từ xưa nhưng hiện nay hầu như rất ít người sử dụng. Người
120
Khmer ở Phnôm-pi đều đã sử dụng nước máy tắm giặt hoặc ăn uống. Tuy có nước
sạch từ các giếng khoan, máy bơm nhưng người Khmer không phá bỏ các giếng cũ.
Theo người Khmer ở Phnôm-pi cho biết có hai lý do họ vẫn giữ lại giếng nước cũ: thứ
nhất về mặt thực tế, có những lúc ĐBSCL hạn nặng, để đủ nước tưới tiêu và sinh hoạt
họ vẫn phải tận dụng nước giếng; thứ hai: với người Khmer, mỗi giếng nước đều có ý
nghĩa với họ về mặt tinh thần, giếng nước như có linh hồn và dưới giếng nước chứa
dựng những thế lực siêu nhiên mà họ khó giải thích được đó là ai nhưng họ vẫn phải
có thái độ tôn kính nhất định.
Tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng vậy, người Khmer hầu như có nước
sạch để uống và sinh hoạt. Tuy nhiên, trong sản xuất nông nghiệp họ vẫn phải sử dụng
nước mạch ngầm và có máy bơm để bơm nước tưới hoa màu. Mỗi khi tới thời vụ, các
hộ nông dân đồng loạt sử dụng nước nên có khi nguồn nước cũng khan hiếm, cạn kiệt.
Phần nữa là do quá tải điện nên có những hộ nông dân họ phải thức vào lúc 1 đến 2
giờ sáng để canh tưới tránh quá tải khi các hộ tưới đồng loạt vào ban ngày.
Để ứng phó với tình hình hạn hán, thiếu nước thường xảy ra vào mùa nắng và
vào thời điểm người dân tập trung xuống giống màu, nguồn nước ngầm từ các giếng
khoan không đủ phục vụ cho tưới tiêu hoa màu và sinh hoạt nên người Khmer ở Sóc
Trăng phải sử dụng thêm nước từ trạm cấp nước của tỉnh (đóng tại các phường).
Nguyên nhân chính là nguồn nước phục vụ tưới tiêu rất lớn so với nguồn nước ngầm
từ các giếng khoan và các giếng khoan phần lớn là khoan cạn, chưa đảm bảo độ sâu để
lấy nước; tầng nước ngầm giáp tầng đất sản xuất nhanh cạn, độ ẩm cao nên thiếu nước
xảy ra thường xuyên. Còn để ứng phó với nước dâng, nước lũ người dân cùng địa
phương tự xây dựng bờ kè ven sông, bồi trúc các tuyến đê bao, khai thông dòng chảy
trên các kinh rạch, kinh thủy lợi đảm bảo dòng nước không bị vật cản, nạo vét các
tuyến kinh tạo nguồn, kinh đầu mối đảm bảo cho việc thoát nước, tưới tiêu.
Như vậy, so với văn hoá ứng xử với nước trong truyền thống - lệ thuộc hoàn
toàn vào nguồn nước tự nhiên, người Khmer ở ĐBSCL hiện nay đã được hỗ trợ các
phương tiện kĩ thuật để có nguồn nước sạch để sử dụng. Bên cạnh đó, nhờ vào sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước vào công tác hỗ trợ các điều kiện vật chất như nhà ở, nước
sạch cho đồng bào dân tộc thiểu số nên đến năm 2019 có đến 99,3 % người Khmer ở
ĐBSCL đã có nước sạch để sử dụng (Tổng cục thống kê, 2019). Điều này phần nào
dẫn đến văn hoá ứng xử với nước trong đời sống tinh thần của người Khmer cũng thay
121
đổi. Nếu như trước kia mỗi khi thiếu nước, hạn hán họ phải thực hiện các nghi thức để
cầu mưa, cầu nước thì giờ đây các nghi thức này hầu như không còn thực hiện nữa.
Nhận thức của người Khmer về thế giới vũ trị cũng thay đổi. Những hiện tượng tự
nhiên như mưa gió, sấm chớp không còn mang yếu tố huyền bí, tâm linh mà đó chỉ là
các hiện tượng tự nhiên có thể thay đổi được. Một thói quen trong văn hoá là có thể
thay đổi, tuỳ theo điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xung quanh đã được biến đổi. Văn hoá
là có thể biến đổi theo thời gian, tuy nhiên, sự biến đổi này không diễn ra nhanh chóng
mà cần một khoảng thời gian dài để con người nhận diện, thích nghi, đối phó và thay
đổi.
4.1.3. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng, vật nuôi
Trong ứng xử với cây trồng, vật nuôi hiện nay người Khmer cũng có nhiều sự
thay đổi lớn.
4.1.3.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng
Đối với cây trồng, nếu ngày xưa người Khmer chỉ ứng xử với các loại cây quen
thuộc trong môi trường tự nhiên để khai thác trong xây cất nhà ở như sao, dầu, tre hay
các loại cây để khai thác trong ẩm thực như cây lúa, thốt nốt, chuối cùng với các loại
cây dại khác thì hiện nay người Khmer phải ứng xử với rất nhiều loại thực vật giống
mới. Để ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, người nông dân
Khmer được khuyến khích trồng các loại giống cây mới để thích nghi với các hiện
tượng nắng hạn, ngập úng, nước nhiễm mặn, nhiễm phèn. Năm 2016 - 2017 Viện lúa
ĐBSCL đã công nhận và đưa vào sản xuất hơn 50 giống lúa mới có khả năng thích
nghi với các hiện tượng biến đổi khí hậu đó. Các giống lúa mới có thể nhóm thành các
nhóm chính như giống lúa cực ngắn ngày, giống lúa chịu mặn, giống lúa chịu hạn và
giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng. Trong đó, riêng giống lúa cực ngắn ngày có thời
gian sinh trường từ 85 đến 90 ngày giúp cho nông dân Khmer có thể làm tăng thêm vụ
thứ ba mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.
Ngoài ứng xử với các giống lúa mới, trong nông nghiệp hiện đại của người
Khmer ở ĐBSCL họ còn phải ứng xử với các loại giống hoa màu mới. Các loại giống
hoa màu truyền thống như bí rợ, bầu, khoai, dưa nếu trồng trong điều kiện môi trường
hiện nay rất khó có thể cho năng suất cao. Sự phá hoại của sâu rầy, sâu đục trái, ruồi
đục trái rất dễ làm cho cây cho trái èo uột, chất lượng nông sản không cao. Để ứng phó
với tình hình này, người nông dân Khmer ở ĐBSCL được cán bộ nông nghiệp địa
122
phương hỗ trợ, hướng dẫn trồng các loại nông sản giống mới như bí hồ lô, bầu cao sản
v.v. Các loại nông sản này có thể thích nghi với biến đổi khí hậu đồng thời có thể
kháng lại các loại sâu rầy.
Bên cạnh thích nghi với các giống cây trồng mới trong nông nghiệp, cách chăm
sóc cây trồng của người Khmer hiện nay cũng có thay đổi. Trong nông nghiệp truyền
thống, người Khmer thường thường dùng các loại phân bón hữu cơ như thân cây, vỏ
cây hay phân động vật được ủ hoai mục để sử dụng làm phân bón cho cây trồng. Thân
cây đậu phộng, gốc, rễ cây lúa (rạ) dùng để bón ruộng lúa rất tốt mà lại không làm tổn
hại đến chất lượng đất trồng. Khi người Khmer làm ruộng xen canh một vụ múa và
một vụ màu mỗi khi thu hoạch vụ mùa xong họ sẽ để lại phần thân, rễ để dành ủ hoai
mục để bón cho vụ sau. Còn nếu họ chỉ làm độc canh cây lúa, khi thu hoạch (gặt) lúa
xong, họ sẽ để lại gốc rạ ngoài ruộng, chờ mưa xuống lấy nước mưa để làm ẩm và hoai
mục thành phân. Khi đến vụ mới, họ chỉ cần cày ải (có thể bật các gốc rạ lên) là có thể
gieo hạt. Gốc rạ hoai mục kết hợp với lượng phù sa do mùa lũ về là chất dinh dưỡng
tốt nhất không cần phải dùng phân bón gì khác. Còn đối với trồng màu, người Khmer
còn bón thêm các loại phân bón hữu cơ từ chất thải của động vật như phân bò, phân gà
rất tốt cho các loại hoa màu. Họ chỉ cần làm đất kĩ, đất tơi xốp được bón thêm các loại
phân hữu cơ là có thể mang đến một vụ mùa tốt. Hơn nữa, trong nông nghiệp truyền
thống, người Khmer chỉ làm ruộng một năm một vụ hoặc một vụ lúa một vụ màu nên
có rất nhiều thời gian cho đất nghỉ và tái tạo lại đất. Hiện nay, do áp dụng làm nông
nghiệp tăng vụ, thời gian đất nghỉ không còn nên buộc phải can thiệp các kĩ thuật khoa
học hiện đại như bón phân vô cơ, dùng các loại thuốc để tăng năng suất cho cây, thuốc
diệt các loại sâu bọ.
Khi chúng tôi đến phỏng vấn những hộ dân trồng rẫy ở ấp Bà Tây B, xã Phước
Hưng, huyện Trà Cú, Trà Vinh chúng tôi thu được kết quả như sau: những hộ dân
trồng rẫy nơi đây đều sử dụng phân bón vô cơ để giúp cây tăng trưởng tốt. Loại phân
được sử dụng nhiều nhất là NPK. Ngoài ra, theo hộ ông T.P cho biết:
“Ngoài dùng phân NPK để bón cây gia đình ông phải kết hợp dùng các loại
thuốc trừ sâu để phòng và trị bệnh cho cây. Với điều kiện tự nhiên hiện nay những
động vật thiên địch hầu như rất hạn chế nên buộc người nông dân phải sử dụng các
loại phân bón, thuốc trừ sâu hoá học” (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Trà Vinh).
Qua quan sát thực tế tại rẫy của ông P chúng tôi thấy vẫn còn các hạt phân bón
123
vẫn chưa tan hết trên đất. Khi được hỏi, cách làm này người nông dân có biết sẽ có
làm ảnh hưởng đến MTTN không thì ông trả lời là vẫn biết nhưng không có cách nào
khác bởi vì với MTTN đã khác xưa rất nhiều nếu canh tác theo truyền thống ông bà
truyền lại và chỉ dựa vào kinh nghiệm dân gian thì cây trồng sẽ không đạt năng suất
thậm chí có vụ thất hoàn toàn do sâu rầy phá hoại.
Có thể thấy rằng, các kiến thức khoa học giúp ích rất nhiều cho nông nghiệp
hiện đại. Các loại thuốc, chất tăng trưởng giúp cho cây trồng phát triển tốt, năng suất
cao, có thể chống lại các loại sâu bệnh. Hơn nữa, trước tình hình biến đổi khí hậu diễn
ra mạnh mẽ, để làm được một mùa vụ thành công người Khmer không thể bỏ quá các
biện pháp của khoa học kĩ thuật hiện đại. Điều đó là đúng với quy luật vận động và
phát triển. Tuy nhiên, khi khảo sát ý kiến của các hộ dân Khmer, chúng tôi nhận thấy
rằng, người Khmer vẫn biết một số biện pháp khoa học hiện đại đó giúp ích rất nhiều
nhưng nếu lạm dụng nó sẽ rất có hại cho MTTN và cho sức khoẻ con người. Đâu đó
trong các vùng nông thôn hiện nay vẫn còn tồn tại hiện trạng “rau hai luống, heo hai
chuồng” có nghĩa là người nông dân khi trồng trọt hay chăn nuôi sẽ chia ra làm hai
phần rõ rệt: một bên để bán và một bên để ăn. Phần trồng để bán thì xịt thuốc sâu,
phân bón hoá học còn phần trồng để ăn thì không xịt thuốc và bón phân hữu cơ.
Từ thực tế đó nên hiện nay, người Khmer ý thức được đó là việc làm sai và về
mặt tâm linh đó là việc làm có tội. Vì thế hiện nay người Khmer một số nơi có sự biến
đổi trong cách ứng xử với cây trồng. Họ vừa bón phân hoá học nhưng cân nhắc liều
lượng và bón thêm các loại phân hữu cơ như phân bò, phân gà, xác thực vật: vỏ đậu
phộng, đậu nành v.v. Vì thế, hiện nay các loại phân hữu cơ này được rất nhiều người
chuộng mua và có giá trị rất cao. Mỗi bao phân bò có giá dao động từ 15.000đ đến
20.000đ/ bao.
4.3.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với vật nuôi
Đối với các loại vật nuôi, người Khmer ở ĐBSCL hiện nay cũng có những biến
đổi nhất định. Nếu như trước kia, các loại vật nuôi phổ biến trong gia đình người
Khmer là các loại gia súc để kéo cày và các loại gia cần như gà, vịt để phục vụ cho
nhu cầu bữa ăn hàng ngày thì điều này giờ đây cũng có những biến đổi trong văn hoá
của người Khmer. Cách chăn nuôi phổ biến của người Khmer mang tính kinh tế hộ gia
đình, chăn nuôi nhỏ lẻ chỉ để phục vụ sinh hoạt ăn uống hàng của gia đình, tết, lễ hội
khi có thừa thì mang ra bán để mua vật tư sản xuất nông nghiệp. Chỉ một số ít người
Khmer mở chăn nuôi chuyên nghiệp theo kiểu trang trại. Trong quá trình chăn nuôi
124
chủ yếu là họ chăn thả trên phần đất gia đình sau khi thu hoạch vụ mùa và ven các bờ
ao, kinh thủy lợi, vùng ngập mặn, vùng đệm ven biển. Việc chăn nuôi không mang
tính thời vụ, không phụ thuộc vào khí hậu, nguồn nước và chỉ kết hợp kinh nghiệm
dân gian với tiến bộ KHKT trong chăn nuôi. Cách chăn nuôi này so với truyền thống
là không thay đổi nhiều mà chỉ thay đổi về giá trị chọn con vật nuôi trong đời sống của
người Khmer. Chẳng hạn, trước kia người Khmer nuôi cả trâu lẫn bò để kéo cày và
làm vậy chuyên chở thì hiện nay đa phần người Khmer ở ĐBSCL chỉ chọn nuôi bò vì
chức năng hai con vật này làm vật chuyên chở không còn nữa. Đồng ruộng hiện nay
được cơ giới hoá, người nông dân không còn sử dụng trâu, bò làm sức kéo nữa nên
cách người nông dân ứng xử với trâu, bò cũng có khác. Khi chức năng chuyên chở
không còn nữa nên giờ đây người Khmer chỉ còn nuôi bò. Bò là con vật dễ chăm sóc,
ít bệnh tật, có giá trị kinh tế cao.
Ngoài những con vật nuôi để làm kinh tế phụ như gia súc, gia cầm, người
Khmer ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh còn chăn nuôi các loài thuỷ sản như tôm sú,
tôm thẻ, cua biển. Chăn nuôi thuỷ sản là ngành chăn nuôi khá mới trong kinh tế của
người Khmer. Nếu như xưa kia, người Khmer chỉ quen với tập quán đánh bắt nội đồng
thì giờ đây họ còn tham gia vào chăn nuôi thuỷ sản chuyên nghiệp. Để đáp ứng với kĩ
thuật nuôi trồng mới họ phải luôn cập nhật kiến thức khoa học về cách chọn con
giống, kĩ thuật đất, nước cho ao hồ. Người Khmer ở Vĩnh Châu, Sóc Trăng còn mạnh
dạng nuôi thuỷ sản công nghiệp có nghĩa là làm hệ thống màn phủ dưới đáy hồ, đầu tư
máy lọc nước, máy oxi để nuôi tôm thẻ, tôm sú. Qua quan sát thực tế, chúng tôi thấy
đa phần người Khmer chọn nuôi tôm thẻ vì loại tôm này dễ chăm sóc, ít nhiễm bệnh
mà hiệu quả kinh tế không thua gì với tôm càng, tôm sú.
Ngoài các loại động vật kể trên, một bộ phận không nhỏ người Khmer ở Trà
Vinh, Sóc Trăng mạnh dạn nuôi các loại giống vật nuôi có thể cải thiện thu nhập như
nuôi ếch, nuôi trăn, nuôi dê, nuôi cá ba sa, nuôi dế theo hướng công nghiệp. Các con
vật nuôi này trước kia thường chỉ được đánh bắt trong tự nhiên thì bây giờ trước nhu
cầu cao của thị trường nên các hộ nông dân ở ĐBSCL đã tiến hành nuôi để đủ cung
cấp cho thị trường trong và ngoài nước. Một số người nông dân Khmer biết kết hợp
mô hình vườn – ao – chuồng đạt hiệu quả năng suất khá cao.
Có thể thấy rằng, nếu xưa kia người Khmer có phần thụ động trước MTTN, họ
chỉ tận dụng thiên nhiên sẵn có, chăn nuôi nhỏ lẻ gia đình hay đánh bắt nội đồng thì
giờ đây họ chủ động trước MTTN, họ biết cải tạo, thích ứng với MTTN như cây trồng,
125
vật nuôi trong tình hình mới. Họ chuyển từ cách ứng xử thụ động một chiều sang cách
ứng xử chủ động tương tác đa chiều. Để có thể thích ứng với những điều kiện biến đổi
này đòi hỏi người nông dân Khmer luôn phải cập nhật kiến thức về nông nghiệp như
giống cây trồng mới, giống cây trồng thích nghi với biến đổi khí hậu, các giống vật
nuôi mới.
4.1.4. Biến đổi trong ứng xử với thời tiết
Với người dân làm nông nghiệp, yếu tố thời tiết khá quan trọng quyết định đến
sự thành công hay thất bại của cây trồng. Kinh nghiệm coi thời tiết của người nông
dân thường xem những hiện tượng biến đổi của con vật, màu sắc của trời, sự thay đổi
hướng gió. Ví dụ như các cư dân ở ĐBSCL khi thấy kiến bò ra khỏi hang, mối bay ra
khỏi tổ là dấu hiệu của trời sắp chuyển mưa. Hay như sự khác lạ của chuồn chuồn
cũng có thể dự đoán được thời tiết “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng
bay vừa thì râm”. Tuy nhiên khi có dự báo thời tiết bằng máy móc, người nông dân chỉ
cần theo dõi thông tin trên đài phát thanh, truyền hình là có thể nắm được tình hình.
Thậm chí, trong mỗi chiếc điện thoại thông minh đều có phần mềm theo dõi thời tiết,
mà việc có chiếc điện thoại thông minh là điều không khó trong thế kỉ XXI này. Theo
dõi thời tiết trên phương tiện đại chúng là tiện lợi, nhanh chóng tuy nhiên không phải
người nông dân Khmer nào cũng hoàn toàn tin tưởng vào thông tin của dự báo thời
tiết. Khi chúng tôi phỏng vấn ông Thạch Phên, ông cho biết ông vẫn thường xuyên dựa
vào kinh nghiệm để dự đoán thời tiết những hiện tượng mưa nắng, kinh nghiệm xem
nắng hạn hàng năm. Ông cho rằng, với những kinh nghiệm dân gian do ông bà truyền
lại đến bây giờ vẫn không bao giờ sai. Không phải lúc nào người nông dân cũng có
điều kiện nghe dự báo thời tiết, nếu lúc không nghe được thì nhìn trời, cảm nhận khí
hậu cũng có thể biết được. Như vậy, việc vận dụng kinh nghiệm truyền thống với máy
móc, kiến thức hiện đại là thật sự cần thiết và vẫn tồn tại song song trong đời sống văn
hoá của người Khmer.
Từ khi có sự biến đổi khí hậu, nhất là mưa, nắng thất thường, nước biển xâm
nhập mặn vào vùng sản xuất kèm theo chịu ảnh hưởng của các cơn bão, lốc xoáy,
người dân đã biết cách phòng tránh: sản xuất theo kinh nghiệm dân gian kết hợp với
khuyến cáo của ngành chức năng tỉnh, thị xã nhằm hạn chế, tránh ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu; không khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng
126
phòng hộ để tái tạo nguồn lợi thủy sản ven biển, tăng thu nhập cho từng hộ gia đình
chuyên đánh bắt thủy sản ven bờ; tiết kiệm nước trong sản xuất, sinh hoạt, không khai
thác nước khi chưa có nhu cầu sử dụng trong sinh hoạt, sản xuất.
4.2. MỘT SỐ XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI PHƯƠNG THỨC SINH KẾ
ĐỂ THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.3.1. Chuyển đổi trong kĩ thuật nuôi trồng
ĐBSCL là vùng đất phù sa trù phú và MTTN khu vực này có sự phong phú, đa
dạng, có đồng bằng, núi, rừng, biển, đảo và có nhiều hệ thống sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt đã tạo nên nguồn lực dồi dào về lương thực. Tuy nhiên, hiện nay vùng này
đang chịu sự tác động lớn của biến đổi khí hậu, đã và đang ảnh hưởng lớn đến sản
lượng nông nghiệp, an ninh lương thực và nuôi trồng thuỷ sản. Hằng năm, ĐBSCL
đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và 70% các
loại trái cây của cả nước; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu.
Năm 2019, sản lượng nông nghiệp ở đây không chỉ đạt về lượng mà còn đạt cả về chất
với thành tích giống lúa gạo ST 25 đạt giải thưởng gạo ngon nhất thế giới. Như vậy,
ĐBSCL có thể nói là cái nôi về xuất khẩu nông sản, thuỷ sản và đóng góp một phần
khá lớn cho tỉ trọng GDP cho cả nước.
Tuy nhiên, theo kịch bản biến đổi khí hậu của Bộ Tài nguyên và Môi trường
năm 2012 đến cuối thế kỉ XXI, mực nước biển có thể dâng cao thêm từ 75cm đến
100cm, có khoảng 40% diện tích trồng trọt, 70% diện tích đất trồng lúa của vùng bị
ngập mặn. Các tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và có thể sẽ bị ngập chìm trong nước
biển như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng… Có thể nói, ĐBSCL đã, đang và
sẽ là nơi chịu những tổn thất nặng nề do sự tác động của biến đổi khí hậu mang lại.
Cũng theo kịch bản về biến đổi khí hậu, những biểu hiện cụ thể sẽ diễn ra là:
nhiệt độ thay đổi thất thường hơn, có xu hướng khắc nghiệt hơn như mùa khô diễn ra
dài hơn, mùa mưa thường đến trễ hơn và lượng nước lũ ngày càng cạn kiệt. Bên cạnh
đó, sự xâm thực, xói mòn bờ biển, bờ sông xảy ra thường xuyên hơn về số lần và
nhiều hơn về địa điểm khiến biển càng lấn sâu vào đất liền đến vài trăm mét mỗi năm
như Trà Vinh, Cà Mau… Với tình hình nước biển dâng cao thường kèm theo sự xâm
nhập mặn kéo dài. Sự nhiễm mặn với cường độ lớn ảnh hưởng nặng nền đến sự thay
127
đổi về môi trường đất.
Người Khmer ở ĐBSCL truyền thống có phương thức sinh kế chính là trồng lúa
nước và hoa màu. Vì vậy cuộc sống canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào lượng
nước từ tự nhiên như nước mưa và nước sông. Nước mưa chỉ tập trung vào một số tháng
trong năm nên thật sự không thể trông chờ hoàn toàn vào lượng nước do mẹ thiên nhiên
mang lại. Để tạo điều kiện tốt, người Khmer cùng các cư dân ở đây cải thiện môi trường
bằng cách đào kênh dẫn nước để tăng thêm nguồn nước tưới tiêu. Tuy nhiên, chất lượng
nguồn nước và đất của tự nhiên ở ĐBSCL lại có đặc trưng riêng là thường xuyên nhiễm
mặn do sự xâm thực của nước biển trong một số tháng. Hơn nữa, chất lượng đất ĐBSCL
còn bị nhiễm chua do phèn; và để đối phó với việc nhiễm phèn, nhiễm mặn người nông
dân thường đắp đập để ngăn mặn để giữ hệ sinh thái nước ngọt và có thể trồng lúa quanh
năm.
Trong lịch sử khai phá vùng đất ĐBSCL đã từng có nhiều cứ liệu lịch sử viết về
quá trình đào kênh để dẫn nước và quá trình xây dựng các đập ở các nhánh sông lớn để
nuôi tôm cá tự nhiên vào mùa khô (mùa nước mặn). Sau khi thu hoạch tôm cá xong cư
dân sẽ lấy nước ngọt vào mùa mưa để trồng lúa. Tuy nhiên, việc đắp đập, làm cống dễ
làm đất canh tác dễ bị nhiễm phèn nhiều hơn và thậm chí không có đủ nước ngọt cho
canh tác lúa ngay cả vào mùa mưa. Bởi vì lượng nước chảy qua các cống nhỏ từ bên
ngoài đổ vào hệ thống kênh rạch nội đồng không đủ cung cấp cho các cánh đồng lúa
trên toàn vùng do địa hình cao thấp khác nhau. Các nông dân bằng mọi cách lấy nước
cho đồng ruộng theo cách riêng làm hư hại đến hệ thống đập cùng với các hệ thống
đập không được tu sửa. Kết quả hệ thống đập hư hại do yếu tố tự nhiên và con người.
Hiện nay, trong bối cảnh ảnh hưởng nặng nề của biến đổi môi trường nên sản
xuất nông nghiệp của người Khmer ở ĐBSCL gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng ô
nhiễm môi trường gây thiếu nước, kiệt nước đối với vùng cư trú cao ráo như vùng Bảy
Núi, Tịnh Biên tỉnh An Giang và xâm mặn, nhiễm mặn, nước biển dâng đối với vùng
thấp, nhất là các vùng cư trú ven biển như vùng Trà Vinh và Sóc Trăng ngày càng
trầm trọng. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng
Hiệp, tại ĐBSCL, dự báo năm 2020 tình trạng xâm nhập mặn, thiếu nước cao hơn năm
2015 - 2016 (hạn nhất trong lịch sử). Tình hình xâm nhập mặn đến sớm hơn và thường
kéo dài hơn. Đến năm 2020, một số nơi ở ĐBSCL xâm nhập mặn có thể vào tới 100
128
km (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).
Sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu diễn ra trên diện rộng tại ĐBSCL, nhất là
các tỉnh ven biển quá trình xâm thực của nước biển khiến cho cây trồng, vật nuôi bị
ảnh hưởng nặng nề. Hầu như ở mỗi tỉnh đều triển khai các chương trình hành động
nhằm đối phó và thích ứng với những biến đổi. Cụ thể như tại Sóc Trăng, do nằm trên
vùng đệm ven biển cho nên phường 2 (Vĩnh Châu) là nơi chịu ảnh hưởng lớn vì nước
mặn tràn vào khi gió mùa Tây Bắc về, làm ảnh hưởng không nhỏ đến diện tích sản
xuất của người dân vùng đệm, kể cả tại các cửa sông, ven sông. Trên toàn phường 2,
hệ thống kinh rạch cũng tương đối nhiều như kinh Trà Niên, kinh Giồng Me, kinh
Sang Giữa, kinh T4, kinh bao vùng chuyên màu và hàng trăm kinh sườn nối liền với
các kinh lớn đầu nguồn, phục vụ tốt cho việc tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản cũng như
thoát nước trong mùa mưa bão, phục vụ cho sản xuất của nhân dân. Để chủ động thích
ứng với biến đổi khí hậu, trên địa bàn Phường 2 thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã
triển khai thực hiện mô hình thí điểm sử dụng phân vi sinh và tiết kiệm nước trong sản
xuất lúa, màu tại 3 khóm Cà Săng, Cà Lăng A và Vĩnh Bình. Đa phần người Khmer
trên địa bàn đã ý thức tốt đến việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất nước, biết sử dụng tài
nguyên đúng mục đích, tăng giá trị trên 1 đơn vị héc-ta đất sản xuất, nâng cao thu nhập
cho gia đình, cải thiện đáng kể mức sống. Trong quá trình xử dụng đất, người Khmer
trong vùng đã từng bước cải tạo đất thích nghi với từng loại cây trồng. Trên nền đất
cát, cát pha cải tạo lại bằng việc đổ thêm đất thịt vào để tăng độ pH cho đất, trồng các
loại màu, cây ăn trái, cây lâu năm. Diện tích đất bị nhiễm phèn mặn chủ yếu tập trung
tuyến ven biển và một ít vùng trũng thấp khu vực 2 đã được người dân cải tạo thành ao
vuông nuôi tôm sú, tôm thẻ và các loài thủy sản khác.
Ở Trà Vinh, người Khmer làm nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng tình hình khô
cạn, đồng ruộng nứt nẻ vào mùa nắng. Các cánh đồng dọc theo các con giồng Duyên
Hải, Tiểu Cần, Châu Thành vào mùa nắng hầu như không còn sự sống. Người dân ở
Duyên Hải – Trà Vinh dùng cụm từ “đồng khô cỏ cháy’’ để miêu tả các con giồng vào
mùa nắng. Cái nắng hạn tháng 3 như thiêu như đốt các đồng ruộng. Người Khmer làm
nông nghiệp ở Trà Cú, Duyên Hải – Trà Vinh ngoài hứng chịu cái hạn tháng nắng còn
chịu ảnh hưởng bởi triều cường và xâm mặn của nước biển. Bình thường người nông
dân có thể canh tác 2-3 vụ/ năm nhưng khi tình trạng nắng kéo dài và những đợt nhiễm
mặn nặng chỉ canh tác 1 vụ/ năm. Những biến đổi thất thường của thời tiết, môi trường
129
đã ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế của người Khmer vùng ĐBSCL.
4.3.2. Chuyển đổi phương thức sinh kế
Tình trạng nhiễm phèn, nhiễm mặn không phải đã không từng xảy ra trong lịch
sử của người dân ĐBSCL. Tuy nhiên, khi quá trình biến đổi khí hậu có những chuyển
biến phức tạp và có xu hướng ngày một tăng cao về số lượng và mức độ nghiêm trọng
đã khiến cho người dân ĐBSCL phải đứng trước những thách thức lớn như mùa khô
diễn ra dài hơn, nắng gắt hơn; mùa mưa đến chậm hơn, lượng nước mưa ít hơn. Quan
trọng hơn nhất là “đặc sản” của vùng đồng bằng châu thổ là “nước nổi” ở đây hầu như
cũng đang ngày cạn cạn kiệt. Nếu như xưa kia, bà con nơi đây chờ lũ về thau chua, rửa
phèn và tích trữ phù sa cho đồng ruộng, tích trữ tôm cá cho mùa sau thì giờ đây mùa lũ
đến rất trễ và lượng nước rất cạn kiệt, thậm chí người dân chờ lũ và khát khao lũ.
Những sản vật mùa lũ như cá linh nếu trước kia là loại sản vật dồi dào, dư dả và không
có giá trị kinh tế thì giờ đây cá linh hầu như có rất ít và một số nơi không có cá linh về
vào mùa lũ. Xưa kia, một kí cá linh có giá rất rẻ, khoảng vài chục nghìn một kí nhưng
hiện nay theo khảo sát của chúng tôi giá một kí cá linh khoảng trên một trăm nghìn khi
đến tay người tiêu dùng. Món cá linh non nấu canh chua điên điển hay cá linh non kho
mắm là món ăn yêu thích của người miền Tây giờ chỉ còn xuất hiện rất ít và dần trở
thành những kí ức ngọt ngào khi mà nguồn sản vật ngày một cạn kiệt.
Những thách thức của biến đổi môi trường đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống vật
chất và tinh thần của người Khmer vùng ĐBSCL. Đứng trước những thách thức đòi
hỏi tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo môi trường sống bền vững cho cộng đồng các dân
tộc ở Nam Bộ. Trong đó, thay đổi phương thức sinh kế được xem như là phương cách
thích nghi với sự chuyển biến của môi trường, khí hậu của địa phương. Từ phương
thức canh tác lúa truyền thống sang nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao; chuyển
từ phụ thuộc hệ sinh thái nước ngọt sang hệ sinh thái nước mặn như một cách thích
nghi với biến đổi môi trường sinh thái ở ĐBSCL.
Sự chuyển đổi từ hệ sinh thái nước ngọt sang hệ sinh thái nước mặn, việc làm
của người dân có sự chuyển đổi rõ rệt. Trong phương thức sống truyền thống, người
Khmer có thể tự sản xuất lúa, trồng hoa màu, cây ăn trái, nuôi gia súc, gia cầm để tự
túc tiêu thụ và buôn bán nhỏ quanh năm. Người Khmer còn nhờ vào hệ sinh thái nước
ngọt mà có thể đánh bắt nội đồng với số lượng tương đối lớn. Ngày nay, khi chuyển
đổi kinh tế, người Khmer ít phụ thuộc vào kinh tế tự cấp tự túc nữa mà thay vào đó là
130
hướng đến kinh tế thị trường. Phương cách sống của cư dân Khmer cũng có sự thay
đổi. Nước mặn được xem là một nguồn nguyên liệu quý và người dân tận dụng nước
mặn để nuôi tôm vào mùa mưa. Nếu như không có điều kiện tiền vốn để nuôi tôm họ
có thể để đất trống làm nghề khác chứ không trồng lúa như truyền thống do giá trị kinh
tế của cây lúa không cao như xưa nữa. Tại một số vùng như Vĩnh Châu ở Sóc Trăng
giờ đây ruộng lúa đã trở thành những ao tôm mang lại hiệu quả kinh tế rất tích cực cho
đồng bào Khmer nơi đây. Phương thức sinh sống thích nghi nhiều hơn vào hệ sinh thái
nước mặn.
Tuy có sự chuyển đổi kinh tế từ lúa sang tôm phần nào cải thiện được thu nhập
của người dân ở ĐBSCL tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Phương Lan
cũng cho rằng việc nuôi tôm hiện này cũng mang nhiều rủi ro đáng kể trong đó có tính
bất ổn về sự ô nhiễm môi trường. Cụ thể là sự ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt
động thâm canh không kiểm soát và cách xử lý nước thải chưa tốt. Hệ thống cấp thoát
nước trong nuôi tôm vẫn chưa hoàn thiện và thiếu quy hoạch nên phần lớn các vuông
tôm trong vùng vẫn dùng chung hệ thống cấp và xả nước (Ngô Thị Phương Lan,
2017), 35. Như vậy, dường như có một sự mâu thuẫn khi người dân khi thích ứng với
BĐKH, thích nghi với sự biến thiên của môi trường, họ tìm cách chuyển đổi sinh kế để
không quá lệ thuộc vào tự nhiên nhưng trong quá trình canh tác này, nếu không có
phương pháp, kế hoạch đầu tư kĩ lưỡng thì vô hình chung lại càng khiến cho sự ô
nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng hơn.
Khi điều kiện môi trường càng ngày càng có nhiều biến chuyển tiêu cực, nhiều
người dân Khmer ở ĐBSCL đã chuyển đổi phương thức sinh kế. Nếu xưa kia, đời sống
của người dân là cuộc sống nương tựa hoàn toàn vào tự nhiên để sinh kế như trồng lúa,
trồng rẫy, hoa màu thì giờ đây họ có thể chuyển đổi phương thức sinh kế, chuyển đổi
ngành nghề. Trong giai đoạn Việt Nam mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều công ty,
xí nghiệp được xây dựng ở các vùng nông thôn ở ĐBSCL. Người nông dân Khmer muốn
có kinh tế ổn định, không phải chịu cảnh mất mùa do nước mặn, do hạn hán đã di chuyển
đến các khu công nghiệp để sinh kế. Năm 2019, khi điền dã tại huyện Trà Cú chúng tôi đã
quan sát cách sinh kế của bà con nơi đây. Hiện nay, tại địa bàn Tập Sơn, hầu như các nam
nữ thanh niên đang trong độ tuổi lao động (từ 18 tuổi đến 45 tuổi) đa phần làm công nhân
ở các khu công nghiệp. Nam nữ thanh niên ở ấp Bà Tây B làm công nhân tại công ty giày
da Mỹ Phong của huyện Trà Cú, công ty da Vina ở Long Đức, Trà Vinh. Một bộ phận
131
khác đi làm xa tại Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai. Thông thường khi có dịp lễ lớn
của dân tộc như Chôl - Chnăm - Thmây hoặc Sen Đôn - ta họ mới về thăm nhà. Những
nam nữ thanh niên có con nhỏ họ phải gửi lại cho ông bà chăm sóc và đi học ở quê. Tình
trạng phổ biến ở nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ nhỏ nên có những gia đình
thà để ruộng bỏ trống chứ không có nhân lực để canh tác. Theo như lý giải của các nông
dân là nguồn tiền từ lương công nhân ổn định hơn làm kinh tế nông nghiệp. Khi họ làm
công nhân, nếu chịu khó làm tăng ca thì lương ổn định có khi trên 6.000.000 đ nhưng khi
làm ruộng rẫy đến mùa thu hoạch nếu trừ các khoảng như tiền giống, tiền phân, thuốc và
giống cho vụ sau thì mỗi người trong gia đình chỉ dư vài trăm nghìn. Đó là những lúc mùa
màng ổn định còn những khi nước nhiễm mặn, phèn, mùa màng thất, họ còn phải nợ cả
tiền giống và phân, thuốc. Vì vậy, chuyển đổi sinh kế từ nông nghiệp sang công nghiệp là
cách chuyển đổi giúp ổn định kinh tế của gia đình. Thanh niên trẻ trong độ tuổi lao động,
đi làm công nhân hàng tháng gửi tiền về nuôi con cái, nuôi cha mẹ. Nếu như khéo tích cóp
họ còn dư tiền để xây nhà cho cha mẹ. Các người già ở nhà thì nhờ vào tiền gửi từ con
cháu khi đi làm công nhân hoặc làm các công việc nhẹ như tận dụng các loại rau, quả tự
nhiên để làm dưa bán. Như tôi tiếp xúc và trao đổi với bà L.N (68 tuổi) tại ấp Bà Tây B
chuyên làm dưa môn để bán ở chợ. Dưa môn là loại dưa làm từ ngó môn. Bà con đem về
rửa sạch, cắt nhỏ và nấu nước muối ngâm để làm chua. Loại dưa này đòi hỏi phải có kinh
nghiệm làm như: chọn loại môn, sơ chế sạch… để khi ăn không bị ngứa. Kinh tế từ việc
làm dưa môn đủ để sinh hoạt, trang trải trong gia đình.
Chuyển đổi phương thức sinh kế ngoài sự tác động của môi trường còn có những
yếu tố khách quan khác; trong đó có những trường hợp nguồn lợi tự nhiên có sẵn, không
bị tác động bởi môi trường tự nhiên nhưng lại do những sản phẩm tự nhiên chưa tạo
được sự thu hút với người tiêu dùng. Như trường hợp về sản phẩm cây thốt nốt ở huyện
Tri Tôn, tỉnh An Giang là một trường hợp như thế. Nếu như trước kia, An Giang có rất
nhiều hộ nấu đường thốt nốt nhưng hiện nay chỉ còn lại vài hộ nấu đường. Kinh tế của
người dân ở Tri Tôn ngoài nấu đường thốt nốt họ phải làm kinh tế thêm như làm ruộng,
nuôi bò mới đủ chi phí cho gia đình bởi giá trị của đường thốt nốt hiện nay không cao và
cũng ít có sức hấp dẫn đối với thị trường. Thốt nốt có vị ngọt đậm và có mùi đặc trưng
nên có khi rất kén người sử dụng. Từ trước đến nay, đường thốt nốt hầu như chỉ dùng để
nấu chè, kho cá hoặc làm ít món bánh như bánh bò thốt nốt. Nhìn chung, Tri Tôn nói
riêng và An Giang nói chung có nguồn lợi từ cây thốt nốt nhưng việc khai thác và quảng
132
bá chưa rộng.
Để thích nghi với những biến động của MTTN cùng với chính sách phát triển du
lịch địa phương, mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng của người Khmer ở
ĐBSCL cũng đáp ứng được phần nào vừa đi cùng với chính phát triển của đất nước, vừa
cải thiện kinh tế, thu nhập khi nguồn lợi từ nông nghiệp đang có nhiều nguy cơ và nhiều
rủi ro. Du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hoá tâm linh hiện nay đang là xu
hướng du lịch mới, có triển vọng tiềm năng kinh tế khá lớn. Theo Luật Du lịch năm
2017:
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá
địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo vệ môi
trường” và “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các
yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham
gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong
tương lai” (Luật Du lịch, 2017).
Không gian cư trú và bản văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL có nhiều lợi thế
tiềm năng để phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch văn hoá
tâm linh. Với đặc trưng có nhiều lễ hội lớn trong năm như Chôl – Chnăm – Thmây, Sen
Đôn - ta, Ok – Om – Bok nên du lịch văn hoá Khmer là loại hình du lịch rất nhiều khách
du lịch trong nước và quốc tế yêu thích. Nhiều địa phương ở ĐBSCL hiện nay đã và
đang triển khai các kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng của người Khmer như lễ hội
đua bò ở An Giang, lễ hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng, Trà Vinh .v. Đến với loại hình du
lịch này du khách được giới thiệu các giá trị văn hoá Khmer như văn hoá lễ hội, đời
sống tâm linh tôn giáo, văn hoá sinh hoạt thường nhật với các hoạt động giã cốm dẹp
hay thưởng thức các món ăn đặc sản của người Khmer.
Loại hình khai thác văn hoá địa phương để phát triển du lịch này tạo ra nguồn thu
cho kinh tế nước nhà đồng thời có thể tạo thêm việc làm, cải thiện thu nhập cho đồng
bào dân tộc Khmer. Hơn nữa, trong tình hình BĐKH hiện nay, nông nghiệp thất mùa,
việc phát triển kinh tế du lịch là một việc làm đúng hướng. Tại Trà Vinh, năm 2018 đã
triển khai đưa vào hoạt động du lịch Làng Văn hóa Khmer tại xã Lương Hòa, huyện
Châu Thành, thành phố Trà Vinh. Làng Văn hoá Khmer được khai thác trên cơ sở là
một phum của người Khmer tại Trà Vinh. Trong cách khai thác du lịch này, người
133
Khmer là đối tượng chính trong hoạt động du lịch. Khách du lịch khi đến làng được
sống trong không gian văn hoá cư trú của người Khmer, tham gia vào sinh hoạt thường
nhật cũng như hoạt động hội hè của người Khmer.
Tuy có nhiều lợi ích như phát triển kinh tế, tạo thu nhập và giải quyết việc làm
cho người dân nhưng vấn đề giữ gìn môi trường sinh thái bền vững cho cộng đồng cũng
phải đáng được quan tâm. Không gian cư trú của người Khmer ở ĐBSCL đến hiện nay
vẫn còn giữ được không gian sinh thái trong lành và hầu như chưa bị tác động nhiều bởi
những biến đổi xã hội. Trong các chùa Khmer vẫn còn được bao bọc bởi những hàng
cây cổ thụ xanh mát. Tuy nhiên, theo dự báo nếu khai thác du lịch văn hoá Khmer mà
không chú ý đến yếu tố cảnh quan, môi trường sinh thái sẽ dễ dẫn đến tình trạng phá
huỷ môi trường và mất cân bằng sinh thái trong cộng đồng Khmer. Theo quan sát thực
tế hiện nay có một số chùa Khmer do có nhiều khách du lịch đến nên hiện tượng rác thải
bừa bãi, ồn ào, nhiều loại sinh vật không còn trú ngụ trong chùa như trước nữa. Hình
thức du lịch được hoà nhập vào lối sống cộng đồng, được sinh hoạt văn hoá cộng đồng
rất được khách du lịch ưa chuộng. Hiện nay, một số tỉnh ở ĐBSCL xúc tiến khai thác
các tuyến điểm du lịch cộng đồng, trong đó có xu hướng khai thác văn hoá cộng đồng
người Khmer ngày một gia tăng. Chúng tôi cho rằng, khai thác du lịch cộng đồng là cần
thiết để phát triển kinh tế nhưng cần phải đảm bảo những bước đi ổn định, lâu dài và bền
vững trong việc vừa phát triển du lịch cộng đồng vừa bảo vệ được tài nguyên môi
trường.
4.3. MỘT VÀI VẤN ĐỀ ĐẶT RA
4.3.1. Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường tự nhiên trong cộng đồng
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
4.3.1.1. Phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu
Hiện nay, trước tình hình biến đổi khí hậu, tài nguyên đất, nước, hệ sinh thái
thực vật, động vật ở ĐBSCL đang đứng trước những nguy cơ tổn hại nhất định. Từ
xưa đến nay người dân ĐBSCL nói chung và người Khmer nói riêng đã ứng xử với
tâm thức thói quen truyền thống là ĐBSCL là vùng đất đai màu mỡ, sản vật tự nhiên
sẵn có. Tuy nhiên, hoàn cảnh thực tế của MTTN ở ĐBSCL đang đứng trước những
nguy cơ và thách thức lớn đó là sự xâm thực của nước biển, đất đai nhiễm mặn, nhiễm
phèn, hiện tượng hạn hán, xoáy mòn, lốc xoáy diễn ra thường xuyên hơn hàng năm.
Chúng tôi nhận thấy rằng, chỉ có một bộ phân người nông dân Khmer có tham gia cá
134
buổi tập huấn của cán bộ nông nghiệp, có điều kiện tiếp cận với các phương tiện
truyền thông mới nhận thức được tình hình cấp bách về MTTN ở ĐBSCL đang diễn
ra. Còn một bộ phận khác, vì các lý do khác nhau như cản trở ngôn ngữ, thiếu phương
tiện truyền thông nên người Khmer ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa nhận thức được
những diễn biến phức tạp của MTTN. Họ chỉ nhận biết được những tình trạng bề mặt
của MTTN như hạn hán kéo dài, nước ngọt đầu nguồn ngày càng cạn kiệt, sản vật từ
thiên nhiên như cá tôm ngày một ít đi chứ họ không nhận thức được hết những diễn
biến phức tạp của MTTN đang diễn ra là do ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi khí
hậu đang diễn ra phức tạp. Vì các lý do trên chúng tôi nhận thấy rằng việc cập nhật,
giáo dục, tuyên truyền về tình hình BĐKH trong cộng đồng dân tộc Khmer là công tác
cấp thiết hiện nay. Người Khmer cần được biết MMTN đang dần cạn kiệt để họ có
những ứng xử hợp lý, tránh làm ô nhiễm, huỷ hoại đến môi trường đất, môi trường
nước.
Bảo vệ tài nguyên môi trường tự nhiên từ lâu đã được sự quan tâm của nhiều
quốc gia trên thế giới vì MTTN là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
các quốc gia. Các quốc gia quan tâm đến bảo vệ môi trường tự nhiên không chỉ là sự
khai thác đúng mức mà còn phải đảm bảo sự cân đối nhằm duy trì, bảo vệ MTTN
trong sự phát triển bền vững. Hội nhập với xu hướng của thế giới, Việt Nam cũng đã
và đang hoàn thiện các hệ thống pháp luật về môi trường, nỗ lực tham gia các công
ước quốc tế nhằm hướng đến bảo vệ MTTN trước yêu cầu phát triển bền vững.
Đứng trước những thách thức lớn do tình hình biến đổi khí hậu, các Bộ, Ban
ngành từ Trung ương đến địa phương luôn có những chủ trương nhằm phòng chống,
thích ứng với những diễn biến của khí hậu đồng thời luôn tuyên truyền để nâng cao ý
thức của người dân.
Nghị quyết số 24 - NQ/TW, ngày 03/6/2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Mục tiêu của Nghị quyết đến năm 2020 về
cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải
khí nhà kính; đến năm 2050, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững tài nguyên; bảo đảm chất lượng môi
trường sống và cân bằng sinh thái.
Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 12/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển
135
khai các biện pháp cấp bách về ứng phó xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long;
các cấp Đảng uỷ, chính quyền địa phương và ngành chức năng theo dõi sát, nắm chắc
tình hình coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị để chủ động có
kế hoạch, phương án phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn năm 2016 trên địa bàn tỉnh
bảo đảm kịp thời, hiệu quả. Theo đó, Tỉnh uỷ Trà Vinh ban hành Chỉ thị số 07 (ngày
22-3-2016) “Về việc tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp cấp bách ứng phó với
khô hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”; đồng thời Tỉnh uỷ Trà Vinh có
báo cáo Kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần
thứ bảy (khóa XI) “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường” báo cáo về những kết quả đạt được là đã chỉ đạo các
ban, ngành trên địa bàn tỉnh trong công tác tuyên truyền, thực hiện các kế hoạch hành
động và cơ bản đạt được những kết quả như sau: về nhận thức, trách nhiệm và hành
động về thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường đã có sự
chuyển biến tích cực; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao; bước đầu
khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, việc khai thác,
sử dụng đất đai, khoáng sản và nước dưới đất được cơ bản thực hiện theo đúng quy
hoạch; công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường ngày càng chủ động; bảo tồn đa dạng
sinh học được chú trọng triển khai và thực hiện đồng bộ. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ các
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 60%; thu gom chất thải rắn
ở đô thị đạt 88,87%; chất thải rắn y tế được xử lý đạt 100% (cao hơn mục tiêu đến năm
2020); tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở nông thôn là 53,13% và ở đô thị là
73,83%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 30,99%...
Nghị quyết số 120/NQ - CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 Về phát triển bền vững
vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH đã xác định biến đổi khí hậu và
nước biển dần là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức
thành cơ hội; bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn
tài nguyên để phát triển kinh tế. Nghị quyết cũng nêu lên việc chuyển đổi mô hình phát
triển dựa trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học,
văn hoá, con người và các quy luật tự nhiên; kết hợp giữa hiện đại với tri thức, kinh
nghiệm truyền thống. Không dừng lại đó, năm 2018, nhằm góp phần tìm giải pháp thực
hiện hiệu quả Nghị quyết 120 (liên quan đến gần 30 bộ, ngành và các tỉnh, thành vùng
ĐBSCL), ngày 14 tháng 12 năm 2018, trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Thời báo
136
Kinh tế Sài Gòn tổ chức hội thảo “Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120 NQ-CP về
phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu”. Tại hội thảo, đại diện
lãnh đạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã phân tích
những việc đã làm được, chưa làm được và đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả Nghị
quyết.
Cùng với những Nghị quyết, Chỉ thị, từ Trung ương đến địa phương thành lập
các đơn vị chuyên nghiên cứu, tuyên truyền về biến đổi khí hậu như Cục Khí tượng
thuỷ văn và Biến đổi khí hậu thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đây là nơi tập trung
nhiều dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu như: xu thế, kịch bản về biến đổi khí hậu;
thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu; các hoạt động về biến đổi khí hậu. Những hoạt
động này phần nào cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình hình diễn biến của biến đổi
khí hậu đã, đang và sẽ diễn ra trên vùng đất ĐBSCL. Người dân vùng đất này không
còn nhận được những ưu ái do thiên nhiên mang lại trong lịch sử mà đang đứng trước
những thách thức to lớn đòi hỏi mỗi cư dân, mỗi dân tộc phải ý thức phải thay đổi
trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên của mình.
Trước những thách thức về biến đổi khí hậu diễn ra phức tạp ở ĐBSCL, Thủ
tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt nhiều đề án, quy hoạch phục vụ phát triển bền
vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, như phê duyệt điều chỉnh, bổ sung một
số cơ chế, chính sách thuộc chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng
ngập lũ giai đoạn 2018 - 2020 để đầu tư xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân cư, đắp
bờ bao khu dân cư có sẵn cho 8 tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Long An,
Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ. Theo đó, các Bộ, ngành
theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền đã rà soát, xây dựng, ban hành các cơ chế
phát triển bền vững ĐBSCL như đánh giá, xây dựng cơ chế chính sách ưu tiên khuyến
khích tư nhân đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu vùng giai đoạn
2016 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2025. Hiện nay các Bộ, ngành đang nghiên cứu xây
dựng và sẽ tiếp tục ban hành một số cơ chế, chính sách về Chương trình tổng thể phát
triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn
mới; cơ chế chính sách tập trung, tích tụ đất đai phục vụ sản xuất quy mô lớn; chính
sách quản lý tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường; Nghị định
của Chính phủ về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những thông tin về nghị
quyết, đề án về thích ứng biến đổi khí hậu được tuyên truyền rộng rãi trên các phương
137
tiện truyền thông như báo điện tử, báo giấy, đài truyền hình, đài phát thanh. Kiểm
chứng thực tế khi hỏi về những thông tin về biến đổi khí hậu trong tình hình mới
người dân được biết từ đâu thì đa phần người nông dân Khmer trả lời là được biết khi
nghe tuyên truyền từ đài phát thanh. Như khi phỏng vấn ông T.P tại ấp Bà Tây B, xã
Tập Sơn, huyện Trà Cú được ông trả lời:
Những thông tin về khí hậu, những kiến thức về môi trường gia đình ông
được biết khi nghe chương trình phát thanh từ radio hoặc được sự tuyên
truyền từ cán bộ nông nghiệp của xã. Ông còn cho biết gia đình ông thường
xuyên tham gia các lớp tập huấn về các giống lúa hoặc các giống hoa màu
thích ứng được với hạn mặn đang diễn ra ngày một nặng nề (Phụ lục 1, nhật
kí điền dã ở Trà Vinh).
Trước những diễn biến phức tạp của MTTN đang diễn ra, các Bộ, Ban ngành
của Việt Nam cũng có những chủ trương, đường lối nhằm giúp người dân nhận thức
và hành động cho phù hợp trong tình hình mới. Những nội dung này theo chúng tôi là
cần phải được tuyên truyền, phổ biến đến cộng đồng người Khmer ở ĐBSCL bởi họ là
những chủ thể đang chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những tác hại do BĐKH mang lại.
Việc tuyên truyền về tình hình biến đổi khí hậu này giúp người Khmer phần nào ý
thức được những biến động của môi trường đang diễn ra để họ vừa giữ gìn, bảo tồn giá
trị của MTTN.
4.3.1.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về môi trường tự nhiên
Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra
phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Tội phạm môi trường đã làm suy giảm nguồn tài nguyên
thiên nhiên, suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước.
Trước áp lực về tăng trưởng kinh tế, một số doanh nghiệp và cá nhân có phần
thờ ơ với việc bảo vệ MTTN. Tình trạng một số nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp
mọc lên ở các vùng thôn ngày một nhiều hơn. Những khu công nghiệp này phần nào
góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tuy
nhiên những mặt tác động tiêu cực với MTTN là một vấn đề đáng được lưu tâm. Một
số xí nghiệp không quan tâm đến kiểm soát nguồn nước thải và thản nhiên thải ra
sông, rạch gây ô nhiễm trầm trọng đến nguồn nước sạch của người dân.
Bên cạnh đó, ý thức của người dân làm nông nghiệp với môi trường cũng là
vấn đề cần được tuyên truyền giáo dục ý thức. Một số người làm nông không ý thức
138
được việc thải các chai thuốc trừ sâu, bao bì phân bón hoá học ra môi trường sẽ gây
hại rất lớn đến bề mặt đất và nguồn nước. Khi điền dã tại các vùng nông thôn, chúng
tôi dễ dàng bắt gặp các chai nhựa đựng thuốc trừ sâu đã sử dụng xong được vứt ra
đồng ruộng. Điều này không chỉ nguy hại cho MTTN mà ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ của con người.
Tại Việt Nam, luật Bảo vệ môi trường (BVMT) được Quốc hội thông qua vào
năm 2014. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp
và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. BVMT là trách nhiệm và nghĩa
vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Tại điều 7 của luật BVMT có quy
định rõ về những hành vi bị nghiêm cấm như: phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài
nguyên thiên nhiên; Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ,
phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật;
Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục
loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định; Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; Che
giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động BVMT, làm sai lệch thông tin dẫn
đến gây hậu quả xấu đối với môi trường (Luật Bảo vệ Môi trường).
Qua quá trình nghiên cứu thực tế từ địa bàn, chúng tôi nhận thấy việc tuyên
truyền kiến thức pháp luật và kiến thức về biến đổi khí hậu không nên chỉ tuyên truyền
theo đợt. Ví dụ như vào các ngày liên quan đến môi trường như ngày 22 tháng 3 hàng
năm là ngày Nước thế giới; ngày 22/4 là ngày Trái Đất có rất nhiều băng rôn, khẩu
hiệu được tuyên truyền để tác động đến ý thức người dân. Để hưởng ứng các ngày kỉ
niệm này, các tỉnh ở ĐBSCL còn tổ chức các hoạt động như tuần lễ hưởng ứng nước
sạch, các hoạt động nhằm hướng ứng giờ Trái Đất .v.v. Các hoạt động này đang có tác
dụng tích cực là tác động tốt đến ý thức của người dân về giá trị của MTTN. Tuy
nhiên, những hoạt động hay khẩu hiệu chỉ đang được thực hiện theo thành đợt hoặc chỉ
gần đến những ngày môi trường mới được thực hiện chứ chưa được diễn ra một cách
thường xuyên. Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng
ĐBSCL, ý thức người dân ngày một nâng cao thì các hoạt động này nên được diễn ra
thường xuyên hơn bằng các cách như:
Thứ nhất: Cần phải gia tăng tần suất tuyên truyền. Việc tuyên truyền không nên
thực hiện theo đợt trong năm mà phải được thực hiện xuyên suốt bằng mọi phương
139
cách khác nhau.
Thứ hai: Các kênh tuyên truyền cần phải đến từng người dân. Ngoài cách tuyên
truyền hiện nay qua truyền hình, truyền thanh cần phải tăng thêm phương tiện như
tăng thêm các phần mềm (app) trên điện thoại như các phần mềm dự báo các chỉ số
biến động của môi trường nước, môi trường đất, khí hậu. Bởi vì, hiện nay một bộ phận
lớn người dân đều sở hữu điện thoại thông minh nên việc gia tăng phần mềm này
khiến người dân dễ dàng nắm bắt thông tin.
Thứ ba: Cần phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ địa phương. Hiện nay, công tác tập
huấn tuyên truyền, sâu rộng đến từng hộ dân người Khmer chính là đội ngũ cán bộ địa
phương. Tuy nhiên, một số cán bộ còn hạn chế trong giao tiếp ngôn ngữ, không biết
tiếng Khmer dẫn đến việc tuyên truyền dù có được diễn ra nhưng vẫn không hiệu quả.
Thứ tư: Việc tuyên truyền thông tin phải được phối hợp chặt chẽ và sâu rộng từ
nhà trường, gia đình và xã hội. Nhà trường phải thường xuyên có những hoạt động để
phổ biến kiến thức cho học sinh. Việc bảo vệ MTTN có bền vững hay không là đến từ
học sinh. Các em học sinh được giáo dục ý thức từ nhỏ khi lớn lên sẽ giữ gìn và bảo vệ
MTTN một cách tốt nhất. Ngoài ra, chương trình phổ thông địa phương cần gia tăng
những nội dung ngoại khoá về giáo dục môi trường để các em hiểu rõ và có ý thức
nhằm bảo vệ tài nguyên mang tính lâu dài và bền vững.
4.3.2. Phát huy hơn nữa vai trò của chức sắc và những trí thức có uy tín
trong cộng đồng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long
Trong ứng xử với MTTN, người Khmer không chỉ tồn tại cách ứng xử thích
nghi mà còn tồn tại cách ứng xử bảo tồn giá trị tự nhiên. Dựa vào niềm tin tâm linh
trong tín ngưỡng, tôn giáo, người Khmer đã phát huy chức năng giáo dục trong đời
sống văn hoá giúp cho việc bảo tồn giá trị tự nhiên rất tốt. Người Khmer đa phần theo
Phật giáo Nam Tông và từ góc nhìn sinh thái học Phật giáo ta thấy có những quy định
của tôn giáo giúp cho việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên trong đó có bảo vệ tài
nguyên đất. Với niềm tin tôn giáo, niềm tin vào thế lực siêu nhiên, người Khmer quan
niệm rằng đất đai của nhà chùa là nơi linh thiêng vì thế người Khmer kiêng kị làm tổn
hại hoặc lấn chiếm đến những phần đất này.
Với niềm tin tôn giáo này, vấn đề tuyên truyền ý thức tôn trọng MTTN sẽ được
phát huy mạnh hơn nữa khi những nội dung về bảo vệ môi trường được tuyên truyền bởi
sư sãi, các vị chức sắc hoặc những trí thức có uy tín trong cộng đồng Khmer. Trong
phong tục Khmer, ngoài các ngày lễ lớn được sinh hoạt tại chùa, vào một số ngày
140
trong tháng như ngày mùng 1, mùng 8, ngày 15 và ngày 23 họ cũng sẽ đến chùa để
sinh hoạt tôn giáo. Ngày nay, việc giữ gìn tập tục sinh hoạt hàng tháng tại chùa chỉ còn
các cụ già duy trì bởi họ không còn làm những công việc để sinh kế mà hầu như chỉ lo
tập trung cho nhu cầu sinh hoạt tâm linh tôn giáo của mình.
Tại các buổi lễ này, ngoài sinh hoạt tôn giáo theo tín ngưỡng, phong tục các vị
sư sãi, chức sắc thường đưa các vấn đề liên quan đến xã hội để sinh hoạt cho bà con
Phật tử, trong đó có vấn đề về giữ gìn môi trường chung. Người Khmer rất tôn trọng
các vị sư sãi, chức sắc, vì thế họ luôn thực hiện tốt những việc nhà chùa khuyên bảo và
từ đó họ có ý thức sử dụng đúng mục đích nguồn tài nguyên của gia đình, địa phương.
Đây là việc làm ý nghĩa và có hiệu quả khá cao. Chúng tôi nhận thấy các nội dung về
xã hội cụ thể là phổ biến pháp luật về môi trường, kiến thức về biến đổi khí hậu lồng
ghép vào các buổi sinh hoạt tôn giáo để từng người Khmer có thể nhận thức sâu sắc
tầm quan trọng của bảo vệ môi trường tự nhiên cần phát huy hơn nữa. MTTN, tài
nguyên thiên nhiên là của chung nên việc bảo vệ môi trường, thích nghi với những
biến động của môi trường trong tình hình mới là việc cấp thiết và cũng là việc chung
của nhân loại. Mỗi cá nhân ý thức và hành động mới có thể đảm bảo môi trường sống
bền vững cho hiện tại và tương lai.
Bên cạnh vai trò của sư sãi, chức sắc ở chùa, vai trò của các Achar cũng rất
quan trọng trong việc hướng dẫn, giúp đỡ bà con người Khmer trong việc nhận thức
giá trị của MTTN và ý thức giữ gìn MTTN. Trong hầu hết các tín ngưỡng, phong tục,
nghi lễ vòng đời của người Khmer đều có sự đóng góp vô cùng quan trọng của các
Achar. Achar thường là những đã từng có thời gian đi tu, có uy tín, có sự am hiểu nhất
định về phong tục, tập quán của dân tộc nên thường được cộng đồng người Khmer tin
tưởng. Qua quan sát thực tế tại các cộng đồng người Khmer chúng tôi nhận thấy rằng
ở một số nơi ở Trà Vinh, Achar ngoài là người hướng dẫn các tập tục sinh hoạt còn là
người truyền kinh nghiệm cho cộng đồng các kĩ thuật nuôi trồng trong nông nghiệp.
Các kĩ thuật chăm sóc cây trồng, chăm sóc gia súc, gia cầm hay các kinh nghiệm dùng
phân bón cũng được người Khmer tin tưởng và học tập theo kinh nghiệm của các
Achar. Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng, vài trò của Achar đã rất được người Khmer
tin tưởng cho nên cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các Achar trong việc tuyên
tuyền, giáo dục ý thức đồng bào Khmer trong việc giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và MTTN trước những thách thức của biến đổi khí hậu hiện nay. Mặc dù có các
141
phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài nhưng không phải người Khmer nào
cũng có điều kiện tiếp xúc. Một số người Khmer lớn tuổi họ ít khi có điều kiện nghe
đài hay đọc báo nên chúng tôi thiết nghĩ, vai trò Achar sẽ phát huy tốt trong công tác
142
giáo dục ý thức giữ gìn tài nguyên cho đồng bào.
Tiểu kết chương 4
Tận dụng, thích nghi và đối phó với môi trường tự nhiên là một quá trình tất yếu
diễn ra trong quá trình tương tác với môi trường để tạo ra cái ăn, mặc của bất kì một tộc
người nào trên thế giới. Người Khmer ở ĐBSCL cũng vậy, từ trong lịch sử cư trú, canh
tác họ đã có bề dày lịch sử, cùng với các tộc người khác họ đã cùng nhau cải tạo tự
nhiên, cùng chung sống với những thuận lợi cũng như những khắt nghiệt của tự nhiên.
ĐBSCL hôm nay còn đối mặt với rất nhiều những thiên tai từ hạn hán, ngập lụt, đất và
nước nhiễm mặn, nhiễm phèn dẫn đến ảnh hưởng nặng nề đến vật nuôi, cây trồng và cả
cư dân nơi đây. Hơn nữa, những thiên tai, khắc nghiệt đó hiện nay đang gia tăng bởi
những thách thức của biến đổi khí hậu mà vùng ĐBSCL là một trong các nước ảnh
hưởng nặng nề nhất trên thế giới. Chưa dừng lại ở đó, sự xói mòn, lấn chiếm của biển
hàng năm mỗi gia tăng và có cả những dự báo chỉ trong vài mươi năm nữa vùng đồng
bằng này sẽ chìm trong biển nước. Đó không chỉ là những dự báo suông mà đã được dự
báo trong kịch bản của Cục biến đổi khí hậu quốc gia công bố.
Trong chương 4, ngoài những đánh giá, phân tích nguyên nhân dẫn đến những
biến đổi trong văn hoá ứng xử với MTTN chúng tôi phân tích những biến đổi cụ thể
của người Khmer trong ứng xử với đất, nước, cây trồng, vật nuôi và thời tiết.
Trong ứng xử với đất ở, người Khmer không còn tồn tại cách lựa chọn nơi cư
trú như những ngày đầu. Họ ở và canh tác trên những phần đất mà cha mẹ để lại và
vẫn tận dụng đất để khai thác trong sản xuất, vẫn có những tín ngưỡng liên quan đến
đất. Trong ứng xử với nước, họ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước tự nhiên
do có chương trình hỗ trợ nước sạch cho đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình
134. Người Khmer hiện nay không còn cần khai thác nước ngầm bằng cách đào giếng
mà có thể dùng máy khoan, máy bơm để lấy nước tưới tiêu.
Trong ứng xử với thực vật, động vật người Khmer ở ĐBSCL cũng có sự biến
đổi nhất định trong cách chăm sóc cây trồng vật nuôi. Trong văn hoá vật chất, họ vẫn
tận dụng các loại thực vật, động vật cho đời sống sinh hoạt tuy nhiên, trước những
thay đổi của MTTN hiện nay, cách chăm sóc cây trồng, vật nuôi cũng có những biến
đổi nhất định. Đối với thực vật, người Khmer biết cách chăm sóc thực vật bằng cách
kết hợp kinh nghiệm dân gian với kĩ thuật khoa học. Từ cách chỉ sử dụng phân bón
143
hữu cơ, cách đốt rơm, rạ để làm phân bón cho đồng ruộng họ biết cách sử dụng các
loại phân bón vô cơ. Ngoài ra, cách chăm sóc cây trồng, chọn giống cây trồng của
người Khmer còn được sự hỗ trợ kĩ thuật của các cán bộ nông nghiệp của địa phương.
Đối với động vật, từ cách chăn nuôi gia súc, gia cầm theo kiểu làm kinh tế gia đình thì
bây giờ người Khmer ở một số địa phương đã chăn nuôi trang trại, nuôi trồng thuỷ hải
sản theo phương pháp công nghiệp.
Theo chúng tôi nhận diện, hiện nay, được sự hỗ trợ, tuyên truyền từ các cán bộ
địa phương và từ các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, radio, phát
thanh và cả tin tức online bằng cách truy cập từ điện thoại di động thông minh thì hầu
như không một người Khmer nào không biết đến những thách thức từ biến đổi khí hậu.
Những người Khmer làm nông nghiệp, hơn ai hết họ đã, đang chịu những tác động lớn
từ môi trường là hạn hán, đất nhiễm phèn, nhiễm mặn, cây cối không đạt năng suất,
tình hình sâu rầy tấn công do thời tiết thay đổi… Như vậy, chính họ là những người
chịu ảnh hưởng trực tiếp nên hiểu rất rõ về tình hình và có những thích ứng thích hợp
với môi trường. Họ đã chủ động thay đổi phương thức sinh kế, chuyển từ sinh kế nước
ngọt sang sinh kế nước mặn. Thay vì như trước đây, họ trồng lúa và xen canh hoa màu
thì giờ đây nhiều vùng chuyển sang nuôi tôm sú, tôm thẻ để thích ứng với những thay
đổi của môi trường nước, môi trường đất.
Chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng là một trong những cách thích ứng với
biến đổi khí hậu của một số người Khmer tuy vẫn còn một bộ phận người Khmer giữ
lại thói quen canh tác cũ. Tập quán kinh tế của một tộc người là cả một quá trình, khó
có thể thay đổi ngay trong thời gian ngắn. Nếu như xưa kia họ chỉ dựa vào những kinh
nghiệm dân gian để chăm sóc cây lúa, ngọn rau thì giờ đây họ biết cập nhật các
phương pháp chăm sóc cây trồng hiện đại. Họ thường xuyên đến những lớp tập huấn
của kĩ sư địa phương để nghe giới thiệu về giống lúa mới, phương pháp trừ sâu mới,
các loại phân bón hoá học mới. Một điều đáng chú ý trong cách ứng xử với kiến thức
mới trong chăm sóc cây trồng của người Khmer ĐBSCL là họ kết hợp cả kinh nghiệm
truyền thống với kiến thức hiện đại. Chẳng hạn như, họ biết kết hợp giữa bón phân hoá
học vô cơ với các loại phân hữu cơ trong cùng một vụ mùa.
Văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay so với trong
truyền thống có những biến đổi nhất định. Sự biến đổi trong ứng xử này là phù hợp
144
quy luật và để thích nghi với tình hình kinh tế, diễn biến của BĐKH. Những thay đổi
trong ứng xử với MMTN của người Khmer trong giai đoạn ban đầu không tránh khỏi
những bỡ ngỡ và lung túng. Điều này đòi hỏi phải có những sự định hướng, tuyên
truyền, giáo dục được diễn ra thường xuyên để người Khmer nhận thức, ứng xử phù
hợp với diễn biến của BĐKH và đúng với luật tài nguyên môi trường đồng thời đảm
145
bảo MTTN ở ĐBSCL được ổn định và bền vững.
KẾT LUẬN
Môi trường tự nhiên vùng ĐBSCL vừa mang nét chung với tự nhiên của cả
nước vừa có những nét riêng mang đậm dấu ấn vùng miền. Nét chung là cùng có khí
hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa và nét riêng là có phân chia hai mùa mưa và khô
phân biệt khá rõ rệt. ĐBSCL thoạt nhìn là vùng đất đai màu mỡ bởi được bồi đắp
phù sa từ hai con sông Tiền và sông Hậu tuy nhiên, ĐBSCL còn có rất nhiều sự
thách thức về MTTN. ĐBSCL là vùng vừa “thiếu nước” vừa “dư nước”. Tình trạng dư
nước diễn ra từ tháng tháng 5, tháng 6 đến tháng 11 thường gây ra lũ lụt. Đó là khi
nước từ thượng nguồn Mekong đổ về cùng với lượng nước mưa tự nhiên gây ra tình
trạng ngập úng đồng ruộng, thiệt hại đến đời sống kinh tế của cư dân đồng bằng. Khi
những tháng mưa lũ qua đi sẽ đến thời điểm khô hạn. Vấn đề khô nạn là một vấn nạn
lớn ở ĐBSCL khi mùa khô kéo dài, làm nứt nẻ đồng ruộng, thiếu nước ngọt cho sinh
hoạt, nước nhiễm phèn và nhiễm mặn. Đây là vùng đất có hệ thống kênh đào và kênh
rạch tự nhiên phong phú, thuận lợi cho các loài thực vật phát triển, các loài thuỷ hải
sản sinh sôi nhưng việc quá dư nước hoặc thiếu nước trong một số thời điểm trong
năm cũng gây khó khăn không ít cho đời sống của người dân. ĐBSCL tuy đất đai có
màu mỡ, cây lúa và các loại hoa màu dễ sinh trưởng nhưng để có cái ăn người nông
dân cũng phải đối phó với nạn cỏ dại, các loài sâu, chuột phá hoại đồng ruộng. Ông
cha ta khi đến khai hoang, sinh sống tại đây đã không hề dễ dàng thích nghi để có thể
tồn tại. Có một đồng bằng phát triển, trở thành một đồng bằng có số lượng xuất khẩu
nông sản, thuỷ sản cao nhất cả nước con người vùng Cửu Long đã vô cùng vất vả để
thích nghi và cải tạo tự nhiên để có thể tạo dựng một vùng đồng bằng như hiện nay.
Người Khmer là tộc người cư trú khá sớm ở ĐBSCL. Để thích nghi với môi
sinh, khí hậu thời tiết, họ đã chọn cư trú trên những giồng cao để tránh nước ngập vào
mùa mưa. Đất giồng là loại đất vừa cao cáo, tránh nước lũ nhưng lại vừa thoát nước
nên người Khmer có thể làm nông nghiệp bằng cách làm ruộng rẫy. Người Khmer là
tộc người có đời sống văn hoá phong phú, họ trân trọng tự nhiên, có niềm tín và tín
ngưỡng vào các vị thần tự nhiên.
Từ những điều kiện của MTTN ở ĐBSCL, trong quá trình thích nghi và đối
phó với thời tiết, nước, đất, động thực vật để tạo ra các giá trị trong văn hoá cư trú, văn
hoá ẩm thực, văn hoá trang phục của mình. Ở nội dung chương 2 và chương 3 của luận
146
án, chúng tôi đã trình bày, phân tích về văn hoá ứng xử với đất, nước, thời tiết, động
thực vật của người Khmer dưới dạng thích nghi để tạo ra các giá trị vật chất. Đối với
yếu tố nước và đất người Khmer có thái độ trân quý và xem nước vừa là một dạng vật
chất mang đến nguồn sống cho con người vừa là một dạng giá trị văn hoá tinh thần
mang đến niềm tin và sự ngưỡng vọng. Đối với yếu tố động thực vật, người Khmer
xem các yếu tố này là các dạng vật chất gần gũi với sự sống con người. Các yếu tố
thực vật gần nhất với người Khmer được chúng tôi phân tích trong chương 3 là cây
lúa, cây chuối, hoa cau, thốt nốt .v.v... Bên cạnh đó, chúng tôi còn phân tích các yếu tố
vật chất động vật gần gũi trong văn hoá Khmer là các con vật nuôi như trâu, bò, v.v...
Các yếu tố vật chất được phân tích và lý giải trên cơ sở dựa vào lý thuyết sinh thái học
văn hoá của Julian Steward cho rằng trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ
thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Điều này đúng khi áp dụng khi nghiên cứu tộc người
Khmer ở ĐBSCL trong giai đoạn đầu thích nghi với MTTN ở đây khi khoa học kĩ
thuật cao, con người tương đối một phần nào chinh phục tự nhiên.
Thông qua phương diện văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần của người Khmer
cũng thể hiện tâm thức ứng xử với tự nhiên của mình đó là những phong tục, lễ hội
mang dấu ấn của lòng tin, tín ngưỡng với các hiện tượng tự nhiên như mặt trăng, mặt
trời, nước, đất, gió. Người Khmer sinh sống cùng tự nhiên, tôn thờ, trân trọng tự nhiên
biểu hiện cụ thể là họ có những lễ hội cảm tạ, cầu xin tự nhiên như lễ cúng trăng, cúng
thần nước v.v… Thái độ ứng xử đó thể hiện được văn hoá trọng tự nhiên, hoà hợp với
tự nhiên của người Khmer. Không những thế, thái độ ứng xử với tự nhiên của người
Khmer không chỉ thích nghi với cái hiện hữu mà còn thể hiện được sự bảo tồn cho mai
sau. Với người Khmer, trân trọng một dòng nước, một cái cây là sự bảo tồn để con
cháu mai sau còn để sử dụng. Khi lý giải những hiện tượng lòng tin của người Khmer
đối với các vị thần tự nhiên, tôn các yếu tố tự nhiên thành các vị thần, vừa tôn kính,
vừa sợ hãi chúng tôi đã vận dụng lý thuyết chức năng của Malinowski. Malinowski
cho rằng trong cuộc sống bình thường, con người không quan tâm đến những nỗi
hoang mang hay lo sợ các thế lực siêu nhiên nhưng khi đứng trước sự thay đổi trạng
thái con người lại quan tâm và thậm chí cảm thấy hoang mang trước tính thiêng đó.
Người Khmer ở ĐBSCL cũng thế, khi đứng trước những thuận lợi của MTTN họ
không nghĩ tới những tính thiêng của hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên, khi đứng trước
những khó khăn, biến đổi của tự nhiên như hiện tượng khô hạn, thiếu nước hay hiện
147
tượng mưa nhiều gây ngập úng họ cũng có những nghi thức cầu cúng để cầu xin các
thế lực siêu nhiên từ MTTN. Đó chính là các nghi thức cầu mưa được người Khmer
thực hiện trong nghi thức cầu an tại các phum sóc hoặc các nghi thức liên quan đến
nước như ý nghĩa của những lễ hội nhằm tống tiễn nước, cầu cho nước rút để người
nông dân có thể làm nông nghiệp.
Trong bối cảnh hiện nay, MTTN vùng ĐBSCL đang đứng trước những thách
thức to lớn, đang trở thành vùng “nhạy cảm” trước những biến đổi của môi trường như
hiện tượng nước biển dâng, xâm nhập mặn, nhiễm phèn, và đặc biệt là sự cạn kiệt về
tài nguyên nước và sự thoái hoá của đất. Nếu như mùa nước lũ từ thượng nguồn Mê-
Kông có thể mang đến sự sợ hãi do sự nhấn chìm của nước làm mất đi mùa màng, vật
nuôi thì bây giờ mùa lũ chính là niềm “khát khao” của cư dân vùng đất này. Mùa lũ
thường đến trễ hơn, ngắn hơn làm giảm đáng kể trữ lượng phù sa cho đồng bằng và
lượng cá tôm mùa lũ là hầu như dần cạn kiệt. Thế nên, không còn những tự hào vùng
“đất đai trù phú”, “sản vật sẵn có” hay “dưới sông cá chốt, trên bờ triều châu” nữa mà
thay vào đó làm các cư dân ĐBSCL đã dần thay đổi ý thức. Họ sống thích nghi với
những cạn kiệt chứ không còn là những thích nghi với sự dư giả như xưa nữa. Trong
văn hoá ứng xử với MTTN, người Khmer cũng có nhiều thay đổi đáng kể để phù hợp
với môi sinh. Họ thay đổi dần những cách ứng xử mang tính kinh nghiệm dân gian, họ
biết kết hợp tri thức dân gian với tri thức khoa học. Sự chuyển đổi này không diễn ra
một ngày một bữa mà là cả một quá trình thích nghi và thay đổi. Người Khmer ý thức
rằng, những thay đổi của kĩ thuật hiện đại luôn có tính hai mặt và ít nhiều ảnh hưởng
đến sự sống còn của môi sinh như dễ phá huỷ môi trường, ảnh hưởng sức khoẻ con
người. Thế nên, họ đã ứng xử linh hoạt là tận dụng kinh nghiệm truyền thống kết hợp
với tri thức khoa học nhằm hướng đến lối sống cân bằng để vừa thích nghi vừa bảo tồn
148
MTTN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
1. Luật bảo vệ môi trường (Luật số: 55/2014/QH13) ngày 23/06/2014. 2. Luật du lịch (Luật số: 09/2017/QH14) ngày 19/6/2017. 3. Quyết định số 134/2004/QĐ-TTG ngày 20/07/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn.
4. Tổng cục thống kê, 2019.
Tài liệu tiếng Việt (sách, tạp chí, kỉ yếu)
1. So Ry A (1988), Lễ hội Khơ me Nam Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội.
2. A.A. Radughin (2004), Văn hóa học những bài giảng, Viện Văn hóa thông tin,
Hà Hội.
3. Lê Thuý An (2012), Nước (Tưk) trong văn hoá của người Khmer Tây Nam Bộ,
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
4. Phan An (2009), "Óoc Om Boc, lễ nghi nông nghiệp của người Khmer Nam Bộ" in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy lễ hội Óoc Om Boc-đua ghe ngo Sóc Trăng.
5. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.
6. Phan An (2017), (tái bản có bổ sung), Người Việt Nam Bộ, Nhà xuất bản Hồng
Đức.
7. Đào Duy Anh (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội.
8. Trần Thuý Anh (2009), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt
Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, Nhà xuất bản Lao Động.
9. Alan Barnard (Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà dịch) (2011), Lịch sử và lý
thuyết nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
10. Aurelio Peccei – Daisaku Ikeda (1993), Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI,
149
Trương Chính – Đông Hà (dịch), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
11. Trần Văn Ánh (2011), "Văn hoá phum sóc trong đời sống tinh thần của người Khmer Nam Bộ." Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cộng đồng dân tộc Khmer trong quá trình phát triển hội nhập.
12. Lê Huy Bá (2003), Những vấn đề về đất phèn Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia, TP. HCM.
13. Lê Huy Bá (chủ biên), Lương Văn Việt, Nguyễn Xuân Hoàn (2017), Khô hạn, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long cơ sở lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Lê Bảo (2005), Văn hoá sinh thái - nhân văn (giáo dục môi trường). Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm.
15. Ban Đông Nam Á (1993), Tìm hiểu lịch sử - văn hoá Campuchia (tập 1), Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Barker Chris (2011), Nghiên cứu văn hoá lý thuyết và thực hành, Nhà xuất bản
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
17. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, Nhà xuất bản Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
18. Trần Văn Bổn (1999), Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng sông Cửu
Long, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.
19. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Công Bình (2008), Đời sống xã hội vùng Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia, TP.HCM.
21. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân
đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
22. Bruhl Lévy (2008), Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy,
Nhà xuất bản Hà Nội.
23. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nhà xuất bản
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
25. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa con người với thiên nhiên, xã hội và thế
150
giới siêu nhiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường
thiên nhiên, Viện văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin, Hà Nội.
27. Bùi Thế Cường và Solvay Gerke (2013), Nước là nguồn chiến lược: Đồng bằng
sông Cửu Long, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.
28. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng (tuyển chọn từ
tài liệu sưu tầm điền dã), Nhà xuất bản TP. HCM.
29. Trần Dũng, Đặng Tấn Đức (2012), Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân
gian Trà Vinh, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.
30. Phạm Đức Dương (2013), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nhà xuất bản Văn hoá-
Thông tin.
31. Phạm Đức Dương (2007), Có một vùng văn hóa sông Mekong, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội Hà Nội, Hà Nội.
32. Trịnh Hoài Đức (tái bản lần thứ 1 năm 2016), Gia Định Thành Thông Chí, Nhà
xuất bản Tổng hợp.
33. Mạc Đường (1991), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội.
34. Edward B. Tylor, Văn hoá nguyên thuỷ (2000), Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn
hoá nghệ thuật, Hà Nội.
35. Vũ Minh Giang (chủ biên) (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nhà xuất bản Thế
giới, Hà Nội.
36. Grant Evant (2001), Bức khảm văn hóa Châu Á tiếp cận Nhân học, Nhà xuất bản
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
37. H. Russel Bernard (2009), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học - tiếp
cận định tính và định lượng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP. HCM.
38. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân
gian, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm.
39. Phạm Thị Phương Hạnh (2011), Văn hóa Khmer Nam Bộ nét đẹp trong bản sắc
văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
40. Phạm Công Hoan (2015), Ứng xử của người Dao đỏ ở Sapa trong cư trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Nhà xuất bản Quỳnh Lâm.
42. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người môi trường và văn hóa, Nhà xuất bản
151
Khoa học xã hội.
43. Phan Khánh (2001), Đồng bằng sông Cửu Long - lịch sử và lũ lụt, Nhà xuất bản
Nông nghiệp.
44. Khoa Nhân học (2014), Văn hóa, môi trường, lễ nghi và sức khỏe ở Việt Nam những cách tiếp cận nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Ngô Thị Phương Lan (2019), Sinh kế và biến đổi văn hoá của người Khmer ở
huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM.
46. Ngô Thị Phương Lan (2017), Sinh kế tộc người trong bối cảnh Việt Nam đương
đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM.
47. Ngô Thị Phương Lan (2014), Từ lúa sang tôm, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia,
Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam
Á, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP. HCM.
49. Ngô Văn Lệ (2017), Nghiên cứu tộc người và văn hoá tộc người tiếp cận nhân
học phát triển, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP.HCM.
50. Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu (2017), Tri thức bản địa của các tộc người thiểu
số tại chỗ ở Đắk Nông, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP.HCM.
51. Trần Hồng Liên (2004), Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội.
52. Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân
tộc – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
53. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Nhà xuất bản
TP.HCM.
54. L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard (2010) Lý thuyết nhân học- giới thiệu lịch sử, Đinh Hồng Phúc, Lê Sơn Phương Ngọc dịch, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.
55. Nguyễn Thị Diệp Mai (2011), Tri thức dân gian về ứng xử với môi trường tự nhiên trong đời sống vật chất người Việt vùng U Minh Thượng, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học Xã hội.
56. Sơn Nam (1998), Đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Trẻ.
57. Sơn Nam (2007), Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh
152
miệt vườn, Nhà xuất bản Trẻ.
58. Sơn Nam (2005), Tìm hiểu đất Hậu Giang & Lịch sử đất An Giang, Nhà xuất
bản Trẻ.
59. Nguyễn Thị Kim Ngân (2015), Thiên nhiên với sắc thái văn hóa vùng trong ca dao trữ tình Trung Bộ (chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh (2016), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
61. Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học – Những phương pháp nghiên cứu, Viện Văn
hoá – Thông tin, Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (2015), Phật giáo vùng Mê – Kông: ý thức môi trường và toàn cầu
hóa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM.
63. Nhiều tác giả (2009), Tri thức bản địa và văn hoá sinh thái của các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam về môi trường và bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
64. Oppenheimer, Stephen (2005), Địa đàng ở Phương Đông, Lê Sỹ Giảng và Hoàng Thị Hà dịch, Nhà xuất bản Lao động - Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Đông Tây, Hà Nội.
65. Đặng Thị Ngọc Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung (2015), Tri thức dân gian về nước của người Lào ở tỉnh Điện Biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
66. Đặng Thị Oanh (2016), Biểu tượng nước từ văn hoá đến văn học dân gian Thái,
Nhà xuất bản Sân khấu.
67. Trần Thanh Pôn (2014), “Truyền thống giáo dục Phật giáo Nam Tông Khmer với môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa dân tộc”, in trong Nhân học & Cuộc sống (tập 1), Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM.
68. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu
Long, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
69. Tế Quần (Thích Nhuận Đạt dịch) (2010), Đạo Phật và môi trường, Nhà xuất bản
Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.
70. Radughin, A.A (2004), Văn hóa học những bài giảng, Viện Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
71. Ruth Benedict (2018), Các mô thức văn hoá, Phạm Lan Quân dịch, Nhà xuất
153
bản Tri thức.
72. Vương Hồng Sển (2012), Di cảo Ăn cơm mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang, Ba
Thắc, Nhà xuất bản Trẻ.
73. Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương (2011), Chính sách đất đai & văn hóa tộc
người – nghiên cứu trường hợp tại Sóc Trăng, Nhà xuất bản Thế giới.
74. Tô Ngọc Thanh (2006), “Nước trong văn hóa Việt Nam”, trong Ghi chép về văn
hóa và âm nhạc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
75. Lê Bá Thảo (1986), Địa lý đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Đồng Tháp.
76. Lê Bá Thảo (2009), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo Dục.
77. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nhà
xuất bản Văn hóa – Văn nghệ.
78. Trần Ngọc Thêm (2006), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá tổng
hợp.
79. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng, Nhà
xuất bản Văn hóa - Văn nghệ.
80. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng
hợp TP.HCM.
81. Võ Thị Thu Thuỷ (2013), Văn hoá ứng xử với thiên nhiên qua không gian ở của người Việt, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc Gia TP. HCM.
82. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê
bình sinh thái, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
83. Tỉnh Ủy Tỉnh Trà Vinh (1995), Lịch sử Tỉnh Trà Vinh, Nhà xuất bản Ban Tư
tưởng Tỉnh ủy Trà Vinh.
84. Tỉnh uỷ Trà Vinh Chỉ thị số 07 (ngày 22-3-2016) Về việc tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp cấp bách ứng phó với khô hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
85. Tỉnh uỷ Trà Vinh Kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa XI), Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
86. Tỉnh uỷ Trà Vinh Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Chỉ thị 68 của Ban Bí thư (khóa VI) Về công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer của Tỉnh ủy Trà Vinh ngày 10 tháng 8 năm 2011.
87. Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer tỉnh Cửu Long, Nhà xuất bản Văn hóa
154
Thông tin.
88. Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Truyện dân gian Khơme Nam Bộ, Nhà xuất bản
Đồng Nai.
89. Tiền Văn Triệu (2011), Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng, Nhà xuất bản
Phương Đông.
90. Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer
Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
91. Phan Thị Yến Tuyết (2014), Đời sống xã hội – kinh tế văn hóa của ngư dân và
cư dân vùng biển Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, TP. HCM.
92. Phan Thị Yến Tuyết (2006), “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – Tiếp cận sinh thái văn hóa” in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy lễ hội Óoc Om Boc – Đua ghe ngo Sóc Trăng.
93. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở - trang phục - ăn uống của các dân tộc vùng
đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
94. Uỷ ban Nhân dân tỉnh An Giang (2013), Địa chí An Giang, Ban Tuyên giáo
Tỉnh Uỷ An Giang.
95. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2012), Địa chí tỉnh Sóc Trăng, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
96. Trịnh Hiểu Vân (2008), Văn hóa nước, Nguyễn Minh Đức dịch, Nhà xuất bản
Thế giới.
97. Hồ Sĩ Vịnh (2006), Về bản lĩnh văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia.
98. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường con người & Văn hóa, Nhà xuất bản Văn
hóa – Thông tin & Viện văn hóa, Hà Nội.
99. Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường (2010), Biến đổi khí hậu và
tác động ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kĩ thuật.
100.
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường (2011), Tài liệu hướng dẫn - Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng, Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
101. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2011), Văn hoá học và văn hoá thế kỉ
XX, Nhà xuất bản Thông tin Khoa học Xã hội – Chuyên đề, Hà Nội.
102. Viện Văn hoá (1993), Văn hoá người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu
Long, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
103. Viện Văn Hóa (1998), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ,
155
Nhà xuất bản Tổng hợp Hậu Giang.
Tài liệu tiếng nước ngoài
Tiếng Anh
1. Hutchthausen, Peter A., (1996), Echoes of the Mekong River Delta, Viet Nam,
Nautical & Aviation Publishing Company of America.
2. Ohashi Hisatoshi & Mikami Naomitsu (2008), Khmer people in Southern
Vietnam, Keio University Press.
3. Milton Osborne (2006), Turbulent past, uncertain future, CMO Image Printing
Enterprise.
4. R. Buckminster Fuller (1997), Naga cultural origin in Siam and the West
Paacific Sumet Jumsai, Chalermnit Press and DD Books. Tiếng Khmer
5. MicPuna (2003), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី
ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ១” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 1), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.
6. MicPuna (2008), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី
ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ២” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 2), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.
7. MicPuna (2008), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី
ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ៣” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 3), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.
Tài liệu điện tử
1. Nguyễn Khắc Cảnh (2008), Chùa Khmer Nam Bộ công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, http://www.vanhoahoc.vn, http://www.vanhoahoc.vn/nghien- cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/658-nguyen-khac-canh-chua-khmer- nam-bo-cong-trinh-nghe-thuat-kien-truc-doc-dao.html.
2. Hứa Sa Ni (2005), Nước trong thức tâm
người Khmer, http://bandantoc.hochiminhcity.gov.vn,http://bandantoc.hochiminhcity.gov.vn/v /xulFWNZZp2uV/content/nuoc-trong- an-hoa-cac-dan-toc/-/asset_publisher tam-thuc-cua-nguoi-khmer/pop_up?_ 101_INSTANCE_xulFWNZZp2uV_viewMode=print.
3. Wikipedia, “Mekong” (2008).
http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%AA_K%C3%B4ng.
156
4. P. Wesley Schultz (2002), Environmental attitudes and Behaviors across cultures” (Thái độ và hành vi môi trường trên khắp các nền văn hoá),
[https://scholarworks.gvsu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1070&context=orpc ]
5. Phạm Đức Dương (2002), Con người và môi trường từ góc nhìn văn hoá, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi- moi-truong-tu-nhien/2949-pham-duc-duong-con-nguoi-va-moi-truong-tu-goc- nhin-van-hoa-hoc.html.
157
6. Phan Anh Tú (2017), Sinh kế trồng cây của người Khmer ở xã Ngọc Biên, huyện Trà Cú, tình Trà Vinh”, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa- viet-nam/van-hoa-nam-bo/3168-phan-anh-tu-sinh-ke-trong-cay-cua-nguoi- khmer-o-xa-ngoc-bien-tra-vinh.html.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
Năm STT Tên công trình Tên tạp chí công bố
Yếu tố nước trong lễ hội Chôl-
của người Tạp chí Đại học Sài Gòn 30 (55) 1. 2017 Chnăm- Thmây Khmer Trà Vinh- tiếp cận lý tháng 7/ 2017.
thuyết văn hoá sinh thái
In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa
Tri thức bản địa của người học quốc gia Văn hoá các dân tộc
2. Khmer Tây Nam Bộ trong phát 7 2018 thiểu số tại chỗ vùng Tây Nam Bộ
triển bền vững (chỉ số ISBN), Nhà xuất bản
KHXH.
Những biến đổi trong văn hoá Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật ISSN
1
3. 2020 0866-8655, số 430 tháng 4-2020, ứng xử với môi trường tự nhiên 1 của người Khmer ở đồng bằng trang 43-46 sông Cửu Long
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: NHẬT KÍ ĐIỀN DÃ
Trước khi thực hiện công việc điền dã, bao gồm quan sát tham dự và phỏng vấn
sâu, chúng tôi đã thiết kế những câu hỏi như sau:
1. Xin ông / bà cho biết họ tên, tuổi, nghề nghiệp và địa chỉ cư trú?
2. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với đất
(đất ở và đất nông nghiệp)?
3. Theo ông / bà những có những kiêng kị hay những nghi thức nào trong việc
chọn đất làm nhà xưa và nay?
4. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với nước
(nước sinh hoạt và nước dùng trong nông nghiệp)?
5. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với thời
tiết (nắng, mưa) trong làm nông nghiệp và trong sinh hoạt?
6. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với động
vật, thực vật?
7. Ông / bà có bao giờ được nghe / biết đến BĐKH? Ông / bà biết được qua các
kênh thông tin nào?
8. Theo ông / bà những biến đổi MTTN/ BĐKH ảnh hưởng như thế nào đến
năng suất cây trồng, kinh tế của gia đình?
Tuy nhiên, khi gặp trực tiếp và sống trong cộng đồng của người Khmer, do đặc
điểm văn hóa, giao tiếp của người Khmer tại các điểm nghiên cứu mà chúng tôi đã
chọn tại An Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng chúng tôi không thể đặt câu hỏi theo cấu
trúc mà phải phỏng vấn phi cấu trúc nhưng vẫn dựa trên các thông tin đã được định
hướng để tìm hiểu. Quá trình phỏng vấn có thể không liên tục, kéo dài nhiều ngày và
có những điểm phải đến nhiều lần. Lý do phải đến khảo sát và phỏng vấn lại vì khi đến
đôi khi vụ mùa đã kết thúc hoặc đã thu hoạch xong. Chúng tôi dựa vào quan sát tham
dự và tìm hiểu thông tin từ những chia sẻ đời thường khi tiếp xúc với họ trong mỗi lần
điền dã.
Sinh ra và lớn lên tại Trà Vinh nên từ nhỏ tôi đã có điều kiện tiếp xúc với văn
hoá Khmer từ ngôn ngữ đến thói quen ứng xử của người Khmer Trà Vinh. Tuy nhiên,
2
khi nghiên cứu về người Khmer từ năm 2009, tôi đã bắt đầu đến nhiều phum, sóc của
người Khmer cư trú và bắt đầu quan sát dưới góc nhìn văn hoá học. Từ năm 2009, tôi
đã có điều kiện khảo sát, tham dự nhiều lần tại phum, sóc của người Khmer ở huyện
Trà Cú, huyện Duyên Hải (nay là Thị xã Duyên Hải), tỉnh Trà Vinh.
Quá trình tiếp xúc và nghiên cứu về người Khmer không đứt gãy trong quá
trình nghiên cứu mà được liên tục từ năm 2009 đến nay. Để thực hiện luận án, tôi
không chỉ quan sát tham dự trong cộng đồng Khmer cư trú đất giồng ven biển ở Trà
Cú (Trà Vinh) mà mở rộng điểm nghiên cứu người Khmer cư trú ở vùng núi Tri Tôn
(An Giang); người Khmer cư trú vùng biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Các chuyến điền
dã ở Tri Tôn được thực hiện một lần; chuyến điền dã ở Vĩnh Châu được thực hiện hai
lần; điền dã ở Trà Cú được thực hiện nhiều lẫn mỗi khi có điều kiện là tôi đến nhà các
thông tín viên.
Điền dã tại Trà Vinh
Quá trình điền dã tại Trà Vinh được thực hiện nhiều lần từ năm 2009 đến nay.
Bắt đầu từ năm 2009 khi thực hiện luận văn với đề tài “Nước trong văn hoá của người
Khmer Tây Nam Bộ”, chúng tôi đã thực hiện điền dã nhiều lần ở các huyện trong tỉnh
Trà Vinh như huyện Duyên Hải, huyện Trà Cú, huyện Châu Thành và nhiều nhất là
thành phố Trà Vinh. Hàng năm, khi có các dịp lễ, tết của đồng bào Khmer, chúng tôi
đến quan sát, tham dự và ghi nhận về ứng xử trong văn hoá cộng đồng của đồng bào.
Qua các đợt quan sát, chúng tôi có kết hợp phỏng vấn, tham dự các trò diễn như là
người trong cuộc. Các lễ hội, lễ tết của đồng bào mà chúng tôi từng tham gia như:
Chôl- Chnăm- Thmây; Sen Đôn - ta; Ok - Om - Bok. Ngoài ra, chúng tôi còn quan sát
cách sinh kế của đồng bào trong các hoạt động thường nhật: cách trồng lúa, trồng hoa
màu, cách tận dụng các loại hoa màu trong ăn uống, sinh kế…
Trong quá trình thực hiện luận án từ năm 2014 đến nay, chúng tôi liên tục có
những đợt quan sát tham dự tại điểm được chọn nghiên cứu tập trung là huyện Trà Cú.
Tại đây, chúng tôi chọn ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh làm
điểm nghiên cứu.
Tại ấp Bà Tây B xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, chúng tôi có một
thông tín viên là gia đình ông T.Đ (43 tuổi). Được sự giới thiệu của em T.T.N (con gái
ông T.Đ) đến điền dã tại Trà Cú, em giới thiệu với chúng tôi đến ấp Bà Tây B. Khi đến
ấp Bà Tây B, đón chúng tôi là mẹ em N - bà T.T.L. Gia đình bà L có 3 người con ruột
và người con rể. Gia đình không có đất canh tác nên người con gái lớn và con rể làm
công nhân tại Trà Vinh. Bà L giới thiệu chúng tôi đến nhà ông Achar tên T.P (62 tuổi).
3
Ông P là Achar có uy tín, được người Khmer ở địa phương rất tín nhiệm. Ông P là
người có nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi gia súc (nuôi bò).
Vợ ông còn có nghề làm các loại dưa để bán ở chợ.
Ông T.P cho biết, gia đình ông có 4 người con nhưng tất cả đã có gia đình
riêng, 2 người con ở riêng và 2 người con là công nhân ở Bình Dương. Kinh tế các con
ông ổn định. Hiện nay, kinh tế chính của gia đình là trồng lúa, trồng hoa màu (khổ qua,
bí đao, cải bẹ cùi), trồng cỏ (dùng để chăn nuôi bò) chỉ có hai vợ chồng ông P chăm
sóc. Ông cho biết, ngày xưa lúa chỉ làm mỗi năm một vụ và phụ thuộc hoàn hoàn vào
nguồn nước mưa. Đất trồng lúa của gia đình ông là đất gò nên tương đối cao, nước
không thể vô tới nên xưa kia phải tát bằng gàu còn hiện nay dùng máy bơm để đưa
nước vào ruộng. Mỗi vụ lúa đến 6 tháng mới thu hoạch. Khi chọn giống xong, ông
phải gieo sạ, một tháng sau nhổ mạ lên và cấy lại. Một công lúa thu hoạch 10 đến 20
giạ lúa. Hiện tại, nông nghiệp hiện đại nên gia đình ông làm một năm ba vụ lúa và
trồng các giống lúa ngắn ngày. Theo ông Phên cho biết, hiện nay gia đình ông chỉ làm
lúa một tháng hai mươi ngày là có thể thu hoạch. Nông nghiệp của bà con ở ấp Bà Tây
B hiện nay được sự hỗ trợ kĩ thuật của cán bộ nông nghiệp ở xã trong chọn giống cây
trồng cho phù hợp các loại đất; hỗ trợ kĩ thuật trong chọn phân bón hoá học. Tuy
nhiên, theo ông P, nông nghiệp của gia đình ông kết hợp giữa kinh nghiệp dân gian
trong việc coi thời tiết, khí hậu với các loại phân bón hoá học. Phân bón gia đình ông
thường dùng là phân NPK và U-rê.
4
Hình 1: Tác giả cùng gia đình ông T.P Hình 2: Tác giả phỏng vấn ông T.P Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh: tác giả, 2018
Hình 4: Rẫy khổ qua của gia đình ông T.P Ảnh: tác giả, 2018 Hình 3: Tác giả tại chòi canh rẫy của gia đình ông T.P Ảnh: La Ngọc Hương, 2018 Nông nghiệp của gia đình ông Phên không trồng xen canh giữa lúa và rẫy. Khu
vực trồng lúa riêng và trồng rẫy riêng. Nơi trồng rẫy thường là nơi đất cao, vợ chồng
ông lên liếp trồng rẫy và lấy nước từ giếng nước tự đào. Ông P còn cho biết kinh
nghiệm để đào giếng lấy nước trồng rẫy là quan sát nơi nào có kiến làm tổ (hoặc nơi
đất lạnh hơn khi quan sát ban đêm) thì bên dưới sẽ có nước ngọt. Kinh nghiệm này
cũng không phải tuyệt đối, khi đào không được nguồn nước ngọt thì phải lấp lại, tốn
rất nhiều thời gian và công sức.
Hình 6: Chuồng gia súc của gia đình ông P Ảnh: tác giả, 2018
Hình 5: Tác giả cùng vợ ông T.P bên ruộng lúa của gia đình ông Ảnh: La Ngọc Hương, 2018
Kinh tế phụ của gia đình ông P còn là nghề trồng cải bẹ cùi. Cải gieo được 25
ngày thì nhổ lên trồng nơi khác. Cách trồng tỉa này giúp cải có khoảng cách, giúp cải có
bắp to hơn. Cải trồng lại khoảng 40 ngày là có thể thu hoạch. Cải thu hoạch xong đem
phơi nắng cho héo (khoảng 1 nắng) thì đem luộc sơ. Sau đó, nấu nước muối ngâm
khoảng 5 đến 6 ngày sẽ có cải chua rất ngon. Vợ ông P cho biết, món cải chua của gia
đình bà rất được bà con trong sóc ưa chuộng và bán rất được giá, tạo thêm thu nhập cho
gia đình vào những tháng chưa thu hoạch lúa. Tuy nhiên, theo ông bà hiện nay việc
5
trồng rau cải khá vất vả do sự biến đổi của thời tiết. Bằng kinh nghiệm dân gian gia đình
ông bà không thể canh được nắng mưa và dự đoán được các loại sâu rầy gây hại đến cây
trồng. Các loại sâu đục trái làm cho năng suất trồng cây giảm mạnh. Để đối phó với nạn
sâu rầy, buộc người nông dân phải xử lý bằng thuốc hoá học nhưng như vậy rất ảnh
hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng và đôi khi ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ
của người nông dân.
Điền dã tại Trà Cú chúng tôi còn quan sát cách sinh kế của bà con nơi đây. Hiện
nay, tại địa bàn Tập Sơn, hầu như các nam nữ thanh niên đều làm công nhân ở các khu
công nghiệp. Bà con ở ấp Bà Tây làm công nhân tại công ty giày da Mỹ Phong của huyện
Trà Cú. Một bộ phận khác đi làm xa làm công nhân ở khu công nghiệp Long Đức Trà
Vinh hoặc đi làm tại Bình Dương. Vì vậy, ở nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ
nhỏ nên kinh tế từ nông nghiệp có phần hạn chế do không có nhân lực. Các người già ở
nhà nhờ vào tiền gửi từ con cháu khi đi làm công nhân hoặc làm các công việc nhẹ như
tận dụng các loại rau, quả tự nhiên để làm dưa bán. Như tôi tiếp xúc và trao đổi với bà
L.N (68 tuổi) tại ấp Bà Tây B chuyên làm dưa môn để bán ở chợ. Dưa môn là loại dưa
làm từ ngó môn. Bà con đem về rửa sạch, cắt nhỏ và nấu nước muối ngâm để làm chua.
Loại dưa này đòi hỏi phải có kinh nghiệm làm như: chọn loại môn, sơ chế sạch…để khi
ăn không bị ngứa. Kinh tế từ việc làm dưa môn đủ để sinh hoạt, trang trải trong gia đình.
Hình 7: Tác giả tìm hiểu công đoạn sơ chế ngó môn của gia đình bà L.N Ảnh: La Ngọc Hương, 2018 Điền dã tại An Giang
Nhật kí điền dã ngày 20-10-2018 tại ấp Phnôm Pi và ấp Tà On, xã Châu Lăng,
6
huyện Tri Tôn, Tỉnh An Giang
Chuyến đi bắt đầu từ ngày 19-10-2018, từ Trà Vinh đến Long Xuyên, nghỉ đêm
tại Long Xuyên.
7h30 sáng di chuyển đến Tri Tôn bằng xe gắn máy. Đoạn đường khoảng 70km.
Trên đường đi, đoạn huyện Châu Thành, bên đường có nhóm chị em phụ nữ khoảng
trên 10 người làm nghề sơ chế cá linh thuê. Cá linh được thu mua bởi 1 người thương
lái từ Châu Đốc đến mua cá linh, thuê nhân công cắt bỏ phần đầu cá với giá 10.000đ/1
kg. Cá linh khi sơ chế xong (cắt bỏ đầu) được cho vào thùng nước muối khuấy cho
sạch vẩy rồi ướp muối và chở về Châu Đốc làm mắm. Theo thương lái tên L (đến từ
Châu Đốc) cho biết: năm nay (tức năm 2018) nước lên nhiều nên cá cũng nhiều. Cư
dân vùng An Giang sống dựa vào mùa nước nổi.
Hình 8: Sơ chế cá linh trước khi chở về Châu Đốc làm mắm (Châu Thành, An Giang) Ảnh: tác giả, 2018 Tại xã Châu Lăng, tôi khảo sát ở sóc Sà Ênh trên, Sà Ênh dưới (thuộc ấp Tà
On) và sóc Phnôm Pi (ấp Phnom Pi). Dọc đường một bên là núi và một bên là nhà dân.
Bà con Khmer ở đây làm ruộng dọc theo chân núi. Theo bà con cho biết ruộng gần
chân núi có giá cao hơn là ruộng xa chân núi bởi vì ruộng xa núi dễ bị ngập, chất
lượng lúa không cao. Hơn nữa, còn dễ thất bát do chuột quấy phá (Theo lời chị T.S 48
tuổi, tại sóc Sà Ênh dưới cho biết). Ruộng ở chân núi vào tháng 10 là những cánh đồng
7
xanh mướt, bà con nơi đây gieo trồng đồng loạt.
Xen với ruộng lúa là những cây thốt nốt. Cả đoạn đường từ Long Xuyên đến
Tri Tôn không thấy xuất hiện cây thốt nốt nào nhưng khi vừa đến Tri tôn là có rất
nhiều thốt nốt. Người Khmer ở Tri Tôn còn có nguồn lợi kinh tế khá lớn từ cây thốt
nốt, họ lấy nước thốt nốt về nấu đường hoặc bán lại cho các tiệm giải khát ven đường
bán nước thốt nốt tươi. Một lít nước thốt nốt được bán với giá 7.000 đến 8.000đ. Nước
thốt thốt được lấy từ hoa thốt nốt, nước này phải được nấu chín kĩ thì uống ngon, mát
và không bị đau bụng. Nước tươi nếu không nấu thì để được khoảng 24 giờ nhưng nếu
nấu sôi kĩ thì để được lâu hơn. Nước thốt nốt kèm với thốt nốt trái được bán với giá
15.000đồng/ ly. Theo chị X (có nghề bán thốt nốt) cho biết trước kia chị có nấu thốt
nốt làm đường nhưng giờ có con nhỏ và việc nấu đường khá mất thời gian và nguy
hiểm nên chị chỉ lấy lại từ những gia đình khác.
Theo sự giới thiệu của chị X, tôi đến nhà anh C.N (tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi)
có nghề nấu đường thốt nốt. Khi tôi đến gia đình đang dùng cơm nhưng cả nhà rất vui
vẻ đón tôi. Anh cho biết: “Đường thốt nốt được nấu từ nước cắt ra từ bông thốt nốt chứ
không phải từ trái thốt nốt. Hàng năm mùa khai thác và nấu đường thốt nốt rộ nhất từ
tháng 11 âm lịch và sẽ kéo dài đến mùa mưa năm sau. Đặc biệt, năm nào trời càng nắng
thì mùa khai thác nước thốt nốt sẽ càng kéo dài. Tuy nhiên, không chỉ vào mùa rộ mà
các tháng khác trong năm việc lấy nước cũng được thực hiện đều đặn. Công việc lấy
nước là công việc khá vất vả vì phải leo lên cây cao và nguy hiểm nên việc này thường
do đàn ông làm. Còn việc nấu đường sẽ do phụ nữ đảm trách. Nước thốt nốt nấu khoảng
3 - 5 tiếng thì cô đặc lại thành đường. Anh cho biết thêm, các gia đình ở phum hiện nay
còn rất ít hộ nấu đường. Ngoài nấu đường thốt nốt họ còn làm ruộng, nuôi bò mới đủ chi
phí cho gia đình bởi giá trị của đường thốt nốt hiện nay không cao và cung ít có sức hấp
dẫn đối với thị trường. Thốt nốt có vị ngọt đậm và có mùi đặc trưng nên có khi rất kén
người sử dụng. Từ trước đến nay, đường thốt nốt hầu như chỉ dùng để nấu chè, kho cá
hoặc làm ít món bánh như bánh bò thốt nốt. Nhìn chung, Tri Tôn nói riêng và An Giang
nói chung có nguồn lợi từ cây thốt nốt nhưng việc khai thác và quản bá chưa rộng. Đa
8
phần chỉ người miền Tây mới biết đến loại đường này.
Hình 9: Tác giả cùng gia đình anh C.N Ảnh: C.N (con gái anh C.N), 2018 Hình 10: Đường thốt nốt khi đã cô đặc Ảnh: tác giả, 2018
Nhà dưới chân núi và xen với đồng lúa. Nhà ở của người Khmer vùng này
không khác gì nhà của người Việt, nhà được xây tường kiên cố. Đa phần nhà của bà
con ở đây không làm nhà sàn mà ở nhà trệt, chỉ có vùng Châu Thành dọc theo lộ có
nhà sàn. Bà con cho biết nhà sàn để tránh nước ngập mùa lũ về. Năm 2018, bà con cho
biết là xả lũ nên nước về nhiều hơn.
Hình 11: Đường vào ấp Phnôm-Pi Ảnh: tác giả, 2018 Chỉ có nhà ở sóc Phnôm Pi là còn nhiều nhà đơn sơ. Quan sát cho thấy, sóc
Phnom Pi trước kia có nghề truyền thống là làm gốm: làm cà ràng, nồi đất, khuôn bánh
khọt… Đất làm gốm được lấy từ chân núi đem về sàng hết sỏi, đá rồi cho nước vào nhào
cho đất dẻo và mịn. Chị T.T.T (28 tuổi) cho biết: “Công việc làm cà ràng thường do
9
những người phụ nữ đảm trách. Với bàn tay khéo léo, người phụ nữ Khmer làm ra chiếc
cà ràng chắc chắn và tinh tế. Chiếc cà ràng làm xong phải phơi nắng rồi mới đem ra sân
đốt bằng rơm khoảng 30 phút”. Theo sự khảo sát của chúng tôi, tại ấp Phnom Pi hiện
nay chỉ còn có 5 hộ gia đình làm nghề này bởi số lượng người mua không nhiều và giá
thành chiếc cà ràng cũng không cao. Một số hộ gia gia đình ở Phnôm Pi hiện nay làm cà
ràng, khuôn bánh khọt theo sự đặt hàng của thương lái.
Hình 12: Tác giả với chị T.T.T Ảnh: N.K.S, 2018 Hình 12: Tác giả với sản phẩm cà ràng tại Phnôm- Pi Ảnh: N.K.S, 2018
Hình 13: Chị T đang làm cà ràng Ảnh: tác giả, 2018
Hình 14: Tác giả cùng chị T - người làm cà ràng ở ấp Phnôm-pi N.K.S, 2018 Đa phần bà con ở Tri Tôn đều sử dụng nước sạch. Theo T.R (68 tuổi) cho biết
xưa kia sóc sử dụng nước giếng đào nhưng giờ chỉ sinh hoạt bằng nước máy. Nước
uống thì phần nhiều bà con sử dụng nước đóng thùng (10.000đồng/ thùng). Khi được
hỏi về nước mưa thì bà con cho biết cũng không dám uống nước mưa nhiều nữa bởi
10
nước mưa giờ không còn sạch như ngày xưa.
Hình 15: Giếng nước cổ ở giữa phum Ảnh: tác giả, 2018
Hình 16: Nước máy dùng cho sinh hoạt hằng ngày Ảnh: tác giả, 2018 Ấp Phnom Pi hiện nay được biết đến không chỉ là nơi làm cà ràng nổi tiếng mà
giờ đây còn rất nổi tiếng với món đu đủ đăm. Khi tôi hỏi thăm đường tới Phnom Pi
người dân địa phương hỏi là đến ăn đu đủ đăm phải không nữa. Món đu đủ đăm được
bán rất nhiều ở đây. Có khoảng 6 đến 8 hộ gia đình bán món này. Đu đủ sống được bào
sợi rồi trộn với các loại gia vị như tỏi, ớt, đường, mắm ruốc, chanh và rau ngò, rau quế.
Thoạt nhìn như món gỏi của người Việt nhưng vị đặc trưng hơn bởi có mùi mắm ruốc.
Món đu đủ đăm được ăn kèm với món bò xỏ lụi nướng. Giá mỗi lụi bò chỉ từ 10.000
đồng.
Qua quan sát về trang phục, chúng tôi thấy trang phục của người Khmer nơi
đây cũng không khác gì trang phục của các tộc người khác. Chỉ còn một vài cụ già còn
mặc xà rông hoa văn sặc sỡ với áo cánh bằng vải thun.
11
Hình 17, 18: Trang phục của các cụ già ở ấp Phnôm-pi Ảnh: tác giả, 2018
Khí hậu An Giang vào tháng 10 tương đối mát mẻ. Trong chuyến điền dã,
chúng tôi vài lần phải ngừng lại vì có những cơn mưa bất chợt. Khi ngồi ở những tum
trò chuyện với bà con mà cảm nhận gió mát từ chân núi thổi tới. Tuy nhiên, theo lời kể
của các cụ già, vào mùa nắng nóng cũng cực nóng bởi sức nóng từ núi và từ ruộng toả
vào.
Điền dã tại Sóc Trăng
Nhật kí điền dã ngày 18-06-2018 tại khóm Cà Lăng A Biển, khóm Soài Côn,
khóm Cà Săng phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc trăng.
Dọc theo tuyến quốc lộ hướng từ Vĩnh Hải lên thị xã Vĩnh Châu chúng tôi đã
ghé Khóm Cà Lăng A Biển, khóm Soài Côn, khóm Cà Săng ở phường 2, thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc trăng. Được sự giới thiệu từ em Triệu Thanh Hùng đang là sinh viên
ngành văn hoá Khmer của trường Đại học Trà Vinh (cùng là người bản địa), chúng tôi
tìm đến nhà của ông T.N 76 tuổi ở khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh
Châu. Ông là Achar đám cưới, coi ngày tháng, là trưởng ban quản trị chùa Crò Săng
thuộc khóm Cà Săng, Phường 2, TX Vĩnh Châu. Theo ông: “Nước đóng vai trò rất
quan trọng trong trồng trọt không thể thiếu được. Ngày nay, thuận lợi có kinh, rạch để
lấy nước, khó khăn mưa nhiều dễ bị lụt ngập vì thoát không kịp. Ngày nay thì lấy nước
ngọt dễ dàng vì có thể khoan giếng nước ngầm để lấy nước ngọt tưới tiêu.”
Hình 19: Phỏng vấn ông T.N Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018 Theo sự giới thiệu từ ông T.N chúng tôi tiếp tục di chuyển đến nhà của ông T.D
(82 tuổi) ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng. Ông
là một người có uy tín trong sóc cũng là người có nhiều am hiểu về văn hóa Khmer.
Ông là một người nông dân, ngoài ra còn làm Achar coi ngày tháng cưới và các nghi lễ
12
trong chùa Crò Săng.
Hình 20: Phỏng vấn ông T.D Khóm Cà Lăng A Biển Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018 Đa số các hộ dân nơi đây đều có đất trồng hành tím và theo ông T.D cho biết:
“Trồng hành thì nguồn nước tưới chủ yếu là khoan giếng lấy nước ngầm để tưới đầu
giếng chứa nước ngọt để tưới, riêng nuôi tôm ở khóm Cà Lăng A Biển chủ yếu nhờ
vào nước mưa và chỉ làm một đến hai vụ vào mùa mưa”.
Ông T.D sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm nông. Khi
bước vào năm 12 tuổi ông đi tu theo truyền thống của gia đình và dân tộc. Ông tu học
ở chùa Sêrây Crò Săng nay thuộc khóm Cà Săng, phường 2, thị xã Vĩnh Châu. Trong
thời gian đi tu ông đã theo học tiếng Khmer, tiếng Pali ở nhiều điểm chùa khác nhau
trong tỉnh Sóc trăng. Năm 30 tuổi ông hoàn tục và cưới vợ sau đó tiếp tục theo nghề
nghiệp làm nông của gia đình. Ông kể rằng: “Khi hoàn tục về tôi đã có một số kiến
thức nhất định về làm lúa, bởi vì khi tu có phụ trồng lúa cho chùa. Tuy nhiên khi hoàn
tục tôi đã cố gắng học hỏi các cụ già về cách trồng hành, cách lấy nước tưới hoa màu
để có thêm kinh nghiệm giúp gia tăng năng suất”.
Với sự cố gắng học hỏi từ các bậc tiền bối ông đã tích lũy được một vốn kinh
nghiệm dày dặn trong việc làm nông. Ông được xem là một người nông dân tiêu biểu
của phum bởi vì thường xuyên giúp đỡ bà con nông dân trong việc làm mương thoát
nước, chỉ cách phun thuốc trừ sâu và chọn nơi khoan giếng nước ngầm để tưới tiêu.
Không những thế ông còn được coi là một người thầy về mặt phong thủy. Do lúc tu
hành ông chăm chỉ học hỏi kinh sách, phong thủy nên khi hoàn tục ông thường được
bà con nhờ cậy việc làm ông mai coi ngày lành tháng tốt để cưới xin, coi ngày xây cất
nhà cửa và làm Achar cho các lễ lớn của phum, sóc. Đồng thời ông cũng là phó ban
13
quản trị chùa Sêrây Crò Săng. Hiện tại, tuy đã hơn 80 tuổi và đã nghỉ làm nông nhưng
ông vẫn được bà con quý mến và xem nhưng là một trưởng làng dày kinh nghiệm của
địa phương.
Cũng trong ngày 18 tháng 6 năm 2018 buổi chiều chúng tôi tìm đến nhà ông
T.P 63 tuổi cũng ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc
Trăng. Ông là một người nông dân đi đầu trong sóc về việc làm lúa và trồng hành tím
ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc trăng.
Hình 21: Phỏng vấn ông T.P Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018 Ông T.P cho biết: “Ở nơi đây ngày thì chỉ nhờ vào nước mưa là chủ yếu nên
kinh nghiệm cũng hạn chế. Tuy nhiên, họ cũng có cách kiếm chỗ đất tốt cỏ mọc nhiều
để khoang giếng lấy nước ngọt tưới cây trồng, riêng nuôi tôm tại khóm mình đa số vẫn
dựa vào nước mưa chờ vào mùa mưa thấy hầm đủ nước thì thả giống ngay”.
Ngày 19 tháng 06 năm 2018 chúng tôi đến với Khóm Cà Săng theo sự giới
thiệu cũng ông T.D để gặp Ông T.S 43 tuổi. Nghề chính của gia đình ông là nông dân
trồng hành và nuôi tôm sú.
14
Hình 22: Phỏng vấn ông T.S Khóm Cà Săng, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018
Theo ông cho biết: “Khi trồng trọt hay nuôi tôm trước khi xuống giống người
Khmer mình hay cúng trước các thức cúng bánh trái ngọt hoặc thức mặn tùy ý (gọi là
sen ma chas tức ma chas đây) lúc này khi cúng người ta thường hứa với các vị thần là
nếu trúng mùa thì chúng con sẽ cúng tạ ơn bằng đầu heo, gà, vịt .... và khi thu hoạch
thì họ sẽ cúng trả hứa cho các vị thần như đã hứa.”
Chiều ngày 19 tháng 06 năm 2018 theo sự giới thiệu của ông K.H ở khóm Soài
Côn, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng chúng tôi đến nhà của ông T.R 56
tuổi ở Khóm Soài Côn, Phường 2, TX Vĩnh Châu, Sóc Trăng.
Hình 23: Phỏng vấn ông T.R Khóm Soài Côn, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018
Ông T.R là một người có uy tín và kinh nghiệm sản xuất ở nơi đây. Ngày xưa
từng tu học tại chùa Soài Côn và làm trụ trì, sau khi hoàn tục ông cưới vợ và bắt đầu
trồng trọt, nuôi tôm ở khóm Soài Côn. Theo ông cho biết: “Nước rất quan trọng trong
việc làm lúa và nuôi tôm. Đối với nước trồng lúa phải là nước ngọt còn nước nuôi tôm
là nước mặn. Về mặt thuận lợi thì dễ dàng lấy nước từ kênh rạch có cả mặn lẫn ngọt.
Riêng khó khăn thì không có khó khăn nhiều ít bị hạn cũng ít bị ngập do ở đây thoát
nước khá tốt”.
15
Hình 24: Giống tôm sú chuẩn bị được thả xuống ao Hình 25: Dấu hiệu ao đã thả giống tôm để người khác biết và không xuống ao
Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018
Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018
Hình 26: Cúng trước khi thả tôm Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018
CÁC ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC CHỌN PHỎNG VẤN
Phỏng vấn tại Sóc Trăng
Ông T.N (76 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu.
Ông T.P (63 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc
Trăng.
Ông T.R (56 tuổi), Khóm Soài Côn, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng.
Ông T.R (43 tuổi), Khóm Cà Săng, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng.
Ông T.D (82 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh châu, Sóc
Trăng.
Phỏng vấn tại An Giang
Bà T.S 48 tuổi, tại sóc Sà Ênh dưới (ấp Tà On), huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Anh C.N (nghề nấu đường thốt nốt) tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi, huyện Tri
Tôn, tỉnh An Giang.
Chị T.T.T (nghề làm cà ràng) tại ấp Phnom-Pi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Phỏng vấn tại Trà Vinh từ năm 2014 đến năm 2019
Ông T.P (62 tuổi).
Ông T.Đ (43 tuổi).
Bà T.T.L (40 tuổi).
16
Bà L.N (65 tuổi).
PHỤ LỤC 2: HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ
Hình 2: Sư Khmer thực hiện nghi thức rảy nước Hình 1: Phật tử Khmer thực hiện nghi thức tắm Phật trong lễ Chôl - Chnăm – Thmây Ảnh: tác giả, 2017 Ảnh: tác giả, 2017
Hình 3,4: Nghi thức tắm sư sãi tại Chùa
Ảnh: tác giả, 2017
Hình 6: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức rảy nước cho tất cả Phật tử
17
Ảnh: tác giả, 2017 Hình 5: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức rảy nước cho những Phật tử lớn tuổi Ảnh: tác giả, 2017
Hình 8: Bè chuối trong lễ Sen Đôn - ta Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 7: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức đọc kinh, xối nước cho Phật tử Ảnh chụp tại chùa Âng, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2012
Hình 10: Mang thả bè chuối Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 9: Khấn vái trước khi mang đi thả bè chuối Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015
Hình 12: Nữ thần đất ở Campuchia Ảnh chụp tại Campuchia Ảnh: tác giả, 2017
18
Hình 11: Nữ thần đất trong bệ tượng Phật ở Trà Vinh Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015
Hình 14: Neak – ta ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 13: Neak – ta trong chùa Ktưng ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018
Hình 16: Cờ cá sấu trong lễ hội Khmer
Ảnh chụp tại chùa Ktưng, Trà Vinh Hình 15: Miếu thờ Neak – ta ở Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018
Ảnh: tác giả, 2018
19
Hình 18: Đua ghe Ngo ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 17: Rắn 7 đầu trong chùa Hang ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016
Hình 19: Giếng cổ ở giữa rẫy Ảnh: tác giả, 2012
Hình 20: Nước máy ở Phnôm- Pi (Tri Tôn, An Giang) Ảnh: tác giả, 2018
Hình 21: Mùa hạn làm cho Ao Bà Om cạn nước Ảnh: tác giả, 2016 Hình 22: Trạm cấp nước sạch cho người dân ở Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2012
20
Hình 23: Nhà ở của người Khmer Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018 Hình 24: Bên trong nhà ở của người Khmer Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018
Hình 25, 26: Nhà sàn trong chùa Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016
Hình 28: Nhà ở của người Khmer ở An Giang Hình 27: Nhà sàn trong chùa Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016 Ảnh: tác giả, 2018
Hình 29: Bún nước lèo của người Khmer Trà Vinh Hình 30: Canh Sim-lo, và một số món ăn của người Khmer Trà Vinh
21
Ảnh: tác giả, 2012 Ảnh: tác giả, 2016
Hình 31, 32: Bún cá của người Khmer ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018
Hình 33: Món đu đủ đăm của người Khmer ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018
22
Hình 35: Lò nấu đường thốt nốt ở Châu Lăng, An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 34: Nước thốt nốt tươi, trái thốt nốt và đường thốt nốt được bán ven đường ở Châu Lăng, An Giang Ảnh: tác giả, 2018
Hình 36: Bánh bò thốt nốt ở An Giang
Hình 37: Hàng cây thốt nốt dưới chân núi An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh: tác giả, 2018
Hình 38: Bánh xèo có thêm trứng gà của người Khmer An Giang
Ảnh: tác giả, 2018
Hình 38: Món Bốk-Lhông của người Khmer Trà Vinh (món ăn có sự kết hợp vị chua, chát, các loại rau, quả rừng chấm với mắm) Ảnh: tác giả, 2016
23
Hình 40: Trang phục đi chùa (được choàng khăn) của cụ bà người Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016 Hình 39: Trang phục cổ truyền của người Khmer Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018
Hình 42: Trang phục biểu diễn trong lễ hội của các cô gái Khmer Ảnh: tác giả, 2018 Hình 41: Trang phục cưới Khmer Ảnh chụp tại Bảo tàng Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016
Hình 43: Phụ nữ trung niên người Khmer đi chùa trong trang phục quần Âu, áo thun Hình 44: Phụ nữ Khmer hiện nay mặc bộ thun màu trơn hoặc có hoa văn khi ở nhà Ảnh: tác giả, 2018
Ảnh: tác giả, 2016
24
Hình 45: Dao quéo Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 46: Nọc cấy và cuốc Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018
Hình 48: Gàu tát nước Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Hình 47: Vòng hái Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018
Ảnh: tác giả, 2018
Hình 49: Hành tím Vĩnh Châu khi thu hoạch xong được cột lại để bán cho thương lái Hình 50: Rẫy khổ qua được trồng bằng màn phủ (để tránh cỏ) và được bón bằng phân hoá học
25
Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh chụp tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: tác giả, 2014
PHỤ LỤC 3: CÁC TRUYỆN DÂN GIAN KHMER3
Sự tích sấm sét
Ngày xửa ngày xưa, cách nay đã lâu lắm, chằn Ra-ma-sua và nàng tiên Mê-kha-
la cùng theo học phép thần thông của một vị đạo sĩ. Cả hai đều chăm học nên chẳng
bao lâu họ đều lĩnh hội được nhiều phép thuật kỳ tài. Vị đạo sĩ ấy thấy cả hai học hành
chăm chỉ thì có lòng thương mến. Khi truyền hết những phép thuật thần thông mà
mình có, ông muốn thử tài Ra-ma-sua và Mê-kha-la nên bảo rằng:
- Này, ta cho hai con mỗi đứa một chén ngọc. Trong buổi sáng mai, trong hai
con, ai đem đến cho ta đầy một chén sương mai, ta sẽ biến nó thành viên ngọc quí Ma-
nô-ha-ra. Kẻ nào có được ngọc này, thì muốn gì được nấy.
Sáng hôm sau, cả hai người học trò đều dậy rất sớm. Chằn Ra-ma-sua cầm chén
hứng sương đọng trên lá cây rừng. Chằn chạy khắp rừng suốt buổi sáng, nhưng hứng
mãi vẫn không đầy chén sương. Còn nàng Mê-kha-la, khôn ngoan hơn, lựa một miếng
vỏ cây xốp để thấm các giọt sương đọng trên lá. Rồi nàng vắt sương vào chén. Không
bao lâu nàng đã được một chén sương đầy đem về dâng cho thầy.
Vị đạo sĩ biến chén sương thành viên ngọc, trao cho nàng và dặn:
- Ngọc này có nhiều phép lạ. Nếu đưa ngọc lên trước trán xoay tròn thì con ước
điều gì cũng sẽ được toại nguyện và con có thể nhờ ngọc mà bay lên trời đi khắp nơi
nhanh như gió.
Nàng tiên Mê-kha-la nhận được ngọc từ tay thầy, cúi đầu bái biệt thầy, rồi xoay
ngọc tung mình bay lên không thẳng về biển, nơi quê hương của nàng.
Khi chằn Ra-ma-sua kiếm được đầy chén sương trở về thì đã muộn. Đạo sĩ bảo:
- Con về trễ quá, thầy đã biến sương thành ngọc cho Mê-kha-la rồi. Tiếc quá,
3 Luận án sử dụng các truyện dân gian Khmer liên quan đến giải thích các hiện tượng tự nhiên, các quá trình ứng xử với tự nhiên của người Khmer: ứng xử với nước, núi, động vật, thực vật. Các truyện dân gian Khmer được trình bày ở phần phụ lục này được trích từ tài liệu Huỳnh Ngọc Trảng (sưu tầm và biên soạn) (2002), Truyện dân gian Khơme (tập 1), Nhà xuất bản Đồng Nai.
26
thầy không thể biến sương thành viên ngọc thứ hai được.
Chằn Ra-ma-sua nghe đạo sĩ bảo thế lòng đau như cắt, oà lên khóc mãi không
thôi. Ra-ma-sua không chịu trở về, cứ ngồi cạnh thầy khóc mãi. Vị đạo sĩ rất thương
chằn nhưng không biết làm sao đành dỗ dành:
- Thôi con bớt buồn, để thầy cho con một cái búa. Con có thể dùng búa này đấu
với Mê-kha-la để giành lại viên ngọc. Bạn con thường hay bay lên trời tắm mưa. Con
hãy chờ dịp ấy mà đón. Con hãy nhớ kỹ là khi tung búa đánh, con phải nhắm mắt lại.
Chằn Ra-ma-sua được búa mới chịu từ biệt thầy. Chằn ra ngoài bờ biển ngồi
chờ trời mưa. Quả nhiên, khi trời đổ mưa, chằn Ra-ma-sua thấy Mê-kha-la từ dưới
nước tung người bay lên mây. Chằn theo lời thầy dặn, nhắm mắt tung búa đánh Mê-
kha-la. Lưỡi búa thần loé lên một lằn sáng trên không và phát ra tiếng nổ vang dội.
Nhưng vì nhắm mắt để đánh nên không bao giờ Ra-ma-sua đánh trúng đối thủ. Do vậy
trận chiến cứ kéo dài mãi đến bây giờ. Mỗi lần chuyển mưa có sấm sét, chớp giật là do
vậy.
Theo lời kể của ông Thạch Bun
(Trường Khánh, Long Phú, Hậu Giang)
Sự tích Mưa, Gió, Mặt Trời và Mặt Trăng
Ngày xưa, ở một sóc nọ có một cặp vợ chồng nông dân nghèo. Người chồng
chồng bị bệnh qua đời sớm để lại bốn đứa con thơ. Ruộng rẫy chẳng có là bao nên
người phụ nữ goá chồng ấy phải làm lụng vô cùng cực nhọc từ việc mót lúa, hái rau,
đào củ đến việc đi làm thuê, làm mướn cố gắng nuôi con nên người theo lời dặn của
chồng trước khi hấp hối.
Một hôm, có người bà con ở sóc bên đến mời bà đi dự đám làm phước. Thương
các con lâu ngày chưa có được miếng ngon bỏ vào mồm bà đành nhường cho các con
đi thay mình.
Khi đến nhà người bà con, thấy mâm cao cỗ đầy, thịt cá, bánh trái ê hề, ba
người anh lớn mải lo ăn uống , no nê, vui cười hỉ hả. Riêng người em út, khi ăn miếng
ngon vẫn nhớ đến người mẹ tần tảo suốt một đời hy sinh cho con cái ở nhà. Anh ta bèn
lấy lá, tìm cách gói riêng một gói bánh để mang về cho mẹ.
Trên đường về nhà, ba người anh lớn phát hiện em mình có gói quà mang về
cho mẹ nên đề nghị đem chia nhau ăn nốt. Người em út nhất quyết không chịu. Nhưng
27
rồi bằng sức mạnh, ba người anh giật được gói bánh, đem lại gốc cây gần nhất, chia
nhau ăn sạch. Người em út rất căm giận sự bất hiếu của các anh lớn nhưng chẳng biết
làm gì hơn là oà lên khóc.
Về đến nhà, người mẹ thấy người em út đi ăn cỗ về nhưng lại không vui, đôi
mắt đỏ hoe nên hỏi. Người em út thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người mẹ
vừa thương vừa giận. Nhưng rồi, bà buột miệng trách: “Ba đứa bay, sống chẳng biết
nghĩ đến ai, mai sau có chết cũng chẳng ai quý, may ra có thằng Út”.
Về sau, ba người anh qua đời hoá kiếp thành Mưa, Gió và Mặt trời. Mưa, Gió
và Mặt trời ngoài sự hữu ích mang đến cho cuộc sống loài người thì cũng mang lại
nhiều bất lợi, tai hoạ như mưa dầm gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây
cối hoặc nắng hạn làm cho đất ruộng nứt nẻ, không ai gieo cấy được. Đó là dấu ấn về
tính cách của ba người anh bất hiếu, ham ăn chỉ riêng người em út với bản tính hiền
lành nên hoá thành Mặt Trăng với ánh sáng hiền diệu, tươi mát muôn nơi.
Cá thác lác đi xin lúa
Thưở xa xưa, loài người không đông đúc như ngày nay và thiên nhiên cũng dồi
dào hoa trái. Con người đi hái lượm không phải nhọc nhằn lắm cũng có thể no bụng.
Lúc bấy giờ con người không phải gieo cấy lúa công phu và cực nhọc mà tự nhiên lúa
mọc đầy đồng. Đến mùa lúa chín vàng, rồi tự do bay về mọi nhà, rào rào như ong về
tổ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị kho lẫm để đón lúa về, không
phải ra đồng gặt hái, gồng gánh vất vả.
Một hôm lúa chín bay về cả đàn định đổ xuống một gia đình nọ, thì gặp phải
một người đàn bà quét sân. Là một người vợ lười biếng, nên từ mấy hôm trước, mặc
dù người chồng đã nhắc chị dọn dẹp trong ngoài để đón lúa về, người đàn bà này vẫn
chưa rục rịch. Mãi đến khi lúa bay về, chị mới cầm chổi quét được mấy nhát. Tiện có
cây chổi trong tay, lại vốn là người lười nhác, thiếu ý thức, nên đã vung chổi tứ tung,
xua đuổi lúa. Bị đánh bất ngờ, cả bầy lúa hốt hoảng bay vội vào núi, trốn vào trong
một khe đá hẹp, không dám về nhà ai nữa. Năm ấy, cả vùng, mọi nhà đều không có
thóc ăn. Người và súc vật đều đói khổ, điêu đứng.
Cá thác lác ở dưới sông thấy người đói khổ phải đi hái rau, đào củ năn, củ chuối
để ăn trừ bữa sống qua ngày, lấy làm cảm động. Cá thác lác chúa bèn rủ cả cháu con,
chắt, chít của mình, kéo nhau thành đàn lách sâu vào khe núi để tìm gặp thần lúa, yêu
cầu thần lúa trở về để mọi người, mọi nhà được no ấm. Đường đi vô cùng vất vả, đàn
28
cá thác lác phải vượt qua những thác ghềnh hiểm trở, những khe đá khúc khuỷu,
những chỗ nước cạn quanh co. Cuối cùng đàn cá thác lác vẫn đến được nơi thần lúa ẩn
nấp. Mặc dù cá thác lác đã đem hết lời nài nỉ thần lúa vẫn chưa hết sợ, không dám trở
về với con người. Nhưng cá thác lác vẫn nài nỉ, khuyên lơn mãi làm cho thần lúa vẫn
phải xiêu lòng, thuận trở về, với điều kiện là ở ngoài đồng ruộng chứ không dám vào
nhà. Từ đó, con người phải làm lụng chăm sóc cây lúa vất vả. Khi lua chín phải lo gặt
hái, gồng gánh chuyên chở về nhà.
Cá thác lác vì thương loài người, trong chuyến đi tìm thần lúa ấy đã phải len lỏi
qua các khe hẹp, bị đá chẹt, nên thân hình cá mới dẹp lép và mang những vết trầy sướt
như ta thường thấy trên thân cá ngày nay.
Truyền thuyết này ngày nay vẫn còn lưu hành phổ biến trong đồng bào
Khơme Nam Bộ. Để nhớ ơn loài vật đã tận tình với con người, hàng năm trên mâm
cơm cúng thần lúa, đồng bào thường nước một xâu cá thác lác để bên cạnh những
bát gạo mới đầu mùa.
Theo lời kể của cụ Thạch Vinh
(ở Giồng Tranh, Cửu Long)
Khảo dị 1
Ngày xưa, lúa không có vỏ lại to bằng quả dừa. Người ta cứ hái lúa về ăn mà
không cần nấu nướng gì cả. Nhưng về sau, vì loài người càng ngày càng lười biếng và
tham lam nên lúa có vỏ và người ta muốn ăn phải giã lúa cho tróc vỏ đem nấu chín
mới dùng được.
Vào thời đó, có một người đàn bà xấu tính và nóng nảy. Một hôm bà giã lúa,
lúa văng vỏ làm lấm bẩn người, khiến bà buộc miệng chửi lúa. Hồn lúa giận loài người
chửi mình, trốn biệt vào một khe đá ngoài một hòn đảo xa.
Từ đó, nạn đói kéo dài, loài người và muôn vật không có lúa ăn, khốn khổ vô
cùng. Cá thác lác thấy cảnh đói bèn len lỏi ra đảo, len vào tận khe đá xin thần lúa trở
về.
Khảo dị 2
Xưa kia, lúa “sờ-râu phôc-sa-ly” mọc đầy đồng. Khi lúa chín đến đêm tự bay về
nhà rơi vào bồ không phải gặt hái gì cả.
Một hôm nọ, có đôi trai gái đang trò chuyện bên cạnh bồ lúa xào xạc bay về rơi
vào bồ ào ào như mưa đổ làm cô gái không nghe được người yêu mình nói gì. Tức
giận, cô gái lấy một khúc củi gõ mạnh vào bồ lúa khiến hồn lúa sợ hãi bay thoát, trốn
29
biệt vào khe đá rất hẹp không ai có thể len vào được.
Từ đó, dân chúng đói khổ vô cùng. Họ tụ họp nhau lại nhà cá “kom-phơ-lang”
có thân hình dẹp và nhờ cá len vào khe đá cầu xin hồn lúa trở về.
Khảo dị 3
Ngày xưa, đến mùa lúa chín, mỗi nhà phải quét dọn sân trước cho sạch sẽ để
đón lúa về. Vào thuở ấy, hạt lúa to và dài bằng chiếc thuyền độc mộc, tự nó lăn như
một thân cây ngoài ruộng về nhà. Đến bữa ăn, người ta chỉ cần lấy dao xắn bớt một
miếng để dùng từng bữa một.
Một ngày kia, lúc lăn đến nhà một kẻ lười biếng để sân dơ bẩn, không quét dọn
gì cả. Lúa giận người không quí trọng mình, vỡ ra từng mảnh nhỏ thành hạt lúa nhỏ
như ngày nay.
Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức
Thưở ấy, nhà vua có một nàng công chúa, tuổi vừa đôi mươi, xinh đẹp vô cùng.
Tiếng đồn về công chúa lan truyền đi khắp nơi, từ biển xa đến núi cao.
Một hôm, Niếc-tà Phnum nghe tiếng công chúa xinh đẹp, bèn mang lễ vật đến
xin vua cha cưới công chúa làm vợ. Nhà vua thấy Niếc-tà Phnum mặt mũi khôi ngô,
ăn nói đĩnh đạc, hoạt bát, nên thuận gả công chúa cho chàng.
Trong lúc lễ cưới linh đình giữa Niếc-tà Phnum và công chúa đang diễn ra ở
cung vua thì có tin Niếc-tà Tức ở tận biển Đông, vì nghe đồn công chúa xinh đẹp, nên
cũng mang lễ vật đến hỏi chàng.
Vì đến chậm, Niếc-tà Tức đành phải mang lễ vật trở về. Tức giận vì có kẻ đã
nhanh chân trước mình chỉ một bước mà được người đẹp, Niếc-tà Tức bèn làm phép
dâng nước lên cao, dấy lên những đợt sóng thần cuồn cuộn ập vào tới tấp nhằm uy
hiếp kinh thành để cướp lại cho bằng được công chúa.
Nhưng Niếc-tà Phnum cũng chẳng phải vừa. Chàng trổ hết mọi khả năng để bảo
vệ hạnh phúc vừa đạt được, và cũng để tỏ cho vua cha thấy được tài nghệ của mình.
Niếc-tà Phnum đã dùng phép thuật xây một bức tường đá vững chắc quanh cung thành
của vua cha, để chống lại những đợt sóng thần ồ ạt và dồn dập của Niếc-tà Tức. Hễ
nước bên ngoài dâng càng cao, thì thành càng được tăng thêm một mức, hễ sóng thần
càng lớn, thì thành càng được bồi trúc vững chắc hơn.
Cuộc đọ sức của đôi bên diễn ra khá ác liệt và dai dẳng nhiều ngày làm cho
ruộng, vườn, đất đai ngập nước lênh láng. Cuối cùng, Niếc-tà Tức thấy không thể
thắng được đối phương đành phải rút nước, đưa sóng về biển. Tuy vậy, nỗi tức giận
30
vì không lấy được công chúa vẫn không thể nào nguôi ngoai trong lòng Niếc-tà
Tức. Cho nên, hằng năm Niếc-tà Tức vẫn dâng nước lên đánh Niếc-tà Phờ-num một
lần. Khi hai bên đánh nhau như thế thường gây ra lụt lội làm thiệt hại hoa màu, cây
trái của nhân dân vô kể.
Ghi theo lời ông Sơn Quơn (Giồng Tranh)
Sự tích Ao Bà Om
Ngày xưa, ở vùng Trà Vinh, hàng năm cứ đến mùa khô, nước ngọt rất khan
hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, nứt nẻ, cây cỏ xơ xác, tiêu điều. Do vậy, đời sống nhân dân
trong vùng rất cơ cực.
Cũng vào thuở ấy, trong nhân dân có chuyện tranh chấp kéo dài đã nhiều năm
mà vẫn chưa giải quyết được. Đó là chuyện hai bên nam nữ không bên nào chịu đứng
ra đi cưới bên nào. Phía bên con trai thì đòi các cô gái phải đứng ra cưới họ về làm
chồng. Ngược lại phía bên các cô thì buộc các chàng trai phải đi hỏi họ về làm vợ.
Đương nhiên là kẻ đứng ra cưới người khác giới phải gánh vác mọi tổn phí về lễ lạc.
Trong lúc nhân dân trong vùng bàn chuyện đào ao để lấy nước ngọt giữa mùa khô hạn,
có người bàn nên nhân cơ hội này tổ chức cuộc thi giữa hai bên nam nữ, và phía bên
nào thua cuộc lần này sẽ chịu trách nhiệm đứng ra lo liệu việc cưới xin. Ý kiến đó
được nhiều người ưng thuận bởi vì nó vừa giải quyết được việc cứu hạn, mọi người sẽ
có nước dùng, vừa kết hợp giải quyết được sự tranh chấp kéo dài, chưa có lối thoát.
Thế là sau khi bàn bạc, họ giao hẹn với nhau: Trong một đêm, mỗi bên nam và nữ đào
riêng một cái ao, bên nào đào sâu hơn, nước nhiều hơn sẽ thắng cuộc.
Đêm hôm ấy, khi mặt trời vừa tắt, hai bên nam nữ trong vùng tập hợp nhau lại,
rồi chia làm hai nhóm: nhóm nữa đào một ao vuông ở phía Đông, nhóm nam đào ao
tròn ở phía Tây. Cả hai bên đều ra sức làm việc cật lực, người đào, người gánh, làm
chẳng ngơi tay.
Đến nửa đêm, bà Om, người điều khiển công việc bên phía nữ nảy ra một kế để
đánh lừa bên nam. Bà cho người đốn một cây tre thật dài dùng làm sào, đem dựng trên
một gò đất cao về hướng Đông. Trên ngọn sào có treo một chiếc lồng đèn, bên trong
thắp một ngọn đèn dầu leo lắt.
Về phía nam, ao của họ lúc này đào được khá sâu và cũng đã có nước, mọi
người đều thấm mệt. Lại thêm tâm lý chủ quan cố hữu của những anh đàn ông về sức
31
mạnh của mình, họ nghĩ rằng bên phía nữ khó mà đuổi theo kịp được họ. Vừa lúc họ
thấy ngọn đèn xuất hiện ở hướng Đông mà tưởng nhầm là sao mai đã mọc, cho là trời
sắp sáng rồi bèn rủ nhau về nhà nghỉ.
Trong khi đó, bên phía nữ mọi người vẫn cặm cụi cố sức đào cho đến sáng
bạch mới về. Quả nhiên sự kiên trì cộng với mưu trí của họ, họ đã làm cho đối
phương thua cuộc.
Sáng hôm ấy, mọi người ra xem thì rõ ràng ao của bên phe nữ vừa to, vừa sâu
hơn ao phe nam. Thế là phe nam chịu thua cuộc. Từ đó, họ phải chịu thực hiện lời cam
kết: đi cưới phụ nữ về làm vợ. Dân chúng trong vùng có được ao chứa nước ngọt dùng
quanh năm.
Để ghi công người phụ nữ mưu trí và giỏi giang đã góp phần giành được
thắng lợi này, người ta gọi ao nước ngọt ấy là ao Bà Om. Tên gọi ấy còn truyền mãi
đến ngày nay.
Theo lời kể của ông Sáu Thanh
Khảo dị 1:
Có người cho rằng, trước kia quanh bờ ao này có mọc nhiều rau mò om (một
thứ rau thơm) nên thoạt đầu người ta gọi là ao Mò-om, rồi dần dần gọi trại ra thành
ao Bà Om.
Khảo dị 2:
Lại có người cho rằng trước kia ở đây có đền thờ thần Pờ-rặc In (Thần In-đra -
Ấn Độ) tức là Đế Thiên mà dấu vết của đền thờ này là ngôi chùa bên cạnh ao, có tên
là chùa “Ông”. Do vậy dân chúng gọi là cái ao gần chùa này là ao Pờ-rặc In (hay gọi
trại ra là “ông”, và về sau gọi là Bà Om).
Khảo dị 3:
Truyện khác kể rằng: Ngày xưa, hoàng tử Pa-tu-nà-vông cùng em gái xuống ở
vùng này. Hoàng tử ở tại Pơ-ra-sát, tức là sóc Thác, cách ao Bà Om chừng hai cây số
và công chúa ở tại chùa Ông, bên cạnh ao Bà Om bây giờ. Vì không tìm được người
vừa ý làm vợ, nên hoàng tử định kết hôn với em gái.
Hoàng tử đến gặp em gái tỏ bày ý định nhưng bị em gái cự tuyệt. Sau đó, công
chúa sai quân hầu đào hào đắp luỹ quanh dinh để ngăn không cho người anh loạn luân
của mình đến nữa. Công chúa cũng sai đào một cái ao lớn để tắm cạnh đó, và cắt bốn
32
tỳ nữ là bà On, bà Inh, bà Sun, bà Son canh gác. Do việc bà On là người đứng đầu chỉ
huy đám tỳ nữ ấy nên dân chúng quanh vùng gọi cái ao ấy là ao bà On, rồi dần dần về
sau gọi trại thành Ao Bà Om.
Khảo dị 4:
Truyện kể rằng thuở nọ vùng Trà Vinh thuộc quyền cai trị của một nhân vật tên
là Pa-tu-ma-vông. Pa-tu-ma-vông rất bạo ngược. Hắn ra lệnh buộc dân chúng trong
vùng ai có gái đẹp phải đem dâng cho hắn, nếu không sẽ bị hắn xử phạt rất nặng nề.
Ngoài ra, hắn còn làm đảo lộn phong tục tập quán lâu đời ở đây: bắt con gái cưới con
trai về làm chồng. Nhiều người bất bình, nhất là nữ giới. Họ cử người đến yêu cầu Pa-
tu-ma-vông bãi bỏ tục con gái phải đi cưới chồng. Pa-tu-ma-vông đã tổ chức ra việc
hai bên nam nữ đào ao thi, bên nào thua phải đứng ra cưới người bên phe thắng. Bên
phía nữ sợ mình yếu, sức thua đàn ông, nên mới lập đánh lừa, bửa đêm thả một chiếc
đèn lồng lơ lửng trên không về hướng Đông. Phe nam nhìn thấy tưởng là sao mai mọc
bèn nghỉ, ra về. Nhờ vậy đến sáng hôm sau ao của phụ nữ đào được sâu hơn. Nam giới
bị thua cuộc phải đứng ra cưới nữ giới về làm vợ.
Sự tích giếng chị và giếng anh
Thưở ấy, cuộc tranh chấp giữa một bên là những chàng trai, một bên là những
cô gái kéo dài trong nhiều năm liền vẫn không sao giải quyết được. Bên nam đòi bên
nữ phải đi cưới họ về làm chồng, ngược lại bên nữ buộc bên nam phải đứng ra đi cưới
họ về làm vợ.
Cuối cùng cả hai bên cùng thoả thuận tổ chức một cuộc thi đào giếng: trong
một đêm mỗi bên đào một cái, bên nào hoàn thành sớm, giếng sâu, nước nhiều thì
được cuộc, Bên thua cuộc phải đứng ra cuới bên thắng cuộc.
Đêm hôm ấy, họ cùng nhau tổ chức cuộc thi. Cả hai bên đều làm việc rất hăng
say. Đến nửa đêm, bên nữ vì làm việc cật lực, mồ hôi nhễ nhại, nên họ cởi cả áo cho
đỡ vướng. Trong lúc đó bên phía những chàng trai cho người lén bò qua dò xét tình
hình. Bắt gặp cảnh tượng bất ngờ như vậy, người được phái đi thám thính chỉ biết
ngây ra mà nhìn, quên phứt việc trở về báo cáo cho cánh đàn ông. Chờ đợi mãi không
thấy tăm hơi, họ bèn cử toán khác đi xem xét tình hình. Cũng không hơn gì toán đi
trước, toán này cũng bị “sức hút” của những cơ thể đầy sức sống của các cô gái đang
làm việc dưới ánh trăng làm cho họ mụ mẫm quên mất nhiệm vụ được giao. Toán thứ
33
ba rồi toán thứ tư được phóng đi từ bên phe đàn ông cũng rơi vào tình trạng tương tự.
Khi tiếng gà sóc gáy rộ, họ mới sực tỉnh khỏi cơn mê. Họ quay về chỗ giếng đang đào
dở, thì chân trời từ phía Đông cũng đã rạng hồng báo hiệu cuộc thi kết thúc.
Sáng hôm ấy, kết quả cuộc thi đã được công bố với một tỷ lệ chênh lệch khá bất
ngờ. Giếng của cánh đàn ông thi nông choèn, còn giếng của cánh nữ thì vừa sâu lại
vừa rộng. Những chàng trai đành nhận phần thua. Và cũng từ ấy bên nam phải đứng ra
đi cưới bên nữ.
Ngày nay ở Vũng Thơm vẫn còn hai chỗ đất trũng, vết tích của hai cái giếng.
Giếng phía Đông được gọi là Sờ-rạc Sờ-rây (tức là giếng chị) và giếng phía Tây được
gọi là Sờ-rạc Bong (tức là giếng anh).
Theo lời kể của ông Phái Kim Suôl
(thị xã Sóc Trăng)
Khảo dị 1
Ngày xưa ở Vũng Thơm không có nước ngọt, dân chúng nghèo nàn, cơ cực vì
đất không sinh sôi nẩy nở được gì. Dân chúng ngày đêm van vái cầu xin Phật trời cứu
giúp cho một mạch nước trong lành.
Lời cầu khẩn đến tai Ngọc Hoàng. Ngài đang nghĩ cách giúp đỡ thì tiên ông và
tiên bà có chuyện hiềm khích nhau. Tiên ông cho rằng tiên bà giặt lụa làm ô uế nước
suối. Tiên bà bảo tiên ông lùa trâu xuống suối làm bẩn nước giặt lụa.
Ngọc Hoàng nghe chuyện truyền cho tiên ông và tiên bà nội trong đêm rằm
phải đào mỗi người một giếng nước ngọt ở Vũng Thơm. Bên nào đào giếng sâu và có
nhiều nước ngọt thì thắng kiện.
Vầng trăng vừa ló dạng thì hai toán tiên ông và tiên bà cỡi mây hạ phàm chọn
địa điểm khởi công. Phe tiên bà gắng sức đào, toát mồ hồ nên cởi xiêm y cho đỡ nóng
nực và đỡ vướng víu. Đến khuya phe tiên ông sai người sang chỗ các tiên bà dọ thám.
Gặp cảnh đẹp quyến rũ, ông tiên đi dọ thám trố mắt nhìn quên cả việc trở về.
Các vị tiên ông chờ mãi không thấy bạn trở về e có điều bất trắc vội phái
một ông tiên khác đi tìm. Lần lượt hết ông tiên này đến ông tiên khác đi tìm bạn
cũng bị các bà tiên xinh đẹp quyến rũ quên cả việc trở về. Do vậy, phe tiên ông
chẳng đào được bao nhiêu.
Đến khi gà eo óc gáy vang trong sóc, các vị tiên vội vã trở về trời. Sự hơn thua
đã rõ ràng: giếng tiên ông lớn nhưng cạn, giếng tiên bà tuy nhỏ nhưng sâu hơn.
34
Khảo dị 2:
Việc hai phe nam nữ thi đào giếng ở Vũng Thơm nguyên do cũng giống như sự
tích giếng Chị và giếng Anh trên. Phe nữ do Chun-tiêu Tân (bà Tân) cầm đầu. Bà bày
kế cho phe nữ làm bánh quy và rượu mời phe đàn ông ăn nhậu say sưa nên họ chẳng
làm được bao nhiêu. Đến khuya, bà Tân cho người treo một ngọn đèn vào một cây sào
dài, rồi dựng lên khiến cho phe đàn ông tưởng lầm là sao mai đã mọc liền bỏ về nhà
nghỉ… Do vậy, phe nữ thắng cuộc, và từ đó đàn ông phải đi cưới đàn bà về làm vợ.
Truyền thuyết phum Thil - Thôl
Ngày xửa ngày xưa, ở vùng đất nọ cây cối mọc um tùm, chưa có người sinh
sống chỉ có chim chốc và các loài thú khác. Trong đó có một loài cây tên là Chơ - Thil
(cây dầu) rất to và cao. Nhìn từ rất xa ta đã thấy ngọn của nó. Qua một thời gian, có
người đến đây khai hoang và làm nhà ở. Người đến càng ngày càng đông, thành một
phum xung quanh cây dầu đó. Để tiện gọi tên nên người ta muốn đặt cái tên cho nơi
mình ở. Tìm mãi không có tên nào thích hợp, họ lại thấy trong phum của mình có một
cây dầu rất to, không biết đã mọc tự bao giờ, người dân lại rất yêu thích cây dầu ấy
nên họ quyết định đặt tên phum là phum Thil-thol. Thil còn gọi là Đờn-chơ-thil nghĩa
là cây dầu, còn thol là cao nhất và chỉ riêng một mình nó. Ngày nay cây dầu ấy không
còn nữa nhưng cái tên Thil-thol vẫn được gọi để chỉ một phum nhỏ gần thị trấn Châu
Thành.
(Người kể: Kim Sương, 1934, ấp Hương Phụ A, Đa Lộc, Châu Thành, Trà
Vinh)
Lễ vào năm mới
Khi xưa có một người cậu bé tên là Thommbal, anh ta có tài thuyết pháp rất
hay. Tài thuyết pháp của anh đến tai một chư thiên, chư thiên này bèn xuống trần gian
nghe Thommbal thuyết pháp. Khi về thiên đình, chư thiên này khoe với các chư thiên
khác về tài của Thommbal. Các chư thiên lần lượt rủ nhau đi nghe Thommbal thuyết
pháp. Dần dần, các chư thiên đều xuống trần nghe Thommbal thuyết pháp. Các buổi
thuyết pháp của Chúa Thiên Maha Brum ở thiên đình vắng hẳn và không còn chư
thiên nào nghe cả. Ông thấy lạ, bèn mở kính thần ra xem các chư thiên đã đi đâu. Khi
kính thần mở ra, ông thấy các chư thiên đang ở trần gian nghe Thommbal thuyết pháp.
Ông tức giận và quyết định xuống trần so tài với Thommbal, xem Thommbal có tài gì
đặc biệt mà có thể thu hút chư thiên xuống trần nghe thuyết pháp. Ông hóa thành một
35
người bình thường đi xuống trần tìm Thommbal so tài. Khi gặp Thommbal ông ra điều
kiện là nếu Thommbal thắng ông thì ông sẽ tự cắt đầu mình, còn nếu Thommbal thua
ông thì phải nộp mạng cho ông. Hai người quyết tâm thi đấu với nhau. Maha Brum đặt
câu hỏi là:
- Buổi sáng, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?
- Buổi trưa, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?
- Buổi tối, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?
Thommbal không biết phải trả lời như thế nào. Ông thất vọng vì suy nghĩ
không ra. Ông liền nói với Maha Brum: “Cho ta về nghiên cứu trong bảy ngày ta sẽ trả
lời cho ông. Nếu ta không trả lời được, ta tình nguyện giao mạng này cho ông”. Maha
Brum đồng ý. Thommbal đi khắp nơi tìm các thầy, các sư tổ của mình để tìm lời giải
đáp cho câu hỏi đó nhưng không một ai có thể trả lời được. Đến ngày thứ sáu,
Thommbal đi mãi, đi mãi vào một khu rừng nọ. Vì đã qua sáu ngày suy nghĩ mệt mỏi,
ông ngồi nghĩ tại một gốc cây thốt nốt. Trên cây thốt nốt này có một cặp chim đại
bàng, cặp chim này cũng là cặp chim có lòng thiêng, đã thọ giới nên không ăn thịt
sống, chỉ ăn thịt chết. Trên cây, chim mái hỏi chim trống: “Thưa chàng, ngày mai
mình có gì ăn?”
Chim trống trả lời: “Ngày mai mình sẽ có thịt Thommbal ăn”.
Chim mái tiếp: “Vì sao ngày mai mình có thịt Thommbal ăn?
Chim trống đáp: “Ngày mai Thommbal vì không trả lời được câu hỏi của Maha
Brum nên bị Maha Brum giết chết”.
Chim mái tò mò nên hỏi tiếp: “Câu hỏi đó là như thế nào mà cả Thommbal
cũng không trả lời được?
Chim trống đáp: Câu hỏi đó là: Buổi sáng, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?
Buổi trưa, duyên con người ta nằm ở chỗ nào? Buổi tối, duyên con người ta nằm ở chỗ
nào? Câu trả lời đó trên đời chỉ có ông Maha Brum, con gái ông ta và anh biết thôi.
Anh biết được là vì một hôm nọ anh bay ngang qua phòng của con gái Maha Brum, vô
tình nghe được Maha Brum nói với con ông ta là: Buổi sáng duyên con người ở trên
mặt, vì vậy, buổi sáng con người phải rửa mặt để khuôn mặt được sáng sủa thoải mái.
Buổi trưa, duyên con người ta ở thân nên người ta thường tắm mát vào buổi trưa. Buổi
tối, duyên con người ta ở hai bàn chân nên người ta phải rửa chân trước khi đi ngủ”.
Thommbal vốn là một người đắt đạo, có thể nghe được tiếng con thú, do đó ông
36
nghe được câu trả lời, mừng quá, ông liền trở về nhà. Sáng hôm sau, ông vào hội đình
tìm Maha Brum để trả lời. Thommbal trả lời giống như những gì nghe được từ con
chim trống. Maha Brum nghe xong, tự nhận mình đã thua. Ông gọi bảy người con của
mình xuống trần và căn dặn: “Cha đã thua trí Thommbal nên phải cắt đầu mình. Khi
cha cắt đầu, các con nhớ lấy mâm vàng bưng đầu và máu của cha đặt vào đỉnh núi
Sồme. Và nhớ là không để đầu hay máu của cha rơi xuống đất vì như thế mặt đất sẽ
khô cằn, nếu rơi xuống biển thì biển sẽ cạn khô. Hằng năm các con phải thay phiên
nhau xuống cai trị trần gian.” Căn dặn các con xong Maha Brum tự cắt đầu mình. Các
con hứng lấy đầu và máu của cha vào mâm vàng và đặt vào đỉnh núi Sồme.
Hằng năm, cứ đến ngày 13,14, 15 tháng 4 dương lịch (ngày mà Maha Brum tự
cắt đầu), các con của Maha Brum xuống trần vào núi Sồme bưng đầu cha để diễu hành
quanh núi ba vòng. Khi diễu hành xong, các cô lại mang đầu cha vào đỉnh Sồme để
thờ. Khi đó, vua năm cũ sẽ trở về thiên đình, vua năm mới xuống trần cai trị nhân gian.
Nếu ngày đầu năm là chủ nhật thì người con thứ nhất sẽ xuống trần làm vua nhân gian,
nếu ngày đầu tiên của năm mới là thứ năm thì người con gái thứ năm sẽ xuống trần cai
trị trần gian. Do tính cách của những người con Maha Brum đều khác nhau, có người
ăn đậu, có người uống máu, có người thì tay lúc nào cũng cầm hung khí, có người cầm
đèn còi… nên ông Hôra sẽ dựa vào tính cách của mỗi người mà đoán định năm nay có
tốt không, làm ăn, sức khỏe có tốt không hay sẽ có bệnh dịch, loạn lạc xảy ra.
Từ tích truyện này, người Khmer tổ chức lễ đón năm mới vào ngày 13, 14, 15
tháng 4 dương lịch. Vào ngày đầu năm, người ta diễu hành quanh chánh điện ba vòng
và làm lễ rước Đại Nông Lịch (Maha Song Kran).
(Người kể: Thạch Doan, 1980, ấp Kênh Xáng, huyện Châu Thành, Trà Vinh)
Sự tích thả đèn gió và đua ghe ngo ngày lễ Ok - Om - Bok
Khi Đức Phật đắc đạo, nhập cõi Niết Bàn thì hai cái nanh (răng) trên của Ngài
được cất giữ trong ngọn tháp ở Cõi Đạo Xuất. Do đó, vào ngày lễ Ok-om-bok, người
Khơme thường tổ chức thả lồng đèn gió để dâng phước báu của mình đến Đức Phật.
Hai răng dưới của Ngài được cất giữ ở Long cung nên người ta cũng tổ chức lễ đua
ghe ngo để tưởng nhớ đến hai cái răng dưới của Đức Phật và cũng dâng phước báu
của mình đến Ngài.
37
(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)
Sự tích đua ghe ngo
Thời xưa, việc đi lại rất khó khăn, chủ yếu là dùng ghe xuồng. Vào một ngày
nọ, khi các vị sư đi bát (khất thực) về thì nước dâng cao, không thể đi bộ được nữa.
Giờ độ cơm đã đến mà chùa còn xa nên ai cũng lo lắng. Người dân quanh đó mới lấy
ghe của mình ra thi nhau chở các vị sư về chùa. Ai chở được nhiều sư thì phước càng
lớn, do đó ai cũng cố gắng hết sức đưa các sư về chùa kịp giờ độ cơm.
Từ câu chuyện trên, hằng năm người dân Khmer tổ chức thi chèo ghe trên sông.
Dần dần trở thành lễ hội đua ghe ngo của đồng bào Khmer.
(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)
Sự tích tượng rồng trước cổng chùa
Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, vào ngày kia khi Đức Phật đang ngồi thiền
định thì trời mưa. Khi ấy có một con Rồng chúa bay ngang qua thấy Đức Phật bị mưa
ướt thì liền cuộn tròn mình lại thành một cái bệ cho Đức Phật ngồi khỏi lấm đất, còn
phần đầu của mình hóa thành bảy cái đầu làm thành cái vòm che mưa cho Đức Phật.
Do đó, người Khmer thường khắc hình rồng bảy đầu ở cổng chùa để tưởng nhớ công
ơn của Rồng chúa đã che mưa cho Đức Phật.
(Người kể: Đại đức Pháp Tấn, trụ trì chùa Giồng Lớn, ấp Cây Gia, xã Đại An,
huyện Trà Cú)
Sự tích hình chim Grut ở chùa
Ở một vương quốc của vua Prùm-mà-thọt có một người con gái xinh đẹp tên là
Ca-ky, nàng sống bằng nghề ca hát. Nàng Ca-ky rất thích quyến rũ đàn ông, nàng yêu
tất cả đàn ông trong nước. Do say đắm sắc đẹp của nàng, vua Prùm-mà-thọt cưới nàng
làm vợ. Dù đã là vợ vua nhưng nàng vẫn có nhiều người tình, do đó là bản tính của
nàng.
Trong nước Prùm-mà-thọt có một con chim đại bàng rất lớn, có phép thuật cao,
tên là Grut, chim cũng đem lòng say đắm sắc đẹp của nàng nên trong một buổi tiệc,
khi nàng Ca-ky đang múa hát thì chim Grut tạo ra một cơn gió lớn thổi vào hoàng
cung và cướp đi nàng Ca-ky bay đi. Sau khi cướp nàng nàng Ca-ky, chim thả nàng vào
một hang động và sống cùng nàng ở đấy. Do bản tính đa tình nên sau đó nàng cũng
yêu chim Grut, sống vui vẻ cùng chim Grut nơi hang động. Nhưng chỉ sau một thời
38
gian ngắn nàng đã thấy buồn vì không được đi đâu cũng không được gặp ai.
Vua Prùm-mà-thọt sau khi bị mất nàng Ca-ky liền gọi Hôra vào bói và biết
được nơi chim Grut cất giấu nàng Ca-ky. Vua liền dẫn một đoàn quân đi tìm nơi ở của
chim Grut. Hai bên giao đấu với nhau không phân thắng bại. Đấu mãi đến khi cả hai
đều mệt thì họ nghĩ nàng Ca-ky là người không chung tình, chính nàng mới đáng chết,
khi đó nhà vua liền chém chết nàng. Chim Grut sau đó cũng đi tu để tạ tội với vua.
Chim Grut chính là một tiền kiếp của Đức Phật.
Ngày nay, xung quanh chánh điện, người ta thường khắc tượng chim Grut để
tưởng nhớ đến một tiền kiếp của Đức Phật.
(Người kể: Thạch Ngọc Sang, 1988, khóm 6, phường 9, thành phố Trà Vinh,
tỉnh Trà Vinh)
Sự tích hình voi ở chùa
Khi Đức Phật đã đắc đạo, ngày càng thu hút được nhiều tín đồ thì cũng là lúc
Đức Phật bị nhiều người ganh ghét, tìm cách hãm hại Đức Phật, trong đó có ông Thìa-
và-thọt. Thìa-và-thọt xuất thân trong dòng dõi vua chúa, là một người bà con của Đức
Phật, ông tu học nơi Đức Phật nhưng ông chỉ đắc đạo ở mức phàm tăng, còn các chư
tăng khác đắc đạo A-ra-hăng, do đó ông hết sức hận Đức Phật.
Thìa-và-thọt mới kéo băng nhóm và lập một giáo phái mới cho riêng mình, tìm
cách giết Đức Phật để làm bá chủ. Vào thời ấy, Phật giáo được vua Phùm-phì-sa tài trợ
mọi thứ. Vua là một người nhân từ nhưng ông có một người con rất độc ác tên là A-
chịa-rạt-sa-tốt. Thìa-và-thọt liên kết với A-chịa-rạt-sa-tốt để lập mưu làm bá chủ. Ông
nói với hoàng tử: “Ngài về tìm cách giết cha của ngài để lên làm vua và làm cho Đức
Phật phải thiếu thốn và đói chết. Còn tôi sẽ tìm cách giết Đức Phật để lên làm Phật”
Hoàng tử A-chịa-rạt-sa-tốt liền tìm cách bắt vua cha bỏ vào lồng, không cho ăn
uống gì cả. Ông hành hạ vua cha đến chết và lên ngôi vua. Thìa-và-thọt sau đó cũng
tìm được cách hại Đức Phật. Một ngày nọ, ông biết Đức Phật sẽ đi ngang núi, ông liền
trèo lên đỉnh núi chờ khi Đức Phật đi ngang thì xô tảng đá từ trên đỉnh núi xuống
nhằm đè chết Đức Phật.
Đức Phật khi ấy đã biết rõ là Thìa-và-thọt chuẩn bị đá đè mình nhưng ngài vẫn
tự nhiên đi qua núi. Ngài nghĩ: “Nếu ta không để Thìa-và-thọt ném đá trúng thì ông ấy
sẽ nổ tung thành bảy miếng. Ta phải chịu bị thương một chút để Thìa-và-thọt hài
lòng”. Và Ngài đã để tảng đá trúng vào chân mình và chảy máu. Khi mắc tội này thì
39
Thìa-và-thọt đã phải xuống địa ngục rồi nhưng cái nghiệp ấy chưa đến.
Ném đá giết Phật không được, Thìa-và-thọt tìm cách khác để giết Phật. Ông
nghĩ ra cách thả con voi Ki-ri-mia-ca-rặc, con voi chuyên đi đánh giặc, ra để nó giẫm
chết Đức Phật. Ông ta chờ khi Đức Phật đi bát ngang qua chuồng voi mới sai người
giữ voi thả voi ra để voi đạp chết Đức Phật.
Khi Đức Phật đi bát cùng các A-ra-hăng ngang qua chuồng voi, thấy voi dữ
xuất hiện các A-ra-hăng nói với Đức Phật: “Ngài hãy tránh đi, con voi này dữ lắm”.
Phật trả lời: “Ta không né tránh đâu, ta sẽ không bao giờ sát sinh”. Nói xong, ngài cứ
đi tiếp tục. Đức Phật vừa đi thì con voi cũng đã đến trước mặt Ngài. Nhưng con voi ấy
cảm động trước tấm lòng từ bi của Đức Phật nên khi đến trước mặt Đức Phật, nó liền
quỳ xuống lạy Đức Phật. Voi lạy xong, Đức Phật liền dẫn voi vào chuồng.
Thìa-và-thọt và A-chịa-rạt-sa-tốt sa đó đều bị đày xuống địa ngục.
Người Khmer thường vẽ những bức họa thể hiện nội dung câu truyện này trên
tường quanh chánh điện hoặc khắc hình voi quanh lối đi vào chánh điện như muốn nói
rằng cái thiện và lòng từ bi có thể cảm hóa mọi thứ.
(Người kể: Thạch Sâm Nang, 1991, khóm 6, phường 9, thành phố Trà Vinh)
Sự tích bông cau trong ngày cưới
Ngày xưa có một chằn tên Pnọt-yard, chằn đem lòng yêu cô A-ren-mo-tây, con
gái bà Phum-ma-la. Chằn đến gặp bà Phum-ma-la xin hỏi cưới A-ren-mo-tây, bà dù rất
sợ và không thích chằn nhưng cũng không dám từ chối chằn. Bà nảy ra một mưu kế để
từ chối chằn. Bà kêu chằn lại và dặn: “Con hãy đi tìm những loại bông nở còn trong
buồng về làm lễ cưới”.
Pnọt-yard nghe lời bà ra đi tìm bông nở trong buồng, nhưng chằn đi mãi vẫn
không tìm được những cái bông như bà Phum-ma-la yêu cầu. Buồn bã, Pnọt-yard trở
về. Trên đường về, chằn ngồi nghỉ dưới gốc một cây cau, vô tình ông ngước nhìn lên
cây và thấy những bông cau nở, đặc biệt là những bông cau này dù nở nhưng vẫn còn
được bao bọc trong cái buồng cau. Chằn mừng lắm, liền hái buồng cau đó về cho bà
Phum-ma-la. Bà Phum-ma-la đành phải tổ chức lễ cưới cho nàng A-ren-mo-tây cùng
chằn Pnọt-yard.
Từ tích truyện này, người Khmer luôn dùng bông cau để làm lễ cưới. Với người
Khơme, bông cau tượng trưng cho sự trong trắng, xinh đẹp của người con gái.
40
(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)
Ba bông hoa cau trong ngày cưới
Ngày xưa, có bốn chàng trai cùng đi tìm thầy học nghề: một người học bói, một
người học bắn cung, một ngưởi lặn và một người học nghề thuốc. Khi đã học thành tài,
bốn người từ giã thầy lên đường về quê.
Khi đi ngang qua một con sông, cả bốn người đang ngồi nghỉ chờ ghe chở qua
sông thì người bói nói: “Chút nữa sẽ có một con đại bàng tha một công chúa bay
ngang qua đây và nó sẽ thả công chúa xuống con sông này”. Người này vừa nói dứt lời
thì chim đại bàng đã bay tới. Người bắn cung liền giơ cung lên bắn trúng vào cánh
chim đại bàng. Chim đại bàng bị bắn trúng liền thả công chúa xuống dòng sông.
Người thợ lặn liền bơi ra sông ôm công chúa vào. Người thầy thuốc mới bốc thuốc cứu
công chúa.
Sau khi công chúa tỉnh dậy, cả bốn người đề đòi cưới công chúa làm vợ. Người
bói nói: “Nếu tôi không bói ra công chúa bị đại bàng tha ngang đây thì làm sao các
ngươi cứu được công chúa. Ta mới xứng đáng làm chồng công chúa”.
Người bắn cung nói: “Nhờ ta bắn trúng đại bàng, nó mới thả công chúa. Ta mới
xứng đáng làm chồng công chúa”
Người thợ lặn cũng nói: “Nếu ta không bơi ra sông mang công chúa vào thì
công chúa đã chết rồi. Ta mới xứng đáng làm chồng công chúa”
Người thầy thuốc nói: “Nếu ta không bốc thuốc, chăm sóc cho công chúa thì
công chúa cũng không thể tỉnh lại”
Cả bốn người đều đưa ra lí do và nói mình mới là chồng công chúa, không ai
nhịn ai. Khi ấy Đức Bồ Tát đi ngang qua nhìn thấy họ tranh cãi nhau mới hỏi họ. Họ
trình bày cho Bồ Tát nghe câu chuyện của họ. Nghe xong Bồ Tát nói: “Người đã mang
công chúa từ dưới sông lên được làm chồng công chúa vì người này đã chạm vào
người công chúa. Người bói là cha công chúa vì người này đoán biết và lo tương lai
của con mình Người cứu là mẹ công chúa vì có công chăm sóc, người bắn cung là
anh”. Cả bốn người nghe Bồ Tát nói xong đều vui vẻ đồng ý với ý kiến của Bồ Tát.
Công chúa thành vợ anh thợ lặn. Trong ngày cưới của họ, họ tết ba bó bông cau để tạ
ơn ba vị này. Bó thứ nhất có 21 đôi trầu và 21 trái cau tượng trưng cho ân của cha đối
với con. Bó thứ hai có 12 đôi trầu và 12 trái cau tượng trưng cho công ơn của mẹ. Bó
41
thứ ba có 6 đôi trầu và 6 trái cau tượng trưng cho ân của người anh.
Từ câu chuyện này, người Khmer thường làm ba bó bông cau trong ngày cưới
để tạ ơn cha, mẹ, anh chị trong gia đình đã có ơn lo lắng, chăm sóc cho cô dâu. Tục lệ
này đến nay vẫn còn được lưu giữ.
42
(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)