af

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

ISO 9001:2015

LÊ THÚY AN

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

TRÀ VINH, NĂM 2020

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

LÊ THÚY AN

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Ngành: VĂN HÓA HỌC

Mã ngành: 9229094

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. PHAN AN

2. PGS.TS. NGUYỄN XUÂN HƯƠNG

TRÀ VINH, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ này là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phan An và PGS.TS. Nguyễn Xuân Hương. Nếu

có gì không đúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Trà Vinh, ngày … tháng … năm 2020

Tác giả

i

Lê Thuý An

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Phan An và PGS.TS. Nguyễn Xuân

Hương. Thầy và cô đã tận tình hướng dẫn tôi từ lúc mới hình thành ý tưởng đề tài cho

đến quá trình sưu tập tài liệu và thực hiện luận án này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô ở Trường Đại học Trà Vinh truyền đạt

kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập tại Trường; chân thành cảm ơn những

cán bộ địa phương hỗ trợ tôi trong quá trình kết nối với cộng đồng người Khmer ở Sóc

Trăng, An Giang, Trà Vinh để phỏng vấn; chân thành cảm ơn những vị Sư, Achar,

những hộ dân đã cung cấp tư liệu trong suốt quá trình tôi phỏng vấn.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp những người đã

ii

luôn hỗ trợ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................. viii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... ix

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................... 1

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................. 3

2.1. Mục tiêu chung ............................................................................................... 3

2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................................... 3

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT ....................... 3

3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 3

3.2. Đối tượng khảo sát ......................................................................................... 3

4. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ......................................................................... 3

5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU ...................... 4

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................... 5

7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN .................................................................................... 6

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................................................................... 7

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................ 7

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận ........................................................ 7

1.1.1.1. Công trình của tác giả nước ngoài ........................................................... 7

1.1.1.2. Công trình của các tác giả trong nước ..................................................... 8

1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu thực tiễn ................................................... 11

1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài ................................................... 11

1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước ................................................... 15

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN ........................................................................................ 26

1.2.1. Một số khái niệm ....................................................................................... 26

iii

1.2.1.1. Văn hoá (culture) .................................................................................... 26

1.2.1.2. Văn hóa ứng xử (behaviour) .................................................................. 28

1.2.1.3. Môi trường tự nhiên (environment) ....................................................... 29

1.2.1.4. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên ............................................... 31

1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu ................................................................................ 33

1.2.2.1. Thuyết sinh thái văn hoá (cultural ecology) .......................................... 33

1.2.2.2. Thuyết chức năng (functionalism) ......................................................... 37

1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN .................................................................................... 39

1.3.1. Môi trường cư trú và phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông

Cửu Long ............................................................................................................. 39

1.3.1.1. Môi trường cư trú của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ....... 39

1.3.1.2. Phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ........... 40

1.3.2. Văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer đồng bằng sông

Cửu Long ........................................................................................................... 42

1.3.2.1. Văn hoá vật thể ....................................................................................... 42

1.3.2.2. Văn hoá phi vật thể ................................................................................ 46

CHƯƠNG 2 VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI ĐẤT VÀ NƯỚC CỦA NGƯỜI

KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ................................................ 53

2.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐẤT ................................................................. 53

2.1.1. Quan niệm về đất (ដី = đây) và phân loại đất ........................................... 53

2.1.1.1. Quan niệm về đất ................................................................................... 53

2.1.1.2. Phân loại đất ........................................................................................... 54

2.1.2. Đất ở (ដីនៅ = đây nâu) ............................................................................ 56

2.1.3. Đất sản xuất (ដីផលិត = đây phol lít) ....................................................... 58

2.1.3.1. Đất canh tác (ដីបង្កបនង្ក

ើនផល = đây bòng co bòng cơn phol) ............ 58

2.1.3.2. Đất trong nghề thủ công (ដីក្ន ុង្សិលបៈហតថក្ម្ម = đây k-nông sil-lặk-pắc hách-tặc-căm) ...................................................................................................... 60

iv

2.1.4. Đất thể hiện qua tín ngưỡng, phong tục (ដីក្ន

ុង្ជននឿ,ទំននៀម្ទម្លា ប់ =đây

k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm lóp) ................................................................. 61

2.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI NƯỚC .............................................................. 63

2.2.1. Quan niệm về nước (ទឹក្=tứk) .................................................................. 64

2.2.1.1. Nước là nguồn gốc của sự sống ............................................................. 64

2.2.1.2. Nước có ý nghĩa trong sạch, có chức năng thanh tẩy ............................ 66

2.2.2. Nước sinh hoạt (ទឹក្ន្បើ្ាស់ = tứk p-rơ p-rá) ........................................ 67

2.2.3. Nước trong sản xuất (ទឹក្ក្ន

ុង្ផលិតក្ម្ម = tứk k-nông phol-lít-tặt căm) 69

2.2.3.1. Ứng xử với thiếu nước ........................................................................... 69

2.2.3.2. Ứng xử với dư nước ............................................................................... 71

2.2.3.3. Ứng xử với nước phèn, nước mặn ......................................................... 72

2.2.4. Ứng xử với nước thể hiện trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội

(ទឹក្ក្ន

ុង្ជំននឿ, ទំននៀម្ទម្លា ប់,បុណ្យទាន = tứk k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm

lóp, bonh tean) ..................................................................................................... 74

2.2.4.1. Yếu tố thanh tẩy ..................................................................................... 74

2.2.4.2. Lễ nghi cầu nước, đưa nước ................................................................... 80

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 83

CHƯƠNG 3 VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI THỜI TIẾT, ĐỘNG VẬT, THỰC

VẬT CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG .............. 86

3.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ THỜI TIẾT (ធាតុអាកាស = thiêch à cás) .............. 86

3.1.1. Đặc điểm thời tiết vùng đồng bằng sông Cửu Long ................................. 86

3.1.2. Ứng xử với thời tiết mùa khô .................................................................... 88

3.1.3. Ứng xử với thời tiết mùa mưa ................................................................... 91

3.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT .............................. 92

3.2.1. Đặc điểm động vật, thực vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long ............. 92

3.2.2. Văn hoá khai thác và tận dụng động vật, thực vật .................................... 94

3.2.2.1. Khai thác và tận dụng động vật .............................................................. 94

3.2.2.2. Khai thác và tận dụng thực vật ............................................................... 99

v

3.2.3. Động vật, thực vật trong đời sống tâm linh ............................................ 109

3.2.3.1. Tín ngưỡng liên quan đến động vật ..................................................... 109

3.2.3.2. Tín ngưỡng liên quan đến thực vật ...................................................... 112

CHƯƠNG 4 VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA

NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG – MỘT SỐ BIẾN

ĐỔI VÀ NHỮNG BÀN LUẬN ...................................................................... 117

4.1. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ........................................................................................................ 117

4.1.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với đất ................................................... 117

4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá vật thể ........................... 117

4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá phi vật thể ..................... 118

4.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với nước ................................................ 119

4.1.3. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng, vật nuôi .......................... 122

4.1.3.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng ...................................... 122

4.3.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với vật nuôi ........................................ 124

4.1.4. Biến đổi trong ứng xử với thời tiết ......................................................... 126

4.2. MỘT SỐ XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI PHƯƠNG THỨC SINH KẾ ĐỂ THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ......................................................... 127

4.3.1. Chuyển đổi trong kĩ thuật nuôi trồng ...................................................... 127

4.3.2. Chuyển đổi phương thức sinh kế ............................................................ 130

4.3. MỘT VÀI VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................... 134

4.3.1. Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường tự nhiên trong cộng đồng Khmer ở

đồng bằng sông Cửu Long ................................................................................ 134

4.3.1.1. Phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu ................................................ 134

4.3.1.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về môi trường tự nhiên .......................... 138

4.3.2. Phát huy hơn nữa vai trò của chức sắc và những trí thức có uy tín trong

cộng đồng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long ............................................... 140

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 146

vi

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 149

Văn bản pháp luật .............................................................................................. 149

Tài liệu tiếng Việt (sách, tạp chí, kỉ yếu) .......................................................... 149

Tài liệu tiếng nước ngoài .................................................................................. 156

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................. 1

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 2

PHỤ LỤC 1: NHẬT KÍ ĐIỀN DÃ .................................................................... 2

Điền dã tại Trà Vinh .............................................................................................. 3

Điền dã tại An Giang ............................................................................................. 6

Điền dã tại Sóc Trăng .......................................................................................... 12

PHỤ LỤC 2: HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ ............................................................... 17

PHỤ LỤC 3: CÁC TRUYỆN DÂN GIAN KHMER ..................................... 26

Sự tích sấm sét ..................................................................................................... 26

Sự tích Mưa, Gió, Mặt Trời và Mặt Trăng ......................................................... 27

Cá thác lác đi xin lúa ........................................................................................... 28

Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức ............................................................................ 30

Sự tích Ao Bà Om ............................................................................................... 31

Sự tích giếng chị và giếng anh ............................................................................ 33

Truyền thuyết phum Thil - Thôl ......................................................................... 35

Lễ vào năm mới ................................................................................................... 35

Sự tích thả đèn gió và đua ghe ngo ngày lễ Ok - Om - Bok ............................... 37

Sự tích đua ghe ngo ............................................................................................. 38

Sự tích tượng rồng trước cổng chùa .................................................................... 38

Sự tích hình chim Grut ở chùa ............................................................................ 38

Sự tích hình voi ở chùa........................................................................................ 39

Sự tích bông cau trong ngày cưới ....................................................................... 40

Ba bông hoa cau trong ngày cưới........................................................................ 41

vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT Bảo vệ môi trường

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

KHKT Khoa học kỹ thuật

MTTN Môi trường tự nhiên

TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh

viii

tr. Trang

DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng Tên bảng Trang

ix

Bảng 2.1. Thay đổi trong ứng xử với nước trong truyền thống và hiện nay ................ 73

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất cực nam của Việt Nam còn

được gọi là vùng đồng bằng Nam Bộ hay miền Tây Nam Bộ. Ngày nay, ĐBSCL thuộc

địa bàn của 13 tỉnh, thành là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long,

Trà Vinh, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành

phố Cần Thơ. Với vị trí như một bán đảo, ba mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển

(đường bờ biển dài 700 km), phía Bắc giáp Đông Nam Bộ, phía Tây có đường biên

giới giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan và phía Đông Nam là biển

Đông, vùng ĐBSCL được hình thành từ những trầm tích phù sa và được bồi dần qua

từng kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Địa hình của ĐBSCL nhìn chung tương đối

bằng phẳng tuy vài nơi có những cồn cát cao ven biển, vùng trũng và đầm lầy. Độ cao

trung bình của vùng là từ 1 mét đến 2 mét (trừ những nơi có cồn cát ven biển độ cao

có khi lên đến 5 mét) so mới mực nước biển. Những sóng đất cao ven sông hàng năm

được bồi đắp thêm lượng phù sa do nước lũ mang lại. Những giồng cát cao hay những

vùng sóng đất hơi cao so với địa hình bằng phẳng khác là nơi ưu tiên cư trú của các cư

dân đến ở.

Khí hậu ở ĐBSCL có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô được luân phiên

nhau hết mùa mưa đến mùa khô. Mùa mưa và mùa khô ở ĐBSCL tương đối rõ rệt

nhưng đôi khi lại phân bố không đều, năm nắng hạn, năm lại mưa nhiều. Từ sự đa

dạng và phức tạp này của môi trường tự nhiên (MTTN) cho nên các cư dân nơi đây

phải chọn lựa cách ứng xử cho phù hợp trong quá trình cư trú và phát triển của mình.

Mỗi cách ứng xử của một tộc người phản ánh nét văn hoá đặc trưng của tộc người đó.

Người Khmer ở ĐBSCL là một tộc người có dân số đứng thứ hai sau người

Việt. Trong quá trình định cư và sinh sống nơi đây, người Khmer đã có quá trình thích

nghi, ứng phó với MTTN và tạo nên các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của

mình. Trong lịch sử cư trú, lao động, sản xuất, người Khmer đã lựa chọn cho mình

cách thích nghi với tự nhiên và hình thành hệ thống kinh nghiệm dân gian trong thích

ứng và điều tiết MTTN. Cách thích nghi với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL trong

truyền thống đa phần dựa vào sự xem xét MTTN theo kinh nghiệm dân gian của cha

1

ông truyền lại; tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, MTTN ở ĐBSCL đang có những

biến đổi nhất định, đó là những thay đổi do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây nên những

hiện tượng như nước nhiễm mặn, nhiễm phèn ngày một nặng hơn, thời gian diễn ra

kéo dài hơn, sự nóng lên của khí hậu, hiện tượng nước biển dâng, sạt lở.v.v. Một vấn

đề mang tính cấp bách hiện nay là ĐBSCL hiện nay đang đứng trước những thách thức

lớn bởi vì nơi đây là một trong những nơi bị ảnh hưởng của BĐKH nghiêm trọng nhất

trên thế giới. Theo Uỷ ban liên chính phủ về BĐKH, qua phân tích và phỏng đoán các

tác động của nước biển dân đã công nhận ba vùng châu thổ được xếp trong nhóm cực

kì nguy cấp do BĐKH là vùng hạ lưu sông Mekong (ĐBSCL ở Việt Nam), sông

Ganges – Brahmaputra (Banladesh) và sông Nile (Ai Cập). Tại Việt Nam, 2 vùng

Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL chịu ảnh hưởng nặng nhất. Khi nước biển dâng cao

1 mét, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô

thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng (Viện Khoa

học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường, 2011). Những hiện tượng biến đổi khí hậu

đang diễn biến phức tạp có nguy cơ làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực, kinh tế và

chất lượng sống của con người. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bền

vững của cư dân ĐBSCL nói chung và của người Khmer ở ĐBSCL nói riêng.

Từ những biến động của MTTN, người Khmer nói riêng và các cư dân ở

ĐBSCL nói chung đã và đang có những động thái thay đổi phương thức sinh kế,

chuyển đổi vật nuôi cây trồng, nhằm thích nghi với BĐKH. Người Khmer đã ứng xử

với MTTN như thế nào trong truyền thống và có những biến đổi gì trong quá trình

thích ứng với BĐKH? Văn hoá ứng xử với MTTN trong truyền thống, những kinh

nghiệm dân gian có còn giá trị trong bối cảnh BĐKH hiện nay hay không? Việc

nghiên cứu văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer không chỉ giúp nhận diện

những giá trị văn hoá ứng xử trong truyền thống, thấy được giá trị trong bản sắc văn

hoá Khmer trong lao động và sản xuất, trong quá trình tận dụng, khai thác và ứng phó

với MTTN mà còn giúp chỉ ra những dự báo trong tương lai về những biến đổi trong

khai thác MTTN của người Khmer đang và sẽ diễn ra. Vì các lí do đó chúng tôi chọn

đề tài: “Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer vùng đồng bằng

2

sông Cửu Long” để làm đề tài cho luận án.

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu chung

Mục tiêu nghiên cứu của luận án: nghiên cứu văn hóa ứng xử với các yếu tố tự

nhiên như đất, nước, thời tiết, động vật, thực vật trong văn hóa vật thể và văn hoá phi

vật thể của người Khmer; từ đó, phân tích những giá trị trong truyền thống và biến đổi

trong cách ứng xử với tự nhiên của người Khmer trước những thách thức về biến đổi

khí hậu trong bối cảnh hiện nay.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Hệ thống những giá trị về văn hoá hoá ứng xử với MTTN (đất, nước, thời tiết,

động vật, thực vật) trong văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer ở ĐBSCL;

Phân tích, đánh giá và đề xuất một số khuyến nghị mang tính dự báo về những

biến đổi trong ứng xử với MTTN của người Khmer trước những thách thức của

BĐKH; kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm một nghiên cứu về văn hóa của

người Khmer ở ĐBSCL về phương diện văn hóa ứng xử với MTTN.

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL cụ thể là văn

hoá ứng xử với đất; văn hoá ứng xử với nước; văn hoá ứng xử với thời tiết; văn hoá

ứng xử với động vật, thực vật.

3.2. Đối tượng khảo sát

Luận án tập trung vào đối tượng khảo sát chính là người Khmer có nghề nghiệp

chính là làm nông nghiệp ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang. Cụ thể hơn, ở

mỗi tỉnh chúng tôi chọn địa điểm nghiên cứu tập trung như tại An Giang nghiên cứu

tại ấp Phnôm- Pi (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn); tại Sóc Trăng nghiên cứu tại khóm

Cà Lăng A Biển (phường 2, thị xã Vĩnh Châu) và tại Trà Vinh nghiên cứu tại ấp Bà

Tây B (xã Tập Sơn, huyện Trà Cú).

4. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI

Không gian nghiên cứu: người Khmer cư trú phân bố khắp vùng ĐBSCL; tuy

nhiên, chúng tôi chọn điểm nghiên cứu là không gian văn hoá ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà

Vinh, An Giang làm địa bàn nghiên cứu chính vì các lý do sau đây:

Thứ nhất: Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang là ba khu vực có điều kiện địa hình

3

tự nhiên vừa có nét chung vừa có nét riêng thể hiện được điều kiện tự nhiên sinh sống

ở vùng cao và vùng ven biển của người Khmer (An Giang có hai loại địa hình là đồng

bằng phù sa và đồng bằng ven núi; Sóc Trăng và Trà Vinh có địa hình đồng bằng ven

biển);

Thứ 2: Kinh tế nông nghiệp của người Khmer tại ba tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh

và An Giang đều có liên quan mật thiết đến dòng chảy của sông Mekong đổ về (An

Giang là đầu nguồn dòng chảy sông Cửu Long, Sóc Trăng và Trà Vinh là hạ nguồn

dòng chảy đổ ra sông Hậu và sông Tiền).

Thời gian nghiên cứu: từ sau năm 1975 khi bắt đầu có nhiều tư liệu, tài liệu

nghiên cứu tập trung về tộc người Khmer.

Chủ thể nghiên cứu: tộc người Khmer ở ĐBSCL Việt Nam.

5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Thông qua cách ứng xử với MTTN trong văn hóa vật thể và phi vật thể của

người Khmer ĐBSCL, câu hỏi nghiên cứu thứ nhất chúng tôi đặt ra là: “Tộc người

Khmer đã ứng xử với MTTN (đất, nước, thời tiết, động thực vật) như thế nào?” Trong

quá trình thích nghi và đối phó với MTTN, người Khmer đã làm gì để tận dụng những

giá trị có lợi và đối phó với những điều bất lợi để phục vụ cho nhu cầu ăn uống, nhà

cửa, đi lại của mình?

Câu hỏi nghiên cứu thứ hai chúng tôi đề ra là: “Trong bối cảnh biến đổi của

MTTN hiện nay, người Khmer đã có sự biến đổi như thế nào trong văn hoá ứng xử với

MTTN để đảm bảo sự thích nghi và phát triển bền vững?”.

Từ hai câu hỏi nghiên cứu được nêu, chúng tôi đề ra hai giả thuyết nghiên cứu là:

Thứ nhất, chúng tôi cho rằng, MTTN là yếu tố có giá trị rất quan trọng trong văn hoá vật

thể và phi vật thể của người Khmer. Trong quá trình lịch sử của mình, người Khmer đã

có những kinh nghiệm dân gian trong sự thích nghi với môi trường. Giả thuyết nghiên

cứu thứ hai đề ra là: trước những biến động của môi trường, người Khmer đã có những

thay đổi nhất định so với hệ thống tri thức trong truyền thống. Sự biến đổi này là sự

thích nghi có chọn lọc, nghĩa là thích nghi những điều có lợi, giữ lại những tri thức vẫn

còn nguyên giá trị nhưng đồng thời cũng sẽ loại bỏ những giá trị lỗi thời không còn phù

hợp nữa. Sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt dần tài nguyên, cùng với chính sách, chủ trương

4

của nhà nước đã góp phần làm thay đổi cách ứng xử với MTTN của người Khmer.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

MTTN là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên ngành khác nhau: sinh thái

học, địa lý học, xã hội học... Trong những chuyên ngành nghiên cứu về con người như

văn hoá học, nhân học, tâm lý học hay văn học thì MTTN được nghiên cứu dưới góc

độ về mối quan hệ tương tác giữa con người và MTTN; trong đó, hướng nghiên cứu

chú trọng nhiều nhất là ứng xử giữa con người với MTTN. Để thực hiện luận án này,

chúng tôi chọn cách tiếp cận và các phương pháp sau:

Ở cách tiếp cận, chúng tôi chọn cách tiếp cận liên ngành. Với đối tượng nghiên

cứu là văn hoá ứng xử với MTTN, chúng tôi vận dụng hướng tiếp cận liên ngành với

các khoa học giáp ranh thuộc khoa học xã hội và nhân văn như: nhân học, xã hội học,

văn học...Cách tiếp cận hệ thống – cấu trúc giúp chúng tôi tiếp cận văn hóa ứng xử với

tự nhiên của người Khmer theo một hệ thống: văn hóa nhận thức – văn hóa ứng xử.

Cách tiếp cận văn hóa - sinh thái giúp chúng tôi nhận diện sự thích nghi trong văn hóa

của người Khmer gắn với điều kiện môi trường ở ĐBSCL.

Các phương pháp chính được sử dụng cho luận án chúng tôi chọn hai phương

pháp: phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp quan sát tham dự.

Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bằng hình thức phỏng vấn

sâu, phỏng vấn bán cấu trúc ở cấp cộng đồng giúp phản ánh tâm thức đối phó và thích

nghi với MTTN trong văn hoá vật thể của đồng bào Khmer. Phương pháp này giúp

cho chúng tôi có được tư liệu khi tham dự vào các hoạt động sinh hoạt trong đời sống

văn hóa vật thể và phi vật thể trong ứng xử với tự nhiên của người Khmer giúp nhận

diện và phân tích được các giá trị, sự thích ứng và đối phó với những biến đổi trong

MTTN hiện nay. Khi nghiên cứu về văn hoá ứng xử với MTTN và những biến đổi trong

ứng xử với MTTN trong bối cảnh hiện nay, chúng tôi lại khó có thể sử dụng phương pháp

điều tra xã hội học, với những bảng hỏi vì những vấn đề thuộc về kinh nghiệm dân gian

tộc người khó có thể định lượng chính xác. Ngay cả phương pháp phỏng vấn sâu theo cấu

trúc cũng khó được sử dụng do ứng xử với MTTN trong quá khứ đến hiện tại là một quá

trình lâu dài, phức tạp mà bản thân chủ thể văn hoá cần phải có thời gian và những gợi mở

nhất định để có thể cho chúng ta những thông tin cần thiết, phục vụ công việc nghiên cứu.

Vì vậy, phương pháp quan sát tham dự và phỏng vấn phi cấu trúc được chọn nhằm có thể

thu thập được nhiều thông tin nhất có thể cho công tác nghiên cứu. Hai phương pháp này

dành cho đối tượng sự thuận lợi nhất, không bị bó buộc về thời gian hay khuôn mẫu thông

5

tin, để cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho người nghiên cứu.

Phương pháp quan sát tham dự được tiến hành triển khai ở các điểm nghiên

cứu: ấp Phnôm - Pi (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang); ấp Bà Tây B (xã

Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh); ấp Cà Lăng A Biển (phường 2, thị xã Vĩnh

Châu, tỉnh Sóc Trăng). Mỗi địa điểm chúng tôi chọn đối tượng phỏng vấn là người

nông dân Khmer có nghề trồng lúa, chăn nuôi gia súc, gia cầm, chăn nuôi thuỷ sản,

nghề tiểu thủ công nghiệp hoặc những người Khmer có nghề theo thời vụ như đánh bắt

gần bờ, làm đường thốt nốt v.v.

Bên cạnh hai phương pháp chính chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh

lịch đại nhằm phân tích, so sánh đối chiếu văn hoá ứng xử với MTTN của người

Khmer từ trong truyền thống cho đến hiện nay. Các phương pháp này nhằm mục đích

tìm ra những đặc trưng trong ứng xử của người Khmer, những ứng xử mang tính

truyền thống dân tộc và những ứng xử được hình thành trong quá trình giao lưu tiếp

biến văn hoá với các tộc người cùng sinh sống.

Ngoài cách tiếp cận và phương pháp nêu trên, để chứng minh cho những luận

điểm được nêu ra trong luận án chúng tôi còn sử dụng tư liệu từ ngành văn học như:

văn học dân gian Khmer, chuyên khảo, biên khảo… để bổ trợ cho các phương pháp

nghiên cứu.

7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN

Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được

kết cấu gồm 4 chương.

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn (45

trang).

Chương 2. Văn hoá ứng xử với đất và nước của người Khmer ĐBSCL (32

trang).

Chương 3. Văn hoá ứng xử với thời tiết, động thực vật của người Khmer

ĐBSCL (28 trang).

Chương 4. Văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL – một số biến

6

đổi và những bàn luận (27 trang).

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Từ trước đến nay, MTTN của một tộc người là đối tượng tiếp cận nghiên cứu

của nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn như dân tộc học, nhân học, văn hóa học,

tâm lý học, văn học,... và trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, việc

nghiên cứu về ứng xử với tự nhiên càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Dưới góc tiếp cận

liên ngành, ngoài việc tiếp cận các tài liệu được nghiên cứu của ngành văn hóa học

chúng tôi còn tiếp cận tài liệu của các ngành nhân học, văn học để có cách nhìn tổng

quát và hệ thống về vấn đề nghiên cứu. Với khối lượng công trình đã được tiếp cận

khá lớn, chúng tôi nhóm lại thành hai nhóm là những công trình nghiên cứu lý luận và

những công trình nghiên cứu thực tiễn.

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận

1.1.1.1. Công trình của tác giả nước ngoài

Để phục vụ nhu cầu nghiên cứu về văn hoá ở Việt Nam, các Trung tâm, Viện

nghiên cứu văn hoá đã tổ chức dịch các công trình của các tác giả nước ngoài như năm

2001 Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn

Quốc gia đã dịch các nghiên cứu của các nhà văn hoá học, nhân học, xã hội học trên

thế giới như: White. Leslie A, Kutyrev V. A. .v.v. với tựa đề công trình là Văn hoá học

và văn hoá thế kỉ XX (Viện Thông tin Khoa học Xã hội , 2011).

Viện Văn hóa – Thông tin cũng đã tuyển chọn và dịch một số công trình của

các tác giả nước ngoài như: A.A. Radughin (chủ biên) (2004) Văn hóa học những bài

giảng; Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học – Những phương pháp nghiên cứu; Chris

Barker (2011) Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành. Các công trình này đã cung

cấp các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cần thiết cho luận án, nhất là phương

pháp nghiên cứu định tính, phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc được vận dụng trong

luận án (Radughin, 2004); (Nhiều tác giả , 2007); (Barker, 2011).

Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiếp cận các công trình lý thuyết và phương pháp

7

của ngành nhân học giúp bổ trợ cho công trình nghiên cứu như: H. Russel Bernard

(2009), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học – tiếp cận định tính và định

lượng; R. Jon MC. Gee - Richard L. Warms (2010), Lý thuyết nhân học – giới thiệu

lịch sử; Alan Barnard (2015), Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà (dịch), Lịch sử và lý

thuyết nhân học, nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội (Alan Barnard, 2015). (H.

Russel Bernard, 2009); (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010); (Alan Barnard

(Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà dịch) , 2011).

Nhóm tài liệu về lý thuyết và phương pháp của các tác giả nước ngoài này đã

được chúng tôi tiếp cận kế thừa về phương pháp định tính, tham dự và phỏng vấn cộng

đồng. Các lý thuyết được áp dụng trong luận án cũng được kế thừa từ các công trình

này như lý thuyết sinh thái học văn hoá, lý thuyết chức năng. Tóm lại, các tài liệu này

đã cung cấp cho chúng tôi những lý thuyết và phương pháp tiếp cận liên ngành phù

hợp với đề tài.

1.1.1.2. Công trình của các tác giả trong nước

Nghiên cứu về MTTN vùng ĐBSCL, chúng tôi đã có điều kiện tiếp cận quyển

Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Đây là một bộ sử liệu có giá trị cao về

lịch sử, địa lí và văn hóa Nam Bộ. Tập sách là những ghi chép và mô tả tỉ mỉ về núi

sông, khí hậu cùng các phong tục tập quán, tính cách sinh hoạt của cư dân cùng các địa

danh xưa ở Nam Bộ. Mặc dù không gian nghiên cứu của luận án chỉ tập trung ở

ĐBSCL (còn gọi là Tây Nam Bộ) nhưng đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng

tôi tham khảo để nghiên cứu không gian địa lý và không gian văn hóa của luận án

(Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm 2016).

Lê Bá Thảo là tác giả có nhiều nghiên cứu về thiên nhiên Việt Nam nói chung

và thiên nhiên ĐBSCL nói riêng. Hai công trình được chúng tôi tiếp cận tham khảo

là Địa lý đồng bằng sông Cửu Long (1986) và Thiên nhiên Việt Nam (2002) và. Các

công trình này không chỉ dừng lại ở mô tả tự nhiên khí hậu, địa lý Nam Bộ mà còn

đề cập đến văn hóa ứng xử của người Nam Bộ với MTTN (Lê Bá Thảo, 1986); (Lê

Bá Thảo, 2009).

Nguyễn Xuân Kính là tác giả đã có những nghiên cứu về mối quan hệ giữa con

người, môi trường và văn hóa. Quyển Con người môi trường và văn hóa của tác giả

Nguyễn Xuân Kính được xuất bản năm 2003 là tập hợp các bài viết của tác giả, trong

đó có nội dung “Con người và môi trường”, tác giả đã chia ra thành ba loại môi

8

trường: môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái nhân văn, môi trường xã

hội. Bài viết giúp chúng tôi có cái nhìn về mối quan hệ giữa con người và môi trường,

phân biệt được sự khác nhau giữa môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái

nhân văn và môi trường xã hội. Con người sống trong môi trường, tác động vào môi

trường và có thể làm biến đổi môi trường (Nguyễn Xuân Kính, 2003).

Ngô Văn Lệ với công trình Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và

Đông Nam Á xuất bản năm 2003 là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa

tộc người. Với cách tiếp cận nhân học văn hóa, tác giả có cái nhìn khái quát về đặc

trưng văn hóa của người Việt và các tộc người thiểu số ở Nam Bộ cũng như đặc trưng

văn hóa của cư dân Đông Nam Á. Điểm cốt lõi để chúng tôi kế thừa công trình này là

tác giả chú trọng đến mối liên hệ phát triển của hệ sinh thái và tộc người. Cùng với

cách tiếp cận nhân học văn hóa và tư liệu điền dã, đây là một trong những tài liệu quý

giá giúp chúng tôi có thêm nguồn tham khảo cho luận án (Ngô Văn Lệ, 2003).

Công trình Nhân học văn hóa - con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới

siêu nhiên của tác giả Vũ Minh Chi xuất bản năm 2004 ngoài việc trình bày đối

tượng, phương pháp nghiên cứu của nhân học văn hóa còn phân tích mối quan hệ

giữa con người và môi trường sinh thái. Để tồn tại, con người có những cách ứng xử

khác nhau với MTTN và từ đó hình thành những nét văn hóa riêng biệt. Đây là quan

điểm rất quan trọng được chúng tôi tiếp cận, kế thừa trong nghiên cứu về ứng xử với

MTTN của người Khmer ở vùng ĐBSCL (Vũ Minh Chi, 2004).

Tác giả Trần Quốc Vượng với quyển Môi trường con người & Văn hóa xuất

bản năm 2005 là tập hợp tất cả bài viết về vấn đề sinh thái văn hóa. Bằng cách tiếp cận

lịch sử - văn hóa, địa - văn hóa tác giả đã mang đến nhiều đóng góp khi nghiên cứu về

vấn đề môi trường qua các vùng miền ở Việt Nam. Có thể kể đến các bài nghiên cứu

liên quan đến đề tài như: Triết lý môi trường; Khảo cổ - văn hóa - môi trường sinh

thái; Yếu tố nước trong văn hóa Việt Nam; Di tích và môi trường; Người Đông Sơn và

môi trường sinh thái Đông Sơn; Văn hóa biển và sông nước ở (Phía Bắc) miền Trung

Việt Nam, một cái nhìn sinh thái nhân văn; Nam Bộ, các tiểu vùng sinh thái khảo cổ -

nhân văn và huyền tích khởi nguyên luận, v.v... (Trần Quốc Vượng, 2005).

Công trình Văn hóa sinh thái – nhân văn (giáo dục môi trường) xuất bản năm

2005 của tác giả Trần Lê Bảo là công trình nghiên cứu văn hóa sinh thái dưới cách tiếp

cận cấu trúc chức năng. Tác giả chia môi trường sinh thái – tự nhiên thành các thành

9

tố: nước; không khí; động vật, thực vật; đất đai; đồng thời, tác giả có sự quan tâm đến

văn hóa ứng xử với môi trường sinh thái, giáo dục văn hóa sinh thái ở Việt Nam hiện

nay (Trần Lê Bảo, 2005).

Chúng tôi còn được tiếp cận công trình Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng

dụng (2013) là một công trình mang tính hệ thống về lý thuyết nghiên cứu văn hóa học

của tác giả Trần Ngọc Thêm. Trong đó, tác giả nghiên cứu vấn đề lý luận văn hóa học

có đề cập đến nước và văn hóa nước. Dưới góc tiếp cận hệ thống cấu trúc, tác giả chia

văn hóa nước thành: văn hóa tận dụng nước, văn hóa đối phó với nước, văn hóa lưu

luyến nước và văn hóa sùng bái nước. Tác giả đã nhìn nhận sâu sắc, toàn diện về nước

trong đời sống văn hóa con người. Cũng trong công trình này, tác giả có nghiên cứu cụ

thể về vấn đề “Nước, Văn hóa và hội nhập”. Tác giả nêu lên một số quan điểm về nước

và văn hóa nước từ đó đưa ra một số nhận định về văn hóa nước và ảnh hưởng của nước

đến tâm thức người Việt. Tất cả kết quả nghiên cứu trên giúp chúng tôi có thêm điểm

nhìn về văn hóa nước của Việt Nam trong cái nhìn hệ thống loại hình (Trần Ngọc Thêm,

2013).

Tiếp nối với lý thuyết hệ thống - loại hình, vào năm 2013 Trần Ngọc Thêm đã

công bố công trình Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do tác giả chủ biên. Công

trình tập hợp nhiều bài viết một cách hệ thống về văn hóa nhận thức, văn tổ chức, văn

hóa ứng xử với tự nhiên và xã hội của người Việt vùng Tây Nam Bộ và đây là nguồn

tài liệu giúp chúng tôi đối chiếu, so sánh với văn hóa ứng xử với MTTN của người

Khmer (Trần Ngọc Thêm (chủ biên) , 2013).

Để phục vụ cho tra cứu các tư liệu về không gian văn hóa ĐBSCL, chúng tôi

còn sử dụng tư liệu từ các công trình dưới dạng biên khảo, bút kí của Sơn Nam và

Vương Hồng Sển. Các tác phẩm đã phản ánh không gian cư trú, không gian sinh hoạt

của người Khmer ở ĐBSCL như Sơn Nam, 1998: Đồng bằng sông Cửu Long; Sơn

Nam, 2005: Tìm hiểu đất Hậu Giang & Lịch sử đất An Giang; Sơn Nam, 2007: Đồng

bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa; Vương Hồng Sển, 2012: Di cảo Ăn cơm

mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang, Ba Thắc. Thông qua các tác phẩm này chúng tôi nhận

diện được nhiều tri thức dân gian, kinh nghiệm dân gian của người Nam Bộ trong đời

sống văn hóa vật thể như ăn uống, nhà cửa, đi lại và trong đời sống văn hóa phi vật thể

như lễ tục, tín ngưỡng... (Sơn Nam, 1998); (Sơn Nam, 2005); (Sơn Nam, 2007);

10

(Vương Hồng Sển , 2012).

Tóm lại, nhóm công trình nghiên cứu lý luận của các tác giả ngoài nước và

trong nước là nguồn tài liệu quan trong giúp chúng tôi làm điểm tựa nghiên cứu ở các

nội dung sau:

Thứ nhất: những công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước giúp chúng

tôi tham khảo về phương pháp nghiên cứu được vận dụng cho luận án là phương pháp

nghiên cứu định tính; phương pháp quan sát tham dự và phương pháp phỏng vấn bán

cấu trúc.

Thứ hai: những công trình lý luận của các tác giả trong nước giúp chúng tôi

tham khảo về quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu. Một số công trình của

các tác giả Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm là điểm tựa về lý thuyết, cung cấp

thêm quan điểm khi nghiên cứu về văn hoá ứng xử với MTTN của một tộc người.

Những công trình này chủ yếu nghiên cứu về người Việt tuy nhiên là cơ sở dữ liệu

giúp chúng tôi so sánh khi chủ thể nghiên cứu của luận án là nghiên cứu về người

Khmer ở ĐBSCL.

Thứ ba: Quan điểm của tác giả Vũ Minh Chi về việc con người có những cách

ứng xử khác nhau với MTTN và từ đó hình thành những nét văn hóa riêng biệt. Đây

là quan điểm được chúng tôi tiếp tục kế thừa, vận dụng trong triển khia nghiên cứu

về văn hóa ứng xử với MTTN của người Khmer ở vùng ĐBSCL.

1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu thực tiễn

1.1.2.1. Công trình của các tác giả nước ngoài

Ứng xử với MTTN là một mảng nghiên cứu rộng lớn và từ lâu đã được nhiều nhà

nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Năm 1922, Bronislaw Malinowski là người khởi

xướng cho quan điểm phản thực chứng, ông đã có những mô tả, diễn giải ý nghĩa của

những hiện tượng văn hoá trong một bối cảnh cụ thể. “Thực chất của Kula” (The

Essentials of the Kula) là chương thứ ba trong chuyên khảo “Nhà hàng hải Tây Thái

Bình Dương” (Agronauts of the Western Pacific) đã được viết dưới góc độ là người

trong cuộc. Trong chuyên khảo này, Malinowski đã thảo luận về các luật tục trao đổi

kula, những thông tin về ca-nô, chèo thuyền, những nghi lễ và ma thuật liên quan đến

ca-nô. Tiếp theo đó, ông đưa ra các thông tin chi tiết và cụ thể hơn về những nội dung

đã nêu, bao gồm các chuyến hải hành bằng ca-nô, kula và ma thuật. Malinowski đưa ra

giả thuyết là khi người Trobriand đánh cá gần bờ và sử dụng các ngư cụ thô sơ thì họ

11

không cần đến ma thuật. Nhưng khi họ đánh bắt xa bờ, mức độ nguy hiểm càng gia

tăng thì họ sẽ dùng đến các biện pháp ma thuật nhằm trấn an tinh thần. Với lý thuyết

chức năng cùng với chất liệu nghiên cứu về cách thích nghi với tự nhiên, Malinowski

đã chỉ ra các nguyên nhân và chức năng của ma thuật qua các loại hình sinh kế

(L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010).

Nghiên cứu thực tiễn thứ hai được chúng tôi tiếp cận là nghiên cứu của tác giả

E.E. Evans – Pritchard. E.E. Evans – Pritchard là người đã dành nhiều thời gian và

công sức nghiên cứu về người Nuer trong công trình “The Nuer” công bố năm 1940.

Với điều kiện sinh thái của mình, người Nuer ở Sudan sống bằng nghề trồng trọt và

chăn nuôi; bên cạnh đó, họ cũng săn bắn, đánh bắt, hái lượm trái dại và củ rễ. Tuy đa

dạng sinh kế nhưng người Nuer nhận thức rằng dinh dưỡng từ thịt gia súc là lớn hơn

cả, nó giúp cho mắt của họ tốt hơn; vì thế, dù khi có nền kinh tế pha tạp nhưng người

Nuer vẫn sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Evans – Pritchard đặc biệt quan tâm đến

mối quan hệ sinh thái học với tổ chức xã hội. Điều này đã khiến cho ông được xem là

người tiên phong của ngành sinh thái học hiện đại. Với nghiên cứu này, chúng tôi

tiếp cận kế thừa về phương pháp nghiên cứu và kể cả những ứng dụng nghiên cứu.

Mặc dù, về không gian (miền Đông Châu Phi), tộc người (người Nuer) trong nghiên

cứu của Evans – Pritchard không giống với không gian (ĐBSCL) và tộc người

(người Khmer) nhưng nghiên cứu này vẫn có giá trị đáng kể để chúng tôi kế thừa bởi

quan điểm sinh thái học hiện đại. Người Khmer ở ĐBSCL mặc dù bối cảnh, môi

trường sống không giống với người Nuer những cách họ lựa chọn trong sinh kế, cách

họ tương tác với MTTN để có thực phẩm thì gần giống như nhau, đặc biệt giống

nhau ở điểm khi họ có sự đa dạng về kinh tế những họ cũng rất coi trọng trồng trọt

và chăn nuôi (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard, 2010).

Nghiên cứu thực tiễn thứ ba được chúng tôi kế thừa là công trình của tác giả

Julian Steward - người đã đặt nền móng cho thuyết sinh thái văn hóa (Cultural

ecology) và đề ra khái niệm thích nghi với môi trường. Sinh thái văn hóa là sự thích

nghi của con người với MTTN theo những cách khác nhau và sáng tạo ra những giá trị

văn hóa đa dạng. Julian Steward cho rằng: “những nền văn hóa trong cùng môi trường

phát triển có xu hướng theo những chuỗi phát triển giống nhau và lập thành công thức

tương tự nhau đáp ứng với những thay đổi của môi trường” (L.Warms, R.Jon MC.

Gee- Richard, 2010), tr 319. Để chứng minh cho lý thuyết của mình, Steward đã có

12

nghiên cứu về nhóm người Shoshoni và người Bushmen. Với người Shoshoni, do điều

kiện vật chất (săn bắn) đã làm xuất hiện các hình thái xã hội phụ hệ. Steward giả định

về những khác biệt sinh học giữa nam và nữ để giải thích nguồn gốc chế độ phụ hệ.

Theo đó, với đặc thù kiếm sống (săn bắn) cần dùng sức lực cơ bắp nên người đàn ông

đóng vai trò quyết định trong việc tìm kiếm thức ăn và từ đó đã hình thành chế độ phụ

hệ.

Với nghiên cứu về người Bushmen, Steward lại cho rằng những hạn chế về môi

trường như đất đai khô cằn, không sinh lợi đã ảnh hưởng đến cư trú và hình thành

nhóm gia đình theo chế độ phụ hệ. Thuyết tiến hóa của Steward là thuyết tiến hóa đa

tuyến vì theo ông, văn hóa có thể tiến triển theo nhiều mô hình khác nhau bất kỳ, tùy

thuộc vào các hoàn cảnh môi trường của chúng. Ông nhấn mạnh đến sự thích nghi của

văn hóa cá nhân với những điều kiện môi trường riêng biệt. Theo ông, những nền văn

hóa trong những môi trường tương tự nhau sẽ có xu hướng phát triển theo những quá

trình giống nhau và sẽ tạo nên những đáp trả tương tự đối với những thách thức của

môi trường. Ông gọi những đặc điểm văn hóa đó kết hợp chặt chẽ với những phong

tục là hạt nhân văn hóa.

Dự báo về những thách thức với MTTN của những công dân toàn cầu được hai

tác giả Aurelio Peccei và Daisaku Ikeda nêu lên trong quyển “Tiếng chuông cảnh tỉnh

cho thế kỉ XXI”. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, cả thế giới tiến vào một giai đoạn mới

và ngỡ rằng đã làm chủ được tất cả khi khoa học công nghệ phát triển một cách nhanh

chóng. Tuy nhiên, vẫn có những hiện tượng nằm ngoài tầm với của nhân loại đó là sự

phản ứng trở lại của tự nhiên khi hàng loạt các thiên tai trên thế giới liên tục xảy ra đó

là: hạn hán, lũ lụt, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên... Tác phẩm cung cấp cho chúng tôi

những điểm nhìn tham chiếu, giúp có sự liên tưởng đến những thách thức của các tộc

người thiểu số trước những dự báo mang tính toàn cầu là những vấn đề về biến đổi khí

hậu (BĐKH) đang diễn ra ngày một phức tạp hơn ở ĐBSCL (Aurelio Peccei –

Daisaku Ikeda , 1993).

Trên cơ sở thực địa Châu Á, Bức khảm văn hóa Châu Á tiếp cận Nhân học do

Grant Evant (chủ biên) xuất bản năm 2001 là tập hợp những phần trình bày thú vị về

hệ thống lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của ngành nhân học. Công trình giúp

chúng tôi nhận biết sự tương đồng và khác biệt trong sự đa dạng văn hóa của các dân

tộc ở Châu Á trong đó có Việt Nam. Dưới góc tiếp cận nhân học kinh tế, tác giả John

13

Clammer với nghiên cứu “Ngư dân, dân du canh, người bán hàng rong, nông dân và

dân chăn nuôi” đã trình bày về sự gắn kết giữa kinh tế với sự hiểu biết về sinh thái. Sự

hiểu biết và tôn trọng tự nhiên sẽ quyết định đến sự tác động vào tự nhiên và từ đó tạo

ra các hiệu quả kinh tế, thói quen kinh tế của tộc người (Grant Evant , 2001).

“Địa đàng ở Phương Đông” của Stephen Oppenheimer (2005) là một công

trình đưa ra các giả thuyết về quá trình biển dâng, biển lùi ở Đông Nam Á. Những

trận đại hồng thủy, nguồn gốc thủy tổ của một số tộc người có sự tương đồng nhau

giữa các tộc người trên thế giới. Dù những giả thuyết của Stephen Oppenheimer –

một bác sĩ, nhà thám hiểm, nhà dân tộc học vẫn còn nhiều điều cần trao đổi khi đã

tuyên bố Đông Nam Á là nơi khởi nguyên của văn minh nhân loại. Tuy nhiên, câu

chuyện chúng tôi quan tâm là thủy tổ, cách giải mã nguồn gốc tộc người liên quan

đến nước và cách ứng xử của cư dân Đông Nam Á với tự nhiên được tác giả đề cập.

Dựa trên quan điểm này, chúng tôi có thể giải mã, lý giải một số phong tục liên quan

đến nước của người Khmer - một tộc người có lịch sử cư trú lâu đời ở Đông Nam Á

(Oppenheimer, 2005).

Lévy Bruhl trong công trình “Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người

nguyên thủy” (2008) đã có những phân tích sâu sắc về tư duy của người nguyên thủy.

Theo đó, trong quá trình tác động vào tự nhiên để sinh sống như bắt cá hay săn mồi

người nguyên thủy xem đó là điềm may rủi và ma thuật. Những sự bất thường trong

cuộc sống khi xảy ra với họ, điều họ bận tâm hàng đầu là yếu tố bất thường và may

rủi. Chẳng hạn như khi họ bị mất mùa, không có mưa hay không đủ nước, con mồi lẩn

trốn các thợ săn, con cá lẫn trốn những ngư dân, phụ nữ trong nhóm người vẫn vô

sinh, trẻ em chết yểu…. người nguyên thủy lập tức kết luận họ là nạn nhân của những

rủi ro hay do một thế lực xấu nào đó ám hại họ. Và đặc biệt là khi cơ may đến, họ lại

chẳng nghĩ ngợi nhiều. Khi xảy ra những biến cố, những rủi ro mới khiến người

nguyên thủy nghĩ tới những yếu tố may rủi và ma thuật. Có thể thấy rằng, từ trong tư

duy thô sơ của người nguyên thủy, trước tác động của môi trường họ cho rằng đó là sự

tác động của những đấng siêu nhiên, đầy huyền năng và cần phải ứng xử trở lại bằng

những hành động ma thuật (Bruhl, 2008).

Năm 2008 tác giả Trịnh Hiểu Vân đã xuất bản công trình Văn hóa nước. Đây là

công trình khá chi tiết về cách ứng xử với nước của người Thái dưới cách tiếp cận văn

hoá sinh thái. Nước không chỉ là nguồn sống thiết yếu mà gắn với nó là những yếu tố

linh thiêng. Người Thái vừa tôn kính vừa sợ hãi nước và có hẳn những luật tục để bảo

14

vệ nguồn nước. Trịnh Hiểu Vân đã phác thảo một nét khái quát văn hoá nước của

người Thái với việc bảo vệ môi trường nước hiện nay. Từ quan niệm về nước, mối

quan hệ của nước với cư trú, sinh kế, yếu tố nước trong tôn giáo tín ngưỡng và nước

trong đời sống xã hội, sự ảnh hưởng của văn hoá nước với môi trường nước. Qua đó,

cần phải xây dựng văn hoá nước với những giá trị mới trong bối cảnh biến đổi khí hậu

hiện nay. Xây dựng được văn hoá nước sẽ giúp con người ý thức được giá trị cũng như

sự cân bằng giữa con người với tự nhiên: cần phải yêu quý nước, tôn kính nước và bảo

vệ môi trường nước (Trịnh Hiểu Vân, 2008).

Những công trình nghiên cứu về ứng xử với nguồn tài nguyên nước, đất và rừng

phần nào cho thấy được tình hình nghiên cứu văn hóa sinh thái của các tác giả trên thế

giới từ trước đến nay rất quan tâm. Những công trình nghiên cứu này đã có sự đóng

góp lớn cho hướng nghiên cứu về văn hóa sinh thái và cũng là nguồn tài liệu quan

trọng cho chúng tôi tham khảo và so sánh khi nghiên cứu về ứng xử với MTTN trong

văn hóa của người Khmer ở ĐBSCL. Các tài liệu về sinh thái văn hóa của các tác giả

ngoài nước mặc dù về điểm chọn nghiên cứu, không gian nghiên cứu của các tác giả

khác với không gian ĐBSCL của Việt Nam nhưng đây là những cứ liệu quý giá có ý

nghĩa rất nhiều giúp chúng tôi tham khảo về phương pháp và thao tác trong quá trình

thực hiện luận án.

1.1.2.2. Công trình của các tác giả trong nước

a. Nhóm công trình ứng xử với tự nhiên của một số tộc người trong không gian

văn hóa Việt Nam

Văn hóa ứng xử với MTTN của người Việt và các tộc người thiểu số khác như

người Dao Đỏ, người Thái, người Lào cũng là một hướng nghiên cứu được nhiều tác

giả quan tâm. Trong số các công trình đã khảo sát, chúng tôi tiếp cận được nhiều nhất

là các nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Việt ở các vùng miền trong không

gian văn hóa Việt Nam. Các công trình này giúp chúng tôi có cái nhìn đối sánh khi

nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL.

Đầu tiên là công trình Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên

nhiên do Nguyễn Viết Chức chủ biên (2002) là công trình được các tác giả tập trung

làm rõ mối quan hệ giữa môi trường thiên nhiên và văn hóa ứng xử đối với môi trường

thiên nhiên của người Hà Nội từ truyền thống đến hiện đại. Trước thách thức của toàn

cầu hóa trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tác giả đã đề xuất

một số phương hướng, quan điểm, giải pháp và điều kiện xây dựng văn hóa ứng xử

15

của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên. Đây là một chủ đề mới nhưng chỉ dừng

lại ở một địa phương cụ thể là Hà Nội. Giới hạn cuốn sách đặt ra là dừng lại ở quan hệ

của người Hà Nội chỉ với môi trường thiên nhiên và đặt nó trong điều kiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa (Nguyễn Viết Chức, 2002).

“Nước trong văn hóa Việt Nam” (2006) của Tô Ngọc Thanh là một bài mở

đầu cho một hội thảo khoa học Văn hóa sông nước miền Trung và văn hóa sông

nước Phú Yên đã chỉ ra những giá trị của nước trong đời sống người Việt. Nước

với những đặc tính mềm mại, uyển chuyển và có cả sức mạnh ma thuật thần bí đã

trở thành yếu tố không thể thiếu trong lễ nghi của người Việt. Đây là dạng bài viết

mang tính chất gợi mở, chưa nghiên cứu sâu về những ứng xử với nước của người

Việt (Tô Ngọc Thanh, 2006).

Trần Thúy Anh với công trình Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của

người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ (2009), tác giả đã cho rằng: văn hóa

Bắc Bộ có tính chất hướng đạo cho cả nước và tính cách người nông dân Bắc Bộ là

tính cách nông dân điển hình. Đối tượng chính nghiên cứu của công trình là người

Việt, chủ yếu là người nông dân Việt ở Bắc Bộ bởi tính cách người Việt ở đây là tính

cách nông dân điển hình. Văn hóa Bắc Bộ có tính hướng đạo cho cả nước nên ứng xử

người Việt Bắc Bộ vì vậy cũng mang tính chất đại diện tiêu biểu cho cả nước Việt

Nam. Thế ứng xử, cách ứng xử quy định các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,

giữa con người với con người ở tính chất quan thiết nhất: tính xã hội nhân văn của bản

thân các mối quan hệ này. Đề tài lấy ca dao, tục ngữ làm điểm tựa văn học dân gian để

giải thích, chứng minh cho các luận điểm được nêu ra; qua đó thể hiện sinh động và

sâu sắc diễn trình lịch sử, chiều sâu văn hóa và các sắc thái riêng biệt trong ứng xử của

người Việt với cái tự nhiên bao quanh họ và trong lòng họ, những tiếp biến văn hóa

trong ứng xử cổ truyền với xã hội của học từ trong lịch sử (Trần Thuý Anh, 2009).

Tri thức dân gian về ứng xử với MTTN trong đời sống vật chất người Việt vùng

U Minh Thượng (2011) tác giả Nguyễn Diệp Mai đã miêu tả một số hiện tượng văn

hóa dân gian người Việt vùng U Minh Thượng nhằm hệ thống hóa tư liệu, cung cấp

những thông tin khái quát về tri thức dân gian trong đời sống vật chất thông qua thái

độ ứng xử với MTTN. Qua đó, tác giả đã phân tích, so sánh tìm ra nét chung và riêng

trong từng hiện tượng văn hóa và nêu những giá trị của tri thức dân gian về ứng xử với

16

MTTN của người Việt vùng U Minh Thượng (Nguyễn Thị Diệp Mai, 2011).

Luận án Văn hóa ứng xử với thiên nhiên qua không gian ở của người Việt của

Võ Thị Thu Thủy (2013) đã nhận diện những đặc trưng về văn hóa ứng xử của con

người với thiên nhiên qua các phương diện khai thác, ứng phó và thích ứng với thiên

nhiên thể hiện trong không gian ở của người Việt tại ba miền Bắc, Trung, Nam. Tác

giả đã xác định các giá trị nổi bật và đặc trưng về văn hóa ứng xử với thiên nhiên của

người Việt trong không gian ở, góp phần làm rõ một phần về bản sắc văn hóa dân tộc

thông qua nếp nhà và văn hóa cư trú của người Việt (Võ Thị Thu Thuỷ, 2013).

Nghiên cứu về cư dân và ngư dân vùng biển Nam Bộ dưới góc tiếp cận Nhân học

biển (Maritime Anthropology) có sự đóng góp của Phan Thị Yến Tuyết với công trình

Đời sống xã hội - kinh tế văn hóa của ngư dân và cư dân ven biển Nam bộ (2014). Đây

là một công trình quan trọng về việc nghiên cứu về cộng đồng ngư dân ven biển Nam bộ

dưới góc nhìn Nhân học biển tác giả đã cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện về

MTTN cũng như diện mạo kinh tế, xã hội và văn hóa của các cộng đồng ngư dân và cư

dân sinh sống ở vùng ven biển, hải đảo của 9 tỉnh, thành Nam bộ. Ngoài ra, một số cộng

đồng ngư dân ven biển được tác giả tập trung giới thiệu cụ thể như: Vàm Láng (Tiền

Giang), An Thủy (Bến Tre), Bình An (Kiên Giang),… (Phan Thị Yến Tuyết , 2014).

Nghiên cứu ứng xử với MTTN của một số tộc người qua các tri thức bản địa

còn có nghiên cứu Ứng xử của người Dao Đỏ ở Sapa trong cư trú, khai thác và bảo

vệ rừng, nguồn nước (2015) của Phạm Công Hoan hay công trình Tri thức dân gian

về nước của người Lào ở tỉnh Điện Biên (2015) của các tác giả Đặng Thị Ngọc

Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung. Hai công

trình này nghiên cứu về cách ứng xử của người Dao Đỏ và người Lào với MTTN

như ứng xử với rừng, với nguồn nước v.v. Mỗi tộc người có văn hoá ứng xử khác

nhau với MTTN như trong văn hoá vật thể họ khai thác tự nhiên như khai thác các

loại cây rừng, lá rừng để làm nhà ở, để làm thực phẩm; trong văn hoá phi vật thể họ

có những tín ngưỡng dân gian liên quan đến tự nhiên như lễ cúng bến nước, lễ cúng

rừng mỗi khi họ đốt rừng làm rẫy hoặc sau mỗi vụ thu hoạch. Nhìn chung, các

nghiên cứu này chỉ ra tâm thức và văn hoá ứng xử với MTTN của các tộc người

thiểu số là họ có thái độ trân trọng và có ý thức bảo vệ MTTN khá tốt. Trong cuộc

sống họ nương tựa vào tự nhiên nên họ rất tôn kính tự nhiên dẫn đến họ có các tín

ngưỡng tự nhiên. Các công trình này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên

17

cứu của luận án, là điểm tựa so sánh để chúng tôi nhận diện văn hoá ứng xử với

MTTN của người Khmer ở ĐBSCL (Phạm Công Hoan, 2015); (Đặng Thị Ngọc

Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung , 2015).

Tri thức bản địa của các tộc người thiểu số tại chỗ ở Đắk Nông (2017) của hai

tác giả Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu (chủ biên) là một công trình nghiên cứu về tri

thức bản địa của các tộc người thiểu số ở Đắk Nông. Công trình được thực hiện theo

hướng nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội như văn học, văn hoá học, nhân học, xã

hội học... đã nghiên cứu về những tri thức bản địa trong ứng xử trong khai thác tự

nhiên: khai thác rừng, khai thác nguồn nước tự nhiên trong các hoạt động: trồng trọt,

chăn nuôi và nghề thủ công của các tộc người M’Nông, Mạ, Ê Đê. Tài liệu là nguồn

tham khảo khá quan trọng để chúng tôi nghiên cứu về dân tộc thiểu số là người Khmer

ở ĐBSCL (Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu , 2017).

Ngoài những nghiên cứu dưới tiếp cận nhân học văn hóa chúng tôi còn tham

khảo một số công trình từ chuyên ngành văn học như:

Nguyễn Thị Kim Ngân (2015) với tập chuyên khảo Thiên nhiên với sắc thái văn

hóa vùng trong ca dao Nam Trung Bộ đã tập trung làm rõ diện mạo của thiên nhiên

trong ca dao miền Trung trên cơ sở phân biệt khái niệm thiên nhiên theo góc độ tự

nhiên và thiên nhiên theo góc độ nghệ thuật. Sử dụng tư liệu là ca dao miền Trung,

công trình tập trung vào các đối tượng: cảnh trời (mặt trời, mặt trăng, sao, mây, gió),

cảnh đất (núi, rừng, sông, hồ,...) cảnh biển (biển, sóng, đảo, vịnh,...) và thế giới động

vật, thực vật. Công trình dừng lại ở khảo sát, thống kê, mô tả những cảnh vật của thiên

nhiên “hoang dã”, không khảo sát thiên nhiên đã được thuần hóa (ruộng lúa, nương

dâu, trâu, bò, gà, vịt, ao…) (Nguyễn Thị Kim Ngân, 2015).

Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian Thái của Đặng Thị Oanh

(2016) đã giải mã biểu tượng nước qua văn hóa dân gian tộc người Thái. Nghiên cứu

này sử dụng hướng tiếp cận văn hóa văn học để nghiên cứu văn hóa ứng xử với nước

của người Thái. Công trình sử dụng tư liệu văn học dân gian Thái để giải mã nước

mang các đặc tính như: tính nữ; không gian thiêng; sức mạnh thanh tẩy, hủy diệt, tái

sinh; dấu hiệu dự báo các hiện tượng tự nhiên, xã hội Thái; chất kết nối tình cảm, thiết

lập và cố kết cộng đồng (Đặng Thị Oanh, 2016).

Nghiên cứu phê bình sinh thái như một hướng nghiên cứu mới thu hút khá

nhiều sự quan tâm của các học giả Việt Nam. Các nghiên cứu này chỉ ra mối quan hệ

giữa văn học và MTTN như tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh lấy tư liệu

18

khảo sát văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 đã trình bày về sự gắn kết của con người với

MTTN từ trong tâm thức đến những biểu hiện trong cuộc sống; quyển Rừng khô, suối

cạn, biển độc…và văn chương – phê bình sinh thái (2017) của Nguyễn Thị Tịnh Thy

giới thiệu khá đầy đủ về lý thuyết, nguồn gốc, phát sinh, sự khác nhau về các quan

niệm, quan điểm phê bình sinh thái. Không dừng lại ở những trình bày khô cứng về lý

thuyết, tác giả còn có những phân tích sâu về các truyện ngắn của một số tác giả Việt

Nam, Trung Hoa và Nhật Bản dưới góc nhìn phê bình sinh thái. Đóng góp của tác giả

Nguyễn Thị Tịnh Thy thể hiện trong quan niệm “chỉnh thể sinh thái” khi cho rằng mọi

yếu tố không còn là yếu tố mà là chủ thể có giá trị tự thân, độc lập và liên đới nhau,

nếu phá vỡ một chủ thể nào đó sẽ phá vỡ cả chỉnh thể: con người, động vật, cây cối,

đất, rừng, sông, biển, trái đất... (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh , 2016); (Nguyễn

Thị Tịnh Thy , 2017).

b. Nhóm công trình về ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer ở

đồng bằng sông Cửu Long

Có thể nói, những ghi chép, nghiên cứu về người Khmer đã được thực hiện từ

khá sớm. Trước năm 1975 có công trình tiêu biểu của tác giả Lê Hương nghiên cứu về

người Khmer đó là Người Việt gốc Miên. Đây là công trình sưu tầm và giới thiệu về

nguồn gốc, cách thức sinh hoạt, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của người

Khmer ở Nam bộ. Trong công trình này, tác giả Lê Hương đã giới thiệu bức tranh

tương đối hoàn chỉnh về người Khmer truyền thống ở Nam Bộ. Thông qua các nghi

thức trong đời sống sinh hoạt vật vất và đời sống sinh hoạt tinh thần đã thấy được văn

hóa ứng xử với tự nhiên trong quá trình sinh sống hòa nhập của người Khmer với điều

kiện môi sinh ở Nam Bộ (Lê Hương , 1969).

Sau năm 1975, việc nghiên cứu các dân tộc ít người ở phía Nam, trong đó có

người Khmer ở ĐBSCL được nhiều nhà khoa học quan tâm. Một số vấn đề kinh tế, xã

hội, văn hóa tộc người của người Khmer đã được nghiên cứu một cách khoa học; tuy

nhiên, những công trình nghiên cứu vẫn còn trong giai đoạn mới hình thành. Trong đó,

phải kể đến công trình Người Khmer Cửu Long (1987) là công trình hợp tác giữa Viện

văn hóa và Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Cửu Long, một công trình biên khảo về người

Khmer ở tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh hiện nay. Chương 1 của công trình khái

quát về điều kiện môi sinh, dân cư, đặc điểm sinh hoạt văn hóa vật thể: kinh tế nông

nghiệp, dụng cụ cày bừa, tổ chức nhà ở… thể hiện được cách ứng xử của người Khmer

19

với đất đai, khí hậu. Chúng tôi kế thừa và đây là nguồn tài liệu giúp chúng tôi đối sánh

với những thay đổi trong văn hóa ứng xử với tự nhiên của người Khmer trong giai

đoạn hiện nay (Huỳnh Ngọc Trảng , 1987).

Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ (1988) là tập hợp những bài báo

cáo, tham luận về người Khmer ở Nam Bộ trên các phương diện: dân số, địa bàn cư

trú, tổ chức xã hội, sản xuất nông nghiệp. Các bài viết “Khái quát về người Khmer ở

đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Thạch Voi, “Văn hóa Khmer trong quá trình

giao lưu và phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Đinh Văn Liên đã khái

quát tương đối đầy đủ về điều kiện môi sinh và quá trình thích nghi của người Khmer

truyền thống với sinh thái của vùng ĐBSCL (Viện Văn Hóa , 1988).

Từ sau năm 1990 trở đi nhiều thành tố văn hóa Khmer được nhiều nhóm tác giả

quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Đây là giai đoạn vùng đất ĐBSCL bước vào công

cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các nhà

khoa học đã có những nhận thức đầy đủ hơn về vai trò và vị trí của dân tộc Khmer

trong sự phát triển của vùng. Mặt khác, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và

Nhà nước đối với dân tộc Khmer đã đặt ra những vấn đề cần quan tâm, cần có những

cơ sở khoa học; thêm nữa là những quan hệ tộc người, lịch sử vùng ĐBSCL, cũng cần

có một hiểu biết, một cơ sở nhận thức khoa học liên quan đến người Khmer, một trong

những chủ nhân tham dự công cuộc khai phá vùng đất này. Đó là tất cả những lý do

khiến giai đoạn này có rất nhiều công trình nghiên cứu về các giá trị văn hoá vật thể và

phi vật thể của người Khmer ở ĐBSCL. Trước những yêu cầu thực tiễn đó, việc

nghiên cứu về người Khmer đòi hỏi phải đi vào chiều sâu, kết hợp giữa lý luận, nhận

thức khoa học với thực trạng vùng dân tộc Khmer. Vấn đề nghiên cứu người Khmer

được đặt trong một bối cảnh rộng lớn hơn, gắn với yêu cầu phát triển với công cuộc

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong tình hình đó, nhiều nhà khoa học, nhiều

tổ chức khoa học của các viện, các trường đại học, của một số cơ quan trung ương, địa

phương đã tham gia nghiên cứu, khảo sát thực tế vùng nông Khmer ở ĐBSCL. Các

vấn đề được các học giả quan tâm nghiên cứu xoay quanh vấn đề đói nghèo, giáo dục,

bảo tồn và phát huy các giá trị vật thể và phi vật thể trong đồng bào Khmer Nam Bộ.

Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long (1990) của Viện Khoa học xã hội TP.

HCM là công trình nghiên cứu khá dày dặn, phong phú của nhiều học giả: Nguyễn

Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường cùng khá nhiều cộng tác viên về văn hóa của

các cư dân ở vùng ĐBSCL. Trong đó, chương IV là chương viết về môi sinh và đời

20

sống của dân tộc ít người (chủ yếu là người Khmer), cách ứng phó với điều kiện tự

nhiên của người Khmer ở các địa hình cư trú khác nhau (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân

Diệm, Mạc Đường , 1990).

Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long (1991) do Mạc Đường chủ biên là

công trình tập hợp bài nghiên cứu: “Đặc điểm môi sinh và dân số ở vùng người

Khơme đồng bằng sông Cửu Long” – Đinh Văn Liên, “Một số vấn đề kinh tế - xã hội

của vùng nông Khơme đồng bằng sông Cửu Long” – Phan An, “Một số đặc điểm văn

hóa vật chất của người Khơme và người Chăm ở ĐBSCL” – Phan Thị Yến Tuyết là

các bài nghiên cứu sâu về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh sống của người Khmer ở

ĐBSCL (Mạc Đường , 1991).

Công trình Văn hoá người Khmer đồng bằng sông Cửu Long (1993) là công

trình với sự tham gia của nhiều tác giả như: Trường Lưu, Thạch Voi, Đặng Vũ Thị

Thảo, Huỳnh Ngọc Trảng, Hoàng Túc, Lê Văn. Công trình đã giới thiệu khá đầy đủ về

văn hóa truyền thống của người Khmer ĐBSCL; trong đó, có các bài viết liên quan

đến lễ hội, phong tục tập quán của người Khmer là nguồn tư liệu quan trọng để chúng

tôi tham khảo (Viện Văn Hóa , 1988).

Chúng tôi còn được tiếp cận công trình Nhà ở - trang phục - ăn uống của các

dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (1993) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết. Đây

là công trình viết về văn hóa vật chất của các tộc người ở ĐBSCL và vấn đề ăn, mặc, ở

được tác giả cho là ba phương diện quan trọng nhất đảm bảo đời sống con người. Mặc

dù là văn hóa vật chất nhưng các giá trị tinh thần vẫn được thể hiện tạo nên đặc trưng

văn hóa tộc người (trong đó có người Khmer ĐBSCL) (Phan Thị Yến Tuyết, 1993).

Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long (1998) của tác giả Nguyễn Khắc

Cảnh là công trình khá công phu, hệ thống về phum sóc của người Khmer. Phum, sóc

là đơn vị tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Tác giả trình bày việc

nghiên cứu phum, sóc Khmer dưới nhiều góc độ khác nhau, đó là một đơn vị cư trú

truyền thống của người Khmer, về cấu trúc và chức năng, về những biến động trong

lịch sử. Theo đó, phum là một tập hợp người Khmer dựa trên mối quan hệ huyết thống

là chính, còn sóc là một tập hợp người dựa trên cùng cư trú trên một địa vực nhất định.

Xã hội truyền thống phum sóc của người Khmer đã và đang lùi vào quá khứ, nhường

chỗ cho một cơ chế quản lý hành chính hiện tại. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất

định, một số yếu tố của xã hội truyền thống phum sóc vẫn còn chi phối đời sống của

người nông dân Khmer ở ĐBSCL như tính cộng đồng, tính tự quản v.v… Trong tác

21

phẩm này, tác giả dành chương một để viết về địa lí môi sinh, đặc điểm phân bố dân

cư và cư trú của người Khmer. Nội dung này là nguồn tham khảo giúp chúng tôi có cái

nhìn toàn diện hơn về cách ứng xử với tự nhiên trong vấn về cư trú của người Khmer ở

ĐBSCL (Nguyễn Khắc Cảnh , 1998).

Trần Văn Bổn với công trình Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng

sông Cửu Long (1999) là công trình sơ khảo về phong tục, tín ngưỡng của người

Khmer. Tác giả Trần Văn Bổn tập trung khảo tả một mảng đời sống văn hóa tinh

thần rất phong phú, đa dạng trong đó có một hệ thống lễ nghi, lễ hội. Mỗi người

Khmer từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi đã trải qua nhiều nghi lễ đánh dấu sự

chuyển tiếp và trưởng thành đó là các lễ thức sinh đẻ, kiêng cữ của các bà mẹ và trẻ

sơ sinh, lễ đánh dấu sự trưởng thành của con trai bằng cách vào tu ở chùa khoảng 12

– 13 tuổi (ở con trai) và lễ vào bóng mát (ở con gái); tiếp theo là lễ cưới, và cuối

cùng là lễ tang. Trong một năm, người Khmer có nhiều lễ hội, như lễ mừng năm mới

(Chôl - Chnăm - Thmây), lễ giỗ tổ tiên (Đôlta), lễ cúng trăng (hay còn gọi là lễ đút

cốm dẹp) Ok - Om - Bok và một số nghi lễ Phật giáo như lễ Phật đản, lễ nhập hạ…

Tác giả Trần Văn Bổn đã tập trung miêu tả các nghi lễ, phong tục của người Khmer

và đã có bước giải thích các sự tích, nguồn gốc các lễ nghi dưới góc tiếp cận văn hóa

chức năng. Đây là công trình giúp chúng tôi có nhận thức sâu hơn về văn hóa Khmer

truyền thống. Thông qua tài liệu này, chúng tôi có thể lý giải tâm thức ứng xử với

MTTN của người Khmer qua các phong tục và lễ hội (Trần Văn Bổn , 1999).

Tác giả Nguyễn Khắc Cảnh có bài viết Chùa Khmer Nam Bộ - Công trình nghệ

thuật kiến trúc độc đáo đã trình bày kết quả nghiên cứu văn hoá truyền thống người

Khmer từ góc nhìn về ngôi chùa. Thông qua những điểm nhìn về nhân sinh quan của

người Khmer với tôn giáo được thể hiện qua kiến trúc ngôi chùa, tác giả đã cho thấy

những sự gần gũi, hoà nhập với thiên nhiên trong việc tác tạo khuôn viên nhà chùa của

người Khmer. Sự hoà nhập với thiên nhiên được phản ánh qua việc xây dựng nhà chùa

như những hàng rào tre, cây sao, dầu, thốt nốt được người Khmer trồng xung quanh

chùa như tạo nên một khu rừng nhỏ (Nguyễn Khắc Cảnh, 2008).

Quyển Dân tộc Khmer Nam Bộ (2009) của tác giả Phan An là một công trình góp

thêm nghiên cứu về người Khmer trên phương diện lịch sử và bản sắc văn hóa tộc người.

Quyển sách giới thiệu về điều kiện địa lý, dân cư, đặc trưng cư trú, sinh hoạt kinh tế, văn

hóa xã hội của người Khmer Nam Bộ (Phan An, 2009).

Chính sách đất đai & văn hóa tộc người – nghiên cứu trường hợp tại Sóc Trăng

22

(2011) là kết quả nghiên cứu của hai tác giả Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương thuộc dự

án nghiên cứu của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường. Đây là công trình

nghiên cứu về chính sách đất đai của các dân tộc tại địa bàn Sóc Trăng trong đó có

phân tích khá sâu về việc phân chia, sở hữu và ứng xử với đất đai của người Khmer.

(Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương , 2011).

Huỳnh Thanh Quang cũng là một tác giả có nghiên cứu văn hoá Khmer qua

công trình Giá trị văn hoá Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long (2011). Với

hướng tiếp cận giá trị, công trình của Huỳnh Thanh Quang đã có những phân tích

khá sâu sắc về văn hoá Khmer với sự nhận diện các giá trị trong văn hoá Khmer,

nhận diện những thực trạng, những vấn đề đặt ra trong việc phát huy các giá trị trong

văn hoá Khmer đồng thời nêu lên những phương hướng, giải pháp để tiếp tục phát

huy các giá trị văn hoá trong giai đoạn hiện nay. Cũng trong năm 2011, công trình

nghiên cứu về người Khmer là Văn hoá Khmer Nam Bộ: nét đẹp trong bản sắc văn

hoá Việt Nam các tác giả Phạm Thị Phương Hạnh (chủ biên) là công trình khá hoàn

chỉnh về văn hóa đặc trưng của người Khmer. Tuy nhiên, công trình mang tính khái

quát và chưa tập trung nghiên cứu sâu về văn hóa ứng xử của người Khmer. Hai

công trình này nghiên cứu văn hoá Khmer dưới góc tiếp cận giá trị học góp thêm

những nghiên cứu về đặc trưng, giá trị bản sắc văn hoá Khmer xưa và nay (Huỳnh

Thanh Quang , 2011), (Phạm Thị Phương Hạnh, 2011).

Công trình Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh (2012)

của hai tác giả Trần Dũng và Đặng Tấn Đức là công trình nằm trong chuỗi nghiên cứu

của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhằm sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền

dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các tộc người Việt Nam. Công trình chủ yếu

khảo sát tín ngưỡng và lễ hội dân gian của các tộc người Việt, Hoa, Khmer ở Trà

Vinh. Đề tài chúng tôi nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL

nên tài liệu này cung cấp cho chúng tôi một kênh thông tin về ứng xử với tự nhiên

được thể hiện trong văn hóa tinh thần của tộc người Khmer ở Trà Vinh (Trần Dũng,

Đặng Tấn Đức , 2012).

Là người có nhiều quan tâm đến vấn đề giáo dục trong đồng bào Khmer

ĐBSCL, tác giả Trần Thanh Pôn trong bài viết “Truyền thống giáo dục Phật giáo Nam

Tông Khmer với môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa dân tộc” (2014) có những

bàn luận về vai trò của nhà chùa trong giáo dục ý thức giữ gìn môi trường sinh thái.

Bên cạnh sự cần thiết của việc đào tạo ngôn ngữ, chữ viết, đạo lý làm người thì giáo

23

dục việc giữ gìn môi trường sinh thái trong cộng đồng Khmer là hết sức cần thiết

nhằm giữ gìn và phát huy giá trị trong bản sắc văn hóa Khmer. Đóng góp của bài viết

thể hiện ở khía cạnh tác giả có những đề xuất cần phải có dự án bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa sinh thái trong đồng bào Khmer để có môi trường phát triển bền

vững trong cộng đồng Khmer nói riêng và cộng đồng các dân tộc trên cả nước nói

chung (Trần Thanh Pôn, 2014).

Quyển Lễ hội truyền thống của người Khmer Nam Bộ (2015) của hai tác giả

Tiền Văn Triệu và Lâm Quang Vinh đã góp phần nghiên cứu về các lễ hội truyền

thống của người Khmer ở ĐBSCL. Công trình đã có những miêu tả về không gian,

thời gian cùng với những diễn biến chính của lễ hội của người Khmer. Cùng với sự kế

thừa các công trình đi trước viết về lễ hội truyền thống của người Khmer, quyển sách

còn cung cấp những kết quả điều tra điền dã tại địa bàn Sóc Trăng và Trà Vinh góp

phần làm phong phú thêm những nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL. Công trình

còn có những nghiên cứu mang tính mới khi có những nghiên cứu một cách hệ thống

về lễ hội Phước Biển, lễ hội Đạp cồng – Thác Cuôn (Sóc Trăng), lễ hội đua bò (An

Giang),… (Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh , 2015).

Đề tài về văn hoá người Khmer còn được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên

cứu thực hiện đề tài các cấp.

Tác giả Ngô Thị Phương Lan với đề tài mang tên “Sinh kế của người Khmer

ở ĐBSCL trong bối cảnh phát triển hiện nay” được thực hiện cấp Đại học Quốc gia

TP. HCM với mã số đề tài C2016-18B-06. Đến năm 2019, tác giả Ngô Thị Phương

Lan (chủ biên) công bố công trình Sinh kế và biến đổi văn hoá của người Khmer ở

huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh trình bày về các yếu tố tác động đến sinh kế; các động

thái sinh kế; sinh kế và các biến đổi sinh kế của người Khmer. Trong công trình

này, tác giả cùng với các đồng tác giả có trình này đến các nhân tố ảnh hưởng đến

sinh kế của người Khmer trong đó có những thách thức đến từ MTTN đã ảnh

hưởng rất lớn đến việc biến đổi sinh kế của người Khmer (Ngô Thị Phương Lan ,

2019).

Liên quan trực tiếp đến đề tài, tính đến thời điểm hiện nay, chúng tôi khảo sát

được một số nghiên cứu dưới dạng bài báo được công bố trên tạp chí của các tác giả:

Phan Thị Yến Tuyết, Hứa Sa Ni và Phan Anh Tú. Kết quả nghiên cứu của các tác giả

này cho rằng trong quan niệm của người Khmer, nước không chỉ là yếu tố thiết yếu để

24

sinh hoạt thường nhật như: ăn, uống, làm ruộng, trồng hoa màu, ... mà còn trở thành

một biểu tượng mang tính linh thiêng trong sinh hoạt văn hóa tinh thần: tín ngưỡng,

tôn giáo, phong tục, lễ hội (Phan Thị Yến Tuyết, 2006), (Hứa Sa Ni , 2015), (Phan

Anh Tú , 2017).

Nghiên cứu về ứng xử với MTTN của người Khmer, chúng tôi còn vận dụng

hướng tiếp cận liên ngành cụ thể là sử dụng nguồn tư liệu văn học dân gian Khmer để

làm rõ hơn tri thức bản địa của người Khmer trong ứng xử với tự nhiên. Nhóm công

trình này là sự tổng hợp, khảo sát từ các thể loại văn học dân gian của nhiều tác giả khác

nhau:

Huỳnh Ngọc Trảng với Truyện dân gian Khmer Nam Bộ xuất bản năm 1987 là

một công trình gồm các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện cười...

Thông qua những câu chuyện kể này chúng tôi có thể khai thác được yếu tố văn hóa

ứng xử mới MTTN của người Khmer. Bên cạnh đó, chúng tôi còn khảo sát các công

trình văn học dân gian Khmer của tác giả sưu tầm như: tác giả Tiền Văn Triệu đã có

công trình sưu tầm về thần thoại, truyền thuyết và sự tích của người Khmer được in

trong Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng (2011). Tư liệu văn học dân gian Khmer

giúp chúng tôi nhận diện tâm thức của người Khmer trong ứng xử với tự nhiên khi nói

về nguồn gốc tộc người Khmer hay những ứng xử với đất, nước, núi, ao, hồ trong quá

trình lao động sản xuất đã tác động vào tự nhiên và đã có sự cư xử hài hòa với tự nhiên

(Huỳnh Ngọc Trảng , 1987), (Tiền Văn Triệu , 2011).

Tất cả các nghiên cứu của các tác giả trong nước về của người Khmer ĐBSCL

có ý nghĩa quan trọng giúp chúng tôi tham khảo và nhận diện một bức tranh tổng thể

về tộc người Khmer, không gian cư trú của tộc người Khmer, văn hoá ứng xử với môi

trường tự nhiên của người Khmer ở ĐBSCL. Các công trình không nghiên cứu cụ thể

về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer còn khá ít ỏi và nếu có phần nhiều tập

trung vào những mô tả, phân tích về văn hoá ứng xử với những thành tố của MTTN

như ứng xử với đất, ứng xử với nước; đặc biệt nhất là những công trình nghiên cứu

văn hoá ứng xử với nước của người Khmer ĐBSCL thong qua những lễ hội liên quan

đến nước như Ok - Om - Bok của các tác giả Phan Thị Yến Tuyết, Hứa Sa Ni là những

thông tin hữu ích giúp chúng tôi tham khảo để nghiên cứu cho luận án. Mặc dù có một

số lượng lớn các nghiên cứu về người Khmer ở ĐBSCL, văn hoá ứng xử với tự nhiên

của người Khmer nhưng tính đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một công trình nào

25

nghiên cứu cụ thể về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ĐBSCL. Kết quả

nghiên cứu của luận án này hi vọng sẽ góp thêm một nghiên cứu tập về MTTN của

người Khmer ở ĐBSCL trên sở sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước.

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.2.1. Một số khái niệm

1.2.1.1. Văn hoá (culture)

Văn hoá là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Đến nay đã có rất nhiều định

nghĩa khác nhau về văn hoá. Có thể nói, tuỳ vào quan điểm tiếp cận, tuỳ vào chuyên

ngành tiếp cận mà mỗi định nghĩa về văn hoá sẽ có những nội hàm khác nhau. Văn

hoá thực sự được nghiên cứu từ rất sớm tuy nhiên đến năm 1871 khái niệm văn hoá

mới được nêu lên bởi nhà nhân học Edward B. Tylor trong công trình Văn hoá nguyên

thuỷ: “Văn hoá hay văn minh, hiểu theo ý nghĩa dân tộc bao quát của nó, là một tổng

thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục

và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con người với tư cách thành viên

của xã hội” (Edward B. Tylor , 2000), tr. 13. Theo định nghĩa này, Tylor chưa phân

biệt sự khác nhau giữa văn hoá và văn minh và đồng nhất văn hoá với văn minh trong

khi cách hiểu hiện nay về văn hoá lại có sự phân biệt khác nhau rõ rệt văn hoá và văn

minh. Văn hoá là tất cả những hoạt động của con người, nằm ngoài và khác với tự

nhiên.

Ở Việt Nam, học giả Đào Duy Anh cho rằng: “hai tiếng văn hoá chẳng qua là

chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng:

Văn hoá tức là sinh hoạt (Đào Duy Anh , 2003).

Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là

một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy

qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự

nhiên và xã hội của mình” (Trần Ngọc Thêm, 2006), tr. 25.

Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá nhưng có thể tạm quy về hai loại

Văn hóa hiện theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử… Văn hóa hiểu

theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn và tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà

có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ, xét từ khía cạnh tự nhiên thì văn hóa là “cái tự

nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều

là văn hóa”. Văn hoá chính là sản phẩm của con người. Con người thoát khỏi tự nhiên

26

khi nào thì từ đó có sự xuất hiện của văn hoá (Nguyễn Từ Chi , 2003), tr. 55.

Từ các định nghĩa khác có thể thấy có 3 cách hiểu nhau về văn hoá:

Thứ nhất: văn hoá được hiểu là những phong tục, nếp sống và kiểu định nghĩa

này đại diện là của E. B. Tylor.

Thứ hai: văn hoá được hiểu là sự ứng xử trong đó có sự khác nhau giữa văn hoá

ứng xử với xã hội và văn hoá ứng xử với tự nhiên. Dạng định nghĩa này chỉ rõ mối quan

hệ khăng khít giữa con người và tự nhiên, con người là một cá thể không tách bạch với tự

nhiên mà nương tựa vào tự nhiên, từ tự nhiên, thoát khỏi tự nhiên và tạo ra các giá trị văn

hoá. Đại diện cho dạng định nghĩa này là các định nghĩa của các tác giả Trần Ngọc Thêm

và Nguyễn Từ Chi.

Thứ ba: văn hoá là những sinh hoạt bao gồm các tập tục, phong tục, tín ngưỡng

và các thói quen của con người. Đây là cách hiểu tiêu biểu mà Đào Duy Anh đã sử

dụng.

Mỗi định nghĩa, mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm và hạn chế khác nhau.

Các cách tiếp cận không mâu thuẫn nhau mà hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tuỳ vào đối

tượng nghiên cứu, bối cảnh nghiên cứu mà có thể dựa và cách tiếp cận nào cho phù

hợp. Trong luận án này, chúng tôi sử dụng cách tiếp cận văn hoá là sự ứng xử

(behaviour).

Văn hoá là một chỉnh thể. Văn hoá không thể tồn tại biệt lập nếu không có các

yếu tố tạo thành như con người và môi trường tác động. Theo cách tiếp cận này, Trần

Ngọc Thêm chia văn hoá thành 4 thành tố: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức, văn

hoá ứng xử với MTTN, văn hoá ứng xử với môi trường xã hội.

Đây là cách tiếp cận hợp lý và phù hợp với đề tài. Xét về định nghĩa văn hoá,

Nguyễn Từ Chi cho rằng văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay

“tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”; hay Trần Ngọc Thêm “Văn

hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và

tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và xã hội của mình”. Trong hai định nghĩa này đều nhắc đến mối quan

hệ giữa con người và tự nhiên.

Con người sống và tồn tại qua quá trình tác động vào tự nhiên, biến đổi tự nhiên

để tạo ra các giá trị phục vụ con người. Các giá trị đó chính là văn hoá. Con người

27

sống cần các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở và đi lại, con người tác động vào tự nhiên

(thực vật, động vật, nước, đất…) để tạo ra thức ăn, làm nhà để ở, tạo ra trang phục để

che thân và để ứng phó với thời tiết, khí hậu.

1.2.1.2. Văn hóa ứng xử (behaviour)

Từ ứng xử trong tiếng Anh là Behaviour (từ điển Anh – Anh), Behavior (từ

điển Anh – Mỹ): là cách ai đó đối xử với con người, động vật, thực vật và các hoạt

động khác trong những trường hợp nhất định.

Ứng xử (behaviour) còn được một số học giả ở Việt Nam cho là “hành vi”.

Nếu đối với động vật, các nhà sinh học Việt Nam có lúc dịch là “hành vi”, khi khác

cho là “tập tính”.

Ứng xử (behaviour) còn được nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học. Tâm lý học

ứng xử buổi đầu được đại diện bởi thuyết ứng xử (Behaviourism) đầu thế kỉ XX. J.B.

Watson cho là chỉ nên quan sát mối kích động bên ngoài đã gây ra phản ứng (ứng xử

bằng hành động nào đó) tác động qua lại giữa chủ thể và MTTN, môi trường xã hội.

Watson và các nhà hành vi chủ nghĩa đã bỏ qua những suy diễn về nội tâm mà hầu như

chỉ xét đến hành vi máy móc (P. Wesley Schultz , 2002).

Quan niệm giản đơn hơn của trường phái thuyết ứng xử Mỹ sau này được điều

chỉnh trong khuynh hướng tâm lí ứng xử của B.F. Skinner đã vận dụng thêm những

khái niệm ngôn ngữ, tư duy, ý thức một cách khách quan. Theo ông, những kích động

bên ngoài không tạo ra phản ứng (ứng xử) một cách máy móc mà chỉ có tác dụng

chuyển lực những tiềm năng. Thuyết tâm lí ứng xử được vận dụng để nghiên cứu ứng

xử tự nhiên và xã hội của con người (P. Wesley Schultz , 2002).

Trong xã hội học, ứng xử dùng để chỉ cách hành động (và nói) như thế nào đó

của một vai trò xã hội này đối diện với một vai trò khác. Và đó là những hành động

hoặc gọi là phản ứng theo một cách tương đối. Ứng xử không chỉ giới hạn các vai trò

xã hội với nhau còn ứng xử với mình, ứng xử với đồ vật, với tự nhiên (Barker, 2011).

Bên cạnh những nghiên cứu về ứng xử như là những hành vi, tác động còn có

những nghiên cứu về ứng xử như là lối sống, trong một chừng mực nhất định, là cách

ứng xử của những người cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan

quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của

con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư (Phạm Đức Dương , 2013).

Một quan điểm khác cũng xem ứng xử như một hệ giá trị, như là phép đo chuẩn

mực trong quá trình tương tác giữa con người với con người và giữa con người với

28

ĐBSCL. Như Hồ Sĩ Vịnh cho rằng “Văn hoá ứng xử là một bộ phận của văn hoá đạo

đức và nhân cách con người. Đó là những hành vi, lời nói, phương thức tiến hành một

cách văn minh, lịch sự, đẹp, thích hợp trong việc giao tiếp với gia đình, cộng đồng xã

hội, đối với môi trường sinh thái và MTTN (Hồ Sĩ Vịnh, 2006), tr. 67.

Với phương pháp hệ thống cấu trúc – loại hình, Trần Ngọc Thêm cho rằng các

giá trị văn hoá gồm có 3 loại: văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức và văn hoá ứng xử.

Văn hoá ứng xử xét về đối tượng ứng xử có thể chia thành văn hoá ứng xử với MTTN

và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội. Cụ thể là “Cộng đồng người (chủ thể văn

hoá) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường – MTTN (thiên nhiên,

khí hậu,...) và môi trường xã hội (các dân tộc, quốc gia láng giềng)”. Con người không

thể nào sống ngoài MTTN và môi trường xã hội. Sự tác động vào MTTN là một sự

thích nghi. Sự thích nghi này nếu tương hợp sẽ tận dụng để tạo ra các giá trị trong ăn,

mặc, ở và đi lại; nếu không tương hợp sẽ ứng phó như ứng phó với thời tiết, với

khoảng cách và với những điều kiện không có lợi cho con người hay cụ thể hơn là ứng

phó với những yếu tố phi giá trị của con người (Trần Ngọc Thêm, 2006), tr 26.

Như vậy, ứng xử (behaviour) từng là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên

ngành khác nhau như tâm lý học, sinh học, xã hội học v.v. và trong chuyên ngành văn

hoá học, ứng xử được nghiên cứu như một “hành vi” tạo nên một thói quen trong tâm

tính một tộc người. “Hành vi” này cần trải qua một thời gian nhất định, được cộng

đồng tộc người công nhận và trở thành đặc trưng văn hoá của tộc người đó.

Văn hoá ứng xử là hệ thống các quan hệ tương tác, các phản ứng được thực

hiện bởi con người để thích nghi với môi trường (tự nhiên và cộng đồng). Qua sự

tương tác, tác động để thích nghi hay để ứng phó sẽ tạo ra các giá trị văn hoá. Kế thừa

nghiên cứu về văn hoá ứng xử của các tác giả đi trước, khái niệm văn hoá ứng xử với

MTTN được sử dụng để nghiên cứu cho luận án này theo chúng tôi là: Văn hoá ứng

xử với MTTN là sự thích nghi và sự ứng phó với MTTN để tạo ra các giá trị văn

hoá.

1.2.1.3. Môi trường tự nhiên (environment)

Môi trường - environment (từ điển Anh - Anh) có nghĩa là những điều kiện ảnh

hưởng đến cách cư xử, sự phát triển của ai đó hoặc cái gì đó, những điều kiện vật lý

mà ai đó hoặc cái gì đó tồn tại bên trong nó. Một thế giới tự nhiên mà ở đó con người,

động vật và thực vật sinh sống.

Tự nhiên - nature (từ điển Anh - Anh) có nghĩa là tất cả thực vật, động vật, thực

29

thể tồn tại ở toàn cầu và không được tạo nên bởi con người. Tự nhiên có một phạm vi

bao quát rộng lớn: vũ trụ, thiên hà, thế giới vật lý, thế giới sinh học. Đó là đá, đất, nước,

không khí, quặng, các chất trong hành tinh, ngoài hành tinh, trên mặt đất, dưới lòng đất,

biển, ao, hồ... và tất cả các sinh vật kể cả con người. Song hành cùng mối quan hệ xã

hội, với chính mình và với quá khứ (hay lịch sử, hoặc còn gọi là chiều tâm linh), mối

quan hệ giữa con người và tự nhiên là một nội dung rất quan trọng của đời sống văn

hóa. Con người tồn tại và phát triển trong, cùng và với MTTN.

Con người tồn tại trong tự nhiên, cùng phát triển với MTTN, mối quan hệ giữa

con người và tự nhiên cũng là một mặt cơ bản của đời sống văn hóa. Vật chất trong

con người do MTTN cung cấp, không khí con người hít thở, nước con người uống đều

lấy từ MTTN, thức ăn của con người cũng vậy. Tự nhiên đang thay đổi chậm chạp và

điều đó có liên quan đến con người trong mọi lĩnh vực hoạt động. Vấn đề cơ bản là

xác định vị trí con người trong tự nhiên và mối quan hệ của con người với tự nhiên.

Con người cũng có phần tự nhiên (bản năng, bẩm sinh...) và con người bao giờ cũng

phải sống với tự nhiên.

Như vậy, tự nhiên là cái đương nhiên tồn tại, không phải do ý muốn, hiểu biết

và sáng tạo của con người. Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm những

thực thể - hiện tượng tự nhiên mà cơ thể, quần thể, loài (quần xã) có quan hệ trực tiếp,

trước hết bàng các mối quan hệ thích nghi, rồi sau đó mới là biến đổi. MTTN là một

bộ phận trong môi trường lớn, là tổng thể các nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta

như bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng sản,

bức xạ mặt trời...

Vậy, MTTN là gì?

Theo quan niệm sinh học: MTTN được coi là tất cả những gì bao quanh các

sinh thể, gồm các yếu tố vô sinh và hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự

sống, sự tồn tại, phát triển và sinh sản của sinh vật (môi trường đất, môi trường nước,

môi trường không khí, môi trường bức xạ, ánh sáng, nhiệt độ và môi trường sinh vật).

Mọi sinh vật luôn có xu hướng thích nghi và biến đổi.

Tóm lại, MTTN là nơi các quá trình sống phải thích nghi và bảo tồn. Trong

MTTN có sự vận động của các quy luật vật lý giữa đất, nước, không khí và sự tương

tác giữa các vật thể vật lý, các sinh thể. Sự thích nghi là một loại hình ứng xử và để tồn

30

tại, mọi sinh vật đều dựa vào tự nhiên, có quan hệ với môi trường sống chung quanh.

1.2.1.4. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên

Văn hoá ứng xử với MTTN đã được quan tâm trong những nghiên cứu về văn

hoá. Như Nguyễn Xuân Kính (2003) từng cho rằng:

Con người tồn tại trong môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái

nhân văn và môi trường xã hội. Trong đó, môi trường sinh thái tự nhiên là

không khí, ánh sáng, mặt trời, gió, mưa, nóng, lạnh, núi, rừng (tự nhiên),...

là chưa có sự tác động, chưa có dấu ấn bàn tay và trí não của con người;

Môi trường sinh thái nhân văn là môi trường sinh thái đã có sự tác động của

con người: nhà ở, công viên, ao hồ, sông đào, rừng do con người trồng, đê

do con người đắp..; Môi trường xã hội là mối quan hệ và liên hệ giữa các cá

thể người, là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Con

người sống trong môi trường, tác động vào môi trường và có thể làm biến

đổi môi trường (Nguyễn Xuân Kính, 2003) tr. 9.

Với cách tiếp cận lịch sử - văn hóa, địa - văn hóa, Trần Quốc Vượng đã có

những nghiên cứu về vấn đề môi trường qua các vùng miền ở Việt Nam. Tác giả đã có

nghiên cứu về triết lý môi trường và cho rằng:

Con người muốn tồn tại phải có môi trường sống. Một văn hoá muốn phát

triển không thể thiếu điều kiện tự nhiên - với cảnh quan và môi trường sinh

thái.v.v. Nghiên cứu một tộc người không thể nghiên cứu tách biệt như một

thực thể độc lập, không gắn gì với môi trường văn hoá là không được (Trần

Quốc Vượng, 2005) tr.14.

Khi nghiên cứu về văn hóa và văn hóa Việt Nam với cách tiếp cận hệ thống -

loại hình, Trần Ngọc Thêm cũng đã chỉ ra văn hoá ứng xử với MTTN. Theo Trần Ngọc

Thêm, nền văn hoá phương Đông và phương Tây có sự đối lập nhau trong cách ứng xử

với MTTN. Người phương Đông thuộc văn hoá trọng tĩnh, thiên về văn hoá gốc nông

nghiệp nên cuộc sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nên đã có ý thức tôn trọng tự nhiên

và hướng đến sống hòa hợp với tự nhiên. Như người Việt Nam hay có câu cửa miệng là

“lạy trời’’, “ơn trời’’, “nhờ trời’’: “Lạy trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng

tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp’’; “Ơn trời mưa nắng phải thì, Nơi thì bừa

cạn nơi thì cày sâu’’ (Trần Ngọc Thêm, 2006) tr. 39.

Phạm Đức Dương với nghiên cứu “Con người và môi trường từ góc nhìn văn

31

hóa học” đã chỉ ra mối quan hệ gắn kết giữa con người và tự nhiên. Trong đó, tác giả

trình bày quan niệm về tự nhiên có sự khác biệt trong nền văn hóa phương Tây và

phương Đông. Người phương Đông với truyền thống nông nghiệp trồng lúa nước nên

cần nương nhờ vào tự nhiên và từ đó có cách ứng xử hài hòa với tự nhiên. Cách ứng

xử với tự nhiên đã trở thành nhân tố mang tính quyết định đối với nhân cách văn hóa -

một hệ giá trị đạo đức khu biệt với giá trị sử dụng và gắn chặt hơn với giá trị thẩm mỹ

và được đo bằng những thước đo của hệ thống bậc thang giá trị với những chuẩn mực

được xã hội thừa nhận (Phạm Đức Dương, 2002).

Khi nghiên cứu về văn hoá tộc người, Ngô Văn Lệ cũng có đề cập đến mối liên

hệ giữa hệ sinh thái và tộc người, mối liên hệ biện chứng của sự phát triển giữa con

người và tự nhiên. Mỗi tộc người được hình thành và phát triển trên một lãnh thổ với

những điều kiện địa lý tự nhiên nhất định. Điều kiện tự nhiên nơi tộc người đó sinh

sống chi phối ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của tộc người, được thể hiện qua các

yếu tố văn hóa vật chất văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội (Ngô Văn Lệ, 2003).

Trong buổi bình minh lịch sử nhân loại, khi con người chưa có khả năng khắc

phục những trở ngại do thiên nhiên gây ra thì chính những yếu tố địa lý tự nhiên ảnh

hưởng sâu sắc đến việc hình thành các chủng tộc và phân bố dân cư. Những điều kiện

địa lý nơi tộc người cư trú có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển, không chỉ trong quá

khứ, khi khả năng khắc phục còn hạn chế mà ngay cả trong thời đại hiện nay, khi con

người được sự giúp sức của các thành tựu khoa học.

Trong những nghiên cứu trước đây, ta thường chỉ xem xét và coi trọng mối

quan hệ giữa con người với con người và xem thường mối quan hệ giữa con người và

MTTN. Tuy nhiên, từ trong thực tế xa xưa, con người đã rất ý thức mối quan hệ giữa

con người và MTTN, đã biết khai thác những nguồn lợi của thiên nhiên để tồn tại và

phát triển, nhưng không phải khai thác đến mức kiệt quệ mà thường kết hợp một

cách hài hòa giữa khai thác và bảo vệ. Các tộc người thường có những quy định khá

chặt chẽ cho các thành viên của họ trong quá trình khai thác và săn bắt, ví dụ như

cộng đồng chỉ được chặt những loại cây nào, săn những loại thú nào. Thành viên

cộng đồng nào vi phạm sẽ bị căn cứ vào những luật tục để xét xử. Những biện pháp

như vậy có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ sinh thái nơi các tộc người sinh sống,

tạo nên sự gắn bó, sự hài hòa giữa con người và MTTN.

Từ khi chuyển từ hoạt động kinh tế chiếm đoạt sang hoạt động kinh tế sản xuất là

lúc bắt đầu những tác động tiêu cực của con người với môi trường xung quanh. Do sự

32

gia tăng về dân cư nên nhu cầu lương thực ngày một nhiều dẫn đến khai thác đất đai một

cách ồ ạt, làm ô nhiễm đất, nước và phá huỷ sự cân bằng của môi trường. Sự tác động

tiêu cực đến môi trường ngày càng tăng lên khi các nhà máy mọc lên khắp nơi, những

cuộc chiến tranh tàn khốc, những vấn đề kinh tế - xã hội của những nước nghèo làm cho

vấn đề môi trường vốn đã khó khăn phức tạp càng khó khăn phức tạp hơn (Ngô Văn Lệ,

2017).

Quan niệm về văn hoá ứng xử với MTTN đã được các nghiên cứu của rất nhiều

tác giả đề cập đến. Trong đó, các tác giả có phản ánh sự khác biệt giữa quan điểm của tư

duy phương Đông và phương Tây có sự khác nhau trong ứng xử với MTTN. Do chiến

lược kiếm thức ăn khác nhau trong thời gian dài, giữa con người phương Tây và phương

Đông đã hình thành rất nhiều phương thức ứng xử khác nhau đối với MTTN nói riêng

và môi trường sinh thái nói chung. Cách ứng xử tín ngưỡng, tôn giáo trong đánh giá và

nhận thức thiên nhiên Thiên chúa giáo, Tin lành giáo ở phương Tây và Phật giáo, Đạo

giáo ở phương Đông đều có cách ứng xử riêng với thiên nhiên tạo nên một truyền thống

văn hóa.

Các thay đổi công nghệ mới làm cho các hệ thống quản lý và ứng xử cổ truyền

suy giảm đi: các xã hội bộ lạc cổ xưa có một thái độ thành kính và tôn giáo đối với

thiên nhiên và ứng xử với mọi thứ trong thiên nhiên như một niềm kính trọng thiêng

liêng. Họ có tục thờ cây đa, bến nước và không ăn thịt chim, thịt những con vật thờ.

Thái độ ứng xử biết ơn và trân trọng tự nhiên đã ăn sâu vào tập quán xã hội.

Như vậy, tuỳ vào tâm thức văn hoá của tộc người khi họ đứng từ tư duy phương

Đông hay phương Tây sẽ có cách ứng xử khác nhau với MTTN. Từ những tiếp cận

quan điểm của các tác giả, theo chúng tôi cho rằng: Văn hoá ứng xử với MTTN là

một quá trình tương tác qua lại giữa con người với tự nhiên nhằm tạo ra các giá trị

vật chất và tinh thần.

1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu

1.2.2.1. Thuyết sinh thái văn hoá (cultural ecology)

Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là một thuật ngữ tương đối còn khá mới

trong ngành nghiên cứu văn hoá. Để đi đến lý thuyết về sinh thái văn hoá cần điểm

qua những tiền đề đã dẫn đến sự xuất hiện và những tên tuổi đã đề ra lý thuyết này.

Trước hết phải kể đến lý thuyết vùng văn hoá (culture area). Vùng văn hóa là

khái niệm chỉ một vùng lãnh thổ, một khu vực địa lý có sự tương đồng về môi trường

33

tự nhiên; có quá trình lịch sử lâu dài, ở đó có các dân tộc cư trú khá lâu đời và trong

quá trình đó ngoài bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc còn giữ được, còn thể hiện

sự tương đồng chung về kinh tế, văn hóa, xã hội nên đã tạo thành sắc thái văn hóa đặc

trưng của vùng. Thuyết vùng văn hoá đã xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ XX tại Mỹ.

Từ những ý kiến của F. Boas (đánh giá thấp thuyết khuếch tán văn hoá), các nhà nhân

chủng học C. Wissler và A.L.Kroeber đã phản đối thuyết khuếch tán văn hoá (cultural

diffusion) và đề ra thuyết vùng văn hoá. Tìm hiểu vùng văn hóa có thể thấy được dấu

ấn văn hóa của con người, thấy được đặc trưng văn hóa của con người trong quá trình

lịch sử và trên một vùng không gian cụ thể. Qua đó có thể phân biệt được văn hóa của

vùng này với vùng khác, so sánh những yếu tố văn hóa nào tương đồng, những yếu tố

nào dị biệt. Qua nghiên cứu vùng văn hóa, người ta có thể thấy được sự thích nghi của

con người với MTTN, sự thích nghi với hệ sinh thái, nơi mà con người sinh sống lâu

đời cũng như sự thích nghi của họ với môi trường xã hội mà họ cùng sinh sống

(Barker, 2011).

Từ những nghiên cứu tiền đề của A. L. Kroeber, một người học trò của ông là

Julian Steward đã có sự phát triển và đề xuất thuyết sinh thái học văn hóa (cultural

ecology). Mặc dù từng học A. Kroeber nhưng J. Steward lại thuộc trường phái phê

phán phương pháp thực chứng cá biệt của chủ nghĩa lịch sử vốn được F. Boas đặt nền

móng và A. Kroeber phát triển. Khác với quan điểm thực chứng cá biệt, J. Steward

quan tâm đến những đặc tính chung của các nền văn hóa cách xa nhau về địa lý. Về

tiến hóa luận, ông phê phán thuyết tiến hóa đơn hệ của Morgan và thuyết tiến hóa

chung của L. White. Theo ông, mỗi nền văn hóa có cách tiến hóa khác nhau tùy thuộc

vào những điều kiện đặc thù của nền văn hóa đó. Để chứng minh điều này, ông tiến

hành nghiên cứu so sánh các cách tiến hóa của nhiều nền văn hóa qua phân tích quá

trình phát triển lịch sử của mỗi nền văn hóa. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan

trọng của môi trường trong sự biến đổi mang tính tiến hóa của văn hóa. Ông gọi

nghiên cứu của mình là sinh thái học văn hóa (cultural ecology) và nghiên cứu văn hóa

theo lập trường của tiến hóa đa hệ.

J. Steward là người có sự quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa con người,

môi trường, kỹ thuật, cấu trúc xã hội cũng như cách thức tổ chức công việc. Ông đã

dành nhiều thời gian để tiến hành nhiều đợt điền dã khảo cổ ở California, Nevada,

Idaho và Oregon. Từ năm 1935, J. Steward xuất bản nhiều công trình có giá trị, trong

34

đó có công trình Các nhóm chính trị xã hội thổ dân vùng thung lũng-cao

nguyên (Basin-Plateau Aboriginal Sociopolitical Groups), xuất bản năm 1938 và đến

năm 1955 xuất bản công trình Lý thuyết về biến đổi văn hóa – Phương pháp luận về

tiến hóa đa hệ (Theory of Cuture Change – The Methodology of Multilinear

Evolution) thể hiện khá đầy đủ lý thuyết về sinh thái học văn hóa, đánh dấu bước

chuyển biến mới của nền nhân loại học Mỹ (L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard,

2010).

Thuyết tiến hóa đa tuyến do Steward đề xuất là một nỗ lực để tránh tính phổ

quát và những quan điểm mơ hồ của thuyết tiến hóa đơn tuyến. Tiến hóa đa tuyến

tránh các khó khăn đó bằng cách thừa nhận những quỹ đạo đa dạng của tiến hóa công

nghệ và xã hội ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Những quỹ đạo đó về cơ bản bị

giới hạn bởi các thực trạng sinh thái, bởi những quyết định mang tính lịch sử về công

nghệ và những yếu tố hạn chế của MTTN có tầm quan trọng hơn rất nhiều. Do đó,

thuyết tiến hóa đa tuyến gắn chặt với tư tưởng của sinh thái học văn hóa.

Thuyết tiến hóa đa tuyến của J. Steward thoạt nhìn có vẻ hoàn toàn đối lập với

thuyết tiến hóa chung của L. White, nhưng thực ra có không ít điểm tương đồng, đó là

cùng tiếp nhận quan điểm về tiến hóa, cùng đặc biệt coi trọng kỹ thuật, xem đó như là

chìa khóa để hiểu tính đa dạng của văn hóa và tổ chức xã hội. Thuyết tiến hóa đa tuyến

của J. Steward là sự bổ sung cần thiết cho quan điểm tiến hóa văn hóa, trong đó những

quan điểm và phương pháp nghiên cứu về sinh thái văn hóa, về những đặc điểm có

tính quy luật của biến đổi văn hóa thực sự có đóng góp lớn cho ngành nhân loại học

văn hóa. Theo J. Steward, trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ thuộc rất

nhiều vào tự nhiên. Ở các xã hội có trình độ càng thô sơ thì xã hội đó càng phụ thuộc

nhiều vào MTTN; bởi vì, ở những xã hội có trình độ khoa học kỹ thuật cao, con người

tương đối một phần nào đã chinh phục được tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ theo ý

muốn của con người để rồi trên bối cảnh sinh thái đó, con người trải nghiệm, sáng tạo

văn hóa và kỹ năng sinh sống của cộng đồng mình dựa trên tâm lý và bản sắc văn hóa

của dân tộc. Từ những thành tựu văn hóa có được qua sự thích nghi môi trường sinh

thái tại chỗ, có thể hình thành nên những loại hình văn hóa như là một tập hợp những

sắc thái văn hóa đặc trưng và tạo nên yếu tố cốt lõi của nền văn hóa. Qua nghiên cứu

sinh thái văn hóa, người ta sẽ hiểu được cách con người sử dụng văn hóa để thích nghi

với môi trường cụ thể ra sao. Sinh thái văn hóa là cách con người sử dụng văn hóa để

thích nghi với MTTN mà họ tồn tại. Trong lý thuyết sinh thái văn hóa, con người có

35

thể thích nghi để tồn tại bằng những tri thức riêng của họ. Những tri thức đó thuộc về

bản sắc văn hoá tộc người và có thể truyền thừa qua các thế hệ. Các tri thức này còn có

thể được trao đổi, chuyển giao qua lại giữa các tộc người cùng sinh sống trên một khu

vực địa lý nhất định.

Tóm lại, Steward được xem như là kiến trúc sư về thuyết tiến hóa đa tuyến

nhưng các lí thuyết của ông cũng có những nền tảng dựa trên thuyết khuếch tán văn

hóa. Chúng tôi sử dụng thuyết văn hóa sinh thái để làm cơ sở lý thuyết cho luận án bởi

vì điểm đặc biệt của Steward so với các học giả đi trước là ông đã nhấn mạnh đến việc

so sánh xuyên văn hoá và những chuyên khảo của ông quan tâm đến loại hình văn

hoá. Lý thuyết sinh thái của Steward đáng được chúng tôi vận dụng, học hỏi bởi các

điểm sau:

Thứ nhất: phương pháp sinh thái văn hoá ông đề ra không phải dựa trên quan

điểm quyết định kinh tế cứng nhắc. Ông đã xem nó như một cách để phân tích xã hội,

một cách để hiểu các dữ liệu văn hoá.

Thứ hai: lý thuyết này cho rằng các nền văn hoá được định hình bởi nhiều yếu

tố khác nhau chứ không phải chỉ có yếu tố môi trường và kĩ thuật. Ở điểm này đã có

những tiến bộ và hợp lý hơn so với thuyết xem môi trường là điều kiện quyết định duy

nhất và tuyệt đối đến một nền văn hóa.

Mặc dù lý thuyết sinh thái văn hoá J. Steward được đề xuất trên kết quả nghiên

cứu về các chủ thể (các tộc người thổ dân) ở các điểm nghiên cứu (California, Nevada,

Idaho và Oregon) có phần khác biệt với chủ thể (tộc người Khmer) và không gian

nghiên cứu của luận án (vùng ĐBSCL) nhưng tư tưởng, phương pháp luận của thuyết

này là đáng để học hỏi và vận dụng cho luận án. Hiện nay có rất nhiều quan điểm liên

quan đến thuyết nghiên cứu văn hóa sinh thái trong giới khoa học. Việc nhận thức con

người là một bộ phận của giới tự nhiên, sống và tương tác với tự nhiên đã khiến nhiều

nhà nghiên cứu nhân học, văn hóa học bàn đến nhiều về sự ảnh hưởng, tác động của tự

nhiên với văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người. Trong các nghiên cứu, có

thể có những tư duy nghiên cứu không giống nhau nhưng khi xét mối quan hệ giữa

môi trường và văn hóa, xã hội, các nhà nghiên cứu đều có cùng quan điểm điều kiện

môi trường nơi tộc người cư trú thường có những ảnh hưởng đến văn hóa đời sống của

36

tộc người đó.

1.2.2.2. Thuyết chức năng (functionalism)

“Thuyết chức năng” (functionalism) là một thuật ngữ rộng. Theo nghĩa rộng

nhất, nó bao gồm cả thuyết chức năng (theo nghĩa hẹp) và thuyết cấu trúc chức năng.

Lý thuyết chức năng bắt đầu từ thế kỉ XX và đã thống lĩnh nhân học xã hội

Anh. Đến khoảng năm 1960 đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới Mỹ và những nơi khác.

Thuyết chức năng ra đời như một sự đối thoại, bổ khuyết cho thuyết tiến hoá. Nhiều

nhà tiến hoá luận cổ điển như Tylor đã từng phân tích, so sánh các hiện tượng văn hoá

để xác lập quy luật phát triển mà không chú ý đến nền văn hoá như một hệ thống.

Trong khi đó, thuyết chức năng đã nghiên cứu những tích hợp của nền văn hoá, giữ

cho nó vận hành một cách có hệ thống. Có thể nói, thuyết chức năng đã bổ sung cho

thuyết tiến hoá tính có hệ thống. Thuyết chức năng không nghiên cứu theo hướng lịch

đại mà nghiên cứu đồng đại dựa trên chứng cứ thực nghiệm (L.Warms, R.Jon MC.

Gee- Richard, 2010).

Khi nói đến thuyết chức năng là nói đến các tư tưởng có liên quan đến

Bronislaw Malinowski và những người cùng trường phái và tư tưởng với ông, đó là tư

tưởng tập trung vào các hành động giữa các cá nhân, sự kềm chế do các thể chế xã hội

áp đặt lên các cá nhân, và mối quan hệ giữa nhu cầu cá nhân và sự thỏa mãn các nhu

cầu đó thông quan các cơ chế văn hóa xã hội. Vị thế của Malinowski trong nhân học

Anh cũng tương tự như vị thế của Boas trong nhân học Mĩ. Cũng như Boas,

Malinowski là một nhà khoa học tự nhiên Trung Âu đến với nhân học và đến với cộng

đồng nói tiếng Anh do những tình huống đặc biệt. Và cũng như Boas, ông phản đối

thuyết tiến hóa đơn tuyến và tạo lập phương pháp nghiên cứu thực tế dựa trên ngôn

ngữ bản địa và “quan sát thông quan tham gia”.

Ngày nay cụm từ “nhân học Malinowski” có hai ý nghĩa. Thứ nhất đó là

phương pháp nghiên cứu thực địa với những giả định lí thuyết và phong cách mô tả

dân tộc học gợi lại các chuyên khảo của Malinowski về thổ dân trên quần đảo

Trobriand Islanders. Ý nghĩa thứ hai là lí thuyết rõ ràng hơn về văn hóa và phổ quát

văn hóa dựa trên các giả định trong các tác phẩm cuối đời của Malinowski, đặc biệt là

trong tuyển tập “Lí thuyết khoa học về văn hóa”. Malinowski cổ vũ nghiên cứu thực

địa dài hạn, với liên hệ chặt chẽ và lâu dài với những người cung cấp thông tin.

Có thể nói đến công trình nổi tiếng của ông là “Nhà hàng hải Tây Thái Bình

37

Dương” (Agronauts of the Western Pacific, 1922) như một công trình minh chứng

cho lý thuyết của Malinowski. Cuốn sách đã bắt đầu bằng quan điểm về chủ đề,

phương pháp và phạm vi. Sau đó ông mô tả đặc điểm địa lý của Trobriand và việc

họ đến quần đảo này. Ông tiếp tục thảo luận về các luật tục trao đổi kula, thông tin

về ca-nô, chèo thuyền và những nghi lễ và ma thuật liên quan đến ca-nô. Tiếp theo

đó, công trình này nêu ra các thông tin chi tiết và cụ thể hơn về các chuyến hải

hành bằng ca-nô, kula và ma thuật. Ông đã kết thúc cuốn sách bằng một chương

“trầm tư” hay ta gọi là phản tư về “ý nghĩa của kula”. Trong phần kết này ông

không tiếp tục mạo hiểm với các phỏng đoán lý thuyết mà thay vào đó là bình luận

về tầm quan trọng của dân tộc học để cổ vũ cho sự khoan dung với những phong

tục xa lạ và cung cấp thêm cho độc giả thông tin về mục đích của những phong tục

rất khác biệt với những phong tục của độc giả. Đây chính là điều có giá trị nhất mà

những độc giả của Malinowski ngưỡng mộ ông nhất dẫn theo (L.Warms, R.Jon MC.

Gee- Richard, 2010).

Khi vận dụng thuyết chức năng cho luận án, chúng tôi mong muốn vận dụng lý

thuyết này phân tích những chức năng của MTTN trong đời sống của người Khmer

đồng ĐBSCL. Đất, nước, thực vật, động vật được trình bày trong luận được phân loại

và trình bày theo đặc trưng, chức năng trong văn hoá vật chất và tinh thần của người

Khmer. Mỗi một sự vật đều có chức năng riêng biệt, phục vụ cho nhu cầu về lương

thực, thực phẩm, trang phục, nhà ở và cả trong nhu cầu về tín ngưỡng, tâm linh và

phong tục lễ hội của người Khmer Nam Bộ.

Tóm lại, để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng hai lý thuyết đó là thuyết sinh

thái văn hoá và thuyết chức năng. Hai lý thuyết này được vận dụng vào nghiên cứu

văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở phương diện văn hoá vật thể và phi vật

thể và hai lý thuyết này được vận dụng vào nghiên cứu không gian văn hoá Khmer ở

các địa điểm Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang ở ĐBSCL. Trong quá trình sưu tầm tài

liệu, tư liệu để phục vụ nghiên cứu, chúng tôi còn nghiên cứu về các trường hợp các

cộng đồng, nhóm người trên thế giới ứng xử với MTTN như những người da đỏ sống

ở dải bờ biển Thái Bình Dương hẹp kéo dài từ Alaska đến eo biển Puget. Đây là

nghiên cứu của tác giả Ruth Benedict với những mô tả về cách những người da đỏ

sống nhờ vào biển cả, cách họ bắt cá, sinh kế của họ đều từ biển và từ đó tác giả có

những kết luận về tính cách của người thổ dân này là những người có tính cách nôi nổi

38

và độc đoán, văn hoá của họ không có một trật tự nào cả (Ruth Benedict, 2018), tr.

195. Từ nghiên cứu cách con người tương tác con người ứng xử với MTTN, tác giả đã

chỉ ra tính cách văn hoá của họ. Trong luận án này, chúng tôi không áp dụng triệt để

không gian văn hoá của các lý thuyết mà chúng tôi tiếp cận bởi vì các lý thuyết sinh

thái văn hoá và thuyết chức năng, các giả đều nghiên cứu về các tộc người mà không

gian văn hoá của họ hoàn toàn khác với không gian văn hoá mà chủ thể văn hoá là

người Khmer sinh sống. Vì thế, chúng tôi chỉ áp dụng lý thuyết, phương pháp nghiên

cứu và dựa vào không gian văn hoá sinh sống cụ thể của người Khmer ở ĐBSL mà

đưa ra những lập luận, phân tích cho những luận điểm, đề xuất sẽ được trình bày trong

các chương của luận án.

1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.3.1. Môi trường cư trú và phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng

sông Cửu Long

1.3.1.1. Môi trường cư trú của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long

Người Khmer phân bố rải rác khắp nơi ở ĐBSCL nhưng tập trung đông ở Trà

Vinh, Sóc Trăng và An Giang. Ở mỗi tỉnh, người Khmer sinh sống tập trung ở từng

vùng khác nhau như: huyện Tịnh Biên, Tri Tôn (An Giang); thị xã Vĩnh Châu (Sóc

Trăng); huyện Trà Cú, Duyên Hải, Châu Thành (Trà Vinh). Những lớp cư dân người

Khmer đầu tiên di cư đến Nam Bộ đã sớm chọn những vùng đất giồng để cư trú và canh

tác.

Người Khmer ở ĐBSCL đa phần sinh sống bằng canh tác nông nghiệp. Cư trú

rải rác ở các tỉnh nhưng tựu trung lại người Khmer cư trú theo từng tiểu vùng văn hóa

nhất định. Theo Trần Ngọc Thêm, vùng văn hóa ĐBSCL được chia thành 5 tiểu vùng

cơ bản: Tiểu vùng Phù sa ngọt, Tiểu vùng Giồng duyên hải, Tiểu vùng Ngập hở (Tứ

giác Long Xuyên), Tiểu vùng Ngập kín (Đồng Tháp Mười) và Tiểu vùng Ngập mặn.

Trong 5 tiểu vùng trên thì tiểu vùng Giồng duyên hải là nơi tập trung cư trú đông đúc

của người Khmer và tập trung ở 2 tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Ngoài ra, người Khmer

còn cư trú tại vùng Ngập hở (Tứ giác Long Xuyên) và tập trung nhiều ở Tri Tôn, Tịnh

Biên. Dựa vào cách phân chia tiểu vùng như trên, ta có thể thấy vùng cư trú của người

Khmer phần lớn tập trung ở những giồng cát ven biển: Trà Vinh và Sóc Trăng. Một bộ

phận khác cư trú rải rác ở những vùng trũng thấp. Nhìn chung, cư trú đặc trưng của

39

người Khmer là cư trú trên những vùng đất giồng ven biển với hình thức canh tác lúa

nước là chính với tập quán cư trú có thể quy về ba hình thức cư trú chính: cư trú đất

giồng, cư trú ven biển và cư trú vùng đồi núi.

1.3.1.2. Phân bố dân cư của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSCL là vùng đất đa tộc người và cũng là kết quả của quá trình di cư và cộng

cư của các dân tộc khác nhau với những nền văn hóa đa dạng. Đây được xem là quá

trình cùng cộng cư, sinh sống của các tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm, ... để cùng

khai khẩn đất đai, làm ăn sinh sống và trên cơ sở đó họ có điều kiện để tiếp xúc, giao lưu

văn hoá với nhau. So với các dân tộc anh em cùng cư trú, người Khmer được xem là tộc

người có lịch sử cư trú sớm nhất. Theo thống kê của Tổng cục thống kê năm 2019,

người Khmer có tổng dân số là 1.319.652 người và tỷ lệ sống ở khu vực nông thôn là

76,5 % (Tổng cục thống kê, 2019).

Nhiều cứ liệu lịch sử cùng với kết quả nghiên cứu của của khảo cổ học, dân tộc

học cho rằng vùng đất nay là ĐBSCL từ những thế kỉ đầu công nguyên đã từng tồn tại

nền văn hóa Óc Eo phát triển rực rỡ. Nhiều kết quả nghiên cứu tiếp theo về sau chứng

minh rằng văn hoá Óc Eo là sản phẩm thuộc vương quốc Phù Nam. Vùng đất này là một

vùng phát triển sầm uất và là cửa ngõ giao thương với các nước trong khu vực. Tuy

nhiên, theo những thăng trầm lịch sử vùng đất này trở nên hoang vu do những biến cố từ

con người và thiên nhiên. Khi nền văn hóa Óc Eo tàn lụi, vương quốc Phù Nam bị Chân

Lạp xâm chiếm và sáp nhập vào lãnh thổ. Từ đây xuất hiện tên gọi “Thủy Chân Lạp” để

phân biệt với vùng cao hơn là “Lục Chân Lạp”. Với thói quen khai thác và cư dân còn ít

ỏi nên vương triều Chân Lạp vẫn không đủ sức khai thác vùng Thủy Chân Lạp còn

hoang vu, sình lầy. Một thời gian dài vùng Lục Chân Lạp vừa bị triều đình Chân Lạp bỏ

rơi vừa là bãi chiến trường tranh chấp giữa các đế quốc nên người dân lần lượt lưu tán.

Những nạn ngập lụt và phù sa của sông Cửu Long là những tác nhân chính

làm hoang phế và vùi lấp nền văn hóa này (Óc Eo). Trong nhiều thế kỉ tiếp

theo, vùng đất đồng bằng sông Cửu Long lại trở nên hoang vu. Từ thế kỉ thứ

X trở đi, do biển rút dần, những giồng đất được nổi lên ở vùng Sóc Trăng,

Trà Cú, Giồng Riềng trở thành những vùng đất đai màu mỡ thu hút dân cư

đến cư trú (Nguyễn Khắc Cảnh , 1998), tr. 29.

Khi vương quốc Phù Nam sụp đổ vào khoảng thế kỉ VI đến thế kỉ XVI, người

Khmer là cư dân chủ yếu sinh sống ở ĐBSCL, họ sống rải rác trên những giồng đất

40

cao. Đến thế kỉ XVII, vùng ĐBSCL lại có thêm những lượt di cư rải rác của người

Việt từ miền Trung vào cùng sinh sống và khai vùng đất này với thành phần cũng hết

sức đa dạng. Họ đa phần là những người nông dân nghèo, người thợ thủ công không

thể chịu đựng nạn phân tranh, sự bóc lột hà khắc của chế độ phong kiến nên họ xuôi về

phương Nam để tìm nguồn sống. Cạnh đó, lớp người di cư còn có những người vốn

giàu có nhưng muốn tìm vùng đất mới để mở rộng việc làm ăn. Cuối thế kỉ XVII, có

thêm người Hoa đến và cùng chung sống hòa đồng như những tộc người anh em trên

vùng đất này. Như vậy, so với các dân tộc anh em cùng cộng cư, người Khmer có mặt

tương đối sớm và cùng khẩn hoang, khai phá đất đai và sinh sống với người Việt,

người Hoa. Để có được vùng đất đai có đa thành phần tộc người, cùng chung lưng đấu

cật, chống chọi với thiên nhiên, khai thác vùng đất vốn hoang vu, nhiềm hiểm trở

thành vùng đất bạt ngàn cây cối xinh tươi như hiện nay, vùng đất này đã tiếp nhận

nhiều lượt di cư của các tộc người khác nhau. Họ không đến ồ ạt mà phải trải qua từng

lượt người di cư rải rác đến ở, khi thấy thích hợp họ mới ở lại lâu hơn, tạo lập nhà cửa,

ruộng vườn, sinh con đẻ cái. Các tộc người cùng nhau tương trợ để thích nghi và ứng

phó với MTTN vừa thuận lợi nhưng cũng vừa khắc nghiệt nơi đây. Sự cùng nhau cư

trú của các dân tộc ở ĐBSCL luôn diễn ra trong sự hoà hợp, tương trợ và giao lưu học

hỏi lẫn nhau. Đây cũng là nét văn hoá đặc trưng tạo nên văn hoá của vùng ĐBSCL.

Trong những ngày đầu đến vùng đất hoang vu, sinh lầy và đầy hiểm trở, những

người Khmer cổ đã chọn những giồng đất cao để sinh sống. Những giồng đất với đặc

tính cao ráo giúp người Khmer đối phó với với những mùa nước lên ở nơi đây. Đất

giồng là loại phù sa cổ với đặc tính trên mặt là đất cát pha, dưới sâu là đất sét nên khô,

dễ thoát nước. Có thể nói cách chọn cứ trú trên những giồng đất cao là một cách ứng

phó với tự nhiên của người Khmer. Người Khmer còn cư trú những vùng ven biển.

Khi cư trú tại vùng đất ven biển người Khmer đã gặp không ít khó khăn trong khai

thác và dự trữ nước ngọt để ăn uống và trồng trọt. Vùng ven biển có người Khmer cư

trú bao gồm vùng Trà Cú (Trà Vinh), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Vùng đất này thường

xuyên nhiễm mặn, nhiễm phèn nên hàng năm có khoảng 6 tháng thiếu nước ngọt. Để

ứng phó với môi trường khắc nghiệt, người Khmer rất quan tâm đến việc cải tạo môi

trường nước. Trong đó, công tác làm thủy lợi được người Khmer đặc biệt quan tâm.

Công tác làm thủy lợi này gồm có: đắp đê ngăn mặn, đào bờ để giữ nước ngọt, đào

41

mương đưa nước.... “Người Khmer là cư dân nông nghiệp sớm phát triển hệ thống

thủy lợi: đào ao giữ nước, dẫn thủy nhập điền…” (Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm,

Mạc Đường , 1990), tr. 220.

Số cư dân người Khmer cư trú trên những vùng đồi núi chiếm số lượng khá

lớn. Đó là vùng đồi núi phía Tây Nam bao gồm vùng tứ giác Long Xuyên, vùng An

Giang và Kiên Giang. Tại những vùng đồi núi này, địa điểm tụ cư của người Khmer –

những phum, sóc được hình thành trên những sườn núi tạo thế cư trú theo hình vành

khăn dọc chân núi. Để đối phó với tình trạng ngập nước người Khmer ở những vùng

này thường ở trên những nhà sàn cao. Cư dân Khmer ở vùng này thường cư trú khá

thưa hơn vùng đất giồng và đất cát ven biển. Có thể do hoàn cảnh khắc nghiệt về thiên

nhiên, do tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng mà dân cư có phần thưa thớt hơn

những vùng khác.

Tập quán cư trú ở nơi cao ráo đã phần nào thể hiện cách ứng xử với tự nhiên

của người Khmer ở ĐBSCL. Cách chọn những vùng cao để ở vừa để thuận tiện cho

làm ăn, sinh sống vừa thể hiện được đặc trưng cư trú của người Khmer.

1.3.2. Văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer đồng bằng sông

Cửu Long

1.3.2.1. Văn hoá vật thể

a. Văn hóa ăn

Văn hóa ăn của người Khmer vừa có những nét chung vừa có nét riêng với các

tộc người khác ở ĐBSCL. Đó là do kết quả lựa chọn và thích nghi trong quá trình

tương tác với MTTN quy định từ cách họ lựa chọn nguyên vật liệu đến cách ăn đều

thiên về thuận theo tự nhiên là chính.

Trong văn hóa truyền thống của người Khmer là họ lựa chọn thực phẩm theo

mùa, mùa nào thức ấy. Cách lựa chọn thực phẩm theo mùa vừa chọn được những loại

thực phẩm ngon nhất, giá trị dinh dưỡng cao nhất vừa thể hiện được văn hoá thích nghi

với MTTN của một tộc người. Vào mùa mưa, khi các loại thực vật trên cạn và thủy

sinh phát triển tốt, họ thường ăn các loại thức ăn là sản phẩm của sông nước như các

loại rau tập tàng, các loại rau như bông điên điển, bông súng...Bên cạnh đó, các loại

thủy sản họ rất ưa chuộng vào mùa mưa là các loại cá sông như cá linh, cá sặc, cá rô,

cá lóc. Vào khoảng tháng 9, tháng 10 hàng năm, khi nước từ thượng nguồn đổ về,

người Khmer nói riêng và các dân tộc khác ở ĐBSCL nói chung nhận được sự ưu ái từ

42

thiên nhiên là các loại thủy sản sinh sôi và phát triển nhiều. Những khi ăn không hết,

người Khmer thương làm mắm, làm khô để tích trữ ăn dần vào những tháng mùa khô.

Từ cách lựa chọn nguyên liệu là cách tận dụng những gì sẵn có trong tự nhiên đã hình

thành nên văn hóa ăn của người Khmer cũng thường rất đơn giản trong những bữa ăn

hàng ngày.

Bên cạnh cách chọn nguyên liệu ăn, cách ăn của người Khmer cũng thể hiện rõ

văn hóa ứng xử với MTTN. Cơ cấu bữa ăn chính thường gặp của người Khmer truyền

thống là cơm, rau, cá và mắm. Trong văn hóa ăn của người Khmer, cơm có hai loại là

cơm gạo tẻ và cơm gạp nếp. Cơm tẻ thường xuất hiện trong bữa ăn thường nhật và

thường ăn kèm với các loại thức ăn khác như rau, cá, mắm, thịt...; còn cơm gạo nếp

thường xuất hiện trong những dịp đặc biệt như đám tiệc, lễ hội. Gạo nếp thường được

nấu xôi, làm bánh như bánh tét, bánh dừa v.v.

Trong bữa ăn thường nhật của người Khmer, cơm đóng vai trò chính, kế đến đó

là rau. Có thể nói, rau đóng vai trò khá quan trọng trong bữa ăn của người Khmer. Các

loại rau được người Khmer chọn ăn cũng rất phong phú. Đó là những loại rau tự mọc

xung quanh nhà và phát triển xanh tốt vào mùa mưa hoặc được họ trồng xen canh

trong các vụ mùa. Cá và mắm là hai loại thức ăn xuất hiện rất thường xuyên trong ẩm

thực của người Khmer truyền thống. Cá có thể chế biến thành các món ăn đơn giản

như kho, chiên hoặc có thể dùng để làm mắm hoặc khô và đây là món ăn rất đặc trưng

của người Khmer ở ĐBSCL. Tuy cùng là mắm nhưng cách thức làm mắm và vị mắm

của người Khmer ở An Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng cũng rất khác nhau. Người

Khmer An Giang làm mắm thiên về vị ngọt do được nêm bằng đường thốt nốt. Người

Khmer Trà Vinh làm mắm thiên về vị mặn từ rất nhiều muối, trong đó có thể món

mắm Pro-hoc mặn đặc trưng dùng để chế biến món bún nước lèo rất nổi tiếng của

vùng đất này, còn vị mắm của người Khmer Sóc Trăng có vẻ như được trung hoà từ vị

mắm ngọt của đất An Giang và vị mắm mặn của người Khmer Trà Vinh.

Trong cơ cấu bữa ăn của người Khmer có sự khác nhau giữa bữa ăn ngày thường

và bữa ăn trong các dịp lễ tết, lễ hội. Cũng giống như các tộc người khác, bữa ăn thường

ngày của người Khmer khá đơn giản chỉ có cơm cùng các món ăn kèm. Người Khmer

có tục dâng cơm cúng sư sãi đi khất thực. Những món được dâng cúng thường là thịt gà,

vịt, heo hoặc cá kho. Nếu như có món canh thường là canh chua, canh khổ qua nhồi thịt

và cũng thường cho rất ít nước vì tránh bị đổ nước canh trong quá trình sư đi khất thực.

43

Những bữa ăn hàng ngày đơn giản gồm có canh và kho mặn nhưng bữa ăn vào các dịp

lễ hội, lễ tết được người Khmer chăm chút cầu kì và kĩ lưỡng hơn. Bởi vì ngoài dùng

tiếp đãi khách thì quan trọng hơn hết họ phải dâng cơm cho sư sãi ở chùa và cúng ông

bà tổ tiên ở nhà. Các món thường thấy trong dịp lễ của người Khmer ngoài các món

kho, canh còn có thêm món xào, cà ri, lẩu, v.v… Cách chế biến món ăn cầu kì, tinh tế

thể hiện sự chăm chút, chu đáo, cẩn thận và cả lòng thành kính mang tính tâm linh của

người Khmer.

b. Văn hóa mặc

Theo (Phan Thị Yến Tuyết, 1993):

Trang phục của người Khmer bản địa ở ĐBSCL trước đây qua tài liệu thư

tịch chỉ để lại vài chi tiết lờ mờ đó là những chiếc “chăn” hoặc vải lụa, khi

mặc xếp mối về phía trước, những chiếc “khố” của nam giới cùng với sở

thích để mình trần đi chân đất. Nam giới Khmer (nhất là người lớn tuổi) vẫn

còn mặc loại “sampốt hôl” vào dịp lễ lạt hoặc lễ cưới.

Trong những dịp lễ truyền thống, nam giới thường mặc sampốt hôl với áo

kín cổ, tay dài vào lễ cưới, hoặc mặc “chăn” trong những dịp lễ khác.

Người phụ nữ Khmer thường mặc áo “tầm pông” hoặc áo wện là loại áo có

thân dài, tay dài và cổ tròn sát cổ (tr.149).

Người Khmer ở ĐBSCL có trang phục truyền thống mang tính đặc trưng văn

hoá tộc người. Họ có sự phân biệt khá rõ rệt giữa trang phục trong dịp lễ tết, lễ hội và

trang phục thường nhật. Vào các dịp đặc biệt như Chôl - Chnăm - Thmây hay Sen Đôn

- ta trang phục của người Khmer thường chọn trang phục có màu sắc tươi sáng và khá

cầu kì. Phụ nữ Khmer khi đi chùa những dịp lễ tết chọn cho mình những loại trang

phục kín đáo thể hiện được nét dịu dàng, tinh tế của dân tộc. Những người phụ nữ lớn

tuổi khi đi chùa thường chọn áo trắng may dài tay đồng thời còn choàng qua người

một chiếc khăn trắng. Trong trang phục lễ cưới, cô dâu Khmer mặc sampol hol màu

cùng với áo ngắn bó chẽn hoặc áo dài Tampong màu, quàng khăn ngang người, đội

vương miện nhỏ trang trí hạt cườm, kim tuyến lấp lánh; còn chú rể mặc chiếc hol hoặc

sampot với áo tay dài, cổ áo đứng, giữa thân áo cài khuy và khăn vắt vai trái. Ngoài ra,

chú rể còn đeo con dao nhỏ bên hông với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Trang phục lễ tết, lễ

hội thường cầu kì, nhiều hoạ tiết cùng với kết nhiều kim sa, kim tuyến nên khá nóng

rất khó sử dụng trong thường nhật. Trang phục thường nhật của người Khmer là áo

44

ngắn, quần dài, kiểu may đơn giản, ít hoạ tiết và không kết kim sa, kim tuyến. Xưa kia

người Khmer Nam Bộ rất thích mặc màu sáng (dù cho lễ tết hay thường nhật) như

cam, hồng, xanh, vàng, v.v… Tuy nhiên, hiện nay kiểu dáng và màu sắc của người

Khmer ở ĐBSCL cũng không khác với các dân tộc khác [Xem thêm Phụ lục hình ảnh:

hình 39, 40, 41, 42, 43, 44].

Hiện nay, các dân tộc ở ĐBSCL có sự giao lưu văn hoá qua trang phục. Trong

trang phục thường ngày chúng ta khó có thể phân biệt được trang phục của các dân tộc

ở ĐBSCL. Các dân tộc thường mặc trang phục giống nhau nhằm tạo sự thuận tiện,

thoải mái cho công việc. Sự phân biệt trang phục chỉ thật sự rõ nét qua trang phục giữa

các dân tộc trong các dịp lễ hội.

c. Văn hóa nhà ở

Nhà ở của người Khmer ĐBSCL có sự khác biệt rõ rệt giữa truyền thống và

hiện đại. Về chọn nơi chọn đất làm nhà người Khmer thường nơi cao ráo để tạo lập nơi

ở. Đó là những gò đất cao tránh ngập lũ vào mùa nước lên ở ĐBSCL. Trong tâm thức

của người Khmer, nơi cao ráo còn tránh được những thế lực xấu dưới lòng đất, tránh

được tà ma có thể làm hại đến chủ nhà. Vì thế, mỗi khi dựng nhà, người Khmer

thường phải mời Achar đến cúng xin thần đất và các vị thần khác để bảo trợ cho việc

dựng nhà được thuận lợi, tốt lành.

Về chất liệu làm nhà, người Khmer truyền thống thường tận dụng những chất

liệu từ tự nhiên đó là cột và mái nhà bằng tre, các loại gỗ và lợp bằng lá dừa. Các loại

chất liệu này giúp chống lại với khí hậu nắng nóng. Tuy nhiên, lợp bằng lá dừa thời

hạn sử dụng rất ngắn, thường 3 đến 4 năm lại phải thay bằng lá mới.

Cấu trúc nhà ở của người Khmer cũng khá đơn giản. Trong nhà thường chia

làm gian tiếp khách, gian ở và gian bếp (thường là chái bếp được cơi nới cạnh với gian

nhà chính). Thông thường, các gian trong nhà thường được ngăn khá đơn sơ nhằm tạo

được không gian thoáng mát cho ngôi nhà. Nếu trong nhà có người lớn tuổi, không

gian của người lớn là cái giường cạnh với gian tiếp khách, còn các gian buồng (phòng

riêng) thường được ngăn bằng tấm màn mỏng dùng để dành cho các cặp vợ chồng

hoặc các cô gái mới lớn. Nhìn chung, trong văn hoá nhà ở của mình, người Khmer xưa

thường đơn giản hoá bởi vì theo quan niệm của người người Khmer cho rằng, cuộc

sống hiện tại của một người chỉ là tạm bợ nên khi làm có của cải, tiền bạc họ chỉ mang

đến cúng cho việc xây chùa để tích luỹ phước báu cho kiếp sau. Vì thế, khi đến các

45

vùng Khmer sinh sống trong truyền thống sẽ thường thấy những không gian nhà nhỏ

nhắn và đơn giản nhưng những ngôi chùa lại vô cùng nguy nga, tráng lệ [Xem thêm

Phụ lục hình ảnh, hình 23, 24 và 28].

Tuy nhiên, trong văn hoá nhà ở hiện nay của người Khmer có thay đổi. Ở

ĐBSCL hiện nay chúng ta thường khó phân biệt giữa nhà của người Khmer với các

tộc người khác. Người Khmer vẫn dành rất nhiều tiền bạc, của cải vào việc xây dựng

chùa chiền nhưng họ có phần chú trọng hơn trong việc dựng nhà ở. Nhiều người

Khmer hiện nay khi rời nông thôn lập nghiệp tại các khu đô thị lớn trong cả nước khi

trở về họ dành tiền xây dựng nhà cửa khang trang hơn. Về kiến trúc nhà ở, họ xây theo

các kiểu nhà hiện đại như nhà mái Thái với mái nhà to, nhọn và hơi nhô về phía trước.

Bên trong nhà, họ thường xây phòng có cửa, vách ngăn các phòng cho không gian

riêng tư của các thành viên trong gia đình. Theo quan sát thực tế, chúng ta chỉ có thể

nhận ra nhà của người Khmer qua bàn thờ Têvôđa (bàn thờ thiên) ở trước mỗi nhà của

người Khmer mà thôi.

1.3.2.2. Văn hoá phi vật thể

a. Tín ngưỡng, tôn giáo

Người Khmer ĐBSCL có đời sống tín ngưỡng dân gian phong phú. Trước khi

tiếp nhận văn hoá Phật giáo Nam Tông, tín ngưỡng dân gian đã từng có thời gian tồn

tại sâu chắc trong văn hoá của người Khmer. Và cả khi chịu ảnh hưởng lớp văn hoá

Phật giáo, tín ngưỡng dân gian vẫn không mất đi mà vẫn tồn tại song song trong đời

sống tinh thần của người Khmer. Đó là tín ngưỡng Arak, Neak-ta và các vị thần bảo hộ

khác như các vị thần cai quản đất đai, nhà cửa, ao hồ sông rạch và có khi là những vị

thần cai quản chuồng trại, ruộng lúa, v.v… Trong các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng

Neak-ta là hình thức tín ngưỡng ảnh hưởng sâu đậm nhất và tồn tại lâu đời nhất của

người Khmer. Neak-ta là một vị thần có chức năng cai quản đất đai, phum sóc. Người

Khmer có Neak-ta phum, sóc, Neak-ta ruộng, Neak-ta chùa (miếu thờ Neak-ta trong

khuôn viên chùa)... Về hình tượng Neak-ta cũng có sự khác nhau giữa các địa phương

như Neak-ta được hiện thân là những hòn đá to, nhẵn bóng hoặc là hình tượng một cụ

già tóc bạc phơ, chống gậy (Neak-ta ở ấp Quy Nông, huyện Châu Thành, tỉnh Trà

Vinh). Tuy nhiên, Neak-ta được thờ nhiều nhất là những hòn đá to, nhẵn và thường

được phủ vải đỏ bên trên. Miếu thờ Neak-ta cũng thường đơn giản (người Khmer

thường gọi là nhà Neak-ta). Xưa kia, miếu thờ Neak-ta thường được làm bằng tre, lá

có thể ở ruộng hoặc ngay đường đi. Ngày nay, khi có điều kiện, người Khmer thường

46

sửa sang miếu lại, xây gạch, lợp xi măng rất khang trang, sạch sẽ. Người Khmer có

niềm tin tuyệt đối vào Neak-ta, không bao giờ dám bất kính với Neak-ta và cả miếu

Neak-ta. Ngày trước, khi có tranh chấp trong các vấn đề xã hội như mất cắp, nghi kị

nhau vấn đề gì đó, người Khmer chỉ cần đến miếu Neak-ta xin được phân xử và thề

thốt. Những ai có thái độ bất kính với nhà Neak-ta như làm dơ bẩn, ô uế hoặc lời lẽ bất

kính với Neak-ta thì họ tin rằng người đó sẽ bị trừng phạt. Niềm tin tín ngưỡng này

vẫn tồn tại cho đến hiện nay trong đời sống văn hoá tinh thần của người Khmer.

Lễ cúng Neak-ta thường diễn ra vào khoảng tháng 5 dương lịch hàng năm (sau

Chôl – Chnăm - Thmây). Vật phẩm lễ cúng Neak-ta thường là đầu heo, thịt gà, thịt vịt

luộc, bánh ngọt, trái cây, hoa, nhang đèn và nhất định không thể thiếu rượu. Khi diễn

ra lễ cúng người Khmer đem lễ vật đến miếu Neak-ta và Achar là người thực hiện nghi

thức. Một số nơi trong lễ cúng Neak-ta còn có mời các vị sư tụng kinh cầu an cho bà

con trong phum, sóc. Kết thúc buổi lễ, những vật phẩm cúng (còn được gọi là “phước

thực”) được chia cho tất cả người tham dự lễ, cùng nhau ăn uống tại chỗ.

Về tôn giáo, đa phần người Khmer nơi đây gởi trọn niềm tin vào Phật giáo Nam

Tông hay còn được gọi là Phật giáo Theraveda, Phật giáo Tiểu thừa. Nam Tông Khmer

đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Khmer. Nhà

chùa vừa là nơi thực hiện chức năng tôn giáo, chức năng giáo dục chữ viết, rèn luyện

đạo đức vừa là nơi sinh hoạt trong những dịp lễ Tết, lễ hội. Ba lễ hội lớn trong năm của

người Khmer phần lớn đều diễn ra hoặc có dấu ấn của nhà chùa là tết năm mới (Chôl -

Chnăm - Thmây), lễ cúng ông bà (Sen Đôn - ta) và lễ hội đút cốm dẹp (Ok - Om - Bok).

Lễ Chôl – Chnăm - Thmây diễn ra trong ba ngày thì trong ba ngày đó đều có nghi thức

được diễn ra tại chùa như: rước Maha Sangkran, dâng cơm cho sư, đắp núi cát, tắm

Phật..; lễ Sene Đônta xưa kia diễn ra trong 13 ngày thì trong 13 ngày đó người Khmer

đều mang cơm đến chùa để dâng lên cúng dường cho sư và để cầu siêu cho ông bà cha

mẹ; lễ Ok - Om - Bok thì có các nghi thức cúng trăng, thả đèn nước, thả đèn gió... cũng

được thực hiện tại chùa. Ngoài những lễ hội lớn trong năm người Khmer còn có rất

nhiều lễ hội khác cũng được tổ chức tại chùa như lễ nhập hạ, lễ cầu an, lễ dâng y

Kathina... Nhìn chung, nhà chùa có nhiều chức năng quan trọng trong đời sống tâm linh

tôn giáo lẫn trong đời sống sinh hoạt cộng đồng của người Khmer.

Cùng với nhà chùa, sư sãi cũng tầm ảnh hưởng lớn trong trong việc hướng dẫn

bà con Khmer sinh hoạt tôn giáo, rèn luyện đạo đức và nhân cách sống. Nam thanh

47

niên Khmer đến tuổi trưởng thành phải được xuất gia đi tu để học giáo lý, tu dưỡng

đạo đức, học chữ viết và có khi còn được học nghề để lập thân, lập nghiệp về sau. Đến

khi về già, người Khmer cũng gửi trọn đời sống tâm linh, tinh thần của mình nơi nhà

chùa. Khi con cái đã trưởng thành, người già sẽ cạo tóc, mặc áo trắng đến chùa để tu

thiếp (tu thiền). Vai trò nhà chùa và sư sãi đóng góp rất lớn cho việc rèn luyện, định

hướng, giáo dục cho bà con đồng bào Khmer từ khi còn trẻ đến lúc về già.

Với đời sống văn hoá trọng tâm linh nên người Khmer thường xuyên dâng cúng

tiền của cho việc xây dựng và tu sửa chùa để tích luỹ phước báu về sau. Ngôi chùa

Khmer thường được xây dựng trong những khuôn viên rất rộng và rất khang trang.

Trung tâm khuôn viên chùa là chính điện quay mặt về hướng đông. Xung quanh chính

điện là tăng xá nơi các nhà sư học tập và sinh hoạt. Chùa Khmer Nam tông thường

được trang trí hoa văn sặc sỡ và có rất nhiều điêu khắc mang dấu ấn là tàn tích của tín

ngưỡng Bà – La – Môn còn sót lại như: thần bốn mặt, chim thần Krut, nữ thần Apsara,

Chằn, khỉ thần Hanuma, rắn thần Naga, voi và rất nhiều hoa văn văn mềm mại khác

như hình dây, lá và cả hoa. Chùa Khmer còn được bao quanh, che chở bởi những hàng

cây cổ thụ như sao, dầu... để tạo bóng mát và cũng là nơi trú ngụ của rất nhiều loài

sinh vật như chim, cò. Cách xây dựng, trang trí này phản ánh được sự ứng xử hài hoà

với thiên nhiên của nhà sư và các Phật tử Khmer. Các sư sãi Khmer cũng thường răn

dạy bà con Phật tử về sự từ bi và văn hoá ứng xử hài hoà với thiên nhiên qua việc ứng

sử với môi trường sinh thái xung quanh chùa như không được chặt phá cây cối, không

được bắt cá hay không được tổn hại đến các loài sinh vật trong chùa.

b. Lễ tết, lễ hội

Người Khmer ở ĐBSCL có đời sống văn hoá tinh thần vô cùng phong phú.

Hàng năm, người Khmer có 3 lễ lớn là Chôl - Chnăm - Thmây; Sen Đôn - ta và Ok -

Om - Bok. Người Khmer truyền thống có kinh tế chính là nông nghiệp lúa nước nên

mỗi lễ, hội thường gắn với chu kì của nông nghiệp.

Lễ Chôl - Chnăm - Thmây là lễ Tết đón mừng năm mới và đây cũng là lễ lớn

nhất trong năm của người Khmer. Lễ diễn ra vào khoảng giữa tháng 4 dương lịch

và theo người Khmer đó là tháng “chét”1. Người Khmer có cách tính lịch riêng dựa

theo sự chuyển động của mặt trăng và mặt trời. Ảnh hưởng khoa thiên văn từ Ấn

Độ sang, người Khmer tính ngày đầu năm bằng hai lối vào: Chôl có nghĩa là tính

theo sự vận chuyển của mặt trăng; Chnăm là tính theo sự vận chuyển của mặt trời

1 Tháng chét “chett”: tháng nắng gắt

48

và đánh dấu bước vào năm mới. Thường Chôl được tính vào đầu trung tuần tháng

chét và tháng 5 của người Khmer vào khoảng ngày 12, 13, 14, 15 tháng 4 dương

lịch.

Ý nghĩa về một lễ nghi nông nghiệp trong lễ Chôl - Chnăm - Thmây của

người Khmer còn được thể hiện qua những nghi thức được diễn ra trong lễ trong đó

quan trọng nhất là ngày tắm tượng Phật. Nghi lễ tắm Phật tiến hành tắm Phật trước

rồi đến đến tắm các vị sư cao niên nhằm cầu chúc may mắn, gột rửa những phiền

muộn, không vui và chưa may mắn trong năm cũ để sang năm mới sẽ may mắn,

thuận lợi và nhiều phước báu hơn. Hiện nay, việc tắm những nhà sư còn khá ít chùa

thực hiện. Tuy nhiên, nghi thức tắm cho ông bà ở nhà vẫn còn được một bộ phận

người Khmer duy trì. Nước dùng để tắm Phật là loại nước thơm (Tưk – op) được

làm từ nước sạch, cho thêm cánh hoa thơm hoặc vài giọt tinh dầu thơm. Nước thơm

sau khi tắm Phật ở chùa, bà con Phật tử mang về nhà tắm cho người lớn tuổi trong

nhà để cầu chúc sức khỏe, hạnh phúc và bình an. Người Khmer quan niệm rằng,

người già khi được nhiều con cháu tắm cho trong ngày này sẽ vô vùng phước báu.

Trong ngày Tết năm mới này còn có lễ cầu siêu gọi là “Băng skol”. Các vị sư

sau khi tắm Phật ở chính điện đến các tháp xung quanh chùa tụng kinh cầu siêu nhằm

chúc phước lành cho người quá cố. Lễ này thường kéo dài khá lâu. Sau khi tụng kinh

cầu siêu, các nhà sư dùng nước rảy vào ngôi tháp và rảy vào con cháu người quá cố

quỳ dưới chân tháp. Mọi người rất hạnh phúc khi được rảy nước vào mình. Đó như

một lời chúc phước lành trong ngày đầu năm mới. Nước mang một ý nghĩa tinh thần

rất quan trọng trong tâm thức của người Khmer vì người Khmer cho rằng nước có khả

năng thanh tẩy, xua đi những điều không may, muộn phiền của năm cũ và mang đến

sự thanh sạch, may mắn trong năm mới.

Một lễ hội lớn trong năm nữa của người Khmer là lễ Ok - Om - Bok. Ok - Om

- Bok thường được tổ chức vào giữa tháng 10 âm lịch hàng năm để cúng trăng nhằm

cảm tạ thần mặt trăng. Tín ngưỡng mặt trăng phần nào nhận thấy mức độ quan trọng

của tín ngưỡng nông nghiệp trong văn hóa của người Khmer. Là một dân tộc sống

dựa vào nông nghiệp là chính, người Khmer quan niệm mùa màng thất bát hay bội

thu không chỉ do yếu tố con người mà yếu tố tự nhiên đóng vai trò điều phối. Chính

vì thế các lễ hội của người Khmer đậm chất nông nghiệp và thường diễn ra vào

49

những thời điểm đầu hoặc cuối mùa vụ. Lễ hội cúng trăng là một lễ hội diễn ra khi

vùng ĐBSCL gần kết thúc mùa mưa. Lễ cúng trăng đã biểu hiện rõ tính chất tống

tiễn mùa mưa, chào đón mặt trời, ánh nắng của mùa khô.

Người Khmer quan niệm mặt trăng là đối tượng thờ cúng thiêng liêng. Sau một

năm làm mùa người Khmer lại cúng để cảm tạ mặt trăng đã phù hộ mưa thuận gió hòa,

mang đến cho người nông dân những vụ mùa bội thu. Các lễ vật dùng để cúng là khoai

lang, chuối, dừa, … và nhất định phải có cốm dẹp. Cốm dẹp là loại cốm được làm từ

những hạt lúa nếp non và mới, được rang và giã thành cốm. Cốm dẹp do được làm từ

lúa nếp mới nên rất thơm và ngon. Đây được xem là vật phẩm quý giá nhất bằng tấm

lòng thành của người Khmer dâng lên cúng thần mặt trăng. Người chủ lễ cúng trăng

thường là các vị Achar hoặc các vị sư (nếu lễ được thực hiện tại chùa). Dưới sự hướng

dẫn của chủ lễ, người Khmer ngồi xếp hàng ngang trước bàn lễ vật và hướng về phía

trăng mọc để cầu cúng. Cuối buổi lễ, các thành viên tham gia được chủ lễ cho ăn cốm

dẹp (còn được gọi là Ok - Om - Bok có nghĩa là đút cốm dẹp).

Có thể thấy rằng, trong lễ hội của người Khmer dù là phần lễ hay hội cũng

mang dấu ấn của lễ nghi nông nghiệp dù nét đậm nhạt có khác nhau. Đây là những lễ

hội đánh dấu thời vụ trong năm: đầu mùa mưa và cuối mùa mưa. Nếu như Chôl -

Chnăm - Thmây là lễ hội trong thời điểm nắng hạn thì Ok - Om - Bok là lễ hội ở vào

thời điểm mùa mưa. Ở thời điểm nắng hạn người Khmer cầu mưa đến còn ở thời điểm

mùa mưa người Khmer cầu cho mưa dứt, nước rút để họ vào vụ mùa mới.

Lễ cầu an (Bon Kom - San - Sroc ) diễn ra trong phạm vi phum, sóc của người

Khmer cư trú. Đến ngày cúng, bà con Khmer sắm lễ vật: đầu heo, gà, hoa quả, nhang

đèn đến miếu Neak-ta để làm lễ. Mức độ tin tưởng sẽ được thể hiện qua lễ vật cầu cúng.

Buổi lễ được diễn ra dưới sự hướng dẫn của Achar. Những người tham gia lễ xếp thành

một hàng trước miếu, sau đó đi vòng quanh miếu ba lần rồi từng người cắm nhang vào

bàn thờ Neak-ta. Sau đó, mỗi người chắp tay trước ngực khấn vái tụng niệm theo hướng

dẫn của Achar hoặc nhà sư.

Nghi lễ cầu an của người Khmer mỗi nơi thực hiện có phần khác nhau, tuỳ vào

điều kiện, văn hoá của vùng nhưng vẫn không mất đi ý nghĩa cầu bình an, cầu mưa

thuận gió hoà và sức khoẻ cho cộng đồng. Nghi thức cầu mưa, cầu nước xuất hiện

trong tín ngưỡng của các cư dân làm nông nghiệp. Các dân tộc làm nông nghiệp ở

ĐBSCL cũng vậy, mỗi dân tộc có các nghi thức, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu

trung là sự thể hiện tôn sùng các vị thần tự nhiên như: thần Đất, thần Nước, thần Gió,

50

thần Mưa, thần Mặt trăng, thần Mặt trời và các vị thần cây cối hay động vật khác. Tất

cả những vị thần tự nhiên đó vẫn tồn tại trong niềm tin, trong tâm linh và tín ngưỡng

của cư dân nông nghiệp nói chung và cư dân Khmer ở ĐBSCL nói riêng.

Tiểu kết chương 1

MTTN là yếu tố cần thiết và không thể thiếu trong quá trình sinh tồn và phát

triển của con người. Sự tương tác với môi trường tự nhiên thường diễn ra ở phương

diện thích nghi và ứng phó. Khi thuận lợi, cần tận dụng những yếu tố cần thiết, con

người sẽ thích nghi; ngược lại, khi bất lợi con người sẽ đối phó. Sự thích nghi và đối

phó chính là văn hoá ứng xử với tự nhiên để tạo ra các giá trị vật chất phục vụ nhu

cầu sinh tồn của con người.

Toàn bộ nội dung chương 1, chúng tôi đã tập trung giải quyết ba vấn đề lớn liên

quan đến văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer vùng ĐBSCL đó là:

(1) Về tổng quan các công trình nghiên cứu, chúng tôi đã tập trung khảo sát một

khối lượng tương đối bao quát về vấn đề nghiên cứu văn hoá ứng xử của tộc người, cụ

thể là của người Khmer ở ĐBSCL. Với lượng công trình khá lớn, chúng tôi đã nhóm

thành hai nhóm lớn là nhóm nghiên cứu lý luận và nhóm nghiên cứu thực tiễn. Trong

mỗi nhóm, chúng tôi lại tiếp tục chia nhỏ ra nhóm nghiên cứu của các tác giả ở trong

nước và ngoài nước. Các công trình này là nguồn tài liệu, tư liệu quý giúp chúng tôi

làm tiền đề nghiên cứu cho luận án.

(2) Về mặt lý luận, nghiên cứu văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên được

các học giả phương Đông và phương Tây nghiên cứu từ lâu. Theo các quan niệm

phương Đông là gần gũi, hoà hợp và ứng xử hoài hoà với MTTN còn quan niệm

phương Tây là ứng phó và chinh phục tự nhiên. Hai quan điểm và hai nét ứng xử này

tạo nên sự đa dạng của văn hoá. Nghiên cứu về ứng xử với MTTN cũng được nghiên

cứu về mặt lý thuyết. Đã có rất nhiều công trình với nhiều học giả đưa ra các lý thuyết

cùng các nghiên cứu thực nghiệm để chứng minh cho các lý thuyết. Tuy nhiên, những

lý thuyết thuộc trường phái tiến hoá đa tuyến là phù hợp hơn đối với nghiên cứu về tự

tương tác của con người với tự nhiên. Chúng tôi đã tập trung khai thác và vận dụng hai

lý thuyết chính làm điểm tựa là lý thuyết sinh thái học và lý thuyết chức năng. Lý

thuyết sinh thái học văn hoá nhằm làm rõ cùng một MTTN nhưng mỗi tộc người có

những cách ứng xử khác nhau. Điều đó dựa trên tâm thức và văn hoá của tộc người.

Lý thuyết chức năng được dùng để phân tích chứng minh về cách ứng xử với MTTN

51

của tộc người thông qua các lễ tết, lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng.

(3) Về cơ sở thực tiễn, chúng tôi trình bày về những tiền đề cơ sở về lịch sử cư

trú, môi trường sinh thái cư trú, sự phân bố dân cư của người Khmer ở ĐBSCL.

MTTN ở ĐBSCL mang những đặc điểm riêng biệt vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt dẫn

đến văn hoá ứng xử của cư dân ĐBSCL nói chung và người Khmer nói riêng phải có

những cách ứng xử linh hoạt cho phù hợp với môi sinh và từ đó tạo nên văn hoá ứng

xử mang đặc trưng văn hoá của cư dân nơi đây. Người Khmer là một tộc người có lịch

sử cư trú khá sớm ở ĐBSCL. Trong qua trình sinh sống trên vùng đất này người

Khmer đã có sự thích nghi với MTTN để tạo ra các giá trị phục vụ nhu cầu văn hoá vật

thể và phi vật thể. Quá trình sinh tồn đó đã hình thành các thói quen, đặc trưng hay

đúng hơn là văn hoá ứng xử dân gian mang bản sắc văn hoá của người Khmer.

Nhìn chung, chương 1 đã trình bày về tiền đề cơ sở lý luận với các khái niệm,

lý thuyết, các công trình tổng quan liên quan đến luận án. Ngoài ra, chương 1 còn trình

bày về thực tiễn, bối cảnh, không gian, thời gian và chủ thể nghiên cứu là người

Khmer ở ĐBSCL. Toàn bộ nội dung chương là tiền đề cần thiết giúp làm rõ hơn khi

trình bày chi tiết về văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL được trình

52

bày ở chương 2 và chương 3.

CHƯƠNG 2

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI ĐẤT VÀ NƯỚC

CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Đất đai và nước là hai yếu tố thiết yếu giúp người Khmer có thể cư trú và sinh

kế. Trong sự thích ứng với đất, người Khmer thường chọn những giồng đất cao ráo,

những giồng đất nổi để làm nơi sinh tụ, cư trú và tạo lập nhà cửa. Trong trồng trọt,

người Khmer sẽ thích ứng tuỳ vào điều kiện đất đai họ có được. Những nơi đất cao, họ

lập thành phum, sóc, xây chùa, làm nhà. Với những vùng đất thấp hơn, họ làm ruộng

rẫy, trồng lúa và hoa màu. Tuỳ vào loại đất họ sẽ thích ứng hay ứng phó khác nhau.

Sau đất là nước là yếu tố rất quan trọng trong sinh tồn của người Khmer. Người

Khmer quan niệm rằng, nước giúp họ trồng trọt và nước còn giúp họ loại đi những yếu

tố bất lợi cho đất như đất phèn, đất mặn. Lợi dụng thuỷ triều, người Khmer còn tận

dụng nước lên xuống để thau chua, rửa mặn. Sự thích ứng nước cũng đòi hỏi nhiều

kinh nghiệm và sự linh hoạt cao.

2.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐẤT 2.1.1. Quan niệm về đất (ដី = đây) và phân loại đất

2.1.1.1. Quan niệm về đất

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Mekong, là

vùng đất được tạo nên bởi những lớp phù sa cổ với phía lớp bên dưới là nền đá cứng.

Những lớp phù sa mới do sông Mê-Kông bồi đắp hàng năm, nhiều đợt tạo thành đê thiên

nhiên, đồng ngập trũng, bưng lầy, đất giồng, đất phèn, đất mặn, đất than bùn và đất phù

sa.

Trước sự đa dạng từ môi sinh, trong quan niệm của mình người Khmer rất coi

trọng đất đai. Trong thái độ ứng xử của mình với đất, người Khmer xem đất đai là nơi

ở, là tư liệu sản xuất, là quê hương và có những tình cảm thiêng liêng với đất. Người

Khmer có thói quen cư trú ổn định trên phần đất của mình, ít chịu di chuyển và mở

rộng khai phá đất đai (giai đoạn khai khẩn vùng ĐBSCL). (Sơn Nam, 2007) cũng có

viết về thói tập quán ứng xử với đất của người Khmer như sau:

Rừng rậm, đồng cỏ ẩm thấp, sông rộng là nơi ngự trị của thần thánh, ma quỉ

53

đáng kiêng nể, bởi vậy không đặt nặng việc khẩn thêm diện tích hoặc giao

lưu. Truyền thống tiêu tưới thu hẹp trong việc đắp bờ, chăm sóc từng mảng

nhỏ (tr.17).

Cũng giống như các cư dân khác ở ĐBSCL, người Khmer xưa nay luôn chọn

thế ứng xử nương tựa vào tự nhiên, tận dụng tự nhiên hơn là đối phó với tự nhiên. Dù

là đất để xây dựng nhà ở hay đất để sản xuất người Khmer cũng có thái độ tôn kính

nhất định đối với đất. Trong tâm thức, họ luôn cho rằng đất đai luôn có tiềm ẩn thế lực

siêu nhiên bên dưới. Thế lực này sẽ là những vị thần sẽ bảo trợ, che chở cho con người

nếu con người tôn trọng, gửi trọn niềm tin; còn nếu ngược lại, con người có thái độ bất

kính với đất thì những thế lực siêu nhiên đó sẽ không bảo trợ nữa mà sẽ gây hại đến

con người.

Với tâm thức vừa trân trọng, vừa mang tâm lý có phần sợ hãi những thế lực siêu

nhiên có thể gây hại nên thái độ ứng xử với đất đai của người Khmer luôn có một niềm

tin nhất định. Mỗi khi có những hành động liên quan đến đất, người Khmer luôn phải

cầu xin, khấn vái để được các thế lực này che chở, bảo hộ.

2.1.1.2. Phân loại đất

a. Phân loại theo đặc tính của đất

Theo Gia Định thành thông chí, trong quá trình người Việt, người Khmer cùng

nhau khai phá đất đai để canh tác đã phân biệt thành hai loại ruộng là ruộng núi và ruộng

cỏ. Mỗi loại ruộng với đặc tính khác nhau nên các cư dân cần áp dụng biện pháp khác

nhau.

Ruộng núi là loại ruộng cao có nhiều cỏ, ngày đầu khai khẩn phải đốn cây

chặt cây cỏ, để khô đốt làm phân tro đợi khi mưa thì trồng lúa. Loại ruộng

này tập trung ở Bà Rịa, Đồng Nai và một ít ở giồng cao ở Mỹ Tho, Long

Hồ. Ruộng cỏ (ruộng tốt) là loại ở nơi đất thấp, ruộng đầy lùng (năn), lác,

bùn sình, mùa nắng khô thì nứt nẻ như lằn vân mu rùa, có chỗ thành kẽ nứt

sâu to; đợi có nước mưa ngấm đầy, thấm đủ, bùn đất tan rã mới canh tác.

(Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm 2016), tr.193.

Như vậy đất ở ĐBSCL hiện nay là loại ruộng cỏ như trong Gia Định thành

thông chí đã nhắc đến. Đây là cách phân loại theo đặc tính của đất của người ĐBSCL

xưa. Cách phân loại theo đặc tính của đất được người Khmer ĐBSCL phân loại đối

với đất canh tác nông nghiệp như sau (đối với người Khmer, đất nông nghiệp có nhiều

54

cách phân loại):

Thứ nhất, họ phân theo đặc tính cao thấp của ruộng và chia thành ruộng cao

và ruộng thấp. Tuỳ theo độ cao thấp của ruộng mà họ chọn cách gieo trồng sớm hay

muộn.

Đối với ruộng thấp (trũng nước) thường nhận được nước mưa sớm, gọi là

ruộng sớm, ẩm ướt nên họ gieo mạ vào khoảng tháng tư âm lịch, cấy vào

tháng sáu và gặt vào tháng mười; còn ruộng cao được nước mưa thấm ướt

sau, gọi là ruộng muộn, họ gieo mạ vào tháng năm, cấy vào tháng bảy và

gặt vào tháng mười một (Huỳnh Lứa (chủ biên) , 1987) tr. 84).

Thứ hai, họ phân theo chất của đất mà chia thành đất chua (đất phèn), đất mặn

và đất ngọt.

b. Phân loại theo mục đích sử dụng

Người Khmer ở ĐBSCL phân chia ba khu vực đất đai như sau: đất để ở, đất sản

xuất nông nghiệp và đất của nhà chùa.

Trong lịch sử cư trú, người Khmer cũng có quá trình chọn lựa khá đa dạng cho

phù hợp với điều kiện môi sinh, thổ nhưỡng của ĐBSCL. Trong những giai đoạn lịch

sử vùng ĐBSCL còn khá hoang vu, đất đai bạt ngàn, con người thưa thớt nên những

người Khmer đến trước đã chọn những vùng đất giồng cao ráo, không phèn, không

úng, nước chảy lưu thông để làm nơi cư trú. Trong đó, họ chọn nơi cao nhất để làm

nhà cửa, tạo lập phum sóc.

Với đất đai dùng để sản xuất họ thường chọn vùng đất thấp hơn, dễ thoát nước

và gần với sông rạch (tuy nhiên không quá xa nhà ở để tiện cho việc làm đồng). Người

Khmer xưa nay thường phân loại đất sản xuất thành 3 loại cơ bản: đất chua (đất phèn),

đất mặn và đất ngọt. Tuỳ vào đặc tính của đất, họ có phương pháp cải tạo và canh tác

khác nhau.

Bên cạnh đất ở, đất canh tác, quan niệm của người Khmer còn có sự phân biệt

khá rõ trong phần đất đai của nhà chùa. Đất chùa thường là phần đất cao ráo, rộng lớn

và là phần đất có giá trị linh thiêng đối với cả cộng đồng. Trong phần đất chùa nơi cao

ráo nhất được chọn xây dựng chánh điện, xung quanh là tăng xá, tháp. Ranh giới giữa

đất nhà chùa với bên ngoài được phân biệt bởi một hàng rào chắc chắn, chạm khắc tỉ

mỉ và được bao bọc bởi rất nhiều cây cổ thụ. Một số chùa còn có sở hữu đất ruộng

nhưng thông thường sư sãi không trực tiếp làm ruộng mà bà con phum sóc sẽ làm

55

ruộng rồi đem lúa vào chùa.

2.1.2. Đất ở (ដីនៅ = đây nâu)

Từ những ngày đầu cư trú, người Khmer đã sớm có những lựa chọn không gian

sống thể hiện được văn hoá tận dụng và đối phó với môi sinh của vùng đất này. Những

vùng đất cao và các giồng cát có nước ngọt ven biển là những địa bàn thuận lợi cho

việc xuất hiện những nhóm người đầu tiên (vùng núi An Giang, vùng đất cao phù sa cổ

Tây Bắc Long An, vùng giồng cát gần biển Trà Vinh, Vĩnh Châu, Sóc Trăng, Giồng

Riềng và Hà Tiên (Mạc Đường , 1991), 1991.

Trong ứng xử với đất, người Khmer thường vận dụng kinh nghiệm dân gian

mang tính đặc trưng của tộc người. Xưa kia, nhóm người Khmer đầu tiên đến cư trú ở

ĐBSCL đã chọn những vùng đất giồng để sinh cơ lập nghiệp. Đất giồng là vùng đất

được tạo nên do sự phân chia dòng chảy của các con sông mang nhiều phù sa, lớp trên

là đất cát pha thịt và dưới sâu là đất sét nên nước dễ dàng thoát ở mặt trên mà vẫn

được giữ lại ở dưới sâu. Người Khmer chọn đất giồng để cư trú còn vì đất giồng là loại

đất tốt, dễ canh tác lúa nước. Đất giồng là những gò đất cao ven sông hoặc ven biển.

Mặt khác, cư trú trên đất giồng vừa để đối phó với vùng trũng và mùa nước lên ở

ĐBSCL.

Người Khmer sinh sống theo từng cụm gia đình gọi là Phum. Mỗi Phum có

khoảng 5 đến 10 hộ gia đình và cũng có khi nhiều hơn, nhiều Phum được gọi là Sóc.

Người đứng đầu Phum, Sóc được gọi là Mê Phum, Mê Sóc. Các Sóc thường có tên gọi

riêng, tùy theo vị trí trên đất giồng, hoặc những đặc điểm tự nhiên như: sóc phía đông,

sóc giữa. Càng về sau, do dân cư ngày một tăng lên, để đáp ứng cho nhu cầu làm nông

nghiệp nên người Khmer khai phá thêm những vùng đất thấp hơn xung quanh đất

giồng. Cách cư trú trên đất giồng đi sâu vào tâm thức người Khmer được thể hiện qua

các truyện dân gian phản ánh nhiều câu chuyện có chi tiết giồng đất nổi như: Sự tích

Prặc Trapeng, sự tích Giồng Lức … Tất cả thường mở đầu bằng cụm từ “Ngày xưa ở

đây là biển…” hoặc “Ngày xưa ở đây còn ngập nước..”. Như sự tích Prặc Tràpeng (Ao

Phật) khi giải thích tại sao gọi là Tràpeng (Trà Vinh) đã nhấn mạnh chi tiết nơi đây là

vùng đất sình lầy bên bờ một cái ao. Sự tích Giồng Lức (thuộc xã Đa Lộc, huyện Châu

Thành, Trà Vinh) gọi đây là phnoo-doc - tức là Giồng Đất Nổi. Truyền thuyết về Nàng

Chanh vùng với địa danh Bãi Xàu của người Khmer ở Sóc Trăng cũng là câu chuyên

phản ánh quá trình tìm nơi cư trú của người Khmer xưa. Truyền thuyết kể rằng Nàng

56

Chanh là người đầu bếp bị nhà vua ra lệnh bắt để xử tội vì có kẻ gièm pha là nàng đã

nêm nếm các món ăn dâng cho nhà vua bằng chất bẩn bàn tay út của nàng. Nàng

Chanh hoảng sợ và bỏ trốn bằng cách quá giang ghe buôn, xuôi theo dòng sông Hậu

đến Đại Ngãi rồi rẽ vào con rạch nhỏ và dừng lại đó để nấu cơm. Nấu cơm chưa chín

nhưng nàng lại tiếp tục bị truy đuổi nên nơi đó được gọi là Bãi Xàu (cơm sống) và tên

gọi địa danh này tồn tại cho đến ngày nay. Dần dà về sau, do tình hình thực tế đất chật

người đông nên cách chọn cư trú của đồng bào không còn phải là vùng đất cao nữa mà

cư trú như các tộc người khác, cư trú xen kẻ với người Việt và người Hoa. Tâm thức

giồng đất nổi hiện hữu trong văn hoá nhận thức của người Khmer và được phản ánh

trong từng câu chuyện giải thích về địa danh của người Khmer cho đến hiện nay. Như

vậy, dù không hiện hữu rõ ràng nhưng tâm thức về “giồng đất nổi” và thói quen cư trú

trên giồng cao đã tồn tại trong văn hoá của người Khmer từ xưa đến nay.

Trong cách ứng xử với đất khi cất nhà, người Khmer truyền thống có cách cư

trú theo kiểu nhà sàn. Tuy nhiên, người Khmer hiện nay ở ĐBSCL không còn cất nhà

sàn khi ở nữa mà đa phần chọn ở kiểu nhà trệt như người Việt và người Hoa. Kiểu cư

trú nhà sàn chỉ xuất hiện nhiều ở nơi ngập nước vài tháng trong năm như tiểu vùng

ngập hở: Tri Tôn, Châu Phú (An Giang). Và đó chỉ là một loại nhà sàn dùng để đối

phó với nước ngập. Ở những tiểu vùng giồng duyên hải không bị ngập nước nên nhà

sàn chỉ còn tồn tại trong tâm thức và xuất hiện ít ỏi trong các chùa của người Khmer.

Khi đến các chùa Khmer, bên cạnh hoặc có khi và phía sau chính điện sẽ có dãy nhà

tăng xá dành cho các vị sư để ở và tu học. Những dãy nhà này thường được làm liền kề

nhau và cất theo kiểu nhà sàn sao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Ở một số chùa ở Trà

Vinh, khu vực sinh hoạt của sư và Phật tử cũng được xây dựng cao theo kiểu nhà sàn

truyền thống như chùa Ktưng (chùa Chim) ở phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà

Vinh. Cách cư trú trên nhà sàn cao này làm nên đặc trưng văn hóa của người Khmer ở

ĐBSCL khi họ phải ứng xử linh hoạt cho phù hợp với điều kiện đất đai ở vùng này.

Khi chọn được đất ở, người Khmer có hệ thống kinh nghiệm dân gian trong

việc chọn đất để cất nhà, an cư lạc nghiệp. Tâm thức chọn đất cất nhà của người

Khmer cũng là những nền đất cao, nếu đất thấp cũng phải đắp nền cho cao mới làm

nhà. Người Khmer thường tránh làm nhà trên những vùng trũng, trên những giếng

nước đào dù được lấp lại. Trong chuyến thực địa tại Phường 2, thị xã Vĩnh Châu,

chúng tôi phỏng vấn ông Thạch Rương về kinh nghiệm dân gian trong chọn đất cất

57

nhà và được ông cho biết: “Xưa kia trong việc chọn đất cất nhà, người Khmer có

những kiêng kị nhất định. Đó là tránh cất nhà trên những nền đất thấp, bởi về mặt tâm

linh, đất thấp là đất có những thế lực xấu cư ngụ bên dưới” (Phụ lục 1, Nhật kí điền dã

tại Sóc Trăng). Khi đó, bắt đầu làm nhà, người Khmer thường thể hiện sự tôn kính

nhất định với những vị Neak-ta, vị thần cai quản đất đai, trú ngụ phía tầng sâu dưới

mặt đất. Nghi thức cúng thần đất khi làm nhà ở được thực hiện đơn giản nhưng trang

nghiêm. Lễ vật cúng thường có một thức mặn (gà hoặc thịt heo luộc), thức ngọt như

trái cây, bánh ngọt cùng với hoa và nhang, đèn. Nghi thức thường được Achar hoặc

những người lớn tuổi có kinh nghiệm thực hiện nhằm thể hiện lòng thành kính của chủ

nhà đến các vị thần cai quản đất đai. Các vị Achar thường khấn các vị thần cai quản

đất đai phù hộ cho gia chủ cất nhà được thuận lợi, suôn sẻ, gia chủ bình an và tránh

bệnh tật. Khi làm nhà xong, người Khmer đem gạo và muối vào nhà trước với niềm tin

về sau sẽ không bị thiếu hụt gạo, muối để ăn.

Như vậy, thói quen cư trú ở không gian cao là thói quen cư trú điển hình của

người Khmer. Nó thể hiện văn hoá ứng xử với đất thấp trũng của ĐBSCL. Thói quen

đó hiện nay không còn nữa, chỉ còn trong tâm thức hoặc trong các kiến trúc truyền

thống tại các chùa. Cách cư trú hiện nay của người Khmer đã thay đổi và ở trên những

ngôi nhà trệt như các cộng đồng dân cư khác ở ĐBSCL.

2.1.3. Đất sản xuất (ដីផលិត = đây phol lít)

2.1.3.1. Đất canh tác (ដីបង្កបនង្កើនផល = đây bòng co bòng cơn phol)

Đối với đất đai trong canh tác, người Khmer xưa nay thường phân loại đất thành 3 loại cơ bản: đất chua (đất phèn) (ដីជូរ = đây chu), đất mặn (ដីប្រប = đây p-ray) và

đất ngọt (ដីផ្ផែម = đây ph-em). Tuỳ vào đặc tính của đất họ có phương pháp cải tạo và

canh tác khác nhau. Đối với đất ngọt, tức đất không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, người Khmer thường trồng lúa (ររូវ = s-râu) và các loại hoa màu (ដំណំ = đòm năm); còn với đất

ven biển thường xuyên chịu nhập nhập mặn và nhiễm phèn, đồng bào thường cách tác

các loại hoa màu chịu được mặn như đậu phộng, hành tím, tỏi, củ cải trắng…Kinh

nghiệm xem đất để canh tác của người Khmer còn được thể hiện qua câu: “Đất nhiều ើផ្ររ,ដីតិររតូវដំបផ្នែ = đây ch-rơn t-râu th-vơ s-re, nên làm ruộng, đất ít nên trồng rau” (ដីនររើនរតូវន្វ

đây tích t-râu đăm bònh le ) hoặc “Đừng làm ruộng gần đường voi đi” (ក ំន្វ ើផ្ររផ្កែរនលែ ដំរីនដើរ

58

=cùm th-vơ s-re k-be ph-lâu đòm rây đơ) . Với người Khmer, họ luôn trân trọng đất,

quý đất như câu: “Đàn ông quý như đất, đàn bà quý như phân” (ប ររ់រំខាន់ដូរដី, ស្តររ ីរំខាន់ដូរជី = bồ

rós sòm khanh đốch đây, sách t-rây sòm khanh đốch chi) để cho thấy đất đai luôn được

xem trọng hàng đầu.

Nhìn chung, điều kiện đất đai vùng ĐBSCL có sự phân hoá khá đa dạng. Tuỳ

vào điều kiện sẵn có mà người Khmer tận dụng hoặc cải tạo để phù hợp với nhu cầu

sinh kế của mình. Cụ thể, đất ở vùng này thường xuyên nhiễm phèn, vì thế, để trồng

được lúa, người Khmer xưa kia phải vận dụng kinh nghiệm dân gian của mình. Thứ

nhất, khi cày đất, họ thường tránh cày sâu để tránh tăng độ phèn. Thứ hai, họ thường

có biện pháp tháo chua rửa phèn để làm giảm bớt độ chua trong đất. Khi có lũ về,

người Khmer thường không đắp đập ngăn lũ mà cho nước lũ tràn về đầy các đồng

ruộng để khi nước lũ rút mang đi độ phèn và để lại dư lượng phù sa. Như người

Khmer có câu: “Bờ không kín thì nước chảy” (ភ្ែ ឺមិនជិតទឹកនឹង្ហូរ = ph-lư mình chích tức nừng

hô) cho thấy được kinh nghiệm trong việc đắp đặp ngăn nước của họ. Đây có thể được

xem là cách vừa ứng xử với đất vừa ứng xử với nước của đồng bào Khmer.

Kinh nghiệm dân gian trong ứng xử với đất ngoài việc xác định, phân loại, xử lý

đất còn có công đoạn canh tác đất cũng cực kì quan trọng. Đất ở ĐBSCL còn có loại

đất cứng và đất mềm. Để ứng phó với đất cứng, người Khmer có một phát minh trong

lao động sản xuất là tạo ra chiếc nọc cấy. Nọc cấy là công cụ dùng để cấy lúa ở ruộng

đã phát cỏ và chế gốc, làm bằng gỗ nhọn để chọc lỗ xuống đất và cấy lúa vào lỗ. Để độ

sâu của lỗ cấy không quá sâu hoặc không quá cạn, ở gần chỗ mũi nhọn của nọc cấy có

lắp một thanh gỗ ngang với mặt ruộng. Tuỳ theo vùng (đất cứng) lỗ của lọc cấy sẽ có

độ to hay nhỏ khác nhau. Nọc cấy của người Khmer thường được chạm trỗ hoa văn

đẹp mắt. Nọc cấy của người Khmer cũng rất đa dạng về hình dáng: nọc cấy ngắn dành

cho đất cạn, nọc cấy dài dành cho đất sâu; loại nọc cấy nhọn cho đất cứng còn nọc cấy

dẹt dành cho đất mềm. Loại đất cứng ở vùng đất giồng cao thường rất khó dùng tay để

cấy lúa nên người Khmer phải sử dụng chiếc nọc cấy để chọc lỗ cấy lúa. Trong những

ngày đầu khẩn hoang, đất đai ở ĐBSCL còn khá hoang hoá nên rất cứng. Khi phát cỏ

xong, trong đất vẫn còn gốc cỏ, rễ cây đâm tua tủa, nhọn, dễ đứt tay và khá cứng nên

người Khmer đã sử dụng chiếc nọc cấy giúp cây lúa bám chắc và không bị nổi chân.

Trong sự ứng xử với đất đai, người Khmer xưa nay thường khá linh hoạt trong

thích nghi với đất cao và đất trũng. Với vùng đất cao, dễ thoát nước, họ có thể trồng

59

lúa, trồng hoa màu. Tuy nhiên, những vùng trũng, dễ ngập nước vào mùa nước nổi thì

việc trồng lúa có chút khó khăn. Sự nương tựa, thích nghi với điều kiện tự nhiên cao

đã thể hiện qua việc tìm được giống lúa nổi để đối phó với nạn nước ngập vào mùa

mưa. Lúa nổi là giống lúa khá đặc biệt, lúa có thể chịu đựng được nước ngập sâu, nước

lên cao bao nhiêu lúa lên cao bấy nhiêu. Lúa nổi có thể cao qua khỏi đầu người hoặc

có khi cao đến 3 mét. Với các loại hoa màu, người Khmer cũng có những cách tận

dụng đất để phù hợp với từng loại hoa màu khác nhau như “Trồng rau giồng ngắn,

trồng cải giồng dài” (ដំបផ្នែរង្ខ្ែ ី, ដំប្រៃរង្ផ្វង្ = đăm bònh le ruông kh-lây, đăm s-pi ruông veng )

hoặc “Trồng hành thì làm giồng, trồng mướp thì làm giàn” (ដំខ្ទ ឹមរតូវន្វ ើរង្, ដំននោង្រតូវន្វ ើនរទើង្ = đăm

kh-tưm t-râu th-vơ ruông, đăm nồ nôn t-râu th-vơ t-rơng).

Trong khai thác đất, tận dụng đất để trồng trọt người Khmer ở phường 2 (Vĩnh

Châu, Sóc Trăng) được quy hoạch hai vùng sản xuất rõ rệt: 7 khóm khu vực I (Cà

Săng, Cà Lăng A Biển, Cà Lăng A, Vĩnh An, Vĩnh Bình, Cà Lăng B, Sân Chim)

chuyên trồng lúa, lúa- màu, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ven bờ; 4 khóm khu vực

II: (Giồng Me, Vĩnh Trung, Soài Côn, Đai Rụng) chuyên nuôi trồng thủy sản. Đối với

7 khóm khu vực II, người dân đã tận dụng vòng quay của đất sản xuất màu 3 vụ/năm,

cá biệt có nhiều hộ sản xuất 4 vụ/năm. Các loại màu chính là củ hành tím, của cải

muối, rau, quả củ các loại. Đây là các loại nông sản được sản xuất theo quy trình

Global G.A.P rất được thị trường ưa chuộng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường

trong nước và xuất khẩu. Trên diện tích đất lúa xen màu, sau khi thu hoạch lúa người

dân cải tạo đất và dưa màu xuống chân ruộng với các loại màu chính là củ hành tím,

bắp và các loại rau đậu phụ khác.

Nhìn chung, đất đai ở ĐBSCL tương đối đa dạng, phức tạp về chủng loại.

Trước sự biến đổi phức tạp về MTTN hiện nay, môi trường đất cũng có nhiều biến

động nhất định như sự gia tăng độ mặn, độ phèn. Tuy nhiên, dù có dự biến đổi như thế

nào thì cách ứng xử của người Khmer ở ĐBSCL cũng là cách ứng xử thích nghi hơn là

đối phó.

2.1.3.2. Đất trong nghề thủ công (ដីកនុង្រិលែៈហតថកមម = đây k-nông sil-lặk-pắc hách-tặc-

căm)

Đất được xem như một tài nguyên vô giá trong đời sống con người. Đất cho

con người nền tảng để tạo ra lương thực, nơi cư trú và đất còn cho con người những

60

sản phẩm thủ công. Người Khmer vùng Tri Tôn tỉnh An Giang tận dụng loại đất vùng

chân núi cùng với những lúc nông nhàn đã tạo ra các loại vật dụng như cà ràng (bếp),

nồi đất, khuôn bánh khọt. Sản phẩm gốm tại ấp Phnôm Pi (bà con nơi đây vẫn còn

quen gọi là sóc Phnôm Pi) ở xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang xưa kia rất

nổi tiếng và được nhiều thương lái ở các tỉnh ĐBSCL tới thu mua. Vào mùa khô,

những người phụ nữ Khmer ở đây đến chân núi Nam Quy để chở đất về chế tác đồ

dùng. Đất Nam Quy có đặc tính dẻo, khi nung lên những sản phẩm rất bền chắc được

khắp nơi ưa chuộng.

Theo chị Thạch Thị Tum (nữ- 28 tuổi) tại sóc Phnôm-Pi cho biết:

Đất làm gốm thường được khai thác dưới chân núi Nam Quy, cách sóc

Phnôm-Pi khoảng hơn 1 kí-lô-mét. Theo người dân Khmer nơi đây chỉ có

đất ở ven núi Nam Quy mới làm được đồ gốm. Đây là một loại đất sét xám,

pha nhiều cát mịn, đào những hố sâu xuống khoảng 1,5 mét mới gặp lớp đất

sét này. Đất khai thác làm gốm sau khi mang về nhà được luyện kĩ trên một

tấm ván gỗ hoặc đá nhằm loại bỏ các hạt sạn và sỏi và cũng để làm đất tơi

mịn. Sau đó, đất được nhồi với nước để đất được quánh, dẻo. Công việc tạo

hình gốm đòi hỏi sự khéo kéo của những người phụ nữ lớn tuổi và có kinh

nghiệm. Lò gốm sau khi được tạo hình xong phải được phơi nắng cho khô

rồi với đem đi nung (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại An Giang).

Kĩ thuật làm gốm của người Khmer Tri Tôn là không dùng bàn xoay hoặc ứng

dụng bất kì phương tiện kĩ thuật nào để tạo hình mà chỉ đơn thuần bằng tay và kinh

nghiệm. Đây cũng là nghề khá đặc biệt của người Khmer ở An Giang. Đất sét vùng Tri

Tôn khá dẻo nên khi sử dụng làm nồi đất đặc biệt rất bền chắc và do dễ tạo hình nên

tính thẩm mỹ cũng rất cao. Những sản phẩm này trước kia được các thương buôn từ

các tỉnh đến mua rất nhiều và mang lại giá trị kinh tế rất cao cho người Khmer vùng

này. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu sử dụng cà ràng, nồi đất ngày càng ít đi nên các hộ

gia đình làm nghề nặn đất ở Tri Tôn ngày một thưa thớt. Khi điền dã tại đây chúng tôi

ghi nhận chỉ còn năm hộ còn làm nghề này. Tuy nhiên, đây cũng không phải là nghề

chính mà chỉ là nghề phụ để kiếm thu nhập thêm cho gia đình [ 2.1.4. Đất thể hiện qua tín ngưỡng, phong tục (ដីកន ុង្ជននឿ,ទំននៀមទម្លែ ប់ =đây k-nông

chùm nưa, tùm niêm tùm lóp)

Nhìn chung, người Khmer vùng ĐBSCL rất linh hoạt trong thích nghi và ứng

phó với đất. Sự thích nghi đó không chỉ đơn thuần trong sinh hoạt sinh kế hàng ngày

61

mà còn được phản ánh trong tâm thức của người Khmer trong tín ngưỡng thần đất.

Sống dựa vào tự nhiên, dựa vào đất đai để cư trú và làm nông nghiệp nên từ xa xưa

người Khmer đã có tín ngưỡng thần đất (Prah phum, nữ thần Him Tholny) trong tín

ngưỡng dân gian của mình.

Trong những dịp quan trọng liên quan đến đất đai như động thổ cất nhà, gieo hạt,

thu hoạch người Khmer đều có nghi thức cúng thần đất. Để cúng thần đất, người Khmer

xếp các thứ bánh làm từ gạo và nếp vào một chram (cây tre chẻ quanh một đầu tủa ra

như hình phễu để trái dừa ở giữa và bánh rượu) rồi cắm vào đất (đất ruộng). Sau mỗi

mùa thu hoạch lúa, tôm hoặc hành tím người Khmer Sóc Trăng thường có nghi thức

cúng tạ ơn thần đất cùng những vị thần cai quản đất. Lễ vật cúng thường đơn giản như

bánh, trái cây, đầu heo hoặc gà, vịt và nhang đèn, nếu mùa thu hoạch nào bội thu thì lễ

vật cúng còn có cả heo quay. Lễ cúng này nhằm cảm tạ thần đất đai, các vị thần khác đã

phò trợ cho người dân một mùa màng thuận lợi, bội thu. Người Khmer nuôi tôm ở Sóc

Trăng không chỉ cúng thần đất khi thu hoạch mà khi khởi sự vụ mùa như trước khi thả

tôm họ cũng cúng để cầu xin. Nghi thức cúng cũng thường đơn giản như vịt luộc, trà

rượu, nhang đèn.

Như khi người Khmer xây dựng nhà cửa trên đất có các nghi thức như: “chọn

nền nhà”, “lễ mua đất của thổ thần” (gọi là lễ “Krong phum”). Người chủ lễ thường là

các Achar sẽ thực hiện các nghi thức cúng thổ thần và các vị thánh thần khác nhằm cầu

mong việc xây cất nhà được thuận lợi, suôn sẻ. Trong các nghi thức có nghi thức mà

theo chúng tôi mang yếu tố tâm linh liên quan đến thần đất đó là ông Achar cầm 8 hòn

đất trong tay, đọc kinh xong thổi vào 8 hòn đất đó rồi ném đi 8 hướng. Người Khmer tin

rằng nhờ có lời kinh và làm phép như thế nơi cư trú sẽ được yên lành, không sợ tà ma

quấy phá.

Trong những lễ hội của người Khmer như lễ dâng y Kathina hay lễ Kiết giới

Sima (lễ khánh thành chùa) người Khmer thường có nghi thức cúng thần đất trước

khi diễn ra các nghi lễ chính. Người Khmer cúng đất đai với ý nghĩa cầu mong thần

đất cho phép và phò trợ các nghi thức được diễn ra được thuận lợi, suôn sẻ. Lễ vật

cúng gồm có nhang, hoa, bánh, cơm và thức ăn. Tất cả được bày trong mâm tròn và

nghi thức thực hiện bởi Achar.

Trong tín ngưỡng dân gian, người Khmer cũng có niềm tin tưởng và thực hiện

những nghi thức khi có tác động đến đất đai. Xưa kia khi muốn phá một góc rừng làm

rẫy, người Khmer thường lựa một gốc cây lớn nhất, dọn dẹp xung quanh sạch sẽ, cất

62

cái miễu nhỏ bằng cây lá và thỉnh ông Tà (Neak-tà) trong rừng về ở tại miễu. Trong

quan niệm của người Khmer, ông Tà là vị thần bảo hộ và thường được hình tượng

bằng hòn đá nhẵn thờ ở Phum, sóc hoặc ruộng rẫy. Vì thế mà người Nam Bộ có câu:

“ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng” là thế. Khi bắt đầu cày ruộng, họ cúng vái ông

Tà, xin phù hộ cho mùa màng được tốt. Trong mảnh ruộng nào có ông Tà (Điền thần)

người ta sẽ giữ nguyên không dám xâm lấn hay phá vỡ.

Trải qua thời gian dài trong lịch sử, văn hoá người Khmer hiện nay được tiếp

biến nhiều lớp văn hoá khác nhau. Trong văn hoá bản địa, người Khmer có tín ngưỡng

thần đất được thể hiện trong các nghi thức nông nghiệp. Khi tiếp nhận văn hoá Phật

giáo, hình tượng nữ thần đất được hoà nhập vào văn hoá Phật giáo và hoà nhập vào

Phật tích. Trong đó có câu chuyện khi Phật Thích ca sắp thành đạo có chằn tinh đến

phá rối, muốn chiếm đoạt ngôi vị Phật đang ngự. Lúc đó, nữ thần đất (Prah Thorni) đã

đấu tranh để giành lại ngôi vị cho Đức Phật. Trong một số ngôi chùa của người

Khmer, phía sau chính điện có điêu khắc nữ thần Đất với hình dáng là một người phụ

nữ có mái tóc dài mang đến sự giàu có, đất đai màu mỡ, phù trợ, che chở nơi đất Phật

linh thiêng. Vì niềm tin tôn giáo, niềm tin vào thế lực siêu nhiên nên người Khmer

quan niệm rằng đất đai nơi Phật ngự trị là đất đai thiêng. Trong cuộc sống, người

Khmer luôn ý thức về việc tránh xâm hại đến đất đai của nhà chùa. Dưới góc nhìn sinh

thái học Phật giáo, ta thấy có những quy định của tôn giáo giúp cho việc giữ gìn tài

nguyên thiên nhiên trong đó có bảo vệ tài nguyên đất.

2.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI NƯỚC

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đồng bằng lớn ở hạ nguồn sông Mekong.

Sông Mekong có lưu lượng nước khá lớn – đứng thứ 10 trên thế giới với chiều dài

khoảng 4200km. Ở phía trên Phnôm-Pênh (Campuchia) sông Mekong có một nhánh

hợp lưu với Tonlé Sap. Từ Phnôm-Pênh, sông chia làm hai nhánh: nhánh phía Bắc đổ

vào sông Tiền; nhánh phía Nam đổ vào sông Hậu (Wikipedia, “Mekong”, 2018).

Hệ thống sông Cửu Long có rất nhiều sông rạch chằng chịt với khoảng 2500

km sông rạch tự nhiên và khoảng 2500 km sông rạch do con người đào. ĐBSCL được

hình thành từ trầm tích phù sa ngọt cổ, được bồi đắp qua từng kỉ nguyên thay đổi mực

nước biển, kéo theo sự hình thành những giồng cát chạy dọc theo bờ biển. Ngoài lưu

lượng nước sông mang lại, vùng ĐBSCL còn được tiếp nhận một lượng nước mưa rất

lớn hàng năm. Gió mùa Tây Nam đưa mưa về và cũng đưa mùa lũ làm ngập cả vùng

đồng bằng. Đợt lũ đầu tiên trong năm thường đổ về khoảng tháng 6, tháng 7 và sau đó

63

tuỳ vào cường độ gió mùa mà có thêm những đợt lũ khác.

Diện tích vùng ĐBSCL khoảng 40.577 km2 với gần 21,49 triệu người (Tổng

cục thống kê, 2019). Hàng năm một diện tích rộng hơn 2 triệu héc-ta ở phía Bắc

ĐBSCL bị ngập do lũ sông Mekong, gần 2 triệu héc-ta ven biển bị nhiễm phèn, vùng

sâu, vùng xa thiếu nước ngọt, cơ sở hạ tầng của vùng còn yếu kém… ĐBSCL còn có

nguồn nước mặt khá phong phú. Nước sông Tiền và sông Hậu có chất lượng thay đổi

theo mùa rõ rệt. Mùa khô, hàm lượng các chất hòa tan cao, mùa lũ hàm lượng này thấp

hơn, nhưng bù lại nước có hàm lượng nước trong vùng ĐBSCL khá phức tạp, chịu sự

chi phối từ điều kiện tự nhiên, chế độ khí hậu, thủy văn và hoạt động phát triển kinh tế

xã hội của con người.

2.2.1. Quan niệm về nước (ទឹក=tứk) 2.2.1.1. Nước là nguồn gốc của sự sống

Người Khmer ở ĐBSCL có nhiều câu chuyện giải thích sự tạo lập thế gian hình

thành con người, giải thích hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc dân tộc liên quan đến yếu

tố nước.

Trước hết, để giải thích sự tạo lập thế gian hình thành ra con người người

Khmer có truyện Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Truyện giải thích về sự có mặt của

con người trên thế gian này xuất phát từ trong biển nước, phản ánh quá trình tạo lập

của người Khmer trên vùng đất đầm lầy ở đây. Với lối cư trú truyền thống trên những

gò đất cao đã hình thành trong tâm thức của người Khmer trong truyện Nguồn gốc vũ

trụ và muôn loài như sau: “bốn bề là một biển nước bao la vô cùng tận”, “những

mảng bọt nước khô dần, rồi cứng lại thành những lục địa” (Huỳnh Ngọc Trảng , 1987)

tr. 24, 25. Có thể, những hình ảnh biển nước mênh mông, hoang vu sình lầy ở ĐBSCL,

những gò đất cao còn lại sau những đợt biển lùi đã trở thành một nét ký ức và phản

ánh lại trong những câu chuyện giải thích nguồn gốc loài người của người Khmer.

Trong một truyện khác người Khmer cũng giải thích về sự hình thành của giới tự

nhiên trong vũ trụ đó là truyện Sự hình thành trái đất và loài người (Chu Xuân Diên

(chủ biên) , 2002) tr.17, 18. Câu chuyện nói về 4 vị thần hóa thân phát nguyện thành

các hiện tượng tự nhiên như: Gió, Ánh sáng (mặt trời, mặt trăng), Nước và Lửa. Câu

chuyện còn giải thích rằng những yếu tố tự nhiên này là 4 yếu tố hình thành nên cơ thể

con người. Cùng với các câu chuyện dân gian giải thích các hiện tượng tự nhiên, người

Khmer còn có truyện Sự tích mưa, gió, mặt trời và mặt trăng. Câu chuyện kể về mối

64

quan hệ ứng xử giữa các người con là bốn anh em trong một gia đình. Ba người anh

với bản tính tham lam, háo ăn khi chết đi hoá thành Mưa, Gió và Mặt trời còn người

em bản tính hiền lành, biết nhường nhịn nên khi chết hoá thành Mặt trăng. Mưa, Gió

và Mặt trời ngoài sự hữu ích mang đến cho cuộc sống loài người thì cũng mang lại

nhiều bất lợi, tai hoạ như mưa dầm gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây

cối hoặc nắng hạn làm cho đất ruộng nứt nẻ, không ai gieo cấy được. Đó là dấu ấn về

tính cách của ba người anh bất hiếu, ham ăn chỉ riêng người em út với bản tính hiền

lành nên hoá thành Mặt Trăng với ánh sáng hiền diệu, tươi mát muôn nơi. [Phụ lục 3,

Truyện dân gian Khmer].

Dân tộc nào cũng có những câu chuyện giải thích các hiện tượng tự nhiên xảy

ra xung quanh. Khi mà nhận thức con người còn giản đơn, cuộc sống con người chưa

có sự tham gia của tri thức khoa học, con người chỉ có thể giải thích tự nhiên bằng

những suy nghĩ hồn nhiên tùy theo điều kiện sinh sống, quan hệ xã hội của dân tộc

mình. Người Khmer ở ĐBSCL cũng giải thích hiện tượng lũ lụt bằng câu chuyện Niếc

tà Phnum và Niếc tà Tức. Câu chuyện kể về cuộc tranh chấp giành lấy tình yêu của hai

vị thần: Niếc tà Phnum (thần Núi) và Niếc tà Tức (thần Nước). Niếc tà Phnum mang lễ

vật đến trước nên cưới được công chúa, Niếc tà Tức mang lễ vật đến sau nên thua cuộc

và mang lòng căm hận về biển. Tuy nhiên, hàng năm Niếc tà Tức vẫn mang lòng căm

hận và dâng nước cao làm ngập ruộng vườn, nhà cửa gây thiệt hại cho cuộc sống

người dân. Với mô – típ Thần Núi - Thần Nước, câu chuyện Niếc tà Phnum và Niếc tà

Tức đã thể hiện những ấn tượng của người Khmer về nạn lũ lụt. Sự phản ánh về hiện

tượng tự nhiên mưa, gió, thần Núi, thần Nước trong thần thoại của người Khmer phần

nào phản ánh tâm thức ứng xử với nước của người Khmer (Phụ lục 3, Truyện dân gian

Khmer, Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức).

Tâm thức về ứng xử với nước trong quá trình chinh phục tự nhiên còn được

phản ánh qua truyền thuyết của một ngôi chùa ở Trà Vinh. Ngôi chùa này có tên là

Bodhisàlaraja (theo tiếng Phạn), người Khmer gọi là Wat Kompong (dịch nghĩa là

chùa Bến) và được người Trà Vinh hiện nay gọi là chùa Ông Mẹt. Truyền thuyết kể

rằng, vùng đất Trà Vinh xưa kia có một trận lụt lớn, toàn vùng ngập trong biển nước.

Sau khi nước rút đi có một tượng Phật lớn nổi lên. Người dân đã xây dựng một ngôi

chùa để làm nơi thờ Phật. Vùng đất này được người Khmer gọi là “Preak Traveng” với

ý nghĩa là “Ao Phật”. Sau đó, khi người Việt đến đã gọi trại đi là “Traveng”, “Tra

65

Vang” rồi sau cùng đến tận bây giờ là Trà Vinh (Phan An, 2009).

Có thể nhìn nhận rằng những truyền thuyết về nạn hồng thủy hoặc truyền thuyết

giải thích về các hiện tượng tự nhiên phần nào đã phản ánh được quan niệm của người

Khmer đối với nước. Trong quá trình thích ứng tới tự nhiên, người Khmer đã phải sớm

đương đầu với những khó khăn, tổn thất do tự nhiên mang lại, trong đó có nước. Với

người Khmer, nước không chỉ mang đến những nguồn lợi mà nước còn là khởi nguồn

của mọi sự sống trên thế gian.

2.2.1.2. Nước có ý nghĩa trong sạch, có chức năng thanh tẩy

Đặc tính thông thường của nước mang tính hai mặt: vừa tốt (tái sinh) vừa xấu

(hủy diệt, nhấn chìm). Trong tâm thức của người Khmer nước thường chỉ mang ý

nghĩa tốt. Nước xua đi những cái xấu và mang tới điềm may, điều tốt lành cho con

người. Người Khmer ở ĐBSCL rất quý trọng nước và từ trong tâm thức, người Khmer

quan niệm nước có chức năng thanh tẩy và cầu phúc

Trong các nghi thức tôn giáo, nghi thức tín ngưỡng dân gian, nước được dùng

dưới dạng nước thơm (Tưk-op). Loại nước này có tác dụng xua đuổi tà ma, mang đến

nhiều điềm phúc lành cho con người. Nước này thường được ướp bằng các loại hoa,

chất tinh dầu hoặc nhang thơm. Đây là loại nước do các nhà sư hoặc các Achar vừa

vẩy vừa đọc kinh cầu an, cầu phúc mới có hiệu lực.

Trong văn hóa tinh thần của người Khmer, hành động thanh tẩy bằng nước

không chỉ dùng lại ở việc vẩy nước thơm mà còn cả hành vi xối nước, tắm nước. Hành

vi xối nước dường như trở thành một nét văn hóa riêng của người Khmer. Nó không

đơn thuần là việc kì cọ làm sạch thân thể tại nhà nữa mà nó trở thành một hành động

mang tính thiêng. Người Khmer ở ĐBSCL có tục xối nước trừ tà, cầu may. Khi một

người nào đó gặp chuyện xui xẻo cho rằng bị một thế lực nào đó phá hoại, trù ếm,

hoặc chỉ đơn giản là muốn cầu phúc người Khmer tìm đến chùa nhờ các vị sư tụng

kinh và xối nước lên đầu. Người Khmer ở Trà Vinh có thói quen là mỗi khi có chuyện

không may họ sẽ đến chùa Âng (tiếng Khmer là Anggorràjapurì) để nhờ sư tụng kinh

xối nước. Những người Khmer cho rằng, dù không có bị tà ma quấy phá nhưng mỗi

khi có cảm giác buồn phiền hoặc có trục trặc trong cuộc sống họ cũng đến chùa để

được xối nước. Người Khmer nghĩ rằng chỉ có oai lực của kinh tụng và sức mạnh tẩy

uế của nước mới có thể rũ mọi chuyện chẳng lành và mang đến một sự thanh sạch, yên

lành cho cuộc sống. Việc nhờ sư sãi tụng kinh và xối nước trở thành một hành động rất

66

gần gũi và đời thường trong cuộc sống của người Khmer (Lê Thuý An , 2012).

Trong nhận thức của người Khmer ĐBSCL nước còn là cầu nối để hồi hướng,

phước báu đến vong linh người quá cố. Trong các lễ cầu siêu đến các vong linh đã

khuất, các vị Achar thường đổ nước xuống đất để vong linh nhận được phước báu của

người cúng. Nước mang chức năng chuyển tải nguyện vọng của con cháu và cầu phúc

cho vong linh người thân sớm siêu thoát.

Nước mang ý nghĩa thanh tẩy, cầu phúc xuất hiện nhiều trong các nghi lễ dân

gian, nghi lễ tôn giáo của người Khmer ở ĐBSCL. Nước vừa mang chức năng thanh

tẩy nhằm xóa sạch vết nhơ tội tỗi để con người trở về với trạng thái thanh sạch vừa

mang chức năng cầu phúc, cầu bình an. Dù có chức năng gì hay mang ý nghĩa gì trong

nhận thức của người Khmer nước mang tính lợi và luôn giúp đỡ con người về mặt tinh

thần. Đó chính là dạng nước sạch, nước thơm mà người Khmer luôn trân trọng và yêu

quý. Xét dưới góc độ lý thuyết chức năng, những hành vi trong nghi lễ tôn giáo, tín

ngưỡng đều có một chức năng nhất định. Nó phục vụ để thoả mãn nhu cầu tinh thần

của con người. Xét hành vi ứng xử với nước trong văn hoá của người Khmer đối chiếu

với thuyết chức năng, chúng tôi cho rằng, nước có chức năng rất rõ ràng trong đời

sống văn hoá tinh thần, nó giúp thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh của

người Khmer ở ĐBSCL. Những ý nghĩa mà người Khmer cho rằng mang đến sự thanh

sạch, xua đi những buồn phiền, không may mắn hay không sạch sẽ đó là biểu hiện của

chức năng thanh tẩy của nước trong tâm thức của người Khmer.

2.2.2. Nước sinh hoạt (ទឹកនរបើរារ់ = tứk p-rơ p-rá) Văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL là nền văn hoá trọng cộng đồng. Người

Khmer luôn tôn trọng không không gian, tài sản sử dụng chung, trong đó phải nói đến

là giếng nước chung của cộng đồng. Mỗi phum, sóc của đồng bào thường có một hoặc

nhiều hơn giếng nước chung dùng để lấy nước cho việc ăn uống, sinh hoạt cho cả

phum, sóc. Vì vậy, nguồn nước chung này không đơn thuần là nước dùng cho sinh

hoạt mà văn hoá ứng xử với nước chính là văn hoá sinh hoạt cộng đồng của dân tộc.

Nếu như bến nước được xem là biểu tượng, là văn hoá ứng xử cộng đồng của người

Việt thì giếng nước chung được xem như một biểu tượng cho tính cộng đồng của

người Khmer. Giếng nước là nơi để họ đến lấy nước về sinh hoạt nhưng cũng chính là

nơi để gặp gỡ, trao đổi và kéo theo đó là các quy tắc ứng xử cộng đồng.

Người Khmer xưa kia có những quy tắc riêng dành cho ứng xử với nguồn nước

chung của cộng đồng. Mặc dù không được ghi chép thành luật tục nhưng những quy tắc

67

này được giáo dục bằng cách truyền miệng trong cộng đồng như một luật bất thành văn.

Quy ước truyền truyền khẩu này được cộng đồng chấp nhận, tuân thủ và thực hiện nó một

cách nghiêm túc. Khi sử dụng nguồn nước, người Khmer không được chăn thả súc vật

gần giếng nước, không được ném vật dơ xuống giếng để không làm dơ bẩn nguồn nước

chung.

ĐBSCL là vùng đất vừa thừa nước vừa thiếu nước. Thế nên, từ xa xưa, người

Khmer cùng các tộc người ở vùng đất này có kinh nghiệm dân gian trong quá trình tìm

kiếm nguồn nước, khai thác nước và đối phó với nạn khan hiếm nước. Tâm thức về

hình trình tìm kiếm nguồn nước của người Khmer được phản ánh qua những câu

chuyện về đào ao, đào giếng như sự tích Ao Bà Om và sự tích Giếng Anh, Giếng Chị.

Sự tích Ao Bà Om kể về cuộc tranh tài thi đào ao của một nhóm nam và một

nhóm nữ. Ngày xưa, trong phong tục cưới xin của người Khmer người nữ phải đi cưới

người nam. Để phân định lại, họ đã tổ chức cuộc thi đào ao từ đêm tới đến khi sao Mai

mọc thì cuộc thi chấm dứt. Nếu nhóm nam thua thì về sau nam phải đi cưới nữ và

ngược lại. Người dẫn đầu nữ có tên là Bà Om. Nhóm nữ biết sức yếu nên siêng năng

chăm chỉ đào còn nhóm nam thì ỷ lại có sức mạnh nên vừa làm vừa nghỉ. Đến gần

sáng, nhóm nữa cho treo đèn giả làm sao Mai nên nhóm nam tưởng mình đã thua nên

không cần đào nữa. Cuộc thi kết thúc và nhóm bà Om đã giành chiến thắng. Kết quả là

hiện nay người Khmer không còn tục bên nữ đi cưới bên nam nữa. Theo chúng tôi,

đây là câu chuyện nằm trong mô-típ thi tài của người Khmer. Câu chuyện có nhiều

tầng nghĩa khác nhau vừa phản ánh tàn tích văn hoá mẫu hệ xưa kia của người Khmer

vừa phản ánh được quá trình đấu tranh ứng phó với thiên nhiên để tìm nguồn nước của

cộng đồng. Câu chuyện ao Bà Om còn phản ánh đúng với kinh nghiệm tìm nguồn

nước trong dân gian của đồng bào. Ngày xưa, kinh nghiệm tìm nguồn nước của người

Khmer thường phải được diễn ra vào ban đêm. Người có kinh nghiệm sẽ ra đồng

trống, cảm nhận đất nơi nào mát thì chắc hẳn sẽ có mạch nước ngầm tốt bên dưới lòng

đất (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích Ao Bà Om)

Xét theo lý thuyết sinh thái học văn hoá của Steward, cách ứng xử với MTTN

của người Khmer thiên về tận dụng, thích nghi với điều kiện sẵn có đồng thời ứng phó

với những điều kiện khó khăn. Để có thể thích nghi và sinh tồn trên vùng đất hiểm trở

và có phần khó khăn của ĐBSCL trong những ngày đầu cư trú, người Khmer phải đối

mặt với những khó khăn về môi sinh, về khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng… Có thể nói, tri

68

thức dân gian về giữ gìn nguồn nước phần nào phản ánh quá trình đi tìm nguồn nước

được lưu lại bằng những câu chuyện giải thích địa danh, những truyền thuyết liên quan

đến ao, hồ, của người Khmer. Mỗi câu chuyện là một sự phản ánh hình thức tìm kiếm

và bảo quản nguồn nước khác nhau nhưng giữa các câu chuyện lại có chung một điểm

là khát vọng tìm kiếm nguồn sống để sinh tồn. Câu chuyện về thi đào ao ở Trà Vinh

hay câu chuyện đào giếng ở Sóc Trăng phần nào phản ánh tâm thức khao khát tìm

kiếm nguồn sống và thể hiện được hệ thống tri thức thức dân gian vô cùng phong phú

của người Khmer xưa (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích giếng Anh, giếng

Chị). Những câu chuyện dân gian này luôn nhắc nhở cho người Khmer về những khó

khăn trong sự thiếu thốn nguồn nước sạch trong quá trình di cư và định cư sinh sống

trên vùng đất ĐBSCL.

2.2.3. Nước trong sản xuất (ទឹកកន ុង្ផលិតកមម = tứk k-nông phol-lít-tặt căm)

Từ bao đời nay, kinh tế chính của đồng bào Khmer ở ĐBSCL là canh tác nông

nghiệp lúa nước. Tuỳ vào điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng mà họ chọn canh tác

độc canh cây lúa hay xen canh cây lúa với các loại hoa màu. Có khi cùng một loại hình

thổ nhưỡng nhưng khi điều kiện thời tiết, khí hậu môi trường thay đổi họ cũng thay đổi

phương thức canh tác. Để đảm bảo điều kiện sinh trưởng, tăng trưởng cho cây trồng

người Khmer thường tận dụng nguồn nước sẵn có là nước mưa, nước từ ao hồ, sông

rạch. Kinh nghiệm dân gian của người Khmer đối với điều kiện nước cho cây trồng

được thể hiện qua câu “Trời mưa tốt lúa, trời nắng tốt vườn” (នមឃនភ្ែៀង្លែររូវ,នមឃនតរ លែរំការ = mếc

ph-iêng lò o s-râu, mếc c-đao lò o chòm ca); “Làm ruộng nhờ nước, đánh giặc nhờ cơm”

(ន្វ ើផ្ររពឹង្ទឹក, ន្វ ើរឹកពឹង្ាយ។ = th-vơ s-re pưng tứk, th-vơ sấc pưng bai) hay “Làm ruộng với nước,

làm nấm với meo”. Các câu thành ngữ cho thấy người Khmer rất quan trọng vai trò của

nước đối với việc chăm sóc cây trồng.

2.2.3.1. Ứng xử với thiếu nước

ĐBSCL là vùng đất nhận được hai lượng nước từ tự nhiên đó là nước mưa và

nước từ thượng nguồn sông Mê-Kông đổ về. Đây là lượng nước tự nhiên khá lớn để các

cư dân nơi đây làm ruộng và sinh hoạt. Tuy nhiên, lượng nước này chỉ dồn vào một số

tháng là từ khoảng tháng sáu đến tháng mười. Các tháng còn lại hầu như người dân chỉ

có thể dùng nước tích trữ từ ao, hồ, kênh, rạch. Hơn nữa, vào khoảng tháng 6 đến tháng

8 vùng ĐBSCL thường xuyên xảy ra “hạn bà chằn” làm khô hạn và thiếu nước trầm

69

trọng cho toàn vùng. Lượng nước mưa hàng năm ĐBSCL thường phân bố không đồng

đều nên dẫn đến tình trạng hạn hán kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cây trồng

của người dân.

Để đối phó với nạn thiếu nước hàng năm, người Khmer thường đẩy mạnh

thủy lợi nội đồng, đào vét kênh mương, bơm nước vào ruộng và đào giếng. Người

Khmer rất có kinh nghiệm trong công tác dẫn thủy nhập điền. Ở những nơi gần sông

rạch, người Khmer sẽ tận dụng nguồn nước này, họ tát nước vào ruộng bằng gàu tay

hoặc về sau họ bơm nước vào ruộng bằng máy chạy bằng kole. Họ biết cách tận dụng

dòng chảy của nước, lợi dụng thuỷ triều lên xuống để đưa nước vào ruộng.

Tuy nhiên, những năm hạn hán kéo dài, mùa mưa đến muộn, sông rạch cạn

nước người Khmer sẽ tận dụng nước từ giếng nước của rẫy. Thông thường trên những

ruộng rẫy của người Khmer có rất nhiều giếng nước. Giếng này dùng để trữ nước để

người Khmer trồng rẫy trong mùa khô. Kĩ thuật ứng phó với hạn hán và tri thức dân

gian về việc đào giếng được chúng tôi ghi nhận trong đợt điền dã năm 2018 ở hai điểm

Sóc Trăng và Trà Vinh. Qua quá trình đối phó với thiên nhiên, người Khmer tích luỹ

kinh nghiệm trong việc tìm nguồn nước giếng như sau:

Theo ông T.N (khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng)

cho biết về kinh nghiệm dân gian tìm nguồn nước của địa phương ông là:

Để tìm mạch nước tốt, thông thường việc tìm kiếm sẽ diễn ra vào ban đêm.

Khi đêm đến, người ta đi ra ngoài đồng để tìm, nếu đi tới chỗ nào mà đất

dưới chân có cảm giác mát hơn, hơi se lạnh hơn thì đất chỗ đó đào giếng sẽ

có nước ngọt cho tưới tiêu và sinh hoạt (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Sóc

Trăng).

Một đối tượng phỏng vấn khác là ông T.R (ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện

Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) cho biết:

Công việc trồng lúa của người Khmer Trà Cú là dựa vào nước mưa và nước

giếng. Ngày xưa, người Khmer ở đây đào giếng không dựa vào kinh

nghiệm nào mà cứ ra đồng tìm nơi đất trống, thuận tiện làm giếng thì đào.

Mỗi khi đào không có nước thì lấp lại và tìm chỗ khác đào. Ngày nay,

người dân đã có nước máy, nước bơm nên các giếng được lấp đi hoặc bỏ

hoang rồi tự bồi dân và việc đồng án cũng không lệ thuộc nước mưa, nước

70

giếng như xưa nữa (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Sóc Trăng).

Để ứng phó với tình trạng thiếu nước vào mùa khô và cũng vào thời điểm

xuống giống trồng màu, người Khmer phải sử dụng thêm nước ngầm từ các giếng

khoan. Tuy nhiên lượng nước giếng khoan vẫn không đủ phục vụ cho tưới tiêu và sinh

hoạt, họ phải sử dụng thêm nước từ trạm cấp nước (đóng tại các phường, xã). Thực tế

là nhu cầu sử dụng nguồn nước phục vụ tưới tiêu rất lớn so với nguồn nước ngầm từ

các giếng khoan và các giếng khoan phần lớn là khoan cạn, chưa đảm bảo độ sâu để

lấy nước; tầng nước ngầm giáp tầng đất sản xuất nhanh cạn, độ ẩm cao nên thiếu nước

xảy ra thường xuyên.

2.2.3.2. Ứng xử với dư nước

Môi trường tự nhiên ở ĐBSCL vừa thuận lợi vừa có những khó khăn nhất định.

Trong năm, vào nhưng tháng mùa mưa, người dân đồng bằng phải đối phó với nạn nước

lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về. Nước lũ ở sông Cửu Long thường dâng cao vào

khoảng tháng 6 làm ngập sâu một số vùng trũng như Đồng Tháp Mười và nước rút dần

vào khoảng tháng 9, tháng 10. Song song đó, vào khoảng thời điểm tháng 5 đến tháng 10

vùng ĐBSCL còn tiếp nhận một lượng nước mưa khá lớn. Lượng mưa mùa này có khi

chiếm đến khoảng 90% lượng mưa cả năm. Lượng nước dồn vào một số tháng trong năm

dễ gây ra tình trạng ngập úng nên gây nên rất nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.

Xưa nay thiệt hại do lũ gây ra ở ĐBSCL hầu như rất ít được nhắc đến. Có thể do khi dân

cư còn thưa thớt, đa phần sống ở các gò cao ven sông rạch, sản xuất ít ỏi, cơ sở hạ tầng

còn đơn giản nên những thiệt hại do lũ gây ra không đáng kể. Cho đến đầu thế kỉ XX,

năm 1904 (Giáp Thìn) nước lũ làm nhiều nhà ngập sâu đến khoảng 2 mét. Trận lũ này

làm cho trong dân gian có câu thành ngữ “Năm Thìn bão lụt” được lưu truyền cho đến

hiện nay.

Trong thói quen cư trú truyền thống, người Khmer thường cư trú trên những

vùng giồng cao ít khi phải ứng phó với nước lũ. Mặc dù không phải đối phó với nước

lũ như những vùng ngập kín ở Đồng Tháp Mười nhưng người Khmer ở vùng tứ giác

Long Xuyên hay ở những vùng ngập hở (An Giang) cũng phải chống chọi với nạn dư

nước vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch do lượng nước mưa và nước từ dòng

Mê – Kông cùng đến một thời điểm. Kết quả điền dã của chúng tôi tại vùng Vĩnh Châu

(Sóc Trăng) và vùng Tri Tôn (An Giang) cho thấy người Khmer có những phương

cách khác nhau để ứng phó với nước ngập. Chẳng hạn như khi bị ngập nước trên cánh

71

đồng trồng hoa màu ở Vĩnh Châu, người Khmer phải bơm nước ra khỏi đồng để tránh

ngập úng cho hành tím và các loại hoa màu khác. Trong những điều kiện không thể

đưa nước ra thì vụ hành sẽ bị ảnh hưởng chất lượng và hư hại nhiều. Đối với vùng Tri

Tôn, hiện tượng ngập nước cũng ảnh hưởng nặng đến năng suất cây trồng nhưng có

những năm bà con phải chấp nhận xổ lũ (không đắp đập ngăn nước) nhằm làm sạch

đồng ruộng. Như trong chuyến điền dã năm 2018 tại An Giang bà còn Khmer ở Tri

Tôn cho biết đây là năm xổ lũ, tuy nước ngập ruộng nhưng bù lại lượng cá linh trúng

rất lớn. Nước lũ là một khái niệm khá gần gũi của người Khmer đồng bằng sông Cửu

Long. Sống chung với lũ, thích nghi với lũ là một lựa chọn trong ứng xử với môi

trường tự nhiên của cư dân ĐBSCL.

2.2.3.3. Ứng xử với nước phèn, nước mặn

ĐBSCL có mạng lưới kênh đào dày đặc và có phần phức tạp về thuỷ tính. Vùng

này còn chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều của biển Đông vì thế nước sông rạch lên

xuống hai lần trong ngày. Thuỷ triều còn là một trong những hiện tượng kì diệu của

thiên nhiên. Thuỷ triều trong các sông ở ĐBSCL là do từ biển truyền vào. Nước dâng

lên mạnh nhất (nước lớn nhất) vào ngày mồng một và ngày rằm trong tháng. Những

vùng giồng duyên hải chế độ thuỷ triều đưa nước lên xuống làm nước biển xâm nhập

và sông gây nên hiện tượng nước mặn. Độ mặn trong nước còn bị ảnh hưởng bởi hạn

hán trong năm. Ngoài tình trạng xâm nhập mặn do nước biển và do hạn hán kéo dài,

ĐBSCL còn có hiện tượng chua phèn. Thông thường vào đầu mùa mưa, các trận mưa

đầu mùa làm tan vỡ các váng phèn được đọng lại và tích luỹ trong suốt mùa khô trên

bề mặt đồng ruộng rồi mang tải vào các lòng sông kênh làm ô nhiễm nguồn nước trong

các tháng 5, 6, 7 và 8 với độ pH phổ biến từ 2 đến 4, sau đó được dòng lũ tràn làm pha

loãng dần.

Khi mùa mưa bắt đầu, người Khmer sẽ ứng phó bằng cách đắp kĩ các bờ ruộng

để giữ nước. Kĩ thuật đắp bờ chủ yếu dùng để giữ nước hoặc tháo nước khi cần. Điều

hòa nước cho đồng ruộng là một kĩ thuật rất quan trọng và được người Khmer đặt biệt

chú trọng. Từ xưa, đồng bào đã có các công trình thuỷ nông với quy mô lớn họ biết lợi

dụng hệ thuỷ triều, dòng chảy các con sông ở đồng bằng. Ở những vùng gần sông, họ

lợi dụng nước triều lên để đưa nước vào ruộng, sau đó, họ đắp đặp để giữ nước, lợi

dụng nước để rửa phèn cho đồng ruộng. Khi lúa sắp lên đồng, họ xổ phèn và lợi dụng

72

thuỷ triều lên đắp đập một lần nữa để giữ lại lượng nước sông chứa phù sa. Còn ở

những vùng xa sông rạch họ đắp bờ thành ô để giữ nước. Cách lợi dụng thuỷ triều để

tháo nước và giữ nước là một cách tận dụng môi trường tự nhiên của người Khmer.

Trước sự đa dạng của hệ tự nhiên, người Khmer không ngừng thích nghi và

sáng tạo trong ứng xử với môi trường. Trong quá trình canh tác, họ dần tích luỹ những

phương pháp, kinh nghiệm trong chọn lựa, thích ứng với môi sinh tự nhiên. Họ tận

dụng, thích nghi những yếu tố có lợi và đối phó với những bất lợi của tự nhiên mang

lại. Ngày nay, người Khmer đã tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại, ứng dụng các kĩ

thuật thuỷ nông giúp cho điều tiết nước trong đồng ruộng thuận lợi và hiệu quả hơn.

Văn hoá ứng xử với nước của đồng bào Khmer có sự thay đổi theo thời gian.

Trong điều kiện thô sơ, họ dựa vào kinh nghiệm dân gian do cha truyền con nối là

chính nhưng khi khoa học kĩ thuật tiến bộ, nông nghiệp có sự hỗ trợ của máy móc thì

quá trình ứng xử với môi sinh tự nhiên của người Khmer cũng có thay đổi. Trong quá

trình nghiên cứu, so sánh lịch đại chúng tôi ghi nhận lại những thay đổi trong ứng xử

với nước trong truyền thống và hiện nay theo bảng sau:

Bảng 2.1. Thay đổi trong ứng xử với nước trong truyền thống và hiện nay

Nội dung Truyền thống Hiện nay

Nhận thức về vai

trò của nước Rất quan trọng trong nông

nghiệp

Dễ dàng hơn do có các Khó khăn trong tìm nguồn nước, phương tiện dò tìm mạch khó khăn trong việc đào giếng nước Tìm nguồn nước

Dựa hoàn toàn vào nước mưa, Được cải thiện do có nguồn

nước giếng, nước từ kênh rạch nước giếng khoan

Khó khăn khi nước ngập (nước lên, rút không kịp gây ngập úng,

Ứng xử với nước chất lượng nông sản thấp, sản lượng không cao)

Khó khăn khi hạn hán

73

Có các nghi lễ cảm tạ, cầu xin Còn thực hiện, cúng chung Tâm linh liên thần nước cùng các vị thần khác các vị thần: thần đất đai, quan đến nước khi kết thúc hoặc bắt đầu vụ mùa thần nước cùng các vị thần

khác

Khi hạn hán, các vị sư sẽ tụng Còn rất ít nơi thực hiện kinh cầu mưa

2.2.4. Ứng xử với nước thể hiện trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội (ទឹកកន ុង្ជំននឿ,

ទំននៀមទម្លែ ប់,ប ណ្យទាន = tứk k-nông chùm nưa, tùm niêm tùm lóp, bonh tean)

2.2.4.1. Yếu tố thanh tẩy

a. Nước trong nghi lễ vòng đời (ទឹកកន ុង្ពិ្ីប ណ្យវដរជីវិត = tứk k-nông pi thi bonh vót chì

vích)

Thời xa xưa, nước được coi là sự chuyển trạng thái, đánh dấu những cột mốc

quan trọng trong cuộc đời con người: tắm sau khi sinh (xuất hiện trong hầu hết các nền

văn minh); tắm theo nghi thức trước khi kết hôn; tắm cho người chết để gột rửa linh

hồn.

Người Khmer xưa nay rất xem trọng việc mang thai và sinh nở. Sự sinh nở

được coi là không sạch sẽ không chỉ đối với người mẹ mà còn đối với đứa trẻ. Người

mẹ và đứa trẻ sau khi được sinh ra xem là dơ bẩn, vì thế, cả mẹ và con cần phải lánh

mặt để tránh làm ô uế người khác. Trong thời gian ở cữ, người mẹ được dành một gian

riêng trong nhà và tránh tiếp xúc với người bên ngoài. Đứa trẻ sau khi sinh được bảy

ngày hoặc trong một tháng được tổ chức lễ cắt tóc trả ơn mụ và đặt tên. Trong buổi lễ,

các lễ vật cần thiết cho cầu cúng là: nhang, đèn, trái cây, hoa... Ngoài các lễ vật trên

không thể thiếu một bình nước thơm (Tưk-op) do chính Achar làm. Achar dùng nước

thơm rảy lên đầu đứa trẻ để cầu thần linh ban cho đứa trẻ sự khỏe mạnh, thông minh

và những điều tốt lành khác. Trong quan niệm của người Khmer, loại nước thơm này

có chức năng đặc biệt làm cho em bé sức mạnh và có thể xua được ma quỷ. Nghi lễ

này được đánh giá là khá quan trọng bởi đây là lúc chính thức trình đứa trẻ ra mắt để

thần linh chứng giám và chính thức được công nhận như một thành viên trong cộng

đồng.

Trong lễ cắt tóc trả ơn mụ, ngoài việc cầu phúc cho đứa trẻ, người mẹ còn dùng

nước thơm rửa tay bà mụ để cảm ơn sự giúp đỡ của bà mụ trong thời gian ở cử. Nước

có chức năng thanh tẩy đặc biệt trong lễ cắt tóc và đặt tên. Đây là lễ tục đầu tiên trong

74

vòng đời con người, nó đánh dấu “bước ngoặt” của một đời người. Nghi lễ thanh tẩy

cho đứa trẻ không chỉ có ý nghĩa về phương diện văn hóa, xã hội mà còn cả về tín

ngưỡng tôn giáo nhằm đành dấu sự chuyển trạng thái: từ một thai nhi thành một thành

viên được xã hội thừa nhận. Trong việc sinh nở của người Khmer, nước có chức năng

thanh tẩy giúp cho người mẹ trở về trạng thái thanh sạch và giúp đánh dấu quá trình

chuyển hóa của một bào thai trong bụng trở thành một cá nhân được cộng đồng thừa

nhận. Nghi lễ thanh tẩy là một nghi lễ quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của một

con người. Nước với đặc tính thanh khiết, mềm mại, chuyển hóa có chức năng thanh

tẩy trong nghi lễ sinh nở của người Khmer.

Đứa trẻ khi lớn lên được một giáp (12 tuổi) cũng có nghi thức dùng nước để

thanh tẩy một lần nữa. Lễ này đánh dấu giai đoạn đứa trẻ tròn giáp và đánh dấu chuyển

sang một giai đoạn mới. Gia đình đứa trẻ tổ chức lễ giáp tuổi để cúng trả ơn tổ tiên,

thần thánh đã phò trợ họ nuôi con qua một con giáp được thuận lợi, suôn sẻ. Mặc khác,

lễ này có những nghi thức để bảo vệ đứa trẻ khỏi bị những hồn ma quấy phá và nhận

được nhiều điều tốt lành. Trong buổi lễ, gia chủ chuẩn bị lễ vật, mời sư sãi đến tụng

kinh cầu an, cầu phúc rồi dùng nước thơm (Tưk-op) tưới vào đứa trẻ để xua đuổi tà

ma, không cho chúng đến gần để làm hại đứa trẻ.

Lễ cưới là một lễ tục quan trọng trong nghi lễ đời người sau lễ tục sinh nở. Lễ

cưới đánh dấu sự chuyển biến trạng thái từ hai thành viên riêng biệt trở thành một gia

đình thống nhất. Đó không chỉ là sự gắn kết của đôi trai gái mà còn là sự gắn kết của

hai dòng họ trong mối quan hệ xã hội.

Trong lễ cưới của người Khmer truyền thống có rất nhiều lễ nhưng có thể chia

làm hai lễ lớn: lễ hỏi và lễ cưới. Lễ cưới ngày nay của người Khmer vẫn giữ theo nghi

thức truyền thống nhưng bỏ đi một số lễ thức không còn phù hợp: lễ nhuộm răng, lễ

trình diện Neak-ta, lễ tắm trước khi cưới. Người Khmer ở ĐBSCL không còn thực

hiện nghi thức tắm trước khi cưới. Tắm là nghi thức đầu tiên đánh dấu sự chuyển đổi

trạng thái của con người, còn được gọi là nghi lễ chuyển đổi như tắm khi vừa mới

được sinh ra, tắm khi thực hiện lễ cưới và tắm trước khi được khâm liệm trong lễ tang.

Trong các nghi lễ chuyển đổi, đám cưới là một dịp trọng đại ghi dấu sự trưởng thành

của một con người. Cô dâu và chú rể có những nghi lễ liên quan đến nước nhằm thanh

tẩy để chuẩn bị cho giai đoạn mới của cuộc đời, được cả cộng đồng thừa nhận là một

gia đình riêng. Sau khi được tẩy rửa, cuộc sống trở nên thanh sạch, không còn vết tích

75

tội lỗi.

Nhìn chung, lễ cưới của người Khmer ĐBSCL đã thay đổi một số lễ tục tùy

thuộc vào quan hệ hôn nhân (phối hôn của người Khmer với người Việt thì nghi thức

biến cải cho phù hợp với cả hai gia đình), tùy thuộc vào tình hình kinh tế của gia chủ

mà lễ thức có thể giảm bớt cho phù hợp. Trong nhiều lễ thức ngày cưới của người

Khmer, lễ tụng kinh cầu phước là một lễ không được bỏ qua. Lễ tụng kinh cầu phước

được tổ chức vào buổi chiều hoặc tối của ngày thức hai của lễ cưới. Đôi vợ chồng ngồi

ở vị trí trang trọng trong nhà, được sư sãi tụng kinh và vẩy nước thơm cầu chúc phúc

lành. Nước thơm mang đến sự thanh sạch cho đôi vợ chồng mới, rũ bỏ mọi điều không

may trước đó và chúc họ bước vào cuộc sống hôn nhân đầy mỹ mãn.

Nghi lễ vòng đời quan trọng cuối cùng trong cuộc đời người là lễ tang. Người

Khmer quan niệm rằng chết không có nghĩa là hết. Chết là sự trở về thế giới bên kia và an

hưởng phước phần đã được tích lũy khi còn sống. Người Khmer rất xem trọng tội và

phước cho nên trong cuộc sống của mình, họ cố gắng tích phước: đi chùa, làm việc

thiện,... để khi chết được thanh thản, nhẹ nhàng và khi tái sinh ở kiếp sau được nhiều điều

tốt đẹp như xinh đẹp, giàu có và có học thức. Trong cuộc đời mỗi người Khmer có ít nhất

hai lần cần phải thanh tẩy: khi sinh ra và khi chết đi. Khi nhà có người chết, người Khmer

thường mời Achar – một người thông thạo các nghi thức tang lễ đến chỉ dẫn. Người chết

được lau rửa bằng nước thơm để tẩy uế những dơ bẩn để cơ thể, giúp trả cơ thể trở về

thanh sạch.

Người Khmer ở ĐBSCL đa phần theo tục hỏa thiêu. Nghi lễ hỏa táng được diễn

ra trong một cái tháp đặt trong phum, sóc. Tháp thiêu này có khi được đặt trong khuôn

viên chùa. Sau khi hỏa thiêu, xương người chết được rửa bằng nước dừa hoặc nước

sạch với mong muốn gột rửa nhơ bẩn lần cuối trong một cuộc đời người. Đến khi

người chết được 100 ngày hoặc một năm, con cháu sẽ làm đám giỗ để nhớ ơn và tạo

phước cho linh hồn người chết. Trong đám giỗ 100 ngày, ông Achar sau khi cúng

xong kêu gọi con cháu người chết đốt nhang cầu nguyện và xin được cởi bỏ khăn tang.

Sau đó, ông Achar đọc kinh và vẩy nước cầu phước lành cho con cháu người chết. Sau

nghi thức tụng kinh xin tháo bỏ khăn tang và vẩy nước cầu phước, họ được cởi bỏ

những ràng buộc thời kì để tang và trở về với cuộc sống bình thường.

Dùng nước để thanh tẩy là một đặc trưng ở các nước Châu Á. Trong cuộc sống của

tín đồ Bà La Môn có đầy các nghi thức tẩy. Từ khi sinh ra, con người cần phải tắm gội và

76

tẩy uế áo quần. Những nghi thức đó được tiếp tục cho đến già, khi thì dưới hình thức tắm

rửa và rảy nước kèm theo những hành vi tôn giáo trọng thể. Trong vài hình thức thanh tẩy

của tín đồ Ấn Độ giáo còn dùng cả nước tiểu của một con bò cái thiêng. Tuy nhiên,

phương tiện được họ dùng nhiều nhất để thanh tẩy thân thể và linh hồn vẫn là nước.

Có thể thấy, từ khi con người sinh ra đến khi chết đi trong nghi lễ vòng đời người

đều có sự hiện diện của yếu tố nước. Với chức năng thanh tẩy, nước khởi đầu cuộc đời

mới trong nghi lễ sinh nở. Nước lại mang ý nghĩa cầu chúc phước lành trong lễ cưới của

người Khmer. Và khi con người giã từ sự sống về với thế giới bên kia, nước lại một lần

nữa đưa tiễn con người ra đi thanh thản. Nước vừa có chức năng thanh tẩy vừa để cầu

chúc phước lành mang đến sự thanh sạch và may mắn cho con người. Nước thơm và oai

lực trong những lời kinh tụng chúc phúc của nhà sư hoặc các vị Achar sẽ mang đến những

phước báu cho người được hưởng sự thanh sạch mà nước mang lại. Nước thực sự đã trở

thành một phần không thể thiếu trong nghi lễ vòng đời của người Khmer ĐBSCL.

b. Nước trong lễ tết, lễ hội (ទឹកកន ុពិ្ីប ណ្យ = tứk k-nông pi thi bonh)

Chôl - Chnăm - Thmây là một lễ tết lớn nhất trong năm của người Khmer. Lễ

này có ý nghĩa mừng năm mới, cảm tạ công ơn ông bà tổ tiên. Ngoài ý nghĩa mừng

năm mới và nhận một tuổi mới gọi là “chịu tuổi” lễ hội này còn là một lễ nghi nông

nghiệp mục đích cầu mùa màng tốt tươi mà cụ thể là cầu mùa khô mau dứt và mùa

mưa mau tới để có nước làm ruộng. Đây là thời gian đã hoàn thành việc đồng áng,

mùa khô sắp qua đi và mùa mưa sắp đến. Vào thời gian diễn ra lễ hội Chôl - Chnăm -

Thmây là lúc thời tiết nắng nhất trong năm, đất đai khô cằn, nứt nẻ, các cánh đồng hầu

như không còn sức sống. Cho nên, với thời tiết như vậy hoàn toàn không thể nào làm

ruộng và chỉ chờ đến lúc mưa xuống, đất đai màu mỡ trở lại người nông dân Khmer

mới có thể xuống ruộng bắt đầu mùa vụ mới.

Tết vào năm mới của người Khmer thường được tổ chức trong 3 ngày. Ngày

thứ nhất là ngày lễ rước Đại lịch “Maha Sangkran” mới. Trong ngày đầu năm mới này

sau khi tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, người Khmer mang nhang đèn đến chùa,

dưới sự chỉ dẫn của vị Achar, tất cả mọi người xếp thành hàng rồi đi vòng quanh

chánh điện 3 lần để làm lễ đón chào năm mới. Ngày thứ hai: mỗi gia đình đều đem

cơm cho sư sãi vào buổi sáng và buổi trưa. Sau khi thọ thực, các sư sãi bắt đầu tụng

kinh chúc phúc. Buổi chiều, mọi người đến chùa để làm lễ đắp núi cát để mong gặp

nhiều điều may mắn. Núi cát thường được đắp vào những ngày gần Tết. Vào những

77

ngày giáp Tết, các nhà sư trong chùa thường tiến hành đắp núi cát (Phnom - Khsach)

theo hình tháp (Sthâup) xung quanh chính điện. Ngày nay, một số chùa ở Trà Vinh hay

đắp núi lúa thay vì đắp núi cát. Dù núi cát hay núi lúa cũng đều là nghi thức nhằm cầu

mùa mưa. Người Khmer xưa quan niệm rằng: núi có thể cản mây, đắp núi là có thể

ngăn lại các đám mây, cầu cho mưa mau đến để họ khởi sự làm mùa. Ngày thứ ba là

ngày tắm tượng Phật và cũng là một ngày lễ quan trọng nhất trong lễ Chôl - Chnăm -

Thmây. Nghi lễ tắm tượng Phật liên quan rất nhiều đến tâm thức ứng xử với nước của

người Khmer Nam Bộ. Nghi lễ tắm Phật tiến hành như sau: khi dâng cơm sáng cho

các vị sư xong, mọi người trong phum, sóc đem nước ướp hương thơm2 cùng nhang

đèn đến bàn thờ Phật để cùng làm lễ tắm tượng Phật. Sau khi tắm Phật là đến tắm các

vị sư cao niên nhằm rửa sạch hết những cái cũ trong năm cũ để sang năm mới hoàn

toàn mới. Hiện nay, việc tắm những nhà sư không còn nữa mà chỉ còn tắm ông bà ở

nhà. Nước thơm sau khi tắm Phật, người Khmer mang về tắm cho người lớn tuổi trong

nhà để cầu chúc sức khỏe, bình an.

Trong ngày Tết năm mới này còn có lễ cầu siêu gọi là “Băng skol”. Các vị sư

sau khi tắm Phật ở chính điện đến các tháp xung quanh chùa tụng kinh cầu siêu nhằm

chúc phước lành cho người quá cố. Lễ này thường kéo dài. Sau khi tụng kinh cầu siêu,

các nhà sư dùng nước vẩy vào ngôi tháp và vẩy vào con cháu người quá cố quỳ dưới

chân tháp. Mọi người rất hạnh phúc khi được vẩy nước vào mình. Đó như một lời chúc

phước lành trong ngày đầu năm mới.

Hiện nay, trong lễ Chôl - Chnăm - Thmây của người Khmer ở ĐBSCL thường

ngừng lại ở nghi thức tắm Phật ở chùa rồi đến tắm ông bà ở nhà và không còn phổ biến

tục té nước nữa. Theo khảo sát của chúng tôi còn một số chùa trên địa bàn Trà Vinh

còn duy trì tục té nước này là chùa Bổn Thanh, tại xã Ngũ Lạc, huyện Duyên Hải và

chùa Chim (Ktưng Wat) tại Trà Vinh là còn tục té nước. Nghi thức này được tiến hành

như sau: trước khi bắt đầu lễ tắm Phật, các sư sãi bắt đầu chuẩn bị nước đầy các thùng

lớn (tại chùa Chim còn cho hoa tươi vào nước) để chuẩn bị té nước. Sau khi tắm Phật

xong, bà con cùng nhau lấy nước tưới vào nhau bất kể người lớn hay trẻ con. Ai ai

cũng vui cười đón nhận nước, thậm chí các nhà sư cũng được té nước để cầu phúc.

Không phân biệt tuổi tác, địa vị, tất cả mọi người đến với ngày hội té nước là để cầu

2 Nước ướp hương thơm (tưk – op): là một thứ nước sạch được người Khmer cho vào có khi là hoa vạn thọ, có khi là nước dầu thơm. Khi chúng tôi điền dã đã thấy tại một số chùa Khmer tại Trà Vinh tiến hành làm nước thơm như sau: mỗi người mang một ca nước sạch đến chùa. Nhà sư dùng ba cây nhang bẻ cong, đốt cho cháy rồi bỏ vào ca nước sạch đậy nắp lại. Nước thơm này sẽ được dùng tắm Phật và sau đó mang về tắm ông bà ở nhà

78

phúc lành và cùng vui chơi thỏa thích.

Không chỉ té nước ở chùa, một số người còn chạy xung quanh sóc té nước vào

nhau. Bà con trong phum, sóc rất mong chờ đến ngày hội té nước này. Lễ hội này

được diễn ra vào những tháng nóng nhất trong năm nên khi té nước vào nhau mọi

người càng trở nên thích thú vì được giải tỏa sức nóng của mặt trời. Nước được xem

như điềm lành để con người cầu chúc nhau. Không những thế, nước còn giúp con

người thanh thản, vượt qua bao nỗi ưu tư muộn phiền để cùng nhau đón một năm mới

với bao điều ước mong tốt lành.

Nước đã mang bao ý nghĩa quan trọng trong ngày Tết vào năm mới của người

Khmer ở ĐBSCL. Thế nhưng, hiện nay từ trong nhận thức người Khmer nước đang

mất dần những giá trị và ý nghĩa ban đầu của nó. Theo khảo sát của chúng tôi hiện

nay, người Khmer ở ĐBSCL chỉ nghĩ rằng té nước là những thói quen do tàn tích để

lại mà chưa hiểu hết tầm quan trọng cũng như ý nghĩa sâu xa của nó. Chẳng hạn như

khi chúng tôi phỏng vấn sư cả chùa Bổn Thanh tại xã Ngũ Lạc huyện Duyên Hải tỉnh

Trà Vinh về ý nghĩa của việc nhà chùa cho nước trong lễ hội Chôl - Chnăm - Thmây

thì sư cả cho rằng: té nước vừa để cho bà con vui chơi vừa để bảo lưu những giá trị

văn hóa của người Khmer. Tìm hiểu lý do khiến tục té nước ngày càng phai nhạt trong

văn hoá của người Khmer, chúng tôi phỏng vấn một số nhà sư và thu được kết quả như

sau: ở một số nơi, do ý thức của một số ít người dân còn hạn chế, khi tham gia té nước

có tình trạng một số người dùng nước bẩn té vào người khác gây mất vệ sinh... Cũng

có ý kiến cho rằng: té nước làm cho mọi người ướt và không thể đi chơi hội được nữa

bởi vì sau khi tắm Phật, người Khmer tổ chức đi đến nhà bạn bè hoặc đi nhiều nơi

khác nữa.

Yếu tố nước có chức năng đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của

người Khmer trong truyền thống. Những phân tích bên trên cho thấy, nước tưng tồn

tại và xuất hiện ở hầu hết các lễ hội và nghi lễ vòng đời người. Người Khmer tin

rằng, được thanh tẩy bởi nước, con người trở nên thanh sạch, hạnh phúc và mọi

mong muốn, nhu cầu về tâm linh đều được viên mãn. Điều đó cho thấy, nước có một

chức năng đặc biệt trong tâm thức của người Khmer xưa và nay và chưa bao giờ thay

đổi. Điều này thật khó lý giải được. Nếu như nói rằng, xưa kia nếu như con người bị

phụ thuộc bởi tự nhiên, con người bé nhỏ trước các hiện tượng thiên nhiên nên con

người từ tâm lý sợ hãi dẫn đến tôn kính. Tuy nhiên, hiện nay con người đã có thể dự

79

đoán thiên nhiên, các hiện tượng tự nhiên đều được giải thích bởi khoa học nhưng

những giá trị tôn kính với thiên nhiên vẫn còn hiện hữu trong tâm thức của người

Khmer. Có thể nói rằng, với tâm lý của một tộc người trọng đời sống tâm linh, trọng

những giá trị truyền thống thì chắc chắn rằng giá trị tinh thần của nước sẽ còn tiếp

tục tồn tại trong văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL.

2.2.4.2. Lễ nghi cầu nước, đưa nước

Trong tín ngưỡng của người Khmer, nước có ý nghĩa về mặt vật chất lẫn tinh

thần. Vào những tháng mùa khô, khi trời nắng hạn không đủ nước để người Khmer

làm ruộng họ sẽ có nghi lễ cầu mưa (cầu đảo). Lễ nghi cầu mưa của người Khmer có

nơi được thực hiện riêng lẻ, có nơi được tích hợp với nghi lễ cầu an (Bon Kom – San –

Sroc) của phum, sóc.

Thời điểm thực hiện nghi lễ cầu mưa diễn ra vào khoảng tháng 4 dương lịch

hàng năm. Có những năm hạn hán kéo dài, nghi lễ này được thực hiện ở khắp các

phum, sóc. Lễ vật thực hiện cúng gồm có: đầu heo hoặc thịt heo luộc, gà luộc, hoa

quả, bánh ngọt và nhang đèn. Buổi lễ được diễn ra dưới sự hướng dẫn của Achar và

được tổ chức tại miếu Neak-ta (vì vậy một số nơi tích hợp lễ cầu an với lễ cúng Neak-

ta của phum, sóc). Những người tham gia lễ xếp thành một hàng trước miếu Neak-ta

sau đó đi vòng quanh miếu ba lần rồi từng người cắm nhang vào bàn thờ Neak-ta.

Ngày xưa, những nơi có ghe (thuyền), họ còn tổ chức cúng lễ và đua ghe trên cạn (um

Tuk – lơ – kôk). Nếu như các nghi lễ cầu mưa đã xong mà vẫn không có mưa sẽ có

một lễ khác gọi là “Bon sâum tuk phliêng” (lễ xin nước mưa). Lễ xin nước mưa được

tiến hành bằng cách mời khoảng mười vị sư sãi ra đứng phơi nắng ở giữa sân chùa, sân

nhà hoặc đứng ngay giữa cánh đồng khô cháy. Trước mặt các vị sư sẽ là một hố sâu,

hoặc một chậu khô. Trong hố và chậu thả con cá lóc, ếch, cua…Đây có thể là một

phương thuật, biểu hiện cùng cực của sự khô cháy làm “động lòng” để trời ban phước,

mưa xuống cứu vớt chúng sinh. Lễ cầu mưa vẫn tồn tại cho đến nay mỗi khi thời tiết

khô hạn kéo dài.

Nghi thức cầu mưa, cầu nước xuất hiện trong tín ngưỡng của các cư dân làm

nông nghiệp. Các dân tộc làm nông nghiệp ở ĐBSCL cũng vậy. Mỗi dân tộc có các

nghi thức, cách thể hiện khác nhau nhưng tựu trung là sự thể hiện tôn sùng và cần có

nước. Nước giúp cho cây lúa, hoa màu tốt tươi và nước mang đến cho một cuộc sống

80

ấm no, an lành.

Nước là một phần rất quan trọng trong đời sống của người Khmer. Trong sinh

hoạt, sản xuất họ cần nước vừa đủ để sinh sống và canh tác. Khi nước quá thừa hoặc

quá thiếu vượt ngoài năng lực con người tác động họ sẽ trông chờ vào các thế lực siêu

nhiên. Vì thế, người Khmer không chỉ có nghi lễ cầu nước mau đến còn có các nghi lễ

mang ý nghĩa cầu nước mau rút đi. ĐBSCL là vùng khi nắng hạn, thiếu nước cho sản

xuất khi lại mưa nhiều, nước dâng gây ngập úng đồng ruộng. Lễ hội Ok - Om - Bok

ngoài ý nghĩa cảm tạ thần mặt trăng còn mang ý nghĩa cầu nước mau rút để người

Khmer có thể làm vụ mùa mới.

Ok - Om - Bok là một lễ hội lớn của người Khmer được tổ chức thống nhất

ngày 15, 16 và 17 tháng 10 dương lịch để cảm tạ thần mặt trăng. Người Khmer coi mặt

trăng là một vị thần bảo hộ cho mùa màng tốt tươi. Họ quan niệm mặt trăng là đối

tượng thờ cúng thiêng liêng. Sau một năm làm mùa người Khmer lại cúng để cảm tạ

mặt trăng đã phò trợ cho mưa thuận gió hòa, mang đến cho người nông dân những vụ

mùa bội thu. Lễ cúng mặt trăng được tổ chức vào thời điểm thu hoạch lúa mới. Để cảm

tạ công ơn của mặt trăng người Khmer lấy lúa nếp mới giã thành cốm để cúng trăng.

Lễ cúng trăng được tiến hành trước khi trăng lên. Trước tiên, người Khmer

thường chọn những khoảng đất trống trong chùa hoặc khuôn viên rộng rãi trong phum,

sóc nhưng đặc biệt phải là nơi cao ráo và không có bóng cây che khuất. Các lễ vật

dùng để cúng là khoai lang, chuối, dừa… và nhất định phải có cốm dẹp (Om – Bok).

Các thành viên trong buổi lễ được ngồi hàng ngang trước bàn lễ vật và hướng về phía

trăng mọc để cầu cúng. Người đứng ra tổ chức cầu cúng cho buổi lễ nếu ở chùa là sư

sãi còn nếu như ở phum, sóc thường là những vị Achar.

Trong đêm của lễ cúng trăng, các chùa còn tổ chức lễ thả đèn nước và thả đèn

gió. Đèn nước có hình dáng như một ngôi đền làm bằng thân và bẹ chuối. Đầu đèn,

người ta treo cờ phướn, chung quanh cắm đèn cầy và nhang, bên trong bày các vật

cúng như trái cây, bánh, kẹo, gạo, muối… Mở đầu buổi lễ, sư sãi và thành viên trong

phum, sóc cắm đèn cầy và nhang xung quanh đèn và đọc kinh tưởng nhớ đến Đức

Phật, xin lỗi đất và nước. Người Khmer cho rằng trong suốt một năm trồng lúa và hoa

màu họ đã làm cho đất và nước bị ô uế. Sau nghi thức đọc kinh người Khmer thả

những chiếc đèn xuống nước. Nơi thả đôi khi là kênh, rạch hay ao xung quanh chùa.

Hàng năm, ở Trà Vinh nghi thả đèn nước được thực hiện tại Ao Bà Om diễn ra rất

long trọng, lễ hội thu hút hàng ngàn người dân trong và ngoài tỉnh đến tham dự. Hiện

81

nay, lễ hội này không chỉ là một lễ hội truyền thống của riêng người Khmer mà dường

như đã trở thành một lễ hội chung của các tộc người cùng sinh sống. Trong lễ hội,

người Khmer, người Việt, người Hoa cùng tham gia hội như một lễ hội của chung của

cộng đồng. Đó là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá của các dân tộc anh

em ở ĐBSCL.

Trong đời sống thường nhật, người Khmer tôn trọng và gìn giữ nguồn nước.

Khi cảm thấy có lỗi với nước người Khmer lại có những nghi thức cầu cúng tạ tội

mong thần nước bỏ qua và mang đến nguồn nước dồi dào phong phú để họ có một vụ

mùa suôn sẻ. Người Khmer làm nông và sống dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên nên tâm

thức tín ngưỡng tự nhiên nói chung và tín ngưỡng nước nói riêng là một điều dễ hiểu.

Tín ngưỡng nước của người Khmer thể hiện rõ nét trong lễ hội Ok - Om -

Bok. Ngoài lễ cúng trăng, nghi thức thả đèn nước, tín ngưỡng nước còn thể hiện

trong hội đua ghe ngo. Có thể nói, hội đua ghe ngo là một ngày hội được người

Khmer mong chờ nhiều nhất trong năm. Lễ đua ghe ngo được xem là lễ tống tiễn

thần nước, thần của mùa mưa. Ghe ngo là một loại thuyền độc mộc dài khoảng 24m,

đoạn giữa rộng khoảng 1,2m, thường được làm bằng các loại gỗ tốt. Ghe ngo có hình

dáng thon, dài mô phỏng như thân hình của rắn Naga. Ghe ngo là một loại ghe thiêng

chỉ dùng vào mục đích bơi thi trong ngày hội. Sau khi tham gia hội xong ghe được

đưa về cất giữ và bảo quản cẩn thận trong chùa. Vì ghe ngo mang tính thiêng nên

trước khi tổ chức bơi thường có nghi thức cúng ghe. Lễ vật không cầu kì chỉ có ít trái

cây, hoa, nhang , đèn... Phía trước đầu ghe ngo thường treo cờ cá sấu. Cờ cá sấu là

một biểu tượng cho tín ngưỡng tô tem của người Khmer.

Trong lễ hội Ok - Om - Bok, ngoài hội đua ghe ngo phải tổ chức ban ngày, hầu

hết các nghi thức của lễ hội đều diễn ra ban đêm. Tổng hợp các yếu tố “ban đêm”,

“nước lớn” và “trăng tròn” có ý nghĩa nhấn mạnh yếu tố âm tính nhằm cảm tạ thần

nước đã phò trợ cho mùa màng tươi tốt, vạn vật sinh sôi nảy nở và đưa tiễn nước trở

lại nguồn biển. Ở góc độ nghiên cứu văn hóa tộc người thì việc thả đèn trời và đua ghe

“ngor’’ cũng chính là những nghi thức mang tính saman giáo để tiễn mùa mưa, và cầu

khấn cho sự may mắn cuộc sống, công việc trong năm mới (Phan An, 2009).

Trong lễ hội của người Khmer ở ĐBSCL dù là phần lễ hay hội cũng đậm chất

lễ nghi nông nghiệp. Và thực sự là những lễ hội này đánh dấu thời vụ trong năm: đầu

mùa mưa và cuối mùa mưa. Nếu như Chôl - Chnăm - Thmây là lễ hội trong thời điểm

82

nắng hạn thì Ok - Om - Bok là lễ hội ở vào thời điểm cuối mùa mưa. Ở thời điểm nắng

hạn người Khmer cầu mưa đến còn ở thời điểm mùa mưa người Khmer cầu cho mưa

dứt, nước rút để họ vào vụ mùa mới. Ok - Om - Bok vừa là lễ hội cúng trăng vừa để tạ

lỗi và cám ơn thần nước. Cảm ơn là để cho người nông dân Khmer một vụ mùa tốt

tươi, tạ lỗi vì trong năm đã gây tổn hại và ô nhiễm nguồn nước. Trong lễ hội Ok - Om

- Bok còn có nhiều nghi thức khác liên quan đến nước: thả đèn nước, đua ghe ngo…

Thủy lợi là vấn đề quan trọng đối với nông dân Khmer trồng lúa nước nên ở

nhiều dạng khác nhau lễ cầu nước vẫn tồn tại dai dẳng vào những ngày nắng hạn.

Người Khmer ở Sóc Trăng còn có lễ cúng phước biển cũng mang ý nghĩa cầu mùa,

cầu phúc. Lễ này được tổ chức tại chùa Cà Săng vào ngày 14 và 15 tháng 2 âm lịch

hàng năm. Trong phần hội của lễ lễ hội cúng phước biển có tổ chức các trò chơi dân

gian mô phỏng các cô gái Khmer gánh nước tưới hoa màu, chàng trai Khmer đẩy xiệp

đánh bắt cá, đánh xe bò, đua ghe ngo trên cạn phản ánh cuộc sống sinh hoạt hằng ngày

của người Khmer. Có thể nói, nước có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn

hoá của người Khmer và sự cần thiết đó phản ánh dấu ấn của nước trong các phong tục

lễ hội của họ.

Tiểu kết chương 2

Tóm lại, nội dung chương 2 đã tập trung phân tích văn hoá ứng xử với hai yếu

tố đất và nước trong văn hoá ứng xử của người Khmer ĐBSCL.

Trong văn hoá ứng xử với đất, chúng tôi phân tích hai giá trị văn hoá trong văn

hoá của người Khmer là đất trong văn hoá vật chất và đất trong văn hoá tinh thần.

Người Khmer ở ĐBSCL rất quan trọng đất, cụ thể là đất ở và đất canh tác. Từ giai

đoạn đầu cư trú, họ có kinh nghiệm lựa chọn những giồng đất cao để ở và để trồng

trọt. Tùy vào điều kiện có được mà người Khmer đã linh hoạt trong văn hoá ứng xử

với môi trường tự nhiên của mình. Với đất cao người Khmer tận dụng để làm nơi cư

trú và trồng những loại cây thích nghi được với đất cao như hành tím, mía...; còn với

đất thấp, người Khmer dùng để nuôi tôm, trồng lúa và các loại cây chịu ngập khác.

ĐBSCL từ trước đến nay thường được cho rằng đây là vùng đất trù phú, được mẹ thiên

nhiên ưu đãi, là vùng đất con người chỉ cần làm chơi mà ăn thật; tuy nhiên, có thể đây

chỉ là cách nói ví von và chỉ nói đến các sản vật như thực vật, thuỷ sản chứ về nguồn

tài nguyên đất, nước thì không như cách nói ví von đó. Để ứng phó với môi sinh đất,

nước, cư dân vùng đất này phải chung lưng đấu cật, dùng sức lực và tâm trí rất nhiều

83

mới có thể lúc thì đối phó, lúc thì thích nghi.

Văn hoá ứng xử với đất của người Khmer không chỉ trong phương diện văn hoá

vật thể mà nội dung chương 2 còn khai thác giá trị văn hoá phi vật thể. Trong văn hoá

ứng xử với đất, thái độ của người Khmer đối với đất là sự tôn kính và có tâm thức tín

ngưỡng đối với đất. Mỗi khi có sự tác động vào đất như đào giếng, cất nhà người

Khmer ĐBSCL đều phải có những nghi thức để cúng thần đất. Người Khmer rất coi

trọng thái độ đối với đất, họ cho rằng bên dưới đất luôn tồn tại thần trú ngụ nên các

hành động làm dơ bề mặt đất cũng được xem như thái độ bất kính đối với các vị thần

đó. Tín ngưỡng đất của người Khmer còn được coi trọng hơn trong việc xác định giới

hạn đất đai của nhà chùa. Mỗi chùa người Khmer thường có hình tượng nữ thần đất

được trang trí phía sau chính điện. Nữ thần đất có chức năng che chở cho sự yên bình

của nhà chùa. Bên cạnh đó, trong quan hệ cộng đồng, người Khmer luôn có sự tôn

kính nhất định với phạm vi đất đai của nhà chùa. Đất của chùa dù là đất ruộng hay đất

ở cũng không có một thành viên nào có ý nghĩ hay thực hiện lấn đất, chiếm đất của

chùa.

Trong văn hoá ứng xử với nước, ở chương 2 này, chúng tôi cũng đã tập trung

phân tích văn hoá ứng xử với nước trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của

người Khmer. Nước là yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong sinh hoạt cũng như

trong canh tác của người Khmer. Vì những lý do đó, người Khmer luôn có cách ứng

xử trân trọng, giữ gìn nguồn nước. Thái độ tôn trọng nước được biểu hiện qua các tín

ngưỡng, lễ hội liên quan đến nước của người Khmer. Trong các nghi lễ vòng đời, nghi

lễ tôn giáo, nước thường xuyên xuất hiện với chức năng thanh tẩy đặc biệt. Với người

Khmer, nước thơm (tưk-op) có chức năng xua đi những điều không may mắn, không

sạch sẽ và nước thơm cùng với những bài kinh tụng của nhà sư có chức năng mang

đến sự bình an, hạnh phúc cho con người. Lý thuyết chức năng của Malisnowki được

chúng tôi vận dụng để giải mã những tâm thức ứng xử của người Khmer đối với nước,

chức năng của nước trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer.

Theo lý thuyết sinh thái văn hóa của Steward chúng tôi nêu ở chương 1, con

người có thể thích nghi để tồn tại bằng những tri thức riêng thuộc về bản sắc tộc

người. Ở đây, phân tích trong chương 2 của chúng tôi về cách ứng xử của người

Khmer đối với đất và nước cũng cho thấy người Khmer cũng có những cách ứng xử

rất riêng mang bản sắc văn hoá tộc người. Đó là thái độ vừa tôn kính vừa sợ hãi đối

84

với đất và nước. Những tri thức về ứng xử đó có thể truyền thừa qua các thế hệ và có

thể được trao đổi, chuyển giao qua lại giữa các tộc người cùng sinh sống trên một khu

vực địa lý nhất định. Có thể nói, lý thuyết sinh thái văn hoá của Steward là điểm tựa đã

giúp chúng tôi lấy làm cơ cở để phân tích văn hoá ứng xử với đất và nước trong văn

85

hoá của người Khmer ở ĐBSCL.

CHƯƠNG 3

VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI THỜI TIẾT, ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT

CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Thời tiết, động vật và thực vật là các yếu tố đòi hỏi sự thích nghi và ứng phó

trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của người Khmer. Người Khmer truyền

thống có những kinh nghiệm dân gian trong việc dự đoán về những chuyển biến theo

chu kì hay những chuyển biến bất thường của thời tiết. Những kinh nghiệm này hiện

nay vẫn còn giúp ích rất nhiều trong nông nghiệp của người Khmer.

Động vât, thực vật là hai yếu tố tồn tại trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của

người Khmer. Trong quá trình tương tác với môi trường xung quanh, họ đã thích nghi,

tận dụng những động vật, thực vật có lợi cho đời sống văn hoá vật chất, phục vụ cho

văn hoá ăn, mặc và đi lại; qua đó, hình thành nên những giá trị văn hoá về mặt tinh

thần đó là những yếu tố tín ngưỡng tâm linh đến động vật và thực vật.

3.1. VĂN HOÁ ỨNG XỬ THỜI TIẾT (ធាតុអាកាស = thiêch à cás)

3.1.1. Đặc điểm thời tiết vùng đồng bằng sông Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới cận xích đạo

và là khu vực chịu ảnh hưởng rõ rệt nhất của gió mùa Châu Á. Hướng gió mùa đông

và hướng gió mùa hè hoàn toàn đối lập nhau, tương ứng với hai mùa gió là hai mùa

khô và mưa rõ rệt. Giữa hai mùa thường có giai đoạn chuyển tiếp nhưng thường không

dài.

Khí hậu nhiệt đới làm cho ĐBSCL có hai đặc điểm cơ bản là nóng ẩm và mưa

nhiều. Nhiệt độ và độ ẩm của vùng khá cao (khoảng 80,4%) và tập trung cao nhất

vào các tháng mùa mưa. Nhiệt độ không khí trung bình khoảng 28,20C thuộc cao

nhất nước (so với vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 25,20C). Nhiệt độ trung bình

của vùng dao động từ 250C đến không quá 340C. Vào mùa khô, nhiệt độ cao nhất

khoảng 330C - 340C và thấp nhất khoảng 230C - 240C; vào mùa mưa, nhiệt độ cao

nhất khoảng 320C và thấp nhất khoảng 210C. Chế độ gió mùa đã tạo ra hai mùa rõ rệt

luân phiên nhau là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng năm đến tháng mười tập

trung đến khoảng 80-90% lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng mười một đến tháng

tư là thời kì của gió mùa Đông - Bắc khô hanh. Lượng mưa mùa mưa lớn lại trùng

86

vào mùa nước lũ của sông MeKong đổ về hạ lưu nên dễ tạo ra tình trạng úng ngập ở

một số địa phương ảnh hưởng nặng đến sinh hoạt và sản xuất. Với khí hậu cận xích

đạo, mưa nhiều, nóng ẩm là điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp đặc biệt là cây

lúa nước và các loại cây trồng khác.

Ngoài những hiện tượng thông thường của thời tiết như mưa, nắng, ĐBSCL còn

có những hiện tượng đặc biệt tác động đến cuộc sống của cư dân như lốc xoáy, vòi

rồng, mưa đá và hạn hán. Những hiện tượng này tuy không thường xuyên nhưng

những tác hại của nó ảnh hưởng khá lớn đến cuộc sống con người, tàn phá nặng nề đến

cây trồng và vật nuôi. Lốc xoáy, vòi rồng và mưa đá thường xuất hiện ở những vùng

đồng bằng và đồi núi trọc. Vì vậy, để phòng chống, người dân phải trồng rừng phủ

xanh đồi trọc (vùng An Giang), trồng nhiều cây phân tán ở đồng bằng để tạo hàng rào

vật cản làm giảm tốc độ di chuyển và diện tích hoạt động của chúng. Cùng với lốc

xoáy, hạn hán (còn được người dân gọi là “hạn bà chằn”) là hiện tượng thời tiết rất

đáng lo ngại đối với cư dân ĐBSCL. Được gọi là “hạn bà chằn” là bởi vì vào khoảng

thời gian từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 8 hàng năm do hoạt động của gió mùa Tây -

Nam, áp thấp nóng phía Tây dễ gây ra một thời gian dài không mưa, đất đai khô cằn,

thiếu nước trầm trọng nên cư dân địa phương đã đặt tên gọi như thế. Tuy nhiên, tuỳ

vào điều kiện hoạt động cụ thể của các hệ thống hoàn lưu khí quyển từng năm mà năm

đó hạn bà chằn có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xuất hiện sớm hay muộn và kéo

dài hay ngắn. Thời gian xảy ra hạn thường trùng với thời kì sinh trưởng của lúa mùa,

lúa hè thu. Vì vậy năm nào hạn kéo dài sẽ ảnh hưởng nặng đến năng suất cây lúa.

Người Khmer xưa nay ở ĐBSCL luôn có kinh nghiệm dân gian kiểu cha

truyền con nối để xem xét thời tiết phục vụ cho nông nghiệp và cuộc sống của mình.

Cũng như các tộc người khác, người Khmer đã có quá trình tích luỹ kinh nghiệm dân

gian của mình tạo thành hệ thống thành ngữ phản ánh những kinh nghiệm ứng xử với

thời tiết như: “Mây trôi nhanh thì biển động mạnh, gió thổi hiu hiu thì biển yên”;

“Trời xanh trời gió, trời đỏ trời mưa” hay “Sao đưa đi đưa lại thì biển động, sao

đứng thì biển yên”. Những kinh nghiệm này đã giúp ích rất nhiều cho người Khmer

trong việc xem thời tiết như trời mưa, trời nắng để canh tác và đi lại. Từ xa xưa, con

người chỉ biết quan sát và dự đoán những sự kiện thiên nhiên đó qua những thay đổi

của sao, của mây hoặc gió...

Hiện nay, vùng ĐBSCL đang có những vấn đề mang tính cấp bách về môi

87

trường đó là tình hình biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp. Bằng những quan sát

thông thường chúng ta cũng có thể biết được sự biến đổi khí hậu như hạn hán nhiều

hơn vào mùa khô, ngập lụt nhiều hơn vào mùa mưa. Những biến động của thời tiết đã

làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, nhiều loại dịch bệnh, sâu rầy tấn công và miễn

dịch với các loại thuốc. Để thích ứng và đối phó với những diễn biến của thời tiết, môi

trường đòi hỏi những cư dân ĐBSCL nói chung và cư dân Khmer nói riêng phải có

những ứng xử cho phù hợp.

3.1.2. Ứng xử với thời tiết mùa khô

a. Chọn thực phẩm

Thời tiết ở vùng ĐBSCL được chia thành hai mùa khô và mùa mưa. Tuỳ vào

thời tiết hàng năm mà mùa mưa đến sớm hay muộn, thông thường từ khoảng tháng 5,

tháng 6 đến tháng 10 là thời điểm mưa nhiều nhất. Vào những tháng chuẩn bị đến mùa

mưa, thời tiết thường rất oi bức, dễ xảy ra các loại bệnh ảnh hưởng đến cả con người,

cây trồng và vật nuôi. Để đối phó với nắng nóng, người Khmer có những kinh nghiệm

dân gian trong lựa chọn nguồn thực phẩm để vừa cung cấp năng lượng, vừa phòng

ngừa với các loại bệnh do biến đổi của thời tiết mang lại.

Để ứng phó với cái nắng của mùa khô, người Khmer thường chọn và chế biến

thức ăn thành các loại có nước, thức ăn có vị chua, vị đắng để cân bằng thân nhiệt cơ

thể.

Những thức ăn có nước thường được người Khmer ưu tiên chế biến trong bữa

ăn hằng ngày là các loại canh như canh xiêm-lo, canh chua hay canh ngọt (được tổng

hợp từ các loại rau dại mọc quanh vườn nhà). Cách chế biến món canh chua (xiêm lo

mchu) của người Khmer ở các nơi có sự đa dạng khác biệt. Để tạo vị chua, người

Khmer thường cho thêm me (trái me chín hoặc lá me non), khế hoặc cơm mẻ. Người

Khmer có món canh chua chuối xiêm xanh hoặc canh chua bắp chuối là sự kết hợp

giữa vị chua và chát. Chuối xiêm xanh bỏ một phần vỏ cho bớt chát, xắt lát nấu với cá

(có khi là cá khô) hoặc thịt gà, nêm thêm cơm mẻ, các loại rau om, tần dày lá, ngò gai,

sả và mắm pro-hoc.

Ngoài các món canh, người Khmer còn chế tạo thêm nhiều món nước khác để

có thể ăn kèm với bún (num-chok) như bún nước lèo ở Trà Vinh, bún mắm ở Sóc

Trăng, bún cá ở An Giang. Cùng làm món bún, chan nước có nêm với các loại mắm

nhưng các món bún mắm của người Khmer ở các địa phương có sự thêm thắt, gia

88

giảm mang dấu ấn địa phương rõ nét. Món bún cá của người Khmer ở An Giang khác

với bún cá ở các địa phương khác. Loại cá để nấu bún thường được chọn là cá lóc. Cá

lóc xào với sả, nghệ, gừng cho thơm rồi cho vào nước dùng có nêm mắm cá linh hoặc

cá sặc. Món bún cá An Giang còn được gia tăng thêm hương vị khi ăn với bông điên

điển – đặc sản mùa nước nổi ở ĐBSCL mang dấu ấn đặc trưng vùng miền. Các món ăn

là sự kết hợp hài hoà, cân bằng giữa vị mắm (pro-hoc) cùng với các gia vị đặc trưng:

sả, ớt, cá, tôm,… tạo hương vị riêng. Món bún nước lèo của người Khmer ở Trà Vinh

có cách chế biến khác. Cá dùng nấu bún có thể bất kì loại cá nào người ta tìm được, có

thể là cá lóc, cá kèo, cá phi đều được. Cá được luộc chín, rỉa bỏ xương rồi lấy thịt cá

giã nhuyễn với sả bằm, ớt, riềng và ngãi bún. Món bún nước lèo Trà Vinh nếu không

có vị ngãi bún sẽ không tạo nên hương vị đặc trưng. Trong cách chế biến món ăn của

người Khmer, họ biết cách kết hợp hài hoà giữa các tính hàn, nhiệt của món ăn giúp

cân bằng cơ thể khi thưởng thức. Các món mắm khi chế biến có tính hàn nên được cân

bằng vị lại bằng cái nhiệt của sả, ớt, riềng .v.v. Có thể nói, các món ăn được chế biến

có nước của người Khmer không chỉ là sự cân bằng giữa con người với thời tiết trong

khi ăn mà còn là sự cân bằng hàn nhiệt bên trong cơ thể người. Ứng phó với thời tiết

của người Khmer không chỉ là cách ứng xử giữa con người với bên ngoài mà còn là sự

ứng xử nội tại bên trong con người.

Để ứng phó với thời tiết nóng, ngoài sự lựa chọn các món ăn có nước, người

Khmer còn rất ưa chuộng chế biến các món ăn có vị chua, thanh giúp giải nhiệt cho cơ

thể rất hữu hiệu. Trong cơ cấu bữa ăn của mình, họ thường chế biến các món dưa

chua, vừa giúp đỡ ngán vừa giúp thanh nhiệt cơ thể. Các món dưa chua phổ biến nhất

là dưa chua được muối từ các loại hoa màu như: dưa gang, lưa leo, cải củ, cải bẹ

trắng… Đây chính là các loại nông sản sẵn có, đồng bào thường trồng xen canh vào

các vụ lúa vừa cải tạo đất vừa tăng thêm thu nhập và có lương thực để dự trữ. Dưa

gang, dưa leo sau khi thu hoạch xong, các loại lớn thường được tuyển chọn riêng để

bán cho thương lái, các loại còn lại được dành riêng muối dưa để ăn dần, nếu dư ra thì

có thể bán cho bà con trong phum, sóc. Ngoài các loại nông sản dùng để muối dưa kể

trên, người Khmer còn rất linh hoạt trong chọn lựa các loại hoa màu, rau màu khác

như: hoa điên điển, súng, sen, ngó môn, lục bình…Các loại thực vật này sinh trưởng

nhiều vào mùa mưa, đến cuối mùa họ thu hoạch, muối dưa để ăn dần vào mùa nóng.

Trong văn hoá ẩm thực của người Khmer, cách ăn phổ biến nhất là ăn theo mùa, mùa

89

nào thức ấy.

Khi điền dã tại ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh chúng tôi

khảo sát được người Khmer nơi đây có làm kinh tế phụ là trồng các loại hoa màu dùng

để muối dưa. Loại rau dùng muối dưa phổ biến ở đây là cải bẹ (người địa phương hay

gọi là cải bẹ cùi, cải tùa xại). Cải bẹ là loại cây ngắn ngày, dễ trồng nhưng lại mang giá

trị kinh tế cao. Người Khmer gieo hạt cải được 25 ngày thì nhổ lên trồng nơi khác (gọi

là tỉa cải). Cách trồng tỉa này giúp cây cải có khoảng cách, giúp cải có bắp to hơn. Cải

trồng lại khoảng 40 ngày là có thể thu hoạch. Cải khi thu hoạch xong đem phơi nắng cho

héo (khoảng 1 nắng) thì đem luộc sơ. Sau đó, nấu nước muối ngâm khoảng 5 đến 6 ngày

sẽ có cải chua rất ngon, màu vàng đẹp. Người Khmer nơi đây cho biết, món cải chua là

món ăn rất dễ ăn. Vị chua của món dưa giúp bữa ăn thêm phần hấp dẫn, không ngấy mà

lại giúp dễ tiêu hoá hơn, nhất là vào những ngày nắng nóng.

Cạnh các loại thức ăn có vị chua, người Khmer ở ĐBSCL còn rất chuộng các

món ăn có vị đắng. Các loại thức ăn có vị đắng thường rất khó ăn, kén người ăn nhưng

với đồng bào Khmer thường ai cũng có thể ăn được vị đắng và các món ăn có vị đắng

được đồng bào lựa chọn rất cao trong hệ thống ẩm thực của mình. Các loại rau, quả có

vị đắng được người Khmer ưa chuộng là: rau đắng, lá sầu đâu, bông đu đủ, khổ qua

v.v. Những loại rau quả này có vị rất đắng khi ăn nhưng lại đọng lại vị ngọt nơi cổ

họng (người ĐBSCL hay gọi là hậu ngọt). Hơn nữa, thời tiết Nam Bộ nóng ẩm, khi ăn

nhiều các loại thức ăn đắng có thể hạ nhiệt cơ thể, giúp cơ thể thanh mát và chống lại

các loại bệnh về nhiệt. Có thể nói, món ăn có đầy đủ các vị chua, đắng, chát mà hầu

như người Khmer nào cũng rất yêu thích đó là món Bok-L’hong. Bok-L’hong gồm có

Pro-hoc được nêm với gia vị, tỏi, ớt rồi ăn kèm với các loại rau như: khế, chuối sống,

bông đu đủ, xoài non (có khi còn có đọt khoai mì). Ăn mắm sống kết hợp với các loại

rau quả chua chát sống rất dễ lạnh bụng nên để cân bằng người Khmer sẽ uống thêm

chút rượu.

b. Chọn trang phục

Trang phục của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay cũng giống như trang phục

của các tộc người cùng cộng cư khác đó là loại Âu phục mặc khi giao tiếp công sở, đi

học, đi làm. Chỉ có một số trường dân tộc nội trú, nữ sinh Khmer mặc xiệp (váy dài tới

mắt cá chân) khi đi học.

Trong quá trình giao lưu, ảnh hưởng qua lại với các tộc người khác, người

90

Khmer thường mặc những loại trang phục đơn giản và khá giống với người Việt, người

Hoa trong sinh hoạt thường ngày. Về kiểu dáng họ thường chú trọng trang phục rộng rãi

thoáng mát để giúp cho việc di chuyển, làm ruộng rẫy được thuận tiện và hơn cả là phù

hợp với khí hậu nóng ở đây. Trong lúc làm đồng ngoài nắng nóng, kiểu trang phục của

phụ nữ thường thấy là áo tay dài, thân dài và cổ tròn sát cổ. Vì trời nắng nên trang phục

càng kín (che chắn được nhiều) sẽ không bị nắng bắt vào da như vậy sẽ chống được

nắng nóng. Ngoài ra, người Khmer còn có chiếc khăn rằn như một vật dụng hữu hiệu để

đối phó với thời tiết. Chiếc khăn rằn với những ô vuông đen trắng, đỏ trắng và xanh

trắng như một loại phụ kiện rất đặc biệt của người Khmer. Khi đi làm đồng, người phụ

nữ Khmer dùng khăn rằn quấn sát đầu, che kín cổ rồi đội nón lá lên trên. Chiếc khăn

quấn sát đầu giúp cho sức nóng không thể len vào cơ thể. Đối với nam giới, chiếc khăn

rằn được cột ngang trán, phần nút khăn nhô lên trên. Chiếc khăn còn được cả nam giới

lẫn nữ giới dùng làm vật thấm mồ hôi khi nắng gắt.

Ứng xử với thời tiết trong trang phục không chỉ ở kiểu dáng mà còn trong việc

sử dụng chất liệu. Nếu những loại trang phục lễ tết, lễ cưới, người Khmer dùng chất

liệu cầu kì như kim tuyến lấp lánh, ren, kim sa để tăng thêm tính thẩm mỹ thì trang

phục hàng ngày thường chọn chất liệu thô và màu đơn sắc. Chất liệu phổ biến được

người Khmer sử dụng là các loại ka-tê, vải bông và đặc biệt nhất là loại vải được

nhuộm từ trái mặc nưa vừa bền chắc vừa mát vào mùa khô và ấm vào mưa. Về màu

sắc, trong sinh hoạt thường ngày, người Khmer chuộng màu đen, nâu và trắng. Những

cụ già khi vào chùa đi thiếp thường mặc màu trắng, choàng khăn trắng. Khi đi làm

đồng, người Khmer thường chọn màu đen hoặc nâu đậm cũng là một cách ứng phó với

nắng nóng và phù hợp với thổ nhưỡng sình lầy của vùng ĐBSCL xưa.

3.1.3. Ứng xử với thời tiết mùa mưa

Mùa mưa ở ĐBSCL là thời điểm các loài thực, động vật sinh sôi phát triển

mạnh. Về thực vật, nhiều loại rau, quả rừng khi gặp mùa mưa, nước ngọt và đủ nước

cung cấp nên tươi tốt hơn mùa khô rất nhiều. Các loại rau dây leo như bình bát, nhãn

lồng là các loại không cần trồng, chỉ cần mùa mưa đủ nước sẽ mọc khắp nơi. Vào cuối

mùa mưa, nước ngập ruộng đồng các loại rau thân nước lại càng thuận lợi sinh trưởng.

Trong đó có các loại như: ngò om, năng, kèo nèo, tai tượng, ngau ngổ, cần nước, mã

tiền, rau chóc, rau đắng biển v.v... là các loại thực vật rất được người Khmer ưa

chuộng. Về động vật, mùa mưa có rất nhiều loại thuỷ sản nội đồng như cá linh, cá lóc,

cá trê, ếch, nhái v.v... Các loại thực phẩm mùa mưa là tương đối dồi dào. Người

91

Khmer thường ứng xử lựa chọn tận dụng các loại thực phẩm sẵn có. Trong văn hoá

truyền thống, họ chỉ tập trung làm ruộng để có lúa ăn cả năm, còn thực phẩm hàng

ngày thì chỉ đi hái lượm, đánh bắt là có thể dư dả ăn mà không cần phải mua.

Các loại thực phẩm sẵn có được người Khmer chế biến, kết hợp lại với nhau

một cách hoà quyện. Như vào mùa mưa, sẵn các loại cá, rau đắng thì người Khmer có

món cháo cá lóc ăn với rau đắng giúp giải cảm, làm ấm cơ thể. Để có thể chống lại cái

mưa ẩm, người Khmer còn gia giảm thêm các loại gừng, tiêu, mắm nước giúp cân

bằng món ăn và thân nhiệt. Các món cháo vào mùa mưa còn được người Khmer kết

hợp linh hoạt, họ không chỉ có món cháo cá lóc mà còn có món cháo ếch, cháo cóc

v.v...

Vào mùa mưa, khi thời tiết bắt đầu chuyển mùa, tiết trời ẩm ướt rất dễ sinh ra

các bệnh cảm lạnh. Một chút rượu uống kèm trong bữa ăn giúp cho cân bằng thân

nhiệt trong cơ thể, tránh được các bệnh gió trời. Đa phần người Khmer (nam cũng như

nữ) đều có thể uống rượu. Đó là loại rượu được nấu từ gạo lúa thơm nếu uống vừa

phải rất có lợi cho sức khoẻ những lúc giao mùa.

Trong kinh nghiệm chế biến rượu của mình, người Khmer ngâm rượu chung

với các loại thực vật và động vật nhằm tăng hương vị và tăng chất (bổ). Các loại thực

vật phổ biến được ngâm chung với rượu là trái nhàu, trái quách, chùm ruột hoặc các

loại rể cây. Các loại động vật được người Khmer ưa chuộng ngâm với rượu là rắn, tắc

kè, bìm bịp, bửa củi v.v… Người Khmer cho rằng, rượu ngoài giúp cân bằng thân

nhiệt còn giúp tăng thêm sức khoẻ (sức đề kháng) trong những lúc làm đồng vất vả.

Người phụ nữ Khmer sinh con lúc nào cũng phải uống ít rượu ngâm với nếp than hoặc

với các loại thực vật giúp lưu thông máu huyết và làm ấm cơ thể.

3.2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI ĐỘNG VẬT, THỰC VẬT

3.2.1. Đặc điểm động vật, thực vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

Với đặc điểm là vùng đất đai trù phú, hệ thống sông ngòi chằng chịt, vùng

ĐBSCL có hệ sinh thái động vật, thực vật khá phong phú với nhiều chủng loại khác

nhau. Trong Gia Định Thành thông chí của (Trịnh Hoài Đức, tái bản lần thứ 1 năm

2016), có viết:

Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản có: lúa, gạo, cá, muối, cây gỗ, chim muông.

Về ngũ cốc có lúa gạo. Lúa gạo có rất nhiều loại, đại để có 2 loại lúa tẻ và lúa

92

nếp trong đó có xen thứ lúa dẻo; lúa tẻ là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ mà

mềm, mùi rất thơm, hạt lúa có cái mang; nếp là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn.

Ngoài ra còn có các loại bắp, đậu, ma (mè), khoai, qua (dưa)… (tr.191, 192).

Tuỳ vào địa hình rừng núi, đồng bằng và ven biển sẽ có hệ thực vật và động vật

ứng với địa hình đó. Từ ngàn xưa, khi bắt đầu khai phá vùng đất này, các cư dân đã biết

cải biến đất rừng thiên nhiên giữa các sông rạch thành đất định cư và canh tác. Dân cư

ngày một phát triển nên đã dần dần lấn các rừng tràm vùng nước ngập mặn. Về phía đồng

bằng, trên những giồng cát và đồng bằng xưa kia là rừng dày, rừng rậm và rừng nhiều

tầng.

Thảm thực vật ở ĐBSCL khá đa dạng có thể chia thành thảm thực vật tự nhiên

và thảm thực vật canh tác.

Trong thảm thực vật tự nhiên, thảm thực vật đồi núi tập trung ở An Giang, cụ

thể là vùng Bảy Núi thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Đây là vùng rừng rậm, có

nhiều loại gỗ như dầu, vên vên, sao xanh, căm xe v.v..; Thảm thực vật đất ngập nước

và bưng trũng thuộc những nơi địa hình thấp. Thực vật vùng này có tràm (rừng ngập

mặn Trà Sư (An Giang); rừng tràm (Kiên Lương, Kiên Giang) v.v… Bên cạnh đó có

các loại cây khác như: cây mắm, cây bần, cây sú, cây vẹt… Các loại thực vật ven biển

này hiện nay vẫn được cư dân ĐBSCL tích cực giữ gìn và trồng mới nhằm bảo vệ,

phòng hộ cho đất rừng. Thảm thực vật trên đất canh tác là các loại lúa. Việc khai

hoang, cải tạo đất của cư dân ĐBSCL đã chuyển từ lúa nổi chỉ mỗi năm một vụ sang

các loại lúa cao sản có thể thâm canh từ hai đến ba vụ trong một năm. Thiên nhiên

vùng đất này còn tạo điều kiện cho các loại cỏ sinh trưởng mạnh; để đạt được năng

suất lúa, người dân phải đối phó với nạn cỏ dại. Các loại cỏ phổ biến trên thảm thực

vật canh tác là cỏ lồng vực, lông công, đuôi phụng, cỏ cháo, rau bợ, rau mác, gạc nai,

cỏ vòi voi v.v…

Trên thảm thực vật canh tác gồm có canh tác lúa cao sản; canh tác màu và canh

tác cây ăn trái. Canh tác lúa cao sản gồm có hai hình thức là chuyên canh cây lúa và

hình thức luân canh cây lúa- màu. Hình thức chuyên canh cây lúa ở ĐBSCL thường có

lúa hai vụ là lúa đông xuân và lúa hè thu; lúa ba vụ là lúa đông xuân, lúa hè thu và lúa

thu đông. Còn hình thức luân canh cây lúa - màu có hai vụ lúa và một vụ màu như sau:

lúa đông xuân, màu xuân hè và lúa hè thu. Hệ canh tác lúa ở vùng An Giang còn có

canh tác lúa nổi gồm có một vụ màu (đông xuân) với một vụ lúa nổi hoặc hai vụ màu

93

(đông xuân và hè thu) với một vụ lúa nổi. Lúa nổi ở An Giang được xuống giống vào

đầu mùa mưa vào khoảng tháng 4, 5 và được thu hoạch vào khoảng tháng 12. Khi

nước rút đến đâu người nông dân tiến hành thu hoạch lúa nổi và sạ màu đến đó để

tranh thủ độ ẩm. Lớp rạ lúa nổi còn sót lại trên đồng có tác dụng giữ ẩm tốt cho cây

màu phát triển trong khoảng tháng đầu mà không cần phải tưới. Các loại cây màu như

đậu nành, đậu xanh thường được sạ ngay trên rạ lúa nổi.

Đồng bằng sông Cửu Long còn có những vùng giồng cao chuyên trồng các

cây hoa màu ngắn ngày (đất rẫy). Các cây màu phổ biến gồm có bắp, đậu nành, đậu

phộng, dưa hấu, thuốc lá, mía đường, các loại khoai mì, khoai lang và rau dưa các

loại. Vùng trồng màu ở Sóc Trăng, người Khmer còn tiếp thu cách làm rẫy của người

Hoa, họ trồng các loại cải củ (xá bấu), hành tím, hành lá phù hợp với địa hình đất

giồng ven biển. Trên những vùng chuyên trồng màu người nông dân thường trồng từ

hai đến ba vụ màu / năm.

Môi trường tự nhiên ở ĐBSCL còn là nơi quy tụ của nhiều loài động vật, chim,

thú quý hiếm như cò trắng, cò đen, rắn và cả sếu đầu đỏ. Địa hình rừng ngập mặn còn

là điều kiện để các loài thuỷ sản nước mặn, nước lợ phát triển như tôm, tép, cá nâu, cá

đối, thòi lòi, bống sao, ba khía, chù ụ, … Theo nhiều cứ liệu lịch sử cùng các giai thoại

để lại, vùng đất ĐBSCL xưa còn là nơi sinh sống của rất nhiều loài thú như nai, cọp,

bò tót, chim, cá sấu… Nhiều địa danh hiện nay vẫn còn thể hiện dấu ấn của các loài

động vật đó như: cù lao Hổ (Cù Lao Dung ở Sóc Trăng hiện nay), cồn Chim (Châu

Thành, Trà Vinh). Ở Trà Vinh và Sóc Trăng có nhiều nơi vẫn còn bảo tồn làm nơi trú

ngụ của các loại chim, cò, dơi như chùa Giồng Lớn (huyện Trà Cú), chùa Hang (huyện

Châu Thành), Chùa Khleang (Sóc Trăng), …

Sự phong phú và đa dạng của các loại thực và động vật cung cấp nguồn tài

nguyên thiên nhiên và cũng là tiềm năng kinh tế phục vụ khai thác tự nhiên và phục vụ

cho xu hướng khai thác kinh tế du lịch của các tỉnh ĐBSCL hiện nay.

3.2.2. Văn hoá khai thác và tận dụng động vật, thực vật

3.2.2.1. Khai thác và tận dụng động vật

Cùng là cư dân nông nghiệp truyền thống nên người Khmer xưa kia gắn bó mật

thiết với con vật nuôi phục vụ nông nghiệp là trâu và bò. Trâu có nhiều công dụng lớn

như kéo cày, bừa trục lộ, đạp lúa, kéo ghe khi nước cạn. Theo nhà văn (Sơn Nam,

94

2007):

Trâu lại lội giỏi, đạp nước khá mạnh. Trâu còn có thể dễ dàng sống nơi ẩm

thấp (nước ngập, bùn sình). Vào mùa nước nổi, cư dân ĐBSCL làm hầm

cho trâu ngủ, dưới hầm là nước và bùn (tr. 31).

Trâu là con vật vừa có thể dùng để kéo vật nặng, vừa có thể dùng cày bừa ở

vùng đất sình lầy. Đây là con vật rất có giá trị cho nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân

ĐBSCL khi xưa. Người Khmer ở An Giang xưa kia còn có nghề nuôi trâu để bán theo

các buổi chợ và nghề len trâu được xem là một nghề khá đặc biệt ở vùng ĐBSCL.

“Len” trong tiếng Khmer là đi tự do; “len trâu” là cho trâu đi tự do. Vào khoảng tháng

9, tháng 10 là mùa nước ngập sâu ở một số vùng, cư dân ở ĐBSCL phải đưa trâu đi

đến vùng cao như An Giang để tìm nguồn cỏ và để tránh nước nổi; và từ đó có hẳn

nghề len trâu. Nghề len trâu là vừa ứng xử với nước nổi vừa là cách ứng xử linh hoạt

với vật nuôi của người Khmer ĐBSCL.

Bò là con vật gắn liền với cơ nghiệp của người Khmer. Bò được tận dụng sức

kéo để chuyên chở người và đồ đạc. Di chuyển bằng xe bò là phương tiện di chuyển khá

phổ biến của người Khmer truyền thống. Vì những sự giúp ích của bò mà xưa kia còn có

Lễ rước bò mùa xuân. Theo “Người Việt gốc Miên” của Lê Hương, lễ rước bò mùa

xuân thường được diễn ra vào đầu năm. Khi bắt đầu mùa xuân, bà con nông dân thường

nặn tượng trâu bò bằng đất sình rồi đem phơi khô. Sau đó, họ đem các tượng này đặt

giữa ruộng để cầu xin và cầu mong được tẩy uế các loại bệnh cho trâu bò. Lễ rước bò

mùa xuân hiện nay tuy không còn nữa nhưng nó vẫn tồn tại trong tâm thức của người

Khmer. Nó vẫn được nhắc đến trong lúc tửu hậu, trà dư (Lê Hương , 1969).

Trâu và bò không chỉ là một loại vật nuôi mà đối với tâm thức người Khmer nói

riêng và người dân ĐBSCL nói chung, chúng còn được xem như bạn thậm chí có cả

những tín ngưỡng tâm linh liên quan đến trâu bò. Ngày trước, cứ vào đầu năm, người

Khmer nặn một tượng bò bằng đất rồi đem để giữa ruộng với chức năng mong muốn

tẩy uế tất cả bệnh tật làm hại loài bò. Có nơi người Khmer lại nặn hình con trâu để trừ

bệnh cho loài trâu. Xưa kia khi trâu, bò bị bệnh giữa mùa cày, người Khmer sẽ cầu xin

ông Tà (thần Neak-ta) phù trợ cho con vật khỏi bệnh và họ sẽ đền ơn Neak-ta bằng

cách sẽ cúng con vật giống như thế. Khi lời cầu xin được thành hiện thực, trâu bò khỏi

bệnh như ý nguyện, người Khmer chuẩn bị một mâm cơm gồm bốn món thức mặn,

bốn món thức ngọt và ở giữa có một con trâu hay bò nắn bằng bột gạo đem ra miếu tạ

95

ơn.

Khi phỏng vấn một số Achar về cách ứng xử với các loại gia súc họ cho biết:

ngày xưa nuôi gia súc khá vất vả vì nạn muỗi mòng ở ĐBSCL vào mùa mưa rất hại

đến sức khoẻ trâu, bò. Tuy nhiên, khi đó lại không có thuốc diệt muỗi, không có chăn

màn như bây giờ thì người Khmer sẽ đối phó bằng cách lấy rơm cuộn lại cho chặt rồi

đốt gần chuồng trại để đuổi muỗi vào các buổi chiều tối. Nếu chuồng dơ bẩn đầm lầy

thì họ sẽ kiếm cây để lót cho nền khô ráo tránh gây bệnh cho trâu, bò. ĐBSCL là vùng

đất vốn có điều kiện thuận lợi cho nhiều loại muỗi phát triển. Những vùng đầm lầy

hoặc vào mùa mưa là điều kiện để muỗi sinh trưởng mạnh. Khi nuôi trâu, bò nếu để

muỗi chích nhiều trâu, bò rất dễ bệnh hoặc chậm lớn. Thông thường, vào buổi chiều

người nuôi trâu, bò sẽ dùng lá khô đốt lên (ung khói) để giảm muỗi. Họ không đốt lửa

cháy mạnh mà chỉ quạt nhẹ để khói lên xua muỗi. Hiện nay, một số người vẫn sử dụng

cách này nhưng lại tốn nhiều thời gian nên hầu như họ đối phó bằng cách giăng mùng

cho trâu, bò hoặc phun thuốc diệt muỗi, phát hoang bụi rậm, vệ sinh chuồng trại theo

hướng dẫn của các cán bộ Y tế Dự phòng.

Theo thông tín viên ở Sóc Trăng cho biết, ngày xưa nuôi trâu, bò hay gặp phải

bệnh “sa”. Bệnh này làm cho trâu, bò bị trướng bụng vì thức ăn không tiêu hoá được,

không thải được ra ngoài và có thể sẽ làm cho trâu, bò chết nếu không chữa trị kịp

thời. Mỗi khi gặp bệnh này người Khmer thường chữa bằng biện pháp dân gian đó là

họ sẽ lấy đòn gánh để cạo trên lưng của trâu, bò họ gọi đó là cạo gió như cạo gió cho

người và biện pháp này ngày xưa sử dụng khá là hiệu quả.

Trong quan niệm người Khmer thì chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm rất

quan trọng và có khi có thần canh giữ (gọi là ma chas huộng). Khi vật nuôi bị bệnh

người ta còn đi xem bói để coi có làm gì phật ý thần hay không để về nhà cúng tạ lỗi

với thần để thần không làm trâu, bò bệnh. Mặc dù hiện nay không còn cúng tạ lỗi và

niềm tin về các vị thần giận dữ gây ra bệnh cho trâu bò nhưng ở một số gia đình ở

ĐBSCL vẫn tin là có vị thần bảo trợ chuồng trại của con vật nuôi nên khi nhà có đám

giỗ, người Khmer sẽ dành một mâm cơm canh cúng vị thần chuồng trại để cầu mong

vị thần này sẽ phò trợ giúp cho con vật nuôi mạnh khoẻ, mau lớn, bình an và việc chăn

nuôi được suông sẻ.

Người Khmer ở ĐBSCL đa phần cư trú tại những vùng đất giồng cao với sinh

kế nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, người Khmer vùng giồng ven biển còn có thêm

sinh kế đánh bắt thuỷ sản. Nếu như người Việt có truyền thống đi biển và đánh bắt xa

96

bờ thì người Khmer lại có tập quán đánh bắt nội đồng nhiều hơn. Với tập quán sống

vùng cao, ít tiếp xúc nước sâu nên người Khmer ở ĐBSCL có chung cách đánh bắt gần

bờ. Người Khmer vùng ven biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng) dùng xiệp để đánh bắt cá ở

những khu vực nước biển cạn; còn người Khmer ở vùng Trà Vinh, An Giang dùng các

loại ngư cụ như xà ngôn, xà di, nôm, chài, lưới, câu cắm... để đánh bắt cá nội đồng ở

khu vực kênh, ao hoặc bờ sông.

Các loại thuỷ hải sản đánh bắt được, người Khmer chế tạo ra các món ăn rất đa

dạng giàu đạm từ thuỷ sản trong đó đặc biệt nhất là món pro-hoc (còn được người Việt

gọi là bò hóc). Món Pro-hoc có thể làm từ cá đồng hoặc cá biển đều được. Pro-hoc

được người Khmer xưa kia nêm vào các món ăn để tăng hương vị và đây cũng chính là

đặc trưng riêng trong ẩm thực của người Khmer. Ngoài món Pro-hoc truyền thống,

người Khmer rất giỏi trong chế biến các loại mắm (làm từ các loại cá đánh bắt nội

đồng) như mắm cá lóc, cá linh, cá sặc… Vào khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, một

lượng nước lớn từ thượng nguồn sông Mekong đổ về sông Tiền và sông Hậu. Nước

thượng nguồn này mang theo cả phù sa và một lượng thuỷ hải sản vô cùng phong phú.

Để tận dụng nguồn thuỷ sản mùa nước nổi này, người Khmer chế tạo ra các món mắm,

khô dùng để ăn dần trong năm. Có thể nói, mắm của người Khmer có vị riêng bởi có

sự kết hợp của các loại đường của vùng đất này như đường thốt nốt, đường mía… Các

loại cá dùng để làm mắm phải được cắt bỏ đầu, ruột và rửa thật sạch, phơi cho ráo

nước. Sau đó họ cho cá vào hũ sành với tỉ lệ một lớp cá và một lớp muối. Cứ thế cá và

muối ủ trong vài tháng thì cho ra món mắm rất ngon. Có nơi người Khmer chao đường

cho vào mắm để giảm vị mặn và tăng thêm hương vị thơm ngon cho mắm. Trong các

loại mắm ở ĐBSCL thì mắm của vùng An Giang là nổi tiếng nhất vì độ thơm ngon bởi

được gia giảm chế biến thêm nhờ món đường thốt nốt. Tất cả làm nên bản sắc văn hoá

trong hệ thống ẩm thực của người Khmer An Giang nói riêng và người Khmer ĐBSCL

nói chung.

Ngoài món mắm từ cá, người Khmer còn tận dụng nguyên liệu từ các loại tép

nhỏ (tép rong, tép nhảy) để làm bò-ót (mắm bò-ót). Bò-ót là một loại mắm khá đặc

trưng của người Khmer. Loại mắm này được làm từ nguyên liệu rất đơn giản là các

loại tép nhỏ được đánh bắt nội đồng. Để bắt được loại tép này, người Khmer có kinh

nghiệm riêng như khi làm mồi nhử, họ rang gạo cho thơm, giã nhuyễn cho vào xà

ngôn để bắt tép. Để làm loại mắm này, người Khmer rửa sạch tép, để ráo sau đó cho

97

thêm muối, nước mắm nấu chín vào và ủ trong vài tháng sẽ thành món mắm rất ngon.

Để món mắm tăng hương vị, đồng bào thường đem phơi nắng để mắm “mau chín”.

Người Khmer ở xã Đại An và Định An (huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) là vùng có món

bò-ót khá nổi tiếng. Món mắm này có thể ăn nguyên vị hoặc có thể trộn chung với đu

đủ, gừng, tỏi, ớt rất ngon miệng và mang hương vị đặc trưng trong ẩm thực truyền

thống.

Môi trường sinh thái vùng ĐBSCL vô cùng đa dạng, nhất là vào mùa mưa từ

tháng 5, 6 đến tháng 11. Mùa này nhiều loài vật sinh sôi nảy nở và cũng là nguồn thức

ăn cực kì dồi dào. Với thói quen kinh kế đánh bắt nội đồng nên người Khmer rất thạo

việc soi ếch, nhái, cóc. Các loài này được chế biến thành nhiều món ăn ngon, thanh mát

như ếch, nhái được om hoặc xào với lá cách, lá nhàu hoặc ram với sả, nghệ, gừng. Cóc

được chế biến thành món cháo đậu xanh cực kì bổ dưỡng. Đối với người Khmer vùng

Bảy Núi An Giang cụ thể là vùng Tri Tôn còn có cả nghề bắt ve sầu vào khoảng tháng 5

đến tháng 6 hàng năm. Cũng như dế cơm, bọ rầy, ve sầu là loài sinh trưởng rộ vào mùa

mưa và còn được xem là đặc sản của vùng Tri Tôn. Vào lúc trời vừa sụp tối, những trẻ

em Khmer được hướng dẫn bởi người lớn hoặc những người có kinh nghiệm sẽ len lỏi

vào chân núi để bắt ve. Kinh nghiệm được truyền nhau là ve thường trú ẩn ở những nơi

có nhiều cây cổ thụ. Dụng cụ để bắt ve cũng thật đơn giản. Những trẻ em Khmer chỉ cần

có một cái đèn pin và một chai nhựa chưa ít nước muối pha loãng. Khi bắt được ve, các

em sẽ cho vào chai nhựa để rửa sạch những kí sinh trùng bám trên thân ve. Theo kinh

nghiệm của người dân nơi đây, ve ngon nhất là loại ve sữa. Ve sữa bắt về rửa thêm

nhiều lần với nước muối pha loãng và chiên nước mắm được xem là đặc sản của vùng

Bảy Núi.

Trong khai thác nội đồng, người Khmer cũng rất yêu thích các món ăn từ ốc

bươu, ốc đắng, ốc dừa,… Các loại ốc này có rất nhiều ở các ao, kênh, rạch. Người

Khmer bắt về ngâm với nước vo gạo rồi luộc với lá sả, lá ổi rồi ăn kèm với nước mắm

được chế biến với cơm mẻ hoặc với sả ớt bằm nhuyễn. Lá sả, lá ổi, sả, ớt có tác dụng

giúp cân bằng tính hàn của ốc.

Đối với cư dân Khmer vùng biển Vĩnh Hải - Vĩnh Châu còn khai thác thuỷ hải

sản phong phú từ biển là cá, tôm và ruốc. Sản lượng từ biển mang lại một nguồn kinh

tế tương đối khá lớn cho cư dân Khmer nơi đây. Trong đó phải nói đến nghề te ruốc

của cư dân Vĩnh Hải. Ruốc là một loại giáp xác có 10 chân, thân hình nhỏ hơn tôm rất

98

nhiều. Để te được ruốc, người dân Khmer gắn hai cây gỗ trước ghe, phía dưới gắn lưới

để bắt được ruốc. Mùa ruốc rộ nhất là vào mùa khô vào khoảng tháng 3 đến tháng 6 vì

ruốc cần nắng để phơi mới giữ được chất lượng của ruốc.

Với người Khmer vùng ĐBSCL, ăn uống có thể kết hợp với chữa được bệnh.

Một số loại động vật có thể làm món ăn để trị bệnh như thịt cóc, thịt lươn, thịt rắn, thịt

rùa, … Người Khmer cho rằng thịt cóc có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng cho trẻ

con và chữa bệnh suy nhược cơ thể cho người lớn. Theo (Phan Thị Yến Tuyết, 1993)

cho rằng:

Con cóc trước khi nấu phải làm sạch gan và trứng. Cóc làm sạch nấu cháo

với đậu xanh có thể giúp người bệnh mau bình phục. Đối với lươn và rắn là

loại động vật có thể dùng để trị nhức mỏi. Hai con vật này khi chế biến phải

kết hợp với lá nhàu, lá lốt hoặc lá cách. Những món ăn này còn có thể giúp

cho sản phụ sinh nở dễ dàng, người Khmer cho rằng, trước khi sinh nên ăn

một con rùa nhỏ (khoảng 200 gram) sẽ giúp sản phụ chịu được những cơn

đau khi sinh con (tr.165).

3.2.2.2. Khai thác và tận dụng thực vật

a. Trong cư trú

Người Khmer ở ĐBSCL có thói quen cư trú trên những giồng đất cao. Những

giồng đất phù sa cổ thích hợp để người Khmer trồng các loại cây cổ thụ chịu được sự

thiếu nước vào những tháng mùa khô. Trong xây dựng chùa chiền, nhà cửa, người

Khmer chuộng xử dụng các loại gỗ để xây dựng. Chùa Khmer thường được sử dụng

các loại gỗ quý, thân to để làm cột, mái, dùng lá để lợp. Ngày nay các chùa hầu như

thay bằng lợp ngói nhưng vẫn giữ lại cột gỗ, mái gỗ. Trong xây cất nhà ở, người

Khmer truyền thống thường chọn chất liệu gỗ, lá để xây dựng, phổ biến nhất là cách

làm nhà sàn. Nhà sàn của người Khmer có bộ khung gỗ liền cột chịu lực, chân sàn cao,

mái nhà dốc gồm hai có khi ba hoặc bốn mái. Một loại nhà khác được cải tiến từ nhà

sàn và cũng dùng chất liệu gỗ để xây dựng. Loại nhà này thay vì để sàn trống họ dừng

vách như kiểu nhà trệt có ván của người Việt. Nội thất bên trong nhà của người Khmer

như bàn ghế, giường, tủ cũng đa phần sử dụng chất liệu thực vật như ván gỗ hoặc tre.

Trong văn hoá ứng xử với thực vật của người Khmer, họ cho rằng thực vật

ngoài giá trị vật chất, phục vụ nhu cầu cư trú còn có những giá trị về mặt tinh thần. Đó

có các loại cây sao, cây dầu và cây mù u là những loại cây cổ thụ có rất nhiều xung

quanh nơi cư trú của người Khmer. Theo quan niệm của người Khmer, các loài thực

99

vật đều có linh hồn và các loại cổ thụ thường có thần linh trú ngụ. Trong khuôn viên

chùa Khmer, nhiều loài sinh vật như chim, cò đến trú ngụ trên các cây cổ thụ này. Sư

sãi và bà con phum sóc không đuổi đi mà ngược lại còn rất trân quý và nghiêm cấm

hành vi săn bắt trong khuôn viên chùa. Việc trồng cây trong chùa còn giúp cho bà con

Phật tử tích được nhiều phước báu đồng thời việc chặt phá cây, làm tổn hại đến cây

trong chùa là một điều cấm kị đối với bà con Phật tử Khmer.

Cây sao là loại cây gỗ quý được trồng khá nhiều tại những nơi cư trú của người

Khmer. Cây sao là loại cây lấy gỗ, thân suông thẳng, có cành nhánh ít và không đối

xứng. Sao thường trổ bông vào khoảng tháng ba âm lịch. Cây sao trưởng thành có

chiều cao khoảng 30 đến 40 mét. Cây sao với đặc tính suông thẳng nên phù hợp để lấy

gỗ. Gỗ sao là loại gỗ tốt nên người Khmer thường dùng cho việc đóng ghe Ngo, xây

cất chùa và cũng có thể dùng để điêu khắc tượng Phật. Người Khmer thường cho rằng,

gỗ sao là gỗ quý và mang giá trị tâm linh nên không được dung gỗ sao cho việc xây

cất nhà ở. Nếu xây cất nhà ở bằng gỗ sao gia chủ sẽ không may mắn và gặp nhiều bất

trắc về sức khoẻ và việc làm ăn. Do gắn với yếu tố tâm linh nên hiện nay cây sao đa

phần được sử dụng cho việc đóng ghe Ngo hoặc xây cất chùa. Trong khuôn viên chùa,

người Khmer trồng rất nhiều sao nhưng không ai làm tổn hại đến loại cây này bởi

người Khmer cho rằng nó có chức năng che chắn, bảo vệ khuôn viên chùa. Cây sao

còn là nơi trú ngụ của nhiều sinh vật như chim, cò, dơi, v.v…

Bên cạnh cây sao, cây dầu là loại cây được người Khmer trồng rất nhiều tại

phum, sóc của mình. Dầu là loại cây thân gỗ lớn và có thể dùng làm bóng mát, che

chắn cho khuôn viên chùa. Cây dầu không gắn với yếu tố tâm linh như cây sao mà

mang tính ứng dụng và giá trị kinh tế khá cao trong văn hoá người Khmer. Dầu là loại

cây sinh trưởng nhanh hơn sao. Người Khmer thường dùng cây dầu trong nghi lễ hoả

táng. Khi chẳng may nhà có người chết, người Khmer thường dùng cây dầu để đóng

thành quan tài. Công việc này thường do những người có kinh nghiệm của phum, sóc

thực hiện. Quan tài bằng gỗ dầu rất dễ cháy dù cho cây còn tươi. Với đặc tính như thế

nên cây dầu có giá trị trong nghi lễ hoả táng của người Khmer.

Bằng đầu óc tinh tế và rất giỏi trong nghệ thuật tạo hình, người Khmer còn tận

dụng những rễ cây, gốc cây cổ thụ để tạo ra những sản phẩm điêu khắc tinh tế. Sản

phẩm điêu khắc được sáng tạo đa dạng thành bàn, ghế hoặc những con vật dùng để

trang trí. Tuỳ vào kích thước và hình dáng sẵn có của rễ cây, các nghệ nhân Khmer

100

dựa vào đó để tạo ra những sản phẩm phù hợp. Tại chùa Hang, Châu Thành, Trà Vinh,

các nhà sư Khmer tạo ra rất nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo. Các nhà sư

theo học tại chùa ngoài việc tu học giáo lý nhà Phật còn được truyền dạy cả nghề điêu

khắc.

b. Trong lương thực

Trong quá trình canh tác ở vùng ĐBSCL, Người Khmer đã biết khai thác đất

đai để trồng lúa nước. Trong quá trình cộng cư giữa các tộc người, người Khmer,

người Việt đã trao đổi, đúc kết kinh nghiệm để tạo nên nguồn lương thực dồi dào như

hiện nay. Để tạo nên một vụ mùa có năng suất cao, ngoài kinh nghiệm chọn đất, cải

tạo đất, xem xét thời tiết thì khâu chọn giống cho phù hợp với kiều kiện thổ nhưỡng là

khâu vô vùng quan trọng. Sách Gia Định thành thông chí của (Trịnh Hoài Đức, tái bản

lần thứ 1 năm 2016), có viết:

Gia Định đất tốt lại rộng. Lúa có nhiều loại như lúa tàu, lúa sá, lúa móng

tay, lúa móng chim, lúa mo cải, lúa cà dông, lúa cà nhe, lúa tráng sẻ nhất,

lúa chàng cô (co), tuỳ tên khác nhau, và sớm muộn, dẻo xốp khác nhau

nhưng thứ thơm ngon nhất là lúa tàu, nhì là lúa cà nhe. Nếp có nếp hương,

nếp sáp, lại có thứ nếp đen có tên nữa là nếp than, sắc tím, nước cốt đen,

dung nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín (tr.

191).

Người Khmer ở ĐBSCL đã sớm tích luỹ những kinh nghiệm quý báu trong

thích nghi với môi sinh đất đai, thổ nhưỡng trong việc chọn giống lúa, chăm sóc cây

lúa. Đối với vùng có 3 đến 4 tháng bị ngập trong năm như vùng An Giang bà con

Khmer tìm được giống lúa nổi. Cây lúa nổi là loại lúa có thể vươn mình và tồn tại trên

mặt nước mênh mông. Cây lúa nổi của cư dân An Giang được xem là một biểu tượng

về sự thích nghi và sức sống mãnh liệt trong quá trình mở đất và giữ đất. Lúa nổi hiện

nay chỉ còn tên gọi chứ không còn giống lúa nữa. Tuy nhiên, điều đó cũng chứng minh

cho một quá trình lao động sáng tạo không ngừng nghỉ của đồng bào.

Ở ĐBSCL có rất nhiều giống lúa khác nhau và các giống lúa này được tập hợp,

lưu truyền qua nhiều nguồn khác nhau. Đến thời điểm hiện nay, theo khảo sát của

chúng tôi, các giống lúa được đồng bào chọn trồng từ ba nguồn khác nhau: các giống

lúa được mang theo từ hành trang của các cư dân đi mở cõi từ miền Trung vào; giống

lúa của cư dân tại chỗ và giống lúa được du nhập nước nước ngoài. Do được du nhập

101

từ nhiều nguồn gốc khác nhau nên về tên gọi các giống lúa cũng hết sức đa dạng mà

trong văn hoá truyền thống của đồng bào Khmer, các giống lúa thường gọi ghép với từ

Nàng (Neang). Cụ thể có các giống lúa như: Nàng Hương, Nàng Dâu, Nàng Dụ, Nàng

Gông, Nàng Lài…

Đối với đồng bào Khmer ở Nam Bộ, cây lúa có một giá trị rất lớn trong đời

sống vật chất cũng như tinh thần. Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nên từ ngàn

xưa, đồng bào có hệ thống tri thức trong canh tác trồng lúa từ khâu xem đất, chọn

nước, chọn giống, xem thời tiết đến tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa. Đối

với đồng bào, mỗi một một khâu đều mang một ý nghĩa cực kì quan trọng, quyết định

rất lớn đến năng suất của cây lúa. Người Khmer đã đúc kết kinh nghiệm dân gian trong

toàn bộ đời sống sinh trưởng của cây lúa. Từ khi là cây mạ, người Khmer có câu: “Mạ

cậy đất, gái cậy trai” để nói lên vai trò của đất từ khi cây lúa còn nhỏ; cho đến khi cây

lúa trưởng thành họ có kinh nghiệm để xem cây lúa có trúng mùa hay không qua câu:

“Lúa gục xuống thì được mùa, lúa thẳng ngọn thì mất mùa”.

Trong khâu chọn giống, xưa kia được bà con Khmer chọn rất linh hoạt, tuỳ vào

hộ gia đình. Có gia đình chọn giống khi gặt lúa, thấy lúa nào tốt, hạt đều, tròn thì chọn

riêng để làm giống cho mùa vụ sau. Tuy nhiên, cũng có những hộ sau khi gặt và cho

vào bồ lúa cất giữ rồi đến mùa vụ lại lấy ra riêng, ngâm hạt, làm giống. Dù chọn bằng

cách nào thì xưa kia, đồng bào thường có nghi thức cúng giống lúa và cúng vào ngày

xuống giống. Trong văn hoá truyền thống của đồng bào Khmer, các nghi thức liên

quan đến sinh trưởng của cây lúa đều được bà con tiến hành các lễ nghi cụ thể như:

cúng xuống giống; cúng nhổ mạ; cúng sân lúa…

Bên cạnh đó, để thể hiện tấm lòng thành khẩn với lúa, đồng bào còn có nghi lễ

gọi hồn lúa. Theo quan niệm xưa kia của đồng bào, lúa cũng có linh hồn và có khi lúa

còn được tôn vinh như một vị thần. Trong kho tàng văn học dân gian Khmer, có một

số truyền thuyết về lúa, lúa mang linh hồn và có các đặc tính như con người. Câu

chuyện truyền thuyết về cây lúa cho thấy lúa mang hình tượng là một nữ thần đó là

Pras Mê (nữ thần lúa). Khi con người còn lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nên những

hiện tượng như thất mùa, được mùa được con người cho rằng lúa đó là do thần linh hài

lòng hay tức giận. Đồng bào Khmer cũng vậy, trong những năm mất mùa, đồng bào

xưa kia cho rằng hồn lúa đã tức giận và bỏ đi nơi khác làm cho đời sống của bà con rơi

vào cảnh đói khổ, khó khăn. Với tư duy vạn vật hữu linh như thế nên bà con Khmer có

102

cách để kêu gọi hồn lúa quay trở lại, phò trợ cho con người. Lễ gọi hồn lúa thường

diễn ra khi chuẩn bị bắt đầu mùa vụ mới. Đồng bào thường đem theo bông lúa để cầu

hồn lúa năm sau mang đến vụ mùa bội thu, sung túc. Lễ cầu hồn lúa hiện nay hầu như

còn rất ít nơi ở ĐBSCL thực hiện mà chỉ còn là những câu chuyện kể thể hiện tàn tích

dấu ấn văn hoá nông nghiệp của bà con.

Câu chuyện Cá thác lác đi xin lúa cũng phản ánh về giá trị tinh thần của cây lúa

trong văn hoá Khmer. Thưở xa xưa, khi loài người không đông đúc như ngày nay và

thiên nhiên cũng dồi dào hoa trái. Con người đi hái lượm không phải nhọc nhằn lắm

cũng có thể no bụng. Lúc bấy giờ con người không phải gieo cấy lúa công phu và cực

nhọc mà tự nhiên lúa mọc đầy đồng. Đến mùa lúa chín vàng, rồi tự do bay về mọi nhà,

rào rào như ong về tổ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị kho lẫm để

đón lúa về, không phải ra đồng gặt hái, gồng gánh vất vả.

Một hôm lúa chín bay về cả đàn định đổ xuống một gia đình nọ, thì gặp phải

một người đàn bà quét sân. Là một người vợ lười biếng, nên mặc dù người chồng đã

nhắc chị dọn dẹp trong ngoài để đón lúa về nhưng mãi đến khi lúa bay về, chị mới cầm

chổi quét được mấy nhát. Tiện có cây chổi trong tay, lại vốn là người lười nhác, thiếu

ý thức, nên đã vung chổi tứ tung, xua đuổi lúa. Bị đánh bất ngờ, cả bầy lúa hốt hoảng

bay vội vào núi, trốn vào trong một khe đá hẹp, không dám về nhà ai nữa. Năm ấy, cả

vùng, mọi nhà đều không có thóc ăn. Cá thác lác ở dưới sông thấy người đói khổ nên

thác lác chúa bèn rủ cả cháu con, chắt, chít của mình, kéo nhau thành đàn lách sâu vào

khe núi để tìm gặp thần lúa, yêu cầu thần lúa trở về để mọi người, mọi nhà được no

ấm. Đường đi vô cùng vất vả, đàn cá thác lác phải vượt qua những thác ghềnh hiểm

trở, những khe đá khúc khuỷu, những chỗ nước cạn quanh co. Cuối cùng đàn cá thác

lác vẫn đến được nơi thần lúa ẩn nấp. Mặc dù cá thác lác đã đem hết lời nài nỉ thần lúa

vẫn chưa hết sợ, không dám trở về với con người. Nhưng cá thác lác vẫn nài nỉ,

khuyên lơn mãi làm cho thần lúa vẫn phải xiêu lòng, thuận trở về, với điều kiện là ở

ngoài đồng ruộng chứ không dám vào nhà. Từ đó, con người phải làm lụng chăm sóc

cây lúa vất vả. Khi lua chín phải lo gặt hái, gồng gánh chuyên chở về nhà. Truyền

thuyết này ngày nay vẫn còn được kể phổ biến trong đồng bào Khmer ĐBSCL. Để

nhớ ơn loài vật đã tận tình với con người, hàng năm trên mâm cơm cúng thần lúa,

đồng bào thường nước một xâu cá thác lác để bên cạnh những bát gạo mới đầu

103

mùa.

Là cư dân nông nghiệp lúa nước nên cây lúa có một ý nghĩa rất quan trọng

không chỉ trong đời sống vật chất mà còn có ý nghĩa trong đời sống tinh thần của

người Khmer. Trong những nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ tôn giáo của người Khmer

thường xuất hiện vật phẩm từ lúa. Trong lễ cắt tóc trả ơn mụ hoặc trong đám tang

người Khmer dùng cái thúng trong đựng đầy lúa (gọi là Chơng - Thbâung) làm vật

dâng cúng. Hoặc trong các lễ tết, người Khmer đem thóc, gạo dâng vào chùa để cầu

phước với ý nghĩa dâng lên vật phẩm quý giá nhất của đồng bào. Như trong lễ Chôl -

Chnăm - Thmây hiện nay người Khmer ở một số nơi có nghi thức đắp núi lúa (thay vì

đắp núi cát).

Trong ẩm thực của người Khmer ở ĐBSCL được xem là khá đơn giản. Người

Khmer vốn có lối sống giản đơn nên các sinh hoạt ăn, ở thường ngày cũng không quá

cầu kì mà chủ yếu là tận dụng những nguyên liệu sẵn có xung quanh. Điều đó thể hiện

được tính cách văn hoá dung dị, lối ứng xử hài hoà, linh hoạt trong ứng xử với môi

trường tự nhiên.

Bữa ăn hàng ngày của người Khmer thiên về thực vật và đạm thuỷ sản với cơ

cấu bữa ăn là cơm, rau và cá. Người Khmer ăn cơm là chính. Điều này cũng dễ hiểu

bởi thói quen ăn uống này phản ánh đúng với văn hoá sinh kế lúa nước của người

Khmer. Người Khmer dùng từ hup-bai (dùng cơm) để mời nhau hoặc hỏi thăm nhau

trước các bữa ăn. Bữa ăn chính sau cơm là rau và cá. Trong những dịp lễ đặt biệt,

người Khmer sẽ làm rất nhiều loại bánh từ việc tận dụng các nguyên liệu thực vật.

Nguyên liệu bánh thường được sử dụng từ nếp, gạo, bột từ gạo, bột từ nếp, bột từ cây

nưa, bột mì… Kết hợp với các loại bột này cũng là các loại đậu, chuối, lá… cũng hoàn

toàn từ các vật liệu thực vật từ tự nhiên.

Trong dịp đón năm mới như Chôl - Chnăm - Thmây, người Khmer làm bánh

bánh tét, bánh ít để dâng cúng ông bà ở nhà và đem vào chùa dâng cho sư sãi. Bánh tét

là loại bánh được làm từ gạo nếp ngâm với bồ ngót giã lấy nước. Bánh tét của người

Khmer truyền thống thường gói với nhân chuối, nhân đậu xanh cùng mỡ heo. Bánh tét

là loại bánh làm từ lúa nếp và có mặt hầu hết các lễ hội, lễ tết quan trọng của đồng

bào. Món bánh này mang ý nghĩa là một vật phẩm thể hiện thành quả lao động, cụ thể

là quá trình làm nông nghiệp của đồng bào nhằm dâng lên thần linh để bày tỏ tất cả

lòng thành kính của mình.

Vào lễ hội Ok - Om - Bok người Khmer lấy nhưng hạt lúa nếp mới thu hoạch

104

rang lên rồi giã thành cốm. Cốm dẹp là loại thức cúng không thể thiếu trong lễ hội

cúng trăng này. Cốm dẹp là một vật phẩm dùng để dâng lên thần Mặt Trăng, thể hiện

lòng cảm tạ của người Khmer với thần đã cho họ một năm thuận lợi, có nhiều sản vật

và đồng thời cũng để cầu xin một năm mới, một mùa vụ mới mưa thuận gió hoà, cây

cối tốt tươi. Vật phẩm dâng cúng kèm với cốm dẹp còn có các loại nông sản khác như:

khoai lang, khoai mì, khoai môn, chuối… hoặc những loại bánh được làm từ thực vật

như bánh pía (vùng Sóc Trăng). Nhìn chung, lúa là một dạng vật chất nhưng lại vừa có

ý nghĩa vật chất và vừa có ý nghĩa tinh thần đối với đồng bào Khmer. Dâng cúng vật

phẩm từ lúa là thể hiện tấm lòng tạ ơn những vị thần đã ban cho một vụ mùa tốt tươi

và cũng cầu mong cho vụ mùa tới cũng được một vụ mùa bội thu.

Bên cạnh cây lúa, cây thốt nốt có một vai trò, chức năng rất quan trọng trong

đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Khmer ở ĐBSCL. Thốt nốt (có nơi gọi

là thốt lốt) là một loại cây thuộc họ cau có ý nghĩa rất lớn về mặt tinh thần đối với

đồng bào Khmer Nam Bộ. Đồng bào thường rất tự hào về cây thốt nốt vì nó mang tính

biểu tượng và có ý nghĩa biểu trưng trong văn hoá Khmer.

Về hình dáng, thốt nốt có hình dáng thẳng đứng, cao có thể đến 30 mét và tuổi

thọ có thể đến 100 năm tuổi. Thốt nốt khi nhỏ sinh trưởng rất chậm nhưng càng về sau

thì nhanh hơn. Theo đồng bào Khmer cho biết, khi cây còn nhỏ, có khi mỗi năm cây

chỉ phát triển được một nách lá. Thân thốt nốt suông thẳng và có khi to hơn cả thân

cây dừa. Lá thốt nốt có thể vươn ra đến tận 3 mét. Thốt nốt có hai loại là thốt nốt đực

và thốt nốt cái. Thốt nốt đực không cho quả. Thốt nốt cái thường cho 50 đến 60 quả

một lần. Thốt nốt với các đặc tính chịu được hạn, được nước ngập, thời tiết nóng nên

rất thích hợp sinh trưởng ở ĐBSCL.

Về công dụng của cây thốt nốt, bà con Khmer thường tận dụng nước thốt nốt và

trái thốt nốt để làm được nhiều món ăn. Nước thốt nốt có vị ngọt mát, thanh và có gas

nhẹ. Nước thốt nốt được thu hoạch từ hoa thốt nốt, thường hoa thốt nốt cái sẽ cho

nhiều nước hơn hoa thốt nốt đực. Công việc lấy nước thốt nốt thường khá vất vả

nhưng lại giá trị kinh tế không cao. Vào chiều tối, người lấy nước thốt nốt sẽ leo lên

cây, cắt một đường trên thân hoa, buộc một đầu vào ống tre (khoảng 50 - đến 60 cm)

hoặc có khi là một bình nhựa. Đến sáng, họ sẽ lại leo lên một lần nữa để mang ống

nước thốt nốt xuống. Một đêm người lấy nước thốt nốt sẽ thu được khoảng một lít

nước trên một cây. Nước thốt nốt khi thu về có thể bán nước tươi làm nước giải khát

hoặc có thể nấu để làm đường thốt nốt. Với nước thốt nốt tươi khi uống có thể cho

105

thêm trái thốt nốt non, một ít đá để trở thành món giải khát rất thanh mát có chức năng

giải nhiệt rất cao. Khách du lịch khi đến các vùng có nhiều thốt nốt như An Giang

thường thích thưởng thức món thốt nốt tươi này. Tuy nhiên, nước thốt nốt có vị ngọt,

có gas nhẹ nên thường không bảo quản được lâu. Bà con thường chỉ sử dụng trong

ngày sau khi thu hoạch xong. Nếu vận chuyển đi xa phải được giữ lạnh mới có thể bảo

quản được hai đến ba ngày.

Nước thốt nốt tươi còn được chế biến thành đường thốt nốt (người Khmer gọi là

skor thnot) rất thơm ngon và mang hương vị đặc trưng của ẩm thực đồng bào Khmer.

Nước thốt nốt được thu hoạch để làm đường là vào khoảng từ tháng 12 đến tháng 5

hàng năm. Đây là thời điểm thu hoạch thốt nốt rộ nhất trong năm. Nước thốt nốt khi

thu hoạch về được nấu trên bếp khoảng 3 đến 5 tiếng mới có thể ra sản phẩm nước cô

đặc, đó chính là đường thốt nốt. Nước được nấu trên chảo hoặc nồi to, khuấy đều tay

và cho lửa nhỏ. Đến khi nước gần cô đặc, đồng bào cho vào các khuôn nhỏ, tròn làm

bằng lá thốt nốt và chờ cho đông cứng lại. Đường thốt nốt được tận dụng chế biến

thành các món ăn khác nhau như nấu chè, kho cá có mùi thơm ngọt ngào từ hoa thốt

nốt và màu vàng nâu rất đặc trưng. Trong đó, đường thốt nốt còn dùng để chao mắm

làm nên các món mắm đặc sản vùng Châu Đốc tỉnh An Giang.

Nghề làm đường thốt nốt hiện nay còn rất ít. Trong đợt điền dã năm 2018,

chúng tôi đến An Giang khảo sát tại làng nghề nấu đường tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi

còn rất ít hộ gia đình theo nghề. Theo gia đình anh C.N cho biết:

Nghề lấy nước thốt nốt rất nguy hiểm, hầu như chỉ những người đàn ông có

sức khoẻ mới có thể leo cây lấy nước được. Tuy nhiên, khi lấy nước về làm

đường lại vất vả (nấu ra thành phẩm mất khoảng nửa ngày) mà hiệu quả

kinh tế lại rất thấp, giá thành bán ra rẻ, không đủ chi phí để thuê mướn nhân

công leo cây lấy nước thốt nốt. Hiện gia đình còn duy trì nghề nấu đường

nhưng vẫn phải làm các nghề khác như chăn nuôi gia súc thêm để tăng thu

nhập” (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại An Giang).

Người Khmer An Giang còn có món bánh thốt nốt (còn gọi là bánh bò thốt nốt)

rất nổi tiếng. Bánh thốt nốt được làm từ trái thốt nốt già, chà vào rổ để lấy bột và trộn

với bột gạo, chút dừa nạo vắt nước rồi gói bằng lá rừng hoặc lá thốt nốt, hấp chín. Bánh

thốt nốt khi hấp chin có màu vàng đậm, vị ngọt và có mùi thơm đặc trưng của trái thốt

nốt.

Người Khmer ĐBSCL rất chuộng dùng các loại cây trái rừng như nho rừng, trái

106

trâm, lá giang v.v… Các loại cây trái rừng được người Khmer ưa thích thường có vị

chua, chát và có khi cả đắng. Cây trái rừng có khi được ăn sống kèm với mắm hoặc

được chế biến lên tạo món ăn đặc trưng của người Khmer. Ngoài các loại cây trái,

người Khmer cũng rất chuộng ăn các loại rau củ rừng như cải nước, kim thất, môn

nước; các loại khoai có khoai môn, khoai mài, củ năn, củ chuối, củ lùng. Có khi mất

mùa, gặp cảnh khó khăn, đồng bào ta khi xưa còn dùng củ nầng (có nơi gọi là nừng)

xắt lát, ngâm nước (hoặc nước muối) để thải bớt chất độc, đem hấp lên rồi ăn với dừa

nạo hoặc muối mè. Các loại củ rừng nếu không biết cách sơ chế ăn dễ bị say hoặc có

khi dễ bị ngộ độc nếu thể trạng yếu.

c. Trong nghề thủ công

Bên cạnh ngành nghề sinh kế chính là nông nghiệp, người Khmer còn rất giỏi

trong tiểu thủ công nghiệp. Tranh thủ lúc nông nhàn, đồng bào tận dụng tre để tạo ra

những sản phẩm tinh tế từ: giường, ghế, bàn đến các nông cụ và các vật dụng thiết yếu

hằng ngày. Trong sự phân công lao động, người đàn ông sẽ phụ trách các việc nặng

nhọc như chặt tre, chuốt tre còn người phụ nữ với đôi bàn tay khéo léo, tinh tế đã tạo

ra những sản phẩm thủ công vừa có tính ích dụng vừa mang giá trị thẩm mỹ cao. Khi

đến các vùng cư trú của đồng bào, len vào các phum sóc, chúng ta dễ bắt gặp hình ảnh

những người nông dân Khmer chất các sản phẩm như giường, ghế, thang tre… trên

những chiếc xe kéo tay đi bán khắp nơi. Nghề thủ công tre rất vất vả, cực nhọc và khi

tìm đầu ra lại rất khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh thị trường của rất nhiều sản phẩm

công nghiệp. Nắm bắt tình hình đó, nhằm lưu giữ lại nghề truyền thống của đồng bào,

đồng thời cũng là một sự ứng xử thân thiện với môi trường nên bà con Khmer vùng

Trà Cú tỉnh Trà Vinh cố gắng duy trì nghề truyền thống này. Làng nghề truyền thống ở

vùng Trà Cú được hình thành rất lâu năm, cung cấp sản phẩm đến các huyện lân cận

trong tỉnh và các tỉnh lân cận khác như Sóc Trăng, Bạc Liêu… Làng nghề tiểu thủ

công nghiệp Đại An, xã Đại An, huyện Trà Cú có các dòng sản phẩm mây tre, đặc biệt

là các sản phẩm nhỏ tinh xảo từ tre như xà neng, xà ngôn, rổ… dùng để trang trí nội

thất rất đẹp mắt và có giá trị kinh tế tương đối khá cao.

Người Khmer còn rất giỏi trong sử dụng lát để làm chiếu có hẳn làng nghề

chiếu Cà Hom ở xã Hàm Giang huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh. Ở vùng huyện Tri Tôn

tỉnh An Giang, người Khmer có nghề đan đệm và dệt chiếu rất lâu đời. Chiếc đệm có

chức năng như chiếc chiếu có thể dùng trải giường, phản hoặc loại nhỏ hơn dùng để

107

trải ngồi. Người Khmer vùng Sóc Trăng có nghề dệt chiếu lâu đời. Chiếu chiếc làm ra

với màu sắc và hoa văn tinh tế rất được người Việt và người Hoa yêu thích. Hoa văn,

màu sắc trên chiếu phản ánh được bản sắc văn hoá của đồng bào Khmer.

Vùng Vĩnh Châu vào khoảng những năm 80 của thế kỷ 20, phường 2 có một số

làng nghề dệt chiếu tại Khóm Cà Săng, Soài Côn, Đai Rụng, Vĩnh Trung và Giồng Me

(phường 2, Vĩnh Châu). Mặt hàng chiếu tự dệt của người Khmer tại các làng nghề rất

được người dân cả thị xã ưa chuộng do bền, đẹp với nhiều hoa văn, mẫu mã phong

phú, để bán và tặng cho các nhà chùa để làm lễ. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 21, vào

khoảng những năm 2003-2006 do chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ đất lúa, rừng, hoang

sang nuôi tôm, nguyên liệt dệt chiếu (chủ yếu là lát) không còn nên dần mất đi các

làng nghề này. Hiện nay chỉ còn dệt theo hình thức sử dụng hộ gia đình, cưới xin, lễ

hội, không còn tập trung dệt như trước.

d. Trong chữa bệnh

Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam được cho là nước đứng thứ

16 trên thế giới về sự đa dạng, phong phú sinh vật. Với mức độ đa dạng về hệ thực vật,

Việt Nam kế thừa một tài nguyên cây thuốc quý của cộng đồng các dân tộc khác nhau

trong việc chăm sóc sức khoẻ và phát triển kinh tế. Việt Nam lại là một quốc gia đa

dạng tộc người, các tộc người đều có những kinh nghiệm, những bí quyết gia truyền

trong việc chữa bệnh và cách sử dụng cây cỏ xung quanh trong việc làm thuốc chữa

bệnh. Trong đó, phải kể đến tộc người Khmer ở ĐBSCL. Người Khmer tuy không có

những ghi chép cụ thể về thuyết âm dương, hàn nhiệt, ngũ hành, lục khí như y học cổ

truyền Trung Hoa hay như y học cổ truyền Việt Nam nhưng từ lâu đời họ đã hình

thành tập quán sử dụng thực vật và có những quan điểm riêng trong cách trị bệnh.

Tận dụng thực vật để chữa bệnh của người Khmer ở ĐBSCL có thể chia ra làm

hai phần là phòng bệnh và trị bệnh. Để phòng bệnh người Khmer thường ăn những

loại thực phẩm đắng, chát từ các loại rau, quả dại. Người Khmer cho rằng, ăn những

loại rau quả đắng cũng là một cách phòng bệnh. Để chữa bệnh, họ dùng các loại thực

vật dễ tìm kiếm, mọc rất nhiều ở ĐBSCL như: lược vàng, cây mật gấu, cây nhàu, cỏ

mực, cỏ mần trầu, cỏ bạc đầu, sả, nghệ.v.v. Cùng là một loại cây nhưng sự kết hợp các

loại theo nhiều cách sẽ ra được những bài thuốc dân gian trị các bệnh khác nhau. Ví dụ

để trị bệnh cảm, người Khmer xưa kia dùng các loại lá như sả, lá ổi, lá tre, lá bưởi cho

vào nồi, đậy nắp kín rồi nấu sôi lên và xông. Trong quá trình xông có khi họ cho thêm

dầu nước xanh hoặc rượu gạo. Khi xông họ để nồi nước lá trước mặt, trùm chăn kín và

108

xông đến khi mồ hôi ra khắp người bệnh cảm sẽ khỏi. Như vậy trước kia, khi bị

cảmngười Khmer không cần đến thuốc kháng sinh mà chỉ cần dung các loại lá dại, dẽ

tím thấy gần nhà là có thể chữa khỏi bệnh. Cách trị bệnh này ngày nay vẫn được người

Khmer áp dụng và trị bệnh rất hữu hiệu.

Khi phỏng vấn một số vị cao niên tại Sóc Trăng, Trà Vinh chúng tôi ghi nhận

được một số bài thuốc dân gian từ tận dụng các loại lá cây như sau:

Để trị bệnh ho, người Khmer dùng cây cam thảo đất. Đây là loại cây mọc rất

nhiều ven đường và rất dễ tìm. Cam thảo đất đem về có thể để tươi hoặc phơi khô rồi

nấu lấy nước uống có thể trị ho hiệu quả.

Để làm mát cơ thể và giúp an thần, ngày xưa người già thường dùng lá cây

nhãn lồng đem phơi khô rồi nấu nước uống. Lá cây nhãn lồng giúp an thần và ngủ

ngon.

Các loại lá như: cỏ mực, cỏ voi có tác dụng ngăn máu rất tốt thường hay

được dùng khi gặp tai nạn ngoài ruộng đồng. Khi bị sốt thì lấy lá rau má băm

nhuyễn chất lấy nước uống rất hiệu quả. Nếu sốt cao thường người xưa hay lấy lá

cây gòn để nấu nước uống.

Như vậy, các loại thực vật xung quanh được người Khmer truyền miệng trong

dân gian các bài thuốc để trị những bệnh đơn giản: ho, sốt, cảm hay cần cầm máu.

Bằng những kinh nghiệm dân gian này, hiện nay tại một số vùng nông thôn ở ĐBSCL

vẫn còn được sử dụng hiệu quả mặc dù có sự can thiệp của y học hiện đại.

3.2.3. Động vật, thực vật trong đời sống tâm linh

3.2.3.1. Tín ngưỡng liên quan đến động vật

Trong quá trình lao động, sản xuất, người Khmer thường xuyên phải đối mặt

với các loài động vật trong tự nhiên. Quá trình khai phá vùng đất đầy hiểm trở của

vùng ĐBSCL từ xa xưa, người Khmer phải đối mặt với các loại động vật lớn, nguy

hiểm từ dưới nước đến trên cạn như các loài rắn, cá sấu đến cọp và các loài thú dữ

khác. Trong tín ngưỡng dân gian của người Khmer, các hình thức tín ngưỡng liên quan

đến động vật thể hiện khá rõ nét tâm thức văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên. Là

một tộc người sống gần gũi với môi trường sông nước nên những hình tượng như rắn,

cá sấu …sớm đi vào nhận thức của người Khmer. Những hình tượng rắn Naga, cá sấu

thường xuất hiện trong các chạm trổ trong chùa, trong nhà và thậm chí trên cả các

công cụ lao động của người Khmer.

Trong tiếng Khmer, Naga có nghĩa là rắn, Niệk có nghĩa là rồng. Naga hiện

109

thân là một loại rắn thần chứ không phải là loại rắn bình thường. Hình tượng Naga

xuất hiện rất nhiều trong kiến trúc chùa Khmer. Naga không chỉ xuất hiện trong tín

ngưỡng dân gian của người Khmer còn xuất hiện trong tín ngưỡng Phật giáo Tiểu

Thừa. Trong truyền thuyết về Đức Phật mà người Khmer hiện nay còn lưu truyền là

rắn Naga đã có công che chở cho Đức Phật dưới trời mưa khi Phật ngồi thiền định.

Trong nhiều chùa hiện nay, ngay trong chính điện chùa vẫn còn hình ảnh rắn Naga che

chở cho Phật Thích Ca. Hoặc ngay tại các cổng chùa luôn điêu khắc Naga 5 đầu hoặc

7 đầu. Naga trong quan niệm của người Khmer là con vật hiền, có công bảo vệ, che

chở cho Đức Phật Thích Ca (Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích tượng rồng

trước cổng chùa).

Sinh sống trong môi trường sông nước ở ĐBSCL, người Khmer đã hình tượng

hóa nước và những con vật sống gần nước như những vị thần. Điều đó phần nào hình

thành nên nhiều tín ngưỡng liên quan đến nước. Đó là hình tượng những con vật gắn

với nước: Naga, cá sấu... Như tác giả (Hồ Liên , 2002) có viết:

Nếu thờ chim làm vật tổ chủ yếu ở dân cư miền núi, thì thờ rắn thuồng

luồng, cá sấu làm vật tổ là tín ngưỡng của cư dân vùng đồng bằng sông

nước (tr.63).

Bên cạnh tín ngưỡng thờ rắn, người Khmer còn có tín ngưỡng thờ cá sấu. Hình

tượng cá sấu được biểu hiện qua hình tượng lá cờ cá sấu. Cờ cá sấu có hai dạng: cờ

trắng được dùng trong lễ tang, cờ màu vàng được trang trí lộng lẫy được dùng trong lễ

hội cụ thể là lễ hội đua ghe ngo của người Khmer. Trong các miếu thờ Neak-ta Phum

(vị thần bảo hộ cho Phum) thường để các đầu lâu cá sấu hoặc những bộ xương cá sấu

nhằm tượng trưng cho quá trình chinh phục thiên nhiên của người Khmer vùng

ĐBSCL.

Tín ngưỡng các loại động vật còn được thể hiện thông qua hình tượng các loài

vật được vẽ, điêu khắc trong các ngôi chùa của người Khmer ở ĐBSCL. Vào các ngôi

chùa Khmer, phía trên mái bên hiên chính điện sẽ thường có hình tượng chim Grut

được điêu khắc tinh xảo, tỉ mĩ. Người Khmer có cả câu chuyện về sự tích chim Grut ở

chùa để giải thích cho sự xuất hiện khá nhiều của loài vật này. Truyện kể về Ở một

vương quốc của vua Prùm-mà-thọt có một người con gái xinh đẹp tên là Ca-ky, nàng

sống bằng nghề ca hát. Nàng Ca-ky rất thích quyến rũ đàn ông, nàng yêu tất cả đàn

ông trong nước. Do say đắm sắc đẹp của nàng, vua Prùm-mà-thọt cưới nàng làm vợ.

110

Dù đã là vợ vua nhưng nàng vẫn có nhiều người tình, do đó là bản tính của nàng.

Trong nước Prùm-mà-thọt có một con chim đại bàng rất lớn, có phép thuật cao,

tên là Grut, chim cũng đem lòng say đắm sắc đẹp của nàng nên trong một buổi tiệc,

khi nàng Ca-ky đang múa hát thì chim Grut tạo ra một cơn gió lớn thổi vào hoàng

cung và cướp đi nàng Ca-ky bay đi. Sau khi cướp nàng nàng Ca-ky, chim thả nàng vào

một hang động và sống cùng nàng ở đấy. Do bản tính đa tình nên sau đó nàng cũng

yêu chim Grut, sống vui vẻ cùng chim Grut nơi hang động. Nhưng chỉ sau một thời

gian ngắn nàng đã thấy buồn vì không được đi đâu cũng không được gặp ai.

Vua Prùm-mà-thọt sau khi bị mất nàng Ca-ky liền gọi Hôra vào bói và biết

được nơi chim Grut cất giấu nàng Ca-ky. Vua liền dẫn một đoàn quân đi tìm nơi ở của

chim Grut. Hai bên giao đấu với nhau không phân thắng bại. Đấu mãi đến khi cả hai

đều mệt thì họ nghĩ nàng Ca-ky là người không chung tình, chính nàng mới đáng chết,

khi đó nhà vua liền chém chết nàng. Chim Grut sau đó cũng đi tu để tạ tội với vua.

Chim Grut chính là một tiền kiếp của Đức Phật. Ngày nay, xung quanh chánh điện,

người ta thường khắc tượng chim Grut để tưởng nhớ đến một tiền kiếp của Đức Phật.

(Phụ lục 3, Truyện dân gian Khmer, Sự tích chim Grut ở chùa).

Ngoài các loài vật nêu trên, voi cũng là một hình tượng rất thường xuyên được

vẽ trong chùa người Khmer ở ĐBSCL. Để giải thích cho điều này, người Khmer có

câu chuyện Sự tích hình voi ở chùa. Chuyện kề rằng khi Đức Phật đã đắc đạo, ngày

càng thu hút được nhiều tín đồ thì cũng là lúc Đức Phật bị nhiều người ganh ghét, tìm

cách hãm hại, trong đó có ông Thìa-và-thọt. Thìa-và-thọt xuất thân trong dòng dõi vua

chúa, là một người bà con của Đức Phật, ông tu học nơi Đức Phật nhưng ông chỉ đắc

đạo ở mức phàm tăng, còn các chư tăng khác đắc đạo A-ra-hăng, do đó ông hết sức

hận Đức Phật.

Thìa-và-thọt mới kéo băng nhóm và lập một giáo phái mới cho riêng mình, tìm

cách giết Đức Phật để làm bá chủ. Vào thời ấy, Phật giáo được vua Phùm-phì-sa tài trợ

mọi thứ. Vua là một người nhân từ nhưng ông có một người con rất độc ác tên là A-

chịa-rạt-sa-tốt. Thìa-và-thọt liên kết với A-chịa-rạt-sa-tốt để lập mưu làm bá chủ. Ông

nói với hoàng tử: “Ngài về tìm cách giết cha của ngài để lên làm vua và làm cho Đức

Phật phải thiếu thốn và đói chết. Còn tôi sẽ tìm cách giết Đức Phật để lên làm Phật”

Hoàng tử A-chịa-rạt-sa-tốt liền tìm cách bắt vua cha bỏ vào lồng, không cho ăn

uống gì cả. Ông hành hạ vua cha đến chết và lên ngôi vua. Thìa-và-thọt sau đó cũng

111

tìm được cách hại Đức Phật. Một ngày nọ, ông biết Đức Phật sẽ đi ngang núi, ông liền

trèo lên đỉnh núi chờ khi Đức Phật đi ngang thì xô tảng đá từ trên đỉnh núi xuống

nhằm đè chết Đức Phật.

Đức Phật khi ấy đã biết rõ là Thìa-và-thọt chuẩn bị đá đè mình nhưng ngài vẫn

tự nhiên đi qua núi. Ngài nghĩ: “Nếu ta không để Thìa-và-thọt ném đá trúng thì ông ấy

sẽ nổ tung thành bảy miếng. Ta phải chịu bị thương một chút để Thìa-và-thọt hài

lòng”. Và Ngài đã để tảng đá trúng vào chân mình và chảy máu. Khi mắc tội này thì

Thìa-và-thọt đã phải xuống địa ngục rồi nhưng cái nghiệp ấy chưa đến.

Ném đá giết Phật không được, Thìa-và-thọt tìm cách khác để giết Phật. Ông

nghĩ ra cách thả con voi Ki-ri-mia-ca-rặc, con voi chuyên đi đánh giặc, ra để nó giẫm

chết Đức Phật. Ông ta chờ khi Đức Phật đi bát ngang qua chuồng voi mới sai người

giữ voi thả voi ra để voi đạp chết Đức Phật.

Khi Đức Phật đi bát cùng các A-ra-hăng ngang qua chuồng voi, thấy voi dữ

xuất hiện các A-ra-hăng nói với Đức Phật: “Ngài hãy tránh đi, con voi này dữ lắm”.

Phật trả lời: “Ta không né tránh đâu, ta sẽ không bao giờ sát sinh”. Nói xong, ngài cứ

đi tiếp tục. Đức Phật vừa đi thì con voi cũng đã đến trước mặt Ngài. Nhưng con voi ấy

cảm động trước tấm lòng từ bi của Đức Phật nên khi đến trước mặt Đức Phật, nó liền

quỳ xuống lạy Đức Phật. Voi lạy xong, Đức Phật liền dẫn voi vào chuồng.

Thìa-và-thọt và A-chịa-rạt-sa-tốt sa đó đều bị đày xuống địa ngục.

Người Khmer thường vẽ những bức họa thể hiện nội dung câu truyện này trên

tường quanh chánh điện hoặc khắc hình voi quanh lối đi vào chánh điện như muốn nói

rằng cái thiện và lòng từ bi có thể cảm hóa mọi thứ.

Như vậy, hình tượng các loài động vật luôn xuất hiện trong đời sống văn hoá

tâm linh của người Khmer từ những tín ngưỡng dân gian xuất phát trong quá trình

chinh phục thiên nhiên đến tín ngưỡng Phật giáo, hình tượng các loài vật luôn xuất

hiện, nhất là trong các câu chuyện dân gian, các hình vẽ hoặc điêu khắc. Dù được biểu

hiện dưới hình thức, sự tồn tại của hình các loại động vật phần nào cũng thể hiện được

văn hoá tôn trọng thiên nhiên, hài hoà với thiên nhiên của người Khmer ở ĐBSCL.

3.2.3.2. Tín ngưỡng liên quan đến thực vật

Trong hệ thống các loại thực vật sinh sống xung quanh mình, đồng bào Khmer

có sự ứng xử tinh tế, hài hoà và hầu như trong văn hoá của người Khmer, mỗi loại cây,

ngoài các giá trị vật chất đều gắn với một ý nghĩa tinh thần và có giá trị về mặt tâm

112

linh rất rõ nét.

Cây chuối được xuất hiện khá nhiều trong các nghi lễ của người Khmer.

Trong lễ Sene Đôlta, vào ngày cuối của lễ, đồng bào Khmer làm một chiếc thuyền

bằng thân cây chuối để làm vật dụng đưa tiễn vong linh ông bà về bên kia thế giới.

Thân cây chuối được chọn, cắt, và trang trí thành hình thuyền. Trên đó, họ để rất

nhiều vật phẩm như gạo, muối, bánh, hoa quả, nhang đèn rồi mang đến kênh, sông

gần chùa để thả. Ở các chùa không gần kênh rạch, đồng bào sẽ đến ao, hồ xung

quanh chùa để thả. Nghi thức thả bè chuối được các vị sư, các vị Achar chủ trì thực

hiện với mong ước cầu mong, đưa tiễn ông bà được đầy đủ, ấm no khi về bên kia thế

giới, thể hiện lòng hiếu thuận của con cháu.

Cây chuối với đặc tính là dễ sinh sôi, nảy nở và phải chăng vì thế mà trong các

nghi lễ vòng đời của đồng bào Khmer thường xuất hiện biểu tượng của chuối. Trong lễ

cưới của đồng bào thường có tục trồng chuối vàng, chuối bạc trước cổng của lễ cưới.

Tục này hiện nay vẫn còn được thực hiện tại Trà Vinh. Khi bắt đầu trang hoàng nhà

cửa để chuẩn bị lễ cưới, những người đàn ông sẽ đi chọn hai cây chuối tốt và đang có

buồng chuối cũng phải to, đẹp, tròn đều. Đem về, họ thường sơn hai màu vàng và bạc

rồi trồng ở hai bên cổng cưới. Khi khảo sát, chúng tôi có hỏi về ý nghĩa của tục trang

trí (trồng) chuối vàng, chuối bạc này, đồng bào thường trả lời đây là phong tục có từ

xa xưa do ông bà để lại, dùng để trang trí cho đẹp và vì chuối dễ sinh sôi, cho rất nhiều

trái nên cũng mong cho vợ chồng mới cưới cũng sẽ sinh nhiều con cháu, sống sung túc

về sau. Cạnh đó, trong lễ vật ngày cưới của nhà trai đem qua nhà gái bao giờ cũng phải

có một nải chuối sống. Rất có thể, chuối còn được mang ý nghĩa dễ tái sinh nên có thể

vì thế mà được người Khmer sử dụng trong nghi lễ tang ma. Người chết trước khi

được khâm liệm sẽ được để trên bụng một nải chuối sống.

Trong những nghi lễ tôn giáo còn xuất hiện các sla-tho được làm từ thân cây

chuối được cắt tỉa và trang trí lên nhiều hoa. Sla-tho xuất hiện rất nhiều trong các nghi

lễ của người Khmer như lễ cầu an, lễ tu và các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng. Để trang

trí sla-tho, người Khmer sẽ tách các lớp vỏ bên ngoài của thân cây chuối, chỉ lấy lõi

non bên trong. Sau đó, họ cắm hoa vạn thọ, nhang vào xung quanh thân chuối cho thật

đẹp. Khi được hỏi về ý nghĩa vì sao chọn thân chuối làm sla-tho thì phần nhiều người

Khmer trả lời vì thân chuối mềm xốp dễ cắt tỉa và đặc biệt là chuối là một loại cây rất

dễ tìm ở vùng ĐBSCL. Cây chuối trong trường hợp này có chức năng dễ tìm kiếm,

113

chức năng tiện dụng và dễ tận dụng. Tuy nhiên, nếu xét dưới thuyết chức năng thì cây

chuối là một loại cây dễ trồng, dễ mọc và khả năng sinh tồn đặc biệt nó mang ý nghĩa

mong ước của con người về sự trường tồn, và tái sinh.

Cau và hoa cau có một ý nghĩa quan trọng trong nghi lễ cưới hỏi của người

Khmer. Lễ hỏi của người Khmer được gọi là “lễ ăn cau” còn lễ cưới thì có tục lệ “cắt

hoa cau”. Hoa cau trong nghi lễ cưới hỏi có ý nghĩa thể hiện sự trinh trắng của cô dâu.

Trong ngày cưới, sính lễ nhà trai mang qua nhà gái sẽ là các loại bánh mứt, trái cây,

trầu cau, rượu, thuốc hút,… và một buồng hoa cau còn trong bẹ (Phụ lục 3, Truyện dân

gian Khmer, Sự tích bông cau ngày cưới).

Trái dừa không chỉ được làm một loại nước uống mà còn được người Khmer

dùng làm một vật phẩm để dâng cúng trong các nghi lễ. Trong tục lễ cưới ngày xưa

của người Khmer có nghi thức cô dâu đút chuối cho chồng ăn và hai vợ chồng chia

nhau uống nước dừa để mong ước một tình yêu ngọt ngào, hạnh phúc. Trái dừa tươi

được người Khmer dâng cúng trong lễ hội Ok-Om-Bok như một vật phẩm không thể

thiếu. Dừa tươi được cúng nguyên trái chỉ vạt mặt để cầu mong sự tinh khiết của nước

dừa mang đến những lời cầu nguyện đến với các đấng thần linh. Trái dừa tươi còn trở

thành một vật phẩm không thể thiếu trong lễ hội Thác Côn (lễ hội đạp cồng) của đồng

bào Khmer ở huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Lễ hội Thác Côn thường diễn ra vào

giữa tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong lễ hội này, có một vật phẩm đặc trưng điển hình

là salathođôn (trái dừa là sla-tho) nên lễ hội còn được gọi là lễ hội cúng dừa. Không

chỉ dừa tươi mà trái dừa khô còn được người Khmer sử dụng làm vật phẩm trong lễ tu.

Trong lễ tu, họ kết salatho bằng những trái dừa khô. Dừa khô được dùng khoảng năm

trái phía trên có gắn hoa cau trang trí rất đẹp mắt. Khi tiến hành nghi thức đưa vào

chùa, gia đình có người tu sẽ cầm những salatho này vào chùa để dâng lên các vị sư.

Trong tâm thức của người Khmer, cây cối và nhất là các cây cổ thụ đều có giá

trị linh thiêng. Người Khmer cho rằng trong mỗi gốc cây cổ thụ đều có thần linh trú

ngụ. Vì vậy, khi muốn đốn các cây cổ thụ như sao, dầu hay cây me người Khmer phải

làm nghi lễ cúng tế rồi mới đốn cây. Chẳng hạn như muốn phá góc rừng làm rẫy,

người ta lựa một gốc cây lớn nhất, dọn dẹp xung quanh sạch sẽ, cất một cái miễu bằng

cây lá và thỉnh vị thần (còn lại là ông Tà - Neak-ta) ở rừng về ngôi miếu ấy trú ngụ. Ở

Trà Vinh hiện nay có một cây dầu cổ thụ và được người dân khắp nơi tín ngưỡng. Cây

dầu có chiều cao hơn 20 mét, tán cây rộng, thân to khoảng 3 đến 4 người ôm. Không ai

114

biết cây dầu có bao nhiêu tuổi, những người cao niên cho rằng có khi tồn tại hơn trăm

năm. Người dân địa phương lập miếu Neak-ta phía bên dưới gốc cây và được người

dân tin tưởng đến cúng kiếng với niềm tin tưởng tuyệt đối.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 là chương tập trung phân tích văn hoá ứng xử với thời tiết, thực vật và

động vật trong đời sống vật chất và tinh thần của người Khmer ở ĐBSCL.

Trong văn hoá ứng xử với thời tiết, người Khmer xưa có thế ứng xử tương đối thụ

động và lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Để dự đoán sự biến đổi theo chu kì hay đột biến của

thời tiết họ chỉ dựa vào những kinh nghiệm dân gian được truyền từ đời này qua đời khác.

Do tâm lý phụ thuộc nên thường nảy sinh các dạng thức tín ngưỡng các hiện tượng tự

nhiên như thần mưa, thần gió. Hiện nay, được sư hỗ trợ của công nghệ, truyền thông,

người Khmer không còn dựa nhiều vào kinh nghiệm dân gian nữa mà có thể xem tin tức

về thời tiết trên truyền hình, radio và điện thoại di động. Từ đó cũng dẫn đến ít nhiều sự

thay đổi trong văn hoá ứng xử với thời tiết của người Khmer.

ĐBSCL có hệ thực vật và động vật vô cùng phong phú. Với điều kiện khí hậu

nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa đã tạo điều kiện thích hợp để phát triển nhiều loài thực vật,

động vật. Trong văn hoá ứng xử với thực vật, động vật Khmer vùng ĐBSCL chủ yếu

là thích nghi và ứng phó để phù hợp môi sinh vùng đất này. Trong chương này, chúng

tôi chủ yếu phân tích đặc trưng văn hoá tận dụng, đối phó với các loại động vật có mối

liên kết gần gũi trong đời sống của người Khmer. Để có sức kéo, chuyên chở đồ vật và

con người, người Khmer xưa tận dụng sức kéo của trâu, bò. Để có nguồn thực phẩm

trong ăn uống, người Khmer tận dụng nhiều loại thuỷ hải sản đánh bắt nội đồng như

cá, tôm, tép, ếch, nhái .v.v. Ngoài các loại thuỷ hải sản, nguồn thực phẩm của người

Khmer còn rất phong phú như ve sầu, bọ rầy, đuông, dế v.v. Các loại thực phẩm này

cung cấp một lượng dinh dưỡng khá cao trong hệ thống ẩm thực của người Khmer

Văn hoá ứng xử với thực vật được chúng tôi tập trung phân tích cách ứng xử

với thực vật được thể hiện qua các thành tố văn hoá của người Khmer như: trong cư

trú, trong lương thực, trong chữa bệnh và trong nghề thủ công. ĐBSCL là noi có điều

kiện tự nhiên thuận lợi để các loại thực vật sinh trưởng. Người Khmer ở ĐBSCL đã có

quá trình tương tác với MTTN để tạo ra các giá trị vật chất phục vụ cho mình. Trong

xây dựng nhà cửa, người Khmer thường tận dụng các loại gỗ lớn như cây dầu và các

loại cây thân gỗ khác. Trong lương thực thực phẩm, người Khmer có kinh nghiệm

trồng lúa và chủ nhân của nhiều giống lúa nổi tiếng. Bên cạnh đó, người Khmer còn

115

tận dụng loại thực vật khác mang đặc trưng văn hoá Khmer đó là thốt nốt. Thốt nốt là

loại cây có rất nhiều ở An Giang và Trà Vinh. Cây thốt nốt được tận dụng lấy trái, lấy

nước để làm ra loại đường thốt nốt rất nổi tiếng của người Khmer. Ngoài ra, người

Khmer còn rất có kinh nghiệm trong việc dùng các loại thực vật rừng. Cây trái rừng có

khi được ăn sống kèm với mắm hoặc được chế biến lên tạo món ăn đặc trưng của

người Khmer. Ngoài các loại cây trái, người Khmer cũng rất chuộng ăn các loại rau củ

rừng như cải nước, kim thất, môn nước; các loại khoai có khoai môn, khoai mài, củ

năn, củ chuối, củ lùng.

Từ nghiên cứu cho thấy, người Khmer đã có hệ thống kinh nghiệm khá phong

phú trong quá trình thích ứng với môi sinh ĐBSCL cụ thể là ứng xử với thời tiết, động

vật và thực vật. Trong quá trình tương tác, họ vừa thích nghi vừa đối phó. Với những

giá trị có lợi, họ thích nghi, với những giá trị bất lợi, họ đối phó. Trong quá trình thích

nghi và đối phó đó, có những giá trị từ thiên nhiên mà họ không thể kiểm soát được

như những bất trắc từ thời tiết, những loại động vật dữ mà họ không chế ngự được họ

có tâm thức đối phó được thông qua hệ thống tín ngưỡng dân gian với những đối

tượng này. Cụ thể, chúng tôi đã phân tích hệ thống tín ngưỡng dân gian đối với thời

tiết là tín ngưỡng thần mưa, thần mặt trăng và mặt trời; tín ngưỡng dân gian đối với

các loại động vật dữ là cá sấu, rắn hổ mang (rắn thần Naga); tín ngưỡng dân gian đói

với thực vật là các loại cây cổ thụ như sao, dầu v.v.

Tóm lại, văn hoá ứng xử với thời tiết, thực vật và động vật trong đời sống văn

hoá người Khmer ĐBSCL là sự ứng xử cân bằng sinh thái. Trong quá trình đó, họ khai

thác nhưng vẫn bảo tồn chứ không hề huỷ diệt. Cụ thể như cách bảo tồn những loài

chim, cò hay các loại cây cổ thụ, cây gỗ quý vẫn còn tồn tại đến nay. Theo nhận định

của chúng tôi, cách ứng xử bảo tồn này nhờ vào văn hoá trọng tâm linh của người

Khmer. Với những giá trị cần bảo tồn thường gắn với giá trị tâm linh. Họ kiêng dè,

không dám khai thác triệt để bởi họ tin rằng những giá trị đó có linh hồn.

Hệ thống tín ngưỡng dân gian này đã giúp ích rất nhiều trong việc gìn giữ và

bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thực vật và động vật ở ĐBSCL nhất là khi hiện nay

MTTN ở ĐBSCL có những biến động lớn do ảnh hưởng của BĐKH. Đồng bào Khmer

cần giữ gìn, bảo tồn những tri thức trong ứng xử với môi trường nhằm tác động giáo

dục ý thức cho cộng đồng hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của điều kiện tự nhiên trong

cuộc sống và cũng để đảm bảo sự phát triển bền vững trong cộng đồng Khmer ở

116

ĐBSCL.

CHƯƠNG 4

VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN

CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG –

MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG BÀN LUẬN

4.1. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI TRONG VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI

TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU

LONG HIỆN NAY

4.1.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với đất

4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá vật thể

Theo tập quán cư trú truyền thống của người Khmer ở ĐBSCL, họ thường chọn

những giồng đất cao để ở nhằm tránh những tác hại từ môi trường tự nhiên như mưa

lũ, ngập úng. Tuy nhiên, do điều kiện thực tế một bộ phận người Khmer khi đến định

cư sau họ không còn chỗ đất cao nữa hoặc do nhu cầu sinh kế họ vẫn chọn những nơi

khác như gần sông, gần trục lộ giao thông để thuận tiện làm ăn, mua bán. Một số ít

người Khmer ở ĐBSCL còn cư trú ngay trên đất ruộng, tuy nhiên con số không nhiều

bởi rất khó cho di chuyển và các sinh hoạt cộng đồng.

Hiện nay, qua khảo sát của chúng tôi về cách chọn nơi cư trú cho thấy, người

Khmer không còn theo tập quán như xưa nữa. Nếu như trước kia, đất đai có được là do

kết quả của quá trình khai hoang, ai đến trước ở trước, họ được có sự lựa chọn thì ngày

nay đất đai là tài sản được thừa kế từ gia đình và dòng họ nên họ cứ cư trú trên phần

đất được chia thừa kế. Trong văn hoá hoá gia đình người Khmer, khi dựng vợ gả

chồng cho con cái họ thường chia một phần đất để cất nhà ở và phần đất ruộng để làm

ăn sinh sống. Phần đất ở họ thường ở gần nhau, có khi mặt nhà xoay vào nhau làm

thành một ngôi làng thu nhỏ. Phần đất ruộng rẫy cũng vậy, họ được cha mẹ chia đất

khi lập gia đình rồi cứ thế mà sinh kế. Nếu làm ăn dư dả, họ dành dụm để có thể mua

thêm ruộng đất.

Một sự biến đổi trong cách cư trú của người Khmer hiện nay ở ĐBSCL là cách

cư trú ở nhà sàn cao cùng không còn nữa. Khi đến các ấp, xóm cư trú của người

Khmer hiện nay có thể thấy được nhà ở của người Khmer đa phần là ở nhà trệt, kết cấu

nhà cũng không khác gì so với nhà của các dân tộc khác ngoại trừ một bộ phận nhỏ

117

người Khmer ở An Giang là còn cư trú kiểu nhà sàn. Nhà sàn của người Khmer ở An

Giang được xây cất cao hơn so với mặt đất khoảng 1 mét đến 1.5 mét nhằm để đối phó

với nước lũ. Như vậy, nhà ở của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay không còn có kiểu

kết cấu sàn cao như trong truyền thống. Tuy nhiên, khi đến ĐBSCL chúng ta vẫn có

thể bắt gặp những ngôi nhà sàn trong các chùa Khmer. Mặc dù phần đất để xây chùa

thường được chọn là nhưng phần đất cao nhất nhưng chánh điện hay tăng xá vẫn được

xây cao hơn nhiều so với mặt đất. Hiện nay, người Khmer ở Trà Vinh, Sóc Trăng, ở

những vùng cao ráo không ngập nước nhưng có thể do một thói quen tâm thức mà dấu

tích nhà sàn vẫn còn trong quần thể kiến trúc chùa Khmer. Các ngôi tăng xá trong chùa

thường được làm bằng gỗ, lợp lá và cất cao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Lối đi lên nhà

cũng làm bằng cầu thang gỗ mang dáng dấp dấu ấn của ngôi nhà sàn xưa của người

Khmer. Theo quan sát và nhận định của người nghiên cứu, có thể các ngôi nhà sàn này

là tàn tích trong thói quen tâm thức cư trú không gian cao của đồng bào Khmer.

4.1.1.1. Biến đổi trong ứng xử với đất trong văn hoá phi vật thể

Người Khmer xưa kia gởi trọn niềm tin với các vị thần tự nhiên, trong đó có

thần đất. Dù trong nhà chùa hay trong nhà ở của người Khmer đều thấy dấu ấn của nữ

thần đất bởi vì họ cho rằng đó là vị thần có chức năng bảo trợ, che chở mang mang đến

sự bình yên cho con người. Trong các nghi lễ, phong phục có liên quan đến đất, người

Khmer đều thực hiện các nghi thức để cảm tạ hoặc cầu xin như cảm tạ đất sau mỗi vụ

mùa. Hiện nay, niềm tin với đất trong văn hoá của người Khmer vẫn còn nhưng có

phần mờ nhạt. Các nghi thức được thực hiện nghiêm túc chỉ được diễn ra ở những gia

đình có người lớn tuổi, có am hiểu về tập quán văn hoá truyền thống. Còn ở những gia

đình trẻ, các nghi thức thể hiện niềm tin với đất có phần biến đổi, nếu có thực hiện, họ

chỉ thực hiện qua loa bởi vì niềm tin của họ không còn như trước nữa.

Sự biến đổi này theo chúng tôi là do quy luật về sự vận động và phát triển. Đối

chiếu với thuyết sinh thái văn hoá của J. Steward cho thấy, trong quá trình sinh tồn của

mình, con người phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Khi xã hội có trình độ thô sơ thì xã

hội đó sẽ phụ thuộc nhiều vào MTTN; nhưng khi xã hội bắt đầu có trình độ khoa học

kỹ thuật cao, con người chinh phục được tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ theo ý muốn

của con người thì những niềm tin thô sơ của con người vào tự nhiên sẽ dần biến đổi.

Sự biến đổi trong ứng xử với đất trong đời sống văn hoá tinh thần của người Khmer ở

ĐBSCL là do hiện nay khi còn người đã có điều kiện thừa hưởng thành tựu khoa học

118

kĩ thuật cho nên niềm tin của người Khmer về đất không còn như xưa nữa. Qua quan

sát thực tế của chúng tôi, những giá trị tinh thần với đất trong truyền thống giúp cho

con người tôn kính và từ đó có cách ứng xử hài hoà, trân trọng đất. Còn hiện nay,

những biến đổi trong nhận thức về đất trong đời sống tinh thần sẽ dễ dẫn đến tâm lý

xem thường đất, xem thường tài nguyên thiên nhiên và dễ dẫn đến các hành động làm

tổn hại đến đất, ô nhiễm đất như thực tế đang diễn ra. Như vậy, cần giữ gìn những giá

trị niềm tin thiêng liêng với MTTN nói chung và môi trường đất nói riêng bởi vì nhờ

có niềm tin, con người sẽ có những ứng xử phù hợp, yêu thương và trân trọng MTTN.

4.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với nước

Theo tập quán truyền thống, để có nước cho sinh hoạt, người Khmer ở ĐBSCL

thường sử dụng nước tự nhiên như nước mưa hay nước từ sông rạch. Đối với những

nơi không gần sông rạch họ sẽ đào giếng để có nguồn nước dùng chung cho cộng đồng

trong mùa khô. Ngày nay, tập quán sử dụng nước của người Khmer không còn như

xưa nữa, họ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào nước mưa hay nước giếng mà còn có

nguồn nước sạch từ các trạm cấp nước. Từ năm 2004, Chính phủ đã triển khai chương

trình 134 nhằm hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào

dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Chương trình 134 có 8 điều, trong đó điều

2 liên quan đến vấn đề chính sách đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho dân

tộc thiểu số ở Việt Nam. Chương trình 134 nêu rõ:

1. Đối với đất sản xuất: mức giao đất sản xuất tối thiểu là 0.5 hecta đất

nương, rẫy hoặc 0.25 hecta đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 hecta đất

ruộng lúa nước hai vụ. Căn cứ quỹ đất cụ thể của từng địa phương, khả

năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và khả năng của ngân sách địa

phương.

2. Đối với đất ở: mức giao diện tích đất ở tối thiểu 200m2 cho mỗi hộ đồng

bào sống ở nông thôn. Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào

dân tộc Khmer nghèo do đặc thù của vùng ĐBSCL, Nhà nước sẽ có chính

sách riêng

3. Về nhà ở: đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả

đồng bào dân tộc Khmer) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã

hư hỏng, dột nát thì thực hiện phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ

trợ và cộng đồng giúp đỡ

119

4. Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt

Đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực khó

khăn về nguồn nước sinh hoạt thì ngân sách Trung ương hỗ trợ 0.5 tấn xi

măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng/hộ để

đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt (Chính sách 134, 2004).

Sau 4 năm tổ chức triển khai thực hiện chương trình 134 ở 53 tỉnh, thành phố

trên cả nước đã đáp ứng được niềm mong đợi của một bộ phận đồng bào dân tộc và

tháo gỡ cho nhiều địa phương những khó khăn bức bách về đất sản xuất, đất ở, nhà ở

và nước sinh hoạt. Như trên địa bàn tỉnh Trà Vinh – nơi có đông đồng bào Khmer

sinh sống các vấn đề về nước sinh hoạt cũng được cải thiện rất đáng kể. Trong báo cáo

tổng kết tình hình thực hiện Chỉ thị 68 của Ban Bí thư (khóa VI) "về công tác vùng

đồng bào dân tộc Khmer" của Tỉnh ủy Trà Vinh ngày 10 tháng 8 năm 2011 được nêu:

Nhờ sự quan tâm đầu tư chỉ đạo toàn diện của Trung ương cùng với sự

phấn đấu, nỗ lực của địa phương, trong đó có sự tự lực vươn lên của đồng

bào dân tộc Khmer, kinh tế của vùng đồng bào Khmer trong tỉnh không

ngừng được cải thiện, nâng lên. Sản xuất nông nghiệp trong vùng đồng bào

Khmer hiện nay phổ biến từ 02 vụ lúa, có nơi 02 vụ lúa - 01 vụ màu hoặc

03 vụ lúa/năm với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng tăng. Công tác

khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư từng bước chuyển biến tốt, đẩy

mạnh công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, chuyển

đổi giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, thúc đẩy mạnh

việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất,

kinh doanh trong vùng đồng bào dân tộc; mở rộng diện tích, tăng năng suất,

sản lượng cây trồng, vật nuôi, năng suất lúa tăng hàng năm, nâng tổng sản

lượng lương thực lên trên 1,1 triệu tấn/năm; nâng giá trị sản xuất trên đơn

vị diện tích từ 28,5 triệu đồng/ha/năm 2003, lên 45 triệu đồng/ha/năm 2010;

trên 90% hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh (Tỉnh uỷ Trà

Vinh, 2011).

Sau chương trình này đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước đều được hỗ trợ

nước sạch để sử dụng. Khi chúng tôi điền dã tại ấp Phnôm-pi (ở huyện Tri Tôn, tỉnh

An Giang) là một ấp thuộc vùng chân núi An Giang chúng tôi nhận thấy nơi đây vẫn

còn những giếng nước từ xưa nhưng hiện nay hầu như rất ít người sử dụng. Người

120

Khmer ở Phnôm-pi đều đã sử dụng nước máy tắm giặt hoặc ăn uống. Tuy có nước

sạch từ các giếng khoan, máy bơm nhưng người Khmer không phá bỏ các giếng cũ.

Theo người Khmer ở Phnôm-pi cho biết có hai lý do họ vẫn giữ lại giếng nước cũ: thứ

nhất về mặt thực tế, có những lúc ĐBSCL hạn nặng, để đủ nước tưới tiêu và sinh hoạt

họ vẫn phải tận dụng nước giếng; thứ hai: với người Khmer, mỗi giếng nước đều có ý

nghĩa với họ về mặt tinh thần, giếng nước như có linh hồn và dưới giếng nước chứa

dựng những thế lực siêu nhiên mà họ khó giải thích được đó là ai nhưng họ vẫn phải

có thái độ tôn kính nhất định.

Tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cũng vậy, người Khmer hầu như có nước

sạch để uống và sinh hoạt. Tuy nhiên, trong sản xuất nông nghiệp họ vẫn phải sử dụng

nước mạch ngầm và có máy bơm để bơm nước tưới hoa màu. Mỗi khi tới thời vụ, các

hộ nông dân đồng loạt sử dụng nước nên có khi nguồn nước cũng khan hiếm, cạn kiệt.

Phần nữa là do quá tải điện nên có những hộ nông dân họ phải thức vào lúc 1 đến 2

giờ sáng để canh tưới tránh quá tải khi các hộ tưới đồng loạt vào ban ngày.

Để ứng phó với tình hình hạn hán, thiếu nước thường xảy ra vào mùa nắng và

vào thời điểm người dân tập trung xuống giống màu, nguồn nước ngầm từ các giếng

khoan không đủ phục vụ cho tưới tiêu hoa màu và sinh hoạt nên người Khmer ở Sóc

Trăng phải sử dụng thêm nước từ trạm cấp nước của tỉnh (đóng tại các phường).

Nguyên nhân chính là nguồn nước phục vụ tưới tiêu rất lớn so với nguồn nước ngầm

từ các giếng khoan và các giếng khoan phần lớn là khoan cạn, chưa đảm bảo độ sâu để

lấy nước; tầng nước ngầm giáp tầng đất sản xuất nhanh cạn, độ ẩm cao nên thiếu nước

xảy ra thường xuyên. Còn để ứng phó với nước dâng, nước lũ người dân cùng địa

phương tự xây dựng bờ kè ven sông, bồi trúc các tuyến đê bao, khai thông dòng chảy

trên các kinh rạch, kinh thủy lợi đảm bảo dòng nước không bị vật cản, nạo vét các

tuyến kinh tạo nguồn, kinh đầu mối đảm bảo cho việc thoát nước, tưới tiêu.

Như vậy, so với văn hoá ứng xử với nước trong truyền thống - lệ thuộc hoàn

toàn vào nguồn nước tự nhiên, người Khmer ở ĐBSCL hiện nay đã được hỗ trợ các

phương tiện kĩ thuật để có nguồn nước sạch để sử dụng. Bên cạnh đó, nhờ vào sự quan

tâm của Đảng, Nhà nước vào công tác hỗ trợ các điều kiện vật chất như nhà ở, nước

sạch cho đồng bào dân tộc thiểu số nên đến năm 2019 có đến 99,3 % người Khmer ở

ĐBSCL đã có nước sạch để sử dụng (Tổng cục thống kê, 2019). Điều này phần nào

dẫn đến văn hoá ứng xử với nước trong đời sống tinh thần của người Khmer cũng thay

121

đổi. Nếu như trước kia mỗi khi thiếu nước, hạn hán họ phải thực hiện các nghi thức để

cầu mưa, cầu nước thì giờ đây các nghi thức này hầu như không còn thực hiện nữa.

Nhận thức của người Khmer về thế giới vũ trị cũng thay đổi. Những hiện tượng tự

nhiên như mưa gió, sấm chớp không còn mang yếu tố huyền bí, tâm linh mà đó chỉ là

các hiện tượng tự nhiên có thể thay đổi được. Một thói quen trong văn hoá là có thể

thay đổi, tuỳ theo điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xung quanh đã được biến đổi. Văn hoá

là có thể biến đổi theo thời gian, tuy nhiên, sự biến đổi này không diễn ra nhanh chóng

mà cần một khoảng thời gian dài để con người nhận diện, thích nghi, đối phó và thay

đổi.

4.1.3. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng, vật nuôi

Trong ứng xử với cây trồng, vật nuôi hiện nay người Khmer cũng có nhiều sự

thay đổi lớn.

4.1.3.1. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với cây trồng

Đối với cây trồng, nếu ngày xưa người Khmer chỉ ứng xử với các loại cây quen

thuộc trong môi trường tự nhiên để khai thác trong xây cất nhà ở như sao, dầu, tre hay

các loại cây để khai thác trong ẩm thực như cây lúa, thốt nốt, chuối cùng với các loại

cây dại khác thì hiện nay người Khmer phải ứng xử với rất nhiều loại thực vật giống

mới. Để ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, người nông dân

Khmer được khuyến khích trồng các loại giống cây mới để thích nghi với các hiện

tượng nắng hạn, ngập úng, nước nhiễm mặn, nhiễm phèn. Năm 2016 - 2017 Viện lúa

ĐBSCL đã công nhận và đưa vào sản xuất hơn 50 giống lúa mới có khả năng thích

nghi với các hiện tượng biến đổi khí hậu đó. Các giống lúa mới có thể nhóm thành các

nhóm chính như giống lúa cực ngắn ngày, giống lúa chịu mặn, giống lúa chịu hạn và

giống lúa giàu vi chất dinh dưỡng. Trong đó, riêng giống lúa cực ngắn ngày có thời

gian sinh trường từ 85 đến 90 ngày giúp cho nông dân Khmer có thể làm tăng thêm vụ

thứ ba mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Ngoài ứng xử với các giống lúa mới, trong nông nghiệp hiện đại của người

Khmer ở ĐBSCL họ còn phải ứng xử với các loại giống hoa màu mới. Các loại giống

hoa màu truyền thống như bí rợ, bầu, khoai, dưa nếu trồng trong điều kiện môi trường

hiện nay rất khó có thể cho năng suất cao. Sự phá hoại của sâu rầy, sâu đục trái, ruồi

đục trái rất dễ làm cho cây cho trái èo uột, chất lượng nông sản không cao. Để ứng phó

với tình hình này, người nông dân Khmer ở ĐBSCL được cán bộ nông nghiệp địa

122

phương hỗ trợ, hướng dẫn trồng các loại nông sản giống mới như bí hồ lô, bầu cao sản

v.v. Các loại nông sản này có thể thích nghi với biến đổi khí hậu đồng thời có thể

kháng lại các loại sâu rầy.

Bên cạnh thích nghi với các giống cây trồng mới trong nông nghiệp, cách chăm

sóc cây trồng của người Khmer hiện nay cũng có thay đổi. Trong nông nghiệp truyền

thống, người Khmer thường thường dùng các loại phân bón hữu cơ như thân cây, vỏ

cây hay phân động vật được ủ hoai mục để sử dụng làm phân bón cho cây trồng. Thân

cây đậu phộng, gốc, rễ cây lúa (rạ) dùng để bón ruộng lúa rất tốt mà lại không làm tổn

hại đến chất lượng đất trồng. Khi người Khmer làm ruộng xen canh một vụ múa và

một vụ màu mỗi khi thu hoạch vụ mùa xong họ sẽ để lại phần thân, rễ để dành ủ hoai

mục để bón cho vụ sau. Còn nếu họ chỉ làm độc canh cây lúa, khi thu hoạch (gặt) lúa

xong, họ sẽ để lại gốc rạ ngoài ruộng, chờ mưa xuống lấy nước mưa để làm ẩm và hoai

mục thành phân. Khi đến vụ mới, họ chỉ cần cày ải (có thể bật các gốc rạ lên) là có thể

gieo hạt. Gốc rạ hoai mục kết hợp với lượng phù sa do mùa lũ về là chất dinh dưỡng

tốt nhất không cần phải dùng phân bón gì khác. Còn đối với trồng màu, người Khmer

còn bón thêm các loại phân bón hữu cơ từ chất thải của động vật như phân bò, phân gà

rất tốt cho các loại hoa màu. Họ chỉ cần làm đất kĩ, đất tơi xốp được bón thêm các loại

phân hữu cơ là có thể mang đến một vụ mùa tốt. Hơn nữa, trong nông nghiệp truyền

thống, người Khmer chỉ làm ruộng một năm một vụ hoặc một vụ lúa một vụ màu nên

có rất nhiều thời gian cho đất nghỉ và tái tạo lại đất. Hiện nay, do áp dụng làm nông

nghiệp tăng vụ, thời gian đất nghỉ không còn nên buộc phải can thiệp các kĩ thuật khoa

học hiện đại như bón phân vô cơ, dùng các loại thuốc để tăng năng suất cho cây, thuốc

diệt các loại sâu bọ.

Khi chúng tôi đến phỏng vấn những hộ dân trồng rẫy ở ấp Bà Tây B, xã Phước

Hưng, huyện Trà Cú, Trà Vinh chúng tôi thu được kết quả như sau: những hộ dân

trồng rẫy nơi đây đều sử dụng phân bón vô cơ để giúp cây tăng trưởng tốt. Loại phân

được sử dụng nhiều nhất là NPK. Ngoài ra, theo hộ ông T.P cho biết:

“Ngoài dùng phân NPK để bón cây gia đình ông phải kết hợp dùng các loại

thuốc trừ sâu để phòng và trị bệnh cho cây. Với điều kiện tự nhiên hiện nay những

động vật thiên địch hầu như rất hạn chế nên buộc người nông dân phải sử dụng các

loại phân bón, thuốc trừ sâu hoá học” (Phụ lục 1, nhật kí điền dã tại Trà Vinh).

Qua quan sát thực tế tại rẫy của ông P chúng tôi thấy vẫn còn các hạt phân bón

123

vẫn chưa tan hết trên đất. Khi được hỏi, cách làm này người nông dân có biết sẽ có

làm ảnh hưởng đến MTTN không thì ông trả lời là vẫn biết nhưng không có cách nào

khác bởi vì với MTTN đã khác xưa rất nhiều nếu canh tác theo truyền thống ông bà

truyền lại và chỉ dựa vào kinh nghiệm dân gian thì cây trồng sẽ không đạt năng suất

thậm chí có vụ thất hoàn toàn do sâu rầy phá hoại.

Có thể thấy rằng, các kiến thức khoa học giúp ích rất nhiều cho nông nghiệp

hiện đại. Các loại thuốc, chất tăng trưởng giúp cho cây trồng phát triển tốt, năng suất

cao, có thể chống lại các loại sâu bệnh. Hơn nữa, trước tình hình biến đổi khí hậu diễn

ra mạnh mẽ, để làm được một mùa vụ thành công người Khmer không thể bỏ quá các

biện pháp của khoa học kĩ thuật hiện đại. Điều đó là đúng với quy luật vận động và

phát triển. Tuy nhiên, khi khảo sát ý kiến của các hộ dân Khmer, chúng tôi nhận thấy

rằng, người Khmer vẫn biết một số biện pháp khoa học hiện đại đó giúp ích rất nhiều

nhưng nếu lạm dụng nó sẽ rất có hại cho MTTN và cho sức khoẻ con người. Đâu đó

trong các vùng nông thôn hiện nay vẫn còn tồn tại hiện trạng “rau hai luống, heo hai

chuồng” có nghĩa là người nông dân khi trồng trọt hay chăn nuôi sẽ chia ra làm hai

phần rõ rệt: một bên để bán và một bên để ăn. Phần trồng để bán thì xịt thuốc sâu,

phân bón hoá học còn phần trồng để ăn thì không xịt thuốc và bón phân hữu cơ.

Từ thực tế đó nên hiện nay, người Khmer ý thức được đó là việc làm sai và về

mặt tâm linh đó là việc làm có tội. Vì thế hiện nay người Khmer một số nơi có sự biến

đổi trong cách ứng xử với cây trồng. Họ vừa bón phân hoá học nhưng cân nhắc liều

lượng và bón thêm các loại phân hữu cơ như phân bò, phân gà, xác thực vật: vỏ đậu

phộng, đậu nành v.v. Vì thế, hiện nay các loại phân hữu cơ này được rất nhiều người

chuộng mua và có giá trị rất cao. Mỗi bao phân bò có giá dao động từ 15.000đ đến

20.000đ/ bao.

4.3.1.2. Biến đổi trong văn hoá ứng xử với vật nuôi

Đối với các loại vật nuôi, người Khmer ở ĐBSCL hiện nay cũng có những biến

đổi nhất định. Nếu như trước kia, các loại vật nuôi phổ biến trong gia đình người

Khmer là các loại gia súc để kéo cày và các loại gia cần như gà, vịt để phục vụ cho

nhu cầu bữa ăn hàng ngày thì điều này giờ đây cũng có những biến đổi trong văn hoá

của người Khmer. Cách chăn nuôi phổ biến của người Khmer mang tính kinh tế hộ gia

đình, chăn nuôi nhỏ lẻ chỉ để phục vụ sinh hoạt ăn uống hàng của gia đình, tết, lễ hội

khi có thừa thì mang ra bán để mua vật tư sản xuất nông nghiệp. Chỉ một số ít người

Khmer mở chăn nuôi chuyên nghiệp theo kiểu trang trại. Trong quá trình chăn nuôi

124

chủ yếu là họ chăn thả trên phần đất gia đình sau khi thu hoạch vụ mùa và ven các bờ

ao, kinh thủy lợi, vùng ngập mặn, vùng đệm ven biển. Việc chăn nuôi không mang

tính thời vụ, không phụ thuộc vào khí hậu, nguồn nước và chỉ kết hợp kinh nghiệm

dân gian với tiến bộ KHKT trong chăn nuôi. Cách chăn nuôi này so với truyền thống

là không thay đổi nhiều mà chỉ thay đổi về giá trị chọn con vật nuôi trong đời sống của

người Khmer. Chẳng hạn, trước kia người Khmer nuôi cả trâu lẫn bò để kéo cày và

làm vậy chuyên chở thì hiện nay đa phần người Khmer ở ĐBSCL chỉ chọn nuôi bò vì

chức năng hai con vật này làm vật chuyên chở không còn nữa. Đồng ruộng hiện nay

được cơ giới hoá, người nông dân không còn sử dụng trâu, bò làm sức kéo nữa nên

cách người nông dân ứng xử với trâu, bò cũng có khác. Khi chức năng chuyên chở

không còn nữa nên giờ đây người Khmer chỉ còn nuôi bò. Bò là con vật dễ chăm sóc,

ít bệnh tật, có giá trị kinh tế cao.

Ngoài những con vật nuôi để làm kinh tế phụ như gia súc, gia cầm, người

Khmer ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh còn chăn nuôi các loài thuỷ sản như tôm sú,

tôm thẻ, cua biển. Chăn nuôi thuỷ sản là ngành chăn nuôi khá mới trong kinh tế của

người Khmer. Nếu như xưa kia, người Khmer chỉ quen với tập quán đánh bắt nội đồng

thì giờ đây họ còn tham gia vào chăn nuôi thuỷ sản chuyên nghiệp. Để đáp ứng với kĩ

thuật nuôi trồng mới họ phải luôn cập nhật kiến thức khoa học về cách chọn con

giống, kĩ thuật đất, nước cho ao hồ. Người Khmer ở Vĩnh Châu, Sóc Trăng còn mạnh

dạng nuôi thuỷ sản công nghiệp có nghĩa là làm hệ thống màn phủ dưới đáy hồ, đầu tư

máy lọc nước, máy oxi để nuôi tôm thẻ, tôm sú. Qua quan sát thực tế, chúng tôi thấy

đa phần người Khmer chọn nuôi tôm thẻ vì loại tôm này dễ chăm sóc, ít nhiễm bệnh

mà hiệu quả kinh tế không thua gì với tôm càng, tôm sú.

Ngoài các loại động vật kể trên, một bộ phận không nhỏ người Khmer ở Trà

Vinh, Sóc Trăng mạnh dạn nuôi các loại giống vật nuôi có thể cải thiện thu nhập như

nuôi ếch, nuôi trăn, nuôi dê, nuôi cá ba sa, nuôi dế theo hướng công nghiệp. Các con

vật nuôi này trước kia thường chỉ được đánh bắt trong tự nhiên thì bây giờ trước nhu

cầu cao của thị trường nên các hộ nông dân ở ĐBSCL đã tiến hành nuôi để đủ cung

cấp cho thị trường trong và ngoài nước. Một số người nông dân Khmer biết kết hợp

mô hình vườn – ao – chuồng đạt hiệu quả năng suất khá cao.

Có thể thấy rằng, nếu xưa kia người Khmer có phần thụ động trước MTTN, họ

chỉ tận dụng thiên nhiên sẵn có, chăn nuôi nhỏ lẻ gia đình hay đánh bắt nội đồng thì

giờ đây họ chủ động trước MTTN, họ biết cải tạo, thích ứng với MTTN như cây trồng,

125

vật nuôi trong tình hình mới. Họ chuyển từ cách ứng xử thụ động một chiều sang cách

ứng xử chủ động tương tác đa chiều. Để có thể thích ứng với những điều kiện biến đổi

này đòi hỏi người nông dân Khmer luôn phải cập nhật kiến thức về nông nghiệp như

giống cây trồng mới, giống cây trồng thích nghi với biến đổi khí hậu, các giống vật

nuôi mới.

4.1.4. Biến đổi trong ứng xử với thời tiết

Với người dân làm nông nghiệp, yếu tố thời tiết khá quan trọng quyết định đến

sự thành công hay thất bại của cây trồng. Kinh nghiệm coi thời tiết của người nông

dân thường xem những hiện tượng biến đổi của con vật, màu sắc của trời, sự thay đổi

hướng gió. Ví dụ như các cư dân ở ĐBSCL khi thấy kiến bò ra khỏi hang, mối bay ra

khỏi tổ là dấu hiệu của trời sắp chuyển mưa. Hay như sự khác lạ của chuồn chuồn

cũng có thể dự đoán được thời tiết “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng

bay vừa thì râm”. Tuy nhiên khi có dự báo thời tiết bằng máy móc, người nông dân chỉ

cần theo dõi thông tin trên đài phát thanh, truyền hình là có thể nắm được tình hình.

Thậm chí, trong mỗi chiếc điện thoại thông minh đều có phần mềm theo dõi thời tiết,

mà việc có chiếc điện thoại thông minh là điều không khó trong thế kỉ XXI này. Theo

dõi thời tiết trên phương tiện đại chúng là tiện lợi, nhanh chóng tuy nhiên không phải

người nông dân Khmer nào cũng hoàn toàn tin tưởng vào thông tin của dự báo thời

tiết. Khi chúng tôi phỏng vấn ông Thạch Phên, ông cho biết ông vẫn thường xuyên dựa

vào kinh nghiệm để dự đoán thời tiết những hiện tượng mưa nắng, kinh nghiệm xem

nắng hạn hàng năm. Ông cho rằng, với những kinh nghiệm dân gian do ông bà truyền

lại đến bây giờ vẫn không bao giờ sai. Không phải lúc nào người nông dân cũng có

điều kiện nghe dự báo thời tiết, nếu lúc không nghe được thì nhìn trời, cảm nhận khí

hậu cũng có thể biết được. Như vậy, việc vận dụng kinh nghiệm truyền thống với máy

móc, kiến thức hiện đại là thật sự cần thiết và vẫn tồn tại song song trong đời sống văn

hoá của người Khmer.

Từ khi có sự biến đổi khí hậu, nhất là mưa, nắng thất thường, nước biển xâm

nhập mặn vào vùng sản xuất kèm theo chịu ảnh hưởng của các cơn bão, lốc xoáy,

người dân đã biết cách phòng tránh: sản xuất theo kinh nghiệm dân gian kết hợp với

khuyến cáo của ngành chức năng tỉnh, thị xã nhằm hạn chế, tránh ảnh hưởng của biến

đổi khí hậu; không khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng

126

phòng hộ để tái tạo nguồn lợi thủy sản ven biển, tăng thu nhập cho từng hộ gia đình

chuyên đánh bắt thủy sản ven bờ; tiết kiệm nước trong sản xuất, sinh hoạt, không khai

thác nước khi chưa có nhu cầu sử dụng trong sinh hoạt, sản xuất.

4.2. MỘT SỐ XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI PHƯƠNG THỨC SINH KẾ

ĐỂ THÍCH NGHI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI KHMER

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

4.3.1. Chuyển đổi trong kĩ thuật nuôi trồng

ĐBSCL là vùng đất phù sa trù phú và MTTN khu vực này có sự phong phú, đa

dạng, có đồng bằng, núi, rừng, biển, đảo và có nhiều hệ thống sông ngòi, kênh rạch

chằng chịt đã tạo nên nguồn lực dồi dào về lương thực. Tuy nhiên, hiện nay vùng này

đang chịu sự tác động lớn của biến đổi khí hậu, đã và đang ảnh hưởng lớn đến sản

lượng nông nghiệp, an ninh lương thực và nuôi trồng thuỷ sản. Hằng năm, ĐBSCL

đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản và 70% các

loại trái cây của cả nước; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu.

Năm 2019, sản lượng nông nghiệp ở đây không chỉ đạt về lượng mà còn đạt cả về chất

với thành tích giống lúa gạo ST 25 đạt giải thưởng gạo ngon nhất thế giới. Như vậy,

ĐBSCL có thể nói là cái nôi về xuất khẩu nông sản, thuỷ sản và đóng góp một phần

khá lớn cho tỉ trọng GDP cho cả nước.

Tuy nhiên, theo kịch bản biến đổi khí hậu của Bộ Tài nguyên và Môi trường

năm 2012 đến cuối thế kỉ XXI, mực nước biển có thể dâng cao thêm từ 75cm đến

100cm, có khoảng 40% diện tích trồng trọt, 70% diện tích đất trồng lúa của vùng bị

ngập mặn. Các tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và có thể sẽ bị ngập chìm trong nước

biển như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sóc Trăng… Có thể nói, ĐBSCL đã, đang và

sẽ là nơi chịu những tổn thất nặng nề do sự tác động của biến đổi khí hậu mang lại.

Cũng theo kịch bản về biến đổi khí hậu, những biểu hiện cụ thể sẽ diễn ra là:

nhiệt độ thay đổi thất thường hơn, có xu hướng khắc nghiệt hơn như mùa khô diễn ra

dài hơn, mùa mưa thường đến trễ hơn và lượng nước lũ ngày càng cạn kiệt. Bên cạnh

đó, sự xâm thực, xói mòn bờ biển, bờ sông xảy ra thường xuyên hơn về số lần và

nhiều hơn về địa điểm khiến biển càng lấn sâu vào đất liền đến vài trăm mét mỗi năm

như Trà Vinh, Cà Mau… Với tình hình nước biển dâng cao thường kèm theo sự xâm

nhập mặn kéo dài. Sự nhiễm mặn với cường độ lớn ảnh hưởng nặng nền đến sự thay

127

đổi về môi trường đất.

Người Khmer ở ĐBSCL truyền thống có phương thức sinh kế chính là trồng lúa

nước và hoa màu. Vì vậy cuộc sống canh tác nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào lượng

nước từ tự nhiên như nước mưa và nước sông. Nước mưa chỉ tập trung vào một số tháng

trong năm nên thật sự không thể trông chờ hoàn toàn vào lượng nước do mẹ thiên nhiên

mang lại. Để tạo điều kiện tốt, người Khmer cùng các cư dân ở đây cải thiện môi trường

bằng cách đào kênh dẫn nước để tăng thêm nguồn nước tưới tiêu. Tuy nhiên, chất lượng

nguồn nước và đất của tự nhiên ở ĐBSCL lại có đặc trưng riêng là thường xuyên nhiễm

mặn do sự xâm thực của nước biển trong một số tháng. Hơn nữa, chất lượng đất ĐBSCL

còn bị nhiễm chua do phèn; và để đối phó với việc nhiễm phèn, nhiễm mặn người nông

dân thường đắp đập để ngăn mặn để giữ hệ sinh thái nước ngọt và có thể trồng lúa quanh

năm.

Trong lịch sử khai phá vùng đất ĐBSCL đã từng có nhiều cứ liệu lịch sử viết về

quá trình đào kênh để dẫn nước và quá trình xây dựng các đập ở các nhánh sông lớn để

nuôi tôm cá tự nhiên vào mùa khô (mùa nước mặn). Sau khi thu hoạch tôm cá xong cư

dân sẽ lấy nước ngọt vào mùa mưa để trồng lúa. Tuy nhiên, việc đắp đập, làm cống dễ

làm đất canh tác dễ bị nhiễm phèn nhiều hơn và thậm chí không có đủ nước ngọt cho

canh tác lúa ngay cả vào mùa mưa. Bởi vì lượng nước chảy qua các cống nhỏ từ bên

ngoài đổ vào hệ thống kênh rạch nội đồng không đủ cung cấp cho các cánh đồng lúa

trên toàn vùng do địa hình cao thấp khác nhau. Các nông dân bằng mọi cách lấy nước

cho đồng ruộng theo cách riêng làm hư hại đến hệ thống đập cùng với các hệ thống

đập không được tu sửa. Kết quả hệ thống đập hư hại do yếu tố tự nhiên và con người.

Hiện nay, trong bối cảnh ảnh hưởng nặng nề của biến đổi môi trường nên sản

xuất nông nghiệp của người Khmer ở ĐBSCL gặp nhiều khó khăn. Đó là tình trạng ô

nhiễm môi trường gây thiếu nước, kiệt nước đối với vùng cư trú cao ráo như vùng Bảy

Núi, Tịnh Biên tỉnh An Giang và xâm mặn, nhiễm mặn, nước biển dâng đối với vùng

thấp, nhất là các vùng cư trú ven biển như vùng Trà Vinh và Sóc Trăng ngày càng

trầm trọng. Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng

Hiệp, tại ĐBSCL, dự báo năm 2020 tình trạng xâm nhập mặn, thiếu nước cao hơn năm

2015 - 2016 (hạn nhất trong lịch sử). Tình hình xâm nhập mặn đến sớm hơn và thường

kéo dài hơn. Đến năm 2020, một số nơi ở ĐBSCL xâm nhập mặn có thể vào tới 100

128

km (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016).

Sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu diễn ra trên diện rộng tại ĐBSCL, nhất là

các tỉnh ven biển quá trình xâm thực của nước biển khiến cho cây trồng, vật nuôi bị

ảnh hưởng nặng nề. Hầu như ở mỗi tỉnh đều triển khai các chương trình hành động

nhằm đối phó và thích ứng với những biến đổi. Cụ thể như tại Sóc Trăng, do nằm trên

vùng đệm ven biển cho nên phường 2 (Vĩnh Châu) là nơi chịu ảnh hưởng lớn vì nước

mặn tràn vào khi gió mùa Tây Bắc về, làm ảnh hưởng không nhỏ đến diện tích sản

xuất của người dân vùng đệm, kể cả tại các cửa sông, ven sông. Trên toàn phường 2,

hệ thống kinh rạch cũng tương đối nhiều như kinh Trà Niên, kinh Giồng Me, kinh

Sang Giữa, kinh T4, kinh bao vùng chuyên màu và hàng trăm kinh sườn nối liền với

các kinh lớn đầu nguồn, phục vụ tốt cho việc tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản cũng như

thoát nước trong mùa mưa bão, phục vụ cho sản xuất của nhân dân. Để chủ động thích

ứng với biến đổi khí hậu, trên địa bàn Phường 2 thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã

triển khai thực hiện mô hình thí điểm sử dụng phân vi sinh và tiết kiệm nước trong sản

xuất lúa, màu tại 3 khóm Cà Săng, Cà Lăng A và Vĩnh Bình. Đa phần người Khmer

trên địa bàn đã ý thức tốt đến việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất nước, biết sử dụng tài

nguyên đúng mục đích, tăng giá trị trên 1 đơn vị héc-ta đất sản xuất, nâng cao thu nhập

cho gia đình, cải thiện đáng kể mức sống. Trong quá trình xử dụng đất, người Khmer

trong vùng đã từng bước cải tạo đất thích nghi với từng loại cây trồng. Trên nền đất

cát, cát pha cải tạo lại bằng việc đổ thêm đất thịt vào để tăng độ pH cho đất, trồng các

loại màu, cây ăn trái, cây lâu năm. Diện tích đất bị nhiễm phèn mặn chủ yếu tập trung

tuyến ven biển và một ít vùng trũng thấp khu vực 2 đã được người dân cải tạo thành ao

vuông nuôi tôm sú, tôm thẻ và các loài thủy sản khác.

Ở Trà Vinh, người Khmer làm nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng tình hình khô

cạn, đồng ruộng nứt nẻ vào mùa nắng. Các cánh đồng dọc theo các con giồng Duyên

Hải, Tiểu Cần, Châu Thành vào mùa nắng hầu như không còn sự sống. Người dân ở

Duyên Hải – Trà Vinh dùng cụm từ “đồng khô cỏ cháy’’ để miêu tả các con giồng vào

mùa nắng. Cái nắng hạn tháng 3 như thiêu như đốt các đồng ruộng. Người Khmer làm

nông nghiệp ở Trà Cú, Duyên Hải – Trà Vinh ngoài hứng chịu cái hạn tháng nắng còn

chịu ảnh hưởng bởi triều cường và xâm mặn của nước biển. Bình thường người nông

dân có thể canh tác 2-3 vụ/ năm nhưng khi tình trạng nắng kéo dài và những đợt nhiễm

mặn nặng chỉ canh tác 1 vụ/ năm. Những biến đổi thất thường của thời tiết, môi trường

129

đã ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế của người Khmer vùng ĐBSCL.

4.3.2. Chuyển đổi phương thức sinh kế

Tình trạng nhiễm phèn, nhiễm mặn không phải đã không từng xảy ra trong lịch

sử của người dân ĐBSCL. Tuy nhiên, khi quá trình biến đổi khí hậu có những chuyển

biến phức tạp và có xu hướng ngày một tăng cao về số lượng và mức độ nghiêm trọng

đã khiến cho người dân ĐBSCL phải đứng trước những thách thức lớn như mùa khô

diễn ra dài hơn, nắng gắt hơn; mùa mưa đến chậm hơn, lượng nước mưa ít hơn. Quan

trọng hơn nhất là “đặc sản” của vùng đồng bằng châu thổ là “nước nổi” ở đây hầu như

cũng đang ngày cạn cạn kiệt. Nếu như xưa kia, bà con nơi đây chờ lũ về thau chua, rửa

phèn và tích trữ phù sa cho đồng ruộng, tích trữ tôm cá cho mùa sau thì giờ đây mùa lũ

đến rất trễ và lượng nước rất cạn kiệt, thậm chí người dân chờ lũ và khát khao lũ.

Những sản vật mùa lũ như cá linh nếu trước kia là loại sản vật dồi dào, dư dả và không

có giá trị kinh tế thì giờ đây cá linh hầu như có rất ít và một số nơi không có cá linh về

vào mùa lũ. Xưa kia, một kí cá linh có giá rất rẻ, khoảng vài chục nghìn một kí nhưng

hiện nay theo khảo sát của chúng tôi giá một kí cá linh khoảng trên một trăm nghìn khi

đến tay người tiêu dùng. Món cá linh non nấu canh chua điên điển hay cá linh non kho

mắm là món ăn yêu thích của người miền Tây giờ chỉ còn xuất hiện rất ít và dần trở

thành những kí ức ngọt ngào khi mà nguồn sản vật ngày một cạn kiệt.

Những thách thức của biến đổi môi trường đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống vật

chất và tinh thần của người Khmer vùng ĐBSCL. Đứng trước những thách thức đòi

hỏi tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo môi trường sống bền vững cho cộng đồng các dân

tộc ở Nam Bộ. Trong đó, thay đổi phương thức sinh kế được xem như là phương cách

thích nghi với sự chuyển biến của môi trường, khí hậu của địa phương. Từ phương

thức canh tác lúa truyền thống sang nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao; chuyển

từ phụ thuộc hệ sinh thái nước ngọt sang hệ sinh thái nước mặn như một cách thích

nghi với biến đổi môi trường sinh thái ở ĐBSCL.

Sự chuyển đổi từ hệ sinh thái nước ngọt sang hệ sinh thái nước mặn, việc làm

của người dân có sự chuyển đổi rõ rệt. Trong phương thức sống truyền thống, người

Khmer có thể tự sản xuất lúa, trồng hoa màu, cây ăn trái, nuôi gia súc, gia cầm để tự

túc tiêu thụ và buôn bán nhỏ quanh năm. Người Khmer còn nhờ vào hệ sinh thái nước

ngọt mà có thể đánh bắt nội đồng với số lượng tương đối lớn. Ngày nay, khi chuyển

đổi kinh tế, người Khmer ít phụ thuộc vào kinh tế tự cấp tự túc nữa mà thay vào đó là

130

hướng đến kinh tế thị trường. Phương cách sống của cư dân Khmer cũng có sự thay

đổi. Nước mặn được xem là một nguồn nguyên liệu quý và người dân tận dụng nước

mặn để nuôi tôm vào mùa mưa. Nếu như không có điều kiện tiền vốn để nuôi tôm họ

có thể để đất trống làm nghề khác chứ không trồng lúa như truyền thống do giá trị kinh

tế của cây lúa không cao như xưa nữa. Tại một số vùng như Vĩnh Châu ở Sóc Trăng

giờ đây ruộng lúa đã trở thành những ao tôm mang lại hiệu quả kinh tế rất tích cực cho

đồng bào Khmer nơi đây. Phương thức sinh sống thích nghi nhiều hơn vào hệ sinh thái

nước mặn.

Tuy có sự chuyển đổi kinh tế từ lúa sang tôm phần nào cải thiện được thu nhập

của người dân ở ĐBSCL tuy nhiên theo kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Phương Lan

cũng cho rằng việc nuôi tôm hiện này cũng mang nhiều rủi ro đáng kể trong đó có tính

bất ổn về sự ô nhiễm môi trường. Cụ thể là sự ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt

động thâm canh không kiểm soát và cách xử lý nước thải chưa tốt. Hệ thống cấp thoát

nước trong nuôi tôm vẫn chưa hoàn thiện và thiếu quy hoạch nên phần lớn các vuông

tôm trong vùng vẫn dùng chung hệ thống cấp và xả nước (Ngô Thị Phương Lan,

2017), 35. Như vậy, dường như có một sự mâu thuẫn khi người dân khi thích ứng với

BĐKH, thích nghi với sự biến thiên của môi trường, họ tìm cách chuyển đổi sinh kế để

không quá lệ thuộc vào tự nhiên nhưng trong quá trình canh tác này, nếu không có

phương pháp, kế hoạch đầu tư kĩ lưỡng thì vô hình chung lại càng khiến cho sự ô

nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng hơn.

Khi điều kiện môi trường càng ngày càng có nhiều biến chuyển tiêu cực, nhiều

người dân Khmer ở ĐBSCL đã chuyển đổi phương thức sinh kế. Nếu xưa kia, đời sống

của người dân là cuộc sống nương tựa hoàn toàn vào tự nhiên để sinh kế như trồng lúa,

trồng rẫy, hoa màu thì giờ đây họ có thể chuyển đổi phương thức sinh kế, chuyển đổi

ngành nghề. Trong giai đoạn Việt Nam mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài, nhiều công ty,

xí nghiệp được xây dựng ở các vùng nông thôn ở ĐBSCL. Người nông dân Khmer muốn

có kinh tế ổn định, không phải chịu cảnh mất mùa do nước mặn, do hạn hán đã di chuyển

đến các khu công nghiệp để sinh kế. Năm 2019, khi điền dã tại huyện Trà Cú chúng tôi đã

quan sát cách sinh kế của bà con nơi đây. Hiện nay, tại địa bàn Tập Sơn, hầu như các nam

nữ thanh niên đang trong độ tuổi lao động (từ 18 tuổi đến 45 tuổi) đa phần làm công nhân

ở các khu công nghiệp. Nam nữ thanh niên ở ấp Bà Tây B làm công nhân tại công ty giày

da Mỹ Phong của huyện Trà Cú, công ty da Vina ở Long Đức, Trà Vinh. Một bộ phận

131

khác đi làm xa tại Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai. Thông thường khi có dịp lễ lớn

của dân tộc như Chôl - Chnăm - Thmây hoặc Sen Đôn - ta họ mới về thăm nhà. Những

nam nữ thanh niên có con nhỏ họ phải gửi lại cho ông bà chăm sóc và đi học ở quê. Tình

trạng phổ biến ở nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ nhỏ nên có những gia đình

thà để ruộng bỏ trống chứ không có nhân lực để canh tác. Theo như lý giải của các nông

dân là nguồn tiền từ lương công nhân ổn định hơn làm kinh tế nông nghiệp. Khi họ làm

công nhân, nếu chịu khó làm tăng ca thì lương ổn định có khi trên 6.000.000 đ nhưng khi

làm ruộng rẫy đến mùa thu hoạch nếu trừ các khoảng như tiền giống, tiền phân, thuốc và

giống cho vụ sau thì mỗi người trong gia đình chỉ dư vài trăm nghìn. Đó là những lúc mùa

màng ổn định còn những khi nước nhiễm mặn, phèn, mùa màng thất, họ còn phải nợ cả

tiền giống và phân, thuốc. Vì vậy, chuyển đổi sinh kế từ nông nghiệp sang công nghiệp là

cách chuyển đổi giúp ổn định kinh tế của gia đình. Thanh niên trẻ trong độ tuổi lao động,

đi làm công nhân hàng tháng gửi tiền về nuôi con cái, nuôi cha mẹ. Nếu như khéo tích cóp

họ còn dư tiền để xây nhà cho cha mẹ. Các người già ở nhà thì nhờ vào tiền gửi từ con

cháu khi đi làm công nhân hoặc làm các công việc nhẹ như tận dụng các loại rau, quả tự

nhiên để làm dưa bán. Như tôi tiếp xúc và trao đổi với bà L.N (68 tuổi) tại ấp Bà Tây B

chuyên làm dưa môn để bán ở chợ. Dưa môn là loại dưa làm từ ngó môn. Bà con đem về

rửa sạch, cắt nhỏ và nấu nước muối ngâm để làm chua. Loại dưa này đòi hỏi phải có kinh

nghiệm làm như: chọn loại môn, sơ chế sạch… để khi ăn không bị ngứa. Kinh tế từ việc

làm dưa môn đủ để sinh hoạt, trang trải trong gia đình.

Chuyển đổi phương thức sinh kế ngoài sự tác động của môi trường còn có những

yếu tố khách quan khác; trong đó có những trường hợp nguồn lợi tự nhiên có sẵn, không

bị tác động bởi môi trường tự nhiên nhưng lại do những sản phẩm tự nhiên chưa tạo

được sự thu hút với người tiêu dùng. Như trường hợp về sản phẩm cây thốt nốt ở huyện

Tri Tôn, tỉnh An Giang là một trường hợp như thế. Nếu như trước kia, An Giang có rất

nhiều hộ nấu đường thốt nốt nhưng hiện nay chỉ còn lại vài hộ nấu đường. Kinh tế của

người dân ở Tri Tôn ngoài nấu đường thốt nốt họ phải làm kinh tế thêm như làm ruộng,

nuôi bò mới đủ chi phí cho gia đình bởi giá trị của đường thốt nốt hiện nay không cao và

cũng ít có sức hấp dẫn đối với thị trường. Thốt nốt có vị ngọt đậm và có mùi đặc trưng

nên có khi rất kén người sử dụng. Từ trước đến nay, đường thốt nốt hầu như chỉ dùng để

nấu chè, kho cá hoặc làm ít món bánh như bánh bò thốt nốt. Nhìn chung, Tri Tôn nói

riêng và An Giang nói chung có nguồn lợi từ cây thốt nốt nhưng việc khai thác và quảng

132

bá chưa rộng.

Để thích nghi với những biến động của MTTN cùng với chính sách phát triển du

lịch địa phương, mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng của người Khmer ở

ĐBSCL cũng đáp ứng được phần nào vừa đi cùng với chính phát triển của đất nước, vừa

cải thiện kinh tế, thu nhập khi nguồn lợi từ nông nghiệp đang có nhiều nguy cơ và nhiều

rủi ro. Du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hoá tâm linh hiện nay đang là xu

hướng du lịch mới, có triển vọng tiềm năng kinh tế khá lớn. Theo Luật Du lịch năm

2017:

Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá

địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về bảo vệ môi

trường” và “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các

yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham

gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong

tương lai” (Luật Du lịch, 2017).

Không gian cư trú và bản văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL có nhiều lợi thế

tiềm năng để phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và du lịch văn hoá

tâm linh. Với đặc trưng có nhiều lễ hội lớn trong năm như Chôl – Chnăm – Thmây, Sen

Đôn - ta, Ok – Om – Bok nên du lịch văn hoá Khmer là loại hình du lịch rất nhiều khách

du lịch trong nước và quốc tế yêu thích. Nhiều địa phương ở ĐBSCL hiện nay đã và

đang triển khai các kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng của người Khmer như lễ hội

đua bò ở An Giang, lễ hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng, Trà Vinh .v. Đến với loại hình du

lịch này du khách được giới thiệu các giá trị văn hoá Khmer như văn hoá lễ hội, đời

sống tâm linh tôn giáo, văn hoá sinh hoạt thường nhật với các hoạt động giã cốm dẹp

hay thưởng thức các món ăn đặc sản của người Khmer.

Loại hình khai thác văn hoá địa phương để phát triển du lịch này tạo ra nguồn thu

cho kinh tế nước nhà đồng thời có thể tạo thêm việc làm, cải thiện thu nhập cho đồng

bào dân tộc Khmer. Hơn nữa, trong tình hình BĐKH hiện nay, nông nghiệp thất mùa,

việc phát triển kinh tế du lịch là một việc làm đúng hướng. Tại Trà Vinh, năm 2018 đã

triển khai đưa vào hoạt động du lịch Làng Văn hóa Khmer tại xã Lương Hòa, huyện

Châu Thành, thành phố Trà Vinh. Làng Văn hoá Khmer được khai thác trên cơ sở là

một phum của người Khmer tại Trà Vinh. Trong cách khai thác du lịch này, người

133

Khmer là đối tượng chính trong hoạt động du lịch. Khách du lịch khi đến làng được

sống trong không gian văn hoá cư trú của người Khmer, tham gia vào sinh hoạt thường

nhật cũng như hoạt động hội hè của người Khmer.

Tuy có nhiều lợi ích như phát triển kinh tế, tạo thu nhập và giải quyết việc làm

cho người dân nhưng vấn đề giữ gìn môi trường sinh thái bền vững cho cộng đồng cũng

phải đáng được quan tâm. Không gian cư trú của người Khmer ở ĐBSCL đến hiện nay

vẫn còn giữ được không gian sinh thái trong lành và hầu như chưa bị tác động nhiều bởi

những biến đổi xã hội. Trong các chùa Khmer vẫn còn được bao bọc bởi những hàng

cây cổ thụ xanh mát. Tuy nhiên, theo dự báo nếu khai thác du lịch văn hoá Khmer mà

không chú ý đến yếu tố cảnh quan, môi trường sinh thái sẽ dễ dẫn đến tình trạng phá

huỷ môi trường và mất cân bằng sinh thái trong cộng đồng Khmer. Theo quan sát thực

tế hiện nay có một số chùa Khmer do có nhiều khách du lịch đến nên hiện tượng rác thải

bừa bãi, ồn ào, nhiều loại sinh vật không còn trú ngụ trong chùa như trước nữa. Hình

thức du lịch được hoà nhập vào lối sống cộng đồng, được sinh hoạt văn hoá cộng đồng

rất được khách du lịch ưa chuộng. Hiện nay, một số tỉnh ở ĐBSCL xúc tiến khai thác

các tuyến điểm du lịch cộng đồng, trong đó có xu hướng khai thác văn hoá cộng đồng

người Khmer ngày một gia tăng. Chúng tôi cho rằng, khai thác du lịch cộng đồng là cần

thiết để phát triển kinh tế nhưng cần phải đảm bảo những bước đi ổn định, lâu dài và bền

vững trong việc vừa phát triển du lịch cộng đồng vừa bảo vệ được tài nguyên môi

trường.

4.3. MỘT VÀI VẤN ĐỀ ĐẶT RA

4.3.1. Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường tự nhiên trong cộng đồng

Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long

4.3.1.1. Phổ biến kiến thức về biến đổi khí hậu

Hiện nay, trước tình hình biến đổi khí hậu, tài nguyên đất, nước, hệ sinh thái

thực vật, động vật ở ĐBSCL đang đứng trước những nguy cơ tổn hại nhất định. Từ

xưa đến nay người dân ĐBSCL nói chung và người Khmer nói riêng đã ứng xử với

tâm thức thói quen truyền thống là ĐBSCL là vùng đất đai màu mỡ, sản vật tự nhiên

sẵn có. Tuy nhiên, hoàn cảnh thực tế của MTTN ở ĐBSCL đang đứng trước những

nguy cơ và thách thức lớn đó là sự xâm thực của nước biển, đất đai nhiễm mặn, nhiễm

phèn, hiện tượng hạn hán, xoáy mòn, lốc xoáy diễn ra thường xuyên hơn hàng năm.

Chúng tôi nhận thấy rằng, chỉ có một bộ phân người nông dân Khmer có tham gia cá

134

buổi tập huấn của cán bộ nông nghiệp, có điều kiện tiếp cận với các phương tiện

truyền thông mới nhận thức được tình hình cấp bách về MTTN ở ĐBSCL đang diễn

ra. Còn một bộ phận khác, vì các lý do khác nhau như cản trở ngôn ngữ, thiếu phương

tiện truyền thông nên người Khmer ở vùng sâu, vùng xa vẫn chưa nhận thức được

những diễn biến phức tạp của MTTN. Họ chỉ nhận biết được những tình trạng bề mặt

của MTTN như hạn hán kéo dài, nước ngọt đầu nguồn ngày càng cạn kiệt, sản vật từ

thiên nhiên như cá tôm ngày một ít đi chứ họ không nhận thức được hết những diễn

biến phức tạp của MTTN đang diễn ra là do ảnh hưởng của hiện tượng biến đổi khí

hậu đang diễn ra phức tạp. Vì các lý do trên chúng tôi nhận thấy rằng việc cập nhật,

giáo dục, tuyên truyền về tình hình BĐKH trong cộng đồng dân tộc Khmer là công tác

cấp thiết hiện nay. Người Khmer cần được biết MMTN đang dần cạn kiệt để họ có

những ứng xử hợp lý, tránh làm ô nhiễm, huỷ hoại đến môi trường đất, môi trường

nước.

Bảo vệ tài nguyên môi trường tự nhiên từ lâu đã được sự quan tâm của nhiều

quốc gia trên thế giới vì MTTN là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của

các quốc gia. Các quốc gia quan tâm đến bảo vệ môi trường tự nhiên không chỉ là sự

khai thác đúng mức mà còn phải đảm bảo sự cân đối nhằm duy trì, bảo vệ MTTN

trong sự phát triển bền vững. Hội nhập với xu hướng của thế giới, Việt Nam cũng đã

và đang hoàn thiện các hệ thống pháp luật về môi trường, nỗ lực tham gia các công

ước quốc tế nhằm hướng đến bảo vệ MTTN trước yêu cầu phát triển bền vững.

Đứng trước những thách thức lớn do tình hình biến đổi khí hậu, các Bộ, Ban

ngành từ Trung ương đến địa phương luôn có những chủ trương nhằm phòng chống,

thích ứng với những diễn biến của khí hậu đồng thời luôn tuyên truyền để nâng cao ý

thức của người dân.

Nghị quyết số 24 - NQ/TW, ngày 03/6/2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khoá XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường

quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Mục tiêu của Nghị quyết đến năm 2020 về

cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải

khí nhà kính; đến năm 2050, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; khai thác, sử

dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững tài nguyên; bảo đảm chất lượng môi

trường sống và cân bằng sinh thái.

Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 12/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển

135

khai các biện pháp cấp bách về ứng phó xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long;

các cấp Đảng uỷ, chính quyền địa phương và ngành chức năng theo dõi sát, nắm chắc

tình hình coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị để chủ động có

kế hoạch, phương án phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn năm 2016 trên địa bàn tỉnh

bảo đảm kịp thời, hiệu quả. Theo đó, Tỉnh uỷ Trà Vinh ban hành Chỉ thị số 07 (ngày

22-3-2016) “Về việc tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp cấp bách ứng phó với

khô hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”; đồng thời Tỉnh uỷ Trà Vinh có

báo cáo Kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần

thứ bảy (khóa XI) “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,tăng cường quản lý tài

nguyên và bảo vệ môi trường” báo cáo về những kết quả đạt được là đã chỉ đạo các

ban, ngành trên địa bàn tỉnh trong công tác tuyên truyền, thực hiện các kế hoạch hành

động và cơ bản đạt được những kết quả như sau: về nhận thức, trách nhiệm và hành

động về thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường đã có sự

chuyển biến tích cực; hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao; bước đầu

khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững, việc khai thác,

sử dụng đất đai, khoáng sản và nước dưới đất được cơ bản thực hiện theo đúng quy

hoạch; công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường ngày càng chủ động; bảo tồn đa dạng

sinh học được chú trọng triển khai và thực hiện đồng bộ. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ các

cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 60%; thu gom chất thải rắn

ở đô thị đạt 88,87%; chất thải rắn y tế được xử lý đạt 100% (cao hơn mục tiêu đến năm

2020); tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch ở nông thôn là 53,13% và ở đô thị là

73,83%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 30,99%...

Nghị quyết số 120/NQ - CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 Về phát triển bền vững

vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH đã xác định biến đổi khí hậu và

nước biển dần là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức

thành cơ hội; bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn

tài nguyên để phát triển kinh tế. Nghị quyết cũng nêu lên việc chuyển đổi mô hình phát

triển dựa trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học,

văn hoá, con người và các quy luật tự nhiên; kết hợp giữa hiện đại với tri thức, kinh

nghiệm truyền thống. Không dừng lại đó, năm 2018, nhằm góp phần tìm giải pháp thực

hiện hiệu quả Nghị quyết 120 (liên quan đến gần 30 bộ, ngành và các tỉnh, thành vùng

ĐBSCL), ngày 14 tháng 12 năm 2018, trường Đại học Cần Thơ phối hợp với Thời báo

136

Kinh tế Sài Gòn tổ chức hội thảo “Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120 NQ-CP về

phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu”. Tại hội thảo, đại diện

lãnh đạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL, các chuyên gia, nhà nghiên cứu đã phân tích

những việc đã làm được, chưa làm được và đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả Nghị

quyết.

Cùng với những Nghị quyết, Chỉ thị, từ Trung ương đến địa phương thành lập

các đơn vị chuyên nghiên cứu, tuyên truyền về biến đổi khí hậu như Cục Khí tượng

thuỷ văn và Biến đổi khí hậu thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đây là nơi tập trung

nhiều dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu như: xu thế, kịch bản về biến đổi khí hậu;

thể chế, chính sách về biến đổi khí hậu; các hoạt động về biến đổi khí hậu. Những hoạt

động này phần nào cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình hình diễn biến của biến đổi

khí hậu đã, đang và sẽ diễn ra trên vùng đất ĐBSCL. Người dân vùng đất này không

còn nhận được những ưu ái do thiên nhiên mang lại trong lịch sử mà đang đứng trước

những thách thức to lớn đòi hỏi mỗi cư dân, mỗi dân tộc phải ý thức phải thay đổi

trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên của mình.

Trước những thách thức về biến đổi khí hậu diễn ra phức tạp ở ĐBSCL, Thủ

tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt nhiều đề án, quy hoạch phục vụ phát triển bền

vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, như phê duyệt điều chỉnh, bổ sung một

số cơ chế, chính sách thuộc chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng

ngập lũ giai đoạn 2018 - 2020 để đầu tư xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân cư, đắp

bờ bao khu dân cư có sẵn cho 8 tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Long An,

Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ. Theo đó, các Bộ, ngành

theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền đã rà soát, xây dựng, ban hành các cơ chế

phát triển bền vững ĐBSCL như đánh giá, xây dựng cơ chế chính sách ưu tiên khuyến

khích tư nhân đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu vùng giai đoạn

2016 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2025. Hiện nay các Bộ, ngành đang nghiên cứu xây

dựng và sẽ tiếp tục ban hành một số cơ chế, chính sách về Chương trình tổng thể phát

triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn

mới; cơ chế chính sách tập trung, tích tụ đất đai phục vụ sản xuất quy mô lớn; chính

sách quản lý tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường; Nghị định

của Chính phủ về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào

dân tộc thiểu số nghèo vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những thông tin về nghị

quyết, đề án về thích ứng biến đổi khí hậu được tuyên truyền rộng rãi trên các phương

137

tiện truyền thông như báo điện tử, báo giấy, đài truyền hình, đài phát thanh. Kiểm

chứng thực tế khi hỏi về những thông tin về biến đổi khí hậu trong tình hình mới

người dân được biết từ đâu thì đa phần người nông dân Khmer trả lời là được biết khi

nghe tuyên truyền từ đài phát thanh. Như khi phỏng vấn ông T.P tại ấp Bà Tây B, xã

Tập Sơn, huyện Trà Cú được ông trả lời:

Những thông tin về khí hậu, những kiến thức về môi trường gia đình ông

được biết khi nghe chương trình phát thanh từ radio hoặc được sự tuyên

truyền từ cán bộ nông nghiệp của xã. Ông còn cho biết gia đình ông thường

xuyên tham gia các lớp tập huấn về các giống lúa hoặc các giống hoa màu

thích ứng được với hạn mặn đang diễn ra ngày một nặng nề (Phụ lục 1, nhật

kí điền dã ở Trà Vinh).

Trước những diễn biến phức tạp của MTTN đang diễn ra, các Bộ, Ban ngành

của Việt Nam cũng có những chủ trương, đường lối nhằm giúp người dân nhận thức

và hành động cho phù hợp trong tình hình mới. Những nội dung này theo chúng tôi là

cần phải được tuyên truyền, phổ biến đến cộng đồng người Khmer ở ĐBSCL bởi họ là

những chủ thể đang chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những tác hại do BĐKH mang lại.

Việc tuyên truyền về tình hình biến đổi khí hậu này giúp người Khmer phần nào ý

thức được những biến động của môi trường đang diễn ra để họ vừa giữ gìn, bảo tồn giá

trị của MTTN.

4.3.1.2. Phổ biến kiến thức pháp luật về môi trường tự nhiên

Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật về môi trường diễn ra

phổ biến trên nhiều lĩnh vực. Tội phạm môi trường đã làm suy giảm nguồn tài nguyên

thiên nhiên, suy thoái môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe

cộng đồng và sự phát triển bền vững của đất nước.

Trước áp lực về tăng trưởng kinh tế, một số doanh nghiệp và cá nhân có phần

thờ ơ với việc bảo vệ MTTN. Tình trạng một số nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp

mọc lên ở các vùng thôn ngày một nhiều hơn. Những khu công nghiệp này phần nào

góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tuy

nhiên những mặt tác động tiêu cực với MTTN là một vấn đề đáng được lưu tâm. Một

số xí nghiệp không quan tâm đến kiểm soát nguồn nước thải và thản nhiên thải ra

sông, rạch gây ô nhiễm trầm trọng đến nguồn nước sạch của người dân.

Bên cạnh đó, ý thức của người dân làm nông nghiệp với môi trường cũng là

vấn đề cần được tuyên truyền giáo dục ý thức. Một số người làm nông không ý thức

138

được việc thải các chai thuốc trừ sâu, bao bì phân bón hoá học ra môi trường sẽ gây

hại rất lớn đến bề mặt đất và nguồn nước. Khi điền dã tại các vùng nông thôn, chúng

tôi dễ dàng bắt gặp các chai nhựa đựng thuốc trừ sâu đã sử dụng xong được vứt ra

đồng ruộng. Điều này không chỉ nguy hại cho MTTN mà ảnh hưởng trực tiếp đến

sức khoẻ của con người.

Tại Việt Nam, luật Bảo vệ môi trường (BVMT) được Quốc hội thông qua vào

năm 2014. Luật này quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp

và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ

chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. BVMT là trách nhiệm và nghĩa

vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Tại điều 7 của luật BVMT có quy

định rõ về những hành vi bị nghiêm cấm như: phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài

nguyên thiên nhiên; Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ,

phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật;

Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục

loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy

định; Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; Che

giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động BVMT, làm sai lệch thông tin dẫn

đến gây hậu quả xấu đối với môi trường (Luật Bảo vệ Môi trường).

Qua quá trình nghiên cứu thực tế từ địa bàn, chúng tôi nhận thấy việc tuyên

truyền kiến thức pháp luật và kiến thức về biến đổi khí hậu không nên chỉ tuyên truyền

theo đợt. Ví dụ như vào các ngày liên quan đến môi trường như ngày 22 tháng 3 hàng

năm là ngày Nước thế giới; ngày 22/4 là ngày Trái Đất có rất nhiều băng rôn, khẩu

hiệu được tuyên truyền để tác động đến ý thức người dân. Để hưởng ứng các ngày kỉ

niệm này, các tỉnh ở ĐBSCL còn tổ chức các hoạt động như tuần lễ hưởng ứng nước

sạch, các hoạt động nhằm hướng ứng giờ Trái Đất .v.v. Các hoạt động này đang có tác

dụng tích cực là tác động tốt đến ý thức của người dân về giá trị của MTTN. Tuy

nhiên, những hoạt động hay khẩu hiệu chỉ đang được thực hiện theo thành đợt hoặc chỉ

gần đến những ngày môi trường mới được thực hiện chứ chưa được diễn ra một cách

thường xuyên. Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo sự phát triển bền vững của vùng

ĐBSCL, ý thức người dân ngày một nâng cao thì các hoạt động này nên được diễn ra

thường xuyên hơn bằng các cách như:

Thứ nhất: Cần phải gia tăng tần suất tuyên truyền. Việc tuyên truyền không nên

thực hiện theo đợt trong năm mà phải được thực hiện xuyên suốt bằng mọi phương

139

cách khác nhau.

Thứ hai: Các kênh tuyên truyền cần phải đến từng người dân. Ngoài cách tuyên

truyền hiện nay qua truyền hình, truyền thanh cần phải tăng thêm phương tiện như

tăng thêm các phần mềm (app) trên điện thoại như các phần mềm dự báo các chỉ số

biến động của môi trường nước, môi trường đất, khí hậu. Bởi vì, hiện nay một bộ phận

lớn người dân đều sở hữu điện thoại thông minh nên việc gia tăng phần mềm này

khiến người dân dễ dàng nắm bắt thông tin.

Thứ ba: Cần phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ địa phương. Hiện nay, công tác tập

huấn tuyên truyền, sâu rộng đến từng hộ dân người Khmer chính là đội ngũ cán bộ địa

phương. Tuy nhiên, một số cán bộ còn hạn chế trong giao tiếp ngôn ngữ, không biết

tiếng Khmer dẫn đến việc tuyên truyền dù có được diễn ra nhưng vẫn không hiệu quả.

Thứ tư: Việc tuyên truyền thông tin phải được phối hợp chặt chẽ và sâu rộng từ

nhà trường, gia đình và xã hội. Nhà trường phải thường xuyên có những hoạt động để

phổ biến kiến thức cho học sinh. Việc bảo vệ MTTN có bền vững hay không là đến từ

học sinh. Các em học sinh được giáo dục ý thức từ nhỏ khi lớn lên sẽ giữ gìn và bảo vệ

MTTN một cách tốt nhất. Ngoài ra, chương trình phổ thông địa phương cần gia tăng

những nội dung ngoại khoá về giáo dục môi trường để các em hiểu rõ và có ý thức

nhằm bảo vệ tài nguyên mang tính lâu dài và bền vững.

4.3.2. Phát huy hơn nữa vai trò của chức sắc và những trí thức có uy tín

trong cộng đồng Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long

Trong ứng xử với MTTN, người Khmer không chỉ tồn tại cách ứng xử thích

nghi mà còn tồn tại cách ứng xử bảo tồn giá trị tự nhiên. Dựa vào niềm tin tâm linh

trong tín ngưỡng, tôn giáo, người Khmer đã phát huy chức năng giáo dục trong đời

sống văn hoá giúp cho việc bảo tồn giá trị tự nhiên rất tốt. Người Khmer đa phần theo

Phật giáo Nam Tông và từ góc nhìn sinh thái học Phật giáo ta thấy có những quy định

của tôn giáo giúp cho việc giữ gìn tài nguyên thiên nhiên trong đó có bảo vệ tài

nguyên đất. Với niềm tin tôn giáo, niềm tin vào thế lực siêu nhiên, người Khmer quan

niệm rằng đất đai của nhà chùa là nơi linh thiêng vì thế người Khmer kiêng kị làm tổn

hại hoặc lấn chiếm đến những phần đất này.

Với niềm tin tôn giáo này, vấn đề tuyên truyền ý thức tôn trọng MTTN sẽ được

phát huy mạnh hơn nữa khi những nội dung về bảo vệ môi trường được tuyên truyền bởi

sư sãi, các vị chức sắc hoặc những trí thức có uy tín trong cộng đồng Khmer. Trong

phong tục Khmer, ngoài các ngày lễ lớn được sinh hoạt tại chùa, vào một số ngày

140

trong tháng như ngày mùng 1, mùng 8, ngày 15 và ngày 23 họ cũng sẽ đến chùa để

sinh hoạt tôn giáo. Ngày nay, việc giữ gìn tập tục sinh hoạt hàng tháng tại chùa chỉ còn

các cụ già duy trì bởi họ không còn làm những công việc để sinh kế mà hầu như chỉ lo

tập trung cho nhu cầu sinh hoạt tâm linh tôn giáo của mình.

Tại các buổi lễ này, ngoài sinh hoạt tôn giáo theo tín ngưỡng, phong tục các vị

sư sãi, chức sắc thường đưa các vấn đề liên quan đến xã hội để sinh hoạt cho bà con

Phật tử, trong đó có vấn đề về giữ gìn môi trường chung. Người Khmer rất tôn trọng

các vị sư sãi, chức sắc, vì thế họ luôn thực hiện tốt những việc nhà chùa khuyên bảo và

từ đó họ có ý thức sử dụng đúng mục đích nguồn tài nguyên của gia đình, địa phương.

Đây là việc làm ý nghĩa và có hiệu quả khá cao. Chúng tôi nhận thấy các nội dung về

xã hội cụ thể là phổ biến pháp luật về môi trường, kiến thức về biến đổi khí hậu lồng

ghép vào các buổi sinh hoạt tôn giáo để từng người Khmer có thể nhận thức sâu sắc

tầm quan trọng của bảo vệ môi trường tự nhiên cần phát huy hơn nữa. MTTN, tài

nguyên thiên nhiên là của chung nên việc bảo vệ môi trường, thích nghi với những

biến động của môi trường trong tình hình mới là việc cấp thiết và cũng là việc chung

của nhân loại. Mỗi cá nhân ý thức và hành động mới có thể đảm bảo môi trường sống

bền vững cho hiện tại và tương lai.

Bên cạnh vai trò của sư sãi, chức sắc ở chùa, vai trò của các Achar cũng rất

quan trọng trong việc hướng dẫn, giúp đỡ bà con người Khmer trong việc nhận thức

giá trị của MTTN và ý thức giữ gìn MTTN. Trong hầu hết các tín ngưỡng, phong tục,

nghi lễ vòng đời của người Khmer đều có sự đóng góp vô cùng quan trọng của các

Achar. Achar thường là những đã từng có thời gian đi tu, có uy tín, có sự am hiểu nhất

định về phong tục, tập quán của dân tộc nên thường được cộng đồng người Khmer tin

tưởng. Qua quan sát thực tế tại các cộng đồng người Khmer chúng tôi nhận thấy rằng

ở một số nơi ở Trà Vinh, Achar ngoài là người hướng dẫn các tập tục sinh hoạt còn là

người truyền kinh nghiệm cho cộng đồng các kĩ thuật nuôi trồng trong nông nghiệp.

Các kĩ thuật chăm sóc cây trồng, chăm sóc gia súc, gia cầm hay các kinh nghiệm dùng

phân bón cũng được người Khmer tin tưởng và học tập theo kinh nghiệm của các

Achar. Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng, vài trò của Achar đã rất được người Khmer

tin tưởng cho nên cần phải phát huy hơn nữa vai trò của các Achar trong việc tuyên

tuyền, giáo dục ý thức đồng bào Khmer trong việc giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên

nhiên và MTTN trước những thách thức của biến đổi khí hậu hiện nay. Mặc dù có các

141

phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài nhưng không phải người Khmer nào

cũng có điều kiện tiếp xúc. Một số người Khmer lớn tuổi họ ít khi có điều kiện nghe

đài hay đọc báo nên chúng tôi thiết nghĩ, vai trò Achar sẽ phát huy tốt trong công tác

142

giáo dục ý thức giữ gìn tài nguyên cho đồng bào.

Tiểu kết chương 4

Tận dụng, thích nghi và đối phó với môi trường tự nhiên là một quá trình tất yếu

diễn ra trong quá trình tương tác với môi trường để tạo ra cái ăn, mặc của bất kì một tộc

người nào trên thế giới. Người Khmer ở ĐBSCL cũng vậy, từ trong lịch sử cư trú, canh

tác họ đã có bề dày lịch sử, cùng với các tộc người khác họ đã cùng nhau cải tạo tự

nhiên, cùng chung sống với những thuận lợi cũng như những khắt nghiệt của tự nhiên.

ĐBSCL hôm nay còn đối mặt với rất nhiều những thiên tai từ hạn hán, ngập lụt, đất và

nước nhiễm mặn, nhiễm phèn dẫn đến ảnh hưởng nặng nề đến vật nuôi, cây trồng và cả

cư dân nơi đây. Hơn nữa, những thiên tai, khắc nghiệt đó hiện nay đang gia tăng bởi

những thách thức của biến đổi khí hậu mà vùng ĐBSCL là một trong các nước ảnh

hưởng nặng nề nhất trên thế giới. Chưa dừng lại ở đó, sự xói mòn, lấn chiếm của biển

hàng năm mỗi gia tăng và có cả những dự báo chỉ trong vài mươi năm nữa vùng đồng

bằng này sẽ chìm trong biển nước. Đó không chỉ là những dự báo suông mà đã được dự

báo trong kịch bản của Cục biến đổi khí hậu quốc gia công bố.

Trong chương 4, ngoài những đánh giá, phân tích nguyên nhân dẫn đến những

biến đổi trong văn hoá ứng xử với MTTN chúng tôi phân tích những biến đổi cụ thể

của người Khmer trong ứng xử với đất, nước, cây trồng, vật nuôi và thời tiết.

Trong ứng xử với đất ở, người Khmer không còn tồn tại cách lựa chọn nơi cư

trú như những ngày đầu. Họ ở và canh tác trên những phần đất mà cha mẹ để lại và

vẫn tận dụng đất để khai thác trong sản xuất, vẫn có những tín ngưỡng liên quan đến

đất. Trong ứng xử với nước, họ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước tự nhiên

do có chương trình hỗ trợ nước sạch cho đồng bào dân tộc thiểu số như chương trình

134. Người Khmer hiện nay không còn cần khai thác nước ngầm bằng cách đào giếng

mà có thể dùng máy khoan, máy bơm để lấy nước tưới tiêu.

Trong ứng xử với thực vật, động vật người Khmer ở ĐBSCL cũng có sự biến

đổi nhất định trong cách chăm sóc cây trồng vật nuôi. Trong văn hoá vật chất, họ vẫn

tận dụng các loại thực vật, động vật cho đời sống sinh hoạt tuy nhiên, trước những

thay đổi của MTTN hiện nay, cách chăm sóc cây trồng, vật nuôi cũng có những biến

đổi nhất định. Đối với thực vật, người Khmer biết cách chăm sóc thực vật bằng cách

kết hợp kinh nghiệm dân gian với kĩ thuật khoa học. Từ cách chỉ sử dụng phân bón

143

hữu cơ, cách đốt rơm, rạ để làm phân bón cho đồng ruộng họ biết cách sử dụng các

loại phân bón vô cơ. Ngoài ra, cách chăm sóc cây trồng, chọn giống cây trồng của

người Khmer còn được sự hỗ trợ kĩ thuật của các cán bộ nông nghiệp của địa phương.

Đối với động vật, từ cách chăn nuôi gia súc, gia cầm theo kiểu làm kinh tế gia đình thì

bây giờ người Khmer ở một số địa phương đã chăn nuôi trang trại, nuôi trồng thuỷ hải

sản theo phương pháp công nghiệp.

Theo chúng tôi nhận diện, hiện nay, được sự hỗ trợ, tuyên truyền từ các cán bộ

địa phương và từ các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, radio, phát

thanh và cả tin tức online bằng cách truy cập từ điện thoại di động thông minh thì hầu

như không một người Khmer nào không biết đến những thách thức từ biến đổi khí hậu.

Những người Khmer làm nông nghiệp, hơn ai hết họ đã, đang chịu những tác động lớn

từ môi trường là hạn hán, đất nhiễm phèn, nhiễm mặn, cây cối không đạt năng suất,

tình hình sâu rầy tấn công do thời tiết thay đổi… Như vậy, chính họ là những người

chịu ảnh hưởng trực tiếp nên hiểu rất rõ về tình hình và có những thích ứng thích hợp

với môi trường. Họ đã chủ động thay đổi phương thức sinh kế, chuyển từ sinh kế nước

ngọt sang sinh kế nước mặn. Thay vì như trước đây, họ trồng lúa và xen canh hoa màu

thì giờ đây nhiều vùng chuyển sang nuôi tôm sú, tôm thẻ để thích ứng với những thay

đổi của môi trường nước, môi trường đất.

Chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng là một trong những cách thích ứng với

biến đổi khí hậu của một số người Khmer tuy vẫn còn một bộ phận người Khmer giữ

lại thói quen canh tác cũ. Tập quán kinh tế của một tộc người là cả một quá trình, khó

có thể thay đổi ngay trong thời gian ngắn. Nếu như xưa kia họ chỉ dựa vào những kinh

nghiệm dân gian để chăm sóc cây lúa, ngọn rau thì giờ đây họ biết cập nhật các

phương pháp chăm sóc cây trồng hiện đại. Họ thường xuyên đến những lớp tập huấn

của kĩ sư địa phương để nghe giới thiệu về giống lúa mới, phương pháp trừ sâu mới,

các loại phân bón hoá học mới. Một điều đáng chú ý trong cách ứng xử với kiến thức

mới trong chăm sóc cây trồng của người Khmer ĐBSCL là họ kết hợp cả kinh nghiệm

truyền thống với kiến thức hiện đại. Chẳng hạn như, họ biết kết hợp giữa bón phân hoá

học vô cơ với các loại phân hữu cơ trong cùng một vụ mùa.

Văn hoá ứng xử với MTTN của người Khmer ở ĐBSCL hiện nay so với trong

truyền thống có những biến đổi nhất định. Sự biến đổi trong ứng xử này là phù hợp

144

quy luật và để thích nghi với tình hình kinh tế, diễn biến của BĐKH. Những thay đổi

trong ứng xử với MMTN của người Khmer trong giai đoạn ban đầu không tránh khỏi

những bỡ ngỡ và lung túng. Điều này đòi hỏi phải có những sự định hướng, tuyên

truyền, giáo dục được diễn ra thường xuyên để người Khmer nhận thức, ứng xử phù

hợp với diễn biến của BĐKH và đúng với luật tài nguyên môi trường đồng thời đảm

145

bảo MTTN ở ĐBSCL được ổn định và bền vững.

KẾT LUẬN

Môi trường tự nhiên vùng ĐBSCL vừa mang nét chung với tự nhiên của cả

nước vừa có những nét riêng mang đậm dấu ấn vùng miền. Nét chung là cùng có khí

hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa và nét riêng là có phân chia hai mùa mưa và khô

phân biệt khá rõ rệt. ĐBSCL thoạt nhìn là vùng đất đai màu mỡ bởi được bồi đắp

phù sa từ hai con sông Tiền và sông Hậu tuy nhiên, ĐBSCL còn có rất nhiều sự

thách thức về MTTN. ĐBSCL là vùng vừa “thiếu nước” vừa “dư nước”. Tình trạng dư

nước diễn ra từ tháng tháng 5, tháng 6 đến tháng 11 thường gây ra lũ lụt. Đó là khi

nước từ thượng nguồn Mekong đổ về cùng với lượng nước mưa tự nhiên gây ra tình

trạng ngập úng đồng ruộng, thiệt hại đến đời sống kinh tế của cư dân đồng bằng. Khi

những tháng mưa lũ qua đi sẽ đến thời điểm khô hạn. Vấn đề khô nạn là một vấn nạn

lớn ở ĐBSCL khi mùa khô kéo dài, làm nứt nẻ đồng ruộng, thiếu nước ngọt cho sinh

hoạt, nước nhiễm phèn và nhiễm mặn. Đây là vùng đất có hệ thống kênh đào và kênh

rạch tự nhiên phong phú, thuận lợi cho các loài thực vật phát triển, các loài thuỷ hải

sản sinh sôi nhưng việc quá dư nước hoặc thiếu nước trong một số thời điểm trong

năm cũng gây khó khăn không ít cho đời sống của người dân. ĐBSCL tuy đất đai có

màu mỡ, cây lúa và các loại hoa màu dễ sinh trưởng nhưng để có cái ăn người nông

dân cũng phải đối phó với nạn cỏ dại, các loài sâu, chuột phá hoại đồng ruộng. Ông

cha ta khi đến khai hoang, sinh sống tại đây đã không hề dễ dàng thích nghi để có thể

tồn tại. Có một đồng bằng phát triển, trở thành một đồng bằng có số lượng xuất khẩu

nông sản, thuỷ sản cao nhất cả nước con người vùng Cửu Long đã vô cùng vất vả để

thích nghi và cải tạo tự nhiên để có thể tạo dựng một vùng đồng bằng như hiện nay.

Người Khmer là tộc người cư trú khá sớm ở ĐBSCL. Để thích nghi với môi

sinh, khí hậu thời tiết, họ đã chọn cư trú trên những giồng cao để tránh nước ngập vào

mùa mưa. Đất giồng là loại đất vừa cao cáo, tránh nước lũ nhưng lại vừa thoát nước

nên người Khmer có thể làm nông nghiệp bằng cách làm ruộng rẫy. Người Khmer là

tộc người có đời sống văn hoá phong phú, họ trân trọng tự nhiên, có niềm tín và tín

ngưỡng vào các vị thần tự nhiên.

Từ những điều kiện của MTTN ở ĐBSCL, trong quá trình thích nghi và đối

phó với thời tiết, nước, đất, động thực vật để tạo ra các giá trị trong văn hoá cư trú, văn

hoá ẩm thực, văn hoá trang phục của mình. Ở nội dung chương 2 và chương 3 của luận

146

án, chúng tôi đã trình bày, phân tích về văn hoá ứng xử với đất, nước, thời tiết, động

thực vật của người Khmer dưới dạng thích nghi để tạo ra các giá trị vật chất. Đối với

yếu tố nước và đất người Khmer có thái độ trân quý và xem nước vừa là một dạng vật

chất mang đến nguồn sống cho con người vừa là một dạng giá trị văn hoá tinh thần

mang đến niềm tin và sự ngưỡng vọng. Đối với yếu tố động thực vật, người Khmer

xem các yếu tố này là các dạng vật chất gần gũi với sự sống con người. Các yếu tố

thực vật gần nhất với người Khmer được chúng tôi phân tích trong chương 3 là cây

lúa, cây chuối, hoa cau, thốt nốt .v.v... Bên cạnh đó, chúng tôi còn phân tích các yếu tố

vật chất động vật gần gũi trong văn hoá Khmer là các con vật nuôi như trâu, bò, v.v...

Các yếu tố vật chất được phân tích và lý giải trên cơ sở dựa vào lý thuyết sinh thái học

văn hoá của Julian Steward cho rằng trong quá trình sinh tồn của mình, con người phụ

thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Điều này đúng khi áp dụng khi nghiên cứu tộc người

Khmer ở ĐBSCL trong giai đoạn đầu thích nghi với MTTN ở đây khi khoa học kĩ

thuật cao, con người tương đối một phần nào chinh phục tự nhiên.

Thông qua phương diện văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần của người Khmer

cũng thể hiện tâm thức ứng xử với tự nhiên của mình đó là những phong tục, lễ hội

mang dấu ấn của lòng tin, tín ngưỡng với các hiện tượng tự nhiên như mặt trăng, mặt

trời, nước, đất, gió. Người Khmer sinh sống cùng tự nhiên, tôn thờ, trân trọng tự nhiên

biểu hiện cụ thể là họ có những lễ hội cảm tạ, cầu xin tự nhiên như lễ cúng trăng, cúng

thần nước v.v… Thái độ ứng xử đó thể hiện được văn hoá trọng tự nhiên, hoà hợp với

tự nhiên của người Khmer. Không những thế, thái độ ứng xử với tự nhiên của người

Khmer không chỉ thích nghi với cái hiện hữu mà còn thể hiện được sự bảo tồn cho mai

sau. Với người Khmer, trân trọng một dòng nước, một cái cây là sự bảo tồn để con

cháu mai sau còn để sử dụng. Khi lý giải những hiện tượng lòng tin của người Khmer

đối với các vị thần tự nhiên, tôn các yếu tố tự nhiên thành các vị thần, vừa tôn kính,

vừa sợ hãi chúng tôi đã vận dụng lý thuyết chức năng của Malinowski. Malinowski

cho rằng trong cuộc sống bình thường, con người không quan tâm đến những nỗi

hoang mang hay lo sợ các thế lực siêu nhiên nhưng khi đứng trước sự thay đổi trạng

thái con người lại quan tâm và thậm chí cảm thấy hoang mang trước tính thiêng đó.

Người Khmer ở ĐBSCL cũng thế, khi đứng trước những thuận lợi của MTTN họ

không nghĩ tới những tính thiêng của hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên, khi đứng trước

những khó khăn, biến đổi của tự nhiên như hiện tượng khô hạn, thiếu nước hay hiện

147

tượng mưa nhiều gây ngập úng họ cũng có những nghi thức cầu cúng để cầu xin các

thế lực siêu nhiên từ MTTN. Đó chính là các nghi thức cầu mưa được người Khmer

thực hiện trong nghi thức cầu an tại các phum sóc hoặc các nghi thức liên quan đến

nước như ý nghĩa của những lễ hội nhằm tống tiễn nước, cầu cho nước rút để người

nông dân có thể làm nông nghiệp.

Trong bối cảnh hiện nay, MTTN vùng ĐBSCL đang đứng trước những thách

thức to lớn, đang trở thành vùng “nhạy cảm” trước những biến đổi của môi trường như

hiện tượng nước biển dâng, xâm nhập mặn, nhiễm phèn, và đặc biệt là sự cạn kiệt về

tài nguyên nước và sự thoái hoá của đất. Nếu như mùa nước lũ từ thượng nguồn Mê-

Kông có thể mang đến sự sợ hãi do sự nhấn chìm của nước làm mất đi mùa màng, vật

nuôi thì bây giờ mùa lũ chính là niềm “khát khao” của cư dân vùng đất này. Mùa lũ

thường đến trễ hơn, ngắn hơn làm giảm đáng kể trữ lượng phù sa cho đồng bằng và

lượng cá tôm mùa lũ là hầu như dần cạn kiệt. Thế nên, không còn những tự hào vùng

“đất đai trù phú”, “sản vật sẵn có” hay “dưới sông cá chốt, trên bờ triều châu” nữa mà

thay vào đó làm các cư dân ĐBSCL đã dần thay đổi ý thức. Họ sống thích nghi với

những cạn kiệt chứ không còn là những thích nghi với sự dư giả như xưa nữa. Trong

văn hoá ứng xử với MTTN, người Khmer cũng có nhiều thay đổi đáng kể để phù hợp

với môi sinh. Họ thay đổi dần những cách ứng xử mang tính kinh nghiệm dân gian, họ

biết kết hợp tri thức dân gian với tri thức khoa học. Sự chuyển đổi này không diễn ra

một ngày một bữa mà là cả một quá trình thích nghi và thay đổi. Người Khmer ý thức

rằng, những thay đổi của kĩ thuật hiện đại luôn có tính hai mặt và ít nhiều ảnh hưởng

đến sự sống còn của môi sinh như dễ phá huỷ môi trường, ảnh hưởng sức khoẻ con

người. Thế nên, họ đã ứng xử linh hoạt là tận dụng kinh nghiệm truyền thống kết hợp

với tri thức khoa học nhằm hướng đến lối sống cân bằng để vừa thích nghi vừa bảo tồn

148

MTTN.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật

1. Luật bảo vệ môi trường (Luật số: 55/2014/QH13) ngày 23/06/2014. 2. Luật du lịch (Luật số: 09/2017/QH14) ngày 19/6/2017. 3. Quyết định số 134/2004/QĐ-TTG ngày 20/07/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn.

4. Tổng cục thống kê, 2019.

Tài liệu tiếng Việt (sách, tạp chí, kỉ yếu)

1. So Ry A (1988), Lễ hội Khơ me Nam Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà

Nội.

2. A.A. Radughin (2004), Văn hóa học những bài giảng, Viện Văn hóa thông tin,

Hà Hội.

3. Lê Thuý An (2012), Nước (Tưk) trong văn hoá của người Khmer Tây Nam Bộ,

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.

4. Phan An (2009), "Óoc Om Boc, lễ nghi nông nghiệp của người Khmer Nam Bộ" in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy lễ hội Óoc Om Boc-đua ghe ngo Sóc Trăng.

5. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.

6. Phan An (2017), (tái bản có bổ sung), Người Việt Nam Bộ, Nhà xuất bản Hồng

Đức.

7. Đào Duy Anh (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội.

8. Trần Thuý Anh (2009), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt

Châu Thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, Nhà xuất bản Lao Động.

9. Alan Barnard (Dương Tuấn Anh, Đỗ Thị Thu Hà dịch) (2011), Lịch sử và lý

thuyết nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

10. Aurelio Peccei – Daisaku Ikeda (1993), Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỉ XXI,

149

Trương Chính – Đông Hà (dịch), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

11. Trần Văn Ánh (2011), "Văn hoá phum sóc trong đời sống tinh thần của người Khmer Nam Bộ." Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cộng đồng dân tộc Khmer trong quá trình phát triển hội nhập.

12. Lê Huy Bá (2003), Những vấn đề về đất phèn Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia, TP. HCM.

13. Lê Huy Bá (chủ biên), Lương Văn Việt, Nguyễn Xuân Hoàn (2017), Khô hạn, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long cơ sở lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.

14. Trần Lê Bảo (2005), Văn hoá sinh thái - nhân văn (giáo dục môi trường). Nhà

xuất bản Đại học Sư phạm.

15. Ban Đông Nam Á (1993), Tìm hiểu lịch sử - văn hoá Campuchia (tập 1), Nhà

xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

16. Barker Chris (2011), Nghiên cứu văn hoá lý thuyết và thực hành, Nhà xuất bản

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

17. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, Nhà xuất bản Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.

18. Trần Văn Bổn (1999), Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng sông Cửu

Long, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.

19. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ,

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.

20. Nguyễn Công Bình (2008), Đời sống xã hội vùng Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia, TP.HCM.

21. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân

đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

22. Bruhl Lévy (2008), Kinh nghiệm thần bí và các biểu tượng ở người nguyên thủy,

Nhà xuất bản Hà Nội.

23. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nhà xuất bản

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

25. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa con người với thiên nhiên, xã hội và thế

150

giới siêu nhiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường

thiên nhiên, Viện văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - thông tin, Hà Nội.

27. Bùi Thế Cường và Solvay Gerke (2013), Nước là nguồn chiến lược: Đồng bằng

sông Cửu Long, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.

28. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng (tuyển chọn từ

tài liệu sưu tầm điền dã), Nhà xuất bản TP. HCM.

29. Trần Dũng, Đặng Tấn Đức (2012), Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân

gian Trà Vinh, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin.

30. Phạm Đức Dương (2013), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nhà xuất bản Văn hoá-

Thông tin.

31. Phạm Đức Dương (2007), Có một vùng văn hóa sông Mekong, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội Hà Nội, Hà Nội.

32. Trịnh Hoài Đức (tái bản lần thứ 1 năm 2016), Gia Định Thành Thông Chí, Nhà

xuất bản Tổng hợp.

33. Mạc Đường (1991), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội.

34. Edward B. Tylor, Văn hoá nguyên thuỷ (2000), Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn

hoá nghệ thuật, Hà Nội.

35. Vũ Minh Giang (chủ biên) (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ, Nhà xuất bản Thế

giới, Hà Nội.

36. Grant Evant (2001), Bức khảm văn hóa Châu Á tiếp cận Nhân học, Nhà xuất bản

Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

37. H. Russel Bernard (2009), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học - tiếp

cận định tính và định lượng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP. HCM.

38. Nguyễn Thị Bích Hà (2014), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân

gian, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm.

39. Phạm Thị Phương Hạnh (2011), Văn hóa Khmer Nam Bộ nét đẹp trong bản sắc

văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

40. Phạm Công Hoan (2015), Ứng xử của người Dao đỏ ở Sapa trong cư trú, khai thác và bảo vệ rừng, nguồn nước, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

41. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Nhà xuất bản Quỳnh Lâm.

42. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người môi trường và văn hóa, Nhà xuất bản

151

Khoa học xã hội.

43. Phan Khánh (2001), Đồng bằng sông Cửu Long - lịch sử và lũ lụt, Nhà xuất bản

Nông nghiệp.

44. Khoa Nhân học (2014), Văn hóa, môi trường, lễ nghi và sức khỏe ở Việt Nam những cách tiếp cận nhân học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Ngô Thị Phương Lan (2019), Sinh kế và biến đổi văn hoá của người Khmer ở

huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM.

46. Ngô Thị Phương Lan (2017), Sinh kế tộc người trong bối cảnh Việt Nam đương

đại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM.

47. Ngô Thị Phương Lan (2014), Từ lúa sang tôm, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia,

Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Ngô Văn Lệ (2003), Một số vấn đề văn hóa tộc người ở Nam Bộ và Đông Nam

Á, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP. HCM.

49. Ngô Văn Lệ (2017), Nghiên cứu tộc người và văn hoá tộc người tiếp cận nhân

học phát triển, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP.HCM.

50. Ngô Văn Lệ, Huỳnh Ngọc Thu (2017), Tri thức bản địa của các tộc người thiểu

số tại chỗ ở Đắk Nông, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, TP.HCM.

51. Trần Hồng Liên (2004), Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội.

52. Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân

tộc – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

53. Huỳnh Lứa (chủ biên) (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Nhà xuất bản

TP.HCM.

54. L.Warms, R.Jon MC. Gee- Richard (2010) Lý thuyết nhân học- giới thiệu lịch sử, Đinh Hồng Phúc, Lê Sơn Phương Ngọc dịch, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa.

55. Nguyễn Thị Diệp Mai (2011), Tri thức dân gian về ứng xử với môi trường tự nhiên trong đời sống vật chất người Việt vùng U Minh Thượng, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học Xã hội.

56. Sơn Nam (1998), Đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Trẻ.

57. Sơn Nam (2007), Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa & Văn minh

152

miệt vườn, Nhà xuất bản Trẻ.

58. Sơn Nam (2005), Tìm hiểu đất Hậu Giang & Lịch sử đất An Giang, Nhà xuất

bản Trẻ.

59. Nguyễn Thị Kim Ngân (2015), Thiên nhiên với sắc thái văn hóa vùng trong ca dao trữ tình Trung Bộ (chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

60. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh (2016), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

61. Nhiều tác giả (2007), Văn hóa học – Những phương pháp nghiên cứu, Viện Văn

hoá – Thông tin, Hà Nội.

62. Nhiều tác giả (2015), Phật giáo vùng Mê – Kông: ý thức môi trường và toàn cầu

hóa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM.

63. Nhiều tác giả (2009), Tri thức bản địa và văn hoá sinh thái của các dân tộc người thiểu số ở Việt Nam về môi trường và bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.

64. Oppenheimer, Stephen (2005), Địa đàng ở Phương Đông, Lê Sỹ Giảng và Hoàng Thị Hà dịch, Nhà xuất bản Lao động - Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Đông Tây, Hà Nội.

65. Đặng Thị Ngọc Oanh, Nguyễn Thị Lan Anh, Đặng Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Dung (2015), Tri thức dân gian về nước của người Lào ở tỉnh Điện Biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

66. Đặng Thị Oanh (2016), Biểu tượng nước từ văn hoá đến văn học dân gian Thái,

Nhà xuất bản Sân khấu.

67. Trần Thanh Pôn (2014), “Truyền thống giáo dục Phật giáo Nam Tông Khmer với môi trường sinh thái và bản sắc văn hóa dân tộc”, in trong Nhân học & Cuộc sống (tập 1), Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP.HCM.

68. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng đồng bằng sông Cửu

Long, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

69. Tế Quần (Thích Nhuận Đạt dịch) (2010), Đạo Phật và môi trường, Nhà xuất bản

Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.

70. Radughin, A.A (2004), Văn hóa học những bài giảng, Viện Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

71. Ruth Benedict (2018), Các mô thức văn hoá, Phạm Lan Quân dịch, Nhà xuất

153

bản Tri thức.

72. Vương Hồng Sển (2012), Di cảo Ăn cơm mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang, Ba

Thắc, Nhà xuất bản Trẻ.

73. Mai Thanh Sơn, Võ Mai Phương (2011), Chính sách đất đai & văn hóa tộc

người – nghiên cứu trường hợp tại Sóc Trăng, Nhà xuất bản Thế giới.

74. Tô Ngọc Thanh (2006), “Nước trong văn hóa Việt Nam”, trong Ghi chép về văn

hóa và âm nhạc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

75. Lê Bá Thảo (1986), Địa lý đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Đồng Tháp.

76. Lê Bá Thảo (2009), Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo Dục.

77. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2013), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nhà

xuất bản Văn hóa – Văn nghệ.

78. Trần Ngọc Thêm (2006), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hoá tổng

hợp.

79. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng, Nhà

xuất bản Văn hóa - Văn nghệ.

80. Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng

hợp TP.HCM.

81. Võ Thị Thu Thuỷ (2013), Văn hoá ứng xử với thiên nhiên qua không gian ở của người Việt, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc Gia TP. HCM.

82. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương phê

bình sinh thái, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

83. Tỉnh Ủy Tỉnh Trà Vinh (1995), Lịch sử Tỉnh Trà Vinh, Nhà xuất bản Ban Tư

tưởng Tỉnh ủy Trà Vinh.

84. Tỉnh uỷ Trà Vinh Chỉ thị số 07 (ngày 22-3-2016) Về việc tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp cấp bách ứng phó với khô hạn, xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

85. Tỉnh uỷ Trà Vinh Kết quả 03 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa XI), Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

86. Tỉnh uỷ Trà Vinh Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Chỉ thị 68 của Ban Bí thư (khóa VI) Về công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer của Tỉnh ủy Trà Vinh ngày 10 tháng 8 năm 2011.

87. Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer tỉnh Cửu Long, Nhà xuất bản Văn hóa

154

Thông tin.

88. Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Truyện dân gian Khơme Nam Bộ, Nhà xuất bản

Đồng Nai.

89. Tiền Văn Triệu (2011), Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng, Nhà xuất bản

Phương Đông.

90. Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer

Nam Bộ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

91. Phan Thị Yến Tuyết (2014), Đời sống xã hội – kinh tế văn hóa của ngư dân và

cư dân vùng biển Nam Bộ, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, TP. HCM.

92. Phan Thị Yến Tuyết (2006), “Tâm thức ứng xử với nước của người Khmer qua lễ hội Ok Angbok – Tiếp cận sinh thái văn hóa” in trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Bảo tồn và phát huy lễ hội Óoc Om Boc – Đua ghe ngo Sóc Trăng.

93. Phan Thị Yến Tuyết (1993), Nhà ở - trang phục - ăn uống của các dân tộc vùng

đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

94. Uỷ ban Nhân dân tỉnh An Giang (2013), Địa chí An Giang, Ban Tuyên giáo

Tỉnh Uỷ An Giang.

95. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng (2012), Địa chí tỉnh Sóc Trăng, Nhà xuất bản

Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

96. Trịnh Hiểu Vân (2008), Văn hóa nước, Nguyễn Minh Đức dịch, Nhà xuất bản

Thế giới.

97. Hồ Sĩ Vịnh (2006), Về bản lĩnh văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia.

98. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường con người & Văn hóa, Nhà xuất bản Văn

hóa – Thông tin & Viện văn hóa, Hà Nội.

99. Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường (2010), Biến đổi khí hậu và

tác động ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Kĩ thuật.

100.

Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường (2011), Tài liệu hướng dẫn - Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng, Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.

101. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2011), Văn hoá học và văn hoá thế kỉ

XX, Nhà xuất bản Thông tin Khoa học Xã hội – Chuyên đề, Hà Nội.

102. Viện Văn hoá (1993), Văn hoá người Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu

Long, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

103. Viện Văn Hóa (1998), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ,

155

Nhà xuất bản Tổng hợp Hậu Giang.

Tài liệu tiếng nước ngoài

Tiếng Anh

1. Hutchthausen, Peter A., (1996), Echoes of the Mekong River Delta, Viet Nam,

Nautical & Aviation Publishing Company of America.

2. Ohashi Hisatoshi & Mikami Naomitsu (2008), Khmer people in Southern

Vietnam, Keio University Press.

3. Milton Osborne (2006), Turbulent past, uncertain future, CMO Image Printing

Enterprise.

4. R. Buckminster Fuller (1997), Naga cultural origin in Siam and the West

Paacific Sumet Jumsai, Chalermnit Press and DD Books. Tiếng Khmer

5. MicPuna (2003), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី

ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ១” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 1), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.

6. MicPuna (2008), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី

ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ២” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 2), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.

7. MicPuna (2008), “ក្្ម្ង្ឯក្សារសី

ត ពី្បពពណ្ីនិង្ទំននៀម្ទំម្លា ប់ ខែ្ម រភាគ៣” (Tài liệu về Phong tục tập quán truyền thống của người Khmer) hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu Dân tộc học và Nhân chủng học (Tập 3), Nhà xuất bản Phật giáo Campuchia.

Tài liệu điện tử

1. Nguyễn Khắc Cảnh (2008), Chùa Khmer Nam Bộ công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, http://www.vanhoahoc.vn, http://www.vanhoahoc.vn/nghien- cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-nam-bo/658-nguyen-khac-canh-chua-khmer- nam-bo-cong-trinh-nghe-thuat-kien-truc-doc-dao.html.

2. Hứa Sa Ni (2005), Nước trong thức tâm

người Khmer, http://bandantoc.hochiminhcity.gov.vn,http://bandantoc.hochiminhcity.gov.vn/v /xulFWNZZp2uV/content/nuoc-trong- an-hoa-cac-dan-toc/-/asset_publisher tam-thuc-cua-nguoi-khmer/pop_up?_ 101_INSTANCE_xulFWNZZp2uV_viewMode=print.

3. Wikipedia, “Mekong” (2008).

http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%AA_K%C3%B4ng.

156

4. P. Wesley Schultz (2002), Environmental attitudes and Behaviors across cultures” (Thái độ và hành vi môi trường trên khắp các nền văn hoá),

[https://scholarworks.gvsu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1070&context=orpc ]

5. Phạm Đức Dương (2002), Con người và môi trường từ góc nhìn văn hoá, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-ung-xu-voi- moi-truong-tu-nhien/2949-pham-duc-duong-con-nguoi-va-moi-truong-tu-goc- nhin-van-hoa-hoc.html.

157

6. Phan Anh Tú (2017), Sinh kế trồng cây của người Khmer ở xã Ngọc Biên, huyện Trà Cú, tình Trà Vinh”, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa- viet-nam/van-hoa-nam-bo/3168-phan-anh-tu-sinh-ke-trong-cay-cua-nguoi- khmer-o-xa-ngoc-bien-tra-vinh.html.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

Năm STT Tên công trình Tên tạp chí công bố

Yếu tố nước trong lễ hội Chôl-

của người Tạp chí Đại học Sài Gòn 30 (55) 1. 2017 Chnăm- Thmây Khmer Trà Vinh- tiếp cận lý tháng 7/ 2017.

thuyết văn hoá sinh thái

In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa

Tri thức bản địa của người học quốc gia Văn hoá các dân tộc

2. Khmer Tây Nam Bộ trong phát 7 2018 thiểu số tại chỗ vùng Tây Nam Bộ

triển bền vững (chỉ số ISBN), Nhà xuất bản

KHXH.

Những biến đổi trong văn hoá Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật ISSN

1

3. 2020 0866-8655, số 430 tháng 4-2020, ứng xử với môi trường tự nhiên 1 của người Khmer ở đồng bằng trang 43-46 sông Cửu Long

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: NHẬT KÍ ĐIỀN DÃ

Trước khi thực hiện công việc điền dã, bao gồm quan sát tham dự và phỏng vấn

sâu, chúng tôi đã thiết kế những câu hỏi như sau:

1. Xin ông / bà cho biết họ tên, tuổi, nghề nghiệp và địa chỉ cư trú?

2. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với đất

(đất ở và đất nông nghiệp)?

3. Theo ông / bà những có những kiêng kị hay những nghi thức nào trong việc

chọn đất làm nhà xưa và nay?

4. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với nước

(nước sinh hoạt và nước dùng trong nông nghiệp)?

5. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với thời

tiết (nắng, mưa) trong làm nông nghiệp và trong sinh hoạt?

6. Xin ông / bà cho biết những kinh nghiệm xưa và nay trong ứng xử với động

vật, thực vật?

7. Ông / bà có bao giờ được nghe / biết đến BĐKH? Ông / bà biết được qua các

kênh thông tin nào?

8. Theo ông / bà những biến đổi MTTN/ BĐKH ảnh hưởng như thế nào đến

năng suất cây trồng, kinh tế của gia đình?

Tuy nhiên, khi gặp trực tiếp và sống trong cộng đồng của người Khmer, do đặc

điểm văn hóa, giao tiếp của người Khmer tại các điểm nghiên cứu mà chúng tôi đã

chọn tại An Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng chúng tôi không thể đặt câu hỏi theo cấu

trúc mà phải phỏng vấn phi cấu trúc nhưng vẫn dựa trên các thông tin đã được định

hướng để tìm hiểu. Quá trình phỏng vấn có thể không liên tục, kéo dài nhiều ngày và

có những điểm phải đến nhiều lần. Lý do phải đến khảo sát và phỏng vấn lại vì khi đến

đôi khi vụ mùa đã kết thúc hoặc đã thu hoạch xong. Chúng tôi dựa vào quan sát tham

dự và tìm hiểu thông tin từ những chia sẻ đời thường khi tiếp xúc với họ trong mỗi lần

điền dã.

Sinh ra và lớn lên tại Trà Vinh nên từ nhỏ tôi đã có điều kiện tiếp xúc với văn

hoá Khmer từ ngôn ngữ đến thói quen ứng xử của người Khmer Trà Vinh. Tuy nhiên,

2

khi nghiên cứu về người Khmer từ năm 2009, tôi đã bắt đầu đến nhiều phum, sóc của

người Khmer cư trú và bắt đầu quan sát dưới góc nhìn văn hoá học. Từ năm 2009, tôi

đã có điều kiện khảo sát, tham dự nhiều lần tại phum, sóc của người Khmer ở huyện

Trà Cú, huyện Duyên Hải (nay là Thị xã Duyên Hải), tỉnh Trà Vinh.

Quá trình tiếp xúc và nghiên cứu về người Khmer không đứt gãy trong quá

trình nghiên cứu mà được liên tục từ năm 2009 đến nay. Để thực hiện luận án, tôi

không chỉ quan sát tham dự trong cộng đồng Khmer cư trú đất giồng ven biển ở Trà

Cú (Trà Vinh) mà mở rộng điểm nghiên cứu người Khmer cư trú ở vùng núi Tri Tôn

(An Giang); người Khmer cư trú vùng biển Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Các chuyến điền

dã ở Tri Tôn được thực hiện một lần; chuyến điền dã ở Vĩnh Châu được thực hiện hai

lần; điền dã ở Trà Cú được thực hiện nhiều lẫn mỗi khi có điều kiện là tôi đến nhà các

thông tín viên.

Điền dã tại Trà Vinh

Quá trình điền dã tại Trà Vinh được thực hiện nhiều lần từ năm 2009 đến nay.

Bắt đầu từ năm 2009 khi thực hiện luận văn với đề tài “Nước trong văn hoá của người

Khmer Tây Nam Bộ”, chúng tôi đã thực hiện điền dã nhiều lần ở các huyện trong tỉnh

Trà Vinh như huyện Duyên Hải, huyện Trà Cú, huyện Châu Thành và nhiều nhất là

thành phố Trà Vinh. Hàng năm, khi có các dịp lễ, tết của đồng bào Khmer, chúng tôi

đến quan sát, tham dự và ghi nhận về ứng xử trong văn hoá cộng đồng của đồng bào.

Qua các đợt quan sát, chúng tôi có kết hợp phỏng vấn, tham dự các trò diễn như là

người trong cuộc. Các lễ hội, lễ tết của đồng bào mà chúng tôi từng tham gia như:

Chôl- Chnăm- Thmây; Sen Đôn - ta; Ok - Om - Bok. Ngoài ra, chúng tôi còn quan sát

cách sinh kế của đồng bào trong các hoạt động thường nhật: cách trồng lúa, trồng hoa

màu, cách tận dụng các loại hoa màu trong ăn uống, sinh kế…

Trong quá trình thực hiện luận án từ năm 2014 đến nay, chúng tôi liên tục có

những đợt quan sát tham dự tại điểm được chọn nghiên cứu tập trung là huyện Trà Cú.

Tại đây, chúng tôi chọn ấp Bà Tây B, xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh làm

điểm nghiên cứu.

Tại ấp Bà Tây B xã Tập Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, chúng tôi có một

thông tín viên là gia đình ông T.Đ (43 tuổi). Được sự giới thiệu của em T.T.N (con gái

ông T.Đ) đến điền dã tại Trà Cú, em giới thiệu với chúng tôi đến ấp Bà Tây B. Khi đến

ấp Bà Tây B, đón chúng tôi là mẹ em N - bà T.T.L. Gia đình bà L có 3 người con ruột

và người con rể. Gia đình không có đất canh tác nên người con gái lớn và con rể làm

công nhân tại Trà Vinh. Bà L giới thiệu chúng tôi đến nhà ông Achar tên T.P (62 tuổi).

3

Ông P là Achar có uy tín, được người Khmer ở địa phương rất tín nhiệm. Ông P là

người có nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi gia súc (nuôi bò).

Vợ ông còn có nghề làm các loại dưa để bán ở chợ.

Ông T.P cho biết, gia đình ông có 4 người con nhưng tất cả đã có gia đình

riêng, 2 người con ở riêng và 2 người con là công nhân ở Bình Dương. Kinh tế các con

ông ổn định. Hiện nay, kinh tế chính của gia đình là trồng lúa, trồng hoa màu (khổ qua,

bí đao, cải bẹ cùi), trồng cỏ (dùng để chăn nuôi bò) chỉ có hai vợ chồng ông P chăm

sóc. Ông cho biết, ngày xưa lúa chỉ làm mỗi năm một vụ và phụ thuộc hoàn hoàn vào

nguồn nước mưa. Đất trồng lúa của gia đình ông là đất gò nên tương đối cao, nước

không thể vô tới nên xưa kia phải tát bằng gàu còn hiện nay dùng máy bơm để đưa

nước vào ruộng. Mỗi vụ lúa đến 6 tháng mới thu hoạch. Khi chọn giống xong, ông

phải gieo sạ, một tháng sau nhổ mạ lên và cấy lại. Một công lúa thu hoạch 10 đến 20

giạ lúa. Hiện tại, nông nghiệp hiện đại nên gia đình ông làm một năm ba vụ lúa và

trồng các giống lúa ngắn ngày. Theo ông Phên cho biết, hiện nay gia đình ông chỉ làm

lúa một tháng hai mươi ngày là có thể thu hoạch. Nông nghiệp của bà con ở ấp Bà Tây

B hiện nay được sự hỗ trợ kĩ thuật của cán bộ nông nghiệp ở xã trong chọn giống cây

trồng cho phù hợp các loại đất; hỗ trợ kĩ thuật trong chọn phân bón hoá học. Tuy

nhiên, theo ông P, nông nghiệp của gia đình ông kết hợp giữa kinh nghiệp dân gian

trong việc coi thời tiết, khí hậu với các loại phân bón hoá học. Phân bón gia đình ông

thường dùng là phân NPK và U-rê.

4

Hình 1: Tác giả cùng gia đình ông T.P Hình 2: Tác giả phỏng vấn ông T.P Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh: tác giả, 2018

Hình 4: Rẫy khổ qua của gia đình ông T.P Ảnh: tác giả, 2018 Hình 3: Tác giả tại chòi canh rẫy của gia đình ông T.P Ảnh: La Ngọc Hương, 2018 Nông nghiệp của gia đình ông Phên không trồng xen canh giữa lúa và rẫy. Khu

vực trồng lúa riêng và trồng rẫy riêng. Nơi trồng rẫy thường là nơi đất cao, vợ chồng

ông lên liếp trồng rẫy và lấy nước từ giếng nước tự đào. Ông P còn cho biết kinh

nghiệm để đào giếng lấy nước trồng rẫy là quan sát nơi nào có kiến làm tổ (hoặc nơi

đất lạnh hơn khi quan sát ban đêm) thì bên dưới sẽ có nước ngọt. Kinh nghiệm này

cũng không phải tuyệt đối, khi đào không được nguồn nước ngọt thì phải lấp lại, tốn

rất nhiều thời gian và công sức.

Hình 6: Chuồng gia súc của gia đình ông P Ảnh: tác giả, 2018

Hình 5: Tác giả cùng vợ ông T.P bên ruộng lúa của gia đình ông Ảnh: La Ngọc Hương, 2018

Kinh tế phụ của gia đình ông P còn là nghề trồng cải bẹ cùi. Cải gieo được 25

ngày thì nhổ lên trồng nơi khác. Cách trồng tỉa này giúp cải có khoảng cách, giúp cải có

bắp to hơn. Cải trồng lại khoảng 40 ngày là có thể thu hoạch. Cải thu hoạch xong đem

phơi nắng cho héo (khoảng 1 nắng) thì đem luộc sơ. Sau đó, nấu nước muối ngâm

khoảng 5 đến 6 ngày sẽ có cải chua rất ngon. Vợ ông P cho biết, món cải chua của gia

đình bà rất được bà con trong sóc ưa chuộng và bán rất được giá, tạo thêm thu nhập cho

gia đình vào những tháng chưa thu hoạch lúa. Tuy nhiên, theo ông bà hiện nay việc

5

trồng rau cải khá vất vả do sự biến đổi của thời tiết. Bằng kinh nghiệm dân gian gia đình

ông bà không thể canh được nắng mưa và dự đoán được các loại sâu rầy gây hại đến cây

trồng. Các loại sâu đục trái làm cho năng suất trồng cây giảm mạnh. Để đối phó với nạn

sâu rầy, buộc người nông dân phải xử lý bằng thuốc hoá học nhưng như vậy rất ảnh

hưởng đến sức khoẻ của người tiêu dùng và đôi khi ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ

của người nông dân.

Điền dã tại Trà Cú chúng tôi còn quan sát cách sinh kế của bà con nơi đây. Hiện

nay, tại địa bàn Tập Sơn, hầu như các nam nữ thanh niên đều làm công nhân ở các khu

công nghiệp. Bà con ở ấp Bà Tây làm công nhân tại công ty giày da Mỹ Phong của huyện

Trà Cú. Một bộ phận khác đi làm xa làm công nhân ở khu công nghiệp Long Đức Trà

Vinh hoặc đi làm tại Bình Dương. Vì vậy, ở nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ

nhỏ nên kinh tế từ nông nghiệp có phần hạn chế do không có nhân lực. Các người già ở

nhà nhờ vào tiền gửi từ con cháu khi đi làm công nhân hoặc làm các công việc nhẹ như

tận dụng các loại rau, quả tự nhiên để làm dưa bán. Như tôi tiếp xúc và trao đổi với bà

L.N (68 tuổi) tại ấp Bà Tây B chuyên làm dưa môn để bán ở chợ. Dưa môn là loại dưa

làm từ ngó môn. Bà con đem về rửa sạch, cắt nhỏ và nấu nước muối ngâm để làm chua.

Loại dưa này đòi hỏi phải có kinh nghiệm làm như: chọn loại môn, sơ chế sạch…để khi

ăn không bị ngứa. Kinh tế từ việc làm dưa môn đủ để sinh hoạt, trang trải trong gia đình.

Hình 7: Tác giả tìm hiểu công đoạn sơ chế ngó môn của gia đình bà L.N Ảnh: La Ngọc Hương, 2018 Điền dã tại An Giang

Nhật kí điền dã ngày 20-10-2018 tại ấp Phnôm Pi và ấp Tà On, xã Châu Lăng,

6

huyện Tri Tôn, Tỉnh An Giang

Chuyến đi bắt đầu từ ngày 19-10-2018, từ Trà Vinh đến Long Xuyên, nghỉ đêm

tại Long Xuyên.

7h30 sáng di chuyển đến Tri Tôn bằng xe gắn máy. Đoạn đường khoảng 70km.

Trên đường đi, đoạn huyện Châu Thành, bên đường có nhóm chị em phụ nữ khoảng

trên 10 người làm nghề sơ chế cá linh thuê. Cá linh được thu mua bởi 1 người thương

lái từ Châu Đốc đến mua cá linh, thuê nhân công cắt bỏ phần đầu cá với giá 10.000đ/1

kg. Cá linh khi sơ chế xong (cắt bỏ đầu) được cho vào thùng nước muối khuấy cho

sạch vẩy rồi ướp muối và chở về Châu Đốc làm mắm. Theo thương lái tên L (đến từ

Châu Đốc) cho biết: năm nay (tức năm 2018) nước lên nhiều nên cá cũng nhiều. Cư

dân vùng An Giang sống dựa vào mùa nước nổi.

Hình 8: Sơ chế cá linh trước khi chở về Châu Đốc làm mắm (Châu Thành, An Giang) Ảnh: tác giả, 2018 Tại xã Châu Lăng, tôi khảo sát ở sóc Sà Ênh trên, Sà Ênh dưới (thuộc ấp Tà

On) và sóc Phnôm Pi (ấp Phnom Pi). Dọc đường một bên là núi và một bên là nhà dân.

Bà con Khmer ở đây làm ruộng dọc theo chân núi. Theo bà con cho biết ruộng gần

chân núi có giá cao hơn là ruộng xa chân núi bởi vì ruộng xa núi dễ bị ngập, chất

lượng lúa không cao. Hơn nữa, còn dễ thất bát do chuột quấy phá (Theo lời chị T.S 48

tuổi, tại sóc Sà Ênh dưới cho biết). Ruộng ở chân núi vào tháng 10 là những cánh đồng

7

xanh mướt, bà con nơi đây gieo trồng đồng loạt.

Xen với ruộng lúa là những cây thốt nốt. Cả đoạn đường từ Long Xuyên đến

Tri Tôn không thấy xuất hiện cây thốt nốt nào nhưng khi vừa đến Tri tôn là có rất

nhiều thốt nốt. Người Khmer ở Tri Tôn còn có nguồn lợi kinh tế khá lớn từ cây thốt

nốt, họ lấy nước thốt nốt về nấu đường hoặc bán lại cho các tiệm giải khát ven đường

bán nước thốt nốt tươi. Một lít nước thốt nốt được bán với giá 7.000 đến 8.000đ. Nước

thốt thốt được lấy từ hoa thốt nốt, nước này phải được nấu chín kĩ thì uống ngon, mát

và không bị đau bụng. Nước tươi nếu không nấu thì để được khoảng 24 giờ nhưng nếu

nấu sôi kĩ thì để được lâu hơn. Nước thốt nốt kèm với thốt nốt trái được bán với giá

15.000đồng/ ly. Theo chị X (có nghề bán thốt nốt) cho biết trước kia chị có nấu thốt

nốt làm đường nhưng giờ có con nhỏ và việc nấu đường khá mất thời gian và nguy

hiểm nên chị chỉ lấy lại từ những gia đình khác.

Theo sự giới thiệu của chị X, tôi đến nhà anh C.N (tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi)

có nghề nấu đường thốt nốt. Khi tôi đến gia đình đang dùng cơm nhưng cả nhà rất vui

vẻ đón tôi. Anh cho biết: “Đường thốt nốt được nấu từ nước cắt ra từ bông thốt nốt chứ

không phải từ trái thốt nốt. Hàng năm mùa khai thác và nấu đường thốt nốt rộ nhất từ

tháng 11 âm lịch và sẽ kéo dài đến mùa mưa năm sau. Đặc biệt, năm nào trời càng nắng

thì mùa khai thác nước thốt nốt sẽ càng kéo dài. Tuy nhiên, không chỉ vào mùa rộ mà

các tháng khác trong năm việc lấy nước cũng được thực hiện đều đặn. Công việc lấy

nước là công việc khá vất vả vì phải leo lên cây cao và nguy hiểm nên việc này thường

do đàn ông làm. Còn việc nấu đường sẽ do phụ nữ đảm trách. Nước thốt nốt nấu khoảng

3 - 5 tiếng thì cô đặc lại thành đường. Anh cho biết thêm, các gia đình ở phum hiện nay

còn rất ít hộ nấu đường. Ngoài nấu đường thốt nốt họ còn làm ruộng, nuôi bò mới đủ chi

phí cho gia đình bởi giá trị của đường thốt nốt hiện nay không cao và cung ít có sức hấp

dẫn đối với thị trường. Thốt nốt có vị ngọt đậm và có mùi đặc trưng nên có khi rất kén

người sử dụng. Từ trước đến nay, đường thốt nốt hầu như chỉ dùng để nấu chè, kho cá

hoặc làm ít món bánh như bánh bò thốt nốt. Nhìn chung, Tri Tôn nói riêng và An Giang

nói chung có nguồn lợi từ cây thốt nốt nhưng việc khai thác và quản bá chưa rộng. Đa

8

phần chỉ người miền Tây mới biết đến loại đường này.

Hình 9: Tác giả cùng gia đình anh C.N Ảnh: C.N (con gái anh C.N), 2018 Hình 10: Đường thốt nốt khi đã cô đặc Ảnh: tác giả, 2018

Nhà dưới chân núi và xen với đồng lúa. Nhà ở của người Khmer vùng này

không khác gì nhà của người Việt, nhà được xây tường kiên cố. Đa phần nhà của bà

con ở đây không làm nhà sàn mà ở nhà trệt, chỉ có vùng Châu Thành dọc theo lộ có

nhà sàn. Bà con cho biết nhà sàn để tránh nước ngập mùa lũ về. Năm 2018, bà con cho

biết là xả lũ nên nước về nhiều hơn.

Hình 11: Đường vào ấp Phnôm-Pi Ảnh: tác giả, 2018 Chỉ có nhà ở sóc Phnôm Pi là còn nhiều nhà đơn sơ. Quan sát cho thấy, sóc

Phnom Pi trước kia có nghề truyền thống là làm gốm: làm cà ràng, nồi đất, khuôn bánh

khọt… Đất làm gốm được lấy từ chân núi đem về sàng hết sỏi, đá rồi cho nước vào nhào

cho đất dẻo và mịn. Chị T.T.T (28 tuổi) cho biết: “Công việc làm cà ràng thường do

9

những người phụ nữ đảm trách. Với bàn tay khéo léo, người phụ nữ Khmer làm ra chiếc

cà ràng chắc chắn và tinh tế. Chiếc cà ràng làm xong phải phơi nắng rồi mới đem ra sân

đốt bằng rơm khoảng 30 phút”. Theo sự khảo sát của chúng tôi, tại ấp Phnom Pi hiện

nay chỉ còn có 5 hộ gia đình làm nghề này bởi số lượng người mua không nhiều và giá

thành chiếc cà ràng cũng không cao. Một số hộ gia gia đình ở Phnôm Pi hiện nay làm cà

ràng, khuôn bánh khọt theo sự đặt hàng của thương lái.

Hình 12: Tác giả với chị T.T.T Ảnh: N.K.S, 2018 Hình 12: Tác giả với sản phẩm cà ràng tại Phnôm- Pi Ảnh: N.K.S, 2018

Hình 13: Chị T đang làm cà ràng Ảnh: tác giả, 2018

Hình 14: Tác giả cùng chị T - người làm cà ràng ở ấp Phnôm-pi N.K.S, 2018 Đa phần bà con ở Tri Tôn đều sử dụng nước sạch. Theo T.R (68 tuổi) cho biết

xưa kia sóc sử dụng nước giếng đào nhưng giờ chỉ sinh hoạt bằng nước máy. Nước

uống thì phần nhiều bà con sử dụng nước đóng thùng (10.000đồng/ thùng). Khi được

hỏi về nước mưa thì bà con cho biết cũng không dám uống nước mưa nhiều nữa bởi

10

nước mưa giờ không còn sạch như ngày xưa.

Hình 15: Giếng nước cổ ở giữa phum Ảnh: tác giả, 2018

Hình 16: Nước máy dùng cho sinh hoạt hằng ngày Ảnh: tác giả, 2018 Ấp Phnom Pi hiện nay được biết đến không chỉ là nơi làm cà ràng nổi tiếng mà

giờ đây còn rất nổi tiếng với món đu đủ đăm. Khi tôi hỏi thăm đường tới Phnom Pi

người dân địa phương hỏi là đến ăn đu đủ đăm phải không nữa. Món đu đủ đăm được

bán rất nhiều ở đây. Có khoảng 6 đến 8 hộ gia đình bán món này. Đu đủ sống được bào

sợi rồi trộn với các loại gia vị như tỏi, ớt, đường, mắm ruốc, chanh và rau ngò, rau quế.

Thoạt nhìn như món gỏi của người Việt nhưng vị đặc trưng hơn bởi có mùi mắm ruốc.

Món đu đủ đăm được ăn kèm với món bò xỏ lụi nướng. Giá mỗi lụi bò chỉ từ 10.000

đồng.

Qua quan sát về trang phục, chúng tôi thấy trang phục của người Khmer nơi

đây cũng không khác gì trang phục của các tộc người khác. Chỉ còn một vài cụ già còn

mặc xà rông hoa văn sặc sỡ với áo cánh bằng vải thun.

11

Hình 17, 18: Trang phục của các cụ già ở ấp Phnôm-pi Ảnh: tác giả, 2018

Khí hậu An Giang vào tháng 10 tương đối mát mẻ. Trong chuyến điền dã,

chúng tôi vài lần phải ngừng lại vì có những cơn mưa bất chợt. Khi ngồi ở những tum

trò chuyện với bà con mà cảm nhận gió mát từ chân núi thổi tới. Tuy nhiên, theo lời kể

của các cụ già, vào mùa nắng nóng cũng cực nóng bởi sức nóng từ núi và từ ruộng toả

vào.

Điền dã tại Sóc Trăng

Nhật kí điền dã ngày 18-06-2018 tại khóm Cà Lăng A Biển, khóm Soài Côn,

khóm Cà Săng phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc trăng.

Dọc theo tuyến quốc lộ hướng từ Vĩnh Hải lên thị xã Vĩnh Châu chúng tôi đã

ghé Khóm Cà Lăng A Biển, khóm Soài Côn, khóm Cà Săng ở phường 2, thị xã Vĩnh

Châu, tỉnh Sóc trăng. Được sự giới thiệu từ em Triệu Thanh Hùng đang là sinh viên

ngành văn hoá Khmer của trường Đại học Trà Vinh (cùng là người bản địa), chúng tôi

tìm đến nhà của ông T.N 76 tuổi ở khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh

Châu. Ông là Achar đám cưới, coi ngày tháng, là trưởng ban quản trị chùa Crò Săng

thuộc khóm Cà Săng, Phường 2, TX Vĩnh Châu. Theo ông: “Nước đóng vai trò rất

quan trọng trong trồng trọt không thể thiếu được. Ngày nay, thuận lợi có kinh, rạch để

lấy nước, khó khăn mưa nhiều dễ bị lụt ngập vì thoát không kịp. Ngày nay thì lấy nước

ngọt dễ dàng vì có thể khoan giếng nước ngầm để lấy nước ngọt tưới tiêu.”

Hình 19: Phỏng vấn ông T.N Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018 Theo sự giới thiệu từ ông T.N chúng tôi tiếp tục di chuyển đến nhà của ông T.D

(82 tuổi) ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng. Ông

là một người có uy tín trong sóc cũng là người có nhiều am hiểu về văn hóa Khmer.

Ông là một người nông dân, ngoài ra còn làm Achar coi ngày tháng cưới và các nghi lễ

12

trong chùa Crò Săng.

Hình 20: Phỏng vấn ông T.D Khóm Cà Lăng A Biển Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018 Đa số các hộ dân nơi đây đều có đất trồng hành tím và theo ông T.D cho biết:

“Trồng hành thì nguồn nước tưới chủ yếu là khoan giếng lấy nước ngầm để tưới đầu

giếng chứa nước ngọt để tưới, riêng nuôi tôm ở khóm Cà Lăng A Biển chủ yếu nhờ

vào nước mưa và chỉ làm một đến hai vụ vào mùa mưa”.

Ông T.D sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm nông. Khi

bước vào năm 12 tuổi ông đi tu theo truyền thống của gia đình và dân tộc. Ông tu học

ở chùa Sêrây Crò Săng nay thuộc khóm Cà Săng, phường 2, thị xã Vĩnh Châu. Trong

thời gian đi tu ông đã theo học tiếng Khmer, tiếng Pali ở nhiều điểm chùa khác nhau

trong tỉnh Sóc trăng. Năm 30 tuổi ông hoàn tục và cưới vợ sau đó tiếp tục theo nghề

nghiệp làm nông của gia đình. Ông kể rằng: “Khi hoàn tục về tôi đã có một số kiến

thức nhất định về làm lúa, bởi vì khi tu có phụ trồng lúa cho chùa. Tuy nhiên khi hoàn

tục tôi đã cố gắng học hỏi các cụ già về cách trồng hành, cách lấy nước tưới hoa màu

để có thêm kinh nghiệm giúp gia tăng năng suất”.

Với sự cố gắng học hỏi từ các bậc tiền bối ông đã tích lũy được một vốn kinh

nghiệm dày dặn trong việc làm nông. Ông được xem là một người nông dân tiêu biểu

của phum bởi vì thường xuyên giúp đỡ bà con nông dân trong việc làm mương thoát

nước, chỉ cách phun thuốc trừ sâu và chọn nơi khoan giếng nước ngầm để tưới tiêu.

Không những thế ông còn được coi là một người thầy về mặt phong thủy. Do lúc tu

hành ông chăm chỉ học hỏi kinh sách, phong thủy nên khi hoàn tục ông thường được

bà con nhờ cậy việc làm ông mai coi ngày lành tháng tốt để cưới xin, coi ngày xây cất

nhà cửa và làm Achar cho các lễ lớn của phum, sóc. Đồng thời ông cũng là phó ban

13

quản trị chùa Sêrây Crò Săng. Hiện tại, tuy đã hơn 80 tuổi và đã nghỉ làm nông nhưng

ông vẫn được bà con quý mến và xem nhưng là một trưởng làng dày kinh nghiệm của

địa phương.

Cũng trong ngày 18 tháng 6 năm 2018 buổi chiều chúng tôi tìm đến nhà ông

T.P 63 tuổi cũng ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc

Trăng. Ông là một người nông dân đi đầu trong sóc về việc làm lúa và trồng hành tím

ở Khóm Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu tỉnh Sóc trăng.

Hình 21: Phỏng vấn ông T.P Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018 Ông T.P cho biết: “Ở nơi đây ngày thì chỉ nhờ vào nước mưa là chủ yếu nên

kinh nghiệm cũng hạn chế. Tuy nhiên, họ cũng có cách kiếm chỗ đất tốt cỏ mọc nhiều

để khoang giếng lấy nước ngọt tưới cây trồng, riêng nuôi tôm tại khóm mình đa số vẫn

dựa vào nước mưa chờ vào mùa mưa thấy hầm đủ nước thì thả giống ngay”.

Ngày 19 tháng 06 năm 2018 chúng tôi đến với Khóm Cà Săng theo sự giới

thiệu cũng ông T.D để gặp Ông T.S 43 tuổi. Nghề chính của gia đình ông là nông dân

trồng hành và nuôi tôm sú.

14

Hình 22: Phỏng vấn ông T.S Khóm Cà Săng, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018

Theo ông cho biết: “Khi trồng trọt hay nuôi tôm trước khi xuống giống người

Khmer mình hay cúng trước các thức cúng bánh trái ngọt hoặc thức mặn tùy ý (gọi là

sen ma chas tức ma chas đây) lúc này khi cúng người ta thường hứa với các vị thần là

nếu trúng mùa thì chúng con sẽ cúng tạ ơn bằng đầu heo, gà, vịt .... và khi thu hoạch

thì họ sẽ cúng trả hứa cho các vị thần như đã hứa.”

Chiều ngày 19 tháng 06 năm 2018 theo sự giới thiệu của ông K.H ở khóm Soài

Côn, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng chúng tôi đến nhà của ông T.R 56

tuổi ở Khóm Soài Côn, Phường 2, TX Vĩnh Châu, Sóc Trăng.

Hình 23: Phỏng vấn ông T.R Khóm Soài Côn, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: Triệu thanh Hùng, 2018

Ông T.R là một người có uy tín và kinh nghiệm sản xuất ở nơi đây. Ngày xưa

từng tu học tại chùa Soài Côn và làm trụ trì, sau khi hoàn tục ông cưới vợ và bắt đầu

trồng trọt, nuôi tôm ở khóm Soài Côn. Theo ông cho biết: “Nước rất quan trọng trong

việc làm lúa và nuôi tôm. Đối với nước trồng lúa phải là nước ngọt còn nước nuôi tôm

là nước mặn. Về mặt thuận lợi thì dễ dàng lấy nước từ kênh rạch có cả mặn lẫn ngọt.

Riêng khó khăn thì không có khó khăn nhiều ít bị hạn cũng ít bị ngập do ở đây thoát

nước khá tốt”.

15

Hình 24: Giống tôm sú chuẩn bị được thả xuống ao Hình 25: Dấu hiệu ao đã thả giống tôm để người khác biết và không xuống ao

Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018

Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018

Hình 26: Cúng trước khi thả tôm Ảnh: Triệu Thanh Hùng, 2018

CÁC ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC CHỌN PHỎNG VẤN

Phỏng vấn tại Sóc Trăng

Ông T.N (76 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu.

Ông T.P (63 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc

Trăng.

Ông T.R (56 tuổi), Khóm Soài Côn, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng.

Ông T.R (43 tuổi), Khóm Cà Săng, Phường 2, Thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng.

Ông T.D (82 tuổi), Khóm Cà Lăng A Biển, Phường 2, Thị xã Vĩnh châu, Sóc

Trăng.

Phỏng vấn tại An Giang

Bà T.S 48 tuổi, tại sóc Sà Ênh dưới (ấp Tà On), huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

Anh C.N (nghề nấu đường thốt nốt) tại ấp Tân Long, xã Tân Lợi, huyện Tri

Tôn, tỉnh An Giang.

Chị T.T.T (nghề làm cà ràng) tại ấp Phnom-Pi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

Phỏng vấn tại Trà Vinh từ năm 2014 đến năm 2019

Ông T.P (62 tuổi).

Ông T.Đ (43 tuổi).

Bà T.T.L (40 tuổi).

16

Bà L.N (65 tuổi).

PHỤ LỤC 2: HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ

Hình 2: Sư Khmer thực hiện nghi thức rảy nước Hình 1: Phật tử Khmer thực hiện nghi thức tắm Phật trong lễ Chôl - Chnăm – Thmây Ảnh: tác giả, 2017 Ảnh: tác giả, 2017

Hình 3,4: Nghi thức tắm sư sãi tại Chùa

Ảnh: tác giả, 2017

Hình 6: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức rảy nước cho tất cả Phật tử

17

Ảnh: tác giả, 2017 Hình 5: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức rảy nước cho những Phật tử lớn tuổi Ảnh: tác giả, 2017

Hình 8: Bè chuối trong lễ Sen Đôn - ta Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 7: Sư sãi Khmer thực hiện nghi thức đọc kinh, xối nước cho Phật tử Ảnh chụp tại chùa Âng, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2012

Hình 10: Mang thả bè chuối Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 9: Khấn vái trước khi mang đi thả bè chuối Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015

Hình 12: Nữ thần đất ở Campuchia Ảnh chụp tại Campuchia Ảnh: tác giả, 2017

18

Hình 11: Nữ thần đất trong bệ tượng Phật ở Trà Vinh Ảnh chụp tại chùa Ô (Xan Rich Thi Sac), Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015

Hình 14: Neak – ta ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 13: Neak – ta trong chùa Ktưng ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018

Hình 16: Cờ cá sấu trong lễ hội Khmer

Ảnh chụp tại chùa Ktưng, Trà Vinh Hình 15: Miếu thờ Neak – ta ở Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018

Ảnh: tác giả, 2018

19

Hình 18: Đua ghe Ngo ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2015 Hình 17: Rắn 7 đầu trong chùa Hang ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016

Hình 19: Giếng cổ ở giữa rẫy Ảnh: tác giả, 2012

Hình 20: Nước máy ở Phnôm- Pi (Tri Tôn, An Giang) Ảnh: tác giả, 2018

Hình 21: Mùa hạn làm cho Ao Bà Om cạn nước Ảnh: tác giả, 2016 Hình 22: Trạm cấp nước sạch cho người dân ở Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2012

20

Hình 23: Nhà ở của người Khmer Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018 Hình 24: Bên trong nhà ở của người Khmer Trà Cú, Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2018

Hình 25, 26: Nhà sàn trong chùa Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016

Hình 28: Nhà ở của người Khmer ở An Giang Hình 27: Nhà sàn trong chùa Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016 Ảnh: tác giả, 2018

Hình 29: Bún nước lèo của người Khmer Trà Vinh Hình 30: Canh Sim-lo, và một số món ăn của người Khmer Trà Vinh

21

Ảnh: tác giả, 2012 Ảnh: tác giả, 2016

Hình 31, 32: Bún cá của người Khmer ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018

Hình 33: Món đu đủ đăm của người Khmer ở An Giang Ảnh: tác giả, 2018

22

Hình 35: Lò nấu đường thốt nốt ở Châu Lăng, An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 34: Nước thốt nốt tươi, trái thốt nốt và đường thốt nốt được bán ven đường ở Châu Lăng, An Giang Ảnh: tác giả, 2018

Hình 36: Bánh bò thốt nốt ở An Giang

Hình 37: Hàng cây thốt nốt dưới chân núi An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh: tác giả, 2018

Hình 38: Bánh xèo có thêm trứng gà của người Khmer An Giang

Ảnh: tác giả, 2018

Hình 38: Món Bốk-Lhông của người Khmer Trà Vinh (món ăn có sự kết hợp vị chua, chát, các loại rau, quả rừng chấm với mắm) Ảnh: tác giả, 2016

23

Hình 40: Trang phục đi chùa (được choàng khăn) của cụ bà người Khmer ở Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016 Hình 39: Trang phục cổ truyền của người Khmer Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018

Hình 42: Trang phục biểu diễn trong lễ hội của các cô gái Khmer Ảnh: tác giả, 2018 Hình 41: Trang phục cưới Khmer Ảnh chụp tại Bảo tàng Trà Vinh Ảnh: tác giả, 2016

Hình 43: Phụ nữ trung niên người Khmer đi chùa trong trang phục quần Âu, áo thun Hình 44: Phụ nữ Khmer hiện nay mặc bộ thun màu trơn hoặc có hoa văn khi ở nhà Ảnh: tác giả, 2018

Ảnh: tác giả, 2016

24

Hình 45: Dao quéo Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018 Hình 46: Nọc cấy và cuốc Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018

Hình 48: Gàu tát nước Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Hình 47: Vòng hái Ảnh chụp tại Bảo tàng An Giang Ảnh: tác giả, 2018

Ảnh: tác giả, 2018

Hình 49: Hành tím Vĩnh Châu khi thu hoạch xong được cột lại để bán cho thương lái Hình 50: Rẫy khổ qua được trồng bằng màn phủ (để tránh cỏ) và được bón bằng phân hoá học

25

Ảnh: tác giả, 2018 Ảnh chụp tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng Ảnh: tác giả, 2014

PHỤ LỤC 3: CÁC TRUYỆN DÂN GIAN KHMER3

Sự tích sấm sét

Ngày xửa ngày xưa, cách nay đã lâu lắm, chằn Ra-ma-sua và nàng tiên Mê-kha-

la cùng theo học phép thần thông của một vị đạo sĩ. Cả hai đều chăm học nên chẳng

bao lâu họ đều lĩnh hội được nhiều phép thuật kỳ tài. Vị đạo sĩ ấy thấy cả hai học hành

chăm chỉ thì có lòng thương mến. Khi truyền hết những phép thuật thần thông mà

mình có, ông muốn thử tài Ra-ma-sua và Mê-kha-la nên bảo rằng:

- Này, ta cho hai con mỗi đứa một chén ngọc. Trong buổi sáng mai, trong hai

con, ai đem đến cho ta đầy một chén sương mai, ta sẽ biến nó thành viên ngọc quí Ma-

nô-ha-ra. Kẻ nào có được ngọc này, thì muốn gì được nấy.

Sáng hôm sau, cả hai người học trò đều dậy rất sớm. Chằn Ra-ma-sua cầm chén

hứng sương đọng trên lá cây rừng. Chằn chạy khắp rừng suốt buổi sáng, nhưng hứng

mãi vẫn không đầy chén sương. Còn nàng Mê-kha-la, khôn ngoan hơn, lựa một miếng

vỏ cây xốp để thấm các giọt sương đọng trên lá. Rồi nàng vắt sương vào chén. Không

bao lâu nàng đã được một chén sương đầy đem về dâng cho thầy.

Vị đạo sĩ biến chén sương thành viên ngọc, trao cho nàng và dặn:

- Ngọc này có nhiều phép lạ. Nếu đưa ngọc lên trước trán xoay tròn thì con ước

điều gì cũng sẽ được toại nguyện và con có thể nhờ ngọc mà bay lên trời đi khắp nơi

nhanh như gió.

Nàng tiên Mê-kha-la nhận được ngọc từ tay thầy, cúi đầu bái biệt thầy, rồi xoay

ngọc tung mình bay lên không thẳng về biển, nơi quê hương của nàng.

Khi chằn Ra-ma-sua kiếm được đầy chén sương trở về thì đã muộn. Đạo sĩ bảo:

- Con về trễ quá, thầy đã biến sương thành ngọc cho Mê-kha-la rồi. Tiếc quá,

3 Luận án sử dụng các truyện dân gian Khmer liên quan đến giải thích các hiện tượng tự nhiên, các quá trình ứng xử với tự nhiên của người Khmer: ứng xử với nước, núi, động vật, thực vật. Các truyện dân gian Khmer được trình bày ở phần phụ lục này được trích từ tài liệu Huỳnh Ngọc Trảng (sưu tầm và biên soạn) (2002), Truyện dân gian Khơme (tập 1), Nhà xuất bản Đồng Nai.

26

thầy không thể biến sương thành viên ngọc thứ hai được.

Chằn Ra-ma-sua nghe đạo sĩ bảo thế lòng đau như cắt, oà lên khóc mãi không

thôi. Ra-ma-sua không chịu trở về, cứ ngồi cạnh thầy khóc mãi. Vị đạo sĩ rất thương

chằn nhưng không biết làm sao đành dỗ dành:

- Thôi con bớt buồn, để thầy cho con một cái búa. Con có thể dùng búa này đấu

với Mê-kha-la để giành lại viên ngọc. Bạn con thường hay bay lên trời tắm mưa. Con

hãy chờ dịp ấy mà đón. Con hãy nhớ kỹ là khi tung búa đánh, con phải nhắm mắt lại.

Chằn Ra-ma-sua được búa mới chịu từ biệt thầy. Chằn ra ngoài bờ biển ngồi

chờ trời mưa. Quả nhiên, khi trời đổ mưa, chằn Ra-ma-sua thấy Mê-kha-la từ dưới

nước tung người bay lên mây. Chằn theo lời thầy dặn, nhắm mắt tung búa đánh Mê-

kha-la. Lưỡi búa thần loé lên một lằn sáng trên không và phát ra tiếng nổ vang dội.

Nhưng vì nhắm mắt để đánh nên không bao giờ Ra-ma-sua đánh trúng đối thủ. Do vậy

trận chiến cứ kéo dài mãi đến bây giờ. Mỗi lần chuyển mưa có sấm sét, chớp giật là do

vậy.

Theo lời kể của ông Thạch Bun

(Trường Khánh, Long Phú, Hậu Giang)

Sự tích Mưa, Gió, Mặt Trời và Mặt Trăng

Ngày xưa, ở một sóc nọ có một cặp vợ chồng nông dân nghèo. Người chồng

chồng bị bệnh qua đời sớm để lại bốn đứa con thơ. Ruộng rẫy chẳng có là bao nên

người phụ nữ goá chồng ấy phải làm lụng vô cùng cực nhọc từ việc mót lúa, hái rau,

đào củ đến việc đi làm thuê, làm mướn cố gắng nuôi con nên người theo lời dặn của

chồng trước khi hấp hối.

Một hôm, có người bà con ở sóc bên đến mời bà đi dự đám làm phước. Thương

các con lâu ngày chưa có được miếng ngon bỏ vào mồm bà đành nhường cho các con

đi thay mình.

Khi đến nhà người bà con, thấy mâm cao cỗ đầy, thịt cá, bánh trái ê hề, ba

người anh lớn mải lo ăn uống , no nê, vui cười hỉ hả. Riêng người em út, khi ăn miếng

ngon vẫn nhớ đến người mẹ tần tảo suốt một đời hy sinh cho con cái ở nhà. Anh ta bèn

lấy lá, tìm cách gói riêng một gói bánh để mang về cho mẹ.

Trên đường về nhà, ba người anh lớn phát hiện em mình có gói quà mang về

cho mẹ nên đề nghị đem chia nhau ăn nốt. Người em út nhất quyết không chịu. Nhưng

27

rồi bằng sức mạnh, ba người anh giật được gói bánh, đem lại gốc cây gần nhất, chia

nhau ăn sạch. Người em út rất căm giận sự bất hiếu của các anh lớn nhưng chẳng biết

làm gì hơn là oà lên khóc.

Về đến nhà, người mẹ thấy người em út đi ăn cỗ về nhưng lại không vui, đôi

mắt đỏ hoe nên hỏi. Người em út thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người mẹ

vừa thương vừa giận. Nhưng rồi, bà buột miệng trách: “Ba đứa bay, sống chẳng biết

nghĩ đến ai, mai sau có chết cũng chẳng ai quý, may ra có thằng Út”.

Về sau, ba người anh qua đời hoá kiếp thành Mưa, Gió và Mặt trời. Mưa, Gió

và Mặt trời ngoài sự hữu ích mang đến cho cuộc sống loài người thì cũng mang lại

nhiều bất lợi, tai hoạ như mưa dầm gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây

cối hoặc nắng hạn làm cho đất ruộng nứt nẻ, không ai gieo cấy được. Đó là dấu ấn về

tính cách của ba người anh bất hiếu, ham ăn chỉ riêng người em út với bản tính hiền

lành nên hoá thành Mặt Trăng với ánh sáng hiền diệu, tươi mát muôn nơi.

Cá thác lác đi xin lúa

Thưở xa xưa, loài người không đông đúc như ngày nay và thiên nhiên cũng dồi

dào hoa trái. Con người đi hái lượm không phải nhọc nhằn lắm cũng có thể no bụng.

Lúc bấy giờ con người không phải gieo cấy lúa công phu và cực nhọc mà tự nhiên lúa

mọc đầy đồng. Đến mùa lúa chín vàng, rồi tự do bay về mọi nhà, rào rào như ong về

tổ. Người ta chỉ cần quét dọn nhà cửa sạch sẽ, chuẩn bị kho lẫm để đón lúa về, không

phải ra đồng gặt hái, gồng gánh vất vả.

Một hôm lúa chín bay về cả đàn định đổ xuống một gia đình nọ, thì gặp phải

một người đàn bà quét sân. Là một người vợ lười biếng, nên từ mấy hôm trước, mặc

dù người chồng đã nhắc chị dọn dẹp trong ngoài để đón lúa về, người đàn bà này vẫn

chưa rục rịch. Mãi đến khi lúa bay về, chị mới cầm chổi quét được mấy nhát. Tiện có

cây chổi trong tay, lại vốn là người lười nhác, thiếu ý thức, nên đã vung chổi tứ tung,

xua đuổi lúa. Bị đánh bất ngờ, cả bầy lúa hốt hoảng bay vội vào núi, trốn vào trong

một khe đá hẹp, không dám về nhà ai nữa. Năm ấy, cả vùng, mọi nhà đều không có

thóc ăn. Người và súc vật đều đói khổ, điêu đứng.

Cá thác lác ở dưới sông thấy người đói khổ phải đi hái rau, đào củ năn, củ chuối

để ăn trừ bữa sống qua ngày, lấy làm cảm động. Cá thác lác chúa bèn rủ cả cháu con,

chắt, chít của mình, kéo nhau thành đàn lách sâu vào khe núi để tìm gặp thần lúa, yêu

cầu thần lúa trở về để mọi người, mọi nhà được no ấm. Đường đi vô cùng vất vả, đàn

28

cá thác lác phải vượt qua những thác ghềnh hiểm trở, những khe đá khúc khuỷu,

những chỗ nước cạn quanh co. Cuối cùng đàn cá thác lác vẫn đến được nơi thần lúa ẩn

nấp. Mặc dù cá thác lác đã đem hết lời nài nỉ thần lúa vẫn chưa hết sợ, không dám trở

về với con người. Nhưng cá thác lác vẫn nài nỉ, khuyên lơn mãi làm cho thần lúa vẫn

phải xiêu lòng, thuận trở về, với điều kiện là ở ngoài đồng ruộng chứ không dám vào

nhà. Từ đó, con người phải làm lụng chăm sóc cây lúa vất vả. Khi lua chín phải lo gặt

hái, gồng gánh chuyên chở về nhà.

Cá thác lác vì thương loài người, trong chuyến đi tìm thần lúa ấy đã phải len lỏi

qua các khe hẹp, bị đá chẹt, nên thân hình cá mới dẹp lép và mang những vết trầy sướt

như ta thường thấy trên thân cá ngày nay.

Truyền thuyết này ngày nay vẫn còn lưu hành phổ biến trong đồng bào

Khơme Nam Bộ. Để nhớ ơn loài vật đã tận tình với con người, hàng năm trên mâm

cơm cúng thần lúa, đồng bào thường nước một xâu cá thác lác để bên cạnh những

bát gạo mới đầu mùa.

Theo lời kể của cụ Thạch Vinh

(ở Giồng Tranh, Cửu Long)

Khảo dị 1

Ngày xưa, lúa không có vỏ lại to bằng quả dừa. Người ta cứ hái lúa về ăn mà

không cần nấu nướng gì cả. Nhưng về sau, vì loài người càng ngày càng lười biếng và

tham lam nên lúa có vỏ và người ta muốn ăn phải giã lúa cho tróc vỏ đem nấu chín

mới dùng được.

Vào thời đó, có một người đàn bà xấu tính và nóng nảy. Một hôm bà giã lúa,

lúa văng vỏ làm lấm bẩn người, khiến bà buộc miệng chửi lúa. Hồn lúa giận loài người

chửi mình, trốn biệt vào một khe đá ngoài một hòn đảo xa.

Từ đó, nạn đói kéo dài, loài người và muôn vật không có lúa ăn, khốn khổ vô

cùng. Cá thác lác thấy cảnh đói bèn len lỏi ra đảo, len vào tận khe đá xin thần lúa trở

về.

Khảo dị 2

Xưa kia, lúa “sờ-râu phôc-sa-ly” mọc đầy đồng. Khi lúa chín đến đêm tự bay về

nhà rơi vào bồ không phải gặt hái gì cả.

Một hôm nọ, có đôi trai gái đang trò chuyện bên cạnh bồ lúa xào xạc bay về rơi

vào bồ ào ào như mưa đổ làm cô gái không nghe được người yêu mình nói gì. Tức

giận, cô gái lấy một khúc củi gõ mạnh vào bồ lúa khiến hồn lúa sợ hãi bay thoát, trốn

29

biệt vào khe đá rất hẹp không ai có thể len vào được.

Từ đó, dân chúng đói khổ vô cùng. Họ tụ họp nhau lại nhà cá “kom-phơ-lang”

có thân hình dẹp và nhờ cá len vào khe đá cầu xin hồn lúa trở về.

Khảo dị 3

Ngày xưa, đến mùa lúa chín, mỗi nhà phải quét dọn sân trước cho sạch sẽ để

đón lúa về. Vào thuở ấy, hạt lúa to và dài bằng chiếc thuyền độc mộc, tự nó lăn như

một thân cây ngoài ruộng về nhà. Đến bữa ăn, người ta chỉ cần lấy dao xắn bớt một

miếng để dùng từng bữa một.

Một ngày kia, lúc lăn đến nhà một kẻ lười biếng để sân dơ bẩn, không quét dọn

gì cả. Lúa giận người không quí trọng mình, vỡ ra từng mảnh nhỏ thành hạt lúa nhỏ

như ngày nay.

Niếc tà Phnum và Niếc tà Tức

Thưở ấy, nhà vua có một nàng công chúa, tuổi vừa đôi mươi, xinh đẹp vô cùng.

Tiếng đồn về công chúa lan truyền đi khắp nơi, từ biển xa đến núi cao.

Một hôm, Niếc-tà Phnum nghe tiếng công chúa xinh đẹp, bèn mang lễ vật đến

xin vua cha cưới công chúa làm vợ. Nhà vua thấy Niếc-tà Phnum mặt mũi khôi ngô,

ăn nói đĩnh đạc, hoạt bát, nên thuận gả công chúa cho chàng.

Trong lúc lễ cưới linh đình giữa Niếc-tà Phnum và công chúa đang diễn ra ở

cung vua thì có tin Niếc-tà Tức ở tận biển Đông, vì nghe đồn công chúa xinh đẹp, nên

cũng mang lễ vật đến hỏi chàng.

Vì đến chậm, Niếc-tà Tức đành phải mang lễ vật trở về. Tức giận vì có kẻ đã

nhanh chân trước mình chỉ một bước mà được người đẹp, Niếc-tà Tức bèn làm phép

dâng nước lên cao, dấy lên những đợt sóng thần cuồn cuộn ập vào tới tấp nhằm uy

hiếp kinh thành để cướp lại cho bằng được công chúa.

Nhưng Niếc-tà Phnum cũng chẳng phải vừa. Chàng trổ hết mọi khả năng để bảo

vệ hạnh phúc vừa đạt được, và cũng để tỏ cho vua cha thấy được tài nghệ của mình.

Niếc-tà Phnum đã dùng phép thuật xây một bức tường đá vững chắc quanh cung thành

của vua cha, để chống lại những đợt sóng thần ồ ạt và dồn dập của Niếc-tà Tức. Hễ

nước bên ngoài dâng càng cao, thì thành càng được tăng thêm một mức, hễ sóng thần

càng lớn, thì thành càng được bồi trúc vững chắc hơn.

Cuộc đọ sức của đôi bên diễn ra khá ác liệt và dai dẳng nhiều ngày làm cho

ruộng, vườn, đất đai ngập nước lênh láng. Cuối cùng, Niếc-tà Tức thấy không thể

thắng được đối phương đành phải rút nước, đưa sóng về biển. Tuy vậy, nỗi tức giận

30

vì không lấy được công chúa vẫn không thể nào nguôi ngoai trong lòng Niếc-tà

Tức. Cho nên, hằng năm Niếc-tà Tức vẫn dâng nước lên đánh Niếc-tà Phờ-num một

lần. Khi hai bên đánh nhau như thế thường gây ra lụt lội làm thiệt hại hoa màu, cây

trái của nhân dân vô kể.

Ghi theo lời ông Sơn Quơn (Giồng Tranh)

Sự tích Ao Bà Om

Ngày xưa, ở vùng Trà Vinh, hàng năm cứ đến mùa khô, nước ngọt rất khan

hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, nứt nẻ, cây cỏ xơ xác, tiêu điều. Do vậy, đời sống nhân dân

trong vùng rất cơ cực.

Cũng vào thuở ấy, trong nhân dân có chuyện tranh chấp kéo dài đã nhiều năm

mà vẫn chưa giải quyết được. Đó là chuyện hai bên nam nữ không bên nào chịu đứng

ra đi cưới bên nào. Phía bên con trai thì đòi các cô gái phải đứng ra cưới họ về làm

chồng. Ngược lại phía bên các cô thì buộc các chàng trai phải đi hỏi họ về làm vợ.

Đương nhiên là kẻ đứng ra cưới người khác giới phải gánh vác mọi tổn phí về lễ lạc.

Trong lúc nhân dân trong vùng bàn chuyện đào ao để lấy nước ngọt giữa mùa khô hạn,

có người bàn nên nhân cơ hội này tổ chức cuộc thi giữa hai bên nam nữ, và phía bên

nào thua cuộc lần này sẽ chịu trách nhiệm đứng ra lo liệu việc cưới xin. Ý kiến đó

được nhiều người ưng thuận bởi vì nó vừa giải quyết được việc cứu hạn, mọi người sẽ

có nước dùng, vừa kết hợp giải quyết được sự tranh chấp kéo dài, chưa có lối thoát.

Thế là sau khi bàn bạc, họ giao hẹn với nhau: Trong một đêm, mỗi bên nam và nữ đào

riêng một cái ao, bên nào đào sâu hơn, nước nhiều hơn sẽ thắng cuộc.

Đêm hôm ấy, khi mặt trời vừa tắt, hai bên nam nữ trong vùng tập hợp nhau lại,

rồi chia làm hai nhóm: nhóm nữa đào một ao vuông ở phía Đông, nhóm nam đào ao

tròn ở phía Tây. Cả hai bên đều ra sức làm việc cật lực, người đào, người gánh, làm

chẳng ngơi tay.

Đến nửa đêm, bà Om, người điều khiển công việc bên phía nữ nảy ra một kế để

đánh lừa bên nam. Bà cho người đốn một cây tre thật dài dùng làm sào, đem dựng trên

một gò đất cao về hướng Đông. Trên ngọn sào có treo một chiếc lồng đèn, bên trong

thắp một ngọn đèn dầu leo lắt.

Về phía nam, ao của họ lúc này đào được khá sâu và cũng đã có nước, mọi

người đều thấm mệt. Lại thêm tâm lý chủ quan cố hữu của những anh đàn ông về sức

31

mạnh của mình, họ nghĩ rằng bên phía nữ khó mà đuổi theo kịp được họ. Vừa lúc họ

thấy ngọn đèn xuất hiện ở hướng Đông mà tưởng nhầm là sao mai đã mọc, cho là trời

sắp sáng rồi bèn rủ nhau về nhà nghỉ.

Trong khi đó, bên phía nữ mọi người vẫn cặm cụi cố sức đào cho đến sáng

bạch mới về. Quả nhiên sự kiên trì cộng với mưu trí của họ, họ đã làm cho đối

phương thua cuộc.

Sáng hôm ấy, mọi người ra xem thì rõ ràng ao của bên phe nữ vừa to, vừa sâu

hơn ao phe nam. Thế là phe nam chịu thua cuộc. Từ đó, họ phải chịu thực hiện lời cam

kết: đi cưới phụ nữ về làm vợ. Dân chúng trong vùng có được ao chứa nước ngọt dùng

quanh năm.

Để ghi công người phụ nữ mưu trí và giỏi giang đã góp phần giành được

thắng lợi này, người ta gọi ao nước ngọt ấy là ao Bà Om. Tên gọi ấy còn truyền mãi

đến ngày nay.

Theo lời kể của ông Sáu Thanh

Khảo dị 1:

Có người cho rằng, trước kia quanh bờ ao này có mọc nhiều rau mò om (một

thứ rau thơm) nên thoạt đầu người ta gọi là ao Mò-om, rồi dần dần gọi trại ra thành

ao Bà Om.

Khảo dị 2:

Lại có người cho rằng trước kia ở đây có đền thờ thần Pờ-rặc In (Thần In-đra -

Ấn Độ) tức là Đế Thiên mà dấu vết của đền thờ này là ngôi chùa bên cạnh ao, có tên

là chùa “Ông”. Do vậy dân chúng gọi là cái ao gần chùa này là ao Pờ-rặc In (hay gọi

trại ra là “ông”, và về sau gọi là Bà Om).

Khảo dị 3:

Truyện khác kể rằng: Ngày xưa, hoàng tử Pa-tu-nà-vông cùng em gái xuống ở

vùng này. Hoàng tử ở tại Pơ-ra-sát, tức là sóc Thác, cách ao Bà Om chừng hai cây số

và công chúa ở tại chùa Ông, bên cạnh ao Bà Om bây giờ. Vì không tìm được người

vừa ý làm vợ, nên hoàng tử định kết hôn với em gái.

Hoàng tử đến gặp em gái tỏ bày ý định nhưng bị em gái cự tuyệt. Sau đó, công

chúa sai quân hầu đào hào đắp luỹ quanh dinh để ngăn không cho người anh loạn luân

của mình đến nữa. Công chúa cũng sai đào một cái ao lớn để tắm cạnh đó, và cắt bốn

32

tỳ nữ là bà On, bà Inh, bà Sun, bà Son canh gác. Do việc bà On là người đứng đầu chỉ

huy đám tỳ nữ ấy nên dân chúng quanh vùng gọi cái ao ấy là ao bà On, rồi dần dần về

sau gọi trại thành Ao Bà Om.

Khảo dị 4:

Truyện kể rằng thuở nọ vùng Trà Vinh thuộc quyền cai trị của một nhân vật tên

là Pa-tu-ma-vông. Pa-tu-ma-vông rất bạo ngược. Hắn ra lệnh buộc dân chúng trong

vùng ai có gái đẹp phải đem dâng cho hắn, nếu không sẽ bị hắn xử phạt rất nặng nề.

Ngoài ra, hắn còn làm đảo lộn phong tục tập quán lâu đời ở đây: bắt con gái cưới con

trai về làm chồng. Nhiều người bất bình, nhất là nữ giới. Họ cử người đến yêu cầu Pa-

tu-ma-vông bãi bỏ tục con gái phải đi cưới chồng. Pa-tu-ma-vông đã tổ chức ra việc

hai bên nam nữ đào ao thi, bên nào thua phải đứng ra cưới người bên phe thắng. Bên

phía nữ sợ mình yếu, sức thua đàn ông, nên mới lập đánh lừa, bửa đêm thả một chiếc

đèn lồng lơ lửng trên không về hướng Đông. Phe nam nhìn thấy tưởng là sao mai mọc

bèn nghỉ, ra về. Nhờ vậy đến sáng hôm sau ao của phụ nữ đào được sâu hơn. Nam giới

bị thua cuộc phải đứng ra cưới nữ giới về làm vợ.

Sự tích giếng chị và giếng anh

Thưở ấy, cuộc tranh chấp giữa một bên là những chàng trai, một bên là những

cô gái kéo dài trong nhiều năm liền vẫn không sao giải quyết được. Bên nam đòi bên

nữ phải đi cưới họ về làm chồng, ngược lại bên nữ buộc bên nam phải đứng ra đi cưới

họ về làm vợ.

Cuối cùng cả hai bên cùng thoả thuận tổ chức một cuộc thi đào giếng: trong

một đêm mỗi bên đào một cái, bên nào hoàn thành sớm, giếng sâu, nước nhiều thì

được cuộc, Bên thua cuộc phải đứng ra cuới bên thắng cuộc.

Đêm hôm ấy, họ cùng nhau tổ chức cuộc thi. Cả hai bên đều làm việc rất hăng

say. Đến nửa đêm, bên nữ vì làm việc cật lực, mồ hôi nhễ nhại, nên họ cởi cả áo cho

đỡ vướng. Trong lúc đó bên phía những chàng trai cho người lén bò qua dò xét tình

hình. Bắt gặp cảnh tượng bất ngờ như vậy, người được phái đi thám thính chỉ biết

ngây ra mà nhìn, quên phứt việc trở về báo cáo cho cánh đàn ông. Chờ đợi mãi không

thấy tăm hơi, họ bèn cử toán khác đi xem xét tình hình. Cũng không hơn gì toán đi

trước, toán này cũng bị “sức hút” của những cơ thể đầy sức sống của các cô gái đang

làm việc dưới ánh trăng làm cho họ mụ mẫm quên mất nhiệm vụ được giao. Toán thứ

33

ba rồi toán thứ tư được phóng đi từ bên phe đàn ông cũng rơi vào tình trạng tương tự.

Khi tiếng gà sóc gáy rộ, họ mới sực tỉnh khỏi cơn mê. Họ quay về chỗ giếng đang đào

dở, thì chân trời từ phía Đông cũng đã rạng hồng báo hiệu cuộc thi kết thúc.

Sáng hôm ấy, kết quả cuộc thi đã được công bố với một tỷ lệ chênh lệch khá bất

ngờ. Giếng của cánh đàn ông thi nông choèn, còn giếng của cánh nữ thì vừa sâu lại

vừa rộng. Những chàng trai đành nhận phần thua. Và cũng từ ấy bên nam phải đứng ra

đi cưới bên nữ.

Ngày nay ở Vũng Thơm vẫn còn hai chỗ đất trũng, vết tích của hai cái giếng.

Giếng phía Đông được gọi là Sờ-rạc Sờ-rây (tức là giếng chị) và giếng phía Tây được

gọi là Sờ-rạc Bong (tức là giếng anh).

Theo lời kể của ông Phái Kim Suôl

(thị xã Sóc Trăng)

Khảo dị 1

Ngày xưa ở Vũng Thơm không có nước ngọt, dân chúng nghèo nàn, cơ cực vì

đất không sinh sôi nẩy nở được gì. Dân chúng ngày đêm van vái cầu xin Phật trời cứu

giúp cho một mạch nước trong lành.

Lời cầu khẩn đến tai Ngọc Hoàng. Ngài đang nghĩ cách giúp đỡ thì tiên ông và

tiên bà có chuyện hiềm khích nhau. Tiên ông cho rằng tiên bà giặt lụa làm ô uế nước

suối. Tiên bà bảo tiên ông lùa trâu xuống suối làm bẩn nước giặt lụa.

Ngọc Hoàng nghe chuyện truyền cho tiên ông và tiên bà nội trong đêm rằm

phải đào mỗi người một giếng nước ngọt ở Vũng Thơm. Bên nào đào giếng sâu và có

nhiều nước ngọt thì thắng kiện.

Vầng trăng vừa ló dạng thì hai toán tiên ông và tiên bà cỡi mây hạ phàm chọn

địa điểm khởi công. Phe tiên bà gắng sức đào, toát mồ hồ nên cởi xiêm y cho đỡ nóng

nực và đỡ vướng víu. Đến khuya phe tiên ông sai người sang chỗ các tiên bà dọ thám.

Gặp cảnh đẹp quyến rũ, ông tiên đi dọ thám trố mắt nhìn quên cả việc trở về.

Các vị tiên ông chờ mãi không thấy bạn trở về e có điều bất trắc vội phái

một ông tiên khác đi tìm. Lần lượt hết ông tiên này đến ông tiên khác đi tìm bạn

cũng bị các bà tiên xinh đẹp quyến rũ quên cả việc trở về. Do vậy, phe tiên ông

chẳng đào được bao nhiêu.

Đến khi gà eo óc gáy vang trong sóc, các vị tiên vội vã trở về trời. Sự hơn thua

đã rõ ràng: giếng tiên ông lớn nhưng cạn, giếng tiên bà tuy nhỏ nhưng sâu hơn.

34

Khảo dị 2:

Việc hai phe nam nữ thi đào giếng ở Vũng Thơm nguyên do cũng giống như sự

tích giếng Chị và giếng Anh trên. Phe nữ do Chun-tiêu Tân (bà Tân) cầm đầu. Bà bày

kế cho phe nữ làm bánh quy và rượu mời phe đàn ông ăn nhậu say sưa nên họ chẳng

làm được bao nhiêu. Đến khuya, bà Tân cho người treo một ngọn đèn vào một cây sào

dài, rồi dựng lên khiến cho phe đàn ông tưởng lầm là sao mai đã mọc liền bỏ về nhà

nghỉ… Do vậy, phe nữ thắng cuộc, và từ đó đàn ông phải đi cưới đàn bà về làm vợ.

Truyền thuyết phum Thil - Thôl

Ngày xửa ngày xưa, ở vùng đất nọ cây cối mọc um tùm, chưa có người sinh

sống chỉ có chim chốc và các loài thú khác. Trong đó có một loài cây tên là Chơ - Thil

(cây dầu) rất to và cao. Nhìn từ rất xa ta đã thấy ngọn của nó. Qua một thời gian, có

người đến đây khai hoang và làm nhà ở. Người đến càng ngày càng đông, thành một

phum xung quanh cây dầu đó. Để tiện gọi tên nên người ta muốn đặt cái tên cho nơi

mình ở. Tìm mãi không có tên nào thích hợp, họ lại thấy trong phum của mình có một

cây dầu rất to, không biết đã mọc tự bao giờ, người dân lại rất yêu thích cây dầu ấy

nên họ quyết định đặt tên phum là phum Thil-thol. Thil còn gọi là Đờn-chơ-thil nghĩa

là cây dầu, còn thol là cao nhất và chỉ riêng một mình nó. Ngày nay cây dầu ấy không

còn nữa nhưng cái tên Thil-thol vẫn được gọi để chỉ một phum nhỏ gần thị trấn Châu

Thành.

(Người kể: Kim Sương, 1934, ấp Hương Phụ A, Đa Lộc, Châu Thành, Trà

Vinh)

Lễ vào năm mới

Khi xưa có một người cậu bé tên là Thommbal, anh ta có tài thuyết pháp rất

hay. Tài thuyết pháp của anh đến tai một chư thiên, chư thiên này bèn xuống trần gian

nghe Thommbal thuyết pháp. Khi về thiên đình, chư thiên này khoe với các chư thiên

khác về tài của Thommbal. Các chư thiên lần lượt rủ nhau đi nghe Thommbal thuyết

pháp. Dần dần, các chư thiên đều xuống trần nghe Thommbal thuyết pháp. Các buổi

thuyết pháp của Chúa Thiên Maha Brum ở thiên đình vắng hẳn và không còn chư

thiên nào nghe cả. Ông thấy lạ, bèn mở kính thần ra xem các chư thiên đã đi đâu. Khi

kính thần mở ra, ông thấy các chư thiên đang ở trần gian nghe Thommbal thuyết pháp.

Ông tức giận và quyết định xuống trần so tài với Thommbal, xem Thommbal có tài gì

đặc biệt mà có thể thu hút chư thiên xuống trần nghe thuyết pháp. Ông hóa thành một

35

người bình thường đi xuống trần tìm Thommbal so tài. Khi gặp Thommbal ông ra điều

kiện là nếu Thommbal thắng ông thì ông sẽ tự cắt đầu mình, còn nếu Thommbal thua

ông thì phải nộp mạng cho ông. Hai người quyết tâm thi đấu với nhau. Maha Brum đặt

câu hỏi là:

- Buổi sáng, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?

- Buổi trưa, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?

- Buổi tối, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?

Thommbal không biết phải trả lời như thế nào. Ông thất vọng vì suy nghĩ

không ra. Ông liền nói với Maha Brum: “Cho ta về nghiên cứu trong bảy ngày ta sẽ trả

lời cho ông. Nếu ta không trả lời được, ta tình nguyện giao mạng này cho ông”. Maha

Brum đồng ý. Thommbal đi khắp nơi tìm các thầy, các sư tổ của mình để tìm lời giải

đáp cho câu hỏi đó nhưng không một ai có thể trả lời được. Đến ngày thứ sáu,

Thommbal đi mãi, đi mãi vào một khu rừng nọ. Vì đã qua sáu ngày suy nghĩ mệt mỏi,

ông ngồi nghĩ tại một gốc cây thốt nốt. Trên cây thốt nốt này có một cặp chim đại

bàng, cặp chim này cũng là cặp chim có lòng thiêng, đã thọ giới nên không ăn thịt

sống, chỉ ăn thịt chết. Trên cây, chim mái hỏi chim trống: “Thưa chàng, ngày mai

mình có gì ăn?”

Chim trống trả lời: “Ngày mai mình sẽ có thịt Thommbal ăn”.

Chim mái tiếp: “Vì sao ngày mai mình có thịt Thommbal ăn?

Chim trống đáp: “Ngày mai Thommbal vì không trả lời được câu hỏi của Maha

Brum nên bị Maha Brum giết chết”.

Chim mái tò mò nên hỏi tiếp: “Câu hỏi đó là như thế nào mà cả Thommbal

cũng không trả lời được?

Chim trống đáp: Câu hỏi đó là: Buổi sáng, duyên con người ta nằm ở chỗ nào?

Buổi trưa, duyên con người ta nằm ở chỗ nào? Buổi tối, duyên con người ta nằm ở chỗ

nào? Câu trả lời đó trên đời chỉ có ông Maha Brum, con gái ông ta và anh biết thôi.

Anh biết được là vì một hôm nọ anh bay ngang qua phòng của con gái Maha Brum, vô

tình nghe được Maha Brum nói với con ông ta là: Buổi sáng duyên con người ở trên

mặt, vì vậy, buổi sáng con người phải rửa mặt để khuôn mặt được sáng sủa thoải mái.

Buổi trưa, duyên con người ta ở thân nên người ta thường tắm mát vào buổi trưa. Buổi

tối, duyên con người ta ở hai bàn chân nên người ta phải rửa chân trước khi đi ngủ”.

Thommbal vốn là một người đắt đạo, có thể nghe được tiếng con thú, do đó ông

36

nghe được câu trả lời, mừng quá, ông liền trở về nhà. Sáng hôm sau, ông vào hội đình

tìm Maha Brum để trả lời. Thommbal trả lời giống như những gì nghe được từ con

chim trống. Maha Brum nghe xong, tự nhận mình đã thua. Ông gọi bảy người con của

mình xuống trần và căn dặn: “Cha đã thua trí Thommbal nên phải cắt đầu mình. Khi

cha cắt đầu, các con nhớ lấy mâm vàng bưng đầu và máu của cha đặt vào đỉnh núi

Sồme. Và nhớ là không để đầu hay máu của cha rơi xuống đất vì như thế mặt đất sẽ

khô cằn, nếu rơi xuống biển thì biển sẽ cạn khô. Hằng năm các con phải thay phiên

nhau xuống cai trị trần gian.” Căn dặn các con xong Maha Brum tự cắt đầu mình. Các

con hứng lấy đầu và máu của cha vào mâm vàng và đặt vào đỉnh núi Sồme.

Hằng năm, cứ đến ngày 13,14, 15 tháng 4 dương lịch (ngày mà Maha Brum tự

cắt đầu), các con của Maha Brum xuống trần vào núi Sồme bưng đầu cha để diễu hành

quanh núi ba vòng. Khi diễu hành xong, các cô lại mang đầu cha vào đỉnh Sồme để

thờ. Khi đó, vua năm cũ sẽ trở về thiên đình, vua năm mới xuống trần cai trị nhân gian.

Nếu ngày đầu năm là chủ nhật thì người con thứ nhất sẽ xuống trần làm vua nhân gian,

nếu ngày đầu tiên của năm mới là thứ năm thì người con gái thứ năm sẽ xuống trần cai

trị trần gian. Do tính cách của những người con Maha Brum đều khác nhau, có người

ăn đậu, có người uống máu, có người thì tay lúc nào cũng cầm hung khí, có người cầm

đèn còi… nên ông Hôra sẽ dựa vào tính cách của mỗi người mà đoán định năm nay có

tốt không, làm ăn, sức khỏe có tốt không hay sẽ có bệnh dịch, loạn lạc xảy ra.

Từ tích truyện này, người Khmer tổ chức lễ đón năm mới vào ngày 13, 14, 15

tháng 4 dương lịch. Vào ngày đầu năm, người ta diễu hành quanh chánh điện ba vòng

và làm lễ rước Đại Nông Lịch (Maha Song Kran).

(Người kể: Thạch Doan, 1980, ấp Kênh Xáng, huyện Châu Thành, Trà Vinh)

Sự tích thả đèn gió và đua ghe ngo ngày lễ Ok - Om - Bok

Khi Đức Phật đắc đạo, nhập cõi Niết Bàn thì hai cái nanh (răng) trên của Ngài

được cất giữ trong ngọn tháp ở Cõi Đạo Xuất. Do đó, vào ngày lễ Ok-om-bok, người

Khơme thường tổ chức thả lồng đèn gió để dâng phước báu của mình đến Đức Phật.

Hai răng dưới của Ngài được cất giữ ở Long cung nên người ta cũng tổ chức lễ đua

ghe ngo để tưởng nhớ đến hai cái răng dưới của Đức Phật và cũng dâng phước báu

của mình đến Ngài.

37

(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)

Sự tích đua ghe ngo

Thời xưa, việc đi lại rất khó khăn, chủ yếu là dùng ghe xuồng. Vào một ngày

nọ, khi các vị sư đi bát (khất thực) về thì nước dâng cao, không thể đi bộ được nữa.

Giờ độ cơm đã đến mà chùa còn xa nên ai cũng lo lắng. Người dân quanh đó mới lấy

ghe của mình ra thi nhau chở các vị sư về chùa. Ai chở được nhiều sư thì phước càng

lớn, do đó ai cũng cố gắng hết sức đưa các sư về chùa kịp giờ độ cơm.

Từ câu chuyện trên, hằng năm người dân Khmer tổ chức thi chèo ghe trên sông.

Dần dần trở thành lễ hội đua ghe ngo của đồng bào Khmer.

(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)

Sự tích tượng rồng trước cổng chùa

Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, vào ngày kia khi Đức Phật đang ngồi thiền

định thì trời mưa. Khi ấy có một con Rồng chúa bay ngang qua thấy Đức Phật bị mưa

ướt thì liền cuộn tròn mình lại thành một cái bệ cho Đức Phật ngồi khỏi lấm đất, còn

phần đầu của mình hóa thành bảy cái đầu làm thành cái vòm che mưa cho Đức Phật.

Do đó, người Khmer thường khắc hình rồng bảy đầu ở cổng chùa để tưởng nhớ công

ơn của Rồng chúa đã che mưa cho Đức Phật.

(Người kể: Đại đức Pháp Tấn, trụ trì chùa Giồng Lớn, ấp Cây Gia, xã Đại An,

huyện Trà Cú)

Sự tích hình chim Grut ở chùa

Ở một vương quốc của vua Prùm-mà-thọt có một người con gái xinh đẹp tên là

Ca-ky, nàng sống bằng nghề ca hát. Nàng Ca-ky rất thích quyến rũ đàn ông, nàng yêu

tất cả đàn ông trong nước. Do say đắm sắc đẹp của nàng, vua Prùm-mà-thọt cưới nàng

làm vợ. Dù đã là vợ vua nhưng nàng vẫn có nhiều người tình, do đó là bản tính của

nàng.

Trong nước Prùm-mà-thọt có một con chim đại bàng rất lớn, có phép thuật cao,

tên là Grut, chim cũng đem lòng say đắm sắc đẹp của nàng nên trong một buổi tiệc,

khi nàng Ca-ky đang múa hát thì chim Grut tạo ra một cơn gió lớn thổi vào hoàng

cung và cướp đi nàng Ca-ky bay đi. Sau khi cướp nàng nàng Ca-ky, chim thả nàng vào

một hang động và sống cùng nàng ở đấy. Do bản tính đa tình nên sau đó nàng cũng

yêu chim Grut, sống vui vẻ cùng chim Grut nơi hang động. Nhưng chỉ sau một thời

38

gian ngắn nàng đã thấy buồn vì không được đi đâu cũng không được gặp ai.

Vua Prùm-mà-thọt sau khi bị mất nàng Ca-ky liền gọi Hôra vào bói và biết

được nơi chim Grut cất giấu nàng Ca-ky. Vua liền dẫn một đoàn quân đi tìm nơi ở của

chim Grut. Hai bên giao đấu với nhau không phân thắng bại. Đấu mãi đến khi cả hai

đều mệt thì họ nghĩ nàng Ca-ky là người không chung tình, chính nàng mới đáng chết,

khi đó nhà vua liền chém chết nàng. Chim Grut sau đó cũng đi tu để tạ tội với vua.

Chim Grut chính là một tiền kiếp của Đức Phật.

Ngày nay, xung quanh chánh điện, người ta thường khắc tượng chim Grut để

tưởng nhớ đến một tiền kiếp của Đức Phật.

(Người kể: Thạch Ngọc Sang, 1988, khóm 6, phường 9, thành phố Trà Vinh,

tỉnh Trà Vinh)

Sự tích hình voi ở chùa

Khi Đức Phật đã đắc đạo, ngày càng thu hút được nhiều tín đồ thì cũng là lúc

Đức Phật bị nhiều người ganh ghét, tìm cách hãm hại Đức Phật, trong đó có ông Thìa-

và-thọt. Thìa-và-thọt xuất thân trong dòng dõi vua chúa, là một người bà con của Đức

Phật, ông tu học nơi Đức Phật nhưng ông chỉ đắc đạo ở mức phàm tăng, còn các chư

tăng khác đắc đạo A-ra-hăng, do đó ông hết sức hận Đức Phật.

Thìa-và-thọt mới kéo băng nhóm và lập một giáo phái mới cho riêng mình, tìm

cách giết Đức Phật để làm bá chủ. Vào thời ấy, Phật giáo được vua Phùm-phì-sa tài trợ

mọi thứ. Vua là một người nhân từ nhưng ông có một người con rất độc ác tên là A-

chịa-rạt-sa-tốt. Thìa-và-thọt liên kết với A-chịa-rạt-sa-tốt để lập mưu làm bá chủ. Ông

nói với hoàng tử: “Ngài về tìm cách giết cha của ngài để lên làm vua và làm cho Đức

Phật phải thiếu thốn và đói chết. Còn tôi sẽ tìm cách giết Đức Phật để lên làm Phật”

Hoàng tử A-chịa-rạt-sa-tốt liền tìm cách bắt vua cha bỏ vào lồng, không cho ăn

uống gì cả. Ông hành hạ vua cha đến chết và lên ngôi vua. Thìa-và-thọt sau đó cũng

tìm được cách hại Đức Phật. Một ngày nọ, ông biết Đức Phật sẽ đi ngang núi, ông liền

trèo lên đỉnh núi chờ khi Đức Phật đi ngang thì xô tảng đá từ trên đỉnh núi xuống

nhằm đè chết Đức Phật.

Đức Phật khi ấy đã biết rõ là Thìa-và-thọt chuẩn bị đá đè mình nhưng ngài vẫn

tự nhiên đi qua núi. Ngài nghĩ: “Nếu ta không để Thìa-và-thọt ném đá trúng thì ông ấy

sẽ nổ tung thành bảy miếng. Ta phải chịu bị thương một chút để Thìa-và-thọt hài

lòng”. Và Ngài đã để tảng đá trúng vào chân mình và chảy máu. Khi mắc tội này thì

39

Thìa-và-thọt đã phải xuống địa ngục rồi nhưng cái nghiệp ấy chưa đến.

Ném đá giết Phật không được, Thìa-và-thọt tìm cách khác để giết Phật. Ông

nghĩ ra cách thả con voi Ki-ri-mia-ca-rặc, con voi chuyên đi đánh giặc, ra để nó giẫm

chết Đức Phật. Ông ta chờ khi Đức Phật đi bát ngang qua chuồng voi mới sai người

giữ voi thả voi ra để voi đạp chết Đức Phật.

Khi Đức Phật đi bát cùng các A-ra-hăng ngang qua chuồng voi, thấy voi dữ

xuất hiện các A-ra-hăng nói với Đức Phật: “Ngài hãy tránh đi, con voi này dữ lắm”.

Phật trả lời: “Ta không né tránh đâu, ta sẽ không bao giờ sát sinh”. Nói xong, ngài cứ

đi tiếp tục. Đức Phật vừa đi thì con voi cũng đã đến trước mặt Ngài. Nhưng con voi ấy

cảm động trước tấm lòng từ bi của Đức Phật nên khi đến trước mặt Đức Phật, nó liền

quỳ xuống lạy Đức Phật. Voi lạy xong, Đức Phật liền dẫn voi vào chuồng.

Thìa-và-thọt và A-chịa-rạt-sa-tốt sa đó đều bị đày xuống địa ngục.

Người Khmer thường vẽ những bức họa thể hiện nội dung câu truyện này trên

tường quanh chánh điện hoặc khắc hình voi quanh lối đi vào chánh điện như muốn nói

rằng cái thiện và lòng từ bi có thể cảm hóa mọi thứ.

(Người kể: Thạch Sâm Nang, 1991, khóm 6, phường 9, thành phố Trà Vinh)

Sự tích bông cau trong ngày cưới

Ngày xưa có một chằn tên Pnọt-yard, chằn đem lòng yêu cô A-ren-mo-tây, con

gái bà Phum-ma-la. Chằn đến gặp bà Phum-ma-la xin hỏi cưới A-ren-mo-tây, bà dù rất

sợ và không thích chằn nhưng cũng không dám từ chối chằn. Bà nảy ra một mưu kế để

từ chối chằn. Bà kêu chằn lại và dặn: “Con hãy đi tìm những loại bông nở còn trong

buồng về làm lễ cưới”.

Pnọt-yard nghe lời bà ra đi tìm bông nở trong buồng, nhưng chằn đi mãi vẫn

không tìm được những cái bông như bà Phum-ma-la yêu cầu. Buồn bã, Pnọt-yard trở

về. Trên đường về, chằn ngồi nghỉ dưới gốc một cây cau, vô tình ông ngước nhìn lên

cây và thấy những bông cau nở, đặc biệt là những bông cau này dù nở nhưng vẫn còn

được bao bọc trong cái buồng cau. Chằn mừng lắm, liền hái buồng cau đó về cho bà

Phum-ma-la. Bà Phum-ma-la đành phải tổ chức lễ cưới cho nàng A-ren-mo-tây cùng

chằn Pnọt-yard.

Từ tích truyện này, người Khmer luôn dùng bông cau để làm lễ cưới. Với người

Khơme, bông cau tượng trưng cho sự trong trắng, xinh đẹp của người con gái.

40

(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)

Ba bông hoa cau trong ngày cưới

Ngày xưa, có bốn chàng trai cùng đi tìm thầy học nghề: một người học bói, một

người học bắn cung, một ngưởi lặn và một người học nghề thuốc. Khi đã học thành tài,

bốn người từ giã thầy lên đường về quê.

Khi đi ngang qua một con sông, cả bốn người đang ngồi nghỉ chờ ghe chở qua

sông thì người bói nói: “Chút nữa sẽ có một con đại bàng tha một công chúa bay

ngang qua đây và nó sẽ thả công chúa xuống con sông này”. Người này vừa nói dứt lời

thì chim đại bàng đã bay tới. Người bắn cung liền giơ cung lên bắn trúng vào cánh

chim đại bàng. Chim đại bàng bị bắn trúng liền thả công chúa xuống dòng sông.

Người thợ lặn liền bơi ra sông ôm công chúa vào. Người thầy thuốc mới bốc thuốc cứu

công chúa.

Sau khi công chúa tỉnh dậy, cả bốn người đề đòi cưới công chúa làm vợ. Người

bói nói: “Nếu tôi không bói ra công chúa bị đại bàng tha ngang đây thì làm sao các

ngươi cứu được công chúa. Ta mới xứng đáng làm chồng công chúa”.

Người bắn cung nói: “Nhờ ta bắn trúng đại bàng, nó mới thả công chúa. Ta mới

xứng đáng làm chồng công chúa”

Người thợ lặn cũng nói: “Nếu ta không bơi ra sông mang công chúa vào thì

công chúa đã chết rồi. Ta mới xứng đáng làm chồng công chúa”

Người thầy thuốc nói: “Nếu ta không bốc thuốc, chăm sóc cho công chúa thì

công chúa cũng không thể tỉnh lại”

Cả bốn người đều đưa ra lí do và nói mình mới là chồng công chúa, không ai

nhịn ai. Khi ấy Đức Bồ Tát đi ngang qua nhìn thấy họ tranh cãi nhau mới hỏi họ. Họ

trình bày cho Bồ Tát nghe câu chuyện của họ. Nghe xong Bồ Tát nói: “Người đã mang

công chúa từ dưới sông lên được làm chồng công chúa vì người này đã chạm vào

người công chúa. Người bói là cha công chúa vì người này đoán biết và lo tương lai

của con mình Người cứu là mẹ công chúa vì có công chăm sóc, người bắn cung là

anh”. Cả bốn người nghe Bồ Tát nói xong đều vui vẻ đồng ý với ý kiến của Bồ Tát.

Công chúa thành vợ anh thợ lặn. Trong ngày cưới của họ, họ tết ba bó bông cau để tạ

ơn ba vị này. Bó thứ nhất có 21 đôi trầu và 21 trái cau tượng trưng cho ân của cha đối

với con. Bó thứ hai có 12 đôi trầu và 12 trái cau tượng trưng cho công ơn của mẹ. Bó

41

thứ ba có 6 đôi trầu và 6 trái cau tượng trưng cho ân của người anh.

Từ câu chuyện này, người Khmer thường làm ba bó bông cau trong ngày cưới

để tạ ơn cha, mẹ, anh chị trong gia đình đã có ơn lo lắng, chăm sóc cho cô dâu. Tục lệ

này đến nay vẫn còn được lưu giữ.

42

(Người kể: Kim Vuông, 1939, số 361, Lê Lợi, khóm 4, phường 1, Trà Vinh)