ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN THANH MINH
VẬT LIỆU KHUNG HỮU CƠ KIM LOẠI ĐỒNG (II) –
CARBOXYLATE: TỔNG HỢP, BIẾN TÍNH
VÀ ỨNG DỤNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
HUẾ, NĂM 2021
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
TRẦN THANH MINH
VẬT LIỆU KHUNG HỮU CƠ KIM LOẠI ĐỒNG (II) –
CARBOXYLATE: TỔNG HỢP, BIẾN TÍNH
VÀ ỨNG DỤNG
Ngành: HÓA HỮU CƠ
Mã số: 9440114
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. ĐINH QUANG KHIẾU
2. PGS.TS. NGUYỄN HẢI PHONG
HUẾ, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và của
nhóm nghiên cứu. Tất cả số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực,
Nghiên cứu sinh
Trần Thanh Minh
chưa được người khác công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS.TS. Đinh Quang Khiếu,
PGS.TS. Nguyễn Hải Phong đã giao đề tài và tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, các bạn đồng nghiệp trong bộ
môn Hóa Hữu cơ và trong khoa Hóa đã luôn động viên và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin được cảm ơn Lãnh đạo nhà trường, Lãnh đạo Đại học Huế,
phòng Sau đại học và các phòng ban chức năng đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi hoàn
thành các thủ tục trong suốt quá trình học tập.
Xin cảm ơn các bạn sinh viên, học viên cao học đã đồng hành cùng tôi
trong những năm làm thực nghiệm vừa qua.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới người thân, bạn bè đã quan tâm,
động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện luận án.
Huế, ngày 30 tháng 7 năm 2020
Nghiên cứu sinh
Trần Thanh Minh
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT .................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................... vii
DANH MỤC CÁC HÌNH ....................................................................................... viii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................... 5
1.1. VẬT LIỆU KHUNG HỮU CƠ - KIM LOẠI ...................................................... 5
1.1.1. Giới thiệu vật liệu khung hữu cơ – kim loại ..................................................... 5
1.1.2. Vật liệu MOF-199 ........................................................................................... 11
1.2. ỨNG DỤNG MOFs LÀM TIỀN CHẤT TỔNG HỢP NANO OXIDE KIM
LOẠI ......................................................................................................................... 17
1.3. CƠ CHẾ XÚC TÁC QUANG HÓA CỦA CHẤT BÁN DẪN p – n CuO – ZnO . 20
1.3.1. Vật liệu bán dẫn p – n ..................................................................................... 20
1.3.2. Cấu trúc và cơ chế xúc tác quang hóa của nano oxide p – n ZnO – CuO....... 21
1.3.3. Tình hình nghiên cứu tổng hợp vật liệu bán dẫn p – n CuO – ZnO ............... 23
1.4. ỨNG DỤNG VẬT LIỆU MOFs LÀM ĐIỆN CỰC .......................................... 26
1.5. ỨNG DỤNG MOFs XÚC TÁC PHẢN ỨNG ACETAL HÓA BENZALDEHYDE
BẰNG METHANOL ................................................................................................ 29
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 33
2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU............................................................................... 33
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................................... 33
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .............................................................................. 33
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................................... 33
2.4.1. Các phương pháp nghiên cứu đặc trưng vật liệu ............................................ 33
2.4.2. Các phương pháp khảo sát hoạt tính xúc tác và hoạt tính điện hóa ................ 42
2.4.3. Phương pháp thống kê ..................................................................................... 44
2.5. THỰC NGHIỆM ................................................................................................ 47
2.5.1. Hóa chất .......................................................................................................... 47
iii
2.5.2. Quy trình tổng hợp và xác định tính chất vật liệu ........................................... 48
2.5.3. Khảo sát hoạt tính xúc tác cho phản ứng acetal hóa benzaldehyde ................ 52
2.5.4. Khảo sát hoạt tính xúc tác quang hóa phân hủy methylene blue .................... 52
2.5.5. Nghiên cứu động học quá trình quang xúc tác phân hủy MB ........................ 53
2.5.6. Nghiên cứu đặc tính các hợp chất phân tích trên điện cực biến tính .............. 55
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 57
3.1. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP MOF-199 VÀ ỨNG DỤNG LÀM CHẤT BIẾN
TÍNH ĐIỆN CỰC ..................................................................................................... 57
3.1.1. Nghiên cứu tổng hợp MOF-199 bằng phương pháp dung nhiệt và phương
pháp vi sóng .............................................................................................................. 57
3.1.2. Nghiên cứu xác định paracetamol và caffeine bằng phương pháp dòng-thế
hòa tan sử dụng điện cực GCE biến tính bằng MOF-199 ......................................... 70
3.2. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP NH2-MOF-199 VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG BIẾN TÍNH ĐIỆN CỰC ........................................................................................... 83
3.2.1. Nghiên cứu tổng hợp NH2-MOF-199 ............................................................. 83 3.2.2. Khả năng sử dụng NH2-MOF-199 làm chất biến tính điện cực để xác định đồng thời Pb(II) và Cd(II) hay uric acid (UA) và ascorbic acid (AA) ...................... 89
3.3. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP Zn-MOF-199 VÀ ỨNG DỤNG XÚC TÁC CHO
PHẢN ỨNG ACETAL HÓA BENZALDEHYDE BẰNG METHANOL .............. 92
3.3.1. Nghiên cứu tổng hợp Zn-MOF-199 ................................................................ 92
3.3.2. Hoạt tính xúc tác của vật liệu Zn-MOF-199 đối với phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol .................................................................................. 100
3.4. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP NANO ZnO/CuO TỪ VẬT LIỆU Zn-MOF-199
VÀ ỨNG DỤNG XÚC TÁC QUANG HÓA ......................................................... 107
3.4.1. Nghiên cứu tổng hợp nano ZnO/CuO từ vật liệu Zn-MOF-199 ................... 107
3.4.2. Xác định khả năng xúc tác quang hóa của vật liệu ....................................... 116
3.4.3. Cơ chế của quá trình xúc tác quang hóa ....................................................... 120
3.4.4. Động học của quá trình quang xúc tác phân hủy MB ................................... 123
3.4.5. Khảo sát khả năng tái sử dụng của vật liệu ................................................... 128
3.4.6. Khả năng xúc tác của vật liệu đối với một số chất màu khác ....................... 129
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................ 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 134
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
Ascorbic acid AA
AAS Atomic Absorption Spectrometry (Phổ hấp thụ nguyên tử)
ABDC 2-aminobenzene-1,4-dicarboxylic acid
BA Benzaldehyde
BDA Benzaldehyde dimethyl acetal
BET Brunauer-Emmet-Teller
CAF Caffeine
CV Voltammetry Cyclic (Volt-ampere vòng)
DE Diamond Electrode (Điện cực kim cương)
DMF N,N-dimethylformamide
DP-ASV Differential Pulse - Anodic Stripping Voltammetry (Volt-ampere
hòa tan anode xung vi phân)
DTA Differential Thermal Analysis (Phân tích nhiệt vi sai)
EDX Energy Dispersive X-ray (Phổ tán xạ tia X)
EtOH Ethanol
FT-IR Fourier Transform Infrared Spectroscopy (Phổ hồng ngoại biến
đổi Fourier)
GCE
Glassy Carbon Electrode (Điện cực carbon thủy tinh)
Benzene-1,3,5-tricarboxylic acid H3BTC
HR-TEM High-Resolution Transmission Electron Microscope (Hiển vi điện
tử truyền qua phân giải cao)
IUPAC International Union Of Pure And Applied Chemistry (Hiệp hội
quốc tế của Hóa học cơ bản và ứng dụng)
LC Liquid Chromatography (Sắc ký lỏng)
MA-GT1 MOF-199 biến tính bằng ABDC theo phương pháp gián tiếp 1
MA-GT2 MOF-199 biến tính bằng ABDC theo phương pháp gián tiếp 2
v
MOF-199 biến tính bằng ABDC theo phương pháp trực tiếp MA-TT
MB Methylene blue
MeOH Methanol
MOFs Metal Organic Frameworks (Khung hữu cơ kim loại)
MW-MOF-199 MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng
NH2-MOF-199 MOF-199 biến tính bằng 2-aminobenzene-1,4-dicarboxylic acid
PAR Paracetamol
SBUs Second Building Units (Đơn vị xây dựng thứ cấp)
SEM Scanning Electron Microscopy (Hiển vi điện tử quét)
SPE Screen Printed Electrode (Điện cực in)
ST-MOF-199 MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt
STT Số thứ tự
TEM Transmission Electron Microscope (Hiển vi điện tử truyền qua)
TGA Thermal Gravimetric Analysis (Phân tích nhiệt trọng lượng)
TLTK Tài liệu tham khảo
TOC Total Organic Carbon (Tổng carbon hữu cơ)
UA Uric acid
UV-Vis Ultraviolet-Visible (Tử ngoại - khả kiến)
UV-Vis-DRS Ultraviolet-Visible Diffuse Reflectance Spectroscopy (Phổ phản
xạ khuếch tán tử ngoại - khả kiến)
XPS X-ray Photoelectron Spectroscopy (Phổ quang điện tử tia X)
XRD X-Ray Diffraction (Nhiễu xạ tia X)
Zn-MOF-199 MOF-199 biến tính bằng ion Zn(II)
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Diện tích bề mặt của MOF-199 tổng hợp ở các điều kiện khác nhau ...... 14
Bảng 1.2. Các phương pháp tổng hợp và ứng dụng của vật liệu nano oxide ZnO – CuO
................................................................................................................................... 25
Bảng 1.3. Độ chuyển hóa của phản ứng acetal hóa của benzaldehyde với methanol sử dụng các chất xúc tác MOFs khác nhau [a] ........................................................... 31
Bảng 1.4. Sự so sánh hoạt tính của Cu3(BTC)2 với các xúc tác dị thể khác đối với phản ứng acetal hóa aldehyde bằng methanol[a] ........................................................ 32
Bảng 2.1. Danh mục hóa chất ................................................................................... 47
Bảng 2.2. Lượng hóa chất trong các thí nghiệm tổng hợp MOF-199 ...................... 49
Bảng 3.1. Tính chất xốp của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng và
phương pháp dung nhiệt ............................................................................................ 66
Bảng 3.2. So sánh diện tích bề mặt của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi
sóng và phương pháp dung nhiệt .............................................................................. 67
Bảng 3.3. So sánh LOD của các phương pháp phân tích điện hóa khác nhau trong
việc xác định PAR và CAF ....................................................................................... 81
Bảng 3.4. Kết quả xác định PAR và CAF trong mẫu thuốc dùng phương pháp đề
nghị và HPLC ............................................................................................................ 82
Bảng 3.5. Tính chất xốp của vật liệu MA-GT2 ........................................................ 88
Bảng 3.6. Thành phần nguyên tố C, H, Zn và Cu trong mẫu Zn-MOF-199 ............ 96
Bảng 3.7. Hoạt tính xúc tác của một số vật liệu MOFs đối với phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol .................................................................................. 104
Bảng 3.8. Bảng phân tích nguyên tố C, H, Zn, Cu trong mẫu ZnO/CuO ............... 110 Bảng 3.9. Hệ số xác định (R2) và hằng số tốc độ biểu kiến (kr) của mô hình đề xuất
ở dạng tuyến tính và mô hình bậc nhất biểu kiến ................................................... 125
Bảng 3.10. So sánh hằng số tốc độ bậc nhất biểu kiến (kr) của chất xúc tác
ZnO/CuO tổng hợp với các chất xúc tác khác ........................................................ 127
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Một số cầu nối hữu cơ (anion) trong MOFs. .............................................. 6
Hình 1.2. Một số đơn vị cấu trúc MOFs với các kim loại và phối tử khác nhau. ........ 6
Hình 1.3. Sự hình thành cấu trúc MOFs bằng phương pháp dung nhiệt. ................... 7
Hình 1.4. Phân bố ứng dụng của MOFs. .................................................................. 10
Hình 1.5. Minh họa sự tạo thành MOF-199. ............................................................ 11
Hình 1.6. Đơn vị cấu trúc của MOF-199. ................................................................. 12
Hình 1.7. Giản đồ XRD của MOF-199. ................................................................... 13
Hình 1.8. Giản đồ XRD của MOF-199. Các nhiễu xạ Cu2O được định danh theo
01-1142 JCPDS. ........................................................................................................ 15 Hình 1.9. Ảnh SEM của MOF-199 tại 140 oC (a), 150 oC (b), 160 oC (c), 170 oC
(d). ............................................................................................................................. 16
Hình 1.10. a) Quy trình tổng hợp các oxide kim loại nano có nguồn gốc từ mẫu
aph-MOF; b) Ảnh TEM và c) Đường đẳng nhiệt hấp phụ N2 của vật liệu nano MgO
với mao quản trung bình và vi mao quản được xác định rõ. ..................................... 18
Hình 1.11. Cấu trúc nano oxide ZnxCo3-xO4 thu được từ sự phân hủy nhiệt ZIF
lưỡng kim: a-b) Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường nhiệt (FESEM); c-d) Hình
ảnh TEM và e-g) Hình ảnh tán xạ năng lượng tia X của ZnxCo3-xO4. ...................... 20
Hình 1.12. Giản đồ XRD của vật liệu nano oxide ZnO – CuO. ............................... 21
Hình 1.13. Sự hình thành nút giao thoa p – n của vật liệu p–CuO/n–ZnO. ............. 22
Hình 1.14. Giản đồ XRD (a) và ảnh SEM (b) của vật liệu nano oxide ZnO – CuO
tổng hợp bằng phương pháp đồng kết tủa. ................................................................ 24
Hình 1.15. Giản đồ XRD (a) và ảnh SEM (b) của vật liệu nano oxide ZnO – CuO
tổng hợp bằng phương pháp phân hủy nhiệt các muối kim loại. ................................ 24
Hình 1.16. Ảnh SEM của vật liệu nano oxide ZnO/CuO. ........................................ 25
Hình 1.17. Minh họa một số cấu hình biến tính điện cực bằng vật liệu mao quản
rắn. ............................................................................................................................. 27
Hình 1.18. Cơ chế phản ứng acetal hóa sử dụng xúc tác Lewis acid. ............................ 29
Hình 1.19. Cơ chế phản ứng acetal hóa sử dụng xúc tác Bronsted acid. ................. 30
viii
Hình 1.20. Độ chuyển hóa của phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol
với xúc tác Cu3(BTC)2 (a) và Fe(BTC) (b). .............................................................. 31
Hình 2.1. Hiện tượng các tia X nhiễu xạ trên các mặt tinh thể chất rắn .................. 34
Hình 2.2. Các dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ theo phân loại
IUPAC. ...................................................................................................................... 36
Hình 2.3. Thiết bị vi sóng tự tạo sử dụng tổng hợp MOF-199. ................................ 49
Hình 2.4. Sơ đồ tiến trình thí nghiệm theo phương pháp volt-ampere vòng. .......... 56
Hình 2.5. Sơ đồ tiến trình thí nghiệm theo phương pháp volt-ampere xung vi phân.
................................................................................................................................... 56
Hình 3.1. Giản đồ XRD của các mẫu vật liệu tổng hợp dung nhiệt ở các nhiệt độ
khác nhau (a) và tổng hợp vi sóng ở các mức năng lượng khác nhau (b). ............... 58
Hình 3.2. Giản đồ XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp ở các nồng độ H3BTC
khác nhau theo phương pháp dung nhiệt (a) và vi sóng (b). ..................................... 59
Hình 3.3. Giản đồ XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp ở các thời gian khác nhau
bằng phương pháp vi sóng (a) và phương pháp dung nhiệt (b). ............................... 61
Hình 3.4. Hiệu suất tổng hợp MOF-199 theo thời gian bằng phương pháp vi sóng
và phương pháp dung nhiệt. ...................................................................................... 62
Hình 3.5. Ảnh SEM của MW-MOF-199 ở các thời gian khác nhau (a1: 5 phút; a2:
10 phút; a3: 15 phút; a4: 30 phút; a5: 45 phút) và ST-MOF-199 ở các thời gian khác
nhau (b1: 30 phút; b2: 60 phút; b3: 120 phút; b4: 360 phút; b5: 420 phút).............. 63
Hình 3.6. Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của MOF-199 tổng hợp bằng
phương pháp vi sóng (a); phương pháp dung nhiệt (b). ............................................ 65
Hình 3.7. Giản đồ TG của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng (a);
phương pháp dung nhiệt (b). ..................................................................................... 68
Hình 3.8. Phổ FT-IR của ST-MOF-199, MW-MOF-199 và H3BTC. ...................... 69
Hình 3.9. Đường CVs cho PAR và CAF trên điện cực GCE, Naf-GCE, MW-MOF-
199/Naf-GCE, và ST-MOF-199/Naf –GCE. ............................................................ 70
Hình 3.10. Sự phụ thuộc của Ip vào a) dung môi phân tán MOF-199; b) thể tích
huyền phù MOF-199 để biến tính điện cực. ............................................................ 72
ix
Hình 3.11. a) CVs của PAR và CAF trên điện cực MOF-199/Naf-GCE trong đệm
Britton–Robinson 0,5 M với pH 2 đến 9,2; b) Đồ thị của EpPRC và EpCAF theo pH.
................................................................................................................................... 73
Hình 3.12. a) CVs cho PAR và CAF trên điện cực MOF-199/Naf-GCE theo sự tăng dần của tốc độ quét từ 0,01-0,30 V s-1; b) Hồi quy tuyến tính Ip theo v; c) Sự phụ thuộc Ip của PAR và CAF vào căn bậc hai tốc độ quét (v1/2); d) Đồ thị của lnIp,PAR
và lnIp,CAF theo lnv; e) Đồ thị của Eap theo lnν. ......................................................... 74
Hình 3.13. Sơ đồ oxy hóa PAR và CAF ................................................................... 77
Hình 3.14. Đường DPV tại điện cực MOF-199/Naf- GCE đối với: a) PAR ở các nồng độ khác nhau với sự hiện diện của 5×10-4 M CAF trong đệm phosphate 0,1 M
pH 3; b) Đường DPV nhận được tại điện cực MOF-199/Naf- GCE đối với CAF tại các nồng độ khác nhau với sự hiện diện 5×10-4 M PAR trong đệm phosphate 0,1 M
pH 3. .......................................................................................................................... 78
Hình 3.15. a) Đường DPV của sự oxy hóa PAR and CAF ở các nồng độ bằng nhau
trong đệm phosphate 0,1 M pH 3, b) Đồ thị logarithm của Ip,PAR và Ip,CAF theo nồng
độ của nó. .................................................................................................................. 79
Hình 3.16. Ảnh SEM (a) và giản đồ FT-IR (b) của mẫu biến tính theo phương pháp
trực tiếp MA-TT. ....................................................................................................... 84
Hình 3.17. Ảnh SEM (a) và giản đồ FT-IR (b) của mẫu biến tính theo phương pháp
gián tiếp thứ nhất MA-GT1. ...................................................................................... 84
Hình 3.18. Giản đồ FT-IR của MOF-199, MA-GT2, Cu-ABDC và ABDC. .......... 85
Hình 3.19. Ảnh SEM mẫu biến tính gián tiếp theo phương pháp thứ hai MA-GT2.
................................................................................................................................... 86
Hình 3.20. So sánh XRD của MOF-199 với vật liệu biến tính gián tiếp MA-GT2. 86
Hình 3.21. Giản đồ phân tích nhiệt của MA-GT2. ................................................... 87
Hình 3.22. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của vật liệu MA-GT2. .... 88
Hình 3.23. Mô hình cơ chế quá trình biến tính MOF-199 gián tiếp bằng hợp chất
chứa nhóm chức amine. ............................................................................................ 89
x
Hình 3.24. a) Đường DP-ASV của Cd(II) và Pb(II) trong khoảng nồng độ 5 đến 30
ppm trong đệm acetate 0,1 M (pH 4,5); b) Đường hồi quy tuyến tính Iap theo nồng độ.
................................................................................................................................... 90
Hình 3.25. a) Đường DP-ASV của AA và UA ở các nồng độ khác nhau trong
khoảng nồng độ từ 30 đến 548 µM và 10 đến 431 µM trong đệm phosphate 0,1M
(pH 7); b) hồi quy tuyến tính của Ip theo nồng độ. .................................................. 90
Hình 3.26. Giản đồ XRD của các mẫu Zn-MOF-199 tổng hợp ở các tỷ lệ mol
Cu:Zn là 8:2 (a), 7:3 (b), 5:5 (c), 3:7 (d); Zn-BTC (e) và MOF-199 (f). .................. 93
Hình 3.27. Ảnh SEM của các mẫu MOF-199 (a1,a2), Zn-BTC (b1,b2) và Zn-MOF-
199 (c1,c2). ................................................................................................................ 95
Hình 3.28. Phổ XPS tổng quát của Zn-MOF-199 (a), Cu2p (b) và Zn2p (c). ......... 97
Hình 3.29. Giản đồ phân tích nhiệt TG-DTA của các mẫu Zn-BTC (a), MOF-199
(b) và Zn-MOF-199 (c). ............................................................................................ 98
Hình 3.30. Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của các mẫu MOF-199, Zn-BTC
và Zn-MOF-199. ....................................................................................................... 99
Hình 3.31. Hiệu suất của phản ứng với xúc tác MOF-199, Zn-MOF-199, Zn-BTC,
MOF-199:Zn-BTC (1:1) và không có chất xúc tác................................................. 101
Hình 3.32. Hiệu suất phản ứng ở các nhiệt độ khác nhau. ..................................... 102
Hình 3.33. Hiệu suất phản ứng ở các thời gian khác nhau. .................................... 103
Hình 3.34. Hiệu suất phản ứng với các lượng chất xúc tác Zn-MOF-199 khác nhau.
................................................................................................................................. 103
Hình 3.35. Sự ảnh hưởng của Zn-MOF-199 đối với phản ứng acetal hóa. ............ 105
Hình 3.36. Hiệu suất phản ứng trên xúc tác Zn-MOF-199 sau nhiều lần tái sử dụng.
................................................................................................................................. 106
Hình 3.37. Giản đồ XRD của ZnO, CuO và ZnO/CuO........................................ 108
Hình 3.38. Ảnh SEM các mẫu: a1) MOF-199, b1) Zn-BTC, c1) Zn-MOF-199, a2)
CuO, b2) ZnO, c2)ZnO/CuO, d1) Ảnh TEM mẫu ZnO/CuO; d2) Ảnh HR-TEM của
ZnO/CuO. ................................................................................................................ 109
Hình 3.39. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của các mẫu CuO, ZnO và
ZnO/CuO. ................................................................................................................ 111
xi
Hình 3.40. Phổ XPS của mẫu ZnO/CuO: (a) phổ khảo sát; b) phổ Cu2p và c) phổ
Zn2p. ....................................................................................................................... 112
Hình 3.41. a) Phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại - khả kiến; b) Biểu đồ Tauc của
ZnO, CuO và ZnO/CuO. ......................................................................................... 113
Hình 3.42. Phổ huỳnh quang của CuO, ZnO and ZnO/CuO. ................................. 114
Hình 3.43. Đường biểu diễn điểm đẳng điện của vật liệu ZnO/ CuO trong dung dịch KCl.
................................................................................................................................. 115
Hình 3.44. Sự phân hủy MB bởi các chất xúc tác khác nhau dưới ánh UV và Vis.
................................................................................................................................. 116
Hình 3.45. a) Phổ hấp thụ UV-Vis của dung dịch MB tại các thời điểm khác nhau
và b) TOC của dung dịch MB trong quá trình quang xúc tác. ................................ 118
Hình 3.46. Sự ảnh hưởng của vật liệu ZnO/CuO đến quá trình loại bỏ MB. ......... 119
Hình 3.47. Sự ảnh hưởng của pH đến quá trình quang xúc tác của ZnO/CuO. ..... 120
Hình 3.48. Ảnh hưởng của chất kìm hãm gốc tự do (KI, isopropanol, và
benzoquinone) lên quá trình phân hủy MB của ZnO/CuO. .................................... 121
Hình 3.49. Sơ đồ minh họa đường di chuyển của các hạt mang điện trên các vùng
hóa trị và dẫn của vật liệu bán dẫn ghép ZnO/CuO trong quá trình quang xúc tác.
................................................................................................................................. 123
Hình 3.50. Động học của quá trình hấp phụ và quang xúc tác phân hủy MB của
ZnO/CuO. ................................................................................................................ 124
Hình 3.51. a) Hiệu suất phân hủy MB của ZnO/CuO qua nhiều lần tái sử dụng; b)
Giản đồ XRD của ZnO/CuO sau 4 lần sử dụng. ..................................................... 128
Hình 3.52. Khả năng quang xúc tác của ZnO, CuO và ZnO/CuO đối với một số
chất màu và phenol. ................................................................................................. 129
xii
MỞ ĐẦU
Vật liệu có độ xốp và diện tích bề mặt lớn là một trong những hướng nghiên
cứu luôn được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm từ trước đến
nay, vì loại vật liệu này có nhiều ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực như lưu
trữ khí, hấp phụ khí, phân tách khí, xúc tác…[16]. Bên cạnh các loại vật liệu đã biết
trước đây như zeolite, than hoạt tính có diện tích bề mặt lớn từ vài trăm đến vài ngàn m2/g [16], một loại vật liệu mới được xây dựng trên cơ sở bộ khung hữu cơ -
kim loại gọi là vật liệu MOFs (metal organic frameworks) đã được tìm ra vào thập
niên 90 của thế kỷ 20.
MOFs được cấu trúc từ các ion hoặc các cụm ion kim loại với các cầu nối
hữu cơ (organic linkers) trong không gian ba chiều, là các vật liệu xốp chứa cả mao
quản trung bình và vi mao quản. Tùy thuộc vào phương pháp tổng hợp, loại ion kim
loại hoặc cầu nối hữu cơ có thể thu được các loại vật liệu MOFs khác nhau như
MOF-5, MOF-77, MIL-101, MIL-125, MIL-47, MIL-53… [52], [73]. Với những
ưu điểm nổi bật như có độ xốp khổng lồ (lên đến 90% là khoảng trống), diện tích bề mặt và thể tích mao quản rất lớn (2000 - 6000 m2/g; 1-2 cm3/g), hệ thống khung
mạng ba chiều, cấu trúc hình học đa dạng, có cấu trúc tinh thể và tâm hoạt động xúc
tác tương tự zeolite [66], vật liệu MOFs đã tạo ra một sự phát triển đột phá trong
suốt thập kỷ qua trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hấp phụ và xúc tác [26], [135].
Hoạt tính xúc tác của vật liệu MOFs phụ thuộc rất lớn vào ion kim loại trung
tâm và phối tử hữu cơ. MOF-199 được tạo thành trên cơ sở ion Cu(II) và benzene-
1,3,5-tricarboxylate, có tâm Cu(II) có cả hoạt tính oxy hóa và hoạt tính acid, phối tử
benzene-1,3,5-tricarboxylate lại có khả năng liên kết tương hợp với nhiều chất hữu
cơ khác, điều này làm cho MOF-199 có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh
vực hấp phụ, xúc tác, sensor điện hóa,...
Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu tổng hợp vật liệu MOF-199
bằng các phương pháp khác nhau như phương pháp dung nhiệt [35], [99], [119],
[136]; vi sóng [150]; siêu âm [47], [142]; điện hóa [74]; cơ hóa [74]; vi nhũ [159];
phối trộn trực tiếp [63] và ứng dụng MOF-199 làm chất hấp phụ, lưu trữ và tách khí
1
do có độ xốp lớn [42], [65], [172]; làm chất xúc tác cho phản ứng oxy hóa benzyl
alcohol [127], phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol [39],... Tuy nhiên
việc biến tính vật liệu MOF-199 và ứng dụng vẫn còn rất hạn chế. Đến nay đã có
một số công trình nghiên cứu biến tính MOF-199 bằng kim loại, oxide kim loại
hoặc các phối tử hữu cơ để ứng dụng lưu trữ khí, xúc tác như Pd@MOF-199 ứng
dụng lưu trữ khí H2 [91], MOF-199@Fe3O4 ứng dụng xúc tác oxy hóa liên kết C-H
ở nhóm benzylic [59], Cu-BTC-PyDC (PyDC: pyridine-3,5-dicarboxylate) ứng
dụng xúc tác oxy hóa toluene [114].
Một trong những ứng dụng mới và được các nhà khoa học quan tâm trong
những năm gần đây của vật liệu MOFs là sử dụng MOFs làm chất biến tính điện
cực, làm tiền chất để tổng hợp nano oxide. Trong số đó, MOF-199 đã được sử dụng
làm sensor điện hóa phát hiện aldehyde ở nồng độ thấp [37], làm tiền chất để tổng
hợp CuO/CeO2 ứng dụng làm chất xúc tác cho phản ứng oxy hóa CO [193]. MOF-
199 cũng đã được biến tính bằng các hạt nano Au-SH-SiO2 làm sensor điện hóa để
xác định hydrazine và L-cysteine [56], [57], biến tính bằng 2-aminobenzene-1,4-
dicarboxylate làm sensor điện hóa xác định Pb(II) [170].
Ở Việt Nam, vật liệu MOFs được nghiên cứu vào khoảng những năm 2008.
MOF-199 được 1 số nhóm tác giả nghiên cứu tổng hợp bằng phương pháp dung
nhiệt và ứng dụng làm xúc tác, hấp phụ khí [1], [122], [123]. Chưa có các công bố
nghiên cứu biến tính MOF-199, đặc biệt là ứng dụng MOF-199 trong biến tính điện
cực, làm tiền chất tổng hợp nano oxide.
Trên cơ sở tổng quan tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng hướng nghiên cứu biến
tính MOF-199 và ứng dụng vào các lĩnh vực mới như làm chất biến tính điện cực,
làm tiền chất tổng hợp nano oxide là hướng nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và tính
cấp thiết, đồng thời phù hợp với điều kiện nghiên cứu ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài: “Vật liệu khung hữu cơ kim loại đồng(II)-carboxylate: Tổng hợp, biến
tính và ứng dụng” với mục tiêu biến tính MOF-199 bằng Zn(II), ABDC và ứng dụng
MOF-199 cũng như các vật liệu biến tính làm chất biến tính điện cực, xúc tác hữu cơ
và làm tiền chất tổng hợp nano oxide.
2
Những điểm mới của luận án:
1. Đã tổng hợp được vật liệu MOF-199 theo hai phương pháp là phương pháp dung
nhiệt và phương pháp vi sóng. Phương pháp vi sóng có ưu thế cho hiệu suất cao,
giảm thời gian tổng hợp và diện tích bề mặt của vật liệu cao hơn so với phương
pháp dung nhiệt truyền thống. Điện cực GCE biến tính bởi MOF-199 (MOF-
199/Naf-GCE) được ứng dụng để phát triển một phương pháp phân tích điện hóa có
thể định lượng đồng thời PAR và CAF, và điện cực đã làm tăng độ nhạy phát hiện với giới hạn phát hiện thấp (1,3×10−6 M đối với paracetamol và 1,2x10-6 M đối với
caffeine). Phương pháp này đã được dùng để xác định paracetamol và caffeine trong
mẫu thuốc với độ thu hồi chấp nhận được từ 96% đến 107% đối với paracetamol và
95% đến 108% đối với caffeine. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả phân tích
bằng HPLC.
2. Đã tổng hợp được vật liệu Zn-MOF-199 bằng cách biến tính MOF-199 bằng
muối Zn(II) theo phương pháp trực tiếp. Zn-MOF-199 được sử dụng làm tiền chất
để tổng hợp lưỡng oxide n-p ZnO/CuO bằng phương pháp phân hủy nhiệt. Lưỡng oxide ZnO/CuO có cấu trúc nano đa chiều, diện tích bề mặt 32,5 m2/g, hấp thụ tốt
ánh sáng khả kiến. ZnO/CuO thể hiện hoạt tính xúc tác đối với các chất màu khác
nhau tốt hơn so với CuO và ZnO ở vùng khả kiến và cho thấy nó có thể sử dụng
như một vật liệu quang xúc tác trong thực tế để xử lý các hợp chất hữu cơ trong
nước thải công nghiệp nhờ có hoạt tính xúc tác cao, độ ổn định và khả năng tái sử
dụng cao. Cơ chế xúc tác quang và động học của quá trình phân hủy methylene blue
bằng ZnO/CuO cũng đã được nghiên cứu.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Sử dụng MOF-199, NH2-MOF-199 làm chất biến tính trên điện cực GCE để phân
tích điện hóa đồng thời các hợp chất như paracetamol và caffeine, uric acid và
ascorbic acid, Pb(II) và Cd(II), góp phần làm phong phú về việc phân tích các hợp
chất trên trong các mẫu hỗn hợp.
- Vật liệu Zn-MOF-199 đóng vai trò là chất xúc tác dị thể và có hoạt tính xúc tác
cao đối với phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol là một loại phản ứng
3
có ý nghĩa quan trọng tổng hợp hữu cơ. Ngoài ra, Zn-MOF-199 còn được sử dụng
làm tiền chất tổng hợp nano lưỡng oxide n-p ZnO/CuO, lưỡng oxide này có hoạt
tính xúc tác quang đối với nhiều chất màu khác nhau trong vùng ánh sáng khả kiến
và có thể định hướng để xử lý các hợp chất hữu cơ trong nước thải công nghiệp.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. VẬT LIỆU KHUNG HỮU CƠ - KIM LOẠI
1.1.1. Giới thiệu vật liệu khung hữu cơ – kim loại
Vật liệu khung hữu cơ – kim loại (metal – organic frameworks, MOFs) gồm
các vật liệu lai tinh thể mao quản hữu cơ – vô cơ, là một họ mới trong lĩnh vực vật
liệu mao quản. Vật liệu MOFs được biết đến từ những năm 1959, khi Kinoshita mô
tả cấu trúc tinh thể của bis(adiponitrilo) – đồng (I) nitrate [72]. Tới những năm 1990
hướng vật liệu này được quan tâm nghiên cứu trở lại, và đặc biệt khi nhóm nghiên
cứu của Yaghi công bố vật liệu MOF-5 [92]. Do có diện tích bề mặt và độ xốp lớn,
vật liệu MOFs đã tạo ra một sự phát triển đột phá trong suốt những thập kỷ qua
trong lĩnh vực hấp phụ và xúc tác [26], [48], [65], [135].
1.1.1.1. Cấu trúc vật liệu MOFs
MOFs được cấu trúc từ các ion hoặc các cụm ion kim loại với các cầu nối
hữu cơ (organic linker) trong không gian ba chiều, là các vật liệu xốp chứa cả mao
quản trung bình và vi mao quản. Tùy thuộc vào phương pháp tổng hợp, loại ion kim
loại hoặc cầu nối hữu cơ có thể thu được các loại vật liệu MOFs khác nhau như
MIL-101, MOF-5, MIL-125, MIL-47, MOF-77, MIL-53…
Các ion kim loại thường gặp là: Zn2+, Co2+, Ni2+, Cu2+, Cd2+, Fe2+, Mg2+, Al3+, Mn2+,… Ion kim loại trung tâm hay cụm ion kim loại trong vật liệu MOFs
đóng vai trò như “trục bánh xe”, còn các cầu nối hữu cơ đóng vai trò như là những
“chân chống”. Một số hợp chất hữu cơ là carboxylic acid thường dùng làm cầu nối
hữu cơ trong tổng hợp vật liệu MOFs như: 1,4-benzenedicarboxylic acid; 1,3,5-
benzenetricarboxylic acid; 2-aminobenzene-1,4-dicarboxylic acid, 2,6-
naphthalenedicarboxylic acid; 1,4-naphthalenedicarboxylic acid; 4,4’-
Bipyridine,…
5
Hình 1.1. Một số cầu nối hữu cơ (anion) trong MOFs [43].
Cơ chế hình thành vật liệu MOFs: Các đơn vị thứ cấp (SBUs) được xây dựng
từ các đơn vị sơ cấp là các cation kim loại hoặc các cụm kim loại và các anion cầu
nối hữu cơ (phối tử) tự sắp xếp nhờ liên kết cộng hóa trị để hình thành nên các khối
phân tử (molecular building blocks, MBBs) trong mạng lưới không gian ba chiều.
Hình 1.2 trình bày một số đơn vị cấu trúc của một số loại MOFs.
Hình 1.2. Một số đơn vị cấu trúc MOFs với các kim loại và phối tử khác nhau [185].
6
1.1.1.2. Phương pháp tổng hợp vật liệu MOFs
Vật liệu MOFs thường được tổng hợp bằng các phương pháp như: phương
pháp dung nhiệt, phương pháp vi sóng và siêu âm, phương pháp khuếch tán,…
a. Phương pháp dung nhiệt (solvothermal)
Đây là phương pháp thường sử dụng để tổng hợp MOFs. Phương pháp dung
nhiệt là phương pháp kết tinh MOFs bằng cách kết hợp cầu nối hữu cơ với muối ion
kim loại dưới tác dụng của nhiệt độ cao và áp suất hơi lớn trong dung môi phù hợp
(nước hay các dung môi hữu cơ). Khi nước là dung môi thì còn gọi là phương pháp
thủy nhiệt. Phương pháp này được tiến hành trong các bình kín gọi là bình
autoclave. Những thông số ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp là nhiệt độ, sự hòa tan
của tác chất trong dung môi, sự liên kết của ion kim loại và linker, pH của dung
Nước hoặc DMF/DEF
Tự sắp xếp Đun nóng
Trao đổi dung môi & rửa Xử lý nhiệt và chân không
Cấu trúc MOF
Tiền chất MOF
Muối kim loại
Phối tử hữu cơ
dịch,…
Hình 1.3. Sự hình thành cấu trúc MOFs bằng phương pháp dung nhiệt [85].
b. Phương pháp vi sóng và phương pháp siêu âm
Để tổng hợp MOFs theo vi sóng và phương pháp siêu âm, hệ phản ứng cần
được cung cấp năng lượng bằng vi sóng hoặc sóng siêu âm. Cho tới nay, phương
pháp vi sóng và phương pháp siêu âm không thường xuyên được sử dụng để tổng
hợp vật liệu MOFs, tuy nhiên đây là phương pháp rất hiệu quả để tổng hợp với tốc
độ nhanh, cũng như kiểm soát kích thước và hình dạng của tinh thể tạo thành.
Phương pháp vi sóng và phương pháp siêu âm là các phương pháp có nhiều
triển vọng với khoảng nhiệt độ sử dụng tương đối rộng, thời gian kết tinh ngắn.
7
c. Phương pháp hồi lưu
Hồi lưu là phương pháp trong đó dung môi bay hơi được ngưng tụ lại và trở
lại hệ thống phản ứng. Một hỗn hợp phản ứng được đặt trong bình phản ứng, được
nối với một ống sinh hàn hồi lưu, có tác dụng làm hơi dung môi nguội, chuyển
thành chất lỏng và quay trở lại hệ thống. Bình phản ứng được nâng nhiệt đến nhiệt
độ sôi của dung môi để phản ứng xảy ra.
d. Phương pháp không dung môi
Trong phương pháp này, muối kim loại và các cầu nối hữu cơ được trộn vào
nhau, hỗn hợp sau đó được gia nhiệt, có thể đến mức nóng chảy để xảy ra phản ứng
hóa học.
e. Phương pháp khuếch tán
Nguyên tắc của phương pháp này là mang các dạng khác nhau dần dần tiếp
xúc với nhau:
(1) Một trong những phương pháp là phân tán dung môi lỏng. Đầu tiên, 2 lớp
với mật độ khác nhau được hình thành; một lớp chứa sản phẩm trong một dung môi,
lớp khác chứa dung môi kết tủa, và các sản phẩm này được phân tách bởi một lớp
dung môi. Dung môi kết tủa phân tán chậm vào trong lớp phân tách và sự phát triển
tinh thể xảy ra giữa bề mặt phân cách.
(2) Phương pháp khác là sự phân tán chậm các chất phản ứng bởi sự phân
tách của hàng rào vật lý, như 2 dạng với kích thước khác nhau. Hơn nữa, trong một
vài trường hợp gel cũng được sử dụng như môi trường phân tán và sự tạo thành tinh
thể, đặc biệt dùng để làm chậm quá trình phân tán và ngăn ngừa sự kết tủa của khối
vật liệu.
Phương pháp phân tán được sử dụng để thu được đơn tinh thể phù hợp cho
phân tích X-ray thay cho các sản phẩm đa tinh thể hoặc vô định hình, đặc biệt nếu
các sản phẩm có độ hòa tan thấp.
1.1.1.3. Tính chất của MOFs
Một trong những tính chất đáng chú ý nhất của MOFs là độ xốp rất cao do
chúng có cấu trúc khung với vách ngăn ở dạng phân tử. Tùy thuộc vào kích thước
của các phối tử và các đơn vị xây dựng vô cơ, cũng như kết nối khung, các kênh mở
8
và lỗ rỗng trong vật liệu có thể có kích thước khác nhau từ một vài angstrom tới vài
nanometer.
Một trong những đặc tính nổi bật khác của vật liệu xốp khi so sánh với các
vật liệu khác là diện tích bề mặt rất lớn. Tính chất này của vật liệu là cực kỳ quan
trọng đối với nhiều ứng dụng liên quan đến xúc tác, tách và lưu trữ khí. Các báo cáo
về diện tích bề mặt cao nhất của cấu trúc không trật tự như than hoạt tính là trên 2000 m2/g, đối với vật liệu vô cơ như zeolit là trên 900 m2/g. Tuy nhiên, với sự ra
đời của vật liệu khung cơ kim, thì các giá trị bề mặt riêng của vật liệu đã có nhiều
thay đổi, liên tục các kỷ lục được thiết lập và phá vỡ theo sự ra đời của các cấu trúc MOFs mới, với giá trị có thể lên đến trên 6000 m2/g như đối với vật liệu MOF-210.
Mặc dù có nhiều ưu điểm vượt trội về diện tích bề mặt và tính chất xốp
nhưng các vật liệu MOFs có nhược điểm chính là độ bền nhiệt và hóa học thấp, dễ
bị thủy phân trong môi trường ẩm, ngoại trừ một số ít vật liệu MOFs như MOF-74,
Al-MIL-101, Cr-MIL-101 và Al-MIL-53 thể hiện độ bền cao đối với hơi nước và
nhiều dung môi hữu cơ [48], [124]. Vật liệu MOFs thường bị phân hủy nhiệt ở nhiệt
độ trong khoảng từ 300 C đến 400 . So với các vật liệu vô cơ, oxide, kim loại…
thì MOFs là loại vật liệu bền vững ở nhiệt độ thấp hơn do sự khác nhau về năng ° ℃
lượng liên kết hình thành vật liệu (MOFs được hình thành bởi liên kết phối trí giữa
ion kim loại với các phối tử hữu cơ, loại liên kết này kém bền hơn so với với các
liên kết ion, liên kết hóa trị,…).
1.1.1.4. Ứng dụng của vật liệu MOFs
Trong thập niên qua, lĩnh vực vật liệu MOFs phát triển nhanh chóng. Mặc dù
những nghiên cứu ban đầu tập trung chủ yếu về sự đa dạng của cấu trúc, xu hướng
nghiên cứu đã chuyển dần theo hướng ứng dụng với tiềm năng khác nhau trong
những năm qua. Các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên các ứng dụng của MOFs
như tích trữ khí, hấp phụ/tách khí, xúc tác, từ tính, phát quang,... [93].
9
1. Tích trữ khí - 2. Hấp phụ/tách khí chọn lọc - 3. Xúc tác - 4. Từ tính - 5.
Phát quang - 6. Điện từ - 7. Đặc tính khác.
Hình 1.4. Phân bố ứng dụng của MOFs [93].
MOFs là nhóm vật liệu lai mới đại diện cho loại vật liệu xốp có kích thước
nano cho thấy một triển vọng lớn về khả năng lưu trữ khí một cách an toàn và vượt
trội. Với đặc tính như: cấu trúc tinh thể dạng lỗ xốp lớn, tỉ khối thấp và diện tích bề
mặt lớn, MOFs được ứng dụng trong việc lưu trữ khí, đặc biệt là khí H2 và methane-
nhiên liệu dùng trong ô tô và các thiết bị khác. Đã có gần 5000 loại MOFs với cấu
trúc 2D và 3D đã được báo cáo từ lâu, nhưng chỉ có một số MOFs có lỗ xốp ổn
định đã được thử nghiệm để lưu trữ hydro. Tác giả Omar M.Yaghi và các cộng sự
đã nghiên cứu sự hấp phụ hydro của 7 loại vật liệu MOFs tại 77 K. Kết quả thấp
nhất với MOF-74, sự hấp phụ bão hòa tại 26 bar là 2,3 wt%, trong khi đó MOF-177
lên tới 70-80 bar và sự hấp phụ hydro là 7,5 wt% [163]. MOFs cũng được tập trung
nghiên cứu ứng dụng nhiều ở đặc tính phân tách khí CO2, một thành phần trong khí
đốt thiên nhiên, nó làm giảm độ tinh khiết của nhiên liệu, đồng thời cũng là một
trong những khí gây hiệu ứng nhà kính.
MOFs có bề mặt riêng lớn cũng được nghiên cứu áp dụng làm chất xúc tác
để làm tăng nhanh vận tốc cho các phản ứng hóa học trong những ứng dụng về sản
xuất vật liệu và dược phẩm. Tính xúc tác của MOFs không cạnh tranh được với
zeolite trong điều kiện phản ứng bắt buộc nhưng có giá trị cao trong các phản ứng
sản xuất hóa chất tinh khiết. Một số MOFs có đặc tính vi xốp vĩnh cửu giống
10
zeolites, nhưng một số thì không còn vi xốp khi dung môi được đuổi đi, tính bền
của vi xốp sau khi đuổi dung môi cần thiết cho ứng dụng tách khí, dự trữ khí, xúc
tác pha khí [42]. Với cấu trúc tinh thể trật tự cao, kích thước lỗ xốp của MOFs có
thể điều chỉnh cho phép nó xúc tác tốt trong một phản ứng cụ thể.
1.1.2. Vật liệu MOF-199
1.1.2.1. Cấu trúc vật liệu MOF-199
Vật liệu kết cấu khung cơ kim được tổng hợp trên cơ sở phức chất của ion
kim loại và phối tử hữu cơ. Các hợp chất hình thành nhờ liên kết phối trí của các ion
kim loại còn orbital trống với nhiều mức năng lượng với phối tử hữu cơ có chứa
nhóm chức mang nguyên tử có cặp electron tự do chưa hình thành liên kết. Đồng kim loại (Cu) là nguyên tố có cấu hình electron hóa trị 3d104s1. Trên
thực tế, một electron ở orbital 3d luôn có xu hướng nhảy lên orbital 4s do mức năng
lượng của chúng rất gần nhau nên dễ dàng có xu thế đạt cấu hình electron lớp ngoài cùng bền vững (4s2) của kim loại kiềm thổ và để lại một electron ở orbital 3d tự do
dễ dàng tham gia hình thành liên kết.
Năm 1999, Chui và cộng sự [35] lần đầu tiên công bố vật liệu MOF-199,
cũng thường được gọi HKUST-1. MOF-199 được tạo thành trên cơ sở kết hợp ion
Cu(II) và benzene- 1,3,5-tricarboxylate.
Cu2+
1,3,5-benzenetricarboxylate Cu2(CO2)4 (BTC)
MOF-199
Hình 1.5. Minh họa sự tạo thành MOF-199.
Đơn vị cấu trúc của MOF-199 gồm 1 cặp ion Cu(II) liên kết với 4 cầu
carboxylate (của 4 phối tử BTC) hình thành cấu trúc dạng bánh lái [35], [168].
11
MOF-199 ở dạng tổng hợp, mỗi ion Cu(II) trong đơn vị cấu trúc sẽ liên kết với 1
phân tử H2O [130].
Hình 1.6. Đơn vị cấu trúc của MOF-199 [35].
Do Cu(II) vừa có tính oxy hóa, vừa có tính acid và phối tử tricarboxylate lại
có khả năng liên kết tương hợp với nhiều chất hữu cơ khác, điều này làm cho MOF-
199 có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như hấp phụ, xúc tác, sinh
học, sensor,...
1.1.2.2. Đặc trưng của vật liệu MOF-199
- Cấu trúc vật liệu: MOF-199 có cấu trúc lập phương [35], và giản đồ XRD
thường có các pic đặc trưng như Hình 1.7.
12
Hình 1.7. Giản đồ XRD của MOF-199 [147].
Theo Schlichte [147], tỷ lệ cường độ của các pic (200)/(220), (331)/(420) có
liên quan đến sự tách loại nước khỏi cấu trúc MOF-199. Tỷ lệ cường độ pic
(331)/(420) càng cao chứng tỏ sự tách loại nước càng triệt để và tỷ lệ cường độ pic
(200)/(220) cao đặc biệt đối với mẫu tách loại nước triệt để.
- Hình thái và kích thước vật liệu: Theo các tài liệu đã được công bố thì tinh
thể MOF-199 tạo thành có hình dạng bát diện đều [1], [27], [123]. MOF-199
thường có kích thước hạt micrometer [35], [47], [88], [99], [176], [205], hạt có
kích thước nanometer rất ít được công bố.
- Diện tích bề mặt của vật liệu: Vật liệu MOF-199 có hệ thống mao quản khá
đều đặn. Cấu trúc mao quản tạo thành có thể là vi mao quản [35], [88], [114], [119], [131] với bề mặt riêng BET từ 418–1922 m2/g (theo Langmuir từ 596–2193 m2/g) hoặc mao quản trung bình [74], [99] với bề mặt riêng BET từ 279–1184 m2/g.
13
Khi sử dụng dung môi ethanol/nước, MOF-199 tạo thành có bề mặt riêng BET đạt 787–1700 m2/g nhưng độ bền nhiệt chỉ đạt 240–250 oC [35], [98].
Bảng 1.1. Diện tích bề mặt của MOF-199 tổng hợp ở các điều kiện khác nhau
Điều kiện phản ứng BET/Langmuir TLTK
+ BET: 1064 m2/g + 0,0089 mol Cu(NO3)2.3H2O + 0,006 mol [1]
+ Langmuir: 1504 m2/g
H3BTC + 24 mL C2H5OH:H2O (1:1) + 24 giờ tại 90 oC
+ 0,00136 mol Cu(NO3)2.3H2O + 0,00084 mol + BET: 1448 m2/g [123]
+ Langmuir: 2028 m2/g H3BTC + 24 mL DMF:C2H5OH:H2O (1:1:1) + 24 giờ tại 90 oC
+ BET: 1103,7 m2/g + 0,0015 mol Cu(NO3)2.3H2O + 0,001 mol [166]
H3BTC + 24 mL C2H5OH:H2O (1:1) + 24 giờ
tại 120 °C
- Độ bền nhiệt vật liệu: Bằng phương pháp phân tích nhiệt TG/DTA thì MOF-199 có độ bền nhiệt cao, bắt đầu phá hủy cấu trúc tại 240-298 oC [35], [47], [98], [149], tại 310 oC [1], cấu trúc bị phá vỡ hoàn toàn tại 420 oC [1], [47], [136].
- Phổ hồng ngoại: Kết quả đo phổ FT-IR theo các tài liệu đã công bố trước đây thì trong phần phổ của MOF-199, tại số sóng 1646 cm-1 sẽ xuất hiện dao động đặc trưng của liên kết C=O bởi quá trình tách H+ trong H3BTC [1], [47], [99], [133]. Ngoài ra, tại số sóng 730 cm-1, xuất hiện dao động với cường độ khá mạnh đặc
trưng cho liên kết Cu–O của Cu3(BTC)2 tạo thành [1], [99], [149].
1.1.2.3. Tình hình nghiên cứu tổng hợp vật liệu MOF-199
MOF-199 đã được nghiên cứu tổng hợp bằng nhiều phương pháp khác nhau
như tổng hợp điện hóa [74], cơ hóa [74], vi nhũ [159], vi sóng [150], siêu âm [47],
[142], phối trộn trực tiếp [63] và phổ biến nhất là phương pháp dung nhiệt [35],
[99], [119], [136].
14
Năm 2008, nhóm nghiên cứu của giáo sư Yaghi [163] đã công bố tổng hợp
MOF-199 ở nhiệt độ phòng.
Serna và cộng sự [103] đã nghiên cứu tổng hợp MOF-199 bằng các phương
pháp khác nhau: Tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt truyền thống (ST); tổng
hợp ở nhiệt độ phòng (RT) và bằng sóng siêu âm (US). Kết quả trình bày ở Hình 1.8 cho thấy tổng hợp theo phương pháp thủy nhiệt truyền thống (120 oC) tạo ra pha
Cu2O như là một tạp chất [103].
Hình 1.8. Giản đồ XRD của MOF-199. Các nhiễu xạ Cu2O được định danh theo
01-1142 JCPDS [103].
Seo và cộng sự [150] đã nghiên cứu tổng hợp MOF-199 bằng phương pháp
dung nhiệt có sự hỗ trợ của vi sóng. Từ Hình 1.9 có thể thấy rằng tổng hợp bằng
phương pháp dung nhiệt có sự hỗ trợ của vi sóng cho các hạt kết tụ lớn nhỏ khác
nhau và không đều. Nhiệt độ dung nhiệt càng cao kích thước hạt càng lớn.
MOF-199 đã được tổng hợp bằng cách trộn đồng nitrat và H3BTC (tỷ lệ mol
9:5) vào dung môi ethanol. Hỗn hợp được đun nóng bằng phương pháp hồi lưu
trong vòng 24 giờ với tốc độ khuấy 300 vòng/phút [84].
15
Hình 1.9. Ảnh SEM của MOF-199 tại 140 oC (a), 150 oC (b), 160 oC (c), 170 oC (d) [150].
Các chất chứa ion Cu2+ khác nhau cũng được nhiều tác giả lựa chọn như
Cu(OH)2 [111], CuSO4.5H2O [142], phổ biến là Cu(CH3COO)2.H2O [74], [88],
[119] và Cu(NO3).3H2O [16], [35], [205]. Ngoài hai thành phần chính là hợp chất của Cu2+ và H3BTC, thành phần thứ
ba thường được sử dụng là dung môi. Dung môi có thể là các hợp chất hữu cơ đơn
chất hoặc hỗn hợp theo các tỷ lệ khác nhau. Tiêu biểu là dung môi ethanol [35],
[123], [142], [176], methanol [142], N,N-dimethylformamide (DMF), HCOONa và
triethylamine [166], ethylene glycol và diethylene glycol [142] hoặc dung môi hỗn
hợp ethanol/nước [1], [35], [119], [166], [176], dimethyl sulfoxide (DMSO)/ethanol
[205], DMF/ethanol/nước [123], [136], benzoic acid/n-butanol/DMF và salicylic
acid/ethanol/DMF [88]. Sự thay đổi loại dung môi và điều chỉnh lượng dung môi đã
tạo ra MOF-199 với chất lượng khác nhau. Trong các phương pháp dung nhiệt, tác nhân Cu2+ thường được lấy dư [22], [35], [99], ít trường hợp lấy dư H3BTC [98] hoặc lấy đúng tỷ lệ mol Cu2+ và H3BTC [119], [176].
16
Điều kiện tổng hợp MOF-199 thường được đặc biệt lưu ý là nhiệt độ và thời gian phản ứng. Có các báo cáo thực hiện phản ứng ở 75-100 oC trong thời gian từ 20-24 giờ [47], [99], [119], [136] hay ở 110-120 oC với thời gian từ 12-24 giờ trong
áp suất tự sinh [122], [166], [176].
Cùng với sự phát triển chung của thế giới, Việt Nam đã có một số nghiên
cứu tổng hợp và ứng dụng MOF-199 trong vài năm gần đây [1], [122], [123]. Theo
đó, các công bố tổng hợp MOF-199 trong nước đã sử dụng các dung môi hỗn hợp DMF/ethanol/nước, ethanol/nước và kết tinh 24 giờ tại 85 oC hoặc 90 oC.
1.1.2.4. Một số ứng dụng vật liệu MOF-199 trong hấp phụ, xúc tác và sinh học
Vật liệu MOF-199 đã được nghiên cứu khả năng hấp phụ khí và các dung
môi hữu cơ dễ bay hơi bởi nhiều nhóm nghiên cứu [42], [65], [172]. Các nghiên cứu
này đã chỉ ra rằng, MOF-199 đặc biệt hiệu quả trong việc hấp phụ các khí CO2, NO,
H2, CH4… và một số chất hữu cơ bay hơi như toluene, acetone, benzene… góp
phần đáng kể trong việc giảm sự ảnh hưởng của các khí độc hại đến môi trường và
sức khỏe của con người. Khả năng hấp phụ vượt trội CO2 so với N2 của MOF-199
cũng được công bố [27].
Trong lĩnh vực xúc tác, MOF-199 cũng được nghiên cứu làm chất xúc tác cho
nhiều phản ứng hữu cơ như phản ứng oxy hóa toluene [114], oxy hoá benzyl alcohol
[127], acetal hóa benzaldehyde bằng methanol [39], phản ứng aza-Michael [122],…
Abbasi và cộng sự [9] đã nghiên cứu tổng hợp MOF-199 trên các sợi vải để
tăng cường chống vi khuẩn. Gần đây, Rodríguez và cộng sự [134] cho thấy MOF-
199 phân tán lên sợi cellulose có khả năng kháng khuẩn Escherichia coli rất mạnh.
1.2. ỨNG DỤNG MOFs LÀM TIỀN CHẤT TỔNG HỢP NANO OXIDE
KIM LOẠI
Các oxide kim loại thường được tổng hợp bằng phương pháp nung trực tiếp
các hydroxide kim loại, tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là cấu trúc ban
đầu của tiền chất bị phá vỡ khi nung. Để khắc phục điều này, việc lựa chọn tiền chất
phù hợp với việc giữ tốt khung cấu trúc và hình dạng ban đầu ở nhiệt độ cao là vấn
đề quan trọng. Về vấn đề này, vật liệu MOFs được coi là một trong những tiền chất
17
thích hợp để điều chế oxide kim loại vì sự đa dạng về cấu trúc và hình thái của
chúng. Sau khi nung MOFs, sự phân hủy hóa học của phối tử hữu cơ và sự phát
triển của hạt nhân kim loại thành tinh thể nano oxide được kích hoạt bởi nhiệt và
quá trình xảy ra tự phát. Tỷ lệ của hai quá trình này là một yếu tố quan trọng trong
việc xác định các tính chất kết cấu cuối cùng (ví dụ như hình thái, kích thước mao
quản,…) của các vật liệu oxide tương ứng. Chẳng hạn, Kim và cộng sự đã trình bày
một mô hình tổng hợp nano magie oxide bằng sự phân hủy nhiệt trực tiếp vật liệu
MOF tương ứng [71]. Yếu tố chính của phương pháp này nằm ở việc sử dụng
MOFs được xây dựng từ các phối tử carboxylate aliphatic (aph-MOFs) kém bền
nhiệt và dễ phân hủy hơn phối tử thơm. Các bước tổng hợp được minh họa trong sơ
Dòng
N2
đồ Hình 1.10a.
Kích thước mao quản
) P T S g / c c ( ụ h p p ấ h g n ợ ư L
aph-MOF Nano oxide kim loại
Áp suất tương đối
Hình 1.10. a) Quy trình tổng hợp các oxide kim loại nano có nguồn gốc từ mẫu
aph-MOF; b) Ảnh TEM và c) Đường đẳng nhiệt hấp phụ N2 của vật liệu nano MgO
với mao quản trung bình và vi mao quản được xác định rõ [71].
18
Trong quá trình nhiệt phân trong khí quyển N2, phối tử aligatic carboxylate
của Mg-aph-MOFs chuyển thành các phân tử hữu cơ bán phân hủy thông qua con
đường phân hủy hóa học, phá vỡ sự kết tụ không mong muốn của MgO được tạo
ra. Cuối cùng, khi đạt ở nhiệt độ cao hơn, các phân tử hữu cơ bán phân hủy bị giam
giữ sẽ bay hơi, dẫn đến hệ thống lỗ mao quản phân cấp, trong đó lỗ mao quản trung
bình và lớn cùng tồn tại (Hình 1.10b). Sự đồng tồn tại của cấu trúc xốp đã được xác
nhận bởi sự quan sát đường trễ rõ ràng trong đường đẳng nhiệt N2 tương ứng loại
IV của MgO xốp tổng hợp được (Hình 1.10c). Trên cơ sở quan sát thực nghiệm, cho
thấy rằng việc khống chế thời gian và tốc độ bay hơi của các loại phân tử hữu cơ
cũng như tốc độ tăng trưởng hạt nhân kim loại trong chất rắn quyết định sự phát
sinh ra vật liệu oxide xốp. Tương tự, CeO2 cũng được tổng hợp từ vật liệu MOF có
phối tử carboxylate tương ứng.
Đối với kim loại có nhiều trạng thái oxy hóa (như sắt, đồng,…), tối ưu hóa
các điều kiện nung là quan trọng để đạt được oxide kim loại có nguồn gốc MOFs
với hóa trị mong muốn cho các mục tiêu ứng dụng như làm chất xúc tác, pin
lithium-ion và chụp cộng hưởng từ (MRI) nâng cao độ tương phản [28], [31], [60],
[129]. Cho và cộng sự đã điều chế nano α-Fe2O3 và Fe3O4 dạng que dựa trên Fe-
MIL-88B [34]. Các oxide kim loại đa hóa trị khác (ví dụ: CuO/Cu2O) điều chế bằng
cách sử dụng phương pháp nung MOFs cũng đã được báo cáo [198].
Đối với các oxide đa kim loại, một trong những vấn đề quan tâm chính khi
tổng hợp chúng là đạt được mức độ đồng nhất và có sự phân tán cao của từng thành
phần oxide. MOFs bao gồm các kim loại có hình thái khác nhau được phân bố đồng
nhất bên trong bộ khung hữu cơ sẽ là các tiền chất đầy triển vọng cho việc tổng hợp
oxide đa kim loại. Các hạt nano oxide đa kim loại tổng hợp từ MOFs dự kiến sẽ cho
các tính chất chưa được khám phá và tăng cường các tính chất vật lý và hóa học,
chúng có thể đem lại hiệu quả trợ hiệp của các oxide thành phần [30], [191], [192],
[202]. Phương pháp tổng hợp trực tiếp bằng cách trộn đồng thời nhiều kim loại với
phối tử hữu cơ là phương pháp được sử dụng rộng rãi điều chế MOFs thành phần đa
kim loại [29], [49], [61], [94], [154], [182]. Đặc biệt, thành phần hóa học và tính
đồng nhất pha của sản phẩm oxide lai thu được có thể được điều chỉnh tốt bằng cách
điều chỉnh tỷ lệ mol của muối kim loại được sử dụng để chế tạo ZIF lưỡng kim ban
19
đầu. Wu và cộng sự [175] đã điều chế oxide ZnxCo(3-x)O4 bằng cách phân hủy nhiệt
oxy hóa khung zeolitic imidazolate (ZIF) lưỡng kim loại kẽm và coban (Hình 1.11).
Một phương pháp hiệu quả khác để tổng hợp MOFs có thành phần đa kim
loại là thay thế kim loại trong MOFs đơn kim loại bằng các kim loại tương quan
[36], [38], [187]. Theo phương pháp này, có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ các
ion kim loại hoặc cụm kim loại trong MOFs ban đầu bằng ion kim loại hoặc cụm
kim loại khác, MOFs sinh ra với chức năng hóa học mới và khác biệt là ứng cử viên
tuyệt vời cho việc điều chế vật liệu oxide đa kim loại [50], [95], [156], [190], [201].
Các nano oxide đa kim loại như CuO/CoO, NiO/CoO cũng đã được điều chế thành
công từ tiền chất MOFs lưỡng kim loại điều chế bằng phương pháp này [33].
Hình 1.11. Cấu trúc nano oxide ZnxCo3-xO4 thu được từ sự phân hủy nhiệt ZIF
lưỡng kim: a-b) Kính hiển vi điện tử quét phát xạ trường nhiệt (FESEM); c-d) Hình
ảnh TEM và e-g) Hình ảnh tán xạ năng lượng tia X của ZnxCo3-xO4 [175].
1.3. CƠ CHẾ XÚC TÁC QUANG HÓA CỦA CHẤT BÁN DẪN
p – n CuO – ZnO
1.3.1. Vật liệu bán dẫn p – n
Chất bán dẫn loại p (bán dẫn dương – positive) có tạp chất là các nguyên tố
thuộc nhóm III, dẫn điện chủ yếu bằng các lỗ trống. Chất bán dẫn loại n (bán dẫn
20
âm – negative) có tạp chất là các nguyên tố thuộc nhóm V, các nguyên tử này dùng
4 electron tạo liên kết và một electron lớp ngoài liên kết lỏng lẻo với nhân, đấy
chính là các electron dẫn chính.
Có thể giải thích một cách đơn giản về bán dẫn pha tạp nhờ vào lý thuyết
vùng năng lượng như sau: Khi pha tạp, sẽ xuất hiện các mức pha tạp nằm trong
vùng cấm, chính các mức này khiến cho điện tử dễ dàng chuyển lên vùng dẫn hoặc
lỗ trống dễ dàng di chuyển xuống vùng hóa trị để tạo nên tính dẫn điện của vật liệu.
Khi kết hợp hai lớp p và n với nhau, điều này dẫn đến việc trao đổi điện tích
tại lớp tiếp xúc p – n. Các điện tử lớp n sẽ chuyển sang lớp p và ngược lại các lỗ
trống lớp p chuyển sang lớp n do quá trình trung hòa về điện. Một sản phẩm của
quá trình này là làm ion tích điện, tạo ra một điện trường.
1.3.2. Cấu trúc và cơ chế xúc tác quang hóa của nano oxide p – n ZnO – CuO
Vật liệu ZnO – CuO được đề xuất cho các ứng dụng khác nhau như nghiên
cứu độ dẫn điện, hoạt tính quang xúc tác, tính chất từ và cảm biến khí [69], [169],
[196]. Theo một số công trình nghiên cứu về nano oxide ZnO – CuO [89], [145],
[195], [197], vật liệu ZnO – CuO là hỗn hợp hai nano oxide gồm mạng lưới tinh thể
ZnO có cấu trúc lục giác Wurtzite và CuO đơn tinh thể. Giản đồ XRD của vật liệu
) u . a ( ộ đ g n ờ ư C
CuO, ZnO và lưỡng oxide ZnO – CuO được thể hiện ở Hình 1.12.
2θ (độ)
Hình 1.12. Giản đồ XRD của vật liệu nano oxide ZnO – CuO [89].
21
Bản thân từng oxide ZnO và CuO là hai oxide kim loại được sử dụng phổ
biến trong xúc tác quang hóa nhờ có đặc tính ưu việt như dễ tổng hợp, nhạy sáng,
hoạt tính xúc tác cao. Trong những năm gần đây, nhằm gia tăng hoạt tính xúc tác
của từng oxide riêng lẻ, các nhà nghiên cứu đã đề xuất một hướng nghiên cứu kết
hợp n–ZnO và p–CuO, nơi mà ZnO và CuO đóng vai trò chất đồng xúc tác có thể
làm tăng hiệu suất phản ứng quang hóa ở vùng ánh sáng nhìn thấy. Ngoài ra, sự
hình thành các nút giao thoa p – n ở giao diện cấu trúc nano ngăn cản sự kết hợp tái
tổ hợp của cặp lỗ trống – electron quang và do đó cải tiến hiệu năng (Hình 1.13).
Nút giao thoa p-n
h+ e-
n-ZnO (-) p-CuO (+)
Hình 1.13. Sự hình thành nút giao thoa p – n của vật liệu p–CuO/n–ZnO.
Hiệu quả xúc tác quang phụ thuộc nhiều vào việc tách các cặp electron – lỗ
trống. Khi pha tạp bán dẫn loại n lên bán dẫn loại p sẽ xuất hiện bề mặt tiếp xúc p –
n. Khi được kích thích bởi ánh sáng, vật liệu p – n sẽ hình thành nên các cặp
electron – lỗ trống. Do tương tác tĩnh điện, hút đẩy lẫn nhau, các lỗ trống sẽ di
chuyển về phía cực âm, trong khi đó các electron di chuyển về cực dương thúc đẩy
quá trình phân tách các cặp electron – lỗ trống, tăng hiệu quả xúc tác quang.
Theo lý thuyết, khả năng xúc tác của các chất bán dẫn là do sự tạo ra cặp điện tử và lỗ trống quang sinh khi bị ánh sáng kích thích, cặp e-/h+ sẽ oxy hóa/khử
nước tạo ra gốc tự do, các gốc tự do này có khả năng quang phân hủy các chất hữu
cơ trong dung dịch nước [203]. ZnO – CuO có hoạt tính xúc tác quang hóa trong
vùng khả kiến là do sự có mặt của CuO. Vùng cấm của CuO là khoảng 1,2 eV, còn
vùng cấm của ZnO khoảng 3,37 eV. Do sự xen lẫn giữa vùng dẫn và vùng hóa trị
22
của CuO và ZnO, sự chuyển dịch điện tử và lỗ trống giữa hai chất bán dẫn này
thuận lợi về mặt nhiệt động, làm thu hẹp năng lượng vùng cấm của nano lưỡng
oxide ZnO – CuO. Hơn nữa, sự phân tách các cặp điện tử và lỗ trống trong bán dẫn ZnO – CuO có tác dụng ngăn quá trình tái kết hợp của cặp e-/h+, khi bị kích thích
bởi các photon ánh sáng trong vùng khả kiến thì electron hóa trị của ZnO có thể
sinh ra những electron và những lỗ trống, những electron kích thích di chuyển đến
[179], [203]. Các phản ứng xúc tác oxy
vùng dẫn (CB) của ZnO và những lỗ trống di chuyển đến vùng hóa trị (VB) của
− hóa bởi ánh sáng vùng khả kiến quang phân hủy phẩm nhuộm xảy ra theo cơ chế O2
CuO [203]. Lỗ trống được giữ lại trong vùng hóa trị của CuO và tương tác với H2O sinh ra các gốc tự do HO●. Điện tử được giữ lại trong vùng dẫn của ZnO và tương tác với O2, H2O sinh ra các gốc tự do ●
tương tự [7], [125], [145] như sau:
−
+ H2O → HO● + H+ p – CuO/n – ZnO + hν → h+ (CuO) + e- (ZnO) Khi có mặt H2O và O2, các điện tử e- và các lỗ trống h+ tạo ra các gốc tự do: VBh+
− + 2H2O → H2O2 + 2HO− + O2
+ O2 → ●O2
CBe− 2●O2 H2O2 + CBe−
→ HO● + HO−
VBh+
2- + Cl-
+ HO− → HO●
- + SO4
Các gốc tự do phân hủy phân tử phẩm nhuộm (ví dụ xanh metylen): HO● + C16H18N3SCl → CO2 + H2O + NO3
1.3.3. Tình hình nghiên cứu tổng hợp vật liệu bán dẫn p – n CuO – ZnO
Vật liệu nano oxide ZnO – CuO đã được nghiên cứu tổng hợp bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Liu và các cộng sự [102] đã tổng hợp nano CuO/ZnO bằng
phương pháp đồng kết tủa hỗn hợp kim loại Cu và oxide kim loại ZnO trong dung
dịch NH4HCO3 bão hòa và NH3 28%. Hỗn hợp thu được sấy, nung trong một
khoảng thời gian nhất định. Vật liệu thu được là hỗn hợp nano oxide CuO và ZnO,
các hạt vật liệu có hình cầu, đồng đều, kích thước hạt trung bình khoảng 20 nm.
23
Li và các cộng sự [89] tổng hợp vật liệu nano oxide ZnO – CuO bằng
phương pháp đồng kết tủa hỗn hợp hai muối ZnCl2 và CuSO4.5H2O trong môi
trường kiềm. Sau khi rửa, sấy, sản phẩm thu được là hỗn hợp nano oxide CuO và
ZnO. Mẫu ZnO – CuO bao gồm các cấu trúc vi mô giống hoa 3D có đường kính 1–
2 µm (Hình 1.14).
) u . a ( ộ đ g n ờ ư C
2θ (độ)
(b) (a)
Hình 1.14. Giản đồ XRD (a) và ảnh SEM (b) của vật liệu nano oxide ZnO – CuO tổng
hợp bằng phương pháp đồng kết tủa [89].
Zhang và các cộng sự [195] đã tổng hợp ZnO – CuO bằng phương pháp phân hủy nhiệt các muối kim loại Cu2+ và Zn2+. Sản phẩm thu được sấy, nung trong không
khí ở 500 °C trong 4 giờ. Vật liệu tạo thành ZnO – CuO là hỗn hợp hai pha riêng biệt
ZnO và CuO, các hạt ZnO – CuO có hình dạng các quả cầu rỗng (Hình 1.15).
) u . a ( ộ đ g n ờ ư C
2θ (độ)
(a) (b)
Hình 1.15. Giản đồ XRD (a) và ảnh SEM (b) của vật liệu nano oxide ZnO – CuO tổng
hợp bằng phương pháp phân hủy nhiệt các muối kim loại [195].
24
Saravanan và cộng sự [145] đã tổng hợp vật liệu nano oxide ZnO/CuO bằng
phương pháp phân hủy nhiệt. Hỗn hợp dung dịch hai muối kim loại kẽm acetate
dihydrat và đồng acetate được được trộn lẫn trong 1 giờ, nung 350 °C trong 3 giờ.
Sản phẩm thu được ZnO/CuO là hỗn hợp ZnO/CuO, vật liệu ZnO/CuO có dạng
thanh hình que, dài khoảng 50 – 100 nm với đường kính trung bình khoảng 35 nm,
diện tích bề mặt (SBET) của vật liệu ZnO(95)/CuO(5), ZnO(50)/CuO(50) là 15,4 m2/g và 9,7 m2/g.
Hình 1.16. Ảnh SEM của vật liệu nano oxide ZnO/CuO [145].
Bảng 1.2. Các phương pháp tổng hợp và ứng dụng của vật liệu nano oxide ZnO – CuO
Tác giả Phương pháp Ứng dụng TLTK Năm chính tổng hợp
Liu Phân hủy MO [102] 2008
Đồng kết tủa Li Phân hủy Rhodamine B (RhB1) [89] 2010
Zhang 2012 Phân hủy MB [195] Phân hủy nhiệt
Zhang 2013 hỗn hợp muối Phân hủy MO [197]
của 2 kim loại Saravanan 2013 Phân hủy MO, MB [145]
Gần đây, một hướng nghiên cứu mới trong tổng hợp vật liệu nano oxide đó
là phân hủy nhiệt các vật liệu khung hữu cơ kim loại tạo thành các loại vật liệu nano
oxide có thể kiểm soát được hình thái nhờ kiểm soát hình thái của tiền chất khung
25
hữu cơ kim loại ban đầu [7]. Đến nay vẫn chưa tìm thấy công trình nghiên cứu tổng
hợp ZnO-CuO từ sự phân hủy nhiệt vật liệu MOFs của Cu(II) và Zn(II).
1.4. ỨNG DỤNG VẬT LIỆU MOFs LÀM ĐIỆN CỰC
Hiện nay, phương pháp phổ biến để xác định lượng vết các kim loại nặng
(Hg(II), Pb(II), Cd(II),…) bao gồm FAAS (Flame atomic absorption spectrometry),
ETAAS (Electrothermal atomic absorption spectrometry), ICP-MS (Inductively
coupled plasma-mass spectrometry) [9], [14], [108], [120],… Các phương pháp này
có thể phân tích hầu hết các kim loại nhưng giá thành và chi phí bảo trì máy móc
cao làm giới hạn ứng dụng của chúng. Phương pháp thế-dòng hòa tan hấp phụ
(AdSV-adsorptive stripping voltammetry) là một phương pháp điện hóa hữu hiệu để
xác định các lượng vết kim loại bởi nó có khoảng tuyến tính rộng và giới hạn phát
hiện thấp. Để làm giàu trực tiếp chất cần phân tích ngay bề mặt điện cực và phát
hiện các ion kim loại dạng vết, các điện cực có thể được chức năng hóa bằng các
nhóm chức năng trên bề mặt [35], [115]. Điện cực carbon thủy tinh (GCE-Glassy
Carbon Electrode) được sử dụng nhiều trong phân tích điện hóa (do bề mặt dễ làm
mới, dễ chế tạo và dễ biến tính [107], [139].
Hình 1.17A minh họa cấu hình biến tính điện cực bằng các vật liệu rắn
không dẫn điện. Để tăng tính dẫn điện, vật liệu này được phân tán trong một loại vật
liệu có khả năng dẫn điện (ví dụ hồ carbon) [113]. Trong cấu hình này, bề mặt điện
cực sẽ được làm từ carbon (ở đây các phản ứng chuyển điện tử sẽ xảy ra) và chất
biến tính (sẽ tiếp xúc trực tiếp với điện cực và có thể tương tác trực tiếp với chất
phân tích, dẫn đến tăng tốc độ các quá trình trên bề mặt điện cực). Bề mặt điện cực
có thể làm mới dễ dàng bằng phương pháp mài cơ học.
Cấu hình thứ hai được minh họa ở Hình 1.17B. Việc đưa các vật liệu mao
quản bằng cách nhỏ huyền phù chứa bột vật liệu mao quản và sau đó để dung môi
bay hơi (dưới điều kiện điện cực quay) tạo nên một lớp màng trên bề mặt điện cực.
Màng được chế tạo theo cách này thường không bền và độ chịu đựng cơ học kém
trong điều kiện khuấy trộn, vì thế người ta thường phủ thêm màng polymer để bảo
vệ [13], [140].
26
A. Điện cực composite
Nền
B. Màng của các hạt
polymer
Hình 1.17. Minh họa một số cấu hình biến tính điện cực bằng vật liệu mao quản rắn.
(A) Phân tán vật liệu mao quản lên composite dẫn điện: (a) điện cực hồ carbon (carbon
paste electrode) và (b) điện cực carbon in (screen-printed carbon electrode). (B) Đưa các
hạt mao quản lên bề mặt điện cực rắn: (a) chỉ có các hạt vật liệu mao quản; (b) các hạt
vật liệu mao quản phủ với lớp polymer; (c) lớp phủ được làm từ vật liệu mao quản phân
tán trong polymer [165]
Điện cực biến tính, một loại điện cực được quan tâm nghiên cứu trong nhiều
năm gần đây, đặc biệt biến tính bằng vật liệu polymer dẫn điện, được chế tạo bằng
các cách như sau:
i) Điện cực biến tính được chế tạo từ hạt nano kim loại [109] hay nano
carbon được thực hiện bằng cách gắn các hạt nano kim loại trực tiếp trên bề mặt
điện cực GCE hoặc dùng chính điện cực kim loại đó [165]. Người ta thường chế tạo theo phương pháp ex situ bằng cách điện phân dung dịch chứa Men+ tạo ra dạng
nano kim loại (dùng kỹ thuật volt-ampere vòng) để gắn các hạt nano lên bề mặt điện
cực hay phủ trực tiếp bằng cách nhúng điện cực trong hệ keo nano kim loại hoặc
nhỏ giọt dung dịch keo nano kim loại lên bề mặt điện cực [112].
ii) Một kiểu điện cực biến tính khác được nghiên cứu nhiều là điện cực nền
được phủ lên bề mặt một polymer dẫn điện. Loại điện cực này được đặc biệt chú ý
trong các lĩnh vực cảm biến hóa học và cảm biến sinh học. Phương pháp này thể
hiện nhiều lợi thế trong việc phát hiện một số chất phân tích do có độ nhạy, chọn
27
lọc và tính đồng nhất của chúng trong giai đoạn điện phân làm giàu, kết bám mạnh
lên bề mặt điện cực cũng như sự ổn định hóa học của những màng polymer dẫn
điện. Các polymer này thường đóng vai trò là tác nhân oxy hóa để oxy hóa chất hữu
cơ được làm giàu trên bề mặt điện cực. Điện cực loại này được chế tạo đơn giản
bằng cách nhỏ giọt dung dịch polymer (hoặc trộn với một chất kết dính) lên bề mặt
điện cực, một số trường hợp tiến hành quét volt-ampere vòng trong dung dịch chứa
monome [100]. Các polymer dẫn điện thường được sử dụng là nafion, L-cysteine,…
Gần đây, một xu hướng mới đang rất được quan tâm là việc sử dụng kết hợp
giữa màng polymer hay màng hữu cơ và các hạt vật liệu có kích thước nano để tạo
ra các loại điện cực biến tính có khả năng làm tăng độ nhạy, tính chọn lọc so với các
loại điện cực truyền thống. Từ đó, góp phần phát triển điện cực cũng như mở rộng
phạm vi ứng dụng vào việc xác định hàm lượng vết và siêu vết các chất trong phân
tích điện hóa [10], [15],…
Cho đến thời điểm hiện tại, vật liệu xốp ngày càng phát triển với nhiều phát
minh và nghiên cứu được công bố như vật liệu ống nano carbon [96], vật liệu silica
lỗ xốp trung bình (có đường kính lỗ xốp 2-50 nm) [77], vật liệu carbon lỗ xốp trung
bình [137] và vật liệu khung cơ kim vi xốp và lỗ xốp trung bình (MOFs - metal
organic frameworks) [140]. So với các vật liệu xốp khác, vật liệu MOFs có những
ưu điểm như: kết hợp cả thành phần hữu cơ và vô cơ, có cấu trúc dạng tinh thể trật
tự ba chiều xác định, có độ xốp cao và có khả năng biến đổi cấu trúc (trước hoặc
sau khi tổng hợp).
Gần đây, một số nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu biến tính vật liệu
ZIF-8 lên điện cực nền để xác định một số hợp chất hữu cơ như ascorbic acid, uric
acid [204], hydrazine [141] và một số kim loại nặng như chì, cadimi [177], [178],...
Xiao và cộng sự [178], đã dùng vật liệu ZIF-8 để biến tính điện cực nền và sử dụng
trong phân tích hàm lượng Pb(II) trong nước máy với giới hạn phát hiện rất thấp (khoảng 0,8 mg.L-1). Samadi-Maybodi và cộng sự [140] cũng đã biến tính thành
công điện cực CPE bằng ZIF-8 pha tạp Ag và sử dụng như một cảm biến điện hóa
để xác định H2O2. Đây là một phương pháp mới để xác định H2O2 với giới hạn phát
hiện thấp (10 mM) và độ nhạy cao. Vật liệu MOF-199 có thể làm sensor điện hóa
phát hiện aldehyde ở nồng độ thấp [37]. Hosseini và cộng sự [56], [57] đã biến tính
28
Cu-MOF bằng các hạt nano Au-SH-SiO2, vật liệu tạo thành làm sensor điện hóa để
xác định hydrazine và L-cysteine. Wang và cộng sự [170] đã tổng hợp vật liệu NH2-
Cu3(BTC)2 bằng cách chức năng hóa trực tiếp MOF-199 bằng 2-aminobenzene-1,4-
dicarboxylate. Kết quả vật liệu tạo thành vẫn duy trì cấu trúc ban đầu của
Cu3(BTC)2. Điện cực biến tính bằng NH2-Cu3(BTC)2 có khả năng phát hiện Pb(II) ở nồng độ rất thấp 0,005 µmol.L-1. Bodkhe và cộng sự [18] đã biến tính MOF-199
bằng các hạt nano Au và ống nano carbon đơn vách (SWNTs), điện cực carbon thủy
tinh được biến tính bằng vật liệu Au/SWNTs@MOF-199 (dùng nafion làm chất kết
dính) đã thể hiện đặc tính điện hóa tuyệt vời khi phân tích Pb(II).
1.5. ỨNG DỤNG MOFs XÚC TÁC PHẢN ỨNG ACETAL HÓA
BENZALDEHYDE BẰNG METHANOL
Phản ứng acetal hóa là một kỹ thuật quan trọng để bảo vệ nhóm carbonyl
(nhóm aldehyde hoặc ketone). Đối với phản ứng xúc tác đồng thể, phản ứng giữa
chất nền carbonyl và alcohol được thực hiện với sự có mặt của chất xúc tác là
Bronsted acid hoặc Lewis acid (ion kim loại chuyển tiếp), cơ chế xúc tác được đề
nghị như trên Hình 1.18 và Hình 1.19.
Hình 1.18. Cơ chế phản ứng acetal hóa sử dụng xúc tác Lewis acid [23], [54], [68], [78].
29
Hình 1.19. Cơ chế phản ứng acetal hóa sử dụng xúc tác Bronsted acid [20], [116].
Việc nghiên cứu phản ứng acetal hóa với xúc tác dị thể trên thế giới hiện nay
vẫn còn rất ít. Một số công bố chỉ ra rằng, MOFs đóng vai trò như một Lewis acid
yếu [39] xúc tác cho phản ứng, tuy nhiên vẫn chưa đề nghị cơ chế cho phản ứng.
CHO
CH(OCH3)2
MOFs
CH3OH
Sơ đồ phản ứng cộng methanol vào benzaldehyde với xúc tác MOFs [39]:
Theo Dhakshinamoorthy và cộng sự [39] thì methanol vừa được chọn làm
tác chất vừa là dung môi của phản ứng. Sản phẩm tạo thành duy nhất trong phản
ứng này là dimethyl acetal, trong một số trường hợp ở thời gian phản ứng lâu hơn
có thể xuất hiện một lượng rất nhỏ benzoic acid [39]. Trong điều kiện không có xúc
tác thì sản phẩm tạo thành với độ chuyển hóa là 21%. Với việc thử nghiệm xúc tác
trên các vật liệu khác nhau thì Cu3(BTC)2 cho độ chuyển hóa cao nhất. Mặc dù
Fe(BTC) cũng hoạt động như một chất xúc tác rắn trong phản ứng acetal hóa nhưng
hoạt tính lại thấp hơn đáng kể so với Cu3(BTC)2 [39], điều này được thể hiện rõ ở
Hình 1.20. Cu(II) trong Cu3(BTC)2 có một vị trí tự do hữu hiệu để phối hợp với tác
chất và tác nhân. Một nghiên cứu gần đây cho thấy Cu3(BTC)2 hoạt động như một
Lewis acid [11], [39]; Fe(III) trong Fe(BTC) cũng có vị trí điều phối tự do xung
quanh ion Fe(III) và do đó nó cũng có thể hoạt động như một acid Lewis rắn [39].
30
Hơn nữa, Al2(BDC)3 cũng có tính Lewis acid nhưng hoạt tính thấp hơn các MOFs
nói trên.
%
/ a ó h n ể y u h c ộ Đ
Thời gian / giờ
Hình 1.20. Độ chuyển hóa của phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol
với xúc tác Cu3(BTC)2 (a) và Fe(BTC) (b) [39].
Các kết quả thử nghiệm thu được với MOFs cũng như các chất xúc tác dị thể
khác được đưa ra ở Bảng 1.3 và Bảng 1.4.
Bảng 1.3. Độ chuyển hóa của phản ứng acetal hóa của benzaldehyde với methanol sử dụng các chất xúc tác MOFs khác nhau [a]
STT Chất xúc tác Thời gian (giờ) Độ chuyển hóa (%)[b]
1 28 _ 21
2 2 63 Cu3(BTC)2
3 24 88 Cu3(BTC)2
4 8 Cu3(BTC)2
71[f] ,
3[c] 75[d], 74[e] 5 8 Cu3(BTC)2
66[g] 6 48 Cu3(BTC)2
61[h] 7 110 Cu3(BTC)2
Fe(BTC) 49 8 2
Fe(BTC) 71 9 24
66 10 24 Al2(BDC)3
31
[a] Điều kiện phản ứng : benzaldehyde (0,94 mmol), xúc tác (50 mg) và methanol (3
[b] Được xác định bằng GC sử dụng nitrobenzene là chất tiêu chuẩn.
[c] Phản ứng được tiến hành trong sự có mặt của pyridine (30 mg).
[d] Hiệu suất của lần tái sử dụng xúc tác lần thứ nhất.
[e] Hiệu suất của lần tái sử dụng xúc tác lần thứ hai.
[f] Hiệu suất của lần tái sử dụng xúc tác lần thứ ba.
[g] Điều kiện phản ứng : benzaldehyde (9,4 mmol), Cu3(BTC)2 (50 mg) và methanol
mL), nhiệt độ phòng.
[h] Điều kiện phản ứng : benzaldehyde (18,8 mmol), Cu3(BTC)2 (250 mg) và
(3 mL), nhiệt độ phòng.
methanol (5 mL), nhiệt độ phòng.
STT
Chất xúc tác
Thời gian (giờ)
Hiệu suất (%)
86
1
8
Cu3(BTC)2
94
2
24
Cu3(BTC)2
5
3
Bentonite
8
10
4
NaY zeolite
8
8
5
8
NaY zeolite[b]
63
6
24
USY 500[c]
69
7
24
Beta-806[c]
Bảng 1.4. Sự so sánh hoạt tính của Cu3(BTC)2 với các xúc tác dị thể khác đối với phản ứng acetal hóa aldehyde bằng methanol[a] [39]
[a] Điều kiện phản ứng: tác chất (1 mmol), methanol (3 mL), xúc tác (100 mg), nhiệt
[b] Xúc tác được hoạt hóa tại 200 oC trong 3 giờ trước phản ứng.
[c] Xúc tác được nung ở 400 oC.
độ phòng.
32
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tổng hợp được vật liệu MOF-199, vật liệu trên cơ sở MOF-199 (NH2-MOF-
199, Zn-MOF-199) có hoạt tính xúc tác và điện hóa cao.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Vật liệu MOF-199, NH2-MOF-199, Zn-MOF-199, ZnO/CuO; paracetamol
và caffeine trên điện cực biến tính bằng MOF-199, Pb(II) và Cd(II) hay uric acid và
ascorbic acid trên điện cực biến tính bằng NH2-MOF-199; phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol trên xúc tác Zn-MOF-199; phản ứng xúc tác quang
hóa phân hủy methylene blue trên xúc tác ZnO/CuO.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu tổng hợp MOF-199 và ứng dụng làm chất biến tính điện cực.
2. Nghiên cứu tổng hợp NH2-MOF-199 và khả năng ứng dụng biến tính điện cực.
3. Nghiên cứu tổng hợp Zn-MOF-199 và ứng dụng xúc tác cho phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol.
4. Nghiên cứu tổng hợp nano ZnO/CuO từ vật liệu Zn-MOF-199 và ứng dụng xúc
tác quang hóa.
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Các phương pháp nghiên cứu đặc trưng vật liệu
2.4.1.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD)
Nhiễu xạ tia X là một trong những phương pháp phổ biến nhất trong đặc
trưng tính chất của vật liệu rắn tinh thể và vô định hình.
33
Hình 2.1. Hiện tượng các tia X nhiễu xạ trên các mặt tinh thể chất rắn.
Sự phân bố các đơn vị cấu trúc (nguyên tử, ion hay phân tử) trong tinh thể
một cách tuần hoàn theo những quy luật nhất định tạo thành một mạng lưới không
gian đều đặn là tính chất đặc trưng về cấu trúc nội tại của tinh thể. Khoảng cách
giữa các nguyên tử (hay ion) khoảng vài Å. Khi chùm tia ló đập vào mặt tinh thể và
đi vào bên trong nó thì mạng lưới tinh thể đóng vai trò là một cách tử nhiễu xạ đặc
biệt. Trong mạng tinh thể các nguyên tử hay ion phân bố trên các mặt phẳng. Các
nguyên tử khi bị kích thích bởi chùm tia X này sẽ trở thành những tâm phát ra tia
tán xạ. Hiệu quang trình của hai tia phản xạ bất kì trên hai mặt phẳng cách nhau
được tính như sau:
(2.1) = 2dhkl.sin
𝜃 ∆ Trong đó: dhkl là khoảng cách giữa 2 mặt phẳng song song
là góc giữa chùm tia X với mặt phẳng phản xạ.
𝜃 Theo điều kiện giao thoa ánh sáng để các sóng trên hai mặt phẳng cùng pha
thì hiệu quang trình phải bằng một số nguyên lần bước sóng. Do đó:
= n (2.2) 2dhkl.sin
𝜃 𝜆 Đây là hệ thức Vulf –Bragg, là phương trình cơ bản để nghiên cứu cấu trúc
mạng tinh thể. Căn cứ vào cực đại nhiễu xạ trên giản đồ XRD ta tìm được 2 . Từ
𝜃
đó suy ra dhkl theo hệ thức Vulf-Bragg. Mối liên hệ giữa khoảng cách dhkl và thông số mạng là khác nhau đối với mỗi cấu trúc tinh thể [126].
So sánh giá trị dhkl tìm được với dhkl chuẩn sẽ xác định được thành phần cấu
trúc mạng tinh thể của chất phân tích.
34
Trong luận án này, giản đồ XRD được ghi trên máy D8-Advance (Brucker,
Đức) với tia phát xạ CuKα có bước sóng λ=1,5406 Å, công suất 40 KV, 40 mA,
góc quét từ 1 đến 60 độ.
2.4.1.2. Hiển vi điện tử quét (SEM) và hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
Phương pháp hiển vi điện tử quét (Scanning Electron Microscopy, SEM) và
hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron Microscopy, TEM) đều sử dụng
chùm tia điện tử để tạo ảnh mẫu nghiên cứu [3], [121].
Hiển vi điện tử quét SEM sử dụng chùm tia điện tử quét trên bề mặt mẫu để
tạo ảnh mẫu nghiên cứu. Chùm tia điện tử được tạo ra từ cathode (súng điện tử) qua
2 tụ quang điện tử sẽ được hội tụ lên mẫu nghiên cứu. Khi chùm điện tử đập vào
mẫu nghiên cứu sẽ phát ra các chùm điện tử phản xạ và điện tử truyền qua. Các điện
tử phản xạ này được đi qua điện thế gia tốc vào phần thu và biến đổi thành tín hiệu
ánh sáng, tín hiệu được khuếch đại, đưa vào mạng lưới điều khiển tạo độ sáng trên
màn ảnh. Mỗi điểm trên mẫu cho một điểm tương ứng trên màn ảnh. Độ sáng tối
trên màn ảnh phụ thuộc vào lượng điện tử phát ra tới bộ thu và phụ thuộc vào hình
dạng mẫu nghiên cứu. Tùy theo tương tác giữa chùm điện tử với mẫu nghiên cứu
mạnh hay yếu mà trên màn huỳnh quang xuất hiện các điểm sáng hay tối. Phương
pháp SEM được sử dụng để nghiên cứu bề mặt của vật liệu, cho biết các thông tin
về hình thái của bề mặt và kích thước hạt.
Trong hiển vi điện tử truyền qua TEM, thông tin về mẫu được tạo nên sau
khi chùm điện tử truyền qua mẫu đã đi qua một hệ thống các thấu kính, cho ảnh trên
màn huỳnh quang hoặc phim ảnh dưới dạng nhiễu xạ điện tử hoặc hiển vi điện tử.
Trong luận án này, ảnh SEM được ghi trên trên thiết bị Hitachi S-4800 và
ảnh TEM phân giải cao (HR-TEM) được ghi trên thiết bị JEM-2100.
2.4.1.3. Phương pháp đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ N2
Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 là một phương pháp được sử dụng phổ
biến để xác định diện tích bề mặt và tính chất xốp của vật liệu. Lượng khí bị hấp
phụ được biểu diễn thông qua thể tích V là đại lượng đặc trưng cho số phân tử bị
35
hấp phụ. Nó phụ thuộc vào áp suất cân bằng P, nhiệt độ, bản chất của chất khí và
bản chất của vật liệu rắn. V là một hàm đồng biến với áp suất cân bằng, khi áp suất
tăng đến áp suất hơi bão hòa của chất khí bị hấp phụ tại một nhiệt độ đã cho thì mối
quan hệ giữa V - P được gọi là đẳng nhiệt hấp phụ. Khi áp suất đạt đến áp suất hơi
bão hòa P0, người ta đo các giá trị thể tích khí hấp phụ ở các áp suất tương đối
(P/P0) giảm dần và nhận được đường “đẳng nhiệt khử hấp phụ”. Đối với vật liệu có
mao quản trung bình, đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ không trùng nhau,
được gọi là hiện tượng trễ. Từ hiện tượng trễ đó, người ta xác định được dạng mao
quản của vật liệu. Các nhà khoa học đã phân loại các đường đẳng nhiệt hấp phụ -
khử hấp phụ và đã được quy định chuẩn hóa bởi IUPAC [4], [87] (Hình 2.2).
I
I I
I V
I I I
V
V I
Hình 2.2. Các dạng đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ theo phân loại IUPAC.
Đường đẳng nhiệt kiểu I ứng với vật liệu vi mao quản hoặc không có mao
quản. Kiểu II và III là của vật liệu mao quản có mao quản lớn d > 50 nm. Các vật liệu
mao quản có kích thước mao quản trung bình có đường đẳng nhiệt kiểu IV và V.
Hai phương trình Langmuir và BET được sử dụng rộng rãi để xác định diện
tích bề mặt xúc tác:
+
Phương trình đẳng nhiệt Langmuir [81]:
P P = V V m
1 V K . m
(2.3)
Trong đó, K là hằng số cân bằng Langmuir, P là áp suất cân bằng, V là thể
tích của chất khí bị hấp phụ ở áp suất P, Vm là thể tích của khí bị hấp phụ đơn lớp
bão hòa tính cho 1 gam chất hấp phụ.
36
−
1
1
=
+
Phương trình BET được mô tả như sau [21]:
(
)
P − V P P 0
C P V C V C P 0
m
m
(2.4)
Trong đó, P0 là áp suất hơi bão hòa của chất khí bị hấp phụ ở nhiệt độ thực
nghiệm, C là hằng số BET
(2.5) SBET = 4,35.Vm
Trong luận án này, đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 được đo trên thiết bị Micromeritics-ASAP 2020. Mẫu được tách loại khí ở 120 oC trong 24 giờ trước khi
đo. Diện tích bề mặt được xác định thông qua mô hình Brunauer-Emmett-Teller
(BET) với áp suất tương đối 0,01–0,25 sử dụng dữ liệu hấp phụ. Tính toán phân bố
kích thước mao quản được thực hiện với mô hình BJH (Barrett, Joyner và Halenda)
sử dụng nhánh hấp phụ của các đường đẳng nhiệt.
2.4.1.4. Phương pháp phân tích nhiệt (TG-DTA)
Phân tích nhiệt là nhóm phương pháp theo dõi sự thay đổi tính chất của vật
liệu (mẫu đo) theo sự thay đổi nhiệt độ.
Khi cung cấp nhiệt năng thì làm cho nhiệt độ của mẫu tăng lên một giá trị
xác định tuỳ thuộc vào nhiệt lượng cung cấp và nhiệt dung của mẫu. Ở trạng thái
vật lý bình thường nhiệt độ của mẫu biến đổi chậm theo nhiệt lượng, nhưng khi có
sự chuyển pha (bay hơi, nóng chảy,…) thì sự biến đổi này bị gián đoạn hoặc đột
ngột. Các quá trình biến đổi này có thể ghi nhận bằng phương pháp phân tích nhiệt.
Phép phân tích nhiệt bao gồm nhiều phương pháp khác nhau. Ở đây chúng
tôi chỉ sử dụng phương pháp nhiệt trọng lượng (Thermal Gravimetric, TG) để đo sự
biến đổi khối lượng khi gia nhiệt và phép phân tích nhiệt vi sai (Differential
Thermal Analysis, DTA) xác định sự biến đổi của nhiệt lượng truyền qua mẫu [162]
Trong luận án này, phương pháp phân tích nhiệt được thực hiện trên máy
DTG-60H của hãng Shimadzu, dưới áp suất khí quyển và tốc độ gia nhiệt 10 oC.min-1.
37
2.4.1.5. Phổ tán xạ tia X (EDX)
Phổ tán xạ tia X (Energy Dispersive X-ray, EDX) [121] là kỹ thuật được sử
dụng để phân tích nguyên tố hoặc đặc trưng hóa học của mẫu. Nó dựa trên sự tương
tác của nguồn tia X kích thích với mẫu cần phân tích. Dòng năng lượng cao của các
hạt tích điện như electron, proton hoặc chùm tia X được chiếu vào mẫu cần phân tích.
Khi chùm tia tới kích thích các điện tử ở lớp bên trong, đánh bật nó ra khỏi vỏ điện tử
tạo thành lỗ trống điện tử, một điện tử từ lớp bên ngoài có năng lượng cao hơn nhảy
vào lỗ trống đó. Sự khác nhau về năng lượng giữa lớp vỏ năng lượng cao và lớp vỏ
năng lượng thấp tạo ra tia X. Cường độ của tia X phát ra từ mẫu có thể được đo bằng
phổ kế tán xạ năng lượng (energy-dispersive spectrometer). Năng lượng tia X này đặc
trưng cho hiệu số năng lượng của hai lớp vỏ điện tử và đặc trưng cho cấu tạo của
nguyên tố phát xạ ra tia X nên cường độ của nó có thể dùng để định tính cũng như
định lượng các nguyên tố có trong mẫu.
Trong luận án này, phổ tán xạ tia X được thực hiện trên detector EMAX của
Anh, thế cấp vào khi đo là 20 kV.
2.4.1.6. Phương pháp quang điện tử tia X (XPS)
Phương pháp quang phổ tia X (X-ray photoelectron spectroscopy, XPS)
được sử dụng phổ biến để xác định thành phần nguyên tố cũng như trạng thái oxy
hóa của chúng trong mẫu. Phương pháp này dựa trên hiệu ứng quang điện tử
(photoelectronic effect) được tạo ra khi chiếu một chùm bức xạ có bước sóng ngắn
vào bề mặt vật liệu. Khi được hấp thu năng lượng, các electron ở lớp ngoài cùng
hoặc electron hóa trị thoát ra với năng lượng động năng:
(2.6) Ek = hν - Eb - ϕ
Trong đó, Ek là động năng của các quang electron, ϕ là công thoát electron
(phụ thuộc vào thiết bị), Eb là năng lượng liên kết của electron, ν là tần số photon, h
là hằng số Planck.
38
Năng lượng liên kết Eb là đại lượng đặc trưng cho nguyên tử nên từ giá trị
này chúng ta có thể xác định thành phần nguyên tố và trạng thái oxy hóa của chúng
trong mẫu [121].
Trong luận án này, phổ XPS được đo trên máy Shimadzu Kratos AXIS Ultra
spectrometer, pic được phân giải trên phần mềm Casa XPS.
2.4.1.7. Phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FT-IR)
Mỗi dao động chuẩn ứng với một tần số dao động cơ bản. Năng lượng để
làm chuyển các mức dao động này khá bé, tương đương với năng lượng bức xạ
hồng ngoại trong thang các bức xạ điện từ. Tuy nhiên, chỉ có các phân tử khi dao
động có gây ra sự thay đổi momen lưỡng cực điện mới có khả năng hấp thụ bức xạ
hồng ngoại. Năng lượng hấp thụ ánh sáng được mô tả bởi phương trình [8], [121]:
(2.7) ∆E = E* - E = hγ
Trong đó, E là năng lượng ở trạng thái cơ bản, E* là năng lượng ở trạng thái kích
thích, ∆E là hiệu năng lượng, h là hằng số Planck và γ là tần số.
Người ta có thể dùng phổ hồng ngoại để phân tích định tính hoặc định lượng.
Để phân tích định tính, phổ của mẫu đo được so sánh với phổ chuẩn. Hoặc để xác
định cấu trúc, dựa vào các phổ và so với bảng chuẩn để tìm các nhóm chức hoặc các
nhóm nguyên tử.
Trong luận án này, phổ FT-IR (Fourier Transform Infrared Spectroscopy)
được ghi trên thiết bị IrPrestige 21, Shimadzu.
2.4.1.8. Phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)
Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (Atomic Absorption Spectrometric,
AAS) dựa trên nguyên lý hấp thụ của hơi nguyên tử. Người ta cho chiếu vào đám
hơi nguyên tử một năng lượng bức xạ đặc trưng của riêng nguyên tử đó. Sau đó đo
cường độ còn lại của bức xạ đặc trưng này sau khi đã bị đám hơi nguyên tử hấp thụ,
sẽ tính ra được nồng độ nguyên tố có trong mẫu đem phân tích.
Trong luận án này, phổ hấp thụ nguyên tử được đo trên thiết bị AAS ZEEnit
7000, kỹ thuật ngọn lửa FAAS.
39
2.4.1.9. Phân tích nguyên tố
Hệ thống phân tích dựa trên nguyên tắc sắc ký khí sử dụng đầu dò dẫn nhiệt
TCD Thermal Conductivity Detector để xác định các nguyên tố C, H, N một cách
chính xác. Dạng mẫu phân tích: mẫu rắn hoặc mẫu lỏng. Chế độ hoạt động: Máy
hoạt động dựa trên phần mềm Turbo Flash MT Technology cho quá trình đốt cháy hoàn toàn mẫu ở nhiệt độ cao lên đến 1800 oC. Các khí CO2, H2O va NxOy là kết
quả của quá trình đốt cháy. Sau đó sử dụng cột phân tích để tách từng nguyên tố và
được xác định chính xác bằng đầu dò dẫn nhiệt TCD siêu nhạy.
Trong luận án này, phương pháp phân tích nguyên tố C, H, N được ghi trên
máy Elemental Analyser EA3000 (Euro Vector, Anh).
2.4.1.10. Phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại khả kiến (UV-Vis-DRS)
Khi dòng ánh sáng va đập vào mẫu rắn có hai loại phản xạ xảy ra: phản xạ
gương và phản xạ khuếch tán. Phản xạ gương (specular reflectance) liên quan đến
quá trình phản xạ của dòng tia tới và tia phản xạ có cùng góc (như gương phẳng).
Phản xạ khuếch tán (diffuse reflectance) liên quan đến dòng tia tới phản xạ theo tất
cả mọi hướng. Phổ phản xạ khuếch tán nằm ở vùng khả kiến hay vùng tử ngoại còn
gọi là phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại khả kiến (từ đây gọi là phổ UV-Vis-DR).
Đối với vật liệu hấp thụ ánh sáng khi dòng tia tới có cường độ (Io) chiếu vào vật liệu
hấp thụ đi qua một lớp mỏng có độ dày là l, với hệ số hấp thụ α. Cường độ (I) của
l
=
I
I e α−
tia ló được tính theo định luật hấp thụ Lambert-Beer:
o
(2.8)
Khi kích thước của hạt nhỏ hơn tiết diện ngang của dòng tia tới nhưng lớn
hơn tương đối độ dài bước sóng, hiện tượng nhiễu xạ xảy ra do có sự giao thoa với
các bước sóng khác. Trong vật liệu bột, các hạt có kích thước như vậy định hướng
ngẫu nhiên theo các hướng khác nhau, một phần của ánh sáng tia tới sẽ đi trở lại
bán cầu chứa nguồn tia sáng. Hiện tượng phát sinh từ sự phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ
và hấp phụ bởi các hạt định hướng một cách ngẫu nhiên được gọi phản xạ khuếch
tán, ngược với phản xạ gương trên bề mặt biên hạt.
40
Ngoài ra, sự hấp thụ ánh sáng liên quan đến sự chuyển dịch điện tử. Năng
lượng hấp thụ chuyển dịch điện tử có thể tính toán dựa vào phương trình Tauc [158]
thông qua hệ số hấp thụ α.
α=
ln T
Hệ số hấp thụ α được tính như sau
1 l
(2.9)
Trong đó l là chiều dày của mẫu đo, T là độ truyền qua được tính từ phổ UV-
Vis-DR.
(αhν) = C(hν-Eg)1/2 (2.10) Phương trình (2.10) được gọi là phương trình Tauc, trong đó h là hằng số
Planck, C là hằng số, E là năng lượng hấp thụ chuyển dịch điện tử và ν là tần số
kích thích. Vẽ đồ thị (αhν)2 theo hν, đường thẳng tuyến tính đi qua điểm uốn của
đường cong này cắt trục hoành. Giá trị hoành độ ở điểm cắt chính bằng năng lượng
hấp phụ chuyển dịch điện tử.
Cary 5000, sử dụng BaSO4 làm chất đối chứng, tốc độ thu 600 nm.min-1.
Trong luận án này, phổ UV-Vis-DR được đo trên máy quang phổ UV-Vis
2.4.1.11. Phổ huỳnh quang (PL)
Phổ huỳnh quang (Photoluminescence, PL) là sự phát xạ ánh sáng từ một vật
liệu khi bị kích thích quang học. Khi một chất hấp thu photon có năng lượng hν (hν
> Eg) thì các electron ở trạng thái cơ bản có mức năng lượng So sẽ bị kích thích và
chuyển lên trạng thái kích thích mức năng lượng cao hơn S2, sau đó các electron ở
trạng thái năng lượng cao dịch chuyển nội về mức năng lượng thấp hơn S1, rồi quay
trở lại trạng thái năng lượng thấp So cùng với sự phát xạ photon. Photon phát ra
tương ứng với bước chuyển từ mức năng lượng S1 → So tạo ra phổ huỳnh quang.
Phổ huỳnh quang được sử dụng để xác định tính chất bề mặt, mức độ tạp
chất, đánh giá hợp kim,...
Trong luận án này, phổ PL được đo trên máy Horiba FL3C-22.
41
2.4.2. Các phương pháp khảo sát hoạt tính xúc tác và hoạt tính điện hóa
2.4.2.1. Phương pháp phổ tử ngoại - khả kiến
Nhiều phân tử hấp thụ ánh sáng khả kiến và tử ngoại. Khi một chùm tia đơn
sắc, song song, có cường độ I0, chiếu thẳng góc lên bề dày l của một môi trường hấp
thụ, thì sau khi đi qua lớp chất hấp thụ này, cường độ của nó giảm còn I. Thực
nghiệm cho thấy rằng sự liên hệ giữa I0 và I được biểu diễn bởi phương trình sau:
lC
lg
I α=0 I
lg
lg
(2.11)
I 0 I
I 0 I
được gọi là độ hấp thụ, kí hiệu là A (A = ); hoặc được Đại lượng
gọi là mật độ quang, l là chiều dày của lớp chất hấp thụ, tính bằng cm; C là nồng độ của chất hấp thụ, tính bằng mol.L-1; α là hệ số hấp thụ mol, đặc trưng cho cường độ
hấp thụ của chất hấp thụ. Đây cũng chính là định luật Lambert Beer, độ hấp thụ tỷ
lệ thuận với nồng độ chất hấp thụ, chiều dài dung dịch chứa chất hấp thụ và hệ số
hấp thụ.
Cường độ hấp thụ của một chất thay đổi theo bước sóng của bức xạ chiếu
vào nó. Đường cong biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ hấp thụ theo giá trị của
bước sóng (hoặc tần số, hoặc số sóng) gọi là phổ hấp thụ. Phổ hấp thụ tử ngoại -
khả kiến (Ultraviolet-Visible) thường được nói gọn là phổ tử ngoại - khả kiến và
viết tắt là phổ UV-Vis [6].
Trong luận án này, nồng độ các chất khảo sát được đo trên thiết bị quang phổ
UV-Vis V-630 Jasco ở λmax = 644 nm đối với methylene blue, 464 nm đối với
methyl orange, 431 nm đối với phenol red, 500 nm đối với congo red và 270 nm đối
với phenol.
2.4.2.2. Phương pháp xác định tổng carbon hữu cơ (TOC)
Tổng carbon hữu cơ (Total Organic Carbon, TOC) là tổng lượng carbon có
trong các chất hữu cơ ở trong dung dịch hay đối tượng phân tích.
Trong luận án này, tổng carbon hữu cơ (Total Organic Carbon, TOC) của
dung dịch chất màu sau khi phân hủy được xác định theo TCVN 6634:2000, sử
dụng thiết bị TOC-VCPH.
42
2.4.2.3. Phương pháp sắc ký lỏng (LC)
Sắc ký lỏng (Liquid Chromatography, LC) là phương pháp được dùng để
tách các chất ra khỏi nhau khi cho hỗn hợp đi qua cột sắc ký, dựa trên tương tác
tương đối giữa sự hấp phụ trên pha tĩnh trong cột và sự khử hấp phụ bởi pha động là
dung môi. Sự xuất hiện trên sắc ký đồ theo thứ tự lần lượt các chất có thời gian lưu
ngắn nhất, cuối cùng chất có thời gian lưu lớn nhất. Dựa vào thời gian lưu và diện
tích của mỗi pic, có thể định tính và định lượng của mỗi chất trong hỗn hợp mẫu phân
tích. Từ kết quả phân tích định tính và định lượng, biết được thành phần và nồng độ
chất sau phản ứng, từ đó tính được độ chuyển hóa, cũng như hiệu suất phản ứng.
Trong luận án này, nồng độ benzaldehyde dimethyl acetal (BDA) tạo thành
sau phản ứng acetal hóa benzaldehyde (BA) được xác định trên thiết bị LC 2030-
Shimadzu. Điều kiện sắc ký: Cột sắc ký C8 (25 cm x 4,6 mm), pha động
acetonitrile: nước = 80:20, thể tích tiêm 20 µL, tốc độ dòng 0,8 mL/phút, bước sóng
phát hiện 210 nm.
2.4.2.4. Phương pháp thế-dòng hòa tan
Quá trình phân tích bằng phương pháp thế-dòng hòa tan âm cực (ASV) bao
gồm hai giai đoạn: giai đoạn làm giàu và giai đoạn hòa tan [186].
a. Giai đoạn làm giàu
Giai đoạn làm giàu nhằm tập trung chất cần phân tích trong dung dịch lên
trên bề mặt điện cực làm việc (WE) ở một thế và thời gian xác định. Trong giai
đoạn làm giàu, dung dịch được khuấy trộn đều bằng khuấy từ hoặc dùng điện cực
rắn đĩa quay. Quá trình tập trung chất phân tích lên trên bề mặt WE có thể bằng hai
cách: điện phân làm giàu và hấp phụ làm giàu.
b. Giai đoạn hòa tan
Trong giai đoạn hòa tan chất phân tích được tách ra khỏi bề mặt WE bằng
cách quét thế về phía dương hơn (gọi là quét âm cực). Trong giai đoạn này, quá trình
xảy ra trên điện cực là ngược với giai đoạn làm giàu.
43
Kỹ thuật xung vi phân thì gọi là phương pháp DP-ASV. Riêng đối với quá
trình làm giàu là hấp phụ thì được gọi là volt-ampere hòa tan anode hấp phụ xung vi
phân (DP-AdASV).
Đường volt-ampere hòa tan thu được có dạng đỉnh (pic). Thế đỉnh (Ep hay
Up) và độ lớn của dòng đỉnh hòa tan (Ip) phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thành
phần nền của dung dịch phân tích (chất điện ly nền, pH, chất tạo phức...), bản chất
của điện cực làm việc, thời gian điện phân làm giàu, điều kiện động học (sự khuấy
trộn hoặc quay điện cực…) trong giai đoạn làm giàu, tốc độ quét thế trong giai đoạn
hòa tan, kỹ thuật ghi đường volt-ampere hòa tan,… Hai thông số Ep và Ip dùng để
định tính và định lượng chất phân tích.
Trong luận án này, phương pháp volt-ampere hòa tan anode (ASV) sử dụng
điện cực glassy carbon (GCE) biến tính với vật liệu MOF-199, NH2-MOF-199 để
xác định các chất hữu cơ, ion kim loại bằng phương pháp volt-ampere hòa tan
anode (ASV) trên thiết bị phân tích điện hóa CPA-HH5.
2.4.3. Phương pháp thống kê
Áp dụng phương pháp thống kê để xử lý số liệu thực nghiệm và đánh giá độ
tin cậy của phương pháp phân tích bằng các phần mềm như Origin 8.5.1, Excel
2010,…
2.4.3.1. Độ lặp lại
“Độ lặp lại” được đánh giá qua các giá trị “Độ lệch chuẩn tương đối” (RSD)
hay “Hệ số biến động”:
( RSD % =
)
100 × S i C
TB
(2.12)
Trong đó: + Si: độ lệch chuẩn;
+ CTB: là nồng độ trung bình của chất phân tích.
(1 0,5lgC)
=
2 −
HRSD (%)
Mặt khác, độ lặp lại cũng được đánh giá qua hàm Horwitz W.:
(2.13)
44
Trong đó, C được biểu diễn ở dạng phân số khối lượng chất tan chia cho khối
lượng dung dịch, chẳng hạn như 1 ppb = 1/109.
Khi đó, nếu đạt được giá trị độ lệch chuẩn tương đối của phòng thí nghiệm
(RSDPTN) bằng một nửa (1/2) đến hai phần ba (2/3) giá trị RSDH thì kết quả là chấp
nhận được.
2.4.3.2. Độ đúng
“Độ đúng” (accuracy) là độ gần sát giữa kết quả xác định được (xTB) và giá
trị thực (µ) của nó. Độ đúng của phương pháp phân tích có thể được xác định qua
một trong các cách như sau:
- Cách thứ nhất: xác định hàm lượng chất phân tích trong mẫu vật liệu so
sánh đã được cấp chứng chỉ.
- Cách thứ hai: xác định hệ số thu hồi thông qua phân tích mẫu thật đã thêm
chuẩn (spiked sample) một lượng xác định chất cần phân tích. Sau đó, tính độ thu
−
C
2
C 1
=
. 1 00%
hồi (recovery, ký hiệu là Rev%) theo công thức sau:
( ) Rev %
C 0
(2.14)
Trong đó:
+ C0 (M) là nồng độ chất phân tích được thêm chuẩn vào trong mẫu thật;
+ C1 (M) là nồng độ chất phân tích trong mẫu thật;
+ C2 (M) là nồng độ chất phân tích trong mẫu thật đã được thêm chuẩn.
- Cách thứ ba: so sánh kết quả phân tích bằng phương pháp đang nghiên cứu
với một phương pháp đã được chấp nhận là phương pháp tiêu chuẩn.
2.4.3.3. Khoảng tuyến tính
Để xác định khoảng tuyến tính, thường tiến hành xây dựng phương trình hồi
quy tuyến tính biểu diễn sự phụ thuộc của tín hiệu vào nồng độ của chất phân tích
bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Sau đó, xác định hệ số tương quan (r), so
45
sánh với hệ số tương quan lý thuyết ở xác suất tin cậy (P) và bậc tự do (f = n - 2)
(gọi là rbảng). Nếu |rtính| > rbảng thì có mối tương quan tốt và ngược lại.
Từ khoảng tuyến tính tốt nhất, tiến hành xác định độ nhạy, giới hạn phát hiện
(LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) như sau:
- Độ nhạy: một cách tổng quát, “độ nhạy” của phương pháp phân tích định
lượng được xác định bởi độ biến thiên của tín hiệu đo (Δy) khi có sự biến thiên của
nồng độ chất phân tích (ΔC).
Như vậy, độ nhạy chính là độ dốc của đường hồi quy tuyến tính. Nếu
phương trình đường chuẩn có dạng y = a + bC, thì độ nhạy chính là hệ số góc b.
- Giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng:
+ “Giới hạn phát hiện” (LOD) là nồng độ nhỏ nhất của chất phân tích tạo ra
được một tín hiệu đo có thể phân biệt một cách tin cậy với tín hiệu đo của mẫu trắng
(hay tín hiệu nền). Với khái niệm như vậy, có nhiều cách xác định LOD khác nhau,
có thể xác định theo quy định của IUPAC - “quy tắc 3σ”, hoặc theo Cơ quan Bảo vệ
Môi trường của Mỹ (EPA), hoặc theo Pallesen,...
Nhưng, phổ biến nhất hiện nay vẫn là cách xác định LOD theo “quy tắc 3σ”.
=
=
+
y
y
+ σ 3.
hay y
y
b
b
b
3.S b
Theo quy tắc này, LOD được tính như sau:
(2.15)
Trong đó:
+ y là LOD hoặc tín hiệu ứng với LOD, nếu biết tín hiệu y sẽ tính được LOD
=
=
LOD
C
( y – a / b
)
từ phương trình đường chuẩn y = a + bC, ta có:
(2.16)
+ yb là nồng độ hoặc tín hiệu mẫu trắng.
+ σb (hay Sb) là độ lệch chuẩn của nồng độ hoặc tín hiệu mẫu trắng.
LOD thường được xác định theo phương pháp đường hồi quy như sau: Tiến
hành thí nghiệm để thiết lập phương trình hồi quy (PTHQ) tuyến tính dạng: y = a +
bC. Từ đó xác định yb và Sb bằng cách: chấp nhận yb (tín hiệu mẫu trắng) là giá trị
46
của y khi C = 0, ta có: yb = a và Sb = Sy (độ lệch chuẩn của tín hiệu y khi xây dựng
2
∧ y ) i
=
=
S
S b
y/ x
∑ − (y i − n 2
đường hồi quy):
(2.17)
Trong đó: + yi: giá trị thực nghiệm của tín hiệu đo ở các nồng độ khác nhau.
i: giá trị tính từ phương trình hồi quy, tức là y
i = a + bCi.
+ y
� � Ta có: y = yb + 3Sb = a + 3Sy.
Vậy, LOD được xác định theo PTHQ dạng y = a + bC là:
y = a + b.LOD = a + 3.Sy/x⇔ b.LOD = 3.Sy/x
(2.18) ⇒ LOD = (3 x Sy) / b
+ “Giới hạn định lượng” (LOQ) là nồng độ thấp nhất có thể định lượng được,
=
÷
=
LOQ
4 LOD
3 (
).
10.S b
thường chấp nhận:
(2.19)
2.5. THỰC NGHIỆM
2.5.1. Hóa chất
Các hóa chất chính sử dụng trong nghiên cứu được trình bày ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Danh mục hóa chất
Hãng/Quốc gia Độ tinh TT Tên hóa chất Công thức sản xuất khiết (%)
1 Benzene-1,3,5-tricarboxylic AK Scientific, 98 C6H3(COOH)3
Mỹ acid (H3BTC)
2 Copper nitrate trihydrate HiMedia, Ấn Độ 99,5 Cu(NO3)2.3H2O
98,5 3 Zinc nitrate tetrahydrate Zn(NO3)2.4H2O Merck, Đức
98 4 2-aminobenzene-1,4- H2NC6H3(COOH)2 AK Scientific,
Mỹ dicarboxylic acid (ABDC)
47
5 N,N-dimethylformamide Trung Quốc 99,5 HCON(CH3)2
(DMF)
6 Ethanol Trung Quốc 99,5 C2H5OH
Trung Quốc 99,5 7 Methanol CH3OH
Trung Quốc 99,5 8 Dichloromethane CH2Cl2
HiMedia, Ấn Độ 82 9 Methylene blue (MB) C16H18ClN3S
85 10 Methyl orange (MO) C14H14N3NaO3S Merck, Đức
85 11 Congo red (MR) C32H22N6Na2O6S2 Merck, Đức
Merck, Đức 90 12 Phenol red (PR) C19H14O5S
13 Kalium iodine KI Merck, Đức 99
Merck, Đức 98 14 Benzoquinone C6H4O2
Trung Quốc 99 15 Isopropanol C3H7OH
Merck, Đức 98 16 Benzaldehyde (BA) C6H5CHO
99 17 Benzaldehyde dimethyl C6H5CH(OCH3)2 Merck, Đức
acetal (BDA)
18 Paracetamol (PAR) Merck, Đức 99 C8H9NO2
Merck, Đức 99 19 Caffeine (CAF) C10H8N4O2
Merck, Đức 99 20 Uric acid (UA) C5H4N4O3
Merck, Đức 99 21 Ascorbic acid (AA) C6H8O6
2.5.2. Quy trình tổng hợp và xác định tính chất vật liệu
2.5.2.1. Tổng hợp MOF-199
MOF-199 được tổng hợp theo hai phương pháp, dựa trên việc tham khảo các
tài liệu đã công bố [123], [170] và có những sửa đổi nhỏ.
- Tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt: Hòa tan m1 gam H3BTC và m2
gam Cu(NO3)2.3H2O vào 21 mL hệ dung môi gồm DMF:C2H5OH:H2O theo tỷ lệ
thể tích là 1:1:1 (lượng hóa chất cụ thể trong mỗi thí nghiệm được trình bày ở Bảng
2.2). Dung dịch thu được cho vào bình teflon và đặt trong autoclave, rồi tiến hành
48
dung nhiệt ở T oC trong khoảng thời gian t phút. Hỗn hợp sau phản ứng được để
nguội tự nhiên về nhiệt độ phòng, lọc lấy tinh thể, rửa bằng DMF, ethanol (mỗi
dung môi 2 lần) và sau đó ngâm trong CH2Cl2 3 ngày để trao đổi dung môi (thay dung môi 1 lần/1ngày). Lọc lấy vật liệu, hoạt hóa ở 180 oC trong 8 giờ.
Bảng 2.2. Lượng hóa chất trong các thí nghiệm tổng hợp MOF-199
Nồng độ Ký hiệu Nồng độ Dung môi H3BTC Cu(NO3)2.
mẫu (g) 3H2O (g) DMF:C2H5OH H3BTC Cu(NO3)2
(M) (M) :H2O (mL)
0,8820 1,5246 21 0,20 0,30 0,2M
0,4410 0,7623 21 0,10 0,15 0,1M
0,2205 0,3812 21 0,05 0,075 0,05M
- Tổng hợp bằng phương pháp vi sóng: tương tự như quy trình tổng hợp
MOF-199 bằng phương pháp dung nhiệt, tuy nhiên dung dịch phản ứng ban đầu (21
mL) được cho vào bình tam giác dung tích 250 mL, lắp hệ thống sinh hàn hồi lưu
và đặt vào trong thiết bị vi sóng (Sharp R-203VN-M) để thực hiện quá trình tổng
hợp ở mức năng lượng vi sóng T (W) trong khoảng thời gian t phút (Hình 2.3).
Hình 2.3. Thiết bị vi sóng tự tạo sử dụng tổng hợp MOF-199.
49
2.5.2.2. Tổng hợp vật liệu NH2-MOF-199
Vật liệu NH2-MOF-199 được tổng hợp trên cơ sở biến tính MOF-199 bằng 2-
aminobenzene-1,4-dicarboxylic acid (ABDC) theo hai phương pháp: biến tính trực
tiếp và biến tính gián tiếp.
- Phương pháp biến tính trực tiếp: NH2-MOF-199 được tổng hợp dựa trên việc
sửa đổi một vài điểm nhỏ ở quy trình của nhóm tác giả Wang [170]. Hòa tan 0,3308
gam H3BTC (0,00158 mol); 0,1425 gam ABDC (0,00079 mol) và 0,7623 gam
Cu(NO3)2.3H2O (0,00315 mol) vào 21 mL hệ dung môi gồm DMF:C2H5OH:H2O
theo tỷ lệ thể tích là 1:1:1. Dung dịch thu được cho vào bình tam giác dung tích 250
mL, lắp hệ thống sinh hàn hồi lưu và đặt vào trong lò vi sóng để thực hiện quá trình
tổng hợp ở mức năng lượng vi sóng 250 W trong khoảng thời gian 30 phút. Hỗn
hợp sau phản ứng được để nguội tự nhiên về nhiệt độ phòng, lọc lấy tinh thể, rửa
nhiều lần bằng DMF, ethanol và sau đó ngâm trong CH2Cl2 3 ngày (thay dung môi 1 lần/1ngày). Lọc lấy vật liệu, hoạt hóa ở 180 oC trong 8 giờ. Mẫu tổng hợp được ký
hiệu là MA-TT.
- Phương pháp biến tính gián tiếp thứ nhất: MOF-199 được tổng hợp trước,
sau đó đưa ABDC lên MOF-199. Hòa tan 0,4410 gam H3BTC (0,0021 mol) và
0,7623 gam Cu(NO3)2.3H2O (0,00315 mol) vào 21 mL hệ dung môi gồm
DMF:C2H5OH:H2O (1:1:1). Dung dịch thu được cho vào bình tam giác dung tích
250 mL, thực hiện quá trình tổng hợp ở mức năng lượng vi sóng 250 W trong
khoảng thời gian 30 phút. Để nguội, lọc lấy tinh thể MOF-199, rửa bằng DMF 3
lần. Hòa tan 0,1425 gam ABDC (0,00079 mol) trong 21 mL hệ dung môi
DMF:C2H5OH:H2O (1:1:1), cho tinh thể MOF-199 vào dung dịch thu được và thực
hiện quá trình tổng hợp ở mức năng lượng vi sóng 250 W trong 20 phút. Để nguôi,
lọc lấy tinh thể, rửa nhiều lần bằng DMF, ethanol và sau đó ngâm trong CH2Cl2 3 ngày (thay dung môi 1 lần/1ngày). Lọc lấy vật liệu, hoạt hóa ở 180 oC trong 8 giờ.
Mẫu tổng hợp được ký hiệu là MA-GT1.
- Phương pháp biến tính gián tiếp thứ hai: Tiến hành tổng hợp và rửa tinh thể
MOF-199 bằng DMF tương tự như phương pháp biến tính gián tiếp thứ nhất. Sau
đó, hòa tan 0,2420 gam Cu(NO3)2.3H2O vào 10 mL hệ dung môi
50
DMF:C2H5OH:H2O (1:1:1) và cho tinh thể MOF-199 vào dung dịch Cu(II) thu
được, khuấy từ 1 giờ. Hòa tan 0,1810 gam ABDC trong 11 mL hệ dung môi
DMF:C2H5OH:H2O (1:1:1), cho vào hỗn hợp trên và khuấy tiếp 1 giờ nữa, sau đó
thực hiện quá trình tổng hợp vi sóng ở mức năng lượng 250 W trong 20 phút. Để
nguội, lọc lấy tinh thể, rửa nhiều lần bằng DMF, ethanol và sau đó ngâm trong CH2Cl2 3 ngày (thay dung môi 1 lần/1ngày). Lọc lấy vật liệu, hoạt hóa ở 180 oC trong
8 giờ. Mẫu tổng hợp được ký hiệu là MA-GT2.
2.5.2.3. Tổng hợp vật liệu Zn-MOF-199
Vật liệu Zn-MOF-199 được tổng hợp trên cơ sở biến tính MOF-199 bằng ion
Zn(II) theo phương pháp trực tiếp, quy trình tổng hợp tương tự như tổng hợp MOF-
199 bằng phương pháp dung nhiệt. Hòa tan 0,0021 mol H3BTC và 0,00315 mol hỗn
hợp hai muối Cu(NO3)2.3H2O và Zn(NO3)2.4H2O theo các tỷ lệ mol Cu:Zn = 8:2,
7:3, 5:5; 3:7 vào 21 mL hệ dung môi gồm DMF:C2H5OH:H2O theo tỷ lệ thể tích là
1:1:1. Dung dịch thu được cho vào ống thủy tinh chịu nhiệt, vặn kín nắp, rồi tiến hành dung nhiệt ở 100 oC trong khoảng thời gian t giờ (6, 12, 18, 24, 36 giờ). Hỗn
hợp sau phản ứng được để nguội tự nhiên về nhiệt độ phòng (khoảng 15-20 phút), lọc
lấy tinh thể, rửa nhiều lần bằng DMF, ethanol và sau đó ngâm trong CH2Cl2 3 ngày (thay dung môi 1 lần/1ngày). Lọc lấy vật liệu, hoạt hóa ở 180 oC trong 8 giờ.
Vật liệu Zn-BTC cũng được tổng hợp để so sánh, quy trình tương tự như tổng
hợp MOF-199, với hỗn hợp ban đầu gồm 0,0021 mol H3BTC (0,4410 gam) và
0,00315 mol Zn(NO3)2.4H2O (0,8223 gam).
2.5.2.4. Tổng hợp nano oxide từ vật liệu khung hữu cơ kim loại
Vật liệu MOF-199, Zn-MOF-199, Zn-BTC được nung trong thiết bị Vulcan
3-550-PD ở nhiệt độ 500 oC trong 5 giờ, tốc độ gia nhiệt là 5 oC/phút.
2.5.2.5. Xác định điểm đẳng điện của vật liệu ZnO – CuO
Cách thức xác định điểm đẳng điện của ZnO – CuO tương tự như tài liệu
[79]. Cho vào một loạt 9 bình tam giác (dung tích 100 mL) 50 mL dung dịch KCl
0,1M và 0,04 g ZnO - CuO. Giá trị pH ban đầu của dung dịch (pHi) được điều chỉnh
51
nằm trong khoảng từ 2 đến 12 bằng HCl hay NaOH. Đậy kín và lắc bằng máy lắc
trong 24 giờ. Sau đó, ly tâm lấy dung dịch, đo lại các giá trị pH gọi là pHf. Đồ thị
biểu diễn mối quan hệ sự khác nhau giữa các giá trị pH ban đầu và sau cùng (∆pH =
pHf - pHi) theo pHi là đường cong cắt trục hoành tại ∆pH = 0 cho ta giá trị pH đẳng
điện (pHPZC).
Trong luận án này, pH của các dung dịch được đo trên máy Sartorius (Mỹ).
2.5.3. Khảo sát hoạt tính xúc tác cho phản ứng acetal hóa benzaldehyde
Phản ứng được tiến hành hành trong bình kín với các chất ban đầu gồm có:
0,1 ml benzaldehyde (BA, D = 1,054 g/mL), 3 ml methanol và m mg chất xúc tác.
Hỗn hợp khuấy từ trong chai thủy tinh đậy kín tại nhiệt độ T ºC, thời gian t giờ. Sau
phản ứng, lọc, rửa chất xúc tác, thu lấy dịch lọc và định mức thành 10 mL dung
dịch. Nồng độ sản phẩm benzaldehyde dimethyl acetal (BDA) có trong 10 mL dung
dịch định mức được xác định bằng phương pháp sắc ký lỏng.
Xây dựng đường chuẩn BDA (D = 1,014 g/mL) trong khoảng nồng độ 1-152
µg/ml. Phương trình đường chuẩn biểu diễn mối liên hệ giữa diện tích pic của BDA (S) với nồng độ BDA (C) có dạng: S = 57511C + 46288 với R2 = 0,9999.
Dựa vào phương trình đường chuẩn, tính được nồng độ BDA khi biết diện
tích pic của BDA.
Hiệu suất phản ứng được tính theo công thức:
𝐶.100
𝐻 =
151 Trong đó: C- Nồng độ BDA trong 10 mL dung dịch định mức.
(2.20)
151- Nồng độ BDA tối đa trong 10 mL dung dịch định mức khi
0,1 ml BA chuyển hóa hoàn toàn thành BDA.
2.5.4. Khảo sát hoạt tính xúc tác quang hóa phân hủy methylene blue
Cho 400 mg vật liệu vào cốc có chứa 500 mL dung dịch MB (5-30 ppm) và
đặt cốc vào bộ phản ứng quang hóa, phía trên có đèn chiếu sáng. Nguồn sáng là đèn
halogen kim loại Philips 160 W, được trang bị bộ lọc cắt bỏ bước sóng λ ≤ 420 nm
52
hoặc đèn Philips, Actinic BL 18 W, λ = 365 nm. Trước khi chiếu sáng, huyền phù
được khuấy từ trong bóng tối trong 60–180 phút để đảm bảo cân bằng hấp phụ. 3 ml
huyền phù được rút ra ở một khoảng thời gian nhất định và được ly tâm để loại bỏ
chất xúc tác rắn. Nồng độ MB trong chất lỏng trong suốt thu được được phân tích
bằng máy quang phổ UV-Vis ở bước sóng λ = 664 nm. Ngoài ra, nồng độ MB trong
quá trình chiếu sáng cũng được xác định bằng cách sử dụng các bước nêu trên. Dựa
vào giá trị độ hấp thụ đo được và phương trình đường chuẩn biểu diễn mối liên hệ
giữa độ hấp thụ (A) và nồng độ (C) của MB xây dựng trong khoảng nồng độ 0-30 ppm: A = 0,171C + 0,0285 với R2 = 0,9985, tính được nồng độ MB tại thời điểm
tương ứng.
Hiệu suất loại bỏ MB của phản ứng quang hóa được tính theo công thức:
𝐶𝑜−𝐶𝑡 𝐶𝑜
(2.21)
. 100
𝐻 =
Trong đó: Co và Ct là nồng độ của MB ban đầu và tại thời điểm t.
Trong thử nghiệm các chất bắt gốc, KI, benzoquinone và isopropanol được
sử dụng làm các chất bắt gốc. Đầu tiên, huyền phù của 100 mL MB (10 ppm) và 80
mg chất xúc tác được khuấy trong bóng tối, và sau đó 1 mL dung dịch chất bắt gốc (2,4.10−2 M) được thêm vào huyền phù và chiếu ánh sáng.
Trong thử nghiệm ảnh hưởng của pH, huyền phù của 100 mL MB (10 ppm)
và 80 mg chất xúc tác được điều chỉnh pH bằng dung dịch HCl hay NaOH, sau đó
khuấy trong bóng tối 60 phút để đảm bảo cân bằng hấp phụ, rồi chiếu ánh sáng.
Các thí nghiệm xúc tác quang hóa các hợp chất khác như methyl orange,
phenol red, congo red và phenol cũng được tiến hành tương tự như trên. Nồng độ
các chất màu được phân tích bằng máy quang phổ UV-Vis ở bước sóng λ = 464 nm
đối với methyl orange, 431 nm đối với phenol red, 500 nm đối với congo red và 270
nm đối với phenol. Dựa vào độ hấp thụ và đường chuẩn xây dựng của mỗi chất màu
để tính nồng độ các chất màu.
2.5.5. Nghiên cứu động học quá trình quang xúc tác phân hủy MB
Thí nghiệm phân hủy các chất màu bằng vật liệu xúc tác quang hóa thường
được thiết kế để phản ứng diễn ra theo hai giai đoạn: đầu tiên, quá trình hấp phụ của
53
các phân tử chất màu lên bề mặt vật liệu sẽ diễn ra cho đến khi đạt cân bằng và sau
đó đến quá trình xúc tác. Hầu hết các nghiên cứu động học xúc tác dị thể bỏ qua sự
hấp phụ cân bằng và sử dụng mô hình động học biểu kiến bậc một (hoặc mô hình
Langmuir-Hinshelwood) trong tính toán [167], [181] như được mô tả bằng phương
trình (3.9) dưới đây:
(2.22) ln(C/Co) = -k . t
trong đó Co (mg/L) và C (mg/L) lần lượt là nồng độ của chất màu tại lúc vừa mới
chiếu đèn và tại thời điểm t, k (1/phút) là hằng số tốc độ.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là làm thế nào để chọn Co cho hợp lý. Giả sử Co là
nồng độ của chất màu tại thời điểm bật đèn chiếu sáng, thì nồng độ này là nồng độ
cân bằng (Ce) của quá trình hấp phụ. Điều này không hợp lý bởi vì Ce không phải là
một biến độc lập mà nó phụ thuộc vào sự cân bằng giữa chất màu (chất bị hấp phụ)
và vật liệu hấp phụ. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đề xuất sử dụng mô hình
kết hợp giữa mô hình đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir và cơ chế xúc tác dị thể cho
phản ứng đơn phân tử.
Cơ chế xúc tác dị thể có diễn ra theo hai quá trình chính:
- Quá trình 1: hấp phụ giữa phân tử chất màu và bề mặt vật liệu
Phân tử chất màu (ví dụ MB) + bề mặt vật liệu xúc tác (≡) ↔ ≡MB (2.23)
- Quá trình 2: phản ứng xúc tác quang hóa
≡MB → sản phẩm phân hủy (2.24)
Giả định rằng quá trình hấp phụ xảy ra với tốc độ nhanh và nằm ở trạng thái
cân bằng, quá trình quang xúc tác diễn ra chậm hơn và là quá trình quyết định tốc
độ của cả quá trình.
Đối với quá trình hấp phụ, dung lượng hấp phụ tại thời điểm cân bằng qe
(mg/g) được tính theo phương trình (2.25):
(2.25) qe = V(Co-Ce)/m
trong đó Co (mg/L) là nồng độ ban đầu của chất màu, Ce (mg/L) là nồng độ cân
54
bằng tại thời điểm bật đèn chiếu sáng, V (L) là thể tích dung dịch, m (g) là khối
lượng xúc tác.
Nồng độ cân bằng Ce và dung lượng hấp phụ qe liên hệ với nhau theo mô
hình đẳng nhiệt Langmuir được mô tả bởi phương trình (2.26):
(2.26) qe = qm.KLCe/(1+KL.Ce)
trong đó qm (mg/g) và KL (L/mg) lần lượt là dung lượng hấp phụ cực đại và hằng số
Langmuir.
Đối với quá trình xúc tác quang hóa, vận tốc của phản ứng xúc tác phân hủy
chất màu được xác định như phương trình (2.27):
(2.27) r = kr . θ
trong đó kr (mg/L/phút) là hằng số vận tốc; θ là độ che phủ được biểu thị bằng
phương trình đẳng nhiệt Langmuir. Phương trình (2.27) có thể viết lại như sau:
𝑑𝐶
𝑑𝑡
𝑟 = 𝑘r ·
𝐾L·𝐶 1+𝐾L·𝐶 = −
(2.28)
Lấy tích phân phương trình (2.28) với điều kiện biên: C =Ce tại t = 0 phút và C = C
tại t = t ta được phương trình (2.29):
1 𝐾L · ln 𝐶 + 𝐶 = −𝑘r · 𝑡 +
1 𝐾L · ln 𝐶e + 𝐶e
(2.29)
1 𝐾𝐿 · ln 𝐶 +
) với t.
Hằng số kr có thể xác định thông qua hệ số góc của đồ thị tuyến tính của (
𝐶 2.5.6. Nghiên cứu đặc tính các hợp chất phân tích trên điện cực biến tính
2.5.6.1. Phương pháp volt-ampere vòng
Phương pháp volt-ampere vòng (CV) được sử dụng nhằm nghiên cứu đặc
tính của PAR và CAF trên điện cực biến tính.
Quy trình thí nghiệm của phương pháp CV được thể hiện ở Hình 2.4.
55
Chuẩn bị dung dịch phân tích: đệm PBS (pH=7); CPAR, CCAF và nước cất 2 lần vừa đủ 10 mL
Quét volt-ampere vòng: 0 → + 1600, 100 mV/s
Thế bắt đầu 0 mV
Quét về (+) → (-) Quét đi (-) → (+)
Thế kết thúc +1600
Hình 2.4. Sơ đồ tiến trình thí nghiệm theo phương pháp volt-ampere vòng.
2.5.6.2. Phương pháp volt-ampere xung vi phân
Phương pháp volt-ampere dùng kỹ thuật xung vi phân (DP) được sử dụng
nhằm nghiên cứu xác định PAR và CAF trên điện cực biến tính.
Quy trình thí nghiệm của phương pháp DP-ASV được thể hiện ở Hình 2.5.
1. Giai đoạn làm giàu:
- Dung dịch phân tích: 1 mL đệm PBS (1M; pH= 7,0), V mL dung dịch các
chất phân tích (PAR, CAF), thêm nước cất 2 lần vừa đủ 10 mL (V1 mL);
- Áp thế và thời gian điện phân: Eacc = 200 mV, tacc = 60 s và ω = 2000 rpm
Nghỉ 5 s
2. Giai đoạn hòa tan:
- Quét thế theo chiều anot;
- Khoảng quét thế từ 0 đến +1600 mV; ν = 20 mV/s;
- Sử dụng kỹ thuật DP để đo tín hiệu (Ep và Ip);
- Tín hiệu: Ip,PAR, Ep,PARvà Ip,CAF, Ep,CAF
- Tiến hành định lượng bằng phương pháp thêm chuẩn.
Hình 2.5. Sơ đồ tiến trình thí nghiệm theo phương pháp volt-ampere xung vi phân.
56
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP MOF-199 VÀ ỨNG DỤNG LÀM CHẤT
BIẾN TÍNH ĐIỆN CỰC
3.1.1. Nghiên cứu tổng hợp MOF-199 bằng phương pháp dung nhiệt và
phương pháp vi sóng
3.1.1.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ và năng lượng vi sóng
Chúng tôi tiến hành tổng hợp các mẫu vật liệu bằng phương pháp dung nhiệt ở các nhiệt độ 100, 110, 140 và 160 oC, với thời gian 6 giờ, nồng độ H3BTC 0,2M
và phương pháp vi sóng ở các mức năng lượng 80, 250 và 400 W với thời gian 15
phút, nồng độ H3BTC 0,2 M. Kết quả XRD của các mẫu vật liệu được trình bày ở
Hình 3.1.
Kết quả Hình 3.1a cho thấy giản đồ XRD của mẫu vật liệu tổng hợp dung nhiệt ở 100 oC xuất hiện các pic nhiễu xạ đặc trưng của vật liệu MOF-199 với các
chỉ số Miller là (200), (220), (222), (400), (331), (420), (422), (333), (440), (600),
(444), (551), (553), (733), (751), (931), (773) [147], [155], [172]. Điều này chứng
m [35].
3�
tỏ mẫu vật liệu thu được là vật liệu MOF-199 với cấu trúc lập phương Fm Khi tăng nhiệt độ trên 100 oC, cường độ nhiễu xạ giảm dần. Ở nhiệt độ cao như 140 oC, 160 oC đã xuất hiện các pic nhiễu xạ mới tại 2θ = 36,4o (khác với nhiễu
xạ của MOF-199), đây là pic nhiễu xạ đặc trưng cho Cu2O [172]. Như vậy, nhiệt độ thích hợp trong điều kiện khảo sát là 100 oC. Ở nhiệt độ cao hơn có thể hình thành
pha mới hoặc MOF-199 bị phân hủy nhiệt tạo Cu2O, điều này giải thích cho cường
độ nhiễu xạ giảm khi nhiệt độ dung nhiệt tăng.
Vậy, chúng tôi chọn nhiệt độ tổng hợp là 100 oC cho phương pháp dung nhiệt
để tiếp tục khảo sát sự ảnh hưởng của các yếu tố khác đến sự hình thành vật liệu.
Đối với phương pháp vi sóng, kết quả trình bày ở Hình 3.1b cho thấy ở các
mức năng lượng này, vật liệu MOF-199 đều được hình thành và mức năng lượng
thích hợp là 250 W, cho độ tinh thể cao nhất. Chúng tôi chọn mức năng lượng 250
W cho phương pháp vi sóng để tiếp tục khảo sát sự ảnh hưởng của các yếu tố khác.
57
(a)
1000 cps
ST-160 oC
ST-140 oC
s p c /
ST-110 oC
é ® g n ê C
ST-100 oC
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
(b)
1000 cps
MW-80 W
s p c
/
MW-250 W
é ® g n ê C
MW-400 W
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
Hình 3.1. Giản đồ XRD của các mẫu vật liệu tổng hợp dung nhiệt ở các nhiệt độ
khác nhau (a) và tổng hợp vi sóng ở các mức năng lượng khác nhau (b).
3.1.1.2. Ảnh hưởng nồng độ chất đầu đến sự hình thành pha của vật liệu
Chúng tôi tiến hành tổng hợp các mẫu MOF-199 ở các nồng độ H3BTC ban
đầu khác nhau là 0,05 M; 0,1 M và 0,2 M theo phương pháp dung nhiệt (với thời gian 360 phút, nhiệt độ 100 oC) và phương pháp vi sóng (với thời gian 15 phút, mức
năng lượng 250 W). Kết quả XRD của các mẫu vật liệu được trình bày ở Hình 3.2.
58
(a)
2000 cps
ST-0,05M
s p c /
ST-0,1M
é ® g n ê C
ST-0,2M
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
(b)
1000 cps
MW-0,05M
s p c /
MW-0,10M
é ® g n ê C
MW-0,20M
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
Hình 3.2. Giản đồ XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp ở các nồng độ H3BTC
khác nhau theo phương pháp dung nhiệt (a) và vi sóng (b).
Kết quả cho thấy:
- Giản đồ XRD của các mẫu tổng hợp ở các nồng độ khác nhau theo hai
phương pháp đều có các pic nhiễu xạ đặc trưng của vật liệu MOF-199, vì vậy các
mẫu vật liệu tổng hợp được là vật liệu MOF-199. Cường độ các pic của các mẫu
cao, rõ nét cho thấy độ tinh thể cao của các mẫu vật liệu.
59
- Các mẫu MOF-199 tổng hợp được theo phương pháp dung nhiệt tương ứng
với nồng độ H3BTC 0,05 M và 0,1 M có cường độ nhiễu xạ cao hơn mẫu tương ứng
nồng độ H3BTC 0,2 M, điều này cho thấy khi nồng độ H3BTC tăng lên 0,2 M, độ
tinh thể của vật liệu tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt có khuynh hướng giảm
xuống. Vì vậy, nồng độ H3BTC phù hợp đối với phương pháp dung nhiệt là 0,05 M
và 0,1 M. Trong khi đó, đối với phương pháp vi sóng, các mẫu MOF-199 thu được
tương ứng với nồng độ H3BTC 0,1 M và 0,2 M có cường độ nhiễu xạ cao hơn nhiều
so với mẫu MOF-199 tương ứng với nồng độ H3BTC 0,05 M, chứng tỏ phương
pháp vi sóng không phù hợp để tổng hợp MOF-199 khi nồng độ H3BTC loãng (0,05
M) và vật liệu thu được sẽ có độ tinh thể thấp. Nồng độ H3BTC phù hợp đối với
phương pháp vi sóng là 0,1 M và 0,2 M. Chúng tôi đã lựa chọn nồng độ H3BTC 0,1
M để khảo sát yếu tố ảnh hưởng thời gian cho cả hai phương pháp.
3.1.1.3. Ảnh hưởng của thời gian tổng hợp
Kết quả XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp ở các thời gian khác nhau
theo phương pháp vi sóng (ở mức năng lượng 250 W, nồng độ H3BTC 0,1 M) và dung nhiệt (ở nhiệt độ 100 oC, nồng độ H3BTC 0,1 M) được trình bày ở Hình 3.3.
Nhiễu xạ đặc trưng trên giản đồ XRD của các mẫu tổng hợp đều có các pic
nhiễu xạ đặc trưng của vật liệu MOF-199 với chỉ số Miller là (200), (220), (222),
(400), (331), (420), (422), (333), (440), (600), (444), (551), (553), (733), (751),
(931), (773) [147], [155], [172]. Tất cả các pic nhiễu xạ có hình sắc nhọn và cường
độ cao chứng tỏ MOF-199 tổng hợp được có độ kết tinh cao. Đối với các mẫu
MOF-199 tổng hợp bằng vi sóng (MW-MOF-199), cường độ của nhiễu xạ tăng
nhanh trong 30 phút đầu sau đó giảm dần. Trong khi đó, đối với các mẫu tổng hợp
bằng dung nhiệt (ST-MOF-199), cường độ nhiễu xạ tăng dần cho đến 360 phút rồi
giảm dần theo thời gian.
Giản đồ XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp được phù hợp với MOF-199
có công thức phân tử “Cu3(BTC)2(H2O)3.xH2O” [147]. Để so sánh hiệu suất tổng
hợp MOF-199 theo hai phương pháp vi sóng và dung nhiệt, các mẫu vật liệu sau khi
60
hoạt hóa được cân ngay để xác định khối lượng tổng hợp được và lúc đó công thức
phân tử của MOF-199 có hệ số x rất nhỏ hoặc x = 0, trở thành Cu3(BTC)2.3H2O.
a)
) 2 2 2 (
) 0 2 4 (
) 1 1 5 (
) 1 5 5 (
) 0 0 2 (
) 0 2 2 (
) 0 0 4 (
2000 cps
) 0 4 4 (
) 0 0 6 (
) 1 5 7 (
) 3 5 5 (
) 4 4 4 (
) 1 3 3 (
) 2 2 4 (
ST- 45 phót
ST- 30 phót
s p c
/
ST- 15 phót
é ® g n ê C
ST- 10 phót
ST- 5 phót
4
8
12
28
32
36
16
20
24 2Theta / ®é
) 2 2 2 (
) 0 2 4 (
) 1 1 5 (
b)
) 1 5 5 (
) 0 0 2 (
) 0 2 2 (
) 0 0 4 (
2000 cps
) 0 4 4 (
) 0 0 6 (
) 1 1 3 (
) 1 5 7 (
) 3 5 5 (
) 4 4 4 (
) 1 3 3 (
) 2 2 4 (
MW- 420 phót
s p c
MW- 360 phót
/
MW- 120 phót
é ® g n ê C
MW- 60 phót
MW- 30 phót
4
8
12
28
32
36
16
20
24 2Theta / ®é
Hình 3.3. Giản đồ XRD của các mẫu MOF-199 tổng hợp ở các thời gian khác nhau
bằng phương pháp vi sóng (a) và phương pháp dung nhiệt (b).
Hiệu suất tổng hợp MOF-199 được tính từ tỉ số khối lượng MOF-199 thu
được trong thực tế với khối lượng MOF-199 tính theo lý thuyết dựa theo công thức
Cu3(BTC)2.3H2O (công thức cơ bản của MOF-199) của Chui và cộng sự [35].
Từ Hình 3.4 nhận thấy rằng hiệu suất tổng hợp MOF-199 theo phương pháp
vi sóng tăng nhanh theo thời gian ở 30 phút đầu tiên (đạt đến >75%), sau đó tăng
61
chậm (thêm khoảng 15%). Hiệu suất tổng hợp theo phương pháp dung nhiệt cũng
tăng theo thời gian dung nhiệt nhưng thấp hơn đáng kể so với phương pháp vi sóng.
Thực tế, hiệu suất đạt 77,2% sau 30 phút đối với phương pháp vi sóng, trong khi đó
hiệu suất đạt khoảng 10% cùng thời gian này đối với phương pháp dung nhiệt. Theo
phương pháp dung nhiệt, hiệu suất đạt đến 80,1% sau 360 phút.
Thêi gian chiÕu vi sãng / phót
10
20
30
40
50
0
100
80
%
60
40
/ t Ê u s u Ö i H
20
Vi sãng Dung nhiÖt
0
0
60
180
120
300
240
420
360 Thêi gian dung nhiÖt / phót
Hình 3.4. Hiệu suất tổng hợp MOF-199 theo thời gian bằng
phương pháp vi sóng và phương pháp dung nhiệt.
Để so sánh hình dạng và kích thước MOF-199 tổng hợp được theo hai
phương pháp ở các thời gian khác nhau, chúng tôi tiến hành quan sát ảnh SEM được
trình bày trên Hình 3.5. Ảnh SEM của MW-MOF-199 ở các thời gian phản ứng
khác nhau cho thấy kích thước trung bình tăng từ 12,1 µm ± 2 đến 22,5 µm ± 0,9
khi thời gian chiếu vi sóng tăng từ 5 phút đến 30 phút (Hình 3.5a1-a4), sau đó giảm
xuống 12,6 µm ± 3,3 khi thời gian chiếu vi sóng kéo dài đến 45 phút (Hình 3.5a5).
Kích thước trung bình (tính trên 50 hạt) của MW-MOF-199 ở các thời gian chiếu vi
sóng khác nhau là 12,1 µm ± 2 đối với 5 phút, 19,2 µm ± 2,5 đối với 10 phút, 21,8
µm ± 3,9 đối với 15 phút, 22,5 µm ± 0,9 đối với 30 phút, và 12,6 µm ± 3,3 đối với
45 phút. Hình thái của MW-MOF-199 bao gồm các tinh thể bát diện với các bề mặt
nhẵn. Các tinh thể MW-MOF-199 được tổng hợp ở 30 phút chiếu vi sóng có hình
dạng bát diện rõ ràng, kích thước 10-25 µm.
62
a1 b1
b2 a2
b3 a3
b4 a4
a5 b5
Hình 3.5. Ảnh SEM của MW-MOF-199 ở các thời gian khác nhau (a1: 5 phút; a2:
10 phút; a3: 15 phút; a4: 30 phút; a5: 45 phút) và ST-MOF-199 ở các thời gian khác
nhau (b1: 30 phút; b2: 60 phút; b3: 120 phút; b4: 360 phút; b5: 420 phút).
63
Trong phương pháp dung nhiệt, kích thước của hạt ST-MOF-199 cũng tăng
trung bình từ 8,0 µm ± 2 đến 16,3 µm ± 2,1 khi thời gian dung nhiệt tăng từ 30 đến
360 phút, sau đó giảm xuống 11,4 µm ± 4,3 khi thời gian dung nhiệt tiếp tục kéo dài
đến 420 phút. Kích thước trung bình (tính trên 50 hạt) của ST-MOF-199 ở các thời
gian dung nhiệt khác nhau là 8,0 µm ± 2 đối với 30 phút, 11,3 µm ± 2,6 đối với 60
phút, 13,0 µm ± 3,4 đối với 120 phút, 16,3 µm ± 2,1 đối với 360 phút, và 11,4 µm ±
4,3 đối với 420 phút. Hình thái của ST-MOF-199 bao gồm các tinh thể với các hình
dạng và kích thước khác nhau. Đặc biệt, hình thái của ST-MOF-199 tổng hợp tại 30
phút, 420 phút bao gồm các hạt không đều, trong đó các hạt lớn đang xen với các
hạt nhỏ. Các tinh thể ST-MOF-199 được tổng hợp ở 360 phút có hình dạng bát diện
rõ ràng, kích thước khá đồng đều từ 12-20 µm.
Sự tăng thời gian kết tinh dẫn đến sự tăng kích thước theo cơ chế chín muồi
Ostwald [105], trong đó các tinh thể bé sát nhập với tinh thể lớn để tạo thành tinh
thể lớn hơn. Trong trường hợp quá trình này xảy ra cùng một lúc thì sẽ thu được các
hạt tinh thể có kích thước đồng đều. Trong phương pháp dung nhiệt, sự tạo thành
mầm kết tinh và sự phát triển mầm chậm nên tiến trình này xảy ra chậm. Các cấu
trúc nano kết tụ thành các hạt lớn hơn ở các bề mặt khác nhau nên tạo thành MOF-
199 có hình thái kém đồng đều. Kết quả là các hạt lớn với sự kết hợp của nhiều đơn
vị bát diện được quan sát ở các Hình 3.5b1-b4. Ngược lại, năng lượng vi sóng phát
ra nhanh và đồng nhất trong toàn bộ huyền phù nên các mầm kết tinh tạo thành phát
triển nhanh thành các tinh thể và cả hai quá trình tạo mầm kết tinh và phát triển
mầm thành tinh thể được tăng tốc. Kết quả các hạt tinh thể đồng nhất hơn như quan
sát ở Hình 3.5a1-a4.
Một cân bằng kết tinh/hòa tan có thể được thiết lập như đề nghị của Seo và
cộng sự [150]. Quá trình hòa tan kết hợp với quá trình kết tinh kết quả tạo thành các
hạt nhỏ hơn xen lẫn vào các hạt lớn hơn như quan sát ở Hình 3.5a5 hay Hình 3.5b5.
Điều này cũng giải thích sự giảm cường độ của nhiễu xạ tia X của MOF-199 khi
tổng hợp với thời gian kéo dài.
64
Tính chất xốp của MOF-199 được nghiên cứu bằng đẳng nhiệt hấp phụ và
khử hấp phụ N2 như chỉ ra trong Hình 3.6. Đường cong đẳng nhiệt thuộc loại I theo
sự phân loại của IUPAC đặc trưng cho vật liệu vi mao quản. Diện tích bề mặt tính
theo phương trình BET có khuynh hướng tăng khi thời gian tổng hợp tăng và giảm
nhẹ khi kéo dài thời gian tổng hợp (xem Bảng 3.1).
a)
500
/
480
P T S g 3
m c
/
460
440
420
ô h p p Ê h g n î
MW-15 phót MW-30 phót MW-45 phót
l
400
g n u D
0.0
0.2
0.4
0.6
1.0
0.8 ¸p suÊt t¬ng ®èi / p/po
b)
500
/
P T S g 3
480
m c /
460
440
420
ô h p p Ê h g n î
ST-120 phót ST-360 phót ST-420 phót
l
400
g n u D
0.0
0.2
0.4
0.6
1.0
0.8 ¸p suÊt t¬ng ®èi / p/po
Hình 3.6. Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của MOF-199 tổng hợp bằng
phương pháp vi sóng (a); phương pháp dung nhiệt (b).
65
Bảng 3.1. Tính chất xốp của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng và phương pháp dung nhiệt
Ký hiệu SBET (m2/g) SLangmuir (m2/g) Dpore (nm) Vpore (cm3/g)
ST-120 phút 1525 1891 2,30 0,134
ST-360 phút 1567 1891 2,78 0,150
ST-420 phút 1554 1891 2,87 0,138
MW-15 phút 1554 1891 2,62 0,135
MW-30 phút 1635 2071 2,53 0,152
MW-45 phút 1562 1977 2,51 0,150
Bảng 3.2 trình bày diện tích bề mặt theo phương trình BET của MOF-199
được tổng hợp theo các phương pháp khác nhau đã được công bố [11], [76], [118],
[150], [164]. Điều đáng chú ý là diện tích bề mặt của MOF-199 được tổng hợp bằng
vi sóng cao hơn đáng kể so với các phương pháp khác. Diện tích bề mặt cao chứng
tỏ rằng phương pháp vi sóng đã tăng tốc các bước tạo mầm và phát triển tinh thể,
làm giảm sự kết tụ tạo ra các hạt đồng nhất với diện tích bề mặt lớn. Hơn thế nữa,
phương pháp này cần ít thời gian nhưng vẫn có hiệu suất cao so với phương pháp
dung nhiệt truyền thống.
Tổng hợp MOF-199 bằng phương pháp dung nhiệt có sự hỗ trợ của vi sóng
cũng đã được nghiên cứu chi tiết bởi nhóm tác giả Seo [150]. Theo phương pháp
này, các tác chất được đưa vào autoclave, và autoclave được đặt vào thiết bị vi sóng cùng với điều chỉnh nhiệt độ từ 140 đến 170 oC. Quá trình dung nhiệt kết hợp với vi
sóng cũng cho kết quả tương tự như của chúng tôi. Tuy nhiên, phương pháp này sử
dụng thiết bị tổng hợp vi sóng chuyên nghiệp và phản ứng thực hiện ở nhiệt độ cao
và áp suất cao. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sử dụng lò vi sóng dân dụng gắn
với ống sinh hàn và vì thế phản ứng xảy ra ở điều kiện áp suất thường và nhiệt được cung cấp bởi năng lượng vi sóng là 100 oC.
66
Bảng 3.2. So sánh diện tích bề mặt của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng và phương pháp dung nhiệt
STT Phương pháp Diện tích bề mặt Thời gian Nhiệt Tài liệu
tính theo độ tham khảo (giờ)
(oC)
phương trình BET (m2/g)
1 Hỗ trợ vi sóng 1656 140 [150] 1
2 Dung nhiệt ở áp suất 1200-1400 110 [11] 15
thường
3 Tổng hợp ở áp suất 1239 12 150 [76]
thường
4 1300-1500 20-30 [118] Điện hóa 4
5 1500 110 [164] Dung nhiệt 18
6 1635 100 Nghiên cứu Vi sóng 0,5
này
Mẫu MOF-199 tổng hợp theo phương pháp dung nhiệt ở điều kiện nhiệt độ 100 oC của chúng tôi cũng có kết quả diện tích bề mặt 1567 m2/g cũng cao hơn mẫu MOF-199 tổng hợp dung nhiệt ở 110 oC của nhóm tác giả Vishnyakov [164].
MOF-199 có nhiều dạng hydrate [147]. Phân tích nhiệt là phương pháp hữu
hiệu để nghiên cứu độ ổn định nhiệt và dạng hydrate của chúng. Hình 3.7 trình bày
TG của MW-MOF-199 và ST-MOF-199 trong khí quyển N2.
67
(a)
100
- 10.2%
90
- 7.6%
80
70
60
%
- 54.4%
/
50
40
A G T
30
20
10
0
0
100
200
600
700
800
400
300 NhiÖt ®é /
500 oC
(b)
100
90
- 26%
80
- 7.5%
70
60
%
/
50
- 41.2%
40
A G T
30
20
10
0
0
200
600
800
400 NhiÖt ®é / oC
Hình 3.7. Giản đồ TG của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóng (a);
phương pháp dung nhiệt (b).
Có thể nhìn thấy từ Hình 3.7, ba bước mất khối lượng được quan sát. Đối với
MW-MOF-199, mất khối lượng đầu tiên liên quan đến mất nước vật lý và độ cao
chính xác của liên quan đến mức độ hydrate ban đầu của vật liệu. Công thức MOF-
199 mới tổng hợp có thể là [Cu3(BTC)2.(H2O)3].4H2O [147]. Sự mất khối lượng ban đầu (10,2%) khi nhiệt độ tăng đến 100 oC tương ứng với sự mất khối lượng lý thuyết (10,2%) của bốn phân tử nước. Mất khối lượng thứ hai (7,6%) đến 300 oC liên quan
đến ba phân tử nước trong cấu trúc (mất khối lượng lý thuyết là 7,6%), và cuối cùng mất khối lượng (54,4%) bắt đầu ở 300 oC là do sự phân hủy chất hữu cơ (tính toán lý
thuyết là 48,3%). Trong khi đó đường cong TG của ST-MOF-199 cho thấy một sự mất khối lượng liên tục (26%) đến 150 oC, mất khối lượng thứ hai (7,5%) đến 300 oC
và mất khối lượng cuối cùng 41,2%. Điều này có thể do sự mất 12 phân tử H2O trong
68
cấu trúc [Cu3(BTC)2.(H2O)3].12H2O (giá trị lý thuyết là 24,6%) và mất 3 phân tử
nước bên trong cấu trúc (lý thuyết là 6,1%); cuối cùng sự phân hủy chất hữu cơ bắt đầu từ 300 oC (lý thuyết là 40,8%). Nói chung MOF-199 tổng hợp bằng phương
pháp vi sóng ít ngậm nước hơn MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt
truyền thống.
Để xác định các nhóm chức và các liên kết hóa học đặc trưng của vật liệu MOF-
20% H3BTC
4 0 7 1
5 8 0 3
199 tổng hợp, chúng tôi tiến hành ghi phổ FT-IR và kết quả được trình bày ở Hình 3.8.
%
MW-MOF-199
2 5 4 1
5 4 6 1
1 2 4 3
0 3 7
ST-MOF-199
6 4 4 1
1 2 6 1
/ a u q n Ò y u r t é §
0 2 4 3
0 3 7
4000
3000
2000
1000
0
Sè sãng / cm-1
Hình 3.8. Phổ FT-IR của ST-MOF-199, MW-MOF-199 và H3BTC.
Hình 3.8 cho thấy kết quả phổ FT-IR của các mẫu MOF-199 tổng hợp được
theo hai phương pháp dung nhiệt và vi sóng là tương tự nhau và có sự thay đổi so với
phối tử H3BTC ban đầu. Dao động đặc trưng cho liên kết C=O của nhóm -COOH trong H3BTC tại số sóng 1700 cm-1 đã giảm xuống 1645 cm-1 đối với MW-MOF-199 và 1621 cm-1 đối với ST-MOF-199, chứng tỏ đã xảy ra quá trình tách H+ trong H3BTC
[1], [47], [99], [133]. Ngoài ra, trong phổ FT-IR của MW-MOF-199 và ST-MOF-199 đã xuất hiện dao động với cường độ khá mạnh tại số sóng 730 cm-1 đặc trưng cho
liên kết Cu-O của Cu3(BTC)2 tạo thành [1], [99], [149]. Vật liệu tổng hợp vẫn giữ
được cấu trúc của benzenecarboxylate với dao động C=C của vòng benzene (1446 cm-1), O-H của -COOH (3421 cm-1). Các vân hấp thụ hồng ngoại của mẫu MW-
MOF-199 và ST-MOF-199 thu được cũng phù hợp với kết quả FT-IR của MOF-
199 theo các tài liệu đã công bố [1], [136].
69
Thông qua kết quả nghiên cứu tổng hợp MOF-199, chúng tôi nhận thấy rằng
cả hai phương pháp dung nhiệt và vi sóng đều tổng hợp được vật liệu MOF-199.
Các vật liệu MOF-199 thu được theo hai phương pháp đều có hình dạng bát diện,
độ tinh thể cao, diện tích bề mặt (BET) lớn. Phương pháp vi sóng có ưu điểm là
hiệu suất tổng hợp cao trong thời gian ngắn và cấu trúc MOF-199 ít ngậm nước.
3.1.2. Nghiên cứu xác định paracetamol và caffeine bằng phương pháp dòng-
thế hòa tan sử dụng điện cực GCE biến tính bằng MOF-199
MOF-199 được điều chế bằng hai phương pháp có diện tích bề mặt lớn nhất
được dùng để biến tính điện cực. CV được thực hiện có và không có MOF-199 để
khẳng định vai trò của MOF-199 trên điện cực biến tính cảm biến điện hóa PAR và
CAF (Hình 3.9). Nafion được đưa vào để cải thiện độ kết dính và độ dẫn điện của
điện cực biến tính [101], [173].
200
CAF
150
MW-MOF-199/Naf-GCE ST-MOF-199/Naf-GCE Bare GCE Naf/GCE
100
PAR
A µ
/
50
P I
0
-50
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
E / V
Hình 3.9. Đường CVs cho PAR và CAF trên điện cực GCE, Naf-GCE, MW-MOF- 199/Naf-GCE, và ST-MOF-199/Naf –GCE. (CPRC = 5x10-4 M; CPRC = 5x10-4 M; 0,1 M PBS pH 7; tacc (thời gian tích lũy) = 0 s; tốc độ quét = 0,02 V s-1, Eacc (thế tích lũy) = 0 mV)
Như nhìn thấy từ Hình 3.9, đáp ứng dòng trên điện cực GCE và Naf-GCE có
pic dạng tù, trong khi đó đáp ứng dòng trên các điện cực có MOF-199 có pic rõ nét
hơn. Đặc biệt là MW-MOF-199/Naf-GCE cho tín hiệu hòa tan tốt hơn ST-MOF-
70
199/Naf-GCE. Cường độ của dòng đỉnh hòa tan anode (Ip) của PAR và CAF tại
điện cực MW-MOF-199/Naf-GCE lần lượt gấp 7,0 và 6,1 lần so với điện cực GCE;
4,0 và 6,6 lần so với điện cực Naf-GCE và 2,0 và 2,3 lần so với điện cực ST-MOF-
199/Naf-GCE. Hiệu ứng tăng cường độ tín hiệu của MOF-199 cho thấy rằng nó có
gia tăng tốc độ chuyển điện tử của PAR và CAF và có hoạt tính xúc tác điện tử tốt
cho phản ứng oxy hóa PAR và CAF. MOF-199 chứa đựng các nhóm carboxyl, vòng
benzene và kim loại chuyển tiếp Cu(II). Sự tương tác lớp π−π của vòng thơm trong
PAR và CAF với vòng thơm của MOF-199 đóng vai trò làm giàu PAR và CAF trên
bề mặt điện cực. Ngoài ra, sự tạo phức của nguyên tử nitrogen trong chất cần phân
tích với Cu(II) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút chất cần phân tích
trên bề mặt điện cực. Cấu trúc xốp với diện tích bề mặt lớn tạo nên số lượng lớn các
tâm hoạt tính sẵn sàng cho hấp thu các chất cần phân tích trên bề mặt điện cực. Sự
kết hợp các yếu tố này dẫn đến một lượng lớn hơn của PAR và CAF tích lũy trên bề
mặt điện cực MOF-199/Naf-GCE, và sự cải thiện đáng kể các tín hiệu điện hóa.
Diện tích bề mặt cao hơn của MW-MOF-199 giải thích cho lý do tại sao cung cấp
tín hiệu dòng đỉnh của nó cao hơn của ST-MOF-199. Vật liệu MW-MOF-199 được
chọn lựa làm chất biến tính điện cực cho các nghiên cứu sau này.
Dung môi phân tán vật liệu MOF-199 có ảnh hưởng đến tín hiệu Ip của chất
phân tích PAR và CAF. Việc khảo sát này nhằm lựa chọn được dung môi thích hợp
dùng để phân tán MOF-199, sao cho tín hiệu của PAR và CAF là cao nhất. Tiến
hành thí nghiệm với phương pháp DPV, mỗi lần đo tiến hành quét 4 lần lặp lại và
xác định dòng đỉnh với các loại dung môi phân tán như sau: N,N-
dimethylformamide (DMF); ethanol (EtOH); methanol (MeOH). Kết quả thu được
trình bày ở Hình 3.10a. Từ kết quả ở trên, cho thấy dung môi DMF cho dòng đỉnh
của PAR là lớn nhất và sai số nhỏ, kết quả này gần tương đương với methanol.
Nhưng khi xem xét đối với đỉnh của CAF thì dung môi DMF cao và rõ rệt hơn. Mặt
khác, do methanol là khá độc và do đó, DMF được lựa chọn làm dung môi phân tán
vật liệu MOF-199 cho các nghiên cứu tiếp theo.
71
b)
a)
35
30
PAR CAF
PAR CAF
30
24
25
18
20
A µ
A µ
/
12
/
p
p
I
15
I
6
10
0
5 0.0
2.5
12.5
15.0
MeOH DMF EtOH Dung m«i
5.0 7.5 10.0 ThÓ tÝch / µL
Hình 3.10. Sự phụ thuộc của Ip vào a) dung môi phân tán MOF-199; b) thể tích
huyền phù MOF-199 để biến tính điện cực. (CPRC = 5x10-4 M, CPRC = 5x10-4 M, đệm phosphate 0,1 M pH 7, tacc = 0 s, tốc độ quét = 0,02 V s-1, ∆E (pulse amplitude) = 0,05 V; Eacc = 0 mV)
Tiến hành khảo sát lượng vật liệu MOF-199 dùng để biến tính điện cực GCE
trong khoảng từ 2,5 µg đến 15 µg (tương ứng với thể tích huyền phù từ 2,5 µL đến
15 µL). Kết quả khảo sát thu được trong Hình 3.10b. Kết quả cho thấy Ip của PAR
và CAF tăng với thể tích của huyền phù dùng biến tính. Sự gia tăng của Ip là do sự
gia tăng diện tích bề mặt và lỗ xốp. Tuy nhiên nếu dùng lượng quá nhiều vượt quá
thể tích 7,5 µL lại gây nên sự giảm Ip. Điều này có thể độ dày của lớp màng biến
tích có thể tăng lên dẫn đến làm tăng điện trở và làm giảm sự truyền khối của chất
cần phân tích đến bề mặt. Từ kết quả cho thấy lượng vật liệu MOF-199 là 7,5 µg
ứng với thể tích biến tính là 7,5 µL dung dịch huyền phù cho tín hiệu Ip là cao nhất
đối với cả PAR và CAF với sai số khá thấp. Thể tích hay lượng MOF-199 này được
lựa chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.
Theo một số tài liệu tham khảo được, việc xác định đồng thời PAR và CAF
thường sử dụng đệm pH trong môi trường trung tính và vì vậy, đệm Britton
Robinson (B-R BS) có pH trong khoảng từ 2,0 đến 9,2 được sử dụng để khảo sát
pH. Dung dịch nghiên cứu có thể tích là 10 mL bao gồm PAR và CAF có nồng độ 5x10-4 M, 2 mL đệm B-R 0,5M với các giá trị pH thay đổi từ 2,0 đến 9,2 và nước cất. Các thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp CV, mỗi thí nghiệm tiến hành
đo lặp lại 4 lần. Kết quả được trình bày ở Hình 3.11.
72
b)
a)
45
300
2.1
250
1.8
40
200
Ip,PAR Ip,CAF Ep,PAR Ep,CAF
1.5
35
150
V
1.2
A µ
2.02 3.05 5.07 6.10 7.33 8.22 9.19
A µ
/
100
E
/
0.9
30
p
/ p I
I
50
0.6
25
0
0.3
-50
0.0
20
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
2
3
4
5
7
8
9
10
6 pH
E / V
Hình 3.11. a) CVs của PAR và CAF trên điện cực MOF-199/Naf-GCE trong đệm
Britton–Robinson 0,5 M với pH 2 đến 9,2; b) Đồ thị của EpPRC và EpCAF theo pH. (CPRC = CCAF = 5x10-4 M, tacc = 0 s, tốc độ quét = 0,1 V s-1, Eacc = 0 V)
Việc nghiên cứu ảnh hưởng pH đến tín hiệu điện hóa mục đích để tìm ra pH
thích hợp và tỉ số điện tử và proton liên quan đến quá trình oxy hóa sử dụng điện
cực biến tính. Có thể nhìn thấy từ hình rằng, Ip của PAR ổn định trong khoảng pH
2-3 và sau đó giảm cho đến pH 6, rồi thì thay đổi không có qui luật. Trong khi đó Ip
của CAF cũng giảm từ pH 2 đến pH 6, rồi thì thay đổi không có qui luật. Vì thế pH
3 được chọn cho các thí nghiệm phân tích tiếp theo.
Thế đỉnh oxy hóa (Ep) được tìm thấy phụ thuộc vào pH (Hình 3.11b). Thế
của PAR và CAF chuyển về phía ít dương hơn khi pH tăng dần, cho thấy có sự liên
quan của proton đến phản ứng oxy hóa. Trong khoảng pH 2-9,2, thế oxy hóa (Ep,PAR
và Ep,CAF) là một hàm tuyến tính như sau:
(3.1) Ep, PAR = 0,693 – 0,043 pH, r = 0,999, p < 0,001
(3.2) Ep, CAF = 1,379 – 0,006 pH, r = 0,944, p = 0,001
Giá trị 0,043 V/pH gần với giá trị độ dốc Nernstian 0,059 V/pH cho thấy sự
oxy hóa PAR liên quan đến số điện tử và proton bằng nhau. Trong khi đó giá trị
0,006 V/pH lệch rất nhiều so với giá trị lý thuyết 0,059 V/pH, cho thấy quá trình
điện cực là phức tạp hơn và có thể cản trở bởi lượng nhỏ PAR bị oxy hóa thành N-
hydroxyacetaminophen [117]. Kết quả tương tự cũng được quan sát bởi Chitravathi
[32]. Trên cơ sở các dữ kiện trên và các nghiên cứu trước đây [144], [194], số điện
tử và proton liên quan đến sự oxy hóa CAF được chấp nhận bằng nhau.
73
Ảnh hưởng của tốc độ quét
Các thông tin quan trọng về cơ chế điện hóa có thể nhận được từ mối quan
hệ giữa tín hiệu điện hóa và tốc độ quét (ký hiệu là v). Vì thế, ảnh hưởng của v đến
Ep và Ip được nghiên cứu theo CV, như trình bày ở Hình 3.12.
a)
b)
200
100
PAR CAF
150
80
100
60
0.01 V s-1 0.02 V s-1 0.05 V s-1 0.10 V s-1 0.20 V s-1 0.30 V s-1
A µ
A µ
/
50
40
/ p I
p
I
0
20
-50
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
0.05
0.10
0.20
0.25
0.30
0 0.00
E / V
0.15 ν / V s-1
c)
100
d)
4.5
PAR CAF
80
PAR CAF
4.0
60
3.5
A µ
p I
/
n
40
l
p I
3.0
20
2.5
0
2.0
0.1
0.2
0.5
0.6
0.4
-5.0
-4.5
-4.0
-3.5
-2.5
-2.0
-1.5
-1.0
0.3 ν1/2/ V1/2 s-1/2
-3.0 lnν
e)
1.4
1.3
1.2
V
PAR CAF
0.6
/ p a E
0.5
0.4
-5.0 -4.5 -4.0 -3.5 -3.0 -2.5 -2.0 -1.5 -1.0
lnν
Hình 3.12. a) CVs cho PAR và CAF trên điện cực MOF-199/Naf-GCE theo sự tăng dần của tốc độ quét từ 0,01-0,30 V s-1; b) Hồi quy tuyến tính Ip theo v; c) Sự phụ thuộc Ip của PAR và CAF vào căn bậc hai tốc độ quét (v1/2); d) Đồ thị của lnIp,PAR và lnIp,CAF theo lnv; e) Đồ thị của Eap theo lnν.
(CPRC = CCAF = 5x10-4 M; Đệm phosphate 0,1 M pH 3, tacc = 0 s; tốc độ quét = 0,1 V s-1, Eacc = 0 mV)
74
Nếu phản ứng oxy hóa điện hóa là bất thuận nghịch thì Ep phụ thuộc vào v.
Như có thể quan sát từ Hình 3.12a, thế đỉnh chuyển về thế cao hơn khi tốc độ quét
tăng. Điều này có thể kết luận rằng sự chuyển điện tử trong sự oxy hóa PAR và
CAF là quá trình bất thuận nghịch. Dòng đỉnh tăng với sự tăng của tốc độ quét từ 0,01 – 0,30 V s-1 (Hình 3.12b), chứng tỏ rằng quá trình chuyển điện tử liên quan đến
quá trình bề mặt [153].
Đồ thị tuyến tính của Ip theo căn bậc hai của tốc độ quét (v1/2) được thực hiện
để xác định xem phản ứng oxy hóa điện tử được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán hay hấp phụ. Nếu đồ thị của Ip theo v1/2 là tuyến tính và đi qua gốc tọa độ, thì quá
(3.3)
(3.4) trình này được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán [17], [153]. Đường tuyến tính Ip của sự oxy hóa PAR and CAF theo v1/2 và được mô tả bằng các phương trình sau: IP, PAR = -0,402 ± (1,716) + 106,674 ± (4,846) v1/2; r = 0,999, p < 0,001 IP, CAF = -6,632 ± (5,845) + 172,991 ± (17,371) v1/2; r = 0,997, p < 0,001
Đồ thị của IP, PAR và IP, CAF theo v1/2 (Hình 3.31c) có độ tương quan tuyến
tính cao (r = 0,997 – 0,999, p < 0,001). Số trong ngoặc đơn là độ tin cậy 95%. Đồ
thị của PAR có đoạn cắt với trục tung đi qua gốc tọa độ bởi vì 95% độ tin cậy của
nó có chứa điểm zero (-2,118 to 1,313). Điều này có nghĩa là quá trình điện cực của
PAR được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán. Trong khi đó đồ thị của CAF không
đi qua gốc tọa độ bởi vì độ tin cậy 95% của nó không chứa điểm zero (biến đổi từ -
12,481 đến -0,784). Điều này nghĩa là quá trình điện cực của CAF không được kiểm
soát bởi quá trình khuếch tán.
Độ dốc của đường tuyến tính lnIp theo lnv cũng có thể cung cấp những thông
tin về quá trình được kiểm soát bởi khuếch tán hay hấp phụ. Độ dốc xấp xỉ 1 được
cho là quá trình được kiểm soát bởi hấp phụ. Ngược lại độ dốc gần bằng 0,5 thì quá
trình được kiểm soát bởi khuếch tán [153]. Mối quan hệ tuyến tính có hệ số tương
quan cao (r = 0,997 - 1, p < 0,001) được trình bày trên Hình 3.12d và được biểu
diễn bằng các phương trình sau:
(3.5) ln(Ip, PAR) = 0,508 ln(v) + 4,674, r = 0,997; p < 0,001
(3.6) ln(Ip, CAF) = 0,579 ln(v) + 5,187, r = 1; p <0,001
75
Có thể nhận thấy rằng độ dốc của nó đối với PAR là 0,508 rất gần với 0,5;
điều này khẳng định lại quá trình điện cực của PAR được kiểm soát bởi quá trình
khuếch tán. Tuy nhiên, độ dốc bằng 0,579 kết hợp sự phân tích môi quan hệ dòng
của CAF và căn bậc hai tốc độ quét, có thể kết luận rằng quá trình oxy hóa CAF
trên điện cực có thể được kiểm soát bởi quá trình khuếch tán-hấp phụ.
Phương trình Laviron [83] mô tả mối quan hệ giữa thế đỉnh (Ep) và logarithm
tự nhiên của tốc độ quét như sau:
𝛼𝑛𝐹𝑘𝑠
𝑅𝑇 𝛼𝑛𝐹 𝑙𝑛
𝑅𝑇 𝛼𝑛𝐹 𝑙𝑛𝜈
(3.7)
𝑅𝑇 +
0 𝐸𝑝 = 𝐸 Ở đây α là hệ số chuyển điện tử, ks là hằng số tốc độ chuyển điện tử của cặp oxy hóa khử trên bề mặt; n là số điện tử chuyển, v là tốc độ quét (V s-1), và E0 là thế oxy hóa khử biểu kiến; T = 298 K, R= 8.314 J mol K-1 and F = 96480 C mol-1.
+
Đồ thị của Ep, PAR và Ep, CAF với lnv được minh họa trên Hình 3.12e. Phương
trình hồi quy ở dạng tuyến tính như sau:
(3.8) Ep, PAR = 0,613 + 0,022 lnv; r = 0,991; p < 0,001
(3.9) Ep, CAF = 1,413 + 0,025 lnv; r = 0,996; p < 0,001
Các giá trị αn đối với PAR và CAF, có thể tính được từ độ dốc của đường
tuyến tính theo phương trình (3.8) và (3.9) lần lượt là 1,18 and 1,01. Giá trị α bằng
0,5 đối với hệ bất thuận nghịch hoàn toàn [90]. Vì vậy, số điện tử chuyển (n) trong
phản ứng oxy hóa PAR và CAF lần lượt là 2,36 và 2,02. Như vậy, có thể giả thiết n
= 2 đối với PAR và n = 2 đối với CAF, vậy cơ chế oxy hóa PAR và CAF tại điện
cực có thể liên quan đến quá trình trao đổi hai điện tử và hai proton. Hình 3.13 trình
bày sự oxy hóa PAR and CAF tại các điện cực biến tính [144]. Điều này cũng phù
hợp với sự oxy hóa PAR liên quan đến hai điện tử và hai proton. Theo Hình 3.13, sự oxy hóa CAF liên quan tổng cộng đến 4H+ và 4 e- theo cơ chế hai bước. Bước đầu chậm, sự oxy hóa gồm 2H+, 2e- của liên kết C-8 đến N-9 của caffeine và tạo thành 8-oxy caffeine; bước tiếp theo nhanh, sự oxy hóa gồm 2e-, 2H+ thành 4,5-
dihydroxy-8-oxy-caffeine [157]. Vì thế, kết quả mà sự oxy hóa CAF liên quan đến
hai điện tử và hai proton tại điện cực MOF-199/Naf-GCE có thể do bước đầu tiên là
bước quyết định tốc độ phản ứng.
76
O
O
CH3
CH3
C
C
NH
N
2 e-
2H+
HO
O
Paracetamol
N-acetyl-p-benzoquinone-imine (NAPQI)
O
O
O
CH3
CH3
CH3
OH
H3C
H3C
H3C
N
N
N
2H2O
H2O
N
N
N
O
O
e-
2H+
2
e-
H+
2
2
N
N
N
N
N
N
O
O
O
OH
H
H
CH3
CH3
CH3
8-Oxy-caffeine
4,5-dihydroxy-8-oxy-caffeine
Caffeine
Hình 3.13. Sơ đồ oxy hóa PAR và CAF.
Đánh giá gần đúng lượng PAR và CAF hấp phụ lên GCE biến tính có sử
dụng phương pháp dùng bởi Sharp [151]. Ip được biểu diễn như một hàm số của
nồng độ bề mặt của các chất hoạt động điện hóa theo phương trình:
2
2
.𝐹
.𝐴.𝛤.𝜈
4𝑅𝑇
𝑛 Ở đây Ip (A) là dòng đỉnh; n là số điện tử liên đến quá trình oxy hóa; A là
(3.10)
𝐼𝑝 = diện tích hình học bề mặt (0.062 cm2), Γ (mol cm−2) là phần mol bao phủ bề mặt.
Từ độ dốc của đường dòng đỉnh (Ip) với tốc độ quét, phần mol bao phủ bề mặt được tính là 6,9x10-6 mol cm-2 đối với PAR và 1,1x10-5 mol cm-2 đối với CAF
tại bề mặt của MOF-199/Naf-GCE.
Độ lặp lại, khoảng tuyến tính và giới hạn phát hiện (LOD)
Độ lặp lại của điện cực MOF-199/Naf-GCE được đánh giá ở các nồng độ
PAR và CAF khác nhau bằng phương pháp DPVs. Phép đo DPV được thực hiện để phát hiện hỗn hợp của CPAR = 10-5 M và CCAF = 10-4 M; CPAR = 5x10-5 M và CCAF = 5x10-4 M; CPAR = 10-4 M và CCAF = 10-3 M trong đó mỗi tín hiệu được đo chín lần liên tiếp. Giá trị RSD nhận được lần lượt là 3,90% và 2,99% đối với CPAR = 10-5 M
77
và CCAF = 10-4 M, 4.36% và 1.46% đối với CPAR = 5x10-5 M và CCAF = 5x10-4 M; 3,81% và 0,79% đối với CPAR = 10-5 M và CCAF = 10-4 M; tất cả đều thấp hơn giá trị
1/2 RSDRHorwitz [55]. Giá trị RSD thích hợp như vậy trong chín lần đo liên tiếp cho
thấy điện cực MOF-199/Naf-GCE có thể được ứng dụng để phát hiện PAR ở nồng
độ cao và cả nồng độ thấp.
a)
b)
0.04
0.04
(10)
(12)
0.03
0.03
A m
A m
0.02
0.02
/
/
p
p
I
I
(1)
0.01
0.01
(1)
0.00
0.00
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
E / V
E / V
Hình 3.14. Đường DPV tại điện cực MOF-199/Naf- GCE đối với: a) PAR ở các nồng độ khác nhau với sự hiện diện của 5×10-4 M CAF trong đệm phosphate 0,1 M pH 3: (1) 1,0×10-7, (2) 2,0×10-7, (3) 3,0×10-7, (4) 4,0×10-7, (5) 5,0×10-7, (6) 7,5×10-7, (7) 1,0×10-6, (8) 1,5×10-6, (9) 2,0×10-6, (10) 3,0×10-6, (11) 4,0×10-6, (12) 5,0×10-6 M;
b) Đường DPV nhận được tại điện cực MOF-199/Naf- GCE đối với CAF tại các nồng độ khác nhau với sự hiện diện 5×10-4 M PAR trong đệm phosphate 0,1 M pH 3: (1) 2,0×10-7, (2) 4,0×10-7, (3) 6,0×10-7, (4) 8,0×10-7, (5) 1,0×10-6, (6) 1,5×10-6, (7) 2,0×10-6, (8) 3,0×10-6, (9) 4,0×10-6, (10) 5,0×10-6 M. (tốc độ quét = 0,02 Vs-1; ∆E = 80 V; tacc = 0; Eacc = 0)
Xác định riêng từng chất PAR và CAF cũng nghiên cứu bằng phương pháp
DPV trong đó nồng độ của một cấu tử tăng dần trong sự hiện diện cố định nồng độ
của chất khác. Hình 3.14a trình bày các đường DPV ở các nồng độ khác nhau của PAR với sự cố định CCAF = 5x10-4 M. Hình 3.14b trình bày đường cong DPV của các nồng độ CAF khác nhau với sự cố định CPAR = 5x10-4 M. Điều đáng chú ý là
dòng đỉnh của PAR hoặc CAF vẫn duy trì và ít thay đổi, trong khi đó dòng đỉnh oxy
hóa CAF và PAR tăng tuyến tính với nồng độ. Điều này cho thấy sự oxy hóa xảy ra độc lập với nhau. Dòng đỉnh tăng trong khoảng nồng độ từ 0,1x10-6 đến 5x10-6 M.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa dòng đỉnh và nồng độ có một quan hệ tuyến tính thấp
78
(r = 0,963 đối với PAR và r = 0,983 đối với CAF). Vì vậy, hồi quy tuyến tính của
logarithm dòng đỉnh và nồng độ chất cần phân tích được thiết lập. Sự hồi quy của
lgIp, PAR theo lgCPAR và lgIp, CAF theo lgCCAF cho mối tương quan tuyến tính cao (r =
0,998 đối với PAR và r = 0,998 đối với CAF). Phương trình hồi quy là như sau:
(3.11) lg(Ip,CAF) = -0,364 + 0,498 lg(CPAR); r = 0,998, p < 0,001
(3.12) lg(IP,CAF) = -0,423 + 0,526 lg(CCAF); r = 0,997, p < 0,001
Trong khoảng tuyến tính từ 0,1x10-6 M đến 5x10-6 M, giới hạn phát hiện (LOD) đối với PAR là 1,259x10-6 M và trong khoảng tuyến tính từ 0,2x10-6 M đến 5x10-6M, LOD đối với CAF là 1,243x10-6 M (S/N =3). Một số tác giả [51], [200] đã
áp dụng phương pháp hồi quy logarithm này trong trường hợp mối quan hệ tuyến
tính của dòng đỉnh và nồng độ là thấp.
a)
0.05
b)
1.4
0.04
1.2
PAR CAF
(9)
1.0
0.03
0.8
p
A m
I
/
0.02
g
p
l
I
0.6
(1)
0.4
0.01
0.2
0.00
0.0
0.2
0.4
0.6
1.2
1.4
1.6
1.8
1.2
1.4
1.6
1.8
2.0
2.2
2.4
2.6
lg C
0.8 1.0 E / V
Hình 3.15. a) Đường DPV của sự oxy hóa PAR and CAF ở các nồng độ bằng nhau trong đệm phosphate 0,1 M pH 3: (1) 20x10-6 M, (2) 40x10-6 M, (3) 60x10-6 M, (4) 80x10-6 M, (5) 100x10-6 M, (6) 150x10-6 M, (7) 200x10-6 M, (8) 250x10-6 M, (9) 300x10-6 M, b) Đồ thị logarithm của Ip,PAR và Ip,CAF theo nồng độ của nó. (tốc độ quét = 0.02 Vs-1; ∆E, = 80 V; tacc = 0; Eacc = 0)
Xác định đồng thời PAR và CAF cũng được thực hiện bằng phương pháp
DPV. PAR và CAF được xác định đồng thời bằng cách tăng nồng độ đồng thời của
cả hai cấu tử trong đệm phosphate 0,1 M pH 3. Hình 3.15a trình bày đường cong
DPV nhận được của dung dịch chứa các nồng độ bằng nhau của PAR and CAF trong khoảng từ 20x10-6 M đến 300x10-6 M. Đường cong DPV trình bày pic oxy
hóa khoảng 0,54 V đối với PAR và 1,25 V đối với CAF. Sự tách pic rõ ràng khoảng
79
0,71 V cho phép xác định đồng thời hai cấu tử. Trong trường hợp tương tự như xác
định riêng lẽ từng cấu tử, logarithm của dòng đỉnh phụ thuộc tuyến tính vào
logarithm của nồng độ chất cần phân tích (Hình 3.15b). Phương trình hồi quy tuyến
tính như sau:
(3.13) lgIP, PAR = -0,084 + 0,518 lgCPAR; r = 0,997, p < 0,001
(3.14) lgIp, CAF = -0,790 + 0,849 logCCAF; r = 0,997, p < 0,001
Trong khoảng tuyến tính từ 20x10-6 M đến 300x10-6 M, LOD là 1,264 x10-6 M đối với PAR và 1,244x10-6 M đối với CAF (S/N =3). Điều đáng lưu ý là LOD của PAR trong sự hiện diện của CAF xấp xỉ là 1,264x10-6 M, giá trị này rất gần với giá trị nhận được (1,259x10-6 M) khi cố định CAF, trong khi đó đối với CAF trong sự hiện diện của PAR là 1,244x10-6 M, giá trị cũng rất gần với giá trị nhận được (1,243x10-6 M) khi cố định PAR. Một lần nữa có thể khẳng định quá trình oxy hóa
các chất này tại điện cực biến tính là độc lập nhau. Và vì vậy, việc xác định đồng
thời PAR và CAF bằng phương pháp điện hóa dùng điện cực thế MOF-199/Naf-
GCE sẽ không bị cản trở chéo. Điều cũng đáng lưu ý là khoảng tuyến tính này cũng
phù hợp cho việc xác định CAF và PAR trong dược phẩm mà thường chứa kết hợp
hai chất với nhau có nồng độ khoảng 250 đến 500 mg PAR và 25 đến 65 mg CAF.
Một sự so sánh LOD của phương pháp đề nghị trong nghiên cứu này với các
phương pháp điện hóa khác trình bày ở Bảng 3.3. Có thể thấy rằng LOD của
phương pháp trong nghiên cứu này là thấp hơn hay tương đương với các điện cực
biến tính nghiên cứu trước đây [12], [44], [82], [106], [138], [194]. Tóm lại, MOF-
199 cho thấy là chất biến tính hữu hiệu cho điện cực để xác định PAR và CAF.
80
Bảng 3.3. So sánh LOD của các phương pháp phân tích điện hóa khác nhau trong việc xác định PAR và CAF
Điện cực Điện cực Phương Phân tích LOD TLTK
pháp biến tính (µM)
MOF-199 GCE DPV Caffeine Phương 1,2
pháp đề Paracetamol 1,3
nghị
Nafion/ruthenium GCE SWV Caffeine [194] 2,2
oxide pyrochlore Paracetamol 1,2
Điện cực carbon GCE DPW Caffeine [82] 8,5
thủy tinh nền Paracetamol 7,3
Luteolin/ống nano GCE DPV Caffeine 3,54 [12]
carbon đa tường Paracetamol 0,78
Graphite SPE DPV Caffeine 1,6 [138]
Polyurethane Paracetamol 0,84
Boron DE DPV Caffeine 0,035 [106]
Paracetamol 0,49
Boron DE SWV Caffeine 0,096 [44]
Paracetamol 0,23
GCE: điện cực carbon thủy tinh, SPE: điện cực in, DE: điện cực kim cương
Phân tích mẫu thực
Phương pháp đề nghị trong nghiên cứu này được ứng dụng để phân tích hàm
lượng PAR và CAF trong ba loại thuốc viên thương mại khác nhau (Panadol Extra,
Vietnam; Hapaco Extra, Vietnam; Tatanol, Vietnam). Bảng 3.4 trình bày giá trị của
hàm lượng PAR và CAF trong mẫu thuốc xác định bằng phương pháp đề nghị trong
nghiên cứu này và phương pháp so sánh HPLC. Kiểm định cặp t ( t-test) được áp
dụng để phân tích số liệu. Với mức ý nghĩa α = 0,05, kết quả cho thấy lượng PAR
và CAF tìm thấy trong mẫu bằng phương pháp đã đề nghị không khác biệt thống kê
81
so với hàm lượng ghi trên nhãn (PAR: t (2) = -3,56; p = 0,07 and CAF: t (2) = -
2,62; p = 0,12), và cũng không khác biệt thống kê với kết quả phân tích bằng HPLC
(PAR: t (2) = -0,207 ; p = 0,855 and CAF: t (2) = 0,41; p = 0,722). Vì vậy độ đúng
của phương pháp này được xem là tốt. Trong thí nghiệm này, nồng độ của PAR và
CAF được tính toán dùng phương pháp thêm chuẩn. Giá trị độ phục hồi của mẫu
thêm vào được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng chéo sau khi thêm chuẩn. Kết quả
nhận được có độ phục hồi tốt nằm trong khoảng từ 96% đến 107% đối PAR và
95% đến 108% đối với CAF, cho thấy rằng phương pháp đề nghị không bị ảnh
hưởng đáng kể do sự cản trở chéo.
Tên
Chất phân
Lượng (mg)
Er**
tích
(%)
(M* ± SE)
Label
DPV
HPLC
Bảng 3.4. Kết quả xác định PAR và CAF trong mẫu thuốc dùng phương pháp đề nghị và HPLC
Panadol extra Caffeine
65
64,9 ± 0,5
65,8 ± 0,3
Paracetamol
-1,37
500 494,7± 3,45 489,6 ± 0,6
Hapacol extra Caffeine
65
1,04
64,5 ± 0,1
63,6 ± 0,1
Paracetamol
1,42
500 493,6 ± 3,2 496,1 ± 0,5
Tatanol plus
Caffeine
65
-0,50
64,4 ± 0,7
63,7 ± 0,1
Paracetamol
1,10
500 487,4 ± 6,9 491,7 ± 0,9
-0,87
TIỂU KẾT 1
MOF-199 đã được tổng hợp thành công theo hai phương pháp. Điều kiện
tổng hợp tối ưu là thời gian 30 phút, năng lượng vi sóng 250 W đối với phương pháp vi sóng và 360 phút, 100 oC đối với phương pháp dung nhiệt. Phương pháp vi
sóng có ưu thế là cho hiệu suất cao trong thời gian tổng hợp ngắn. MOF-199 điều
chế theo hai phương pháp này đều có độ kết tinh cao, hình thái tinh thể bát diện rõ
ràng và diện tích bề mặt lớn.
82
MOF-199 được ứng dụng như chất biến tính điện cực GCE và điện cực biến
tính bằng MOF thể hiện hoạt tính xúc tác điện hóa tốt cho quá trình oxy hóa và khử
paracetamol và caffeine, làm tăng độ nhạy phát hiện paracetamol và caffeine với giới hạn phát hiện thấp (1,3×10−6 M đối với paracetamol và 1,2x10-6 M đối với
caffeine). Phương pháp đề nghị đã được dùng để xác định paracetamol và caffeine
trong mẫu thuốc với độ thu hồi chấp nhận được từ 96% đến 107% đối với
paracetamol và 95% đến 108% đối với caffeine. Kết quả này cũng tương đồng với
kết quả phân tích bằng HPLC.
3.2. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP NH2-MOF-199 VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG
BIẾN TÍNH ĐIỆN CỰC
3.2.1. Nghiên cứu tổng hợp NH2-MOF-199
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nghiên cứu tổng hợp NH2-MOF-199 bằng
cách biến tính MOF-199 bằng hợp chất amine (2-aminobenzene-1,4-dicarboxylic,
ABDC) theo hai phương pháp: Phương pháp trực tiếp (theo phương pháp này tất cả
các chất điều được đưa vào cùng một lúc ở điều kiện chiếu vi sóng) và phương pháp
gián tiếp (MOF-199 được tổng hợp trước, sau đó tiến hành đưa hợp chất amine
ABDC lên MOF-199 theo hai cách khác nhau).
Sản phẩm của phương pháp trực tiếp được quan sát sơ bộ bằng kính hiển vi
quang học (không trình bày ở đây). Kết quả cho thấy có sự tách lớp của các tinh thể
và một phần có hình thái không rõ ràng. Tách phần tinh thể để phân tích SEM và
FT-IR, kết quả trình bày ở Hình 3.16. Quan sát SEM (Hình 3.16a) cho thấy các bát
diện MOF-199 và các vẫn sáng (inclusion) có thể là ABDC (hay Cu-ABDC) nằm
tách riêng ra. Kết quả này cho thấy không kết gắn được các nhóm amine lên MOF-
199, điều này do ái lực của Cu(II) với H3BTC lớn hơn nhiều so với ABDC. Kết quả
này còn được xác định thêm bằng phổ FT-IR (Hình 3.16b), các dạng tín hiệu dao
của tinh thể giống với MOF-199, tuy nhiên không xuất hiện pic đặc trưng của liên kết N-H (3310-3500 cm-1), chứng tỏ trong cấu trúc vật liệu thu được không có N.
83
20%
%
/
MA-TT
a u q n Ò y u r t
é §
MOF-199
4000
3000
2000
1000
0
Sè sãng / cm-1
(a) (b)
Hình 3.16. Ảnh SEM (a) và giản đồ FT-IR (b) của mẫu biến tính theo phương pháp
trực tiếp MA-TT.
Theo phương pháp gián tiếp thứ nhất, MOF-199 sau khi tổng hợp được cho
phản ứng với ABDC. Kết quả quan sát bằng kính hiển vi quang học thấy có một sự
tách lớp màu trắng (được cho là của ABDC) và các hạt MOF-199 màu xanh riêng
biệt. Phần màu xanh được phân tích kết quả ảnh SEM và FT-IR trình bày ở Hình
3.17.
20%
%
MA-GT1
/ a u q n Ò y u r t é §
MOF-199
4000
3000
2000
1000
0
Sè sãng / cm-1
(a) (b)
Hình 3.17. Ảnh SEM (a) và giản đồ FT-IR (b) của mẫu biến tính theo phương pháp
gián tiếp thứ nhất MA-GT1.
Kết quả cho thấy, cũng như phương pháp tổng hợp trực tiếp, ABDC không
gắn kết lên bề mặt MOF-199.
84
Theo phương pháp gián tiếp thứ hai, MOF-199 được biến tính trước bằng
dung dịch Cu(NO3)2, sau đó mới cho phản ứng ABDC. Quan sát sản phẩm dưới kính
hiển vi quang học, cho thấy phương pháp này thu được vật liệu đều hơn. Vật liệu này
được phân tích phổ FT-IR. Kết quả được trình bày ở Hình 3.18.
ABDC
50%
NH2
%
NH2
Cu-ABDC
MA-GT2
NH2
/ a u q n Ò y u r t é §
MOF-199
4000
3000
2000
1000
0
Sè sãng / cm-1
Hình 3.18. Giản đồ FT-IR của MOF-199, MA-GT2, Cu-ABDC và ABDC.
Kết quả FT-IR cho thấy phân tử amin ABDC có 2 pic trong khoảng 3400- 3500 cm-1 đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết N-H trong nhóm NH2. Khi
ABDC kết hợp với Cu(II) tạo Cu-ABDC, 2 pic đặc trưng cho nhóm NH2 đã chuyển dịch về bước sóng 3150-3250 cm-1. Vật liệu MOF-199 biến tính ABDC (MA-GT2)
có các tín hiệu dao động tương đồng với MOF-199 và xuất hiện rất rõ tín hiệu của 2 pic trong khoảng 3150-3250 cm-1 đặc trưng cho nhóm NH2 khi ABDC tạo thành
Cu-ABDC, chứng tỏ ABDC đã được đưa thành công lên vật liệu. Điều này được
khẳng định thêm với kết quả ảnh SEM ở Hình 3.19. Ảnh SEM cho thấy vật liệu đã
được phủ lên bề mặt các chất biến tính.
85
Hình 3.19. Ảnh SEM mẫu biến tính gián tiếp theo phương pháp thứ hai MA-GT2.
Kết quả XRD của mẫu biến tính so sánh với mẫu MOF-199 được thể hiện ở
1000 cps
MOF-199
Hình 3.20.
s p c /
MA-GT2
é ® g n ê C
Cu-ABDC
0
10
30
40
20 2θ / ®é
Hình 3.20. So sánh XRD của MOF-199 với vật liệu biến tính gián tiếp MA-GT2.
So sánh XRD của MOF-199 với mẫu biến tính ta thấy rõ không có sự khác
biệt lớn. Mẫu biến tính không phát hiện được pic đặc trưng của Cu-ABDC, nhưng
những pic đặc trưng của MOF-199 vẫn xuất hiện ở mẫu biến tính, chứng tỏ cấu trúc
tinh thể của vật liệu không bị thay đổi khi thực hiện biến tính, cường độ pic ở mẫu
86
biến tính chỉ giảm đi vì có sự xuất hiện của amin nên tỷ phần vật liệu MOF-199
giảm đi. Điều đó còn được khẳng định với ảnh SEM (Hình 3.19), chất biến tính chỉ
phủ một lớp ở bề mặt vật liệu nên không làm thay đổi kết cấu của MOF-199 ban đầu.
Độ bền nhiệt của mẫu MA-GT2 được nghiên cứu bằng phân tích nhiệt. Tiến
hành phân tích nhiệt (TG-DTA) mẫu MA-GT2, trình bày ở Hình 3.21.
250
TGA
100
200
-16,52%
80
150
%
V u
/
100
60
/
-61,38%
A G T
A T D
50
40
-1,56%
0
DTA
20
-50
0
100
200
600
700
800
300 400 500 NhiÖt ®é / oC
Hình 3.21. Giản đồ phân tích nhiệt của MA-GT2.
Trên giản đồ TGA cho thấy, xuất hiện 3 khoảng mất khối lượng tại 25-150 oC, 150- 400 oC và > 400 oC. Quá trình mất nước vật lý ở nhiệt độ 25-150 oC, khối
lượng giảm 16,5%, tín hiệu DTA có đoạn hạ thấp xuống chứng tỏ có sự thu nhiệt diễn ra trong khoảng nhiệt độ này. Trong khoảng 150-400 oC, giảm 61,3% tương ứng với sự phân hủy chất hữu cơ trong cấu trúc vật liệu. Từ 322 oC trở lên, cấu trúc
MOF bị phá huỷ, khối lượng chất còn lại chiếm 22,1% khối lượng, tương ứng với
sự phân huỷ thành các oxide đồng.
Để xác định tính chất xốp của mẫu vật liệu MA-GT2, chúng tôi tiến hành
phân tích đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của vật liệu. Kết quả được
trình bày trên Hình 3.22 và Bảng 3.5.
87
250
245
/
P T S g 3
240
m c /
235
230
225
220
ô h p p Ê h g n î
l
HÊp phô Khö hÊp phô
215
g n u D
210
0.0
0.2
0.4
0.6
1.0
0.8 ¸p suÊt t¬ng ®èi / p/po
Hình 3.22. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của vật liệu MA-GT2.
Bảng 3.5. Tính chất xốp của vật liệu MA-GT2
Mẫu SBET (m2/g) SLangmuir (m2/g) Vpore (cm3/g)
MA-GT2 822 1035 0,38
Kết quả Hình 3.22 cho thấy đẳng nhiệt hấp phụ và khử hấp phụ N2 của mẫu
MA-GT2 thuộc loại I, đặc trưng cho vật liệu xốp có độ rộng mao quản tương đương
kích thước phân tử [2].
Kết quả ở Bảng 3.5 cho thấy mẫu MA-GT2 chúng tôi tổng hợp được có diện
tích bề mặt giảm nhiều so với mẫu MOF-199, điều này được giải thích do các phân
tử ABDC thay thế một phần các phân tử BTC trong vật liệu hoặc ABDC đã bám lên
bề mặt vật liệu MOF-199 và làm bít các mao quản nên N2 không thể khuếch tán vào
bên trong các mao quản, kết quả làm giảm diện tích bề mặt.
Từ các kết quả cho thấy mẫu MA-GT2 là mẫu MOF-199 biến tính ABDC có
kết quả tốt nhất. Vì vậy, phương pháp biến tính gián tiếp thứ hai là phương pháp
thích hợp để biến tính MOF-199 bằng ABDC.
88
Hình 3.23. Mô hình cơ chế quá trình biến tính MOF-199 gián tiếp bằng hợp chất
chứa nhóm chức amine.
Hình 3.23 là cơ chế mà chúng tôi đề nghị biến tính gián tiếp MOF-199. Đầu tiên vật liệu sẽ được khuấy từ trong dung dịch Cu(NO3)2 nhằm đưa Cu2+ lên bề mặt
vật liệu và liên kết với các nhóm COOH chưa tham gia liên kết của vật liệu. Sau đó
hợp chất ABDC được đưa lên vật liệu sẽ liên kết với các tâm Cu(II) trên bề mặt vật
liệu thông qua các nhóm COOH trong phân tử ABDC để tạo thành vật liệu NH2-
MOF-199.
3.2.2. Khả năng sử dụng NH2-MOF-199 làm chất biến tính điện cực để xác
định đồng thời Pb(II) và Cd(II) hay uric acid (UA) và ascorbic acid (AA)
Xác định đồng thời Pb(II) và Cd(II) được thực hiện theo phương pháp DP-
ASV. Nồng độ Cd(II) và Pb(II) được xác định đồng thời theo nồng độ tăng dần của
nó trong đệm acetate 0,1M (pH 4,5). Hình 3.24a trình bày đường DP-ASV đo được
trong dung dịch chứa nồng độ bằng nhau của các kim loại Cd(II) và Pb(II) trong
khoảng 5 ppm đến 30 ppm. Đường DP-ASV xuất hiện pic tại -0,87 V cho sự oxy
hóa Cd(II) và -0,65 V cho sự oxy hóa Pb(II). Sự tách pic rõ ràng khoảng 0,28 V cho
phép có thể xác định đồng thời các chất này.
89
(a)
(b)
2.4
2.0
Pb(II)
2.0
1.6
Cd(II) Pb(II)
1.6
1.2
Cd(II)
A µ
A µ
/
1.2
I
0.8
/ I
05 ppb 10 ppb 15 ppb 20 ppb 25 ppb 30 ppb
0.8
0.4
0.4
0.0
-1.0
-0.8
-0.6
-0.4
-0.2
0
5
10
25
30
35
20 / ppb
15 CMe(II)
E / V
Hình 3.24. a) Đường DP-ASV của Cd(II) và Pb(II) trong khoảng nồng độ 5 đến 30
ppm trong đệm acetate 0,1 M (pH 4,5); b) Đường hồi quy tuyến tính Iap theo nồng độ. (tacc = 90 s, Eacc = -1,1 V, tốc độ quét = 0,01 V s-1, ∆E = 0,1 V)
IP,Cd(II) (µA) = (-0,0353 ± 0,00332) + (0,0283 ± 0,00027) CCd(II) (ppb); r = 0,9995 (3.15) IP,Pb(II) (µA) = (-0,1080 ± 0,01310) + (0,0570 ± 0,00110) CPb(II) (ppb); r = 0,9981 (3.16) Giới hạn phát hiện (LOD) của Pb(II) và Cd(II) tính được trong khoảng nồng
Phương trình hồi quy tuyến tính Ip theo nồng độ được biểu diễn như sau:
độ từ 5 ppb đến 30 ppb lần lượt là 1,0 ppb và 1,8 ppb.
100
100
(b)
AA
(a)
AA
80
80
UA
60
60
A µ
A µ
40
UA
/ I
40
/ P I
20
20
0
100
200
400
500
600
0
0 -0.2
0.0
0.2
0.6
0.8
1.0
300 C / µM
0.4 E / V
Hình 3.25. a) Đường DP-ASV của AA và UA ở các nồng độ khác nhau trong
khoảng nồng độ từ 30 đến 548 µM và 10 đến 431 µM trong đệm phosphate 0,1M
(pH 7); b) hồi quy tuyến tính của Ip theo nồng độ. (tacc = 15 s, Eacc = 0 V, tốc độ quét = 0,01 V s-1, ∆E = 0,1 V)
90
Xác định đồng thời AA và UA đã được thực hiện bằng phương pháp DP-
ASV. AA và UA được xác định đồng thời bằng cách tăng nồng độ bằng nhau của
chúng trong đệm phosphate 0,1M (pH = 7) (xem Hình 3.25a). Trên đường DP-ASV
xuất hiện pic oxy hóa tại +0,18 V được cho là của AA và +0,49 V là của UA. Các
pic này phân tách rõ ràng cho phép có thể xác định đồng thời AA và UA trong dung
dịch. Sự phụ thuộc của dòng đỉnh hòa tan Ip của AA và UA theo nồng độ được thực
hiện bằng phương pháp DP-ASV như được trình bày trong Hình 3.25b.
Đường Ip của AA theo nồng độ thể hiện sự đáp ứng phi tuyến trong khoảng
nồng độ từ 30 µM to 548 µM. Đoạn tuyến tính đầu tiên từ 30 µM đến 119 µM và
đoạn tuyến tính thứ hai trong khoảng 167 µM đến 548 µM. Phương trình hồi quy là:
(3.17) IP,AA = (-1,03 ± 2,22) + (0,299 ± 0,022).CAA ; r = 0,9916 (n = 4)
(3.18) IP,AA = (20,07 ± 0,33) + (0,122 ± 0,001).CAA ; r = 0,9996 (n = 8)
Giới hạn phát hiện của AA trong khoảng nồng độ từ 30 µM đến 119 µM là
22,9 µM.
Trong khi đó đồ thị của Ip,UA theo nồng độ cho mối tương quan tuyến tính
cao hơn và được biểu diễn bởi phương trình sau:
(3.19) IP,UA = (6,60 ± 0,85) + (0,133 ± 0,006).CUA ; r = 0,9899 (n = 11)
Giới hạn phát hiện để xác định UA trong khoảng nồng độ từ 10 µΜ đến 245
µM là 24,6 µM.
Có thể nhận thấy LOD của AA và UA là cao hơn so với các phương pháp
điện hóa sử dụng các điện cực biến tính [62]. Tuy nhiên LOD của Pb(II) and Cd(II)
là thấp hơn hay tương đương với các phân tích điện hóa sử dụng điện cực biến tính
đã công bố [80], [183]. Đây chỉ là các nghiên cứu đầu tiên, tối ưu hóa các thông số
kỹ thuật đo có thể làm giảm LOD. Tuy nhiên kết quả trên cho thấy điện cực GCE
biến tính bằng NH2-MOF-199 có tiềm năng phát hiện và phân tích đồng thời các
acid hữu cơ và các ion kim loại trong dung dịch nước do diện tích bề mặt cao và có
chứa các tâm (cặp điện tử tự do trên N) có thể thu hút các kim loại nặng cũng như
các acid hữu cơ. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ nghiên cứu tiềm năng
sử dụng của điện cực biến tính này. Để có thể ứng dụng được cần phải được nghiên
91
cứu thêm ví dụ như độ ổn định điện cực, xác định mẫu thực, các yếu tố ảnh hưởng
đến phép đo.
TIỂU KẾT 2
Việc biến tính vật liệu MOF-199 bằng hợp chất 2-aminobenzene-1,4-
dicarboxylic acid để tạo NH2-MOF-199 đã được thực hiện thành công theo phương
pháp gián tiếp (có sự tăng cường Cu(II) lên bề mặt MOF-199). Kết quả biến tính tốt
nhất thu được ở mẫu MA-GT2 thực hiện với tỷ lệ là nH3BTC/nABDC = 2/1, công suất
250 W trong 20 phút. Hợp chất amine bám lên bề mặt vật liệu, không làm thay đổi
cấu trúc của vật liệu MOF-199 ban đầu. Điện cực biến tính bằng NH2-MOF-199 có
tiềm năng xác định đồng thời các kim loại nặng và các acid hữu cơ.
3.3. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP Zn-MOF-199 VÀ ỨNG DỤNG XÚC TÁC
CHO PHẢN ỨNG ACETAL HÓA BENZALDEHYDE BẰNG METHANOL
3.3.1. Nghiên cứu tổng hợp Zn-MOF-199
3.3.1.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ mol ion Cu:Zn và thời gian phản ứng đến sự hình
thành pha của vật liệu
Chúng tôi tiến hành biến tính MOF-199 bằng ion Zn(II) theo phương pháp
trực tiếp. Hỗn hợp các chất đầu gồm H3BTC, Cu(NO3)2 và Zn(NO3)2 ứng với tỷ lệ
mol giữa Cu(NO3)2 và Zn(NO3)2 là 8:2, 7:3, 5:5, 3:7 được tiến hành dung nhiệt ở nhiệt độ 100 oC với các thời gian t lần lượt là 6, 12, 18, 24 và 36 giờ. Kết quả XRD
trình bày ở Hình 3.26 cho thấy giản đồ XRD của các mẫu vật liệu MOF-199 biến
tính Zn(II) (Zn-MOF-199) (Hình 3.26a-d) phù hợp với giản đồ XRD của MOF-199
(chứa các pic nhiễu xạ đặc trưng cho MOF-199) và nhiều mẫu có xuất hiện pic đặc trưng cho Zn-BTC tại 10,3o (Hình 3.26f). Điều này chứng tỏ Zn-MOF-199 đã được
tạo thành từ MOF-199 và Zn-BTC.
92
(a)
(b)
2000 cps
CuZn82- 36 giê
2000 cps
CuZn73- 36 giê
CuZn82- 24 giê
CuZn73- 24 giê
CuZn82- 18 giê
CuZn73- 18 giê
CuZn82- 12 giê
s p c / é ® g n ê C
CuZn73- 12 giê
s p c / é ® g n ê C
CuZn82- 6 giê
CuZn73- 6 giê
0
10
20
30
40
50
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
2 Theta / ®é
(c)
(d)
2000 cps
CuZn55- 36 giê
2000 cps
CuZn37- 36 giê
CuZn55- 24 giê
CuZn37- 24 giê
CuZn55- 18 giê
s p c /
CuZn37- 18 giê
CuZn55- 12 giê
s p c / é ® g n ê C
CuZn37- 12 giê
é ® g n ê C
CuZn55- 6 giê
CuZn37- 6 giê
0
10
20
30
40
50
0
10
20
30
40
50
2 Theta / ®é
2 Theta / ®é
(e)
1600
(f)
) 2 2 2 (
s p c 0 0 0 2
1200
s p c /
800
) 1 1 5 (
) 0 4 4 (
) 1 5 7 (
) 0 2 2 (
) 0 0 2 (
) 1 1 3 (
) 3 5 5 (
) 0 0 6 (
) 4 4 4 (
) 1 5 5 (
) 2 2 4 (
) 0 0 4 )( 1 3 3 (
) 0 2 4 (
MOF-199
400
é ® g n ê C
s p c / é ® g n ê C
Zn-MOF-199
Zn-BTC
0
0
10
20
30
40
50
4
8
12
16
20
24
28
32
36
2 Theta / ®é
2 Theta / ®é
Hình 3.26. Giản đồ XRD của các mẫu Zn-MOF-199 tổng hợp ở các tỷ lệ mol
Cu:Zn là 8:2 (a), 7:3 (b), 5:5 (c), 3:7 (d); Zn-BTC (e) và MOF-199 (f).
Giản đồ XRD của mẫu Zn-BTC tổng hợp được (Hình 3.26e) xuất hiện pic nhiễu xạ có cường độ lớn ở góc 2 Theta = 10,3o và một số pic nhiễu xạ khác có cường nhỏ ở góc 2 Theta từ 16-42o như 15,9; 17,9; 26,4o;... Zn-BTC có nhiều dạng
cấu trúc khác nhau phụ thuộc vào điều kiện tổng hợp. Giản đồ của mẫu Zn-BTC
tổng hợp trong nghiên cứu này tương tự với Zn-BTC được tổng hợp bằng phương
93
pháp vi sóng của nhóm tác giả Pereira da Silva và cộng sự [128] nhưng khác với
các mẫu Zn-BTC được tổng hợp từ Zn(CH3COO)2 bằng phương pháp dung nhiệt
[13] và phương pháp siêu âm [160]. Để xác định rõ Zn-BTC tổng hợp được có cấu
trúc gì cần phải có nghiên cứu sâu hơn.
Để lựa chọn điều kiện tổng hợp thích hợp cho mẫu Zn-MOF-199, chúng tôi tiến hành so sánh cường độ pic nhiễu xạ ở 2 Theta = 10,3o đặc trưng cho Zn-BTC
xuất hiện trong các mẫu Zn-MOF-199. Đối với mẫu Zn-MOF-199 có tỷ lệ mol Cu:Zn = 8:2, cường độ pic 10,3o rất bé và chỉ xuất hiện rõ ở mẫu có thời gian tổng
hợp dài là 36 giờ; với tỷ lệ mol Cu : Zn = 7:3, khi thời gian tổng hợp kéo dài cường độ pic nhiễu xạ 10,3o có xu hướng tăng dần lên; với tỷ lệ mol Cu:Zn = 5:5; 3:7 thì cường độ pic nhiễu xạ 10,3o thay đổi không theo quy luật, tuy nhiên cường độ pic nhiễu xạ 2 Theta = 10,3o cao hơn so với các tỷ lệ Cu:Zn = 8:2; 7:3 tổng hợp ở cùng
một thời gian. Chúng tôi nhận thấy rằng mẫu Zn-MOF-199 tổng hợp ở tỷ lệ mol Cu:Zn = 3:7, thời gian 6 giờ có cường độ pic nhiễu xạ 10,3o đặc trưng cho Zn-BTC
là cao nhất và vẫn giữ được cấu trúc của MOF-199 ban đầu. Ngoài ra, thông số
mạng của MOF-199 trong mẫu Zn-MOF-199 này (a = 26,22 Å) có sự sai lệch so
với thông số mạng của MOF-199 tinh khiết (a = 26,34 Å), chứng tỏ các ion Zn(II)
đã có sự liên kết với MOF-199 thông qua các cầu nối hữu cơ BTC trong bộ khung
hữu cơ của MOF-199. Điều này cho thấy đã biến tính được ion Zn(II) lên MOF-
199, nên chúng tôi lựa chọn điều kiện này để đặc trưng vật liệu và sử dụng cho ứng
dụng xúc tác sau này.
3.3.1.2. Đặc trưng vật liệu Zn-MOF-199
Chúng tôi tiến hành chụp ảnh SEM của các mẫu vật liệu để quan sát hình
dạng và kích thước, kết quả được trình bày ở Hình 3.27.
94
a2) a1
b1 b2
c1 c2
Hình 3.27. Ảnh SEM của các mẫu MOF-199 (a1,a2), Zn-BTC (b1,b2) và
Zn-MOF-199 (c1,c2).
Kết quả cho thấy Zn-MOF-199 (Hình 3.27c1, c2) quan sát được là các tinh
thể hình bát diện tương tự như các tinh thể MOF-199 ban đầu (Hình 3.27a1, a2),
kích thước khoảng 10 µm, nhưng trên bề mặt đã có sự thay đổi lớn so với MOF-
199, đó là xuất hiện các hạt nhỏ kết tụ trên bề mặt. Các tinh thể nhỏ này chính là
Zn-BTC có dạng thanh nano (Hình 3.27b1, b2), đường kính khoảng 200 nm. Như
vậy, vật liệu Zn-MOF-199 mà chúng tôi tổng hợp được có sự đan xen của tinh thể
nhỏ Zn-BTC vào tinh thể MOF-199.
Kết quả phân tích thành phần nguyên tố C, H, Zn và Cu trong mẫu vật liệu
Zn-MOF-199 được trình bày trong Bảng 3.6.
95
Bảng 3.6. Thành phần nguyên tố C, H, Zn và Cu trong mẫu Zn-MOF-199
Thành phần nguyên tố (%m) Zn/Cu (mol/mol)
C* H* Zn** Cu** Zn*** Cu*** (**) (***)
36,18 1,93 7,49 17,19 0,42/1 0,39/1 8,57 21,74
* Phân tích nguyên tố; ** Phân tích AAS; *** Phân tích EDX
Tỷ lệ mol của Zn/Cu trong Zn-MOF-199 được phân tích với AAS và EDX là
gần như nhau (0,42/1 và 0,39/1), điều này cho thấy có sự phân tán cao giữa Zn-BTC
và MOF-199. Tuy nhiên, tỷ lệ mol này thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ ban đầu
(Zn/Cu = 7/3 = 2,33/1), chứng tỏ rằng một số lượng lớn các ion Zn(II) vẫn còn
trong dung dịch thay vì phản ứng tạo Zn-BTC. Điều này có thể giải thích xảy ra do
ái lực của Zn (độ âm điện 1,65) đối với các nhóm carboxyl trong BTC thấp hơn so
với Cu (độ âm điện 1,9) đối với BTC.
Phổ XPS của Zn-MOF-199 ở Hình 3.28a cho thấy sự có mặt của các nguyên
tố C, O, Cu và Zn trong vật liệu. Phổ XPS của Cu2p có bộ đôi hai đỉnh của Cu2p3/2
(933 eV) và Cu2p1/2 (952 eV) với các đỉnh vệ tinh trải dài về phía năng lượng liên
kết cao hơn [146] (Hình 3.28b). Cả hai đỉnh là rất điển hình cho phổ XPS của Cu(II)
[86]. Yang và cộng sự đã báo báo rằng, ngoài Cu(II) là tồn tại chủ yếu, vẫn có thể
tồn tại Cu(I) và Cu(0), điều này phụ thuộc vào khí quyển nung [189]. Zn2p có bộ
đôi hai đỉnh rõ ràng của Zn2p3/2 (1022 eV) và Zn2p1/2 (1045 eV) điển hình cho phổ
XPS của Zn(II) (Hình 3.28c) [180]. Do vậy, có thể suy ra rằng Zn-MOF-199 là một
hợp chất chứa Zn(II), Cu(II), C và O.
Zn(II) và Cu(II) đều là các tâm xúc tác Lewis acid, do vậy vật liệu Zn-MOF-
199 tổng hợp được hứa hẹn sẽ là một chất xúc tác acid cho các phản ứng hữu cơ.
96
/ eV
/ eV
/ eV
Hình 3.28. Phổ XPS tổng quát của Zn-MOF-199 (a), Cu2p (b) và Zn2p (c).
97
Giản đồ phân tích nhiệt các mẫu MOF-199, Zn-MOF-199 và Zn-BTC được
100
trình bày ở Hình 3.29.
TG
(a)
472 oC
90
-23 %
80
V u
70
%
/
/
60
-42 %
G T
A T D
50
DTA
40
115 oC
-0.8 %
30
160 140 120 100 80 60 40 20 0 -20 -40
0
200
400
600
800
NhiÖt ®é / oC
350
100
327 oC
TG
(b)
300
90
250
80
-28 %
200
70
%
V u
/
150
60
/
G T
50
100
-39 %
A T D
40
50
DTA
30
-6 %
0
20
-50
800
0
200
400
600 NhiÖt ®é / oC
100
334 oC
TG
80
(c)
90
-27 %
60
80
387 oC
70
40
V u
%
60
/
/
20
50
G T
DTA
A T D
0
40
-47 %
30
-20
82.5 oC
20
-0.4 %
-40
0
200
800
400
600 NhiÖt ®é / oC
Hình 3.29. Giản đồ phân tích nhiệt TG-DTA của các mẫu Zn-BTC (a), MOF-199
(b) và Zn-MOF-199 (c).
98
Đối với Zn-BTC (Hình 3.29a), MOF-199 (Hình 3.29b) có một đỉnh tỏa nhiệt xuất hiện ở khoảng 472 oC và 327 oC tương ứng với sự giảm khối lượng lớn 42% và
39% được quy cho sự phân hủy bộ khung hữu cơ trong vật liệu. Nhiệt độ phân hủy hoàn toàn là 500 oC đối với Zn-BTC và 470 oC đối với MOF-199 (400 oC được công bố bởi tài liệu [110], 670 oC được công bố bởi tài liệu [123]). Trong trường hợp của Zn-MOF-199 (Hình 3.29c), đỉnh thu nhiệt khoảng 82,5 oC tương ứng với
sự mất khối lượng 27% được quy cho sự bay hơi nước bị hấp phụ vật lý, hai đỉnh tỏa nhiệt ở 334 và 387 oC tương ứng với sự mất khối lượng khoảng 47% được quy
cho sự phân hủy MOF-199 và Zn-BTC trong Zn-MOF-199. Sự phân hủy hoàn toàn
Zn-MOF-199 cũng diễn ra ở khoảng 500 °C, do đó nhiệt độ này cũng được chọn để
nung các tiền chất để thu được các oxide ở giai đoạn sau này. Đáng chú ý ở đây là
nhiệt độ bắt đầu phân hủy bộ khung hữu cơ của Zn-MOF-199 đã có sự tăng lên so với MOF-199 (327 oC lên 334 oC), điều này có thể do sự đan xen của các hạt Zn-
BTC (có độ bền nhiệt cao) với các hạt MOF-199 ở trong Zn-MOF-199.
Một đặc trưng rất quan trọng có ảnh hưởng lớn đến khả năng xúc tác của vật
liệu đó là diện tích bề mặt. Trong nghiên cứu này diện tích bề mặt của các vật liệu
được xác định bằng phương pháp hấp phụ - khử hấp phụ N2 theo phương trình BET
và đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 được trình bày ở Hình 3.30.
MOF-199
500
/
P T S g 3
400
m c /
300
Zn-MOF-199
200
100
ô h p p Ê h g n î
l
Zn-BTC
0
g n u D
0.0
0.2
0.4
0.6
1.0
0.8 ¸p suÊt t¬ng ®èi / p/po
Hình 3.30. Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của các mẫu MOF-199, Zn-BTC
và Zn-MOF-199.
99
Như được quan sát ở Hình 3.30, các đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ
N2 của các hợp chất khung cơ kim BTC tổng hợp được thuộc dạng I theo hệ thống
phân loại IUPAC, tức là thuộc dạng vật liệu có cấu trúc vi mao quản [24], [199]. Các
mẫu MOF có diện tích bề mặt lớn (trừ mẫu Zn-BTC). Diện tích bề mặt theo phương pháp BET đối với mẫu MOF-199 là 1635 m2/g, giá trị này tương đương với mẫu
MOF-199 được tổng hợp bởi các tác giả khác [147], [161]. Trong khi đó mẫu Zn- BTC có diện tích bề mặt rất thấp, khoảng 3 m2/g, và mẫu Zn-MOF-199 có diện tích bề mặt trung bình so với hai mẫu còn lại, khoảng 844,4 m2/g.
Feldblyum [46] khẳng định rằng diện tích bề mặt của Zn-BTC thấp là do sự
ngưng tụ tinh thể dày đặc trên bề mặt của nó, dẫn đến sự tắc nghẽn lỗ mao quản. Sự
tắc nghẽn lỗ mao quản lớn ở bề mặt đã hạn chế các chất bị hấp phụ như khí N2 xâm
nhập vào cấu trúc khối [46]. Sự có mặt của tinh thể Zn-BTC trong lỗ mao quản của
MOF-199 đã làm cho diện tích bề mặt của Zn-MOF-199 giảm đi so với MOF-199
ban đầu.
3.3.2. Hoạt tính xúc tác của vật liệu Zn-MOF-199 đối với phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol
3.3.2.1. Hoạt tính xúc tác của MOF-199, Zn-MOF-199 và Zn-BTC
Trước hết chúng tôi tiến hành so sánh hoạt tính xúc tác cho phản ứng acetal
hóa benzaldehyde bằng methanol của các vật liệu Zn-MOF-199, MOF-199, Zn- BTC trong cùng điều kiện phản ứng: nhiệt độ 45 oC, thời gian 6 giờ, 20 mg chất xúc
tác. Kết quả trên Hình 3.31 cho thấy hiệu suất phản ứng khi có xúc tác MOF-199
(11,2%) cao hơn khi không có chất xúc tác (5,3%), chứng tỏ vật liệu MOF-199 có
hoạt tính xúc tác đối với phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol. Hiệu
suất của phản ứng trong trường hợp có xúc tác Zn-BTC (5,9%) lớn hơn không đáng
kể so với trường hợp không có chất xúc tác (5,3%), điều này cho thấy vật liệu Zn-
BTC có hoạt tính xúc tác rất thấp đối với phản ứng ở điều kiện khảo sát, có thể do vật liệu Zn-BTC có diện tích bề mặt nhỏ (3 m2/gam), đã hạn chế các phân tử chất
phản ứng tiếp xúc với các tâm xúc tác của vật liệu nên hiệu quả xúc tác không cao.
100
20
18,3 18.3
16
%
11,2 11.2
12
9 9 1 - F O M - n Z
8
5,9 5.9
i
5,3 5.3
/ t Ê u s u Ö H
9 9 1 - F O M
4
C T B
- n Z
g n « h K
c ¸ t c ó x
8,7 8.7 C T B - n Z : 9 9 1 - F O M
) 1 : 1 (
0
VËt liÖu
Hình 3.31. Hiệu suất của phản ứng với xúc tác MOF-199, Zn-MOF-199, Zn-BTC,
MOF-199:Zn-BTC (1:1) và không có chất xúc tác. (nhiệt độ phản ứng 45 oC, thời gian 6 giờ, 20 mg chất xúc tác)
Hiệu suất phản ứng khi sử dụng vật liệu Zn-MOF-199 làm chất xúc tác là
18,3%, cao hơn khi sử dụng vật liệu MOF-199, Zn-BTC và hỗn hợp vật liệu MOF-
199 : Zn-BTC (1:1 về khối lượng), điều này cho thấy chính sự phân tán đều các tinh
thể Zn-BTC với kích thước nhỏ trong cấu trúc của MOF-199 của vật liệu Zn-MOF-
199 đã làm cho hoạt tính xúc tác của vật liệu Zn-MOF-199 (18,3%) cao hơn so với
các vật liệu riêng lẻ và hỗn hợp trộn lẫn của chúng. Qua kết quả này, chúng tôi nhận
thấy vật liệu Zn-MOF-199 có hiệu quả xúc tác tốt hơn vật liệu MOF-199 nên đã lựa
chọn Zn-MOF-199 để tiếp tục khảo sát ảnh hưởng của các yếu khác đến khả năng
xúc tác của Zn-MOF-199.
3.3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt tính xúc tác của Zn-MOF-199
Phản ứng được thực hiện ở các nhiệt độ 30, 45 và 60 oC, với 20 mg Zn-
MOF-199, thời gian 6 giờ. Kết quả được trình bày ở Hình 3.32.
101
40
33,7 33.7
32
%
24
/ t
18,3 18.3
Ê u s
16
i
u Ö H
8
3,8 3.8
0
30
60
45 NhiÖt ®é / oC
Hình 3.32. Hiệu suất phản ứng ở các nhiệt độ khác nhau.
(thời gian 6 giờ, 20 mg chất xúc tác Zn-MOF-199)
Kết quả ở Hình 3.32 cho thấy khi nhiệt độ tăng thì hiệu suất phản ứng tăng lên, và đạt cao nhất là 33,7% ở 60 oC. Đặc điểm chung của hầu hết các phản ứng
hóa học là hiệu suất tăng khi nhiệt độ tăng. Tuy nhiên, các phản ứng xúc tác dị thể
thường thực hiện ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sôi của dung môi để đồng bộ về sự
khuấy trộn cho hệ phản ứng. Ở đây, methanol vừa là chất phản ứng, vừa là dung môi, có nhiệt độ sôi 64,7 oC, cho nên chúng tôi chỉ tiến hành phản ứng ở mức nhiệt độ cao nhất là 60 oC, mà không tiếp tục khảo sát nhiệt độ cao hơn nữa. Với kết quả này, chúng tôi lựa chọn nhiệt độ 60 oC để tiếp tục khảo sát yếu tố ảnh hưởng khác.
3.3.2.3. Ảnh hưởng của thời gian đến hoạt tính xúc tác của Zn-MOF-199
Phản ứng được thực hiện ở các thời gian 4, 6, 8, 10, 16 và 24 giờ, với 20 mg Zn-MOF-199, nhiệt độ 60 oC. Kết quả trình bày ở Hình 3.33 cho thấy khi thời gian
phản ứng kéo dài thì độ chuyển hóa phản ứng tăng lên và đạt 89,3% ở thời gian
phản ứng 24 giờ. Chúng tôi nhận thấy rằng, ở thời gian đầu hiệu suất tăng nhanh,
khi thời gian kéo dài từ 16 giờ đến 24 giờ thì hiệu suất tăng không đáng kể. Do đó,
có thể xem ở thời gian phản ứng 24 giờ là thời gian thích hợp của phản ứng, nếu
tiếp tục kéo dài thời gian phản ứng thì hiệu suất cũng sẽ tăng lên không đáng kể. Và
chúng tôi chọn 24 giờ là thời gian tối ưu của phản ứng.
102
100
80
%
60
i
/ t Ê u s u Ö H
40
20
4
8
12
16
20
24
Thêi gian / giê
Hình 3.33. Hiệu suất phản ứng ở các thời gian khác nhau. (nhiệt độ 60 oC, 20 mg xúc tác Zn-MOF-199)
3.3.2.4. Ảnh hưởng của lượng chất xúc tác đến hoạt tính xúc tác của Zn-MOF-199
Phản ứng được thực hiện với các lượng chất xúc tác 10, 20, 40, 60 mg ở
100
89.3 89,3
80
66
%
55,9 55.9
60
50,4 50.4
40
i
/ t Ê u s u Ö H
20
0
10 20 40 60 Khèi lîng chÊt xóc t¸c / mg
nhiệt độ 60 oC, thời gian 24 giờ. Kết quả được trình bày ở Hình 3.34.
Hình 3.34. Hiệu suất phản ứng với các lượng chất xúc tác Zn-MOF-199 khác nhau. (nhiệt độ 60 oC, thời gian 24 giờ)
Kết quả ở Hình 3.34 cho thấy hiệu suất phản ứng đạt được cao nhất là 89,3%
tương ứng với lượng chất xúc tác là 20 mg. Khi lượng xúc tác 10 mg thì hiệu suất
103
phản ứng chỉ đạt 50,4%, do số tâm xúc tác chưa đủ để xúc tác lượng chất phản ứng
có trong hệ phản ứng. Khi tăng lượng chất xúc tác lên 20 mg thì hiệu suất phản ứng
tăng lên cao, nhưng tiếp tục tăng lượng chất xúc tác lên 40 mg và 60 mg thì hiệu
suất có khuynh hướng giảm xuống, điều này được giải thích là do khi lượng chất
xúc tác nhiều, vượt qua ngưỡng tối ưu sẽ làm cho quá trình khuếch tán các chất
trong dung dịch xảy ra chậm, hạn chế sự tiếp xúc của chất phản ứng với các tâm xúc
tác, vì vậy hiệu suất của phản ứng giảm xuống. Như vậy, Zn-MOF-199 có hoạt tính
xúc tác cao đối với phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol ở điều kiện nhiệt độ 60 oC, thời gian 24 giờ, 20 mg vật liệu.
Hiệu suất của phản ứng tạo BDA (89,3%) trong công trình nghiên cứu này
được so sánh với độ chuyển hóa của phản ứng trong một số công trình nghiên cứu
khác. Kết quả ở Bảng 3.7 cho thấy, hiệu suất chúng tôi thu được tương đương với
độ chuyển hóa đạt được của vật liệu Cu3(BTC)2 [39], MIL-100(Fe) [53] và cao hơn
một số vật liệu Fe(BTC) [39], Al2(BDC)3 [39], MIL-101(Cr) [19], [54].
Bảng 3.7. Hoạt tính xúc tác của một số vật liệu MOFs đối với phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol
BA (mmol)/ Độ chuyển Tài liệu Thời Chất xúc tác MeOH (mL)/ hóa(*)/Hiệu tham Nhiệt độ (oC) gian xúc tác (mg) khảo
[39]
0,94/3/50 phòng 24 suất(**) (%) 88* Cu3(BTC)2
[39]
Fe(BTC) 0,94/3/50 phòng 24 71*
[39]
0,94/3/50 phòng 24 66* Al2(BDC)3
[54]
MIL-101(Cr) 3,34/6,7/10 phòng 1,5 73*
[19]
MIL-101(Cr) 3,34/6,7/10 25-55 24 80*
[53]
MIL-100(Fe) 2,82/5/20 phòng 0,25 86*
Zn-MOF-199 Nghiên 0,94/3/20 60 24 89,3** (Zn/Cu-BTC) cứu này
104
3.3.2.5. Vai trò xúc tác của Zn-MOF-199 đối với phản ứng acetal hóa
Để chứng minh sự ảnh hưởng của vật liệu đến phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol, phản ứng đã được tiến hành với 20 mg chất xúc tác ở 60 oC, sau 8 giờ thực hiện phản ứng, vật liệu được lọc tách ra khỏi dung dịch và tiếp
tục được thực hiện thêm 16 giờ trong điều kiện không có xúc tác để đánh giá sự
thay đổi nồng độ của BDA trong dung dịch. Kết quả phân tích được trình bày ở
100
89,3 89.3
80
%
60
48,6 48.6
39,5 39.5
/ t Ê u s
40
i
u Ö H
20
0
(1)
(3)
(2) Sù tham gia cña chÊt xóc t¸c
Hình 3.35.
(1)- 8 giờ xúc tác, (2)- 8 giờ xúc tác + 16 giờ không có xúc tác, (3)-24 giờ xúc tác
Hình 3.35. Sự ảnh hưởng của Zn-MOF-199 đối với phản ứng acetal hóa.
Kết quả cho thấy, hiệu suất phản ứng tăng lên không đáng kể sau khi tách vật
liệu ra khỏi dung dịch phản ứng và hiệu suất thu được sau khi loại bỏ xúc tác thấp
hơn nhiều so với trường hợp có mặt chất xúc tác trong suốt cả quá trình phản ứng
(24 giờ). Điều này chứng tỏ rằng Zn-MOF-199 hoạt động như một chất xúc tác dị
thể trong quá trình thực hiện phản ứng acetal hóa benzaldehyde bằng methanol.
Đối với phản ứng acetal hóa hợp chất carbonyl sử dụng chất xúc tác đồng thể là Bronsted acid, ion H+ sẽ kích hoạt hợp chất carbonyl ở vị trí nguyên tử O trong
nhóm carbonyl (C=O) để thuận lợi cho alcohol tấn công vào vị trí nguyên tử C của
nhóm carbonyl theo cơ chế ái nhân [20], [116]. Nếu chất xúc tác là Lewis acid, ion
105
Mn+ sẽ kích hoạt đồng thời hợp chất carbonyl (vị trí nguyên tử O trong nhóm
carbonyl) và hợp chất alcohol (vị trí O của nhóm OH), sau đó sẽ xảy ra sự kết hợp
nội phân tử (có sự tham gia của một phân tử alcohol khác) để tạo thành một
hemiacetal hoặc hemiacetalide, và phản ứng tiếp tục xảy ra để tạo hợp chất acetal
[23], [54], [68], [78]. Tuy nhiên, trong những công trình nghiên cứu phản ứng acetal
hóa trên chất xúc tác dị thể, vẫn chưa có các công bố về cơ chế phản ứng. Nhưng có
thể thấy rằng, trong phản ứng xúc tác dị thể, tùy thuộc số liên kết có thể tạo thêm của tâm xúc tác Mn+ trong chất xúc tác rắn MOF và cấu trúc vật liệu mà Mn+ chỉ
kích hoạt hợp chất carbonyl hoặc sẽ kích hoạt đồng thời hợp chất carbonyl và
alcohol như trong xúc tác đồng thể.
3.3.2.6. Khả năng tái sử dụng vật liệu
Khả năng tái sử dụng là một yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng ứng
dụng trong thực tế của vật liệu xúc tác dị thể. Sau khi sử dụng, Zn-MOF-199 được
tách khỏi dung dịch bằng ly tâm, rửa sạch bằng methanol để loại bỏ các chất đầu và các sản phẩm bám trên vật liệu. Sau đó, vật liệu được sấy khô, hoạt hóa ở 130 oC
100
89,3 89.3
84 84
82,5 82.5
79,7 79.7
80
%
60
40
i
/ t Ê u s u Ö H
20
0
Ban ®Çu LÇn 1 LÇn 2 LÇn 3 Sè lÇn t¸i sö dông
trong 5 giờ và được sử dụng cho lần xúc tác tiếp theo.
Hình 3.36. Hiệu suất phản ứng trên xúc tác Zn-MOF-199 sau nhiều lần tái sử dụng.
Ở Hình 3.36, ta có thể thấy hiệu suất phản ứng tạo BDA của Zn-MOF-199
chỉ giảm nhẹ từ 89,3% xuống còn 79,7% sau 3 lần tái sử dụng. Điều này chứng tỏ
106
vật liệu Zn-MOF-199 có sự ổn định cao về hoạt tính xúc tác trong quá trình sử dụng
lâu dài.
TIỂU KẾT 3
Vật liệu MOF-199 biến tính bằng muối Zn(II) đã được tổng hợp thành công
theo phương pháp trực tiếp. Ở điều kiện khảo sát tối ưu, vật liệu Zn-MOF-199 thu
được có sự phân bố đều các hạt nano Zn-BTC vào tinh thể MOF-199, vẫn giữ
nguyên cấu trúc và hình dạng bát diện của MOF-199 ban đầu, có kích thước hạt khoảng 10 µm, diện tích bề mặt 844,4 m2/g.
Vật liệu Zn-MOF-199 có hoạt tính xúc tác cao đối với phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol và đóng vai trò là chất xúc tác dị thể. Hoạt tính xúc tác của Zn-MOF-199 cao hơn MOF-199 ban đầu và ở điều kiện phản ứng: nhiệt độ 60 oC, thời gian 24 giờ, lượng chất xúc tác 20 mg, hiệu suất phản ứng tạo BDA đạt
được là 89,3%. Xúc tác Zn-MOF-199 có sự ổn định cao về hoạt tính xúc tác.
3.4. NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP NANO ZnO/CuO TỪ VẬT LIỆU Zn-MOF-
199 VÀ ỨNG DỤNG XÚC TÁC QUANG HÓA
3.4.1. Nghiên cứu tổng hợp nano ZnO/CuO từ vật liệu Zn-MOF-199
3.4.1.1. Giản đồ XRD
Độ bền nhiệt của Zn-MOF-199, MOF-199 và Zn-BTC đã được nghiên cứu
bằng phương pháp phân tích nhiệt trọng lượng ở Hình 3.29. Kết quả phân tích giản
đồ nhiệt chỉ ra rằng có thể phân hủy hoàn toàn khung BTC bằng cách nung ở 500 oC. Vì vậy, các mẫu vật liệu trên được đã được sử dụng làm tiền chất để tổng hợp các oxide kim loại bằng cách nung chúng ở 500 oC trong 5 giờ.
Sau khi nhiệt phân các hợp chất khung cơ kim, MOF-199 và Zn-BTC bị phá
hủy và chuyển thành các oxide CuO dạng đơn tà (monoclinic) và ZnO dạng lục giác
(hexagonal) tương ứng với JCPDS Card No. 48-1548 và 6-1451; còn Zn-MOF-199
chuyển thành lưỡng oxide ZnO/CuO như được thể hiện ở giản đồ XRD (Hình 3.37).
107
) 1 0 1 (
) 0 0 1 (
) 2 0 0 (
) 2 1 1 (
) 0 1 1 (
) 3 0 1 (
1000 cps
) 2 0 1 (
) 1 0 2 (
) 0 0 2 (
) 2 0 2 (
) 4 0 0 (
ZnO
- ZnO - CuO
ZnO/CuO
) 1 1 1 (
) 1 1 1 (
s p c / é ® g n ê C
) 2 0 2 (
) 3 1 1 (
) 1 1 3 ( , ) 2 2 0 (
) 0 2 2 (
) 0 1 1 (
) 2 0 2 (
) 0 2 0 (
) 4 0 0 (
) 1 1 3 (
) 2 1 1 (
) 2 1 1 (
CuO
20
30
40
70
80
50
60 2 Theta / ®é
Hình 3.37. Giản đồ XRD của ZnO, CuO và ZnO/CuO.
Trong giản đồ XRD của các mẫu tổng hợp không xuất hiện pic lạ, chứng tỏ
sản phẩm thu được có độ tinh khiết cao và đã tổng hợp thành công lưỡng oxide
ZnO/CuO. Ngoài ra, các thông số mạng của CuO và ZnO trong lưỡng oxide
ZnO/CuO (CuO: a = 0,468448; b = 0,342113; c = 0,512524; và ZnO: a = b =
0,324860; c = 0,520410) có sự sai lệch nhỏ so với thông số mạng của CuO (a =
0,468623; b = 0,342662; c = 0,512508) và ZnO (a = b = 0,324923; c = 0,520787)
riêng lẻ. Điều này chứng tỏ các oxide liên kết với nhau một phần thông qua kết nối
nội hạt. Sự mở rộng các pic trong giản đồ XRD của mẫu ZnO/CuO so với hai oxide
còn lại chứng tỏ có sự giảm kích thước hạt do sự pha tạp (doping) của các oxide.
Kích thước trung bình của hạt ZnO và CuO trong lưỡng oxide ZnO/CuO bát diện
lần lượt là ∼44 nm và ∼23 nm (tính theo phương trình Scherrer tại đỉnh nhiễu xạ của
mặt (101) đối với ZnO và (111) đối với CuO.
3.4.1.2. Hình thái của vật liệu
Hình thái của các mẫu vật liệu trước và sau khi thiêu kết được nghiên cứu
bằng phương pháp hiển vi điện tử quét SEM, hiển vi điện tử truyền qua TEM và
được trình bày ở Hình 3.38.
108
a1 a2
b1 b2
c1 c2
d1 d2
Hình 3.38. Ảnh SEM các mẫu: a1) MOF-199, b1) Zn-BTC, c1) Zn-MOF-199, a2)
CuO, b2) ZnO, c2) ZnO/CuO, d1) Ảnh TEM mẫu ZnO/CuO; d2) Ảnh HR-TEM của
ZnO/CuO.
Mẫu MOF-199 có các tinh thể hình bát diện mịn kích thước khoảng 10 μm
và thể hiện độ tinh thể khá cao (Hình 3.38a1). Sau khi nhiệt phân các hạt MOF-199
109
đã bị phá hủy tạo thành các hạt biến dạng có kích thước không đều nhau như quan
sát ở Hình 3.38a2. Mẫu Zn-BTC có hình thái rất khác so với MOF-199 và có dạng
thanh nano (nanorode) có đường kính khoảng 200 nm. Mẫu ZnO thu được sau khi
nhiệt phân Zn-BTC có hình dạng sợi (nanofilber) được hình thành từ các hạt nano
có kích thước từ 30 đến 50 nm (Hình 3.38b2). Điều đáng chú ý ở đây là mẫu Zn-
MOF-199 chứa các hạt hình bát diện có bề mặt thay đổi lớn so với MOF-199. Có
nhiều hạt kết tụ nhỏ xuất hiện trên bề mặt của các hạt bát diện (Hình 3.38c1). Mẫu
lưỡng oxide ZnO/CuO thu được từ quá trình nhiệt phân Zn-MOF-199 vẫn duy trì
được cấu trúc bát diện với đường kính 5-10 μm chứng tỏ rằng mẫu lưỡng oxide có độ
bền nhiệt cao hơn so với mẫu MOF-199, phù hợp với kết quả phân tích nhiệt ở trên.
Ảnh TEM của mẫu ZnO/CuO (Hình 3.38d1) cho thấy các tinh thể bát diện có
kích thước khoảng 50 nm. Các khoảng cách giữa các mặt phẳng của mạng tinh thể
của CuO tại mặt (111) (JCPDS card No. 48-1548) và ZnO tại mặt (110) (JCPDS
card No. 36-1451) được xác định tương ứng là 0,232 nm và 0,281 nm (Hình
3.38d2). Sự phân bố xen kẽ nội hạt giữa hai pha oxide sẽ giúp tăng cường hiệu ứng
ghép bán dẫn từ đó gia tăng khả năng quang xúc tác của vật liệu.
3.4.1.3. Thành phần hóa học của vật liệu
Thành phần nguyên tố của Zn và Cu trong vật liệu được phân tích bằng
quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) và phương pháp năng lượng tán xạ tia X
(EDX), C và H được phân tích bằng phương pháp phân tích nguyên tố. Kết quả
phân tích thành phần nguyên tố hóa học của các mẫu tổng hợp được thể hiện ở
Bảng 3.8.
Bảng 3.8. Bảng phân tích nguyên tố C, H, Zn, Cu trong mẫu ZnO/CuO
Mẫu Thành phần nguyên tố (% khối lượng) Cu ** Zn** H* C* Zn/Cu (mol/mol) (***) (**)
ZnO/CuO 0,00 0,00 20,18 62,56 0,32/1 0,30/1
* Phân tích nguyên tố; ** Phân tích AAS; *** Phân tích EDX
Không tìm thấy sự hiện diện của nguyên tố C trong mẫu ZnO/CuO chứng tỏ
các thành phần hữu cơ đã được loại bỏ hoàn toàn trong mẫu. Tỷ lệ mol của Zn/Cu
110
trong ZnO/CuO phân tích theo hai phương pháp AAS và EDX tương đối giống
nhau và gần giống với tỷ lệ Zn/Cu trong Zn-MOF-199, cho thấy sự phân tán cao
của các lưỡng oxide.
3.4.1.4. Đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2
Các đặc tính bề mặt của các oxide được khảo sát bằng phương pháp hấp phụ -
khử hấp phụ N2. Kết quả được trình bày ở Hình 3.39.
60
ZnO/CuO
50
/
P T S g 3
40
m c /
30
20
CuO
10
ô h p p Ê h g n î
l
ZnO
0
g n u D
0.0
0.2
0.4
0.6
1.0
0.8 ¸p suÊt t¬ng ®èi / p/po
Hình 3.39. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của các mẫu CuO, ZnO và
ZnO/CuO.
Sau khi nung, đường đẳng nhiệt hấp phụ - khử hấp phụ N2 của ZnO vẫn
thuộc loại I, trong khi các oxide khác thể hiện đường đẳng nhiệt loại IV với vòng trễ
H3 ở áp suất tương đối từ 0,5 đến 0,9, thể hiện sự tồn tại của vật liệu vi mao quản
(micropores) và mao quản trung bình (mesopores) [188], [199]. Trong quá trình
nhiệt phân, các hạt thường có khuynh hướng kết tụ lại với nhau dẫn đến diện tích bề
mặt của chúng giảm đáng kể. Trong trường hợp của ZnO/CuO thu được từ quá trình
nhiệt phân Zn-MOF-199, diện tích bề mặt giảm gần 17 lần, chỉ còn khoảng 32,5 m2/g. Tuy nhiên giá trị này tương đối cao hơn so với ZnO và CuO đơn pha; và cao
hơn lưỡng oxide ZnO/CuO được tổng hợp bằng phương pháp khác [146].
3.4.1.5. Phổ XPS
Phổ XPS được sử dụng để giải thích trạng thái oxy hóa và thành phần tương
đối của ZnO/CuO trong mẫu lưỡng oxide (Hình 3.40). Phổ khảo sát cho thấy sự
111
hiện diện của Zn, Cu và O mà không có bất kỳ tạp chất nào khác, ngoại trừ carbon
có đỉnh 1s (284 eV) được sử dụng để hiệu chỉnh phổ. Các pic có năng lượng liên kết
tại 933 eV và 952 eV cùng với các đỉnh lân cận đặc trưng cho năng lượng liên kết
CuOZnO Survey
CuOZnO Cu2p
2
4
x 10
x 10
25
Zn2p
của Cu2p3/2 và Cu2p1/2 (Hình 3.40b) [146].
(b)
70
(a)
20
Cu2p1/2 Sat.
Cu2p3/2
Cu2p
O1s
65
Cu2p1/2
C1s
15
Cu2p3/2
60
10
ộ đ y t i s g n n e ờ t n ư I C
ộ đ y t i s g n n e ờ t n ư I C
55
5
50
1200
900
300
0
600 Binding Energy (eV) Năng lượng liên kết / eV
970 965 960 955 950 945 940 935 930 925 Binding Energy (eV) Năng lượng liên kết / eV
CuOZnO Zn2p
2
x 10
120
115
(c)
Zn2p3/2
110
105
Zn2p1/2
100
95
90
85
ộ y đ t i s g n n e t ờ n ư I C
80
75
70
1055
1045
1035
1025 1015 Binding Energy (eV) Năng lượng liên kết / eV
Hình 3.40. Phổ XPS của mẫu ZnO/CuO: (a) phổ khảo sát; b) phổ Cu2p và c) phổ
Zn2p.
Không có pic nào liên quan đến Cu được tìm thấy trong phổ XPS, chứng tỏ
trong mẫu chỉ tồn tại pha CuO. Hình 3.40c cho thấy sự tồn tại của Zn2p3/2 và
Zn2p1/2 được thể hiện tại các pic có năng lượng liên kết tương ứng tại 1022 và 1045
eV [180]. Các kết quả trên khẳng định rằng lưỡng oxide ZnO/CuO được tạo thành
từ Zn(II), Cu(II) và O, kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả phân tích XRD.
112
Ngoài ra, tỷ lệ nguyên tử Cu/Zn được tính từ tỷ lệ diện tích pic của phổ XPS là
0,30, chứng tỏ một phần Cu(II) được tích hợp bên trong mẫu ZnO/CuO.
3.4.1.6. Phổ UV-Vis-DRS và năng lượng vùng cấm
Khả năng hấp thụ ánh sáng các mẫu ZnO, CuO và ZnO/CuO được nghiên
cứu bằng phương pháp đo phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại - khả kiến tại nhiệt độ
(a)
1.4
CuO
1.2
1.0
0.8
ZnO/CuO
g n a u q ô h
0.6
t
0.4
0.2
p Ê h é §
ZnO
0.0
200
300
700
800
400 500 600 Bíc sãng / nm
(b)
200
2
ZnO
)
150
100
CuO
m c / V e ( /
2
ZnO/CuO
1.94 eV
2.63 eV
50
ν) h α
(
3.19 eV
0
1
2
3
5
6
7
4 hν / eV
phòng và được trình bày ở Hình 3.41a.
Hình 3.41. a) Phổ phản xạ khuếch tán tử ngoại - khả kiến; b) Biểu đồ Tauc của
ZnO, CuO và ZnO/CuO.
Từ Hình 3.41a có thể thấy mẫu ZnO hấp phụ tốt ánh sáng ở vùng cực tím với
dải bước sóng trong khoảng 350-390 nm tương ứng với dải vùng cấm trong khoảng
3,5-3,2 eV, còn CuO có dải hấp thụ rộng ở vùng khả kiến. Hai dải không rõ ràng
113
nhưng có thể quan sát được đối với mẫu ZnO/CuO được gán cho các dải hấp thụ
đặc trưng của từng thành phần ZnO và CuO. Điều đáng chú ý là trong phổ hấp thụ
của nanocomposite ZnO/CuO, dải hấp thụ của thành phần CuO dịch chuyển sang
bước sóng ngắn và được tích hợp với dải hấp thụ của ZnO, nghĩa là các mặt phân
cách giữa hai chất bán dẫn của CuO loại p và ZnO loại n tiếp xúc chặt chẽ và các
mặt phân cách của chúng rất khớp nhau [89]. Biểu đồ Tauc đã được xây dựng để
tính độ rộng của vùng cấm [158] như được thể hiện ở Hình 3.41b. Giá trị Eg của
mẫu ZnO, CuO và ZnO/CuO tương ứng là 3,19 eV, 1,94 eV và 2,63 eV (trong các
công bố trước là 3,2 – 3,3 eV đối với ZnO [97], [184], 1,4 – 1,85 eV đối với CuO
[25], [184], [143]). Dải hấp thụ của mẫu ZnO/CuO dịch chuyển đáng kể về vùng
bước sóng dài hơn.
510,2 nm
7000
6000
CuO ZnO ZnO/CuO
5000
4000
3000
387,4 nm
510,2 nm
2000
s p c / é ® g n ê C
1000
0
388,6 nm
300
350
550
600
400 450 500 Bíc sãng / nm
3.4.1.7. Phổ huỳnh quang (PL)
Hình 3.42. Phổ huỳnh quang của CuO, ZnO and ZnO/CuO.
Hình 3.42 trình bày phổ huỳnh quang (PL) của các vật liệu thu được với
bước sóng kích thích 300 nm. Cường độ PL cực đại là 387,4 nm đối với CuO và
510,2 nm đối với ZnO. Tuy nhiên, cường độ PL của hỗn hợp ZnO/CuO yếu hơn
đáng kể so với cường độ của CuO và ZnO. Như đã biết, cường độ PL thấp có nghĩa
là sự tái kết hợp điện tử và lỗ trống thấp, ngược lại, cường độ PL cao sẽ làm tăng tỷ
lệ tái tổ hợp và giảm hoạt tính quang xúc tác. Những kết quả này chứng minh rằng
114
sự kết hợp ZnO và CuO đã làm giảm sự tái kết hợp của các điện tử quang và các lỗ
trống quang sinh, có thể làm tăng hoạt tính quang xúc tác của vật liệu.
3.4.1.8. Xác định điểm đẳng điện của vật liệu
Điểm đẳng điện là một đặc trưng quan trọng của tính chất bề mặt vật liệu và
liên quan mật thiết đến tính chất hấp phụ. Khi vật liệu rắn phân tán trong môi
trường nước có pH thấp hơn pH đẳng điện, bề mặt vật liệu tích điện dương do sự hấp phụ ion H+ trong dung dịch nước, dẫn đến biến thiên ∆pH trong dung dịch
dương. Trong khi đó, nếu vật liệu hấp phụ ở trong môi trường có pH lớn hơn pH đẳng điện của nó, bề mặt vật liệu sẽ tích điện âm do sự hấp phụ ion OH- lên bề mặt
và dẫn đến sự biến thiên ∆pH trong dung dịch âm. Như vậy, pH mà tại đó sự biến
thiên ∆pH = 0 chính là pH đẳng điện (kí hiệu là pHPZC). Quá trình xác định pH đẳng
điện có thể thực hiện trong môi trường trung tính hay bất kỳ một môi trường điện ly
trung tính nào [5].
Trong luận án này, dung dịch KCl 0,1 M được sử dụng để làm môi trường
xác định điểm đẳng điện của vật liệu ZnO/CuO. Kết quả biểu diễn sự phụ thuộc của
5
4
3
2
1
pHpzc = 7.9
H p ∆
0
2
4
6
8
10
12
-1
pH
-2
-3
∆pH vào pH đầu (pHi) của vật liệu ZnO/CuO được trình bày trong Hình 3.43.
Hình 3.43. Đường biểu diễn điểm đẳng điện của vật liệu ZnO/CuO trong dung dịch KCl.
Từ Hình 3.43 cho thấy, điểm đẳng điện của vật liệu ZnO/CuO có giá trị 7,9.
115
3.4.2. Xác định khả năng xúc tác quang hóa của vật liệu
3.4.2.1. So sánh khả năng xúc tác của vật liệu bán dẫn p-n ZnO/CuO với các vật
liệu khác
Khả năng xúc tác quang hóa của các MOF: MOF-199, Zn-BTC và Zn-MOF-
199 cũng như các oxide được tổng hợp từ các MOF trên: CuO, ZnO và ZnO/CuO
được khảo sát trong vùng ánh sáng cực tím (UV) và khả kiến (Vis). Kết quả khảo
sát được thể hiện ở Hình 3.44.
(a)
100
ChiÕu s¸ng UV/Vis
HÊp phô trong tèi
%
/
80
60
40
i
20
B M á b i ¹ o l t Ê u s u Ö H
Zn/Cu-BTC (Vis) Cu-BTC (Vis) Zn-BTC (Vis)
Zn/Cu-BTC (UV) Cu-BTC (UV) Zn-BTC (UV)
0
00
60
120120 180 240240 300 360360 420 480480 540
Thêi gian / phót
(b)
ChiÕu s¸ng UV/Vis
i
100
%
/
80
60
B M á b i
è t g n o r t ô h p p Ê H
¹ o
l t
40
ZnO/CuO (Vis) CuO (Vis) ZnO (Vis) ZnO/CuO (UV) CuO (UV) ZnO (UV)
Ê u s
20
i
u Ö H
0
00
60
120120 180 240240 300 360360 420 480480 540
Thêi gian / phót
Hình 3.44. Sự phân hủy MB bởi các chất xúc tác khác nhau dưới ánh UV và Vis.
(Điều kiện: V = 500 mL; mcatalyst: 400 mg; nồng độ MB: 10 mg/L)
116
Hình 3.44a thể hiện khả năng khử màu MB của các vật liệu khung cơ kim
Zn-BTC, MOF-199 và Zn-MOF-199. Như quan sát được ở hình, các mẫu vật liệu
khung cơ kim đều thể hiện khả năng hấp phụ cao đối với MB và quá trình hấp phụ
đạt cân bằng sau 60 phút. Mẫu Zn-MOF-199 có hiệu suất hấp phụ cao nhất khoảng
69%, sau đó là MOF-199 khoảng 66% và Zn-BTC khoảng 22%. Thứ tự này phù
hợp với các giá trị diện tích bề mặt của các mẫu vật liệu. Đối với mẫu MOF-199,
hiệu suất loại màu MB giảm 41-50% sau 60 phút chiếu sáng chứng tỏ MOF-199
loại bỏ MB chủ yếu bằng cơ chế hấp phụ chứ không phải bằng xúc tác quang hóa.
Mẫu Zn-BTC thể hiện tính quang xúc tác yếu trong cả vùng khả kiến và tử ngoại,
hiệu suất loại màu chỉ có ~ 50% sau 420 phút chiếu sáng UV và 38% sau 420 phút
chiếu ánh sáng khả kiến. Điều này có thể là do diện tích bề mặt rất thấp làm giảm số
lượng các tâm hấp phụ và tâm xúc tác. Trong khi đó, tất cả các mẫu oxide có hiệu
suất hấp phụ khá thấp chỉ khoảng 5-20% (Hình 3.44b). Điều này có thể giải thích là
do diện tích bề mặt của các mẫu oxide giảm đáng kể và các tâm hấp phụ bị loại bỏ
nhiều trong quá trình thiêu kết các vật liệu BTC. Dưới sự chiếu sáng, một số các
oxide thể hiện tính xúc tác. CuO không có tính xúc tác phân hủy MB, còn ZnO và
ZnO/CuO thể hiện tính xúc tác tốt cả trong ánh sáng tử ngoại và khả kiến, trong đó,
hiệu suất loại bỏ MB của ZnO trong vùng tử ngoại tốt hơn trong vùng khả kiến. Quá
trình phân hủy MB của mẫu ZnO/CuO trong vùng khả kiến diễn ra hoàn toàn sau
120 phút chiếu ánh sáng. Điều này cho thấy rằng tích hợp p-CuO và n-ZnO ở kích
thước nano làm gia tăng đáng kể hoạt tính xúc tác trong vùng ánh sáng khả kiến của
vật liệu.
3.4.2.2. Khảo sát sự phân hủy MB bởi ZnO/CuO và sự ảnh hưởng pH
Phổ tử ngoại - khả kiến của dung dịch MB trong quá trình xúc tác được thể
hiện ở Hình 3.45a. Dải hấp thụ tại bước sóng 292 nm đặc trưng cho vòng thơm
benzene và dải hấp thụ tại 664 đặc trưng cho hệ liên hợp kéo dài giữa các vòng
thơm trong phân tử MB. Cường độ của các dải hấp thụ giảm theo thời gian chiếu
sáng và hoàn toàn biến mất sau 90 phút chiếu sáng. Sự mất màu của dung dịch MB
trong quá trình xúc tác có thể là do sự phá hủy cấu trúc liên hợp trong phân tử MB.
117
(a)
1.8
1.6
1.4
1.2
1.0
0.8
0.6
0.4
Ban ®Çu Sau 60 phót hÊp phô 10 phót 20 phót 30 phót 40 phót 50 phót 60 phót 70 phót 80 phót 90 phót
0.2
g n a u q ô h t p Ê h é §
0.0
-0.2
200
300
700
800
400 500 600 Bíc sãng / nm
(b)
7
6
5
4
1 - L . g m
/
3
C O T
2
1
0
0
90
45 Thêi gian / phót
Hình 3.45. a) Phổ hấp thụ UV-Vis của dung dịch MB tại các thời điểm khác nhau
và b) TOC của dung dịch MB trong quá trình quang xúc tác.
(V: 500 mL; Co: 10 mg/L; m= 400 mg; thời gian hấp phụ = 60 phút)
Chỉ số TOC của dung dịch MB trong quá trình quang xúc tác được kiểm tra
để chứng minh sự phân hủy MB bởi quang xúc tác. Kết quả xác định TOC (Hình
3.45b) đã chứng minh được sự khoáng hóa của MB trong quá trình phân hủy quang xúc tác. TOC của dung dịch MB giảm đáng kể từ 6,35 mg·L-1 cho dung dịch ban đầu xuống 0,72 mg·L-1 sau 90 phút chiếu sáng, một lần nữa khẳng định sự khoáng
hóa gần như hoàn toàn của MB trên vật liệu ZnO/CuO.
118
Để chứng minh sự giảm nồng độ của MB trong dung dịch là do vật liệu xúc
tác gây ra, sau 30 phút của phản ứng xúc tác, vật liệu được lọc tách ra khỏi dung
dịch và tiếp tục chiếu sáng quan sát sự thay đổi nồng độ của MB. Kết quả ở Hình
3.46 cho thấy, quá trình khử MB hầu như dừng lại khi tách vật liệu ZnO/CuO ra
khỏi dung dịch MB, mặc dù ánh sáng vẫn được duy trì. Ngoài ra, nồng độ MB hầu
như không thay đổi trong suốt 70 phút chiếu sáng mà không có sự tham gia của chất
xúc tác, chứng tỏ MB bền đối với ánh sáng khả kiến. Kết quả trên chứng tỏ rằng
1.2
Trong bãng tèi
ChiÕu s¸ng (Vis)
1.0
0.8
ZnO/CuO hoạt động như một chất xúc tác dị thể trong quá trình phân hủy MB.
o C
Lo¹i bá vËt liÖu sau 30 phót chiÕu s¸ng
/
0.6
C
0.4
0.2
Cã vËt liÖu VËt liÖu bÞ lo¹i bá Kh«ng cã vËt liÖu
0.0
0
20
40
60
80
100
120
140
Thêi gian / phót
Hình 3.46. Sự ảnh hưởng của vật liệu ZnO/CuO đến quá trình loại bỏ MB.
(V: 500 mL; Co: 10 mg/L; m= 400 mg; thời gian hấp phụ = 60 phút)
Kết quả khảo sát sự ảnh hưởng của pH đến khả năng loại bỏ MB của vật liệu
ZnO/CuO được thể hiển ở Hình 3.47.
119
100
%
80
/
B M
60
i ¹ o
40
20
l t Ê u s u Ö i H
0
2
3
4
5
6
8
9
10 11 12
7 pH
Hình 3.47. Sự ảnh hưởng của pH đến quá trình quang xúc tác của ZnO/CuO.
(V: 500 mL; Co: 10 mg/L; m= 400 mg; thời gian hấp phụ = 60 phút)
Theo kết quả khảo sát ở trên, điểm đẳng điện (pHpzc) của mẫu ZnO/CuO
được xác định bằng phương pháp trôi pH [104] có giá trị khoảng 7,9. Tại pH thấp
hơn 7,9 bề mặt của ZnO/CuO tích điện dương và có khuynh hướng đẩy các cation
MB thông qua lực đẩy tĩnh điện. Khi pH tăng từ 2 đến 7, điện tích dương trên bề
mặt giảm dần, từ đó tăng dần hiệu quả xử lý MB. Khi pH lớn hơn 7,9 bề mặt của
mẫu ZnO/CuO tích điện âm, khi đó cation MB sẽ dễ dàng tiến đến bề mặt của chất
xúc tác nhờ lực hút tĩnh điện. Như vậy, khi pH lớn hơn pHpzc sẽ thuận lợi cho quá
trình xúc tác phân hủy MB.
3.4.3. Cơ chế của quá trình xúc tác quang hóa
Để xác định gốc tự do nào được sinh ra và đóng vai trò chính trong quá trình
phân hủy MB, thí nghiệm ảnh hưởng của các chất thu nhận (kìm hãm) gốc tự do
được tiến hành. Ba chất thu nhận gốc tự do phổ biến đã được sử dụng trong thí
nghiệm này, trong đó KI dùng để kìm hãm hoạt động của lỗ trống, isopropanol •-. Kết quả thể hiện ở Hình 3.48 dùng để thu gốc •OH và benzoquinone thu gốc O2
cho thấy việc thêm isopropanol đã làm cho hoạt tính xúc tác phân hủy MB của
ZnO/CuO giảm nhẹ, trong khi đó sự có mặt của KI trong dung dịch làm cho sự
phân hủy MB dường như bị dập tắt. Benzoquinone cũng có hiệu ứng tương tự nhưng
120
sự giảm hoạt tính xúc tác ở mức độ khoảng 50%. Kết quả trên chứng tỏ rằng các lỗ
HÊp phô trong bãng tèi
ChiÕu s¸ng (Vis)
1.0
0.8
o
0.6
C
/
C
0.4
0.2
MÉu ®èi chøng KI Benzoquinone Isopropanol
0.0
0
20
40
60
80
100
120
Thêi gian / phót
trống và gốc superoxide O2•- đóng vai trò chính trong quá trình phân hủy MB.
Hình 3.48. Ảnh hưởng của chất kìm hãm gốc tự do (KI, isopropanol, và
benzoquinone) lên quá trình phân hủy MB của ZnO/CuO.
(V: 100 mL; Co: 10 mg/L; m = 80 mg; thời gian hấp phụ: 60 phút ; 1 mL dung dịch
chất kìm hãm 0.024M)
Hai cơ chế có thể sử dụng để giải thích cho quá trình quang xúc tác của các
oxide lưỡng kim ZnO/CuO ở vùng ánh sáng khả kiến. Thứ nhất, sự thay thế Cu vào
mạng ZnO dẫn đến sự hình thành các oxide hỗn hợp. Do đó hình thành các dải năng
lượng trung gian Cu3d nằm giữa dải dẫn (CB) và dải hóa trị (VB) của ZnO. Ánh
sáng nhìn thấy có thể kích thích các electron từ dải VB của ZnO đến mức Cu3d hoặc từ mức Cu3d đến CB để tạo thành các cặp electron/lỗ trống (e-/h+). Mặc dù bán kính ion của Zn2+ (0,74 Å) và Cu2+ (0,73 Å) khá giống nhau, nhưng sự hình
thành các oxide hỗn hợp như vậy là không thể vì cấu trúc tinh thể của ZnO (lục
giác) và CuO (đơn tà) khác nhau. Do đó, chúng chỉ tiếp xúc ở cấp độ nano để tạo
thành các cấu trúc dị thể, vì vậy cơ chế ghép bán dẫn có thể được sử dụng để giải
thích hoạt tính quang xúc tác trong vùng ánh sáng khả kiến trong trường hợp này.
121
Vị trí dải dẫn của CuO và ZnO lần lượt là -0,43 eV và -0,15 eV (so với
NHE) [40], [70] và giá trị vùng cấm của CuO và ZnO tương ứng là 1,94 eV và 3,19
eV (như được xác định ở trên) nên vị trí của dải hóa trị sẽ là 1,51 eV đối với CuO
và 3,04 eV đối với ZnO. Do sự hấp thụ ánh sáng mạnh của CuO trong vùng ánh
sáng khả kiến, các electron trong CuO nhận năng lượng và bị kích thích bứt khỏi vùng hóa trị di chuyển đến vùng dẫn từ đó tạo cặp e-/h+. Do CuO có vị trí vùng dẫn
âm hơn ZnO nên khi được tạo ra, các electron sẽ di chuyển từ vùng dẫn của CuO sang vùng dẫn của ZnO, vì thế tránh được sự tái tổ hợp nhanh chóng của các cặp e- và h+ (pt. 3.20, 3.21). Mặt khác, các phân tử MB ở trạng thái cơ bản có mức năng
lượng 1,17 eV có thể bị kích thích bằng ánh sáng khả kiến và trở thành trạng thái kích thích MB* có mức năng lượng -0,69 eV [148], [152] (pt. 3.22). Mức năng lượng của MB* âm hơn vùng dẫn của CuO và ZnO [148], [152] nên e- trong MB* có
thể chuyển sang vùng dẫn của CuO và ZnO. Vì vậy, MB có thể đóng vai trò là chất nhạy quang cung cấp bổ sung các e- vào vùng dẫn của CuO và ZnO (pt. 3.23, 3.24).
(O2/O2
Thế của vùng hóa trị của CuO (1,51 eV) dương hơn so với MB (1,17 eV), do đó các lỗ trống h+ có thể oxy hóa MB để tạo thành các sản phẩm phân hủy (pt. 3.25). Mặt khác, do vị trí biên của vùng dẫn của CuO (-0,43 eV) âm hơn thế tiêu chuẩn Eo • ) (-0,33 eV) [64], nên các electron trên vùng dẫn của CuO có thể phản ứng • (pt. 3.26) và các gốc superoxide này có thể dễ dàng với O2 tạo ra gốc superoxide O2 oxy hóa MB để tạo thành các sản phẩm phân hủy (pt. 3.27). Về nguyên tắc, h+ (1,51
eV) không thể oxy hóa H2O (E (H2O/•OH) = 2,6 eV), nhưng kết quả thực nghiệm
vẫn chỉ ra vai trò của •OH trong quá trình oxy hóa MB như Hình 3.48 là không
đáng kể. Điều này có thể do sự sai lệch giữa lý thuyết tính toán và thực nghiệm.
(3.20) ZnO/CuO + hv → ZnO/CuO(h+ + e-)
(3.21) ZnO/CuO(e-/CB) → (e-/CB)ZnO/CuO
(3.22) MB + hv → MB*
(3.23) MB* → e- + MB*+
(3.24) MB*+ → MB + h+
(3.25) CuO(h+) + MB → sản phẩm phân hủy
122
•- + CuO
(3.26) CuO(e-/CB) + O2 → O2
•- + MB → sản phẩm phân hủy
(3.27) O2
Sơ đồ minh họa đường di chuyển của các hạt mang điện được tạo ra dưới ánh
sáng khả kiến được thể hiện ở Hình 3.49.
Sản phẩm phân hủy Ánh sáng khả kiến
E H N
.-
/
O2
MB
V e
O2
e-
MB* LUMO
e- e- e-
.-
CB (CuO)
O2/O2
e- e- e-
CB (ZnO)
-1.00 -0.69 -0.43 -0.33 -0.15 0.00
1.94
3.19 HOMO MB
1.00 1.17 1.51
h+ h+ h+ VB (CuO)
2.00
2.60
. OH
H2O/
MB
3.04
VB (ZnO)
Sản phẩm phân hủy
4.00
Hình 3.49. Sơ đồ minh họa đường di chuyển của các hạt mang điện trên các vùng
hóa trị và dẫn của vật liệu bán dẫn ghép ZnO/CuO trong quá trình quang xúc tác.
3.4.4. Động học của quá trình quang xúc tác phân hủy MB
Động học của sự hấp phụ và phân hủy quang xúc tác được thể hiện ở Hình
3.50a. Như quan sát ở hình, quá trình hấp phụ trong tối của vật liệu đối với dung
dịch MB có nồng độ từ 5 đến 30 mg/L đạt bão hòa ở khoảng 60 phút.
123
(a)
Trong bãng tèi
30
ChiÕu s¸ng (Vis)
25
20
15
m p p /
C
10
5ppm 10ppm 15ppm 20ppm 25ppm 30ppm
5
0
0
100
300
400
500
200 Thêi gian / phót
(b)
100
80
60
5 ppm 10 ppm 15 ppm 20 ppm 25 ppm 30 ppm
40
/
20
C + L K C n
l
0
50
100
150
200
250
300
350
-20
Thêi gian / phót
Hình 3.50. Động học của quá trình hấp phụ và quang xúc tác phân hủy MB của
ZnO/CuO.
(Điều kiện: V= 500 mL, nồng độ MB: 5 - 30 mg/L, m= 400 mg, T= 35oC)
124
Từ kết quả thực nghiệm và phương trình 2.25 xác định được Ce và qe. Biến
đổi phương trình 2.26 thu được phương trình:
(3.9) 1/qe = 1/(qm.KLCe) + 1/qm
Xây dựng đồ thị tuyến tính của 1/qe và 1/Ce theo phương trình 3.9, xác định
được dung lượng hấp phụ đơn lớp cực đại qm và hằng số Langmuir KL lần lượt là
1,63 mg/g và 0,047 L/mg.
Thay các giá trị nhận được vào phương trình 2.29 thu được phương trình 3.10:
1
1
0.047 · ln 𝐶 + 𝐶 = −𝑘r · 𝑡 +
0.047 · ln 𝐶e + 𝐶e
(3.10)
Giá trị kr có thể xác định được từ hệ số góc của đồ thị tuyến tính biễu diễn sự
) theo t (Hình 3.50b) và kết quả tính được được trình
1 𝐾𝐿 · ln 𝐶 + 𝐶
phụ thuộc của (
bày ở Bảng 3.9. Bảng 3.9. Hệ số xác định (R2) và hằng số tốc độ biểu kiến (kr) của mô hình đề xuất ở dạng tuyến tính và mô hình bậc nhất biểu kiến
Mô hình đề xuất Mô hình bậc nhất biểu kiến
Nồng độ MB R2 R2
kr (mg·L–1·min–1) kr (min–1) ban đầu C0 (mg·L–1)
0,9186 5 0,8303 0,0721 1,1138
0,9681 10 0,8832 0,0532 1,0219
0,9782 15 0,9146 0,0447 0,8909
0,9877 20 0,8816 0,0367 0,5629
0,9875 25 0,9630 0,0179 0,4417
0,9857 30 0,9330 0,0132 0,3213
Hệ số xác định R2 của mô hình đề xuất ở dạng tuyến tính thu được khá cao,
nằm trong khoảng 0,92 – 0,99 (Bảng 3.9) cho thấy mô hình đề xuất khá phù hợp để
mô tả động học của quá trình xúc tác phân hủy MB của ZnO/CuO. Bên cạnh đó, từ
Bảng 3.9 có thể thấy giá trị của hằng số tốc độ kr có khuynh hướng giảm khi tăng
125
nồng độ MB. Điều này có thể là do nồng độ cao của MB sẽ cản ánh sáng tiếp xúc với vật liệu, khi đó các cặp e-/h+ sẽ được tạo ra ít hơn dẫn đến giảm tốc độ xúc tác.
Mô hình động học cổ điển (mô hình động học bậc nhất biểu kiến) ở dạng
tuyến tính như phương trình 2.22 được sử dụng để phân tích dữ liệu động học để so sánh sự phù hợp của mô hình. Các giá trị R2 và kr theo mô hình động học cổ điển đã
được tính toán để so sánh với mô hình đề xuất và trình bày ở Bảng 3.9. Sự so sánh
hai mô hình bằng cách kiểm định cặp t với α = 0,05 cho thấy mô hình đề xuất cung
cấp hệ số xác định cao hơn về mặt thống kê so với mô hình động học bậc nhất biểu
kiến (t(4) = 5,899, p-value = 0,002 (<0,05)), chứng tỏ rằng mô hình đề xuất phù hợp
với dữ liệu, chính xác hơn mô hình động học cổ điển.
Rất khó để so sánh hoạt tính xúc tác của hỗn hợp ZnO/CuO hiện tại với hoạt
tính của các chất xúc tác khác đã được báo cáo trước đây do các nguồn ánh sáng
khác nhau (UV hoặc Vis), nồng độ ban đầu của chất phản ứng, lượng chất xúc tác,
thể tích phản ứng,... Hằng số tốc độ bậc nhất biểu kiến đưa ra là thích hợp bởi vì
một số tác giả công bố hoạt tính xúc tác trong giới hạn của giá trị này (Bảng 3.10).
Giá trị của hằng số tốc độ bậc nhất biểu kiến cho sự phân hủy MB trên chất xúc tác
hiện tại trong vùng khả kiến thấp hơn đối với graphene-like carbon/TiO2 [171] và
ZnO/graphene oxide [45] trong vùng UV và tương đương với P25 thương mại [41],
nhưng cao hơn đối với các chất xúc tác khác đã được công bố như Ta-ZnO [75], g-
C3N4/CdS [67] và Ce-TiO2 [41].
126
Bảng 3.10. So sánh hằng số tốc độ bậc nhất biểu kiến (kr) của chất xúc tác ZnO/CuO tổng hợp với các chất xúc tác khác
Nguồn sáng Tài liệu Co (mg·L–1)/ V SBET Chất xúc tác (nm, công tham (mL)/ mxúc tác kr (min–1) (m2·g–1) suất) (mg) khảo
ZnO 8.21 UV, 20 W 10/100/50 0.022 [45]
ZnO/graphene 31.58 UV,20W 10/100/50 0.098 [45] oxide
Prinstine TiO2 – 254, 11 W 10/100/50 0.009 [171] (P25)
Graphene-like – 254, 11 W 10/100/50 0.248 [171] carbon/TiO2
Prinstine TiO2 51 ≤370, 18 W 9.6/100/50 0.043 [41] (P25)
46 370, 18 W 9.60/100/50 0.020 [41] Sm-TiO2
46 370, 18 W 9.60/100/50 0.024 [41] Ce-TiO2
50 340, 125W 23/2750/375 0.025 [58] TiO2
CdS 111.2 >420, 500w 25/200/80 0.0079 [67]
9.8 >420, 500w 25/200/80 0.0039 [67] g-C3N4
[67] 166.5 >420, 500w 25/200/80 0.0121 g-C3N4- CdS
Ag/ZnO – >570, (*) 5/–/150 0.006 [174]
Ta-ZnO 36 >420, 300 10/50/50 0.0401 [75]
66 >420, 160 10/100/80 0.0341 [132] CeO2-TiO2
Nghiên ZnO/CuO 33 >420; 160 10/500/400 0.0532 cứu này
(*): đèn sodium áp suất cao
127
3.4.5. Khảo sát khả năng tái sử dụng của vật liệu
Khả năng tái sử dụng là một yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng ứng
dụng trong thực tế của vật liệu xúc tác dị thể. Sau khi sử dụng, ZnO/CuO được tách
khỏi dung dịch bằng ly tâm, rửa sạch với nước và với rượu để loại bỏ MB. Sau đó, vật liệu được sấy ở 120 oC trong 15 giờ và được sử dụng ở những lần xúc tác tiếp
theo. Kết quả thể hiện ở Hình 3.51.
(a)
100
%
80
/
60
B M á b
i
¹ o
40
20
l t Ê u s u Ö i H
0
Ban ®Çu LÇn 1 LÇn 2 LÇn 2 Sè lÇn t¸i sö dông
(b)
1000 cps
LÇn 3
LÇn 2
s p c /
LÇn 1
é ® g n ê C
Ban ®Çu
20
30
70
80
40
60
50 2 Theta / ®é
Hình 3.51. a) Hiệu suất phân hủy MB của ZnO/CuO qua nhiều lần tái sử dụng;
b) Giản đồ XRD của ZnO/CuO sau 4 lần sử dụng.
(V = 1000 mL, Co: 10 mg/L, m: 800 mg; thời gian hấp phụ: 60 phút; thời gian
chiếu sáng: 80 phút)
128
Ở Hình 3.51a, ta có thể thấy hiệu suất phân hủy MB của ZnO/CuO chỉ giảm
nhẹ từ 100% xuống còn 97,2% sau 3 lần tái sử dụng. Giản đồ XRD của mẫu
ZnO/CuO hầu như không thay đổi sau 4 lần sử dụng, chứng tỏ vật liệu có độ bền
cao trong quá trình sử dụng.
3.4.6. Khả năng xúc tác của vật liệu đối với một số chất màu khác
Ngoài chất màu điển hình MB (chất màu cation), chúng tôi cũng tiến hành
khảo sát hoạt tính xúc tác của ZnO/CuO đối với phenol và một số chất màu anion
bao gồm methyl orange, phenol red và Congo red trong vùng ánh sáng khả kiến.
ChiÕu s¸ng (Vis)
Trong bãng tèi
1.0
0.8
0.6
o
/
C C
0.4
0.2
ZnO/CuO (Phenol) CuO (phenol red) ZnO/CuO (phenol red) ZnO (phenol red) CuO (methyl orange) ZnO/CuO (methyl orange) ZnO (methyl orange) CuO (congo red) ZnO/CuO (congo red) ZnO (congo red)
0.0
0
60
120 180 240 300 360 420 480 540 600
Thêi gian / phót
Kết quả được trình bày ở Hình 3.52.
Hình 3.52. Khả năng quang xúc tác của ZnO, CuO và ZnO/CuO đối với một số
chất màu và phenol.
(Điều kiện: nồng độ chất màu: 10 mg/L; V: 500 mL; m: 400 mg; thời gian chiếu
sáng: 540 phút)
Kết quả ở Hình 3.52 cho thấy rằng ZnO/CuO thể hiện khả năng quang xúc
tác cao đối với phenol và các chất màu khảo sát, và tốt hơn nhiều so với ZnO hoặc
CuO. Như vậy, ZnO/CuO có khả năng quang xúc tác nhiều chất màu hữu cơ thuộc
129
các loại chất màu cation, anion, cũng như quang xúc tác phenol là hợp chất khó bị
phân hủy. Do đó, có thể khẳng định rằng vật liệu lưỡng oxide ZnO/CuO có thể là
chất xúc tác tiềm năng để xử lý các chất hữu cơ ô nhiễm trong dung dịch nước.
TIỂU KẾT 4
Đã tổng hợp thành công lưỡng oxide n-p ZnO/CuO bằng phương pháp phân
hủy nhiệt từ vật liệu khung cơ kim trên cơ sở Zn-MOF-199. Lưỡng oxide ZnO/CuO có hình bát diện kích thước khoảng 50 nm, diện tích bề mặt khoảng 32,5 m2/g, giá
trị năng lượng vùng cấm Eg = 2,63 eV, hấp thụ tốt ánh sáng khả kiến.
ZnO/CuO thể hiện hoạt tính xúc tác đối với các chất màu khác nhau tốt hơn
so với CuO và ZnO ở vùng khả kiến. Ở môi trường kiềm hoạt tính xúc tác quang
hóa của ZnO/CuO tốt hơn trong môi trường acid. Kết quả nghiên cứu động học xúc
tác cho thấy động học của quá trình phân hủy MB bằng ZnO/CuO phù hợp với mô
hình được lần đầu tiên đề xuất trong nghiên cứu này. ZnO/CuO có thể sử dụng như
một vật liệu quang xúc tác trong thực tế để xử lý các hợp chất hữu cơ trong nước thải
công nghiệp nhờ có hoạt tính xúc tác cao, độ ổn định và khả năng tái sử dụng cao.
130
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi có những kết luận như sau:
1. Đã tổng hợp được vật liệu MOF-199 theo hai phương pháp là phương pháp dung
nhiệt và phương pháp vi sóng. Phương pháp vi sóng có ưu thế cho hiệu suất cao,
giảm thời gian tổng hợp và diện tích bề mặt của vật liệu cao hơn so với phương
pháp dung nhiệt truyền thống. MOF-199 điều chế theo hai phương pháp này đều có
độ kết tinh cao, hình thái bao gồm các tinh thể bát diện có góc cạnh rõ ràng.
2. MOF-199 được ứng dụng như chất biến tính điện cực GCE và điện cực này thể
hiện hoạt tính xúc tác điện hóa tốt cho quá trình oxi hóa paracetamol và caffeine.
Hoạt tính cảm biến điện hóa cao của MOF-199/Naf-GCE đối với paracetamol và
caffeine được cho là do sự kết hợp các tính chất lai hữu cơ-vô cơ của MOF-199 bao
gồm khả năng hấp phụ cao, diện tích bề mặt lớn. Điện cực biến tính bằng MOF-199 làm tăng độ nhạy phát hiện với giới hạn phát hiện thấp (1,3×10−6 M đối với paracetamol và 1,2x10-6 M đối với caffeine). Phương pháp này đã được dùng để xác
định paracetamol và caffeine trong mẫu thuốc với độ thu hồi chấp nhận được từ
96% đến 107% đối với paracetamol và 95% đến 108% đối với caffeine. Kết quả này
cũng tương đồng với kết quả phân tích bằng HPLC.
3. Đã tổng hợp được vật liệu NH2-MOF-199 bằng cách biến tính MOF-199 với hợp
chất 2-aminobenzene-1,4-dicarboxylic bằng phương pháp gián tiếp (có sự tăng
cường Cu(II) lên bề mặt vật liệu). Vật liệu NH2-MOF-199 tạo thành có hợp chất
amine bám lên bề mặt vật liệu, không làm thay đổi cấu trúc của vật liệu MOF-199 ban đầu và có diện tích bề mặt 822 m2/g. Điện cực biến tính bằng NH2-MOF-199 có
tiềm năng xác định đồng thời các kim loại nặng là Pb(II), Cd(II) và các aicd hữu cơ
là uric acid, ascorbic acid.
4. Đã tổng hợp được vật liệu Zn-MOF-199 bằng cách biến tính MOF-199 bằng
muối Zn(II) theo phương pháp trực tiếp. Vật liệu Zn-MOF-199 thu được có sự phân
bố đều các hạt nano Zn-BTC vào tinh thể MOF-199, vẫn giữ nguyên cấu trúc và
hình dạng bát diện của MOF-199 ban đầu, có kích thước hạt khoảng 10 µm, diện
131
tích bề mặt 844,4 m2/g. Trạng thái oxy hóa của Cu và Zn trong vật liệu là Cu(II) và
Zn(II). Vật liệu Zn-MOF-199 có hoạt tính xúc tác cao đối với phản ứng acetal hóa
benzaldehyde bằng methanol, và hoạt tính cao hơn MOF-199 ban đầu. Zn-MOF-199
đóng vai trò là chất xúc tác dị thể và vật liệu có sự ổn định cao về hoạt tính xúc tác.
5. Đã tổng hợp thành công lưỡng oxide n-p ZnO/CuO bằng phương pháp phân hủy
nhiệt từ vật liệu khung cơ kim trên cơ sở Zn-MOF-199. Lưỡng oxide ZnO/CuO có cấu trúc nano đa chiều, diện tích bề mặt 32,5 m2/g, hấp thụ tốt ánh sáng khả kiến.
ZnO/CuO thể hiện hoạt tính xúc tác quang đối với các chất màu khác nhau tốt hơn
so với CuO và ZnO ở vùng khả kiến. Kết quả nghiên cứu động học xúc tác cho thấy
động học của quá trình phân hủy MB bằng ZnO/CuO phù hợp với mô hình được lần
đầu tiên đề xuất trong nghiên cứu này. ZnO/CuO có thể sử dụng như một vật liệu
quang xúc tác trong thực tế để xử lý các hợp chất hữu cơ trong nước thải công
nghiệp nhờ có hoạt tính xúc tác cao, độ ổn định và khả năng tái sử dụng cao.
132
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
I. Tạp chí trong nước
1. Tran Thanh Minh, Tran Vinh Thien (2017), Synthesis of metal-organic
framework-199: comparison of microwave process and solvothermal process, Hue
University Journal of Science: Natural Science, Vol. 126, No. 2B, 2017, Tr. 107–116.
2. Trần Thanh Minh, Trần Thị Văn Thi, Nguyễn Hải Phong, Đinh Quang Khiếu
(2017), Nghiên cứu tổng hợp nano oxide ZnO-CuO bằng sự phân hủy nhiệt Zn/Cu-
BTC và hoạt tính quang hóa, Tạp chí Hóa học, Tập 55, số 4E23, Tr. 92-98.
3. Trần Thanh Minh, Hoàng Văn Đức, Nguyễn Hải Phong, Phan Thế Bình, Đinh
Quang Khiếu (2017), Nghiên cứu tổng hợp vật liệu NH2-MOF-199 bằng phương pháp
dung nhiệt với sự hỗ trợ vi sóng, Tạp chí Hóa học, Tập 55, số 4E23, Tr. 184-190.
4. Tran Thanh Minh, Nguyen Hai Phong, Tran Thanh Tam Toan and Dinh Quang
Khieu (2017), Amino-functionalized metal-organic framework-199: synthesis and
application as an electrode modifier, Proceedings of IWNA, Phan Thiet, Vietnam,
pp. 595-600.
5. Phạm Thị Thuận, Nguyễn Thị Hải Ngọc, Trần Thiên Trí, Lương Văn Tri, Trần
Thanh Minh (2019), Tổng hợp lưỡng oxide ZnO/CuO và ứng dụng làm xúc tác
quang hóa (2019), Tạp chí KH&CN của Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế,
Tập 14, số 2, Tr. 31-45.
II. Tạp chí quốc tế
6. Tran Thanh Minh, Nguyen Hai Phong, Hoang Van Duc, and Dinh Quang
Khieu (2018), Microwave synthesis and voltammetric simultaneous determination
of paracetamol and caffeine using an MOF-199-based electrode, Journal of
Materials Science, Vol. 53, No.4, pp. 2453-2471. (SCIE, IF = 3,6; Q1)
7. Tran Thanh Minh, Nguyen Thi Thanh Tu, Tran Thi Van Thi, Le Thi Hoa,
Hoang Thai Long, Nguyen Hai Phong, Thong Le Minh Pham, and Dinh Quang
Khieu (2019), Synthesis of Porous Octahedral ZnO/CuO Composites from Zn/Cu-
Based MOF-199 and Their Applications in Visible-Light-Driven Photocatalytic
Degradation of Dyes, Journal of Nanomaterials, Volume 2019, Article ID 5198045,
16 pages. (SCIE, IF = 1,9; Q2)
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
[1]. Tạ Ngọc Đôn, Lê Văn Dương, Tạ Ngọc Hùng, Trần Thị Hà, Hoàng Văn Minh, Nguyễn Hữu Học, Phạm Văn Vương, Nguyễn Thị Thương (2015), "Nghiên cứu tổng hợp trực tiếp vật liệu cấu trúc hữu cơ – kim loại (HKUST- 1)", Tạp chí Xúc tác và Hấp phụ, 4 (2), tr. 25-32. [2]. Đinh Quang Khiếu (2015), Một số phương pháp phân tích hóa lý, Nxb Đại học Huế. [3]. Phạm Ngọc Nguyên (2004), Giáo trình kỹ thuật phân tích vật lý, Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [4]. Nguyễn Hữu Phú (1998), Hấp phụ và xúc tác trên bề mặt vật liệu vô cơ mao quản, Hà Nội, NXB Khoa học và Kĩ thuật
[5]. Trần Thị Thu Phương (2015), "Nghiên cứu biến tính vật liệu SBA-15 làm chất hấp phụ và xúc tác quang phân hủy một số hợp chất hữu cơ ô nhiễm trong môi trường nước", Luận án tiến sĩ, ĐH Khoa học - ĐH Huế.
[6]. Hồ Viết Quý (2000), Phân tích lí-hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội. [7]. Mai Thị Thanh, Đinh Quang Khiếu, Bùi Thị Minh Châu, Hồ Văn Thành (2017), "Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano lưỡng oxit NiO-ZnO từ sự phân hủy nhiệt Ni-ZIF-8 và ứng dụng trong xúc tác quang hóa", Hue University Journal of Science: Natural Science, 126 (1A), tr. 59-66. [8]. Đào Đình Thức (2007), Một số phương pháp phổ ứng dụng trong hóa học, Đại học QGHN, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
[9]. Abbasi A.R., Akhbari K., Morsali A. (2012), Dense coating of surface mounted CuBTC metal–organic framework nanostructures on silk fibers, prepared by layer-by-layer method under ultrasound irradiation with antibacterial activity, Ultrasonics sonochemistry, 19 (4), pp. 846-852. [10]. Al-degs Y., Khraisheh M.A.M., Tutunji M.F. (2001), Sorption of lead ions on diatomite and manganese oxides modified diatomite, Wat. Res., 35 (15), pp. 3724 -3732.
framework [Cu3(BTC)2] [11]. Alaerts L., Seguin E., Poelman H., Thibault-Starzyk F., Jacobs P.A., De Vos D.E. (2006), Probing the Lewis acidity and catalytic activity of the metal- organic (BTC=benzene-1,3,5-tricarboxylate), Chemistry-A European Journal, 12 (28), pp. 7353-7363.
[12]. Amiri-Aref M., Raoof J.B., Ojani R. (2014), A highly sensitive electrochemical sensor for simultaneous voltammetric determination of noradrenaline, acetaminophen, xanthine and caffeine based on a flavonoid nanostructured modified glassy carbon electrode, Sensors and Actuators B: Chemical, 192, pp. 634-641.
134
[13]. Anbia M., Faryadras M., Ghaffarinejad A. (2015), Synthesis and characterization of Zn3(BTC)2 nanoporous sorbent and its application for hydrogen storage at ambient temperature, pp. 33-41. [14]. Aydin F.A., Soylak M. (2010), Separation, preconcentration
and inductively coupled plasma-mass spectrometric (ICP-MS) determination of thorium(IV), titanium(IV), iron(III), lead(II) and chromium(III) on 2- nitroso-1-naphthol impregnated MCI GEL CHP20P resin, Journal of Hazardous Materials, 173, pp. 669-674.
[15]. Badii K., Ardejani F.D., Saberi M.A., Limaee N.Y., Shafaei S.Z. (2010), Adsorption of Acid blue 25 dye on diatomite in aqueous solutions, Indian Journal of Chemical Technology, 17 (1), pp. 7-16.
[16]. Ban Y., Li Y., Liu X., Peng Y., Yang W. (2013), Solvothermal synthesis of mixed-ligand metal–organic framework ZIF-78 with controllable size and morphology, Microporous and Mesoporous Materials, 173, pp. 29-36. [17]. Bard A.J., Faulkner L.R. (2001), Fundamentals and Applications: Electrochemical Methods, 2nd ed., Johnwiley&Sons, Inc., New York. [18]. Bodkhe G.A., Hedau B.S., Deshmukh M.A., Patil H.K., Shirsat S.M., Phase D.M., Pandey K.K., Shirsat M.D. (2021), Selective and sensitive detection of lead Pb (II) ions: Au/SWNT nanocomposite-embedded MOF-199, Journal of Materials Science, 56 (1), pp. 474-487.
[19]. Bromberg L., Hatton T.A. (2011), Aldehyde-alcohol reactions catalyzed under mild conditions by chromium (III) terephthalate metal organic framework (MIL-101) and phosphotungstic acid composites, ACS applied materials & interfaces, 3 (12), pp. 4756-4764. [20]. Bruckner R. (2001), Advanced organic chemistry: reaction mechanisms, Elsevier.
[21]. Brunauer S., Emmett P.H., Teller E. (1938), Adsorption of gases in multimolecular layers, Journal of the American chemical society, 60 (2), pp. 309-319.
[22]. Callear S.K., Ramirez-Cuesta A.J., David W.I.F., Millange F., Walton R.I. (2013), High-resolution inelastic neutron scattering and neutron powder diffraction study of the adsorption of dihydrogen by the Cu(II) metal–organic framework material HKUST-1, Chemical Physics, 427, pp. 9-17.
[23]. Clerici A., Pastori N., Porta O. (1998), Efficient acetalisation of aldehydes catalyzed by titanium tetrachloride in a basic medium, Tetrahedron, 54 (51), pp. 15679-15690.
[24]. Cui L., Zhao D., Yang Y., Wang Y., Zhang X. (2017), Synthesis of highly efficient α-Fe2O3 catalysts for CO oxidation derived from MIL-100 (Fe), Journal of Solid State Chemistry, 247, pp. 168-172.
[25]. Chaudhary Y.S., Agrawal A., Shrivastav R., Satsangi V.R., Dass S. (2004), A study on the photoelectrochemical properties of copper oxide thin films, International Journal of Hydrogen Energy, 29 (2), pp. 131-134.
135
[26]. Chen C., Zhang M., Guan Q., Li W. (2012), Kinetic and thermodynamic studies on the adsorption of xylenol orange onto MIL-101 (Cr), Chemical Engineering Journal, 183, pp. 60-67.
[27]. Chen D.-S., Cheng J.-M., Sun L.-B., Liang Z.-Q., Shao K.-Z., Wang C.-G., Xing H.-Z., Su Z.-M. (2013), A new porous 2D copper (II) metal–organic framework for selective adsorption of CO2 over N2, Inorganic Chemistry Communications, 38, pp. 104-107. [28]. Chen J., Xu L., Li W., Gou X. (2005), α Fe2O3 nanotubes in gas sensor and lithium ion battery applications, Advanced Materials, 17 (5), pp. 582-586. ‐
‐
[29]. Chen S., Xue M., Li Y., Pan Y., Zhu L., Zhang D., Fang Q., Qiu S. (2015), Porous ZnCo2O4 nanoparticles derived from a new mixed-metal organic framework for supercapacitors, Inorganic Chemistry Frontiers, 2 (2), pp. 177-183.
[30]. Cheng F., Shen J., Peng B., Pan Y., Tao Z., Chen J. (2011), Rapid room- temperature synthesis of nanocrystalline spinels as oxygen reduction and evolution electrocatalysts, Nature chemistry, 3 (1), pp. 79-84.
[31]. Cheng K., Peng S., Xu C., Sun S. (2009), Porous hollow Fe3O4 nanoparticles for targeted delivery and controlled release of cisplatin, Journal of the American Chemical Society, 131 (30), pp. 10637-10644.
[32]. Chitravathi S., Munichandraiah N. (2016), Voltammetric determination of paracetamol, tramadol and caffeine using poly (Nile blue) modified glassy carbon electrode, Journal of Electroanalytical Chemistry, 764, pp. 93-103.
[33]. Cho W., Lee Y.H., Lee H.J., Oh M. (2011), Multi ball in ball hybrid metal oxides, Advanced Materials, 23 (15), pp. 1720-1723. ‐ ‐
[34]. Cho W., Park S., Oh M. (2011), Coordination polymer nanorods of Fe-MIL- 88B and their utilization for selective preparation of hematite and magnetite nanorods, Chemical Communications, 47 (14), pp. 4138-4140.
[35]. Chui S.S.-Y., Lo S.M.-F., Charmant J.P.H., Orpen A.G., Williams I.D. Functionalizable Nanoporous Material
(1999), A Chemically [Cu3(TMA)2(H2O)3]n, Science, 283, pp. 1148-1150.
[36]. Das S., Kim H., Kim K. (2009), Metathesis in single crystal: Complete and reversible exchange of metal ions constituting the frameworks of metal− organic frameworks, Journal of the American Chemical Society, 131 (11), pp. 3814-3815.
[37]. Davydovskaya P., Pohle R., Tawil A., Fleischer M. (2013), Work function based gas sensing with Cu-BTC metal-organic framework for selective aldehyde detection, Sensors and Actuators B: Chemical, 187, pp. 142-146.
[38]. Deria P., Mondloch J.E., Karagiaridi O., Bury W., Hupp J.T., Farha O.K. (2014), Beyond post-synthesis modification: evolution of metal–organic frameworks via building block replacement, Chemical Society Reviews, 43 (16), pp. 5896-5912.
[39]. Dhakshinamoorthy A., Alvaro M., Garcia H. (2010), Metal Organic Frameworks as Solid Acid Catalysts for Acetalization of Aldehydes with Methanol, Advanced Synthesis & Catalysis, 352 (17), pp. 3022-3030.
136
[40]. Dhale B., Mujawar S., Bhattar S., Patil P. (2014), Chemical properties of n- ZnO/p-CuO heterojunctions for photovoltaic applications, Der Chemica Sinica, 5, pp. 59-64.
[41]. Du P., Bueno-Lopez A., Verbaas M., Almeida A., Makkee M., Moulijn J., Mul G. (2008), The effect of surface OH-population on the photocatalytic activity of rare earth-doped P25-TiO2 in methylene blue degradation, Journal of Catalysis, 260 (1), pp. 75-80.
[42]. Eddaoudi M., Kim J., Rosi N., Vodak D., Wachter J., O'Keeffe M., Yaghi O.M. (2002), Systematic design of pore size and functionality in isoreticular MOFs and their application in methane storage, Science, 295 (5554), pp. 469-472.
[43]. Eddaoudi M., Moler D.B., Li H., Chen B., Reineke T.M., O'keeffe M., Yaghi O.M. (2001), Modular chemistry: secondary building units as a basis for the design of highly porous and robust metal− organic carboxylate frameworks, Accounts of Chemical Research, 34 (4), pp. 319-330.
square
[44]. Eisele A.P.P., Clausen D.N., Tarley C.R.T., Dall'Antonia L.H., Sartori E.R. wave voltammetric determination of (2013), Simultaneous paracetamol, caffeine and orphenadrine in pharmaceutical formulations using ‐ a cathodically pretreated boron doped diamond electrode, Electroanalysis, 25 (7), pp. 1734-1741. ‐
[45]. Fan H., Zhao X., Yang J., Shan X., Yang L., Zhang Y., Li X., Gao M. for photocatalytic degradation of (2012), ZnO–graphene composite methylene blue dye, Catalysis Communications, 29, pp. 29-34.
[46]. Feldblyum J.I., Liu M., Gidley D.W., Matzger A.J. (2011), Reconciling the discrepancies between crystallographic porosity and guest access as exemplified by Zn-HKUST-1, J Am Chem Soc, 133 (45), pp. 18257-63. [47]. Feng Y., Jiang H., Li S., Wang J., Jing X., Wang Y., Chen M. (2013), Metal– organic frameworks HKUST-1 for liquid-phase adsorption of uranium, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 431, pp. 87-92.
[48]. Férey G., Mellot-Draznieks C., Serre C., Millange F., Dutour J., Surblé S., Margiolaki I. (2005), A chromium terephthalate-based solid with unusually large pore volumes and surface area, Science, 309 (5743), pp. 2040-2042.
[49]. Guo H., Li T., Chen W., Liu L., Yang X., Wang Y., Guo Y. (2014), General design of hollow porous CoFe2O4 nanocubes from metal–organic frameworks with extraordinary lithium storage, Nanoscale, 6 (24), pp. 15168-15174.
[50]. Guo W., Sun W., Wang Y. (2015), Multilayer CuO@NiO Hollow Spheres: Microwave-Assisted Metal–Organic-Framework Derivation and Highly Reversible Structure-Matched Stepwise Lithium Storage, ACS Nano, 9 (11), pp. 11462-11471.
[51]. Habibi B., Gahramanzadeh R. (2011), Fabrication and characterization of non-platinum electrocatalyst for methanol oxidation in alkaline medium:
137
Nickel nanoparticles modified carbon-ceramic electrode, International Journal of Hydrogen Energy, 36 (3), pp. 1913-1923.
[52]. Hamon L., Serre C., Devic T., Loiseau T., Millange F., Férey G., Weireld G.D. (2009), Comparative Study of Hydrogen Sulfide Adsorption in the MIL-53(Al, Cr, Fe), MIL-47(V), MIL-100(Cr), and MIL-101(Cr) Metal- Organic Frameworks at Room Temperature, J. Am. Chem. Soc., 131 (25), pp. 8775–8777.
[53]. Han L., Qi H., Zhang D., Ye G., Zhou W., Hou C., Xu W., Sun Y. (2017), A facile and green synthesis of MIL-100 (Fe) with high-yield and its catalytic performance, New Journal of Chemistry, 41 (22), pp. 13504-13509.
[54]. Herbst A., Khutia A., Janiak C. (2014), Brønsted instead of Lewis acidity in functionalized MIL-101Cr MOFs for efficient heterogeneous (nano-MOF) catalysis in the condensation reaction of aldehydes with alcohols, Inorganic chemistry, 53 (14), pp. 7319-7333. [55]. Horwitz W., Albert R. (1997), Quality issues the concept of uncertainty as applied to chemical measurements, Analyst, 122 (6), pp. 615-617.
[56]. Hosseini H., Ahmar H., Dehghani A., Bagheri A., Fakhari A.R., Amini M.M. (2013), Au-SH-SiO2 nanoparticles supported on metal-organic framework (Au-SH-SiO2@Cu-MOF) as a sensor for electrocatalytic oxidation and determination of hydrazine, Electrochimica Acta, 88, pp. 301-309.
[57]. Hosseini H., Ahmar H., Dehghani A., Bagheri A., Tadjarodi A., Fakhari A.R. (2013), A novel electrochemical sensor based on metal-organic framework for electro-catalytic oxidation of L-cysteine, Biosensors and Bioelectronics, 42, pp. 426-429.
[58]. Houas A., Lachheb H., Ksibi M., Elaloui E., Guillard C., Herrmann J.-M. (2001), Photocatalytic degradation pathway of methylene blue in water, Applied Catalysis B: Environmental, 31 (2), pp. 145-157.
[59]. Hu C., Wang B. (2014), Facile Fabrication of Magnetically Recyclable Metal-Organic Framework Nanocomposites for Highly Efficient and Selective Catalytic Oxidation of Benzylic C–H Bonds Chem. Commun. 2014, 50, 8374–8377, Chem. Commun, 50, pp. 8374-8377.
films active thin
[60]. Hu Y.-S., Kleiman-Shwarsctein A., Forman A.J., Hazen D., Park J.-N., (2008), Pt-doped α-Fe2O3 McFarland E.W. for photoelectrochemical water splitting, Chemistry of Materials, 20 (12), pp. 3803-3805.
[61]. Huang G., Zhang F., Zhang L., Du X., Wang J., Wang L. (2014), Hierarchical NiFe2O4/Fe2O3 nanotubes derived from metal organic frameworks for superior lithium ion battery anodes, Journal of Materials Chemistry A, 2 (21), pp. 8048-8053.
[62]. Huang J., Liu Y., Hou H., You T. (2008), Simultaneous electrochemical determination of dopamine, uric acid and ascorbic acid using palladium nanoparticle-loaded carbon nanofibers modified electrode, Biosensors and Bioelectronics, 24 (4), pp. 632-637.
138
[63]. Huang L., Wang H., Chen J., Wang Z., Sun J., Zhao D., Yan Y. (2003), Synthesis, morphology control, and properties of porous metal–organic coordination polymers, Microporous and mesoporous materials, 58 (2), pp. 105-114.
[64]. Islam M.J., Reddy D.A., Choi J., Kim T.K. (2016), Surface oxygen vacancy assisted electron transfer and shuttling for enhanced photocatalytic activity of a Z-scheme CeO2–AgI nanocomposite, RSC Advances, 6 (23), pp. 19341- 19350. [65]. James S.L. (2003), Metal-organic frameworks, Chemical Society Reviews, 32 (5), pp. 276-288.
[66]. Janiak C., Vieth J.K. (2010), MOFs, MILs and more: concepts, properties and applications for porous coordination networks (PCNs), New Journal of Chemistry, 34 (11), pp. 2366-2388.
[67]. Jiang F., Yan T., Chen H., Sun A., Xu C., Wang X. (2014), Ag-C3N4–CdS composite catalyst with high visible-light-driven catalytic activity and photostability for methylene blue degradation, Applied Surface Science, 295, pp. 164-172.
[68]. Jiang Q., Rüegger H., Venanzi L.M. (1999), Some new chain-like terdentate phosphines, their ruthenium (II) coordination chemistry and the activity of the cations [Ru (MeCN)3 (PhP {CH2CH2P (pX-C6H4)2} 2)]2+(X= H, F, Me and OMe) as acetalization catalysts, Inorganica chimica acta, 290 (1), pp. 64-79.
[69]. Jun S.T., Choi G.M. (1998), Composition dependence of the electrical conductivity of ZnO (n)–CuO (p) ceramic composite, Journal of the American Ceramic Society, 81 (3), pp. 695-699.
[70]. Kargar A., Jing Y., Kim S.J., Riley C.T., Pan X., Wang D. (2013), ZnO/CuO heterojunction branched nanowires for photoelectrochemical hydrogen generation, Acs Nano, 7 (12), pp. 11112-11120.
[71]. Kim T.K., Lee K.J., Cheon J.Y., Lee J.H., Joo S.H., Moon H.R. (2013), Nanoporous metal oxides with tunable and nanocrystalline frameworks via conversion of metal–organic frameworks, Journal of the American Chemical Society, 135 (24), pp. 8940-8946.
[72]. Kinoshita Y., Matsubara I., Higuchi T., Saito Y. (1959), The crystal structure of bis (adiponitrilo) copper (I) nitrate, Bulletin of the Chemical Society of Japan, 32 (11), pp. 1221-1226.
[73]. Kitaura R., Seki K., Akiyama G., Kitagawa S. (2003), Porous Coordination- Polymer Crystals with Gated Channels Specific for Supercritical Gases, Angew. Chem. Int. Ed., 42 (4), pp. 428-431. [74]. Klimakow M., Klobes P., Rademann K., Emmerling F.
(2012), Characterization of mechanochemically synthesized MOFs, Microporous and mesoporous materials, 154, pp. 113-118.
[75]. Kong J.-Z., Li A.-D., Li X.-Y., Zhai H.-F., Zhang W.-Q., Gong Y.-P., Li H., Wu D. (2010), Photo-degradation of methylene blue using Ta-doped ZnO nanoparticle, Journal of solid state chemistry, 183 (6), pp. 1359-1364.
139
[76]. Krawiec P., Kramer M., Sabo M., Kunschke R., Fröde H., Kaskel S. (2006), organic framework Cu3(BTC)2, Improved hydrogen storage in the metal Advanced Engineering Materials, 8 (4), pp. 293-296. ‐
[77]. Kresge C.T., Leonowicz M.E., Roth W.J. (1992), Ordered mesoporous molecular sieves synthesized by a liquid-crystal template mechanism, Nature, 359 (6397), pp. 710-712.
[78]. Krompiec S., Penkala M., Szczubiałka K., Kowalska E. (2012), Transition metal compounds and complexes as catalysts in synthesis of acetals and orthoesters: Theoretical, mechanistic and practical aspects, Coordination Chemistry Reviews, 256 (17-18), pp. 2057-2095.
[79]. Kumar A., Prasad B., Mishra I. (2008), Adsorptive removal of acrylonitrile by commercial grade activated carbon: kinetics, equilibrium and thermodynamics, Journal of Hazardous Materials, 152 (2), pp. 589-600. [80]. Khudaish E.A., Al-Hinaai M.M., Al-Harthi S.H. (2013), A solid-state sensor based on tris (2, 2′-bipyridyl) ruthenium (II)/poly (4-aminodiphenylamine) modified electrode: Characterization and applications, Sensors and Actuators B: Chemical, 185, pp. 478-487.
[81]. Langmuir I. (1916), The constitution and fundamental properties of solids and liquids. Part I. Solids, Journal of the American chemical society, 38 (11), pp. 2221-2295.
[82]. Lau O.-W., Luk S.-F., Cheung Y.-M. (1989), Simultaneous determination of ascorbic acid, caffeine and paracetamol in drug formulations by differential- pulse voltammetry using a glassy carbon electrode, Analyst, 114 (9), pp. 1047-1051.
[83]. Laviron E. (1979), General expression of the linear potential sweep voltammogram in the case of diffusionless electrochemical systems, Journal of Electroanalytical Chemistry and Interfacial Electrochemistry, 101 (1), pp. 19-28.
[84]. Lee J. (2007) Synthesis and gas sorption study of microporous metal-organic frameworks for hydrogen and methane storage, Rutgers University-Graduate School-New Brunswick.
[85]. Lee Y.-R., Kim J., Ahn W.-S. (2013), Synthesis of metal-organic frameworks: A mini review, Korean Journal of Chemical Engineering, 30 (9), pp. 1667-1680.
[86]. Lei X., Cao Y., Chen Q., Ao X., Fang Y., Liu B. (2019), ZIF-8 derived hollow CuO/ZnO material for study of enhanced photocatalytic performance, Colloids and Surfaces A: Physicochemical and Engineering Aspects, 568, pp. 1-10. [87]. Leofanti G., Padovan M., Tozzola G., Venturelli B. (1998), Surface area and pore texture of catalysts, Catalysis today, 41 (1-3), pp. 207-219.
[88]. Li-yan N., Rui-nian H., Gui-ling N., Xiao-xia O. (2012), Nano/Micro HKUST-1 Fabricated by coordination Modulation Method at Room Temperatur, Chem. Res. Chinese Universities, 24, pp. 555-558.
140
[89]. Li B., Wang Y. (2010), Facile synthesis and photocatalytic activity of ZnO– CuO nanocomposite, Superlattices and Microstructures, 47 (5), pp. 615–623. [90]. Li C. (2007), Electrochemical determination of dipyridamole at a carbon paste electrode using cetyltrimethyl ammonium bromide as enhancing element, Colloids and Surfaces B: Biointerfaces, 55 (1), pp. 77-83.
[91]. Li G., Kobayashi H., Taylor J.M., Ikeda R., Kubota Y., Kato K., Takata M., Yamamoto T., Toh S., Matsumura S. (2014), Hydrogen storage in Pd nanocrystals covered with a metal–organic framework, Nature materials, 13 (8), pp. 802-806.
[92]. Li H., Davis C.E., Groy T.L., Kelley D.G., Yaghi O. (1998), Coordinatively Unsaturated Metal Centers in the Extended Porous Framework of Zn3 (BDC) 3 6CH3OH (BDC= 1, 4-Benzenedicarboxylate), Journal of the American Chemical Society, 120 (9), pp. 2186-2187. ⊙
[93]. Li J.-R., Kuppler R.J., Zhou H.-C. (2009), Selective gas adsorption and separation in metal–organic frameworks, Chem. Soc. Rev., 38, pp. 1477- 1504.
[94]. Li S., Wang N., Yue Y., Wang G., Zu Z., Zhang Y. (2015), Copper doped ceria porous nanostructures towards a highly efficient bifunctional catalyst for carbon monoxide and nitric oxide elimination, Chemical science, 6 (4), pp. 2495-2500.
[95]. Li X., Wang Z., Zhang B., Rykov A.I., Ahmed M.A., Wang J. (2016), FexCo3−xO4 nanocages derived from nanoscale metal–organic frameworks for removal of bisphenol A by activation of peroxymonosulfate, Applied Catalysis B: Environmental, 181, pp. 788-799. [96]. Lijima S. (1991), Helical microtubules of graphitic carbon, Chem Phys Lett, 243 (49), pp. 354.
[97]. Lin K.-F., Cheng H.-M., Hsu H.-C., Lin L.-J., Hsieh W.-F. (2005), Band gap variation of size-controlled ZnO quantum dots synthesized by sol–gel method, Chemical Physics Letters, 409 (4-6), pp. 208-211.
[98]. Lin K.-S., Adhikari A.K., Ku C.-N., Chiang C.-L., Kuo H. (2012), Synthesis and characterization of porous HKUST-1 metal organic frameworks for hydrogen storage, International Journal of Hydrogen Energy, 37 (18), pp. 13865-13871.
[99]. Lin S., Song Z., Che G., Ren A., Li P., Liu C., Zhang J. (2014), Adsorption behavior of metal–organic frameworks for methylene blue from aqueous solution, Microporous and Mesoporous Materials, 193, pp. 27-34.
[100]. Lin S.S., Gurol M.D. (1998), Catalytic Decomposition of Hydrogen Peroxide on Iron Oxide: Kinetics, Mechanism, and Implications, , Environ. Sci. Technol., 32 (10), pp. 1417-1423.
[101]. Liu J., Zhu G., Chen M., Ma X., Yang J. (2016), Fabrication of electrospun ZnO nanofiber-modified electrode for the determination of trace Cd (II), Sensors and Actuators B: Chemical, 234, pp. 84-91.
141
[102]. Liu Z.-L., Deng J.-C., Deng J.-J., Li F.-F. (2008), Fabrication and photocatalysis of CuO/ZnO nano-composites via a newmethod, Materials Science and Engineering B, 150, pp. 99-104.
(2012), Electrochemical behavior of
[103]. Loera-Serna S., Oliver-Tolentino M.A., de Lourdes López-Núñez M., Santana-Cruz A., Guzmán-Vargas A., Cabrera-Sierra R., Beltrán H.I., Flores J. [Cu3(BTC)2] metal–organic framework: The effect of the method of synthesis, Journal of Alloys and Compounds, 540, pp. 113-120.
[104]. Lopez-Ramon M.V., Stoeckli F., Moreno-Castilla C., Carrasco-Marin F. (1999), On the characterization of acidic and basic surface sites on carbons by various techniques, Carbon, 37 (8), pp. 1215-1221.
[105]. Lou X.W., Wang Y., Yuan C., Lee J.Y., Archer L.A. (2006), Template
‐ free synthesis of SnO2 hollow nanostructures with high lithium storage capacity, Advanced Materials, 18 (17), pp. 2325-2329.
[106]. Lourencao B.C., Medeiros R.A., Rocha-Filho R.C., Mazo L.H., Fatibello- Filho O. (2009), Simultaneous voltammetric determination of paracetamol and caffeine in pharmaceutical formulations using a boron-doped diamond electrode, Talanta, 78 (3), pp. 748-752.
[107]. Luna A.J., Rojas L.O.A., Melo D.M.A., Benachour M., de Sousa J.F. (2009), Total catalytic wet oxidation of phenol and its chlorinated derivates with MnO2/CeO2 catalyst in a slurry reactor, Brazilian Journal of Chemical Engineering, 26 (3), pp. 493 -502.
[108]. Lv D., Huang X., Yue H., Yang Y. (2009), Sodium-Ion-Assisted Hydrothermal Synthesis of γ-MnO2 and Its Electrochemical Performance, Journal of The Electrochemical Society, 156 (11), pp. A911-A916.
[109]. Magheara A., Etienne M., Tertis M., S˘andulescu R., Walcariusa A. (2013), Clay-mesoporous silica composite films generated by electro-assisted self- assembly, Electrochimica Acta, 112, pp. 333-341.
[110]. Mahmoodi N.M., Abdi J. (2019), Nanoporous metal-organic framework (MOF-199): Synthesis, characterization and photocatalytic degradation of Basic Blue 41, Microchemical Journal, 144, pp. 436-442.
[111]. Majano G., Perez-Ramirez J. (2013), Scalable room-temperature conversion of copper(II) hydroxide into HKUST-1 (Cu3 (btc)2), Adv Mater, 25 (7), pp. 1052-7. [112]. Mandal B.K., Suzuki K.T. (2002), Arsenic round the world: a review, , Talanta, 58, pp. 201-235.
[113]. Mandal S., Sahu M.K., Patel R.K. (2013), Adsorption studies of arsenic(III) from water by zirconium polyacrylamide hybrid material removal (ZrPACM-43), , Water Resources and Industry, 4, pp. 51-67.
[114]. Marx S., Kleist W., Baiker A. (2011), Synthesis, structural properties, and catalytic behavior of Cu-BTC and mixed-linker Cu-BTC-PyDC in the oxidation of benzene derivatives, Journal of Catalysis, 281 (1), pp. 76-87.
[115]. Melero J.A., Calleja G., Martínez F., Molina R., Pariente M.I. (2007), Nanocomposite Fe2O3-SBA-15-An efficient and stable catalyst for the
142
CWPO of phenolic aqueous solutions, Chemical Engineering Journal, 131, pp. 245-256.
[116]. Miao J., Wan H., Shao Y., Guan G., Xu B. (2011), Acetalization of carbonyl compounds catalyzed by acidic ionic liquid immobilized on silica gel, Journal of Molecular Catalysis A: Chemical, 348 (1-2), pp. 77-82.
[117]. Miner D.J., Rice J.R., Riggin R.M., Kissinger P.T. (1981), Voltammetry of acetaminophen and its metabolites, Analytical chemistry, 53 (14), pp. 2258- 2263.
[118]. Mueller U., Schubert M., Teich F., Puetter H., Schierle-Arndt K., Pastre J. industrial applications, frameworks-prospective (2006), Metal-organic Journal of Materials Chemistry, 16 (7), pp. 626-636.
[119]. Münch A.S., Mertens F.O.R.L. (2012), HKUST-1 as an open metal site gas chromatographic stationary phase—capillary preparation, separation of small hydrocarbons and electron donating compounds, determination of thermodynamic data, Journal of Materials Chemistry, 22 (20), pp. 10228.
[120]. Ndung’u K., Hibdon S., Flegal A.R. (2004), Determination of lead in vinegar by ICP-MS and GFAAS: evaluation of different sample preparation procedures, Talanta, 64, pp. 258-263. in Catalysis, Weinheim, [121]. Niemantsverdriet J.W. (2007), Spectroscopy WILEY-VCH Verlag GmbH & Co. KGaA.
Sciences: Nanoscience in Natural [122]. Nguyen L.T.L., Nguyen T.T., Nguyen K.D., Phan N.T.S. (2012), Metal– organic framework MOF-199 as an efficient heterogeneous catalyst for the aza-Michael reaction, Applied Catalysis A: General, 425-426, pp. 44-52. [123]. Nguyen Thi T.V., Luu C.L., Hoang T.C., Nguyen T., Bui T.H., Duy Nguyen P.H., Pham Thi T.P. (2013), Synthesis of MOF-199 and application to CO2 adsorption, Advances and Nanotechnology, 4 (3), pp. 035016.
[124]. Pablo Serra-Crespo E.V.R.-F., Jorge Gascon, and Freek Kapteijn. (2011), Synthesis and Characterization of an Amino Functionalized MIL-101(Al): Separation and Catalytic Properties, Chem. Mater., 23, pp. 2565–2572. [125]. Pal S., Maiti S., Maiti U.N., Chattopadhyay K.K. (2015), Low temperature solution processed ZnO/CuO heterojunction photocatalyst for visible light induced photo-degradation of organic pollutants, CrystEngComm, 17 (6), pp. 1464-1476.
[126]. Pecharsky V., Zavalij P. (2008), Fundamentals of powder diffraction and structural characterization of materials, Springer Science & Business Media.
[127]. Peng L., Zhang J., Xue Z., Han B., Sang X., Liu C., Yang G. (2014), Highly mesoporous metal-organic framework assembled in a switchable solvent, Nat Commun, 5, pp. 4465.
[128]. Pereira da Silva C.T., Safadi B.N., Moisés M.P., Meneguin J.G., Arroyo P.A., Fávaro S.L., Girotto E.M., Radovanovic E., Rinaldi A.W. (2016), Synthesis of Zn-BTC metal organic framework assisted by a home
143
microwave oven and their unusual morphologies, Materials Letters, 182, pp. 231-234.
(2008), Wrap–bake–peel process
[129]. Piao Y., Kim J., Na H.B., Kim D., Baek J.S., Ko M.K., Lee J.H., Shokouhimehr M., Hyeon T. for nanostructural transformation from β-FeOOH nanorods to biocompatible iron oxide nanocapsules, Nature materials, 7 (3), pp. 242-247.
[130]. Prestipino C., Regli L., Vitillo J.G., Bonino F., Damin A., Lamberti C., Zecchina A., Solari P., Kongshaug K., Bordiga S. (2006), Local structure of framework Cu (II) in HKUST-1 metallorganic framework: spectroscopic characterization upon activation and interaction with adsorbates, Chemistry of materials, 18 (5), pp. 1337-1346.
[131]. Phan A., Doonan C.J., Uribe-Romo F.J., Knobler C.B., O’keeffe M., Yaghi O.M. (2010), Synthesis, structure, and carbon dioxide capture properties of zeolitic imidazolate frameworks, Acc. Chem. Res, 43 (1), pp. 58-67.
[132]. Quang D.A., Toan T.T.T., Tung T.Q., Hoa T.T., Mau T.X., Khieu D.Q. (2018), Synthesis of CeO2/TiO2 nanotubes and heterogeneous photocatalytic degradation of methylene blue, Journal of environmental chemical engineering, 6 (5), pp. 5999-6011.
[133]. Rieter W.J., Taylor K.M., An H., Lin W., Lin W. (2006), Nanoscale metal− organic frameworks as potential multimodal contrast enhancing agents, Journal of the American Chemical Society, 128 (28), pp. 9024-9025.
[134]. Rodríguez H.S., Hinestroza J.P., Ochoa Puentes C., Sierra C.A., Soto C.Y.
BTC (MOF ‐
‐ (2014), Antibacterial activity against Escherichia coli of Cu 199) metal Applied Polymer Science, 131 (19), pp. 40815. ‐
organic framework immobilized onto cellulosic fibers, Journal of ‐ [135]. Rowsell J.L., Yaghi O.M. (2004), Metal–organic frameworks: a new class of porous materials, Microporous and mesoporous materials, 73 (1-2), pp. 3- 14.
[136]. Roy A., Srivastava A.K., Singh B., Shah D., Mahato T.H., Srivastava A. (2012), Kinetics of degradation of sulfur mustard and sarin simulants on HKUST-1 metal organic framework, Dalton Trans, 41 (40), pp. 12346- 12348.
[137]. Ryoo R., Joo S.H., Jun S. (1999), Synthesis of highly ordered carbon molecular sieves via template-mediated structural transformation, The Journal of Physical Chemistry B, 103 (37), pp. 7743 - 7746. [138]. Saciloto T.R., Cervini P., Cavalheiro É.T.
(2013), Simultaneous voltammetric determination of acetaminophen and caffeine at a graphite and polyurethane screen-printed composite electrode, Journal of the Brazilian Chemical Society, 24 (9), pp. 1461-1468.
[139]. Salimi A., Hallaj R., Soltanian S., Mamkhezri H. (2007), Nanomolar detection of hydrogen peroxide on glassy carbon electrode modified with electrodeposited cobalt oxide nanoparticles, Analytica Chimica Acta, 594 (1), pp. 24-31.
144
[140]. Samadi-Maybodi A., Ghasemi S., Ghaffari-Rad H. (2015), Ag-doped zeolitic for efficient
imidazolate framework-8 nanoparticles modified CPE electrocatalytic reduction of H2O2, Electrochimica Acta, 163, pp. 280-287.
[141]. Samadi-Maybodi A., Ghasemi S., Ghaffari-Rad H. (2015), A novel sensor based on Ag-loaded zeolitic imidazolate framework-8 nanocrystals for efficient electrocatalytic oxidation and trace level detection of hydrazine, Sensors and Actuators B: Chemical, 220, pp. 627 - 633.
[142]. Sanil E.S., Cho K.-H., Lee S.-K., Lee U.H., Ryu S.G., Lee H.W., Chang J.- S., Hwang Y.K. (2014), Size and morphological control of a metal–organic framework Cu-BTC by variation of solvent and modulator, Journal of Porous Materials, 22 (1), pp. 171-178.
[143]. Santra K., Sarkar C., Mukherjee M., Ghosh B. (1992), Copper oxide thin films grown by plasma evaporation method, Thin Solid Films, 213 (2), pp. 226-229. [144]. Sanghavi B.J., Srivastava A.K.
carbon nanotube paste (2010), Simultaneous voltammetric determination of acetaminophen, aspirin and caffeine using an in situ electrode, surfactant-modified multiwalled Electrochimica Acta, 55 (28), pp. 8638-8648.
[145]. Saravanan R., Karthikeyan S., Gupta V., Sekaran G., Narayanan V., Stephen A. (2013), Enhanced photocatalytic activity of ZnO/CuO nanocomposite for the degradation of textile dye on visible light illumination, Materials Science and Engineering: C, 33 (1), pp. 91-98.
[146]. Sathishkumar P., Sweena R., Wu J.J., Anandan S. (2011), Synthesis of CuO- ZnO nanophotocatalyst for visible light assisted degradation of a textile dye in aqueous solution, Chemical Engineering Journal, 171 (1), pp. 136-140.
[147]. Schlichte K., Kratzke T., Kaskel S. (2004), Improved synthesis, thermal stability and catalytic properties of the metal-organic framework compound Cu3(BTC)2, Microporous and Mesoporous Materials, 73 (1-2), pp. 81-88.
[148]. Seema H., Kemp K.C., Chandra V., Kim K.S. (2012), Graphene–SnO2 composites for highly efficient photocatalytic degradation of methylene blue under sunlight, Nanotechnology, 23 (35), pp. 355705.
[149]. Senthil Kumar R., Senthil Kumar S., Anbu Kulandainathan M. (2013), Efficient electrosynthesis of highly active Cu3(BTC)2-MOF and its catalytic application to chemical reduction, Microporous and Mesoporous Materials, 168, pp. 57-64.
[150]. Seo Y.-K., Hundal G., Jang I.T., Hwang Y.K., Jun C.-H., Chang J.-S. (2009), Microwave synthesis of hybrid inorganic–organic materials including porous Cu3(BTC)2 from Cu(II)-trimesate mixture, Microporous and Mesoporous Materials, 119 (1-3), pp. 331-337.
[151]. Sharp M., Petersson M., Edström K. (1979), Preliminary determinations of electron transfer kinetics involving ferrocene covalently attached to a platinum surface, Journal of Electroanalytical Chemistry and Interfacial Electrochemistry, 95 (1), pp. 123-130.
145
[152]. Shen T., Zhao Z.-G., Yu Q., Xu H.-J. (1989), Photosensitized reduction of benzil by heteroatom-containing anthracene dyes, Journal of Photochemistry and Photobiology A: Chemistry, 47 (2), pp. 203-212.
[153]. Soleymani J., Hasanzadeh M., Shadjou N., Jafari M.K., Gharamaleki J.V., Yadollahi M., Jouyban A. (2016), A new kinetic–mechanistic approach to elucidate electrooxidation of doxorubicin hydrochloride in unprocessed human fluids using magnetic graphene based nanocomposite modified glassy carbon electrode, Materials Science and Engineering: C, 61, pp. 638-650.
[154]. Soundharrajan V., Sambandam B., Song J., Kim S., Jo J., Kim S., Lee S., Mathew V., Kim J. (2016), Co3V2O8 sponge network morphology derived from metal–organic framework as an excellent lithium storage anode material, ACS Applied Materials & Interfaces, 8 (13), pp. 8546-8553. [155]. Stavila V., Volponi J., Katzenmeyer A.M., Dixon M.C., Allendorf M.D. (2012), Kinetics and mechanism of metal–organic framework thin film growth: systematic investigation of HKUST-1 deposition on QCM electrodes, Chemical Science, 3 (5), pp. 1531-1540.
[156]. Sun C., Yang J., Rui X., Zhang W., Yan Q., Chen P., Huo F., Huang W., Dong X. (2015), MOF-directed templating synthesis of a porous multicomponent dodecahedron with hollow interiors for enhanced lithium- ion battery anodes, Journal of Materials Chemistry A, 3 (16), pp. 8483-8488. [157]. Švorc L.u., Tomčík P., Svítková J., Rievaj M., Bustin D. (2012), Voltammetric determination of caffeine in beverage samples on bare boron- doped diamond electrode, Food chemistry, 135 (3), pp. 1198-1204. [158]. Tauc J. (1968), Optical properties and electronic structure of amorphous Ge and Si, Materials Research Bulletin, 3 (1), pp. 37-46.
[159]. Taylor K.M., Jin A., Lin W. (2008), Surfactant-assisted synthesis of nanoscale gadolinium metal-organic frameworks for potential multimodal imaging, Angew Chem Int Ed Engl, 47 (40), pp. 7722-5.
transformation, solid-state via [160]. Tehrani A.A., Safarifard V., Morsali A., Bruno G., Rudbari H.A. (2015), Ultrasound-assisted synthesis of metal–organic framework nanorods of Zn- HKUST-1 and their templating effects for facile fabrication of zinc oxide nanorods Inorganic Chemistry Communications, 59, pp. 41-45.
[161]. Tompsett G.A., Conner W.C., Yngvesson K.S. (2006), Microwave synthesis of nanoporous materials, Chemphyschem: a European journal of chemical physics and physical chemistry, 7 (2), pp. 296-319. [162]. Turi E. (1997), Thermal Characterization of Polymeric Materials. Academic Press, New York.
[163]. Tranchemontagne D.J., Hunt J.R., Yaghi O.M. (2008), Room temperature synthesis of metal-organic frameworks: MOF-5, MOF-74, MOF-177, MOF- 199, and IRMOF-0, Tetrahedron, 64 (36), pp. 8553-8557.
[164]. Vishnyakov A., Ravikovitch P.I., Neimark A.V., Bülow M., Wang Q.M. (2003), Nanopore structure and sorption properties of Cu-BTC metal-organic framework, Nano Letters, 3 (6), pp. 713-718.
146
based electrochemical sensors, [165]. Walcarius A. (2015), Mesoporous materials Electroanalysis, 27 (6), pp. 1303-1340. ‐
[166]. Wang F., Guo H., Chai Y., Li Y., Liu C. (2013), The controlled regulation of morphology and size of HKUST-1 by “coordination modulation method”, Microporous and Mesoporous Materials, 173, pp. 181-188.
[167]. Wang H., Yuan X., Wu Y., Zeng G., Chen X., Leng L., Li H. (2015), Synthesis and applications of novel graphitic carbon nitride/metal-organic frameworks mesoporous photocatalyst for dyes removal, Applied Catalysis B: Environmental, 174, pp. 445-454.
[168]. Wang Q.M., Shen D., Bülow M., Lau M.L., Deng S., Fitch F.R., Lemcoff N.O., Semanscin J. (2002), Metallo-organic molecular sieve for gas separation and purification, Microporous and mesoporous materials, 55 (2), pp. 217-230.
[169]. Wang R.-C., Lin H.-Y. (2009), ZnO–CuO core–shell nanorods and CuO- nanoparticle–ZnO-nanorod integrated structures, Applied Physics A, 95 (3), pp. 813-818.
for differential pulse [170]. Wang Y., Ge H., Wu Y., Ye G., Chen H., Hu X. (2014), Construction of an electrochemical sensor based on amino-functionalized metal-organic frameworks stripping voltammetric anodic determination of lead, Talanta, 129, pp. 100-105.
in [171]. Wang Y., Shi R., Lin J., Zhu Y. (2010), Significant photocatalytic enhancement in methylene blue degradation of TiO2 photocatalysts via situ hybridization, Applied Catalysis B: graphene-like carbon Environmental, 100 (1-2), pp. 179-183.
[172]. Wee L.H., Lohe M.R., Janssens N., Kaskel S., Martens J.A. (2012), Fine tuning of the metal–organic framework Cu3(BTC)2 HKUST-1 crystal size in the 100 nm to 5 micron range, Journal of Materials Chemistry, 22 (27), pp. 13742-13746.
[173]. Wei Y., Yang R., Yu X.-Y., Wang L., Liu J.-H., Huang X.-J. (2012), Stripping voltammetry study of ultra-trace toxic metal ions on highly selectively adsorptive porous magnesium oxide nanoflowers, Analyst, 137 (9), pp. 2183-2191.
[174]. Whang T.-J., Hsieh M.-T., Chen H.-H. (2012), Visible-light photocatalytic degradation of methylene blue with laser-induced Ag/ZnO nanoparticles, Applied Surface Science, 258 (7), pp. 2796-2801.
[175]. Wu R., Qian X., Zhou K., Wei J., Lou J., Ajayan P.M. (2014), Porous Spinel ZnxCo3–xO4 Hollow Polyhedra Templated for High-Rate Lithium-Ion Batteries, Acs Nano, 8 (6), pp. 6297-6303.
[176]. Xiao B., Wheatley P.S., Zhao X., Fletcher A.J., Fox S., Rossi A.G., Megson I.L., Bordiga S., Regli L., Thomas K.M. (2007), High-capacity hydrogen and nitric oxide adsorption and storage in a metal− organic framework, Journal of the American Chemical Society, 129 (5), pp. 1203-1209.
[177]. Xiao L., Xu H., Zhou S., Song T., Wang H., Li S., Gan W., Yuan Q. (2014), Simultaneous detection of Pb(II) and Cd(II) by differential pulse anodic
147
at voltammetry nitrogen-doped
stripping microporous a carbon/Nafion/bismuth-film electrode, Electrochimica Acta, 143, pp. 143 -151. [178]. Xiao L., Zhou S., Hu G., Xu H., Wang Y., Yuan Q. (2015), One-step synthesis of isoreticular metal–organic framework-8 derived hierarchical porous carbon and its application in differential pulse anodic stripping voltammetric determination of Pb (II), RSC Advances, 5 (94), pp. 77159- 77167.
[179]. Xiao M., Lu Y., Li Y., Song H., Zhu L., Ye Z. (2014), A new type of p-type NiO/n-type ZnO nano-heterojunctions with enhanced photocatalytic activity, RSC Advances, 4 (65), pp. 34649-34653.
[180]. Xu L., Wei B., Liu W., Zhang H., Su C., Che J. (2013), Flower-like ZnO- Ag2O composites: precipitation synthesis and photocatalytic activity, Nanoscale research letters, 8 (1), pp. 536.
[181]. Xu W.-T., Ma L., Ke F., Peng F.-M., Xu G.-S., Shen Y.-H., Zhu J.-F., Qiu L.-G., Yuan Y.-P. (2014), Metal–organic frameworks MIL-88A hexagonal microrods as a new photocatalyst for efficient decolorization of methylene blue dye, Dalton Transactions, 43 (9), pp. 3792-3798.
[182]. Xu X., Cao K., Wang Y., Jiao L. (2016), 3D hierarchical porous ZnO/ZnCo2O4 nanosheets as high-rate anode material for lithium-ion batteries, Journal of Materials Chemistry A, 4 (16), pp. 6042-6047.
[183]. Xu X., Duan G., Li Y., Liu G., Wang J., Zhang H., Dai Z., Cai W. (2013), Fabrication of gold nanoparticles by laser ablation in liquid and their application for simultaneous electrochemical detection of Cd2+, Pb2+, Cu2+, Hg2+, ACS applied materials & interfaces, 6 (1), pp. 65-71.
[184]. Xu Y., Schoonen M.A. (2000), The absolute energy positions of conduction and valence bands of selected semiconducting minerals, American mineralogist, 85 (3-4), pp. 543-556.
[185]. Yaghi O.M., O’Keeffe M., Ockwig N.W., Chae H.K., Eddaoudi M., Kim J. (2003), Reticular synthesis and the design of new materials, Nature, 423, pp. 705-714.
[186]. Yagub M.T., Sen T.K., Afroze S., Ang H.M. (2014), Dye and its removal from aqueous solution by adsorption: A review", , Advances in Colloid and Interface Science, 209, pp. 172-184.
[187]. Yang W., Hao J., Zhang Z., Lu B., Zhang B., Tang J. (2014), CoxFe3−xO4 hierarchical nanocubes as peroxidase mimetics and their applications in H2O2 and glucose detection, RSC Advances, 4 (67), pp. 35500-35504.
[188]. Yang Y., Dong H., Wang Y., He C., Wang Y., Zhang X. (2018), Synthesis of octahedral like Cu-BTC derivatives derived from MOF calcined under different atmosphere for application in CO oxidation, Journal of Solid State Chemistry, 258, pp. 582-587.
[189]. Yang Y., Dong H., Wang Y., Wang Y., Liu N., Wang D., Zhang X. (2017), A facile synthesis for porous CuO/Cu2O composites derived from MOFs and their superior catalytic performance for CO oxidation, Inorganic Chemistry Communications, 86, pp. 74-77.
148
[190]. Yu H., Fan H., Yadian B., Tan H., Liu W., Hng H.H., Huang Y., Yan Q. (2015), General approach for MOF-derived porous spinel AFe2O4 hollow structures and their superior lithium storage properties, ACS applied materials & interfaces, 7 (48), pp. 26751-26757. [191]. Yuan C., Wu H.B., Xie Y., Lou X.W.
(2014), Gemischte Übergangsmetalloxide: design, synthese und energierelevante anwendungen, Angewandte Chemie, 126 (6), pp. 1512-1530.
[192]. Yuan C., Wu H.B., Xie Y., Lou X.W. (2014), Mixed transition
metal oxides: related applications, Angewandte Chemie ‐ design, synthesis, and energy International Edition, 53 (6), pp. 1488-1504. ‐
[193]. Zamaro J.M., Pérez N.C., Miró E.E., Casado C., Seoane B., Téllez C., Coronas J. (2012), HKUST-1 MOF: A matrix to synthesize CuO and CuO– CeO2 nanoparticle catalysts for CO oxidation, Chemical Engineering Journal, 195-196, pp. 180-187.
[194]. Zen J.-M., Ting Y.-S. (1997), Simultaneous determination of caffeine and acetaminophen in drug formulations by square-wave voltammetry using a chemically modified electrode, Analytica chimica acta, 342 (2), pp. 175-180. [195]. Zhang C., Yin L., Zhang L., Qi Y., Lun N. (2012), Preparation and photocatalytic activity of hollow ZnO and ZnO–CuO composite spheres, Materials Letters, 67 (1), pp. 303-307.
[196]. Zhang D. (2010), Synthesis and characterization of ZnO-doped cupric oxides and evaluation of their photocatalytic performance under visible light, Transition metal chemistry, 35 (6), pp. 689-694.
[197]. Zhang D. (2013), Photobleaching of pollutant dye catalyzed by p-n junction ZnO-CuO photocatalyst under UV-visible light activation, Russian Journal of Physical Chemistry A, 87 (1), pp. 137-144.
[198]. Zhang S., Liu H., Sun C., Liu P., Li L., Yang Z., Feng X., Huo F., Lu X. (2015), CuO/Cu2O porous composites: shape and composition controllable fabrication inherited from metal organic frameworks and further application in CO oxidation, Journal of Materials Chemistry A, 3 (10), pp. 5294-5298.
MIL
‐ ‐ [199]. Zhang X., Li H., Lv X., Xu J., Wang Y., He C., Liu N., Yang Y., Wang Y. (2018), Facile Synthesis of Highly Efficient Amorphous Mn 100 Catalysts: Formation Mechanism and Structure Changes during Application in CO Oxidation, Chemistry–A European Journal, 24 (35), pp. 8822-8832.
[200]. Zhang X., Wu L., Zhou J., Zhang X., Chen J. (2015), A new ratiometric electrochemical sensor for sensitive detection of bisphenol A based on poly- β-cyclodextrin/electroreduced graphene modified glassy carbon electrode, Journal of Electroanalytical Chemistry, 742, pp. 97-103.
[201]. Zhang Y., Huang J., Ding Y. (2016), Porous Co3O4/CuO hollow polyhedral nanocages derived from metal-organic frameworks with heterojunctions as efficient photocatalytic water oxidation catalysts, Applied Catalysis B: Environmental, 198, pp. 447-456.
149
[202]. Zhang Y., Li L., Su H., Huang W., Dong X. (2015), Binary metal oxide: advanced energy storage materials in supercapacitors, Journal of Materials Chemistry A, 3 (1), pp. 43-59.
[203]. Zhang Z., Shao C., Li X., Wang C., Zhang M., Liu Y. (2010), Electrospun nanofibers of p-type NiO/n-type ZnO heterojunctions with enhanced photocatalytic activity, ACS applied materials & interfaces, 2 (10), pp. 2915- 2923.
[204]. Zheng X., Zhou X., Ji X., Lin R., Lin W. (2013), Simultaneous determination of ascorbic acid, dopamine and uric acid using poly (4- aminobutyric acid) modified glassy carbon electrode, Sensors and Actuators B: Chemical, 178, pp. 359-365.
[205]. Zhuang J.-L., Ceglarek D., Pethuraj S., Terfort A. (2011), Rapid Room- Temperature Synthesis of Metal-Organic Framework HKUST-1 Crystals in Bulk and as Oriented and Patterned Thin Films, Advanced Functional Materials, 21 (8), pp. 1442-1447.
150
7000
8 8 5 . 7 = d
6000
5000
4000
i
) s p C ( n L
3000
.
2000
6 5 0 5 = d
.
.
.
.
7 4 6 4 = d
8 6 5 6 = d
1 5 1 3 1 = d
1 0 3 9 = d
.
.
4 3 0 3 = d
.
.
1000
.
.
.
2 2 4 3 = d
.
.
.
1 9 7 3 = d
1 8 3 4 = d
.
.
.
.
.
.
6 2 0 6 = d
.
.
.
.
.
.
8 6 1 2 = d
.
.
0 8 8 5 = d
.
.
6 5 3 5 = d
3 8 6 3 = d
1 4 5 2 = d
7 9 2 2 = d
2 0 8 2 = d
2 1 1 2 = d
9 9 0 3 = d
3 2 9 1 = d
3 6 4 4 = d
2 7 3 2 = d
6 6 9 1 = d
0 6 1 4 = d
1 4 6 2 = d
6 5 0 2 = d
7 7 5 2 = d
2 3 1 2 = d
1 6 1 5 1 = d
6 2 2 2 = d
3 6 7 2 = d
0
20
1
10
30
40
2-Theta - Scale File: ML-30-01.raw - Type: 2Th/Th locked - Start: 1.000 ° - End: 49.990 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 0.3 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 12 s - 2-Theta: 1.000 ° - Theta: 0.500 ° - Chi: 0.00 ° - Phi: 0.00 ° - X: 0.0 mm -
Phụ lục 1. Giản đồ XRD của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp vi sóngở điều kiện nồng độ H3BTC 0,1 M; mức năng lượng 250 W; 30 phút.
12000
11000
10000
2 8 5 . 7 = d
9000
8000
7000
6000
i
) s p C
( n L
5000
4000
3000
.
8 5 0 5 = d
.
.
.
.
.
2000
6 5 6 4 = d
4 8 5 6 = d
7 3 0 3 = d
.
.
5 2 3 9 = d
2 7 1 3 1 = d
.
.
.
2 2 9 7 = d
.
7 2 4 3 = d
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
8 9 7 3 = d
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
0 9 3 4 = d
0 7 1 2 = d
.
.
2 9 8 5 = d
5 7 3 5 = d
0 3 0 6 = d
1000
3 8 6 3 = d
4 4 5 2 = d
8 9 2 2 = d
5 0 1 3 = d
4 8 2 5 = d
2 9 8 6 = d
4 0 8 2 = d
7 2 9 1 = d
5 1 1 2 = d
4 6 8 4 = d
2 4 9 2 = d
7 6 9 1 = d
0 0 4 8 = d
9 5 1 4 = d
8 5 0 2 = d
9 1 5 3 = d
7 1 7 9 = d
0 6 2 2 = d
9 7 5 2 = d
2 8 8 1 = d
8 4 1 7 1 = d
0
1
10
20
30
40
2-Theta - Scale File: Minh M01M360P.raw - Type: 2Th/Th locked - Start: 0.908 ° - End: 49.907 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 0.3 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 12 s - 2-Theta: 0.908 ° - Theta: 0.500 ° - Chi: 0.00 ° - Phi: 0.00 ° - X:
Phụ lục 2. Giản đồ XRD của MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt ở điều kiện nồng độ H3BTC 0,1 M; nhiệt độ 100 oC; 360 phút.
2000
1900
1800
1700
2 5 5 . 7 = d
1600
1500
1400
1300
1200
1100
1000
i
900
) s p C ( n L
8 0 7 . 8 = d
800
700
600
6 5 2 . 9 = d
4 6 5 . 6 = d
.
5 6 0 . 3 1 = d
.
.
500
9 3 6 4 = d
7 7 4 8 = d
4 5 0 5 = d
.
.
400
7 3 0 3 = d
.
.
9 1 4 3 = d
.
.
.
.
.
.
.
8 7 3 4 = d
.
300
5 7 8 5 = d
.
.
.
.
7 0 6 5 = d
.
.
.
5 6 3 5 = d
9 7 6 3 = d
6 1 0 6 = d
0 9 7 3 = d
1 4 5 2 = d
0 0 3 2 = d
1 6 2 3 = d
5 1 1 2 = d
1 4 8 3 = d
8 8 2 4 = d
1 3 8 2 = d
4 0 4 2 = d
0 8 0 2 = d
200
4 8 6 4 1 = d
100
0
20
1
10
30
40
2-Theta - Scale File: MZn3-7-6h.raw - Type: 2Th/Th locked - Start: 1.000 ° - End: 49.990 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 0.3 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 5 s - 2-Theta: 1.000 ° - Theta: 0.500 ° - Chi: 0.00 ° - Phi: 0.00 ° - X: 0.0 mm -
Phụ lục 3. Giản đồ XRD của Zn-MOF-199 tổng hợp bằng phương pháp dung nhiệt ở điều kiện nồng độ H3BTC 0,1 M; tỉ lệ mol Cu/Zn=3/7; nhiệt độ 100 oC; 360 phút.
Faculty of Chemistry, HUS, VNU, D8 ADVANCE-Bruker - MA-ML20GT
6000
5000
4000
3 6 6 . 7 = d
) s p C
3000
i
( n L
2000
.
.
.
.
8 0 4 3 1 = d
5 2 4 9 = d
2 2 6 6 = d
.
4 7 6 4 = d
7 8 0 5 = d
.
1000
.
.
.
.
.
.
5 9 9 7 = d
6 3 4 3 = d
0 6 0 6 = d
5 2 9 5 = d
.
.
.
4 4 0 3 = d
1 0 4 5 = d
.
6 0 4 4 = d
.
.
2 1 8 3 = d
6 9 6 3 = d
9 4 5 2 = d
0 0 3 2 = d
2 7 1 2 = d
7 6 9 1 = d
0
1
10
20
30
40
2-Theta - Scale File: MinhHue MA-ML20GT.raw - Type: 2Th/Th locked - Start: 0.885 ° - End: 49.886 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 0.3 s - Temp.: 25 °C (Room) - Time Started: 12 s - 2-Theta: 0.885 ° - Theta: 0.500 ° - Chi: 0.00 ° - Phi: 0.00 ° -
Phụ lục 4. Giản đồ XRD của H2N-MOF-199 tổng hợp vi sóng theo phương pháp gián tiếp thứ hai (MA-GT2).
Text
: SystemAdministrator : MCU : : 3 : 17
Acquired by Sample Name Sample ID Tray# Vial# Injection Volume : 20 uL Method Filename : BA & BDA 210 nm.lcm
mAU
Summary(Compound) PDA
1200
1050
y(Com
900
e d y h e d l a z n e B
750
600
450
300
l a t e c a l y h t e m i d e d y h e d l a z n e B
150
0
0.0
2.5
5.0
7.5
10.0
12.5
15.0
17.5
20.0
22.5
25.0 min
<< PDA >> ID#1 Compound Name: Benzaldehyde Sample ID
Sample Name
Height
MCU
Ret. Time 4.431
Area 8734233
794035
Number of Theoretical Plate(USP) 3531
Tailing Factor 0.882
ID#2 Compound Name: Benzaldehyde dimethyl acetal Ret. Time
Sample Name
Sample ID
Tailing Factor
MCU
5.241
Area 100487
Height 132177
Number of Theoretical Plate(USP) 9467
1.161
Phụ lục 5. Sắc kí đồ LC của hỗn hợp sau phản ứng khi sử dụng chất xúc tác MOF-199 ở điều kiện 20 mg xúc tác, 45 độ C, 6 giờ.
Text
: SystemAdministrator : M1 : : 1 : 18
Acquired by Sample Name Sample ID Tray# Vial# Injection Volume : 20 uL Method Filename : BA & BDA 210 nm.lcm
mAU
Summary(Compound) PDA
1600
1400
y(Com
1200
1000
800
e d y h e d l a z n e B
600
400
l a t e c a l y h t e m i d e d y h e d l a z n e B
200
0
0.0
2.5
5.0
7.5
10.0
12.5
15.0
17.5
20.0
22.5
25.0 min
<< PDA >> ID#1 Compound Name: Benzaldehyde Sample ID
Sample Name
Height
M1
Ret. Time 4.4517
Area 7812322
710222
Number of Theoretical Plate(USP) 3542
Tailing Factor 0.859
Sample Name
Sample ID
ID#2 Compound Name: Benzaldehyde dimethyl acetal Ret. Time 5.245
M1
Area 1622366
Height 213469
Number of Theoretical Plate(USP) 9455
Tailing Factor 1.162
Phụ lục 6. Sắc kí đồ LC của hỗn hợp sau phản ứng khi sử dụng chất xúc tác Zn-MOF-199 ở điều kiện 20 mg xúc tác, 45 oC, 6 giờ.
Text
: SystemAdministrator : M8 : : 3 : 8
Acquired by Sample Name Sample ID Tray# Vial# Injection Volume : 20 uL Method Filename : BA & BDA 210 nm.lcm
mAU
Summary(Compound) PDA
1600
1400
y(Com
1200
1000
l a t e c a l y h t e m i d e d y h e d l a z n e B
800
600
400
200
e d y h e d l a z n e B
0
0.0
2.5
5.0
7.5
10.0
12.5
15.0
17.5
20.0
22.5
25.0 min
<< PDA >> ID#1 Compound Name: Benzaldehyde Sample ID
Sample Name
Height
Number of Theoretical Plate(USP)
Tailing Factor
M8
Ret. Time 4.436
Area 1806851
164269
3533
0.867
Sample Name
Sample ID
Tailing Factor
ID#2 Compound Name: Benzaldehyde dimethyl acetal Ret. Time 5.248
M8
Area 7747117
Height 1019387
Number of Theoretical Plate(USP) 9458
1.160