YOMEDIA
Viêm tụy cấp (thể phù đơn thuần)
Chia sẻ: Thuoc Thuoc
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:5
121
lượt xem
13
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Biện chứng đông y: Can đởm thấp nhiệt uất trệ, phủ kín mất thông giáng. Cách trị: Sơ can thanh nhiệt lợi thấp, thông phủ công hạ. Đơn thuốc: Tả di thang. Công thức: Sinh đại hoàng 15g, Hậu phác 10g, Chỉ xác (sao) 10g, Quảng mộc hương 10g, Bồ công anh 30g, Sài hồ 15g, Hoàng cầm 15g, Nhân trần 30g. Sắc uống nếu đại tiện bí kết thì thêm Huyền minh phấn 12g, (chiêu với nước thuốc); bụng chướng nặng thêm Binh lang 15g, Xuyên luyện tử 10g, nôn mửa nhiều thêm Khương trúc nhự 10g, Đại giả...
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Viêm tụy cấp (thể phù đơn thuần)
- Viêm tụy cấp
(thể phù đơn thuần)
Biện chứng đông y: Can đởm thấp nhiệt uất trệ, phủ kín mất thông giáng.
Cách trị: Sơ can thanh nhiệt lợi thấp, thông phủ công hạ.
Đơn thuốc: Tả di thang.
Công thức: Sinh đại hoàng 15g, Hậu phác 10g, Chỉ xác (sao) 10g, Quảng
mộc hương 10g, Bồ công anh 30g, Sài hồ 15g, Hoàng cầm 15g, Nhân trần 30g.
Sắc uống nếu đại tiện bí kết thì thêm Huyền minh phấn 12g, (chiêu với nước
thuốc); bụng chướng nặng thêm Binh lang 15g, Xuyên luyện tử 10g, nôn mửa
nhiều thêm Khương trúc nhự 10g, Đại giả thạch 15g.
Hiệu quả lâm sàng: Theo dõi lâm sàng 7 ca viêm tụy cấp tính, chữa bằng
bài Tả di thang gia giảm đều khỏi trong thời gian ngắn.
Uông XX, nữ 70 tuổi, vào viện ngày 23-1-1978. Đau bụng trên liên tục, bột
phát thành cơn trong 2 ngày, kèm theo nôn oẹ nhiều lần, nôn ra nước, có lần 1 con
giun. Đau lan ra vùng lưng. Nôn xong có đỡ đau bụng hơn, đã hai ngày không đại
- đại tiện. Từ khi bị bệnh ǎn rất ít, miệng khô, đắng. Trước đây chưa từng bị bệnh
tương tự. Kiểm tra: Dáng vẻ đau đớn cấp tính, mất nước độ nhẹ, củng mạc không
vàng rõ rệt. Rêu lưỡi vàng hơi bẩn, chất lưỡi đỏ, nghe phổi không thấy tiếng ran,
tim đập 90 lần/phút, nhịp đều, không có tiếng bệnh lý. Bụng phẳng, thở bụng.
Vùng giữa mũi ức và rốn có ấn đau rõ rệt, ấn đau rõ rệt nhất ở vùng bụng trên hơi
lệch về bên trái, không có phản ứng thành bụng, không có hiện tượng ấn tay xuống
rồi nhấc tay lên mới đau, không nắn thấy khối cục, nhu động ruột tǎng nhiều, tứ
chi hoạt động bình thường, da không có ban chẩn, hệ thần kinh bình thường không
gây được phản xạ bệnh lý. Bạch cầu 22 000/mm3, trung tính 96%, lympho 4%,
amylase huyết thanh 1024 đơn vị (phương pháp Winslow). Chẩn đoán lâm sàng là
viêm tụy cấp tính (thể phù đơn thuần). Cho dùng Tả di thang thêm Huyền minh
phấn 15g (chiêu với nước thuốc), Xuyên luyện tử 10g. Sắc uống 1 thang chia làm
2 lần, cách 6 tiếng uống lần thứ hai. Ngày 24-1 khám lại, sau khi uống thuốc, hết
nôn, bớt đau bụng, nhưng còn chưa đại tiện được. Cho uống thêm 1 thang nữa, sau
khi uống 4 tiếng đồng hồ bắt đầu đi ngoài ra phân loãng, đi tất cả 5 lần, đau bụng
dần dần dứt hẳn, thấy đói, cho một ít thức ǎn lỏng. Ngày 25-1 hết đau bụng, tinh
thần chuyển biến tốt, hết lợm giọng nôn oẹ, muốn ǎn đã đã ǎn được 1 chút thức ǎn
lỏng. Amylase huyết thanh giảm còn 32 đơn vị. Giữ ở lại viện theo dõi 1 hôm,
thấy bệnh khỏi ổn định cho ra viện.
- Viêm teo dạ dày mạn có sa
niêm mạc dạ dày
Biện chứng đông y: Tì hư huyết ứ.
Cách trị: ích khí kiện tì, hóa ứ hành trệ.
Đơn thuốc: Sâm linh tán.
Công thức: Đảng sâm 40g, Ngũ linh chi 15g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Hà XX, 43 tuổi, công nhân, sơ chẩn ngày 3-5-1978. Bệnh nhân mắc bệnh từ
10 nǎm trước, có lúc đau bụng trên, thường đau sau khi ǎn uống, mỗi nǎm trung
bình lên cơn 1-2 lần, mỗi lần kéo dài 10-20 ngày. Sau tháng 12/1977 dạ dày đau
chướng mỗi ngày nặng, thường ợ hơi, đã dùng nhiều thuốc tây giảm đau chống co
thắt nhưng không giảm. Tháng 1/1978 vào bệnh viện điều trị. Soi dạ dày thấy:
niêm mạc ở đường cong lớn và đường cong nhỏ trắng đỏ xen kẽ, chủ yếu là trắng,
miệng đường cong nhỏ niêm mạc hang vị có điểm xuất huyết, xung huyết, nhu
động tǎng, khi nhu động niêm mạc có hiện tượng lật ra, chẩn đoán là viêm teo dạ
- dày mạn có sa niêm mạc dạ dày. Phân tích dịch vị và chụp X quang với bari sunfat
đều phù hợp với chẩn đoán trên. Hai tháng nằm bệnh viện đã trị bằng đông, tây y
vẫn không giảm được đau, phải xuất viện, tìm chỗ chữa.
Khám thấy vị quản đau chướng, ǎn xong thì càng đau chướng kịch liệt, sợ
ấn, không muốn ǎn uống, tay chân bải hỏai. Đó là tì khí bất túc, vị trệ huyết ứ. Nên
trị bằng phép kiện tì ích hí, hóa ứ thông trệ. Dùng bài "Sâm linh tán". Uống được 5
tháng, vị quản hơn giảm đau.
Thấy thuốc công hiệu bèn tiếp tục uống 18 thang nữa, vị quản cơ bản hết
đau, miệng hết khô, thang nữa thì hoàn toàn hết đau vị quản, mỗi bữa ǎn được trên
dưới 200g cơm, không còn cảm giác khó chịu gì khác.
Sau đó cǎn dặn chú ý việc ǎn uống, tránh các thức ǎn rang nướng, dùng
xen "Sâm linh tán" cho đến tháng 8 nǎm 1978 kiểm tra lại: soi dạ dày thấy niêm
mạc hết các biến đổi bệnh lý, phân tích dịch vị thấy acid bình thường, X quang có
bari sunfat dạ dày và tá tràng đều không thấy gì khác thường. Sau khi khỏi bệnh
gần 2 nǎm, hỏi lại chưa thấy tái phát.
Bàn luận:
Người xưa từng nói: Nhân sâm rất sợ Ngũ linh chi, đem hai vị thuốc này
mà phối ngũ là tương uý. Đảng sâm có tác dụng giống Nhân sâm, mà trên thực
tiễn lâm sàng đã thấy, Đảng sâm và Ngũ linh chi dùng chung, chữa nhiều ca viêm
dạ dày, loét dạ dày ỏư thể tì hư huyết ứ, đều có tác dụng rất tốt, cần nghiên cứu
thêm.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...