intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Việt Nam giàu năng lượng biển

Chia sẻ: Tuan Tuan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

81
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nước ta có bờ biển dài trên 3.200 km, đứng thứ 32 trong tổng số 156 quốc gia có biển. Do đó nước ta có tiềm năng năng lượng biển rất lớn, đặc biệt phải kể đến hai nguồn năng lượng khả quan nhất đó là gió và sóng. Nhằm giúp các bạn hiểu hơn về vấn đề này, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu " Việt Nam giàu năng lượng biển". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Việt Nam giàu năng lượng biển

  1. Việt Nam giàu năng lượng biển Viết bởi Tamnhin.net Thứ tư, 01 Tháng 2 2012 14:46 Nước ta có bờ biển dài trên 3.200 km, đứng thứ 32 trong tổng số 156 quốc   gia có biển. Do đó nước ta có tiềm năng năng lượng biển rất lớn, đặc biệt   phải kể đến hai nguồn năng lượng khả quan nhất đó là gió và sóng. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Trung tâm Khảo sát, Nghiên cứu, Tư  vấn Môi trường biển thuộc Viện Cơ  học, Viện Khoa học và Công nghệ  Việt  Nam là chuyên gia lão luyện về động lực học biển  ở nước ta. Ông đã dành cho  phóng viên cuộc phỏng vấn ngắn về tiềm năng năng lượng biển ở Việt Nam. Nước ta có bờ  biển dài trên 3.200 km, đứng thứ  32 trong tổng số  156 quốc   gia có biển. Nhưng liệu tiềm năng năng lượng biển của Việt Nam có tương   xứng với chiều dài không và hành trình nghiên cứu khai thác nguồn lợi đó đã   tiến đến đâu, thưa Tiến sĩ? Chúng tôi vừa thực hiện xong đề  tài cấp nhà nước về  nghiên cứu các nguồn   năng lượng, chủ  yếu là đề  xuất các giải pháp trên vùng biển Việt Nam. Đó là   đề  tài mang mã số  KC. 09.19/06­10 “Nghiên cứu đánh giá tiềm năng các nguồn   năng lượng biển chủ yếu và đề  xuất các giải pháp khai thác”. Như  chúng ta đã  biết, mặc dù trước đây chúng ta vẫn được coi là một nước có nguồn năng lượng  rất lớn như  than, dầu. Nhưng đến nay ta đã biết là các nguồn này đã cạn kiệt,   chúng ta vừa phải nhập than của các nước trong khu vực Đông Nam Á. Cho nên  đề  tài của chúng tôi có mục tiêu chính là tìm ra nguồn năng lượng mới có khả  năng tái tạo, không gây ô nhiễm không khí rồi đề ra các biện pháp khai thác. Nói về năng lượng biển thì tất cả các nguồn năng lượng tái tạo như là gió, sóng,   thủy triều, dòng chảy và năng lượng nhiệt biển, kể cả năng lượng bức xạ trên   biển, đều là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Nhưng do thời gian và kinh phí   có hạn nên chúng tôi tập trung vào các nguồn năng lượng biển chính là năng  lượng gió trên biển, năng lượng sóng trên biển và năng lượng bức xạ trên biển. Ở trên biển thì năng lượng gió có tiềm năng rất lớn so với năng lượng gió trên  đất liền. Nếu biết khai thác gió trên biển thì chúng ta sẽ  có một nguồn năng   lượng dồi dào hơn rất nhiều so với trên đất liền.
  2. Chúng ta cũng biết, gió sinh ra sóng. Hai nguồn năng lượng này có sự  tương  quan với nhau. Vùng nào có nguồn năng lượng gió mạnh thì chắc chắn sóng sẽ  mạnh. Tuy nhiên, công nghệ  khai thác năng lượng gió và năng lượng sóng khác  nhau. Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy có hai nguồn năng lượng khả quan nhất   đối với chúng ta. Thứ nhất là năng lượng gió, thứ hai là năng lượng sóng. Năng  lượng gió có thế  mạnh là đã được nghiên cứu khá lâu đời. Công nghệ  của nó  phát triển rất mạnh, tuốc bin gió đã có các loại thế  hệ  ba và công suất tới 20   MW, rất lớn. Trong khi năng lượng sóng mới phát triển nhưng sóng có tiềm   năng rất lớn. Đặc biệt, chúng ta có vùng bờ  biển rất dài, cho nên cả  hai nguồn năng lượng  đấy là hai nguồn năng lượng chính. Mỗi nguồn năng lượng có một thế  mạnh  nhưng trước mắt theo chúng chúng tôi đánh giá thì có lẽ  chúng ta sẽ  khai thác  nguồn năng lượng gió trước, xong rồi mới đến năng lượng sóng. Khai thác các nguồn năng lượng truyền thống, chúng ta gây ô nhiễm rất lớn đối  với môi trường. Năng lượng tái tạo chẳng phải hoàn toàn không gây ô nhiễm mà   là gây ô nhiễm rất ít đối với không khí và biển. Xin Tiến sĩ cho biết cụ thể hơn ưu thế về năng lượng biển ở từng khu vực   của nước ta? Sau khi nghiên cứu, tiến hành đo đạc hiện trường rồi tính toán, chúng tôi xây  dựng bản đồ và chúng tôi phát hiện hai vùng có tiềm năng năng lượng sóng, gió   lớn nhất là vùng giữa Vịnh Bắc Bộ, ví dụ đảo Cô Tô, Bạch Long Vĩ. Vùng lớn   hơn nữa là ngoài khơi của Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận). Theo tiêu  chí đánh giá năng lượng của Tổ chức Khí tượng thế giới, Vịnh Bắc Bộ được coi  là vùng có năng lượng gió tốt, còn vùng ven bờ  Nam Trung Bộ  thì được xếp  hạng rất tốt. Tiềm năng sóng cũng tương tự như vậy. Nếu khai thác năng lượng   gió biển  ở  Việt Nam thì chắc chắn phải xây dựng trang trại năng lượng gió  ở  hai vùng đấy. Trang trại khai thác gió  Nhưng nên khai thác  ở  bờ  biển Nam Trung Bộ  trước. Bởi vì gió  ở  trên biển  mạnh hơn nhưng muốn làm được một cái chân đế  có máy   phát điện bằng sức 
  3. gió thì việc xây dựng ở dưới biển tốn kém hơn nhiều so với trên đất liền. Cho  nên vùng ven bờ Nam Trung Bộ chắc chắn sẽ được khai thác đầu tiên. Về năng lượng thủy triều thì chúng ta có hai vùng khả quan. Thứ nhất là Quảng   Ninh, có thủy triều lên đến 4 mét. Thứ hai là ở Đồng bằng Nam Bộ, thủy triều   vào khoảng 3 mét. Nhưng thực ra thủy triều 3 hoặc 4 mét nước thì cũng không  tự tạo ra dòng điện để  đưa vào lưới điện được mà còn cần những yếu tố  khác  nữa. Chúng tôi cho rằng  ở Việt Nam năng lượng thủy triều nên được khai thác  dưới dạng cục bộ, ví dụ  những nhà máy năng lượng nhỏ  để  phục vụ  cho từng  đảo. Chúng ta chưa thể  sớm khai thác năng lượng thủy triều  ở  quy mô công   nghiệp.  Tiến sĩ và các cộng sự đã áp dụng phương pháp gì để nghiên cứu tiềm năng   năng lượng biển ở Việt Nam, kết quả đạt được như thế nào? Về phương pháp thực hiện đề tài thì chúng tôi có nguyên lý nghiên cứu cơ bản,   tức chúng tôi đo đạc, thực nghiệm, sau đó tính toán và kết quả cuối cùng là đánh   giá tiềm năng thể hiện trong các tập bàn đồ. Ví dụ, tập bản đồ  tiềm năng năng  lượng gió, năng lượng sóng, năng lượng bức xạ, năng lượng thủy triều trên   biển. Công việc của chúng tôi rất tỉ mỉ. Chẳng hạn, gió biến đổi ở  độ  cao khác nhau  cho nên muốn nghiên cứu được năng lượng gió thì chúng tôi phải đo ở các tầng  khác nhau. Kể  cả  sóng cũng như  vậy, chúng tôi phải đi đo sóng trong các mùa   khác nhau thì mới có kết quả chính xác. Từ góc độ số liệu đo được chúng tôi đã  điều chỉnh các mô hình tính toán và chúng tôi thu thập các chế độ gió trong mạng  lưới khí tượng toàn cầu. Từ đấy chúng tôi đã tính toán, xây dựng các tập bản đồ  tiềm năng năng lượng gió, tiềm năng năng lượng sóng, năng lượng thủy triều ở  trên Biển Đông và đặc biệt là chi tiết ven bờ Việt Nam. Chúng tôi mới thực hiện được các nghiên cứu cơ  bản, đưa ra tập bản đồ  tiềm   năng, đánh giá các vùng có tiềm năng lớn nhất, còn đến khi khai thác thì chúng ta   phải có những nghiên cứu chi tiết hơn. Mặc dầu vậy công việc của chúng tôi  rất quan trọng vì những nhà đầu tư khi muốn xây dựng các trạm tạo năng lượng   từ gió thì sẽ phải tham khảo các bản đồ của chúng tôi để biết được vùng nào là  có tiềm năng nhất.
  4. Về công nghệ khai thác thì chúng ta đang áp dụng công nghệ nước ngoài, thí dụ  Đức là nước sản xuất tua bin rất mạnh. Các thiết bị  của chúng ta đều nhập từ  Đức. Theo tôi nghĩ thì hiện giờ đã có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu của chúng tôi  rồi. Bởi vì năng lượng gió trên biển bao gồm cả bờ biển cho đến trên mặt biển,   nhất là hiện giờ   ở  bờ  biển Nam Trung Bộ  đã có trang trại khai thác, khai thác  năng lượng gió rất lớn và những trang trại  ấy nằm trên bờ  biển. Cho nên các  nhà đầu tư ngay từ bây giờ đã có thể ứng dụng được các tài liệu của chúng tôi.   Còn năng lượng sóng biển thì cần một thời gian nữa, khoảng 10 năm, may ra  chúng ta mới có thể có được các trang trại khai thác sóng tương tự như trang trại   khai thác gió hiện nay. Tôi cho là việc áp dụng mỗi một công nghệ  mới đòi hỏi sự  quá độ  cũng như  nhận thức của các nhà quản lý, nhân dân và các nhà khoa học và các công trình  nghiên cứu như của chúng tôi. Thế  nên tôi cho rằng sự  phát triển của chúng ta  cũng phù hợp với lịch sử. Hiện giờ chúng ta có một số trang trại khai thác gió đã  được nối mạng và đã đưa nguồn năng lượng đó vào lưới điện quốc gia. Việt Nam (VN) cần sớm thức tỉnh trước nguồn năng lượng xanh khổng lồ  trên một triệu kilomet vuông biển, với công suất thương mại có thể gấp  hàng trăm lần tổng nhu cầu công suất điện cả nước vào năm 2020. Các nguồn điện được sản xuất từ các nguồn năng lượng biển ở VN có thể đạt   tới hàng triệu kw, đồng thời còn hạn chế  được các thiên tai trên biển. Tại các  vùng hải đảo, hệ thống năng lượng biển còn giúp giám sát chủ quyền quốc gia. VN đã và đang triển khai tại vùng ven biển các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà   Vinh với công suất gần 500 megawatt (MW)/20km2. Nếu nhân rộng ra hàng  trăm nghìn kilomet vuông biển nông, riêng nguồn phong điện trên biển, có thể  thu được hàng ngàn gigawatt (GW) điện, mỗi GW tương đương 1.000 MW. Tính toán sơ  bộ  cho thấy, chỉ  cần khai thác 10% diện tích biển nông, chúng ta   cũng đã có thể  đạt được công suất phong điện gấp 100 lần nhà máy thủy điện  Sơn La (công suất thủy điện Sơn La là 3.600 MW). Phát biểu tại hội thảo kinh tế  xanh diễn ra  ở  tỉnh Quảng Ninh sáng 4­6, Thứ  trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Bùi Cách Tuyến cho hay, chỉ  riêng nguồn 
  5. năng lượng gió ở các vùng đảo xa VN đã là 2.700­4.500 kwh/m2/năm, trong khi   ở vùng ven biển là 1.700­4.200 kwh/m2/năm. Phát triển phong điện trên biển và các năng lượng khác sẽ  làm gia tăng giá trị  từng kilomet vuông biển, song hành cùng các ngành kinh tế  biển truyền thống   như hàng hải, đánh bắt hải sản. Và khi phát triển các dạng năng lượng xanh mới   trên biển sẽ  tạo ra những không gian­diện mạo sinh tồn mới, nhiều việc làm  xanh   mới. Đủng đỉnh Đáng tiếc, tốc độ  đầu tư  và khai thác nguồn năng lượng sạch vô tận này vẫn  khá chậm so với những gì thế giới đang làm và so với tiềm năng của đất nước. Một trong những dấu hiệu điển hình là VN còn khá đủng đỉnh trong việc xem  xét có nên gia nhập Nhóm Quốc tế về Năng lượng Đại dương (OES). OES được  Ủy ban Năng lượng Quốc tế  (IEA) thành lập năm 2001, có nhiệm vụ  hỗ  trợ,  chuyển giao, thúc đẩy hợp tác quốc tế về các dự án điện biển cho các quốc gia   có biển. Đến nay, OES đã có 20 quốc gia thành viên. Kể từ khi OES ra đời, việc đầu tư  nghiên cứu các công nghệ khai thác năng lượng biển có nhiều tiến bộ vượt bậc. Thế  kỷ  20, mới có một mô hình năng lượng biển cạnh tranh thành công, nhà  máy điện thủy triều ở Rance (Pháp) năm 1967 công suất 240 megawatt (MW). Nhưng chỉ sau một thập niên đầu tiên của Thế kỷ 21, sau khi OES thành lập, đã   có  một dự   án mang tên Sihwa của Hàn Quốc, năm 2011, với công suất 254   megawatt (MW), bằng 1/5 công suất nhà máy thủy điện Hòa Bình của VN. Mới đây nhất, tháng 4­2012, một công viên phong điện khác đi vào hoạt động  như Walney của Anh Quốc công suất 367 MW. Cùng lúc, các dự án cỡ vài GW   cũng đang được triển khai trên nhiều vùng đại dương. Dựa vào  ưu tế  của OES, Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ, Trung Quốc,  Ấn Độ,   New Zealand đều đặt mục tiêu, đến năm 2020, đưa tỷ  lệ  đóng góp của điện  biển lên mức cao hơn rất nhiều lần so với chỉ tiêu của VN. OES giúp công nghệ  điện biển liên tục được thương mại hóa với suất đầu  tư/kw giảm nhanh, trở  nên ngày càng cạnh tranh so với các nguồn năng lượng  truyền thống như  than đá, dầu khí, thủy điện, hạt nhân. Theo OES, đến năm  2050, ngành năng lượng đại dương thế  giới sẽ  tạo 160.000 việc làm, sản xuất  ra 748 GW điện, giảm phát thải 5,2 tỷ tấn khí gây hiệu ứng nhà kính CO2 .
  6. Vậy mà, khi được mời tham gia OES, VN lại cho biết đang nghiên cứu lời mời.  Đã đến lúc VN cần sớm tham gia các tổ chức quốc tế để có thể triển khai hiệu  quả  một chiến lược năng lượng xanh trên biển, làm cho  ước mơ  “rừng vàng,  biển bạc” thành hiện thực. Nguồn năng lượng sạch khổng lồ trên biển Việt Nam 18/07/2012 09:46:59 Tương lai không xa, với việc làm chủ về công nghệ và năng lực vận hành khai  thác, bờ  biển và các vùng hải đảo của Việt Nam sẽ  hình thành các cánh đồng   điện gió và năng lượng mặt trời rộng lớn. Nguồn năng lượng khổng lồ này giúp   Việt Nam đủ  sử  dụng cho nhu cầu trong nước, tiến tới xuất khẩu năng lượng  hàng đầu khu vực ASEAN. Việt Nam có thể khai thác được nguồn năng lượng sạch từ biển khơi Nguồn năng lượng khổng lồ từ biển Tiến sĩ, kỹ sư Trần Văn Bình, một trí thức kiều bào có 12 năm làm việc tại Tập   đoàn Dầu mỏ và Khí đốt quốc gia DEMINEX/VEBA OIL (Đức) dẫn một khảo  sát của Ngân hàng Thế  giới (World Bank) đánh giá, Việt Nam có thể  khai thác  được nguồn năng lượng sạch từ  biển khơi, nhiều gấp hơn 200 lần sản lượng   điện nhà máy thủy điện Sơn La đang khai thác và gấp 10 lần tổng công suất  điện dự báo của EVN cho toàn quốc vào năm 2020. Theo Tiến sĩ Bình, Nhà nước và Chính phủ nên tích cực hơn trong việc hỗ trợ và  tạo điều kiện cho việc ra đời các Hiệp hội chuyên ngành, như  Hiệp hội Năng   lượng Tái tạo Việt Nam. "Theo kinh nghiệm của chúng tôi, chính những tổ chức   của cộng đồng này sẽ làm tốt công việc tư vấn, đề xuất và góp ý về khung pháp   lý cho ngành năng lượng tái tạo và xa hơn nữa tiến tới xây dựng hoàn chỉnh Bộ  luật Năng lượng Tái tạo Việt Nam”. Ông cũng kiến nghị, chính phủ Việt Nam có chính sách hỗ trợ, nâng đỡ, trợ giá,   nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho những dự án (hiện vẫn còn nằm trên bảng   vẽ) mau chóng trở  thành hiện thực, để  mục tiêu về  một nền kinh tế  hướng ra   biển có khả năng đạt được như mong muốn, (sử dụng khoảng 11% năng lượng   tái tạo vào năm 2050).   Nhiều dự án năng lượng ven biển và ngoài khơi Đan Mạch là nước đứng đầu quan tâm tới các dự án "tăng trưởng xanh” tại Việt   Nam, với khoảng 135 triệu USD vốn ODA viện trợ  cho Việt Nam trong năm 
  7. 2011 – 2012. Tiếp theo là Hoa Kỳ, với cam kết cấp tín dụng (khoảng 1 tỷ USD)   từ  Eximbank để  đầu tư  phát triển điện gió tại Bạc Liêu, Sóc Trăng và Kiên  Giang cho giai đoạn 2011 – 2015. Việt Nam và Đức cũng ký một hiệp định tài   chính trị giá 450 triệu Euro, trong đó có lĩnh vực môi trường. Các doanh nghiệp   Đức cũng đánh giá nhiều tiềm năng hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực năng  lượng tái tạo. "Dự  án tổng thể  năng lượng sạch và chiếu sáng quần đảo Trường Sa và Nhà  giàn DK” là dự án trọng điểm quốc gia, bao gồm 6 hạng mục, được triển khai   với quy mô lớn, trải dài trên 48 đảo và nhà dàn thuộc quần đảo Trường Sa –  Việt Nam. Hiện dự án đã triển khai lắp đặt hơn 5.700 tấm pin năng lượng mặt  trời, hơn 120 quạt gió, hơn 4.000 bình  ắc quy, gần 1.000 bộ  đèn LED sử  dụng  năng lượng mặt trời chiếu sáng sân đường và tường kè... Ước tính, hệ thống đã  cung cấp tổng năng lượng hơn 5.167Kwh/ngày (khoảng 155.000Kwh/tháng) cho  toàn quần đảo Trường Sa. Theo Bộ Tư lệnh Hải quân, việc vận chuyển, lắp đặt thiết bị trong môi trường   khắc nghiệt tại đảo xa là một trong những thử thách lớn đối với cán bộ, chiến sĩ  hải quân. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) và Solar BK hỗ trợ vốn  và triển khai lắp đặt vận hành, chuyển giao công nghệ  sử  dụng cho các cán bộ  kỹ thuật tại các đảo. Khi đi vào hoạt động, dự án không chỉ đảm bảo cung cấp   đầy đủ  năng lượng 24/24 giờ phục vụ chiến đấu và sinh hoạt cho quân và dân  Trường Sa, mà còn góp phần quan trọng trong việc giảm phát thải CO2. Tiến sĩ Trần Văn Bình cho biết, tính tới cuối năm 2011,   Việt Nam có khoảng 37 đề  án do 31 nhà đầu tư  trong   và ngoài nước đầu tư vào ngành năng lượng. Trong số   đó   nhiều   nhất   là   tại   ven   biển   Bình   Thuận   và   Ninh   Thuận, tuy nhiên hiện mới chỉ  có duy nhất một dự  án   tại huyện Tuy Phong của Bình Thuận được đưa vào   hoạt động. Các dự án khác vẫn nằm trên bảng vẽ hoặc   mới chỉ vừa dựng xong cột quan trắc. Năng lượng tái tạo từ biển > Nhiều hoạt động trong Tuần lễ biển và hải đảo TP ­ Dựa vào Chiến lược Biển VN đến năm 2020, năng lượng biển đúng là  đang bắt đầu được triển khai. Tuy nhiên, trong bối cảnh ngày càng nhiều  nước đầu tư mạnh cho năng lượng biển, hoạt động triển khai ở nước ta  vẫn chưa được tiến hành hệ thống.
  8. Theo TS. Dư Văn Toán (Viện Nghiên cứu Quản lý Biển & Hải đảo, Tổng cục  Biển& Hải đảo Việt Nam), đến thời điểm này, chúng ta vẫn chưa có cơ quan  đầu mối trong việc lập quy hoạch chiến lược phát triển năng lượng biển. Sự thật là, hiện tại, phát triển năng lượng biển ở VN mới chỉ ở giai đoạn sơ  khai. Hầu như cái gì chúng ta cũng có nghiên cứu nhưng lại chỉ có một vài thông  số cơ bản. Chẳng hạn, chúng ta có mấy thông số về mật độ của các dạng năng lượng biển.  Tuy nhiên, các thông số để có những ứng dụng cụ thể phát điện trên biển thì lại  chưa có. Nhiều cái “chưa” đáng chú ý khác nữa như chưa thực hiện quy hoạch, phân  vùng năng lượng biển; chưa làm các cơ chế chính sách đặc thù của VN với năng  lượng biển. Các nghiên cứu mới chỉ thực hiện ở mức đủ để được nghiệm thu, thông qua.  Nhưng từ các đề tài khoa học công nghệ ấy, chưa thấy có triển khai ứng dụng,  lắp đặt thiết bị phát điện nào đáng kể. Nghiên cứu, khai thác và sử dụng các dạng năng lượng tái tạo ở nước ta gần 30  năm qua chủ yếu tập trung vào thủy điện. Các dạng năng lượng khác chưa nghiên cứu đánh giá tiềm năng đầy đủ, cũng  như chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, đầu tư đúng mức. Thờ ơ và chậm chạp với năng lượng tái tạo trong nghiên cứu có một phần  nguyên nhân không nhỏ là không có động lực từ thị trường, không có cả dự án  đặt hàng từ các nhà vạch chính sách, từ các nhà kinh doanh. Kế hoạch phát triển  điện đến năm 2020 là ví dụ. Thật khó giải thích sự thờ ơ này của các nhà lập kế hoạch, các nhà đầu tư, cho  dù các số liệu cụ thể về tiềm năng năng lượng tái tạo ở VN chưa được rõ ràng  như ở nhiều nước. Dù chưa đến mức tường minh, các nghiên cứu ban đầu về năng lượng tái tạo  VN cũng đủ để khiến những ai lo cho an ninh năng lượng của đất nước phải  quan tâm. Tuần lễ Biển và Hải đảo năm 2012 sẽ diễn ra tại TP Vũng Tàu từ ngày 5­6 đến  hết ngày 10­6 với tổng kinh phí khoảng 3,3 tỷ đồng. Trong khuôn khổ “Tuần lễ biển đảo Việt Nam”, sẽ có nhiều hoạt động như: Lễ  mít tinh hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới, Diễn đàn Thương hiệu Biển lần  IV với chủ đề “Tiềm năng kinh tế sinh thái môi trường các đảo, quần đảo Việt  Nam”, Diễn đàn Kinh tế biển Việt Nam lần III… Ngoài ra, từ 1 đến 8­6, tại đây cũng diễn ra Hội chợ “Kinh tế biển Việt Nam  năm 2012” và triển lãm “Tiềm năng kinh tế và chủ quyền biển, đảo Việt Nam”.
  9. Đặc biệt, tối 8­6 sẽ có chương trình giao lưu nghệ thuật về biển đảo với chủ  đề “Việt Nam mạnh về biển, làm giàu từ biển” được truyền hình trực tiếp trên  VTV. Năng lượng biển của Việt Nam nhiều hay ít? Xem tin gốc  Tamnhin.net ­ 9 tháng trước 177 lýợt xem (Tamnhin.net) ­ Nước ta có bờ biển dài trên 3.200 km, đứng thứ 32 trong  tổng số 156 quốc gia có biển. Do đó nước ta có tiềm năng năng lượng biển  rất lớn, đặc biệt phải kể đến hai nguồn năng lượng khả quan nhất đó là  gió và sóng. Facebook Twitter 0 bình ch   ọn    Viết bình luận  Lưu bài này Để trả lời câu hỏi này PV đã phỏng vấn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh  Hùng, Trung tâm Khảo sát, Nghiên cứu, Tư vấn Môi trường biển thuộc Viện Cơ  học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ông là chuyên gia lão luyện về  động lực học biển ở nước ta. Nước ta có bờ biển dài trên 3.200 km, đứng thứ 32 trong tổng số 156 quốc gia  có biển. Nhưng liệu tiềm năng năng lượng biển của Việt Nam có tương xứng  với chiều dài không và hành trình nghiên cứu khai thác nguồn lợi đó đã tiến đến   đâu, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (TS NMH): Chúng tôi vừa thực hiện xong đề tài  cấp nhà nước về nghiên cứu các nguồn năng lượng, chủ yếu là đề xuất các giải  pháp trên vùng biển Việt Nam. Đó là đề tài mang mã số KC. 09.19/06­10  “Nghiên cứu đánh giá tiềm năng các nguồn năng lượng biển chủ yếu và đề xuất  các giải pháp khai thác”. Như chúng ta đã biết, mặc dù trước đây chúng ta vẫn  được coi là một nước có nguồn năng lượng rất lớn như than, dầu. Nhưng đến  nay ta đã biết là các nguồn này đã cạn kiệt, chúng ta vừa phải nhập than của các  nước trong khu vực Đông Nam Á. Cho nên đề tài của chúng tôi có mục tiêu 
  10. chính là tìm ra nguồn năng lượng mới có khả năng tái tạo, không gây ô nhiễm  không khí rồi đề ra các biện pháp khai thác. Nói về năng lượng biển thì tất cả các nguồn năng lượng tái tạo như là gió, sóng,  thủy triều, dòng chảy và năng lượng nhiệt biển, kể cả năng lượng bức xạ trên  biển, đều là đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Nhưng do thời gian và kinh phí  có hạn nên chúng tôi tập trung vào các nguồn năng lượng biển chính là năng  lượng gió trên biển, năng lượng sóng trên biển và năng lượng bức xạ trên biển. Ở trên biển thì năng lượng gió có tiềm năng rất lớn so với năng lượng gió trên  đất liền. Nếu biết khai thác gió trên biển thì chúng ta sẽ có một nguồn năng  lượng dồi dào hơn rất nhiều so với trên đất liền. Chúng ta cũng biết, gió sinh ra sóng. Hai nguồn năng lượng này có sự tương  quan với nhau. Vùng nào có nguồn năng lượng gió mạnh thì chắc chắn sóng sẽ  mạnh. Tuy nhiên, công nghệ khai thác năng lượng gió và năng lượng sóng khác  nhau. Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy có hai nguồn năng lượng khả quan nhất  đối với chúng ta. Thứ nhất là năng lượng gió, thứ hai là năng lượng sóng. Năng  lượng gió có thế mạnh là đã được nghiên cứu khá lâu đời. Công nghệ của nó  phát triển rất mạnh, tuốc bin gió đã có các loại thế hệ ba và công suất tới 20  MW, rất lớn. Trong khi năng lượng sóng mới phát triển nhưng sóng có tiềm  năng rất lớn. Đặc biệt, chúng ta có vùng bờ biển rất dài, cho nên cả hai nguồn năng lượng  đấy là hai nguồn năng lượng chính. Mỗi nguồn năng lượng có một thế mạnh  nhưng trước mắt theo chúng chúng tôi đánh giá thì có lẽ chúng ta sẽ khai thác  nguồn năng lượng gió trước, xong rồi mới đến năng lượng sóng.
  11. Khai thác các nguồn năng lượng truyền thống, chúng ta gây ô nhiễm rất lớn đối  với môi trường. Năng lượng tái tạo chẳng phải hoàn toàn không gây ô nhiễm mà  là gây ô nhiễm rất ít đối với không khí và biển. Xin Tiến sĩ cho biết cụ thể hơn ưu thế về năng lượng biển ở từng khu vực  của nước ta? Sau khi nghiên cứu, tiến hành đo đạc hiện trường rồi tính toán, chúng tôi xây  dựng bản đồ và chúng tôi phát hiện hai vùng có tiềm năng năng lượng sóng, gió  lớn nhất là vùng giữa Vịnh Bắc Bộ, ví dụ đảo Cô Tô, Bạch Long Vĩ. Vùng lớn  hơn nữa là ngoài khơi của Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận). Theo tiêu  chí đánh giá năng lượng của Tổ chức Khí tượng thế giới, Vịnh Bắc Bộ được coi  là vùng có năng lượng gió tốt, còn vùng ven bờ Nam Trung Bộ thì được xếp  hạng rất tốt. Tiềm năng sóng cũng tương tự như vậy. Nếu khai thác năng lượng  gió biển ở Việt Nam thì chắc chắn phải xây dựng trang trại năng lượng gió ở  hai vùng đấy. Trang trại khai thác gió Nhưng nên khai thác ở bờ biển Nam Trung Bộ trước. Bởi vì gió ở trên biển  mạnh hơn nhưng muốn làm được một cái chân đế có máy phát điện bằng sức  gió thì việc xây dựng ở dưới biển tốn kém hơn nhiều so với trên đất liền. Cho  nên vùng ven bờ Nam Trung Bộ chắc chắn sẽ được khai thác đầu tiên. Về năng lượng thủy triều thì chúng ta có hai vùng khả quan. Thứ nhất là Quảng  Ninh, có thủy triều lên đến 4 mét. Thứ hai là ở Đồng bằng Nam Bộ, thủy triều  vào khoảng 3 mét. Nhưng thực ra thủy triều 3 hoặc 4 mét nước thì cũng không  tự tạo ra dòng điện để đưa vào lưới điện được mà còn cần những yếu tố khác  nữa. Chúng tôi cho rằng ở Việt Nam năng lượng thủy triều nên được khai thác 
  12. dưới dạng cục bộ, ví dụ những nhà máy năng lượng nhỏ để phục vụ cho từng  đảo. Chúng ta chưa thể sớm khai thác năng lượng thủy triều ở quy mô công  nghiệp. Tiến sĩ và các cộng sự đã áp dụng phương pháp gì để nghiên cứu tiềm năng  năng lượng biển ở Việt Nam, kết quả đạt được như thế nào? Về phương pháp thực hiện đề tài thì chúng tôi có nguyên lý nghiên cứu cơ bản,  tức chúng tôi đo đạc, thực nghiệm, sau đó tính toán và kết quả cuối cùng là đánh  giá tiềm năng thể hiện trong các tập bàn đồ. Ví dụ, tập bản đồ tiềm năng năng  lượng gió, năng lượng sóng, năng lượng bức xạ, năng lượng thủy triều trên  biển. Công việc của chúng tôi rất tỉ mỉ. Chẳng hạn, gió biến đổi ở độ cao khác nhau  cho nên muốn nghiên cứu được năng lượng gió thì chúng tôi phải đo ở các tầng  khác nhau. Kể cả sóng cũng như vậy, chúng tôi phải đi đo sóng trong các mùa  khác nhau thì mới có kết quả chính xác. Từ góc độ số liệu đo được chúng tôi đã  điều chỉnh các mô hình tính toán và chúng tôi thu thập các chế độ gió trong mạng  lưới khí tượng toàn cầu. Từ đấy chúng tôi đã tính toán, xây dựng các tập bản đồ  tiềm năng năng lượng gió, tiềm năng năng lượng sóng, năng lượng thủy triều ở  trên Biển Đông và đặc biệt là chi tiết ven bờ Việt Nam. Chúng tôi mới thực hiện được các nghiên cứu cơ bản, đưa ra tập bản đồ tiềm  năng, đánh giá các vùng có tiềm năng lớn nhất, còn đến khi khai thác thì chúng ta  phải có những nghiên cứu chi tiết hơn. Mặc dầu vậy công việc của chúng tôi  rất quan trọng vì những nhà đầu tư khi muốn xây dựng các trạm tạo năng lượng  từ gió thì sẽ phải tham khảo các bản đồ của chúng tôi để biết được vùng nào là  có tiềm năng nhất. Về công nghệ khai thác thì chúng ta đang áp dụng công nghệ nước ngoài, thí dụ  Đức là nước sản xuất tua bin rất mạnh. Các thiết bị của chúng ta đều nhập từ  Đức.
  13. Theo tôi nghĩ thì hiện giờ đã có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu của chúng tôi  rồi. Bởi vì năng lượng gió trên biển bao gồm cả bờ biển cho đến trên mặt biển,  nhất là hiện giờ ở bờ biển Nam Trung Bộ đã có trang trại khai thác, khai thác  năng lượng gió rất lớn và những trang trại ấy nằm trên bờ biển. Cho nên các  nhà đầu tư ngay từ bây giờ đã có thể ứng dụng được các tài liệu của chúng tôi.  Còn năng lượng sóng biển thì cần một thời gian nữa, khoảng 10 năm, may ra  chúng ta mới có thể có được các trang trại khai thác sóng tương tự như trang trại  khai thác gió hiện nay. Tôi cho là việc áp dụng mỗi một công nghệ mới đòi hỏi sự quá độ cũng như  nhận thức của các nhà quản lý, nhân dân và các nhà khoa học và các công trình  nghiên cứu như của chúng tôi. Thế nên tôi cho rằng sự phát triển của chúng ta  cũng phù hợp với lịch sử. Hiện giờ chúng ta có một số trang trại khai thác gió đã  được nối mạng và đã đưa nguồn năng lượng đó vào lưới điện quốc gia. http://tailieu.vn/tag/tai­lieu/t%C3%A0i%20nguy%C3%AAn%20ven%20bi %E1%BB%83n.html?page=2 Năng lượng gió ­ Tiềm năng và triển vọng Posted: April 26, 2012, 11:08 am Tóm tắt Phong điện có ưu điểm không tốn nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi trường và  không khó chọn địa điểm như các nhà máy thủy điện. Các trạm phong điện có  thể lắp đặt tại bất kỳ tại địa điểm nào gần nơi tiêu thụ điện, như vậy tránh  được chi phí cho việc xây dựng đường dây tải điện. Các trạm phong điện đặt ở  ven biển sẽ cho sản lượng cao hơn các trạm nội địa vì bờ biển thường có gió  mạnh, công suất sẽ cao hơn. Giải pháp này giúp tiết kiệm đất xây dựng, đồng  thời việc vận chuyển các thiết bị lớn trên biển cũng thuận lợi hơn đường bộ.  Những mõm núi, đồi hoang không sử dụng được cho công nghiệp, nông nghiệp  cũng là nơi lý tưởng để xây dựng một trạm phong điện, giải pháp này sẽ tiết  kiệm chi phí xây dựng trụ đỡ cao. Bài viết này nhằm giới thiệu một vài ưu điểm   của năng lượng gió, những lợi ích về mặt kinh tế và đề xuất một số khu vực xây   dựng năng lượng gió cũng như tiềm năng phát triển bền vững ở Việt Nam trong  
  14. tương lai.   I. Giá thành của điện gió, liệu có đắt như định kiến? Cho đến tận những năm 1990, nhiều người vẫn cho rằng giá thành (bao gồm giá  lắp đặt và vận hành) của các trạm điện gió khá cao. Nhưng ngày nay, định kiến  này đang được nhìn nhận và đánh giá lại, đặc biệt khi quan niệm giá thành  không chỉ bao gồm chi phí kinh tế mà còn gồm cả những chi phí ngoài (external  cost – như chi phí về xã hội do phải tái định cư, hay về môi trường do ô nhiễm).  Trong khi nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí  đốt đang bị coi là kém ổn định và có xu thế tăng giá,  thì  cùng  với  sự  phát   triển  nhanh chóng của công nghệ, giá thành của các trạm điện gió càng ngày  càng rẻ hơn. Hệ thống năng lượng điện gió Thử lấy một ví dụ cụ thể để so sánh giá thành của điện gió và thủy điện. Nhà  máy thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 MW, được  dự kiến xây dựng trong 7 năm với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD.Giá thành khi  phát điện (chưa tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy để có được 1 KW công suất cần đầu tư 1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó theo thời  giá năm 2003 đầu tư cho 1 KW điện gió ở nhiều nước Châu Âu cũng vào  khoảng 1.000 USD. Đáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm do cải tiến  công nghệ. Nếu thời gian sử dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm  thì chi phí khấu hao cho một KWh điện gió là sẽ 14 USD. Cộng thêm chi phí  thường xuyên thì tổng chi phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng  48  –   60  USD/MWh  ­  tương đương với thủy điện, vốn được coi là nguồn năng  lượng rẻ và hiệu quả. Theo dự đoán, đến năm 2020 giá thành điện gió sẽ     giảm    đáng    kể,    chỉ    khoảng    600USD/KW, khi ấy chi phí quản lý và vận  hành sẽ giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30USD/MWh. Ở Việt Nam cũng đã có một dự án điện gió với công suất 50 MW, đó là nhà máy  điện gió Phương Mai ở Bình Định phục  vụ  cho  Khu  Kinh  tế  Nhơn  Hội.  Tổng đầu tư giai đoạn 1 cho 50MW điện là 65 triệu USD, và giá bán điện dự  kiến là 45 USD/MWh. Tiếc rằng tiến độ xây dựng nhà máy quá chậm chạp  (mặc dù thời  gian  dự  kiến  xây  lắp  chỉ  trong khoảng một năm), và vì vậy  không thể đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án một cách chính xác để so sánh  với giá thành của các nguồn năng lượng khác hiện có ở Việt Nam. II. Những lợi ích về môi trường và xã hội của điện gió:
  15. Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây ảnh  hưởng xấu về mặt xã hội. Để xây dựng một nhà máy thủy điện lớn cần phải  nghiên cứu kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra với đập nước. Ngoài ra, việc di  dân cũng như việc mất các vùng đất canh tác truyền thống sẽ đặt gánh nặng lên  vai những người dân xung quanh khu vực đặt nhà máy, và đây cũng là bài toán  khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Hơn nữa, các khu vực để có thể quy  hoạch các đập nước tại Việt Nam cũng không còn nhiều. Song hành với các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ gây ảnh hưởng lâu dài đến  cuộc sống của người dân xung quanh nhà máy. Các bài học về rò rỉ hạt nhân  cộng thêm chi phí đầu tư cho công nghệ, kĩ thuật quá lớn khiến ngày càng có  nhiều sự ngần ngại khi sử dụng loại năng lượng này. Các nhà máy điện chạy  nhiên liệu hóa thạch thì luôn là những thủ phạm gây ô nhiễm nặng nề, ảnh  hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe người dân. Hơn thế nguồn nhiên liệu  này kém ổn định và giá có xu thế ngày một tăng cao. Khi tính đầy đủ cả các chi phí ngoài – là những chi phí phát sinh bên cạnh những  chi phí sản xuất truyền thống, thì lợi ích của việc sử dụng năng lượng gió càng  trở nên rõ rệt. So với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm (ví dụ như ở nhà máy  nhiệt điện Ninh Bình) hay phải di dời quy mô lớn (các nhà máy thủy điện lớn),  khi sử dụng năng lượng gió, người dân không phải chịu thiệt hại do thất thu hoa  mầu hay tái định cư, và họ cũng không phải  chịu  thêm  chi  phí  y  tế  và chăm  sóc sức khỏe do ô nhiễm. Ngoài ra với đặc trưng phân tán và nằm sát khu dân cư, năng lượng gió giúp tiết  kiệm chi phí truyền tải. Hơn nữa, việc phát triển năng lượng gió ở cần một lực  lượng lao động là các kỹ sư kỹ thuật vận hành và giám sát lớn hơn các loại hình  khác, vì vậy giúp tạo thêm nhiều việc làm với kỹ năng cao. Tại các nước Châu  Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây dựng các trạm  tuabin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất (khoảng 20% giá thành vận  hành thường xuyên) giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho nông dân,  trong khi diện tích canh tác bị ảnh hưởng không nhiều. Cuối cùng, năng lượng  gió giúp đa dạng hóa các nguồn năng lượng, là một điều kiện quan trọng để  tránh phụ thuộc vào một hay một số ít nguồn năng lượng chủ yếu; và chính điều  này giúp phân tán rủi ro và tăng cường an ninh năng lượng. III. Tiềm năng điện  gió của Việt Nam: Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một  thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình  trong vùng Biển Đông Việt Nam và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại Biển  Đông khá mạnh và thay đổi nhiều theo mùa .
  16. Trong chương trình đánh giá về Năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới đã  có một khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có  Việt Nam. Như vậy Ngân hàng Thế giới đã làm hộ Việt Nam một việc quan  trọng, trong khi Việt Nam còn chưa có nghiên cứu nào đáng kể. Theo tính toán  của nghiên cứu này, trong bốn nước được khảo sát thì Việt Nam có tiềm năng  gió lớn nhất và hơn hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia.  Trong khi Việt Nam có tới 8,6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có tiềm năng  từ “tốt” đến “rất tốt” để xây dựng các trạm điện gió cỡ lớn thì diện tích này ở  Campuchia là 0,2%, ở Lào là 2,9%, và ở Thái­lan cũng chỉ là 0,2%. Tổng tiềm  năng điện gió của Việt Nam ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công  suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện  vào năm 2020. Tất nhiên, để chuyển từ tiềm năng lý  thuyết  thành  tiềm  năng  có  thể  khai  thác, đến tiềm năng kỹ thuật, và cuối cùng, thành tiềm năng kinh tế là cả một  câu chuyện dài; nhưng điều đó không ngăn cản việc chúng ta xem xét một cách  thấu đáo tiềm năng to lớn về năng lượng gió ở Việt Nam. Nếu xét tiêu chuẩn để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát  triển kinh tế ở những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện tích nông  thôn có thể phát triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh con số này với các nước  láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào có 13% và Thái Lan là 9% diện tích nông  thôn có thể phát triển năng lượng gió. Đây quả thật là một ưu đãi dành cho Việt  Nam mà chúng ta còn thờ ơ chưa nghĩ đến cách tận dụng. IV. Đề xuất một khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam: Ở Việt Nam, các khu vực có thể phát triển năng lượng gió không trải đều trên  toàn bộ lãnh thổ. Với ảnh hưởng của gió mùa thì chế độ gió cũng khác nhau.  Nếu ở phía bắc đèo Hải Vân thì mùa gió mạnh chủ yếu trùng với mùa gió đông  bắc, trong đó các khu vực giàu tiềm năng nhất là Quảng Ninh, Quảng Bình, và  Quảng Trị.  Ở  phần  phía  nam đèo  Hải Vân, mùa gió mạnh trùng với mùa gió  tây nam, và các vùng tiềm năng nhất thuộc cao  nguyên Tây Nguyên, các  tỉnh   ven biển đồng bằng sông Cửu Long, và đặc biệt là khu vực ven biển của hai  tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận. Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới, trên lãnh thổ Việt Nam, hai vùng giàu  tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng  đồi cát ở độ cao 60­100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió  vùng này không những có vận tốc trung bình lớn, còn có một thuận lợi là số  lượng các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định là những điều kiện rất  thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió 
  17. nam và đông nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6­7 m/s tức là vận tốc có  thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3 ­ 3,5 MW. Thực tế là người dân khu  vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy phát điện gió cỡ nhỏ nhằm  mục đích thắp sáng. Ở cả hai khu vực này dân cư thưa thớt, thời tiết khô nóng,  khắc nghiệt, và là những vùng dân tộc. Mặc dù có nhiều thuận lợi như đã nêu trên, nhưng khi nói đến năng lượng gió,  chúng ta cần phải lưu ý một số đặc điểm riêng để có thể phát triển nó một cách  có hiệu quả nhất. Nhược điểm lớn nhất của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào  điều kiện thời tiết và chế độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần nghiên cứu hết sức  nghiêm túc chế độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối vốn ảnh  hưởng không tốt đến máy phát. Cũng vì lý do phụ thuộc trên, năng lượng gió tuy  ngày càng hữu dụng nhưng không thể là loại năng lượng chủ lực. Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa điện gió và thủy điện tích năng lại mở ra cơ  hội cho chúng ta phát triển năng lượng ở các khu vực như Tây Nguyên vốn có  lợi thế ở cả hai loại hình này. Một điểm cần lưu ý nữa là các trạm điện gió sẽ  gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành cũng như phá vỡ cảnh quan tự nhiên và  có thể ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô tuyến. Do đó, khi xây dựng các  khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến các khu dân cư, khu du lịch  để không gây những tác động tiêu cực. V. Kết luận: Nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, trong trung hạn Việt  Nam   cần  tiếp  tục  khai  thác  các nguồn năng lượng truyền thống. Về dài hạn, Việt  Nam cần xây dựng chiến lược và lộ trình phát triển các nguồn năng lượng mới.  Trong chiến lược này, chi phí kinh tế (bao gồm cả chi chí trong và chi chí ngoài  về môi trường, xã hội) cần phải được phân tích một cách kỹ lưỡng, có tính   đến  những  phát  triển  mới  về  mặt công nghệ, cũng như trữ lượng và biến  động giá của các nguồn năng lượng thay thế.  Trong  các  nguồn  năng  lượng   mới này, năng lượng gió nổi lên như một lựa chọn xứng đáng, và vì vậy cần  được đánh giá một cách đầy đủ. Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Việc không đầu tư  nghiên cứu và phát triển điện gió sẽ là một sự lãng phí rất lớn trong khi nguy cơ  thiếu điện luôn thường trực, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và năng  lực cạnh tranh quốc gia. Trong khi đó, hiện nay chiến lược quốc gia về điện  dường như  mới chỉ quan tâm tới  thủy điện lớn và điện hạt nhân ­ những nguồn  năng lượng có mức đầu tư ban đầu rất lớn và ẩn chứa nhiều rủi ro về cả mặt  môi trường và xã hội.
  18. Nếu nhìn ra thế giới thì việc phát triển điện gió đang là một xu thế lớn, thể hiện  ở mức tăng trưởng cao nhất so với các  nguồn  năng lượng khác. Khác với điện  hạt nhân vốn cần một quy trình kỹ thuật và giám sát hết sức nghiêm ngặt, việc  xây lắp điện gió không đòi hỏi quy trình khắt khe đó. Với kinh nghiệm phát  triển điện gió thành công của Ấn Độ, Trung Quốc, và Philippin, và với những lợi  thế về mặt địa lý của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển năng lượng  điện gió để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như giảm  thiểu ô nhiểm môi trường. Liệu Việt Nam có thể “đi tắt, đón đầu” trong phát  triển nguồn năng lượng hay không phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách ngày  hôm nay.   Tài liệu tham khảo:   Đặng Đình Thống, Lê Danh Liên. 2006. Cơ sở năng lượng mới và tái tạo. Nhà  xuất bản khoa học và kỹ thuật.   Đặng Đình Thống và các tác giả. 2001. Giáo trình năng lượng mới đại cương.  Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.   Mai  Loan.  2009.  Lâm  Đồng:  Năm  2010  xây  dựng  nhà  máy  điện  gió.   Đọc  từ: http://www.Tin247.com.vn .   Đàm Quang Minh – Vũ Thành Tự Anh. 2006. Năng lượng gió của Việt Nam,  tiềm năng và triển vọng. Đọc từ: http://www.tusach.thuvienkhoahoc.com.vn   Tổng  hợp.  2010.  Năng  lượng  gió  ở  Việt  nam:  còn  điều  gì  chưa  thể?.   Đọc  từ: http://www.khoahocphothong.com.vn .   Nguyễn    Mạnh.    2009.    Chớ    coi    thường    năng    lượng    gió.    Đọc     từ:http://www.vneconomy.com.vn .   Maheshwar Dayal. 1989. Renewable Energy, Environment and Development,  Konark Pulishers PVTLTD, New Delhi.   Kiều Đỗ Minh Luân Khoa Kỹ thuật­Công nghệ­Môi trường, Trường Đại học An Giang Tải báo cáo tại đây Dự kiến, vào đầu tháng 6/2005, những chiếc máy chưng cất nước ngọt từ  nước biển bằng năng lượng mặt trời hoàn thiện đầu tiên sẽ được trưng  bày tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và công nghệ này sẽ được  chuyển giao để ứng dụng rộng rãi cho các vùng ven biển và hải đảo. Thạc sĩ Đặng Trần Thọ ­ tác giả của công trình nói trên ­ cho biết, ngoài những  thí nghiệm ở Hà Nội
  19. Ứng dụng năng lượng mặt trời từ một vùng ven biển đã cho kết quả tốt, quy trình này đang được tiến hành thí nghiệm ở Hạ Long,  Quảng Ninh. Thiết bị sử dụng nguồn năng lượng mặt trời – nhưng không phải  là pin mặt trời ­ để làm sôi nước biển trực tiếp. Hơi nước sẽ được ngưng tụ để  biến thành nước ngọt, còn cặn muối được thải ra ngoài. Ông Thọ khẳng định, sau khi hoàn thiện, được nghiệm thu và tiến hành chuyển  giao công nghệ, giá chiếc máy chưng cất nước ngọt này không quá đắt nên bà  con nông dân vùng đảo, vùng ngập mặn, hay các tàu thuyền cỡ trung bình đều có  thể dễ dàng mua được. Trước đây, Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có công  trình nghiên cứu tương tự. Tuy nhiên công suất chưng cất nước ngọt của công  trình này không cao lắm. Trong tương lai, có thể sóng biển sẽ trở thành nguồn năng lượng vô giá của  chúng ta, hơn cả năng lượng điện bây giờ. Điều này xảy ra khi một thiết bị phát  điện hiệu quả hơn ra đời trong một dự án mang tên EUREKA WWEC (EW). Ông William Dick, Giám đốc công ty Wavebo, nói: ""Chúng tôi đã phát triển một  thiết bị dành riêng cho thế hệ năng lượng mới. Loại năng lượng này sẽ dễ dàng  khai thác được giống như các tua­bin gió trên mặt đất. Đây sẽ là một nguồn  năng lượng khổng lồ được khai thác từ Bắc Đại Tây Dương"". Công ty Wavebo  là một công ty lớn của Ai Len đang là chủ của dự án mang đầy tính hoang tưởng  này. Những người thực hiện EW đang tìm kiếm sự cấp phép thương mại cho công  nghệ mới. Họ hy vọng sẽ tiến xa hơn trong việc triển khai công nghệ này trên  biển. Ông Dick giải thích: ""Càng ở ngoài khơi, mức năng lượng khai thác được  càng cao. Đó là bởi vì khi vào gần bờ, sóng sẽ mất dần năng lượng của mình"". Theo đó, trong lòng biển có chứa một nguồn năng lượng vô cùng lớn, nó tự sản  sinh ra và mất đi. Điều này nghe có vẻ trái ngược với các định luật bảo toàn  năng lượng. Nhưng đó là hiện tượng quan sát trực quan, còn về thực chất các  con sóng mang năng lượng rất lớn từ ngoài khơi và mất dần trong quá trình đi  vào bờ. Dự án EW định sẽ chuyển hoá nguồn năng lượng này thành dòng điện. Dựa theo nguyên mẫu của chiếc phao nổi, các nhà khoa học thuộc EW sẽ phát  triển công nghệ của mình. Chiếc phao nổi truyền thống sẽ bập bềnh theo các  con sóng. Thế nhưng, không giống như chiếc phao nổi truyền thống, công nghệ  mới sẽ đẩy ngược lại với chiều sóng. Bằng cách này, thiết bị của EW hy vọng  sẽ tận dụng được nguồn năng lượng của sóng.
  20. Tuy nhiên, thiết bị này cũng gặp phải vấn đề, có thể sẽ là vấn đề lớn nhất, đó  là cách thu hồi năng lượng từ thiết bị này vẫn còn đang trong vòng luẩn quẩn.  Thêm nữa, không biết thiết bị này có chịu đựng nổi các cơn sóng khủng khiếp ở  ngoài khơi không. Ông Dick khẳng định: ""Wavebo chắc chắn sẽ tìm ra một giải  pháp hiệu quả và rẻ tiền cho vấn đề này. Đây sẽ là bước đột phá về mặt công  nghệ"". Ông Dick nói thêm: ""Sẽ đến ngày thiết bị này sẽ được ra đời để phù hợp với  những cường độ sóng thông thường nhất. Đồng thời, nó phải tự động giảm  mức hoạt động khi thời tiết thay đổi. Thiết bị đầu tiên sẽ mang tên Wavebo, sẽ  rất hiệu quả và rẻ tiền để sử dụng trên các tàu đánh bắt xa bờ. Xa hơn nữa, nó  có thể là nguồn năng lượng của tương lai"". (Mạnh Trường ­ Theo Nature) Nguồn năng lượng khổng lồ trên biển Việt Nam Cập nhật ngày 18/09/2012,14:03:37 Các nguồn năng lượng không tái tạo như  than, dầu mỏ, khí đốt   đang dần cạn kiệt và trở nên khan hiếm. Các nhà khoa học đang   trong quá trình nghiên cứu về  những nguồn năng lượng mới,   trong đó, dự  tính toàn bộ  năng lượng biển  ước khoảng 152,8 tỷ   kW. Loại năng lượng này lớn gấp hàng trăm lần năng lượng mà   toàn bộ động thực vật cần để sinh trưởng trên trái đất.. Sóng biển có thể mang đến nguồn năng lượng vô tận Việt Nam có diện tích biển khoảng 1 triệu km2, trải dài 3.260   km dọc theo chiều dài đất nước là một yếu tố thuận lợi để  phát   triển năng lượng từ  biển. Tiến sĩ Trần Văn Bình, một trí thức  kiều bào có 12 năm làm việc tại Tập đoàn Dầu mỏ  và Khí đốt  quốc   gia  DEMINEX/VEBA  OIL  (Đức)  dẫn  một  khảo  sát  của  Ngân hàng Thế giới (World Bank) đánh giá, Việt Nam có thể khai   thác được nguồn năng lượng sạch từ  biển khơi, nhiều gấp hơn  200 lần sản lượng điện nhà máy thủy điện Sơn La đang khai thác  và gấp 10 lần tổng công suất điện dự  báo của EVN cho toàn  quốc   vào   năm   2020. Các   nguồn   năng   lượng   có   thể   khai   thác   từ   nước   biển: Nguồn   năng   lượng   từ   sóng   biển
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2