intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

78
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích và xây dựng khái niệm “sự vô tư” trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Thông qua đó làm rõ nội hàm cũng như ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, công bằng. Nếu sự vô tư là nền tảng thì nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hình sự tạo ra thiết chế bảo đảm để sự vô tư được thực thi khi tiến hành tố tụng. Bài viết tập trung làm rõ cơ chế bảo đảm thực thi nguyên tắc này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27<br /> <br /> Vô tư và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của<br /> người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng<br /> trong việc giải quyết vụ án hình sự<br /> Trần Thu Hạnh*<br /> Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam<br /> Nhận ngày 22 tháng 4 năm 2013<br /> Chỉnh sửa ngày 16 tháng 5 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 14 tháng 6 năm 2013<br /> <br /> Tóm tắt: Bài viết phân tích và xây dựng khái niệm “sự vô tư” trong lĩnh vực tư pháp hình sự.<br /> Thông qua đó làm rõ nội hàm cũng như ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vụ án hình sự khách<br /> quan, công bằng. Nếu sự vô tư là nền tảng thì nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố<br /> tụng, người tham gia tố tụng hình sự tạo ra thiết chế bảo đảm để sự vô tư được thực thi khi tiến<br /> hành tố tụng. Bài viết tập trung làm rõ cơ chế bảo đảm thực thi nguyên tắc này.<br /> <br /> 1. “Sự vô tư” trong lĩnh vực tư pháp hình sự*<br /> <br /> vô tư. Cặp phạm trù này hoán đổi cho nhau ở<br /> trong mối quan hệ biện chứng nguyên nhân - kết<br /> quả, ở hoàn cảnh, điều kiện này thì vô tư là<br /> nguyên nhân nhưng ở tình huống khác nó lại là<br /> kết quả của thiên vị. Vô tư còn gắn với một hệ<br /> quả mang tính tất yếu là không đòi phải trả ơn,<br /> không đòi hỏi hỏi bất kỳ lợi ích nào mà hành<br /> động chỉ nhằm mang lại sự công bằng, thể hiện sự<br /> nghĩa hiệp vốn có trong nhân cách người quân tử<br /> hoặc khách quan trong việc đánh giá sự việc như<br /> vốn dĩ nó có không thiên lệch, không tô hồng hay<br /> bôi đen. Như vậy, vô tư được xem xét ở hai khía<br /> cạnh: Thứ nhất, nếu là hành động mang tính “vật<br /> chất” thì đó là hành động không vì vụ lợi, hướng<br /> tới mục đích cao thượng theo kiểu Lục Vân Tiên<br /> “khi thấy bất bình giữa đường chẳng tha”. Hành<br /> động vô tư, cao thượng được trọng nể ở mọi xã<br /> hội và trở thành truyền thống của dân tộc Việt<br /> Nam. Thứ hai, vô tư được đề cập đến trong việc<br /> xem xét, đánh giá, kết luận về một sự việc, một<br /> <br /> a. Vô tư là một khái niệm chỉ trạng thái chủ<br /> quan của con người khi thực hiện một hoạt động<br /> xã hội nào đó có thể là hành động mang tính “vật<br /> chất” hoặc hoạt động tư duy của con người. Từ<br /> điển Tiếng Việt đưa ra định nghĩa vô tư như sau:<br /> “1. Không nghĩ đến lợi ích riêng tư. Sự giúp đỡ<br /> hào hiệp, vô tư. 2 Không thiên vị ai cả. Một trọng<br /> tài vô tư. Nhận xét một cách vô tư, khách quan”.<br /> Theo đó, một người khi hành động không xuất<br /> phát, không bị chi phối bởi lợi ích cá nhân mình<br /> hoặc lợi ích của những người khác mà mình quan<br /> tâm, hoặc bị phụ thuộc vào ý thức chủ quan của<br /> mình hay một chủ thuyết nhất định. Đối lập với<br /> vô tư là phạm trù thiên vị, nếu vô tư thì không<br /> thiên vị và đã thiên vị thì do kết quả của sự không<br /> <br /> _______<br /> *<br /> <br /> ĐT: 84-4-7547512<br /> E-mail: tranthuhanh72@yahoo.com<br /> <br /> 16<br /> <br /> T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27<br /> <br /> con người, một quá trình nào đó. Đây là hoạt<br /> động tư duy của con người không những đòi hỏi<br /> tinh thần nghĩa hiệp mà còn cần phải có tri thức<br /> cũng như bản lĩnh thì người ta mới có thể vô tư<br /> trong các nhận xét, đánh giá, kết luận của mình.<br /> Người vô tư trong hoạt động tư duy thường được<br /> đánh giá cao trong lĩnh vực hoạt động của mình,<br /> rộng ra là sự thừa nhận của xã hội như một khẳng<br /> định về uy tín, năng lực, phẩm chất của một con<br /> người. Vô tư bao giờ cũng dẫn đến hệ quả là có<br /> thái độ khách quan đối với sự vật và hiện tượng<br /> được xem xét, nói khác đi ở đây con người đã làm<br /> được việc tưởng chừng như rất đỗi bình thường<br /> nhưng rất vĩ đại là logic chủ quan đã phù hợp với<br /> logic khách quan của sự vật. Chân lý đã được<br /> nhận thức, xác lập trong trường hợp này. Vô tư<br /> phẩm chất cần thiết cho mọi con người, mọi lĩnh<br /> vực đời sống nhưng nó đặc biệt có ý nghĩa trong<br /> nghiên cứu khoa học, nếu người làm khoa học<br /> không vô tư sẽ không thể tìm ra những qui luật<br /> vận động của thế giới vật chất và ý thức mà kết<br /> quả của nó là tạo ra sự văn minh của nhân loại để<br /> “biến con người từ vương quốc tất yếu đến vương<br /> quốc tự do” như Ăngghen đã nói.<br /> b. Nếu như trong khoa học sự vô tư, khách<br /> quan mang đến sự sáng tạo cho con người thì sự<br /> vô tư trong hoạt động của người làm công tác<br /> quản lý nhất là của thẩm phán và những người<br /> tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ<br /> án lại mang đến sự công bằng, dân chủ cho<br /> những người liên quan và cho cả xã hội. Những<br /> giá trị mà nền tư pháp mang đến cho xã hội phụ<br /> thuộc chủ yếu vào sự vô tư của người tiến hành<br /> tố tụng, do chỉ có thái độ vô tư của những người<br /> cầm cân nảy mực mới có nhận thức khách quan<br /> về những tình tiết của vụ án, bản án và các<br /> quyết định họ đưa ra mới khách quan, đúng<br /> người, đúng tội, mới làm cho người có tội và xã<br /> hội tâm phục, khẩu phục. Đó cũng là lý do giải<br /> thích cho hiện tượng trong nhà nước thần<br /> quyền, phong kiến hà khắc, mất dân chủ,<br /> <br /> 17<br /> <br /> chuyên chế nhưng vẫn có những ông quan xử<br /> án khách quan, công bằng mà đến ngày nay<br /> nhân dân vẫn ngưỡng mộ. Sự vô tư của thẩm<br /> phán và những người tiến hành tố tụng vì thế có<br /> ý nghĩa vô cùng quan trọng không những chỉ<br /> trong quá trình giải quyết vụ án mà còn trong<br /> việc thực thi công lý, bảo đảm quyền con<br /> người, xây dựng nhà nước pháp quyền. Giải<br /> thích về sự vô tư trong hoạt động tư pháp đã<br /> được Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ diễn giải<br /> như sau[1]: Thứ nhất, sự vô tư được hiểu là<br /> không có sự thiên vị, làm lợi hoặc làm bất lợi<br /> cho một bên trong vụ tranh chấp (“lack of bias<br /> for or against a party to a dispute”). Sự vô tư<br /> trong trường hợp này bảo đảm cho mỗi bên<br /> trong vụ việc rằng thẩm phán sẽ áp dụng các<br /> quy định pháp luật đối với họ giống như thẩm<br /> phán áp dụng cho phía còn lại của vụ việc. Thứ<br /> hai, sự vô tư cũng được hiểu là thẩm phán,<br /> người có trách nhiệm giải quyết vụ việc không<br /> có thiên kiến, hay định kiến ủng hộ hay chống<br /> lại một quan điểm, một vấn đề pháp lý trong vụ<br /> việc từ trước khi giải quyết vụ việc đó (“lack of<br /> a bias for or against particular issues”, hay<br /> “lack of preconception in favor of or against a<br /> particular legal view”). Thứ ba, tuy nhiên, Tòa<br /> án cũng cho rằng yêu cầu một thẩm phán không<br /> được có chính kiến, quan điểm từ trước về bất<br /> cứ vấn đề pháp lý nào đặt ra trong vụ việc là<br /> một điều rất khó khả thi. Do vậy, theo Tòa án,<br /> điều quan trọng để bảo đảm sự vô tư có thể<br /> được đáp ứng là thẩm phán phải có một thái độ<br /> cởi mở ("open-mindedness"). Theo Tòa án,<br /> phẩm chất này không cấm đoán thẩm phán có<br /> quan điểm từ trước về một vấn đề pháp lý đặt ra<br /> trong vụ việc cụ thể, mà đòi hỏi thẩm phán phải<br /> sẵn sàng xem xét đến những quan điểm đối lập<br /> hay khác biệt, sẵn sàng chấp nhận có thể thay<br /> đổi những định kiến đó[2].<br /> Từ những phân tích trên có thể hiểu: sự vô<br /> tư trong lĩnh vực tư pháp là xem xét, đánh giá,<br /> <br /> 18<br /> <br /> T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27<br /> <br /> giải quyết tranh chấp không thiên vị, khách<br /> quan bảo đảm sự công bằng, công lý giữa các<br /> bên liên quan của người có trách nhiệm giải<br /> quyết vụ án.<br /> <br /> máy công quyền nói chung. Bảo đảm sự vô tư<br /> của tư pháp chính là một yêu cầu quan trọng<br /> với quyền của mỗi cá nhân có quyền được xét<br /> xử một cách công bằng.<br /> <br /> Định nghĩa này không những chỉ ra nội hàm<br /> của sự vô tư mà thông qua đó làm nổi bật vai<br /> trò, ý nghĩa của sự vô tư trong lĩnh vực tư pháp<br /> hình sự. Đó là: (a) Sự vô tư của người tiến hành<br /> tố tụng, người tham gia tố tụng nền tảng của<br /> việc thực thi công lý; (b) Sự vô tư của người<br /> tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là yêu<br /> cầu tất yếu của sự tôn trọng và bảo vệ quyền<br /> con người trong nhà nước pháp quyền; (c) Sự<br /> vô tư của người tiến hành tố tụng, người tham<br /> gia tố tụng: điều kiện để tạo dựng niềm tin của<br /> cộng đồng vào hoạt động tư pháp; (d) Sự vô tư<br /> của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố<br /> tụng: Yêu cầu tất yếu của nhà nước pháp quyền<br /> [3]. “Sự vô tư của tư pháp, hay cụ thể hơn là<br /> của những người tiến hành tố tụng (đặc biệt là<br /> thẩm phán) và những người tham gia tố tụng là<br /> người phiên dịch, người giám định không chỉ<br /> thể hiện ở việc thực tế họ phải không có định<br /> kiến, thiên kiến hay thiên vị gây lợi hay bất lợi<br /> cho bên này hay bên kia của vụ việc. Quan<br /> trọng không kém là trong việc thực hiện chức<br /> năng của mình, họ phải có những bảo đảm<br /> khách quan, có những biểu hiện khách quan để<br /> chứng tỏ sự vô tư đó, loại bỏ tất cả những nghi<br /> ngờ có căn cứ về sự vô tư của họ”[3].<br /> <br /> Từ những nội dung trên, có thể thấy yêu cầu<br /> bảo đảm sự vô tư của hoạt động tư pháp, kết<br /> hợp với những yêu cầu khác, như bảo đảm sự<br /> độc lập, khách quan của tư pháp là những yêu<br /> cầu không thể tách rời, mang tính thiết yếu của<br /> một nhà nước pháp quyền.<br /> <br /> Sự vô tư của tư pháp là điều kiện cơ bản,<br /> tiên quyết để có một quy trình tố tụng công<br /> minh, chính xác, đúng người đúng tội, đúng<br /> pháp luật. Hơn nữa, sự vô tư và những biểu<br /> hiện vô tư của tư pháp cũng là một yếu tố nền<br /> tảng để tạo dựng, củng cố niềm tin của những<br /> người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị<br /> can, bị cáo, người bị hại, người có quyền và<br /> nghĩa vụ liên quan…cũng như của cả cộng<br /> đồng xã hội nói chung vào hoạt động của hệ<br /> thống các cơ quan tư pháp nói riêng và của bộ<br /> <br /> 2. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những<br /> người tiến hành tố tụng, người tham gia tố<br /> tụng hình sự<br /> a. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người<br /> tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng<br /> trong luật tố tụng hình sự là một trong những<br /> nguyên tắc nền tảng của hoạt động tư pháp hình<br /> sự. Đến nay, nguyên tắc này đã được thừa nhận<br /> trong tuyệt đại đa số pháp luật các quốc gia,<br /> được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện pháp<br /> lý quốc tế về quyền con người.<br /> Theo PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí thì bảo<br /> đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người<br /> tham gia tố tụng trở thành nguyên tắc cơ bản<br /> của Luật tố tụng hình sự do việc “xác định sự<br /> thật khách quan và giải quyết vụ án khách quan,<br /> đảm bảo công bằng là đòi hỏi tất yếu của tố<br /> tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền xã hội<br /> chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi điều tra, truy tố, xét<br /> xử thường có sự không “cân bằng”, không bình<br /> đằng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người<br /> tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo và những<br /> người tham gia tố tụng khác do một bên là đại<br /> diện cho công quyền với đầy đủ sức mạnh của<br /> quyền lực, pháp luật, một bên là những người bị<br /> nghi là phạm tội không có những sức mạnh và<br /> điều kiện như vậy”[4]. Do vậy, cần thiết lập<br /> một cơ chế bảo đảm sự vô tư của những người<br /> <br /> T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27<br /> <br /> đại diện công quyền cũng như chống lại sự lạm<br /> quyền của họ khi tiến hành giải quyết vụ án<br /> trong luật tố tụng hình sự. Việc vô tư của người<br /> tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng góp<br /> phần vào việc giải quyết vụ án một cách khách<br /> quan nên Luật tố tụng hình sự coi bảo đảm sự<br /> vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên<br /> dịch, người giám định là nguyên tắc cơ bản. Sự<br /> vô tư của những người này phụ thuộc vào ý<br /> thức chủ quan nhưng đồng thời còn chịu tác<br /> động của nhiều yếu tố khách quan nên bên<br /> cạnh việc giáo dục, nâng cao đạo đức đối với họ<br /> cần có cơ chế pháp lý đề ngăn ngừa khả năng<br /> dẫn đế sự không vô tư khi tiến hành tố tụng. Cơ<br /> chế này phải được qui định cụ thể, rõ ràng trong<br /> luật tố tụng hình sự làm cơ sở pháp lý cho việc<br /> ngăn ngừa sự không vô tư của người tiến hành<br /> tố tụng, người phiên dịch, người giám định, phù<br /> hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội<br /> phạm và tâm lý, đạo đức truyền thống mỗi quốc<br /> gia. “Cơ chế cũng cần tạo một thủ tục chặt chẽ<br /> nhưng đơn giản, thuận tiện cho việc thay đổi<br /> người tiến hành tố tụng, người phiên dịch,<br /> người giám định bằng việc để cho họ tự mình từ<br /> chối tiến hành tố tụng khi có những căn cứ luật<br /> định, cơ quan có thẩm quyền chỉ quyết định<br /> thay đổi khi những người này không tự nguyện.<br /> Sự chủ động từ chối tham gia tố tụng của người<br /> tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám<br /> định trong trường hợp này thể hiện sự hiểu biết<br /> và tôn trọng pháp luật của đội ngũ cán bộ trong<br /> các cơ quan tư pháp, đồng thời làm đơn giản<br /> hoá thủ tục tố tụng cũng như gánh nặng cho các<br /> cơ quan tiến hành tố tụng” [4].<br /> Trong quy định pháp luật, trong học thuyết,<br /> cũng như trong án lệ các nước hoặc quốc tế<br /> không phải luôn luôn có cách tiếp cận, giải<br /> thích và áp dụng giống nhau về nguyên tắc này.<br /> Từ nhận thức, quan niệm khác biệt này, các<br /> nước có thể có những cách tiếp cận, biện pháp<br /> <br /> 19<br /> <br /> khác nhau nhằm bảo đảm yêu cầu của nguyên<br /> tắc này trong lĩnh vực tố tụng hình sự.<br /> Tiếng La tinh từ lâu đã tồn tại khái niệm<br /> “Nemo judex in re sua - Nul n’est juge en sa<br /> propre cause” (Không ai có thể là quan tòa trong<br /> vụ việc của chính mình). Theo các học giả châu<br /> Âu hiện nay thì “Quyền được yêu cầu xét xử<br /> thấu đáo đối với việc cáo buộc hình sự bởi một<br /> tòa án độc lập và vô tư được coi là biểu tượng<br /> của ý tưởng về dân chủ trong tiến trình tố<br /> tụng”[5]. Vì thế, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư<br /> trong tố tụng hình sự được ghi nhận trong Hiến<br /> pháp, được coi như những yếu tố cấu thành của<br /> nhà nước pháp quyền. Hầu hết các văn bản pháp<br /> luật của thế giới và Liên minh châu Âu (Tuyên<br /> ngôn Thế giới về nhân quyền 1948 - Điều 10;<br /> Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính<br /> trị 1966 (Điều 14; Hiến chương Liên minh châu<br /> Âu về các Quyền cơ bản của con người - Điều<br /> 47; Công ước châu Âu về quyền con người năm<br /> 1950 - điều 6 /1; án lệ của Tòa án Công lý Cộng<br /> đồng châu Âu; v.v… đều thống nhất rằng nguyên<br /> tắc độc lập và vô tư là các thành tố cấu thành nên<br /> một Tòa án công bằng, công lý.<br /> Là một trong những nguyên tắc lâu đời ở<br /> châu Âu, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong tố<br /> tụng cùng với quan niệm về công lý, quan niệm<br /> về vô tư đã hình thành. Hình ảnh nữ thần công<br /> lý - với dải băng bịt mắt - theo các tác giả châu<br /> Âu: không phải bởi nữ thần bỏ qua không nhìn<br /> vào vụ việc thực tế, mà chỉ bởi vì không muốn<br /> bị ảnh hưởng bởi những nhân tố bên ngoài khả<br /> dĩ làm sai lệch việc xét xử. Mặc dù được thừa<br /> nhận từ lâu trong thực tiễn pháp luật châu Âu,<br /> nhưng theo các học giả châu Âu, rất khó đưa ra<br /> một định nghĩa về nguyên tắc đảm bảo sự vô tư<br /> của người tiến hành tố tụng và người tham gia<br /> tố tụng, bởi lẽ: (a) Ngay nội hàm khái niệm “vô<br /> tư” đã là rộng và khó xác định; (b) Nguyên tắc<br /> vô tư nằm trên ranh giới khá “mỏng manh” với<br /> các nguyên tắc gần gũi nó như: độc lập xét xử,<br /> <br /> 20<br /> <br /> T.T. Hạnh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 16-27<br /> <br /> trung lập. Theo tác giả Giuseppe Tarzia, Giáo<br /> sư Đại học Milan (Ý) [11], trong xét xử,<br /> nguyên tắc chung của mọi quốc gia tiến bộ là:<br /> thẩm phán phải thực sự vô tư và độc lập. Sự vô<br /> tư thể hiện ở vị trí độc lập của người thẩm phán<br /> - thường đã được quy định ngay trong Hiến<br /> pháp - và trong sự không ràng buộc của người<br /> thẩm phán đối với các lợi ích vật chất hay tinh<br /> thần. Theo Burkhard HESS, Giáo sư Đại học<br /> Heidelberg, Liên Bang Đức thì nguyên tắc bảo<br /> đảm sự vô tư được hiểu là, các đương sự phải<br /> có quyền được xét xử bởi một bên độc lập,<br /> không thiên vị và không định kiến [6].<br /> Theo án lệ của tòa án nhân quyền châu Âu,<br /> và theo học thuyết pháp lý phổ biến trên thế<br /> giới, sự thiếu vô tư của người tiến hành tố tụng<br /> thể hiện ở hai góc độ: hoặc là thiếu vô tư chủ<br /> quan, có nghĩa là sự thiếu vô tư, độc lập trong<br /> tư tưởng của người thẩm phán - tuy nhiên có<br /> thể phát hiện được thông qua các xử sự của<br /> thẩm phán tại phiên tòa; hoặc là thiếu vô tư<br /> khách quan - điều có thể nhận thấy thông qua<br /> các yếu tố về công việc, về vị trí của người<br /> thẩm phán đó. Yếu tố chủ quan khó nhìn nhận<br /> rõ, mà phải được suy luận thông qua cách xử sự<br /> của người thẩm phán. Trong khi đó yếu tố<br /> khách quan lại phụ thuộc vào thể chế, như quy<br /> định của pháp luật, tổ chức và hoạt động của cơ<br /> quan tư pháp.v.v. sao cho không tạo ra sự thiên<br /> vị hay định kiến ở người thẩm phán. Bởi vậy,<br /> sự không vô tư chủ quan chỉ có thể được suy<br /> luận và chứng minh; nhưng sự thiếu vô tư<br /> khách quan thì biểu hiện thông qua các yếu tố<br /> bên ngoài, có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên,<br /> không phải lúc nào sự phân biệt giữa chủ quan<br /> và khách quan cũng rõ ràng. Bởi vậy Professeur<br /> Frison-Roche đã cho rằng phải chăng nguyên<br /> tắc bảo đảm sự vô tư trong tố tụng là “sự khách<br /> quan trong sự chủ quan” “l’impartialité était<br /> l’objectivité dans la subjectivité”[7]. Pháp luật<br /> của các quốc gia châu Âu cũng thường quy định<br /> <br /> nội dung nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong tố<br /> tụng thành hai nhóm: hoặc là các trường hợp<br /> thiếu vô tư một cách hiển nhiên (như giữa thẩm<br /> phán và một bên đương sự có mối quan hệ gia<br /> đình…), và các trường hợp thiếu vô tư theo suy<br /> đoán - lúc này buộc phải tìm các chứng cứ để<br /> kết luận về tính thiếu vô tư của thẩm phán.<br /> Dù quan niệm về nguyên tắc bảo đảm sự vô tư<br /> trong tố tụng còn phức tạp, nhưng tất cả các học<br /> thuyết pháp lý đều thừa nhận rằng: sự vô tư là nền<br /> tảng cốt lõi của nền tư pháp và trở thành nguyên<br /> tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Một phiên tòa<br /> luôn bị coi là không hợp lệ nếu như không đảm bảo<br /> sự vô tư của người tiến hành tố tụng.<br /> Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong tố tụng<br /> có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc độc lập xét<br /> xử: Độc lập xét xử được thể hiện thông qua sự<br /> độc lập của thẩm phán, người tiến hành tố tụng<br /> trong mối quan hệ với những quyền lực khác,<br /> kể cả công quyền cũng như các quyền lực thực<br /> tế (truyền thông, chuyên gia, các bên đương<br /> sự). Nguyên tắc độc lập xét xử liên quan trực<br /> tiếp đến địa vị của những người tiến hành tố<br /> tụng. Trong khi đó, nguyên tắc vô tư lại liên<br /> quan nhiều hơn đến tổ chức và hoạt động nội bộ<br /> của tòa, của các cơ quan tiến hành tố tụng, đến<br /> phẩm chất cá nhân của người tiến hành tố tụng.<br /> Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những<br /> người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố<br /> tụng hình sự không hoàn toàn đồng nhất với<br /> nguyên tắc bảo đảm sự độc lập xét xử của thẩm<br /> phán và hội thẩm nhân dân. Sự khác nhau thể<br /> hiện ở: Thứ nhất, phạm vi chủ thể được áp dụng<br /> ở hai nguyên tắc là khác nhau. Thứ hai: nguyên<br /> tắc độc lập xét xử cần phải dựa trên nguyên tắc<br /> bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố<br /> tụng hoặc người tham gia tố tụng hình sự, bởi<br /> có vô tư thì thẩm phán mới độc lập xét xử. Một<br /> bộ phận quan trọng của nguyên tắc độc lập xét<br /> xử nằm trong các bảo đảm về sự vô tư của<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0