intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vòng tròn thịnh suy của thị trường vốn: Suy luận về bản chất của tài chính hiện đại

Chia sẻ: Sunflower Sunflower_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

88
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Người ta cho rằng, khủng hoảng là thời điểm tốt nhất để suy nghĩ về sự bền vững. Vì sau đó, đơn giản là sẽ không có đủ thời gian cho vấn đề này. Tác giả bài viết cho rằng, bạn đọc không cần “phi như bay” trong việc tìm kiếm kẻ có lỗi đối với cơn hoạn nạn này mà là cần cố gắng đào bới để tìm ra những nguyên nhân thực sự của vấn đề tài chính trên thị trường vốn. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vòng tròn thịnh suy của thị trường vốn: Suy luận về bản chất của tài chính hiện đại

  1. Vòng tròn thịnh suy của thị trường vốn: Suy luận về bản chất của tài chính hiện đại Người ta cho rằng, khủng hoảng là thời điểm tốt nhất để suy nghĩ về sự bền vững. Vì sau đó, đơn giản là sẽ không có đủ thời gian cho vấn đề này. Tác giả bài viết cho rằng, bạn đọc không cần “phi như bay” trong việc tìm kiếm kẻ có lỗi đối với cơn hoạn nạn này mà là cần cố gắng đào bới để tìm ra những nguyên nhân thực sự của vấn đề tài chính trên thị trường vốn. Chìm xuống vực sâu Vào tháng Chín năm 2008, cả thế giới rúng động bởi sự phá sản của một trong những ngân hàng đầu tư lâu đời nhất nước Mỹ - Lehman Brothers và sự sáp nhập của ngân hàng đầu tư Merrill Lynch vào ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ là Bank of America. Tiếp theo là sự chuyển đổi của hai ngân hàng đầu tư khổng lồ Goldman Sachs và Morgan Stanley thành mô hình tập đoàn với quyền được phép sử dụng tiền gửi từ khách hàng cá nhân. Những nhà hoạch định chính sách tại Hoa Kỳ và châu Âu đã phản ứng bằng cách lập tức rót ngay tiền vào thị trường tài chính và điều đó đã tạo ra kết quả nhất thời. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đó, thị trường vốn lại chìm sâu xuống đáy một lần nữa. Dần dần, mọi việc đã trở nên rõ ràng, tương lai của tình trạng hỗn độn dài hạn rộng khắp toàn cầu trên thị trường vốn đã biến thành hiện thực khắc nghiệt. Truy tìm nguyên nhân sâu xa Báo chí và truyền hình liên tục đưa ra những cáo buộc rằng các nhà tài phiệt và đầu cơ là những kẻ tham lam, còn các chuyên gia điều chỉnh luật pháp thì non nớt và không am hiểu vấn đề. Ngày hội đã đến với những kẻ chống lại cơ chế thị trường và thị trường tài chính. Và cuối cùng, sự cám dỗ cũng đã tăng lên đề đưa ra toa thuốc nhanh chóng nhằm cải thiện tình hình và kết tội một ai đó – người phải nhận trách nhiệm cho vụ việc đã xảy
  2. ra. Khủng hoảng là thời kỳ lý tưởng để đánh giá lại những cơ sở nền tảng của thị trường vốn. Sự hiểu biết hiện nay về cơ cấu và chức năng của thị trường tài chính được dựa trên những bài học của các cuộc khủng hoảng đã từng xảy ra trước đây, bắt đầu từ khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929. Tiếc rằng, những cố gắng để tìm ra giải giáp giản đơn cho vấn đề trên thị trường vốn toàn cầu đã dẫn tới những tổn thất to lớn. Thị trường vốn hoàn hảo và thực tế Để phân tích, chúng ta hãy nhớ lại lại hệ biến hóa của thị trường vốn hoàn hảo (Perfect Capital Market, PCM). Một trong những yếu tố của PCM là thiếu mất sự bất cân xứng về thông tin. Tất nhiên, trong thế giới thực, PCM không tồn tại, vì sự bất cân xứng về thông tin là phần không thể tách rời khỏi các hoạt động của môi trường xung quanh. Chính sự bất cân xứng về thông tin làm nảy sinh ra những vấn đề nghiêm trọng, mà bản chất của nó chính là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Sự bất cân xứng xảo trá Tất cả những vấn đề gợi ra có thể đưa đến hai phạm trù: sự lựa chọn bất lợi – (adverse selection) và hành vi thiếu trách nhiệm của nhà môi giới (moral hazard). Bài báo đầu tiên đề cập đến việc nắm bắt vấn đề này một cách hệ thống đã được George Akerlof (đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001) thực hiện dưới nhan đề “Thị trường Lemon – chất lượng không được xác định và cơ chế thị trường” ("The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism"). Sự lựa chọn bất lợi George Akerlof diễn giải vấn đề này bằng một tình huống tương tự trên thị trường ô tô đã qua sử dụng. Rõ ràng, người bán hàng luôn luôn hiểu rõ hơn về chiếc xe của mình so với khách hàng tiềm năng – anh ta đã bị khổ sở vì hỏng hóc, thay bộ lọc, sửa chữa xe. Ai có thể biết được giá cả thực sự của chiếc xe ngoài anh ta. Chúng ta cho rằng nó có giá thực là 10.000 USD. Nếu như không có nhu cầu khẩn cấp thì người bán không sẵn sàng bán với giá thấp hơn giá này. Ngược lại, người mua lại nghi ngờ vào chất lượng của chiếc ô tô đang chào bán. Anh ta hiểu rằng người bán sẽ không có lợi khi nói về các hỏng hóc của xe. Nếu như không tin vào chất lượng xe, người mua sẽ đặt giá thấp, ví dụ là 8.000 USD. Theo quan điểm của anh ta thì phần chênh lệch 2.000 USD sẽ bù cho những khiếm khuyết không nhìn thấy được.
  3. Nếu như không có khiếm khuyết thì người bán từ chối bán xe với mức chiết khấu 2.000 USD, và người mua sẽ không mua được chiếc xe tốt. Nếu như người bán đồng ý, điều đó có nghĩa là chiếc xe có giá thấp hơn 8.000 USD và người mua nhận được “vật vô dụng” (Lemon - tiếng lóng của người Mỹ và được hiểu là “hàng kém chất lượng”). Trong cả hai trường hợp, việc định giá công bằng đã không xảy ra, và sự giảm giá do người mua đưa ra đã dẫn tới việc là anh ta sẽ được đề nghị mua các xe khác kém chất lượng hơn. Mâu thuẫn này – không có khả năng sở hữu chiếc xe có chất lượng với giá công bằng khi không có sự đánh giá khách quan (ví dụ, ý kiến của thợ cơ khí ô tô) - có tên gọi là “sự lựa chọn bất lợi” (Adverse Selection). Hậu quả là, trong tác phẩm của mình “Phân bổ tín dụng trong thị trường có thông tin không hoàn hảo” (1981), George Akerlof và đồng tác giả Andrew Weiss đã chỉ ra rằng, sự lựa chọn bất lợi có một vai trò rất tiêu cực trên thị trường vốn. Nó làm nảy sinh một vấn đề như thế này: mức tăng của lãi suất tín dụng dẫn đến sự tăng trưởng về lợi nhuận của ngân hàng đồng thời làm giảm chất lượng của người đi vay tín dụng. Nhiều nghiên cứu và khảo cứu thực tế kinh doanh cho phép mô tả những vấn đề cốt yếu của sự lựa chọn bất lợi trên thị trường vốn như sau: • Không có khả năng cung cấp tài chính cho các dự án và công ty “tốt” (nghĩa là có lợi nhuận cao và mức độ rủi ro chấp nhận được); • Phân bổ tín dụng hợp lý và thất bại thị trường (market failure) - không có khả năng tạo ra giá trị và lãi suất công bằng. Hệ quả rõ ràng - không có hiệu quả thị trường trong điều kiện thiếu thông tin. Kết quả là xuất hiện một yêu cầu phải giám sát các tài khoản có (nghĩa là việc vạch rõ chất lượng thực sự của chúng từ quan điểm của nhiều nguy c ơ khác nhau). Nói đúng ra thì vai trò chính yếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác nằm trong việc giám sát này. Hành vi thiếu trách nhiệm của các đại lý môi giới. Trong ví dụ bảo hiểm có thể chỉ ra vấn đề khác nảy sinh do sự bất cân xứng về thông tin. Giả sử, bạn bảo hiểm to àn phần cho chiếc xe của bạn. Khi đó, sự cần thiết để điều chỉnh mình một cách thận trọng hơn đã biến mất khỏi đầu bạn – vì lúc này nếu có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa thì cũng được công ty chi trả. Chừng nào không thể theo dõi liên tục hành vi của khách hàng, thì chừng đó công ty còn phải đặt cược rủi ro vào giá trị bảo hiểm. Điều này có tên gọi là moral hazard. Thuật ngữ này thường được dịch là “rủi ro hoặc là thiệt hại về mặt đạo đức”, khác xa với bản chất của hiện t ượng. Về thực chất, moral hazard được thể hiện trong các động cơ hành vi gian dối của các đại lý. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, họ nhận được lợi ích từ các bên đối lập, do phân bổ rủi ro không công bằng. Hành vi như vậy rất duy lý – việc hiện diện của sự bất cân xứng về thông tin “xô đẩy” những người bình thường đi đến quyết định mang lại sự tổn hại cho phía đối
  4. tác. Moral hazard đặc biệt nguy hiểm trên thị trường vốn. Nếu như các dự án được tài trợ vốn phần lớn là do đi vay, thì sẽ xảy ra những vấn đề không bình thường. Việc sử dụng “tiền của người khác” sẽ dẫn tới khả năng là nếu như kinh doanh tốt, tất cả lợi nhuận sẽ thuộc về công ty, còn nếu kinh doanh tồi, người cho vay sẽ phải chịu phần lớn khoản lỗ. Dĩ nhiên, độc giả sẽ nói rằng: nào hãy từ từ đã, vì chính người cho vay yêu cầu tài sản cầm cố, nghiên cứu tình hình và sẽ cố gắng không cho phép những hành động rủi ro từ phía người vay tác động lên mình. Những hành động này cho phép giảm bớt mức độ gay gắt của việc bất cân xứng thông tin bằng cách yêu cầu người vay đặt những tài sản riêng có giá trị (cái này được gọi là “bảo hiểm vay nợ”) hoặc là bằng việc giám sát người vay tiền. Một ví dụ không kém phần đắt giá – hoạt động của các ngân hàng đầu tư Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Tốc độ phát triển mạnh mẽ của khối lượng các thương vụ đầu tư mạo hiểm – trái phiếu tài sản cho vay cầm cố (collateralized mortgage obligations - CMO) và các thị trường tín dụng phái sinh dần dần sẽ dẫn tới sự phá sản của thị tr ường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1