intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xác định hệ thống bị tấn công bằng các lệnh Windows

Chia sẻ: Nguyen Thai Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

124
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các máy tính Windows là những máy tính bị tấn công nhiều nhất. Chính vì vậy mà Microsoft đã xây dựng rất nhiều công cụ trong hệ điều hành Windows để các quản trị viên và một số người dùng có thể phân tích nhằm xác định xem máy tính của họ hiện có bị thỏa hiệp hay không. Trong hướng dẫn gồm hai phần này, phần đầu tiên chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn về 5 công cụ dòng lệnh hữu dụng trong Windows để thực hiện một hành động phân tích đó. 1....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xác định hệ thống bị tấn công bằng các lệnh Windows

  1. Xác định hệ thống bị tấn công bằng các lệnh Windows
  2. Quản trị mạng – Các máy tính Windows là những máy tính bị tấn công nhiều nhất. Chính vì vậy mà Microsoft đã xây dựng rất nhiều công cụ trong hệ điều hành Windows để các quản trị viên và một số người dùng có thể phân tích nhằm xác định xem máy tính của họ hiện có bị thỏa hiệp hay không. Trong hướng dẫn gồm hai phần này, phần đầu tiên chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn về 5 công cụ dòng lệnh hữu dụng trong Windows để thực hiện một hành động phân tích đó. 1. WMIC Windows Management Instrumentation Command-line (WMIC) không chỉ đơn thuần là một lệnh mà có rất nhiều tính năng khác. Công cụ này có một giao diện dòng lệnh cho Windows Management Instrumentation API bên trong
  3. Windows. WMIC cho phép quản lý người dùng truy cập các thông tin chi tiết trên máy tính Windows, gồm có các thuộc tính chi tiết của hàng ngàn các thiết lập và đối tượng. WMIC được xây dựng bên trong Windows XP Professional, Windows 2003 và Windows Vista. Để sử dụng nó, người dùng phải khởi chạy chương trình bằng cách chạy lệnh WMIC, theo sau là phần mà người dùng quan tâm (thường được gọi là các alias bên trong hệ thống). Cho ví dụ, để biết về các quá trình đang chạy trên máy tính, người dùng có thể chạy lệnh: C:\> wmic process Phần đầu ra của lệnh này có vẻ khá khó đọc vì định không được chỉ định. Tuy nhiên với WMIC, đầu ra mà công cụ này cung cấp được định dạng hoàn toàn khác, trong đó phần "list full" sẽ hiển thị các thông tin chi tiết cho mỗi lĩnh vực mà người dùng quan tâm, còn phần "list brief" sẽ cung cấp một dòng đầu ra cho mỗi một mục báo cáo dưới sạng danh sách
  4. các mục, chẳng hạn như các quá trình đang chạy, các chương trình tự động khởi chạy và những chia sẻ hiện hữu. Cho ví dụ, chúng ta có thể quan sát mọi quá trình đang chạy trên máy tính bằng cách chạy lệnh: C:\> wmic process list brief Lệnh trên sẽ hiển thị tên, ID của quá trình và quyền ưu tiên của mỗi quá trình đang chạy cũng như các thuộc tính khác. Để nhận thêm các thông tin chi tiết hơn, chạy lệnh: C:\> wmic process list full Lệnh này sẽ hiển thị tất cả các thông tin chi tiết, gồm có đường dẫn của file thực thi có liên kết với quá trình và lệnh triệu gọi dòng lệnh của nó. Khi nghiên cứu một máy tính có bị tiêm nhiễm hay không, quản trị viên cần phải xem xét từng quá trình để xác định xem các quá trình này có hợp lệ trên máy tính hay không, sau đó nghiên cứu các quá trình lạ hoặc không mong đợi bằng cách sử dụng các cỗ máy tìm kiếm.
  5. Ngoài các alias về các quá trình, người dùng có thể thay thế startup để nhận danh sách các chương trình tự động khởi chạy trên máy tính, gồm có các chương trình khởi chạy khi hệ thống khởi động hoặc người dùng đăng nhập, đây là những chương trình được định nghĩa bởi một auto-start registry key hoặc thư mục: C:\> wmic startup list full Rất nhiều malware có thể tự động chạy trên máy tính bằng cách thêm một mục auto-start bên cạnh các mục hợp lệ khác có bên trong các công cụ antivirus hay các chương trình system tray. Người dùng có thể quan sát các thiết lập khác trên máy tính với WMIC bằng cách thay thế "startup" bằng "QFE" (cụm chữ cái viết tắt cho Quick Fix Engineering) để thấy được mức vá của một hệ thống, bằng "share" để xem danh sách các file chia sẻ trên Windows hoặc bằng "useraccount" để thấy được các thiết lập tài khoản chi tiết của người dùng.
  6. Một tùy chọn khác bên trong WMIC là khả năng chạy một lệnh để thu thập thông tin trên trên một chu kỳ nào đó bằng cách sử dụng cú pháp "/every:[N]" sau phần còn lại của lệnh WMIC. [N] ở đây là một số nguyên, chỉ thị rằng WMIC sẽ chạy lệnh trên cứ [N] giây một lần. Bằng cách đó, người dùng có thể tìm kiếm các thay đổi trong các thiết lập của hệ thống theo thời gian, cho phép khảo sát một cách kỹ lưỡng đầu ra. Sử dụng chức năng này để kéo toàn bộ các thông tin về quá trình trong 5 giây một lần, người dùng có thể chạy: C:\> wmic process list brief /every:1 Nhấn CTRL+C sẽ dừng chu kỳ. 2. Lệnh net Giới thiệu ở trên, WMIC là một lệnh tương đối mới, tuy nhiên còn có một số lệnh khác không phải là mới nhưng khá hữu dụng đó là lệnh "net". Các quản trị viên có thể sử dụng lệnh này để hiển thị tất cả các thông tin hữu dụng. Cho ví dụ, lệnh "net user" sẽ hiển thị tất cả các tài khoản
  7. người dùng được định nghĩa nội bộ trên máy tính. Lệnh "net localgroup" sẽ hiển thị các nhóm, lệnh "net localgroup administrators" sẽ hiển thị thành viên của nhóm quản trị viên và lệnh "net start" hiển thị các dịch vụ đang chạy. Các hacker thường đưa người dùng vào một hệ thống hoặc đặt các tài khoản của họ vào một nhóm quản trị viên, vì vậy chúng ta luôn phải kiểm tra đầu ra của các lệnh này để xem liệu hacker đã sửa đổi các tài khoản trên máy tính hay chưa. Thêm vào đó, một số hacker có thể tạo các dịch vụ xấu trên máy tính, vì vậy người dùng nên cần thận với chúng. 3. Openfiles Nhiều quản trị viên Windows không quen với việc sử dụng các lệnh openfiles mạnh có trong Windows. Mặc dù vậy, như tên ngụ ý của nó, lệnh này sẽ hiển thị tất cả các file được mở trong máy tính, chỉ thị tên quá trình đang tương tác với mỗi file. Nó được xây dựng trong các phiên bản Windows đời mới, từ XP Pro đến Vista. Giống như lệnh lsof phổ biến cho
  8. Linux và Unix, nó cũng thể hiện cho các quản trị viên tất cả các file đang mở trên máy tính, cung cấp tên quá tình và đường dẫn hoàn chỉnh cho mỗi file. Tuy nhiên không giống như lsof, nó không cung cấp nhiều thông tin chi tiết, chẳng hạn như số ID của quá trình, số người dùng hoặc các thông tin khác. Xem xét phân vùng thông tin mà nó thu thập được, bạn sẽ không hề ngạc nhiên rằng lệnh openfiles thực sự tiêu hao rất nhiều hiệu suất. Chính vì vậy, thông thường các quá trình có liên quan đến openfiles bị tắt mặc định, nghĩa là người dùng không thể kéo bất cứ dữ liệu nào từ lệnh này cho tới khi bật nó. Chức năng này có thể được kích hoạt bằng cách chạy lệnh: C:\> openfiles /local on Người dùng sẽ cần phải khởi động lại và khi hệ thống hoạt động trở lại, họ sẽ có thể chạy lệnh openfiles như dưới đây: C:\> openfiles /query /v
  9. Lệnh này sẽ hiển thị đầu ra một cách chi tiết, gồm có tài khoản người dùng mà quá trình cho một file mở đang chạy bên trong. Từ đó có thể nhận biết được malware gì đã được cài đặt, hoặc tấn công gì có thể đang được thực hiện trên máy tính, người dùng nên tìm kiếm các file dị thường hoặc các file không mong đợi, đặc biệt các file có liên quan đến những người dùng nội bộ không mong đợi trên máy tính. Khi kết thúc với lệnh openfiles, chức năng tính toán của nó có thể được tắt bỏ và hệ thống sẽ trở lại với tình trạng hiệu suất bình thường bằng cách chạy lệnh dưới đây và khởi động lại máy tính: C:\> openfiles /local off
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2