intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng văn hóa hợp tác trong giảng dạy ở cấp khoa của trường đại học

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

87
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo nghiên cứu cơ sở lý thuyết của các tổ chức học tập mà ở đó mọi giảng viên có sự hỗ trợ lẫn nhau rất hiệu quả trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục. Trên cơ sở đó, cùng với việc khảo sát ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà Nẵng và một số trƣờng bạn, tác giả phân tích sự cần thiết của một môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tốt và đƣa ra 5 yếu tố cơ bản không thể thiếu nếu muốn xây dựng thành công nét văn hóa này tại khoa, cụ thể là: hợp tác tự nguyện và cởi mở, sinh hoạt chuyên môn định kỳ, quản lý và giao tiếp hài hòa, có văn hóa đánh giá giảng viên và đối xử bình đẳng giữa các thế hệ giảng viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng văn hóa hợp tác trong giảng dạy ở cấp khoa của trường đại học

XÂY DỰNG VĂN HÓA HỢP TÁC TRONG GIẢNG DẠY Ở CẤP KHOA<br /> CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC<br /> Nguyễn Hữu Quý*<br /> Đại học Đà Nẵng<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong thời đại của toàn cầu hóa về giáo dục, các khoa của một trƣờng đại học cần phải trở thành<br /> những tổ chức học tập hiệu quả. Vì vậy, việc xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác<br /> chặt chẽ giữa các giảng viên để tạo thành một nét văn hóa hợp tác trong giảng dạy của khoa là một<br /> trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển vững chắc của khoa nói riêng và nhà<br /> trƣờng nói chung.<br /> Bài báo nghiên cứu cơ sở lý thuyết của các tổ chức học tập mà ở đó mọi giảng viên có sự hỗ trợ<br /> lẫn nhau rất hiệu quả trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục. Trên cơ sở đó, cùng với<br /> việc khảo sát ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà Nẵng và một số trƣờng bạn, tác giả phân<br /> tích sự cần thiết của một môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tốt và đƣa ra 5 yếu tố cơ bản không<br /> thể thiếu nếu muốn xây dựng thành công nét văn hóa này tại khoa, cụ thể là: hợp tác tự nguyện và<br /> cởi mở, sinh hoạt chuyên môn định kỳ, quản lý và giao tiếp hài hòa, có văn hóa đánh giá giảng<br /> viên và đối xử bình đẳng giữa các thế hệ giảng viên.<br /> Từ khóa: Tổ chức học tập, Văn hóa hợp tác, Hợp tác trong giảng dạy, Khoa của trường đại học,<br /> Bình đẳng giữa các thế hệ<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Các trƣờng đại học là nơi sản sinh và chuyển<br /> tải tri thức cho ngƣời học. Việc nâng cao chất<br /> lƣợng giáo dục nói chung và giáo dục đại học<br /> nói riêng đang nhận đƣợc sự quan tâm rất lớn<br /> của các nhà quản lý giáo dục, giảng viên, sinh<br /> viên và toàn xã hội. Để tồn tại và phát triển bền<br /> vững (sustainable development) trong môi<br /> trƣờng toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức<br /> hiện nay, các trƣờng đại học phải là những tổ<br /> chức học tập (learning organisations), trong đó<br /> các khoa và tập thể giảng viên trong khoa đóng<br /> vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào sự lớn<br /> mạnh của nhà trƣờng.<br /> Để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng<br /> nghiên cứu khoa học nhằm theo kịp sự phát<br /> triển của xã hội-khoa học và công nghệ, ngƣời<br /> giảng viên đại học không những phải chủ động<br /> trau dồi chuyên môn mà còn phải học tập suốt<br /> đời (lifelong learning). Có nhiều kênh thông<br /> tin để nâng cao trình độ nhƣ thông qua sách,<br /> báo, tài liệu; phƣơng tiện thông tin đại chúng,<br /> các khóa đào tạo bồi dƣỡng,…nhƣng quan<br /> trọng và hữu hiệu hơn cả là sự học hỏi, chia sẻ<br /> kinh nghiệm lẫn nhau giữa các giảng viên<br /> <br /> <br /> Tel: 0905.062.848; Email: nhquy@ac.udn.vn<br /> <br /> trong cùng chuyên ngành, tổ bộ môn trong một<br /> khoa theo phƣơng châm “học thầy không tày<br /> học bạn”. Hay thậm chí là cần phải có sự hợp<br /> tác theo chiều dọc tức là giữa giảng viên của<br /> trƣờng đại học này với giảng viên của trƣờng<br /> đại học khác, trong và ngoài nƣớc.<br /> Theo ghi nhận của tác giả bằng cách quan sát<br /> thực tế, trao đổi với đồng nghiệp ở các trƣờng<br /> đại học và cao đẳng thành viên thuộc Đại học<br /> Đà Nẵng cũng nhƣ các trƣờng bạn ở khu vực<br /> miền Trung và Tây Nguyên, dƣới các khía<br /> cạnh đặc trƣng cho một môi trƣờng làm việc<br /> có tính hợp tác nhƣ: hoạt động giảng dạy và<br /> nghiên cứu khoa học, sự tƣơng tác – trao đổi<br /> chuyên môn giữa các giảng viên, sự chia sẻ<br /> nguồn thông tin, cách thức điều hành của lãnh<br /> đạo khoa, thì những yếu tố này đều đang tồn<br /> tại ở các khoa của các trƣờng và hầu hết giảng<br /> viên trong các cuộc trao đổi đều ý thức đƣợc<br /> tầm quan trọng và sự cần thiết của một môi<br /> trƣờng giảng dạy có tính hợp tác cao.<br /> Tuy nhiên, tại Đại học Đà Nẵng, trong khi nét<br /> văn hóa này đang tồn tại rất rõ nét tại một số<br /> khoa có bề dày thành tích trong hoạt động<br /> giảng dạy và nghiên cứu khoa học, có đội ngũ<br /> cán bộ giảng viên có tinh thần đoàn kết cao và<br /> thƣờng xuyên hỗ trợ lẫn nhau rất tốt, nó vẫn<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> | 150<br /> <br /> Nguyễn Hữu Quý<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> còn khá mờ nhạt ở rất nhiều khoa khác, thậm<br /> chí còn có sự cạnh tranh lẫn nhau rõ rệt giữa<br /> các thành viên trong những khoa này khiến<br /> khoa không thể phát triển đƣợc bởi không có<br /> sự đồng thuận và đồng tâm hiệp lực của tập<br /> thể cán bộ giảng viên trong khoa.<br /> Từ lý do đó, bài báo phân tích sự cần thiết<br /> phải xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có<br /> sự hợp tác tốt giữa các giảng viên trong khoa<br /> nhằm đánh thức ý thức tự giác hợp tác của<br /> giảng viên Đại học Đà Nẵng nói riêng và của<br /> tất cả các cơ sở giáo dục đại học nói chung.<br /> Sự phân tích dựa trên cơ sở lý thuyết của các<br /> tổ chức học tập và số liệu khảo sát bằng phiếu<br /> hỏi ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà<br /> Nẵng và một số trƣờng bạn. Việc chọn mẫu<br /> nghiên cứu đƣợc phân bố đồng đều giữa các<br /> đối tƣợng, có sự khác nhau về độ tuổi, thâm<br /> niên công tác, trình độ chuyên môn và chức<br /> vụ trong khoa.<br /> Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài<br /> viết gồm có 5 phần:<br /> 1. Vai trò của khoa trong trƣờng đại học;<br /> 2. Xây dựng khoa trở thành một tổ chức học<br /> tập hiệu quả;<br /> 3. Sự cần thiết phải có một môi trƣờng giảng<br /> dạy có tính hợp tác tốt ở khoa;<br /> 4. Các yếu tố cơ bản cấu thành một môi<br /> trƣờng giảng dạy có tính hợp tác ở cấp khoa<br /> của trƣờng đại học;<br /> 5. Một số kiến nghị nhằm xây dựng nét văn<br /> hóa này ở khoa.<br /> VAI TRÕ CỦA KHOA TRONG TRƢỜNG<br /> ĐẠI HỌC<br /> Trong bất kỳ một trƣờng đại học công lập hay<br /> dân lập, bộ máy quản lý hành chính bao gồm<br /> Ban Giám hiệu và các phòng chức năng có vai<br /> trò quan trọng nhƣng khoa - đơn vị trực tiếp<br /> làm công tác chuyên môn, thực hiện các chức<br /> năng không thể thay thế như thiết kế chương<br /> trình đào tạo; xây dựng, phát triển và chỉnh<br /> sửa giáo trình, giảng dạy và nghiên cứu khoa<br /> học - lại có vai trò quyết định đối với sự phát<br /> triển của nhà trƣờng bởi vì khoa là mái nhà của<br /> mọi hoạt động chuyên môn nên nó giữ vai trò<br /> <br /> 72(10): 150 - 158<br /> <br /> nòng cốt trong một trƣờng đại học (Clark,<br /> 1987; Collie & Taylor, 2004). Nhƣ vậy có thể<br /> nói rằng khoa là đơn vị trung tâm tạo ra mọi sự<br /> thay đổi và cải tiến chất lƣợng đào tạo của nhà<br /> trƣờng. Vì vậy, phƣơng hƣớng hoạt động của<br /> khoa cần phải luôn phản ánh rõ vai trò, giá trị<br /> và mục tiêu của nó trong nhà trƣờng nhằm<br /> thực hiện sứ mệnh chung của nhà trƣờng.<br /> Sự phát triển của một trƣờng đại học bắt<br /> nguồn và phụ thuộc vào sự vững mạnh của<br /> từng khoa. Khoa là đơn vị cấu thành nhà<br /> trƣờng nhƣng đồng thời cũng là đơn vị hoạt<br /> động độc lập với bộ máy quản lý riêng, gồm<br /> có Ban chủ nhiệm khoa và các tổ trƣởng<br /> chuyên môn, có nguồn ngân sách và đội ngũ<br /> nhân sự riêng để hoạt động. Để khoa có thể<br /> vững mạnh và đào tạo có chất lƣợng tốt, trƣớc<br /> hết là tập thể cán bộ giảng viên trong khoa<br /> phải đoàn kết tạo thành một thể thống nhất<br /> trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy, việc xây<br /> dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp<br /> tác tốt giữa lãnh đạo khoa với tập thể giảng<br /> viên, giữa các giảng viên với nhau hay giữa<br /> các thế hệ giảng viên nhằm tạo nên nét văn<br /> hóa mang tính chuyên nghiệp của khoa là<br /> điều hết sức cần thiết hiện nay.<br /> XÂY DỰNG KHOA TRỞ THÀNH MỘT TỔ<br /> CHỨC HỌC TẬP HIỆU QUẢ<br /> Ngày nay, các trƣờng đại học cần phải tự xem<br /> mình nhƣ là những doanh nghiệp, tôn chỉ và<br /> mục tiêu phát triển của nhà trƣờng phải đƣợc<br /> xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và mong<br /> đợi của sinh viên. Vì vậy, cần phải xây dựng<br /> các khoa trở thành những tổ chức học tập hiệu<br /> quả (effective learning organisations), nơi<br /> mà mọi thành viên đều có cảm giác đƣợc kích<br /> thích học tập, đƣợc chia sẻ và hỗ trợ<br /> (collaboration and support), nơi mà mọi sáng<br /> kiến đều đƣợc ghi nhận và đánh giá cao<br /> (innovation is encouraged and valued). Để<br /> làm đƣợc điều này thì phƣơng thức hoạt động<br /> và điều hành của ban lãnh đạo khoa phải luôn<br /> chú trọng đến 4 yếu tố cơ bản của mô hình<br /> Balanced Scorecard: i) sinh viên, ii) tài chính,<br /> iii) quy trình nội bộ và iv) không ngừng học<br /> tập (Nguyễn, 2010), đặc biệt nhấn mạnh đến<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> | 151<br /> <br /> Nguyễn Hữu Quý<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> yếu tố cuối cùng nhằm mang lại những lợi ích<br /> cao nhất cho sinh viên.<br /> Một khoa đƣợc gọi là an effective learning<br /> organisation khi mọi thành viên trong khoa đều<br /> có ý thức tự giác học tập và học tập có chiến<br /> thuật (learns intentionally and strategically)<br /> (Nevis et al., 1995). Việc học tập có thể là tự<br /> học hoặc học hỏi lẫn nhau thông qua các hoạt<br /> động giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm và sáng<br /> kiến, chuyển giao tri thức, v.v… Sự phát triển<br /> của mỗi cá nhân đóng góp vào sự lớn mạnh<br /> chung của nhà trƣờng. Muốn nhƣ vậy, lãnh đạo<br /> khoa cần phải luôn: a) kích thích tƣ duy sáng<br /> tạo và tinh thần học tập không ngừng của mọi<br /> giảng viên, đặc biệt là những giảng viên trẻ vừa<br /> mới đƣợc tuyển dụng về khoa; b) tạo môi<br /> trƣờng thuận lợi cho việc giảng dạy và nghiên<br /> cứu khoa học, ví dụ nhƣ tạo điều kiện về thời<br /> gian lẫn vật chất cho giảng viên đi học sau đại<br /> học, đặc biệt là những ngƣời đi học bằng nguồn<br /> kinh phí tự túc do chƣa đủ trình độ để xin học<br /> bổng đi học ở nƣớc ngoài, mở rộng hợp tác<br /> quốc tế để tìm các nguồn học bổng gửi giảng<br /> viên đi đào tạo tại nƣớc ngoài; c) kích thích<br /> giảng viên có những phản hồi tích cực về tất cả<br /> các vấn đề chuyên môn của đồng nghiệp hay<br /> của khoa (tức là nâng cao khả năng phê bình và<br /> tự phê bình, thẳn thắn nhìn rõ sự thật) nhằm<br /> nâng cao chất lƣợng dạy - học đại học. Khi các<br /> yếu tố trên đƣợc thỏa mãn, chắc chắn giảng viên<br /> sẽ cảm thấy thoải mái trong quá trình giảng dạy<br /> và giao tiếp, nâng cao hiệu quả hợp tác.<br /> SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT MÔI TRƢỜNG<br /> GIẢNG DẠY CÓ TÍNH HỢP TÁC ĐỂ TẠO<br /> THÀNH NÉT VĂN HÓA CỦA KHOA<br /> Khi nghĩ đến việc xây dựng khoa trở thành<br /> một tổ chức mà ở đó các thành viên tích cực<br /> hỗ trợ lẫn nhau, tức là chúng ta đang nhắm<br /> đến việc xây dựng nét văn hóa hợp tác trong<br /> giảng dạy ở khoa bên cạnh các nét văn hóa<br /> khác nhƣ văn hóa giao tiếp, văn hóa đánh giá,<br /> văn hóa ăn mặc.<br /> Bất kỳ một hoạt động đặc trƣng nào đƣợc lặp<br /> đi lặp lại nhiều lần thì sẽ tạo thành nét văn hóa<br /> cho ngƣời hay nhóm ngƣời thực hiện nó. Có<br /> <br /> 72(10): 150 - 158<br /> <br /> nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tuy<br /> nhiên theo UNESCO: “Văn hóa là tập hợp của<br /> những đặc trƣng về tâm hồn, vật chất, tri thức<br /> và xúc cảm của một xã hội hay nhóm ngƣời<br /> trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học<br /> và nghệ thuật, cả cách sống, phƣơng thức<br /> chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và<br /> đức tin” (UNESCO, 2002). Nhƣ vậy có thể<br /> nói, văn hóa là yếu tố đƣợc sinh ra khi một<br /> nhóm ngƣời tập hợp lại trong một môi trƣờng<br /> cụ thể, để làm việc vì những mục đích nào đó.<br /> Do đó, mỗi cơ quan đều có nét văn hóa của<br /> riêng mình và nó tạo thành văn hóa công sở.<br /> Văn hóa công sở có thể hiểu là những giá trị,<br /> niềm tin, sự hiểu biết chung của mọi ngƣời về<br /> môi trƣờng làm việc của mình và lề lối làm<br /> việc của họ. Nó đƣợc hình thành bởi những<br /> ngƣời làm việc trong chính môi trƣờng đó và<br /> luôn đƣợc xem là tài sản vô hình rất có giá trị<br /> của một tổ chức.<br /> Khi nói đến văn hóa hợp tác ở công sở, chúng<br /> ta không thể không nhớ đến tƣ tƣởng về đại<br /> đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:<br /> “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành<br /> công, thành công, đại thành công”. Từ lời dạy<br /> của Bác, chúng ta có thể suy rộng ra rằng<br /> trong xu hƣớng hội nhập quốc tế về giáo dục<br /> và đào tạo nhƣ hiện nay, mặc dù các giảng<br /> viên đại học vẫn có thể tự làm một số công<br /> việc nhƣng nhìn chung thì họ không thể tự<br /> mình giải quyết mọi công việc với kết quả cao<br /> đƣợc nếu thiếu sự hợp tác với đồng nghiệp.<br /> Bởi vì khi có sự đoàn kết, hợp tác và chia sẻ<br /> trong công việc thì mới thúc đẩy tƣ duy sáng<br /> tạo và trí tuệ của mọi cá nhân, từ đó chất<br /> lƣợng giảng dạy và nghiên cứu khoa học mới<br /> đƣợc nâng lên.<br /> Ở các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến nhƣ<br /> Anh, Öc, Hoa Kỳ, sự hợp tác trong giảng dạy<br /> giữa các giảng viên còn đƣợc thể hiện qua mô<br /> hình giảng dạy „Cooperative teaching model‟<br /> tức là hai hay ba giảng viên có cùng sở thích<br /> khoa học (teaching and research interests)<br /> cùng dạy chung một lớp (tất cả đều là giảng<br /> viên chính, có trách nhiệm và quyền hạn<br /> ngang nhau, chứ không phải là giảng viên<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> | 152<br /> <br /> Nguyễn Hữu Quý<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> chính và trợ giảng (tutor)). Khi tham gia vào<br /> mô hình giảng dạy này, các giảng viên thực<br /> sự tin tƣởng lẫn nhau (trust) và có niềm tin<br /> rằng mô hình giảng dạy chung sẽ mang lại kết<br /> quả tốt. Những giảng viên này sắp xếp thời<br /> gian để làm việc cùng nhau hằng ngày một<br /> cách cởi mở và tôn trọng lẫn nhau nhƣng<br /> cũng sẵn sàng chỉ trích lẫn nhau (play off),<br /> tuy nhiên đây là sự chỉ trích có tính hợp tác để<br /> giúp nhau cùng tiến bộ. Mô hình này không<br /> những mang lại lợi ích cho giảng viên mà đặc<br /> biệt là cho sinh viên bởi vì họ lĩnh hội đƣợc<br /> một khối lƣợng kiến thức nhiều hơn, đa dạng<br /> hơn và quý giá hơn từ nhóm giảng viên (bản<br /> thân tác giả đã đƣợc trải nghiệm mô hình<br /> giảng dạy này trong thời gian học tập tại Đại<br /> học Queensland, Öc).<br /> Nếu không có sự hợp tác tốt trong giảng dạy,<br /> chắc chắn mức độ thành công trên bục giảng<br /> của mỗi giảng viên sẽ bị giới hạn ở mức thấp.<br /> Trong một số trƣờng hợp, sự bất hợp tác còn<br /> dẫn đến việc giảng viên thiếu tôn trọng lẫn<br /> nhau, chỉ trích nhau, cạnh tranh không lành<br /> mạnh lẫn nhau ngay trong khoa hay trƣớc mặt<br /> sinh viên. Điều này sẽ tạo nên hình ảnh không<br /> tốt ở môi trƣờng học đƣờng. Do vậy, phần thứ<br /> tƣ sau đây sẽ trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào<br /> để xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính<br /> hợp tác tốt ở cấp khoa của các trƣờng đại học?<br /> CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CẤU THÀNH MỘT<br /> MÔI TRƢỜNG GIẢNG DẠY CÓ TÍNH<br /> HỢP TÁC TỐT Ở CẤP KHOA CỦA<br /> TRƢỜNG ĐẠI HỌC<br /> Một khoa đƣợc xem là có văn hóa hợp tác trong<br /> giảng dạy (a supportive culture of teaching) khi<br /> nó luôn thúc đẩy tất cả các cá nhân hay nhóm<br /> giảng viên phát triển dựa trên tinh thần hợp tác,<br /> cởi mở, chia sẻ, bình đẳng và trung thực. Đồng<br /> thời phải có sự cảm thông, khoan dung cho mọi<br /> rủi ro, sai lầm nếu có (risk tolerance). Dựa trên<br /> cơ sở lý thuyết của các effective learning<br /> organisations và kết quả khảo sát ý kiến của 40<br /> giảng viên, tác giả đề xuất năm yếu tố cơ bản<br /> cấu thành một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp<br /> tác tốt ở khoa. Mặc dù những số liệu khảo sát<br /> <br /> 72(10): 150 - 158<br /> <br /> đƣợc có độ tin cậy và chính xác tuy nhiên chỉ<br /> có tính tham khảo cho bài viết. Trong phạm vi<br /> nghiên cứu nhỏ, tác giả không có chủ ý đánh<br /> giá tổng thể môi trƣờng giảng dạy của tất cả<br /> các cơ sở giáo dục.<br /> Hợp tác tự nguyện và cởi mở<br /> Hầu hết các nhà quản lý giáo dục đều ghi<br /> nhận giá trị của phƣơng thức làm việc theo<br /> nhóm (team-work) và tầm quan trọng của một<br /> môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tích cực<br /> giữa các giảng viên trong cùng khoa và (hoặc)<br /> cùng trƣờng. Nhƣng theo cảm nhận trực quan<br /> của tác giả, có một thực tế đang diễn ra hiện<br /> nay tại các trƣờng đại học nói riêng hay nói<br /> rộng ra là tại các cơ quan, tổ chức ở Việt Nam<br /> nói chung là thay vì chia sẻ ý kiến, kinh<br /> nghiệm, tài liệu và bí quyết của mình cho<br /> đồng nghiệp một cách cởi mở để đôi bên cùng<br /> có lợi, thì vẫn có một số đông ngƣời muốn<br /> tích luỹ kiến thức cho riêng mình và hạn chế<br /> giao lƣu với đồng nghiệp càng ít càng tốt hay<br /> nói rõ ra là những ngƣời này không muốn<br /> chia sẻ với đồng nghiệp những gì họ có bởi ở<br /> đâu đó vẫn còn tồn tại tâm lý cạnh tranh, hơn<br /> thua vì quyền lợi. Đây là một thực tế không<br /> thể phủ nhận đƣợc, nhƣng cũng không dễ để<br /> xóa bỏ bởi nó đƣợc tạo nên và ràng buộc bởi<br /> nhiều yếu tố văn hóa từ xƣa đến nay.<br /> Thật vậy, chỉ có 6/40 (15%) giảng viên tham<br /> gia cuộc khảo sát cho biết họ thƣờng xuyên<br /> chia sẻ thông tin, tài liệu hay và mới mà họ có<br /> đƣợc cho đồng nghiệp, 37,5% giảng viên cho<br /> biết chỉ thỉnh thoảng mới chia sẻ và số ngƣời<br /> rất ít khi chia sẻ chiếm 27,5%. Điều đáng lƣu<br /> ý là vẫn còn tới 20% giảng viên chƣa bao giờ<br /> chia sẻ bất cứ thứ gì với đồng nghiệp của<br /> mình. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy rằng vẫn<br /> đang tồn tại một khoảng cách khá xa giữa<br /> những tuyên bố hợp tác cởi mở, tƣơng thân<br /> tƣơng ái và một thực tế cạnh tranh trong nhà<br /> trƣờng. Khoảng cách này có thể lớn, có thể bé<br /> tùy vào hoàn cảnh cụ thể và khác nhau của<br /> từng khoa, từng trƣờng.<br /> Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện<br /> nay, đòi hỏi ngƣời giảng viên phải là những<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> | 153<br /> <br /> Nguyễn Hữu Quý<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> nhà khoa học thực thụ, nhất thiết cần phải có<br /> một mạng lƣới kết nối các giảng viên cùng<br /> chuyên ngành, sở thích để chia sẻ thông tin và<br /> trao đổi chuyên môn. 31/40 (77,5%) giảng<br /> viên nghĩ rằng cần thiết phải có sự chia sẻ<br /> trong giảng dạy; tạo dựng cho đƣợc không khí<br /> làm việc cởi mở, trung thực và khoan dung<br /> khi cộng tác với nhau trên tinh thần đôi bên<br /> cùng có lợi để nuôi dƣỡng niềm đam mê<br /> giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra,<br /> sự nhiệt tình hỗ trợ và chia sẻ từ Ban chủ<br /> nhiệm khoa, Trƣởng bộ môn cũng không kém<br /> phần quan trọng (29/40).<br /> Nhƣ vậy, chúng ta thấy có sự tƣơng đồng<br /> giữa số giảng viên cho rằng cần phải hợp tác<br /> trong giảng dạy (77,5%) và số giảng viên đã<br /> từng chia sẻ tài liệu cho đồng nghiệp dù<br /> thƣờng xuyên hay ít khi (80%).<br /> Sinh hoạt chuyên môn thường xuyên<br /> Theo Austin & Baldwin (1991), có 3 lợi ích<br /> khi giảng viên trong khoa thƣờng xuyên<br /> tƣơng tác với nhau: i) nâng cao năng lực<br /> giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ii) kích<br /> thích sự phát triển trí tuệ và tƣ duy sáng tạo<br /> và iii) giảm sự cô lập - tách rời theo các<br /> phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Đồng ý<br /> với Austin & Baldwin, Massy et al. (1994)<br /> cho rằng sự tƣơng tác thƣờng xuyên sẽ là<br /> nhân tố tích cực, hỗ trợ cho việc giảng dạy đạt<br /> hiệu quả cao hơn.<br /> Minh chứng cho các nhận định trên, 45%<br /> giảng viên trả lời “đồng ý” đối với câu hỏi:<br /> “Anh (chị) có cho rằng mọi giảng viên cần<br /> phải tƣơng tác, gặp gỡ nhau thƣờng xuyên tại<br /> khoa để trao đổi về vấn đề chuyên môn hay<br /> không?” và 22,5% giảng viên lựa chọn<br /> phƣơng án trả lời “rất đồng ý”. Tuy nhiên, kết<br /> quả khảo sát thực tế lại không ghi nhận sự<br /> thƣờng xuyên của các buổi sinh hoạt tổ<br /> chuyên môn định kỳ tại khoa. Chỉ có 12,5%<br /> giảng viên cho biết họ sinh hoạt tổ chuyên<br /> môn 1 lần / 1 tuần, 22,5% giảng viên họp tổ<br /> chuyên môn 1 lần / 1 tháng.<br /> <br /> 72(10): 150 - 158<br /> <br /> Điều đáng ngạc nhiên là có đến 27,5% giảng<br /> viên cho biết chỉ sinh hoạt tổ chuyên môn 1<br /> lần / 1 học kỳ do không có thời gian để tập<br /> hợp tất cả các thành viên lại. Đây là một tỉ lệ<br /> khá thấp, tuy nhiên cũng do một thực tế hiện<br /> nay là tỉ lệ sinh viên trên giảng viên (SV/GV)<br /> ở các trƣờng đại học Việt Nam còn khá cao,<br /> cho nên hầu hết giảng viên phải dạy quá tải,<br /> không có nhiều thời gian gặp nhau ở khoa hay<br /> sinh hoạt chuyên môn. Theo Đại diện của 280<br /> trƣờng đại học, cao đẳng trong cả nƣớc tham<br /> dự hội thảo "Đánh giá - xếp hạng các trƣờng<br /> đại học và cao đẳng" đƣợc tổ chức tại thành<br /> phố Huế vào ngày 16/4/2010, tỷ lệ trung bình<br /> SV/GV của 376 trƣờng đại học, cao đẳng<br /> trong cả nƣớc là 28 SV/1 GV, trong khi tỉ lệ<br /> quy định trung bình chung của Bộ Giáo dục<br /> và Đào tạo cho tất cả các ngành là 20 SV/1<br /> GV (Thanh Niên Online, 2010), còn tỉ lệ cụ<br /> thể cho từng nhóm ngành Khoa học Kỹ thuậtCông nghệ, Khoa học Xã hội, Y dƣợc và<br /> Nghệ thuật thì khác nhau.<br /> Quản lý và giao tiếp cởi mở<br /> Để tạo đƣợc một môi trƣờng làm việc thân<br /> thiện nhất thiết tất cả giảng viên phải đƣợc<br /> tham gia vào quá trình quản lý khoa tức là cá<br /> nhân từng giảng viên và các tổ chuyên môn<br /> đều phải đƣợc tham khảo ý kiến trƣớc khi khoa<br /> có một chủ trƣơng, quyết định gì đó. Đồng<br /> thời, mọi ý kiến đóng góp của họ, bất kể tuổi<br /> tác - thâm niên công tác - học hàm - học vị,<br /> đều phải đƣợc tôn trọng và cân nhắc. Nếu có<br /> cơ hội đƣợc tham gia vào những hoạt động<br /> nhƣ thế, chắc chắn giảng viên sẽ cảm thấy<br /> tiếng nói của họ có giá trị và khoa là ngôi nhà<br /> thứ hai của chính họ (ownership), khi đó họ sẽ<br /> hết sức hợp tác với nhau, với ban chủ nhiệm<br /> khoa để xây dựng khoa ngày càng vững mạnh.<br /> Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy chỉ có<br /> 37,5% giảng viên có cảm giác ownership đối<br /> với khoa, 30% giảng viên cảm thấy không có<br /> cảm giác đó và 32,5% giảng viên còn lại thể<br /> hiện thái độ bàng quan bằng cách trả lời<br /> “không có ý kiến” khi đƣợc hỏi “Anh (chị) có<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> | 154<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2