XÂY DỰNG VĂN HÓA HỢP TÁC TRONG GIẢNG DẠY Ở CẤP KHOA<br />
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC<br />
Nguyễn Hữu Quý*<br />
Đại học Đà Nẵng<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong thời đại của toàn cầu hóa về giáo dục, các khoa của một trƣờng đại học cần phải trở thành<br />
những tổ chức học tập hiệu quả. Vì vậy, việc xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp tác<br />
chặt chẽ giữa các giảng viên để tạo thành một nét văn hóa hợp tác trong giảng dạy của khoa là một<br />
trong những yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển vững chắc của khoa nói riêng và nhà<br />
trƣờng nói chung.<br />
Bài báo nghiên cứu cơ sở lý thuyết của các tổ chức học tập mà ở đó mọi giảng viên có sự hỗ trợ<br />
lẫn nhau rất hiệu quả trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục. Trên cơ sở đó, cùng với<br />
việc khảo sát ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà Nẵng và một số trƣờng bạn, tác giả phân<br />
tích sự cần thiết của một môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tốt và đƣa ra 5 yếu tố cơ bản không<br />
thể thiếu nếu muốn xây dựng thành công nét văn hóa này tại khoa, cụ thể là: hợp tác tự nguyện và<br />
cởi mở, sinh hoạt chuyên môn định kỳ, quản lý và giao tiếp hài hòa, có văn hóa đánh giá giảng<br />
viên và đối xử bình đẳng giữa các thế hệ giảng viên.<br />
Từ khóa: Tổ chức học tập, Văn hóa hợp tác, Hợp tác trong giảng dạy, Khoa của trường đại học,<br />
Bình đẳng giữa các thế hệ<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Các trƣờng đại học là nơi sản sinh và chuyển<br />
tải tri thức cho ngƣời học. Việc nâng cao chất<br />
lƣợng giáo dục nói chung và giáo dục đại học<br />
nói riêng đang nhận đƣợc sự quan tâm rất lớn<br />
của các nhà quản lý giáo dục, giảng viên, sinh<br />
viên và toàn xã hội. Để tồn tại và phát triển bền<br />
vững (sustainable development) trong môi<br />
trƣờng toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức<br />
hiện nay, các trƣờng đại học phải là những tổ<br />
chức học tập (learning organisations), trong đó<br />
các khoa và tập thể giảng viên trong khoa đóng<br />
vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào sự lớn<br />
mạnh của nhà trƣờng.<br />
Để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng<br />
nghiên cứu khoa học nhằm theo kịp sự phát<br />
triển của xã hội-khoa học và công nghệ, ngƣời<br />
giảng viên đại học không những phải chủ động<br />
trau dồi chuyên môn mà còn phải học tập suốt<br />
đời (lifelong learning). Có nhiều kênh thông<br />
tin để nâng cao trình độ nhƣ thông qua sách,<br />
báo, tài liệu; phƣơng tiện thông tin đại chúng,<br />
các khóa đào tạo bồi dƣỡng,…nhƣng quan<br />
trọng và hữu hiệu hơn cả là sự học hỏi, chia sẻ<br />
kinh nghiệm lẫn nhau giữa các giảng viên<br />
<br />
<br />
Tel: 0905.062.848; Email: nhquy@ac.udn.vn<br />
<br />
trong cùng chuyên ngành, tổ bộ môn trong một<br />
khoa theo phƣơng châm “học thầy không tày<br />
học bạn”. Hay thậm chí là cần phải có sự hợp<br />
tác theo chiều dọc tức là giữa giảng viên của<br />
trƣờng đại học này với giảng viên của trƣờng<br />
đại học khác, trong và ngoài nƣớc.<br />
Theo ghi nhận của tác giả bằng cách quan sát<br />
thực tế, trao đổi với đồng nghiệp ở các trƣờng<br />
đại học và cao đẳng thành viên thuộc Đại học<br />
Đà Nẵng cũng nhƣ các trƣờng bạn ở khu vực<br />
miền Trung và Tây Nguyên, dƣới các khía<br />
cạnh đặc trƣng cho một môi trƣờng làm việc<br />
có tính hợp tác nhƣ: hoạt động giảng dạy và<br />
nghiên cứu khoa học, sự tƣơng tác – trao đổi<br />
chuyên môn giữa các giảng viên, sự chia sẻ<br />
nguồn thông tin, cách thức điều hành của lãnh<br />
đạo khoa, thì những yếu tố này đều đang tồn<br />
tại ở các khoa của các trƣờng và hầu hết giảng<br />
viên trong các cuộc trao đổi đều ý thức đƣợc<br />
tầm quan trọng và sự cần thiết của một môi<br />
trƣờng giảng dạy có tính hợp tác cao.<br />
Tuy nhiên, tại Đại học Đà Nẵng, trong khi nét<br />
văn hóa này đang tồn tại rất rõ nét tại một số<br />
khoa có bề dày thành tích trong hoạt động<br />
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, có đội ngũ<br />
cán bộ giảng viên có tinh thần đoàn kết cao và<br />
thƣờng xuyên hỗ trợ lẫn nhau rất tốt, nó vẫn<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 150<br />
<br />
Nguyễn Hữu Quý<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
còn khá mờ nhạt ở rất nhiều khoa khác, thậm<br />
chí còn có sự cạnh tranh lẫn nhau rõ rệt giữa<br />
các thành viên trong những khoa này khiến<br />
khoa không thể phát triển đƣợc bởi không có<br />
sự đồng thuận và đồng tâm hiệp lực của tập<br />
thể cán bộ giảng viên trong khoa.<br />
Từ lý do đó, bài báo phân tích sự cần thiết<br />
phải xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có<br />
sự hợp tác tốt giữa các giảng viên trong khoa<br />
nhằm đánh thức ý thức tự giác hợp tác của<br />
giảng viên Đại học Đà Nẵng nói riêng và của<br />
tất cả các cơ sở giáo dục đại học nói chung.<br />
Sự phân tích dựa trên cơ sở lý thuyết của các<br />
tổ chức học tập và số liệu khảo sát bằng phiếu<br />
hỏi ý kiến của 40 giảng viên của Đại học Đà<br />
Nẵng và một số trƣờng bạn. Việc chọn mẫu<br />
nghiên cứu đƣợc phân bố đồng đều giữa các<br />
đối tƣợng, có sự khác nhau về độ tuổi, thâm<br />
niên công tác, trình độ chuyên môn và chức<br />
vụ trong khoa.<br />
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài<br />
viết gồm có 5 phần:<br />
1. Vai trò của khoa trong trƣờng đại học;<br />
2. Xây dựng khoa trở thành một tổ chức học<br />
tập hiệu quả;<br />
3. Sự cần thiết phải có một môi trƣờng giảng<br />
dạy có tính hợp tác tốt ở khoa;<br />
4. Các yếu tố cơ bản cấu thành một môi<br />
trƣờng giảng dạy có tính hợp tác ở cấp khoa<br />
của trƣờng đại học;<br />
5. Một số kiến nghị nhằm xây dựng nét văn<br />
hóa này ở khoa.<br />
VAI TRÕ CỦA KHOA TRONG TRƢỜNG<br />
ĐẠI HỌC<br />
Trong bất kỳ một trƣờng đại học công lập hay<br />
dân lập, bộ máy quản lý hành chính bao gồm<br />
Ban Giám hiệu và các phòng chức năng có vai<br />
trò quan trọng nhƣng khoa - đơn vị trực tiếp<br />
làm công tác chuyên môn, thực hiện các chức<br />
năng không thể thay thế như thiết kế chương<br />
trình đào tạo; xây dựng, phát triển và chỉnh<br />
sửa giáo trình, giảng dạy và nghiên cứu khoa<br />
học - lại có vai trò quyết định đối với sự phát<br />
triển của nhà trƣờng bởi vì khoa là mái nhà của<br />
mọi hoạt động chuyên môn nên nó giữ vai trò<br />
<br />
72(10): 150 - 158<br />
<br />
nòng cốt trong một trƣờng đại học (Clark,<br />
1987; Collie & Taylor, 2004). Nhƣ vậy có thể<br />
nói rằng khoa là đơn vị trung tâm tạo ra mọi sự<br />
thay đổi và cải tiến chất lƣợng đào tạo của nhà<br />
trƣờng. Vì vậy, phƣơng hƣớng hoạt động của<br />
khoa cần phải luôn phản ánh rõ vai trò, giá trị<br />
và mục tiêu của nó trong nhà trƣờng nhằm<br />
thực hiện sứ mệnh chung của nhà trƣờng.<br />
Sự phát triển của một trƣờng đại học bắt<br />
nguồn và phụ thuộc vào sự vững mạnh của<br />
từng khoa. Khoa là đơn vị cấu thành nhà<br />
trƣờng nhƣng đồng thời cũng là đơn vị hoạt<br />
động độc lập với bộ máy quản lý riêng, gồm<br />
có Ban chủ nhiệm khoa và các tổ trƣởng<br />
chuyên môn, có nguồn ngân sách và đội ngũ<br />
nhân sự riêng để hoạt động. Để khoa có thể<br />
vững mạnh và đào tạo có chất lƣợng tốt, trƣớc<br />
hết là tập thể cán bộ giảng viên trong khoa<br />
phải đoàn kết tạo thành một thể thống nhất<br />
trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy, việc xây<br />
dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp<br />
tác tốt giữa lãnh đạo khoa với tập thể giảng<br />
viên, giữa các giảng viên với nhau hay giữa<br />
các thế hệ giảng viên nhằm tạo nên nét văn<br />
hóa mang tính chuyên nghiệp của khoa là<br />
điều hết sức cần thiết hiện nay.<br />
XÂY DỰNG KHOA TRỞ THÀNH MỘT TỔ<br />
CHỨC HỌC TẬP HIỆU QUẢ<br />
Ngày nay, các trƣờng đại học cần phải tự xem<br />
mình nhƣ là những doanh nghiệp, tôn chỉ và<br />
mục tiêu phát triển của nhà trƣờng phải đƣợc<br />
xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và mong<br />
đợi của sinh viên. Vì vậy, cần phải xây dựng<br />
các khoa trở thành những tổ chức học tập hiệu<br />
quả (effective learning organisations), nơi<br />
mà mọi thành viên đều có cảm giác đƣợc kích<br />
thích học tập, đƣợc chia sẻ và hỗ trợ<br />
(collaboration and support), nơi mà mọi sáng<br />
kiến đều đƣợc ghi nhận và đánh giá cao<br />
(innovation is encouraged and valued). Để<br />
làm đƣợc điều này thì phƣơng thức hoạt động<br />
và điều hành của ban lãnh đạo khoa phải luôn<br />
chú trọng đến 4 yếu tố cơ bản của mô hình<br />
Balanced Scorecard: i) sinh viên, ii) tài chính,<br />
iii) quy trình nội bộ và iv) không ngừng học<br />
tập (Nguyễn, 2010), đặc biệt nhấn mạnh đến<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 151<br />
<br />
Nguyễn Hữu Quý<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
yếu tố cuối cùng nhằm mang lại những lợi ích<br />
cao nhất cho sinh viên.<br />
Một khoa đƣợc gọi là an effective learning<br />
organisation khi mọi thành viên trong khoa đều<br />
có ý thức tự giác học tập và học tập có chiến<br />
thuật (learns intentionally and strategically)<br />
(Nevis et al., 1995). Việc học tập có thể là tự<br />
học hoặc học hỏi lẫn nhau thông qua các hoạt<br />
động giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm và sáng<br />
kiến, chuyển giao tri thức, v.v… Sự phát triển<br />
của mỗi cá nhân đóng góp vào sự lớn mạnh<br />
chung của nhà trƣờng. Muốn nhƣ vậy, lãnh đạo<br />
khoa cần phải luôn: a) kích thích tƣ duy sáng<br />
tạo và tinh thần học tập không ngừng của mọi<br />
giảng viên, đặc biệt là những giảng viên trẻ vừa<br />
mới đƣợc tuyển dụng về khoa; b) tạo môi<br />
trƣờng thuận lợi cho việc giảng dạy và nghiên<br />
cứu khoa học, ví dụ nhƣ tạo điều kiện về thời<br />
gian lẫn vật chất cho giảng viên đi học sau đại<br />
học, đặc biệt là những ngƣời đi học bằng nguồn<br />
kinh phí tự túc do chƣa đủ trình độ để xin học<br />
bổng đi học ở nƣớc ngoài, mở rộng hợp tác<br />
quốc tế để tìm các nguồn học bổng gửi giảng<br />
viên đi đào tạo tại nƣớc ngoài; c) kích thích<br />
giảng viên có những phản hồi tích cực về tất cả<br />
các vấn đề chuyên môn của đồng nghiệp hay<br />
của khoa (tức là nâng cao khả năng phê bình và<br />
tự phê bình, thẳn thắn nhìn rõ sự thật) nhằm<br />
nâng cao chất lƣợng dạy - học đại học. Khi các<br />
yếu tố trên đƣợc thỏa mãn, chắc chắn giảng viên<br />
sẽ cảm thấy thoải mái trong quá trình giảng dạy<br />
và giao tiếp, nâng cao hiệu quả hợp tác.<br />
SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT MÔI TRƢỜNG<br />
GIẢNG DẠY CÓ TÍNH HỢP TÁC ĐỂ TẠO<br />
THÀNH NÉT VĂN HÓA CỦA KHOA<br />
Khi nghĩ đến việc xây dựng khoa trở thành<br />
một tổ chức mà ở đó các thành viên tích cực<br />
hỗ trợ lẫn nhau, tức là chúng ta đang nhắm<br />
đến việc xây dựng nét văn hóa hợp tác trong<br />
giảng dạy ở khoa bên cạnh các nét văn hóa<br />
khác nhƣ văn hóa giao tiếp, văn hóa đánh giá,<br />
văn hóa ăn mặc.<br />
Bất kỳ một hoạt động đặc trƣng nào đƣợc lặp<br />
đi lặp lại nhiều lần thì sẽ tạo thành nét văn hóa<br />
cho ngƣời hay nhóm ngƣời thực hiện nó. Có<br />
<br />
72(10): 150 - 158<br />
<br />
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tuy<br />
nhiên theo UNESCO: “Văn hóa là tập hợp của<br />
những đặc trƣng về tâm hồn, vật chất, tri thức<br />
và xúc cảm của một xã hội hay nhóm ngƣời<br />
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học<br />
và nghệ thuật, cả cách sống, phƣơng thức<br />
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và<br />
đức tin” (UNESCO, 2002). Nhƣ vậy có thể<br />
nói, văn hóa là yếu tố đƣợc sinh ra khi một<br />
nhóm ngƣời tập hợp lại trong một môi trƣờng<br />
cụ thể, để làm việc vì những mục đích nào đó.<br />
Do đó, mỗi cơ quan đều có nét văn hóa của<br />
riêng mình và nó tạo thành văn hóa công sở.<br />
Văn hóa công sở có thể hiểu là những giá trị,<br />
niềm tin, sự hiểu biết chung của mọi ngƣời về<br />
môi trƣờng làm việc của mình và lề lối làm<br />
việc của họ. Nó đƣợc hình thành bởi những<br />
ngƣời làm việc trong chính môi trƣờng đó và<br />
luôn đƣợc xem là tài sản vô hình rất có giá trị<br />
của một tổ chức.<br />
Khi nói đến văn hóa hợp tác ở công sở, chúng<br />
ta không thể không nhớ đến tƣ tƣởng về đại<br />
đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:<br />
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành<br />
công, thành công, đại thành công”. Từ lời dạy<br />
của Bác, chúng ta có thể suy rộng ra rằng<br />
trong xu hƣớng hội nhập quốc tế về giáo dục<br />
và đào tạo nhƣ hiện nay, mặc dù các giảng<br />
viên đại học vẫn có thể tự làm một số công<br />
việc nhƣng nhìn chung thì họ không thể tự<br />
mình giải quyết mọi công việc với kết quả cao<br />
đƣợc nếu thiếu sự hợp tác với đồng nghiệp.<br />
Bởi vì khi có sự đoàn kết, hợp tác và chia sẻ<br />
trong công việc thì mới thúc đẩy tƣ duy sáng<br />
tạo và trí tuệ của mọi cá nhân, từ đó chất<br />
lƣợng giảng dạy và nghiên cứu khoa học mới<br />
đƣợc nâng lên.<br />
Ở các nƣớc có nền giáo dục tiên tiến nhƣ<br />
Anh, Öc, Hoa Kỳ, sự hợp tác trong giảng dạy<br />
giữa các giảng viên còn đƣợc thể hiện qua mô<br />
hình giảng dạy „Cooperative teaching model‟<br />
tức là hai hay ba giảng viên có cùng sở thích<br />
khoa học (teaching and research interests)<br />
cùng dạy chung một lớp (tất cả đều là giảng<br />
viên chính, có trách nhiệm và quyền hạn<br />
ngang nhau, chứ không phải là giảng viên<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 152<br />
<br />
Nguyễn Hữu Quý<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
chính và trợ giảng (tutor)). Khi tham gia vào<br />
mô hình giảng dạy này, các giảng viên thực<br />
sự tin tƣởng lẫn nhau (trust) và có niềm tin<br />
rằng mô hình giảng dạy chung sẽ mang lại kết<br />
quả tốt. Những giảng viên này sắp xếp thời<br />
gian để làm việc cùng nhau hằng ngày một<br />
cách cởi mở và tôn trọng lẫn nhau nhƣng<br />
cũng sẵn sàng chỉ trích lẫn nhau (play off),<br />
tuy nhiên đây là sự chỉ trích có tính hợp tác để<br />
giúp nhau cùng tiến bộ. Mô hình này không<br />
những mang lại lợi ích cho giảng viên mà đặc<br />
biệt là cho sinh viên bởi vì họ lĩnh hội đƣợc<br />
một khối lƣợng kiến thức nhiều hơn, đa dạng<br />
hơn và quý giá hơn từ nhóm giảng viên (bản<br />
thân tác giả đã đƣợc trải nghiệm mô hình<br />
giảng dạy này trong thời gian học tập tại Đại<br />
học Queensland, Öc).<br />
Nếu không có sự hợp tác tốt trong giảng dạy,<br />
chắc chắn mức độ thành công trên bục giảng<br />
của mỗi giảng viên sẽ bị giới hạn ở mức thấp.<br />
Trong một số trƣờng hợp, sự bất hợp tác còn<br />
dẫn đến việc giảng viên thiếu tôn trọng lẫn<br />
nhau, chỉ trích nhau, cạnh tranh không lành<br />
mạnh lẫn nhau ngay trong khoa hay trƣớc mặt<br />
sinh viên. Điều này sẽ tạo nên hình ảnh không<br />
tốt ở môi trƣờng học đƣờng. Do vậy, phần thứ<br />
tƣ sau đây sẽ trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào<br />
để xây dựng một môi trƣờng giảng dạy có tính<br />
hợp tác tốt ở cấp khoa của các trƣờng đại học?<br />
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CẤU THÀNH MỘT<br />
MÔI TRƢỜNG GIẢNG DẠY CÓ TÍNH<br />
HỢP TÁC TỐT Ở CẤP KHOA CỦA<br />
TRƢỜNG ĐẠI HỌC<br />
Một khoa đƣợc xem là có văn hóa hợp tác trong<br />
giảng dạy (a supportive culture of teaching) khi<br />
nó luôn thúc đẩy tất cả các cá nhân hay nhóm<br />
giảng viên phát triển dựa trên tinh thần hợp tác,<br />
cởi mở, chia sẻ, bình đẳng và trung thực. Đồng<br />
thời phải có sự cảm thông, khoan dung cho mọi<br />
rủi ro, sai lầm nếu có (risk tolerance). Dựa trên<br />
cơ sở lý thuyết của các effective learning<br />
organisations và kết quả khảo sát ý kiến của 40<br />
giảng viên, tác giả đề xuất năm yếu tố cơ bản<br />
cấu thành một môi trƣờng giảng dạy có tính hợp<br />
tác tốt ở khoa. Mặc dù những số liệu khảo sát<br />
<br />
72(10): 150 - 158<br />
<br />
đƣợc có độ tin cậy và chính xác tuy nhiên chỉ<br />
có tính tham khảo cho bài viết. Trong phạm vi<br />
nghiên cứu nhỏ, tác giả không có chủ ý đánh<br />
giá tổng thể môi trƣờng giảng dạy của tất cả<br />
các cơ sở giáo dục.<br />
Hợp tác tự nguyện và cởi mở<br />
Hầu hết các nhà quản lý giáo dục đều ghi<br />
nhận giá trị của phƣơng thức làm việc theo<br />
nhóm (team-work) và tầm quan trọng của một<br />
môi trƣờng giảng dạy có sự hợp tác tích cực<br />
giữa các giảng viên trong cùng khoa và (hoặc)<br />
cùng trƣờng. Nhƣng theo cảm nhận trực quan<br />
của tác giả, có một thực tế đang diễn ra hiện<br />
nay tại các trƣờng đại học nói riêng hay nói<br />
rộng ra là tại các cơ quan, tổ chức ở Việt Nam<br />
nói chung là thay vì chia sẻ ý kiến, kinh<br />
nghiệm, tài liệu và bí quyết của mình cho<br />
đồng nghiệp một cách cởi mở để đôi bên cùng<br />
có lợi, thì vẫn có một số đông ngƣời muốn<br />
tích luỹ kiến thức cho riêng mình và hạn chế<br />
giao lƣu với đồng nghiệp càng ít càng tốt hay<br />
nói rõ ra là những ngƣời này không muốn<br />
chia sẻ với đồng nghiệp những gì họ có bởi ở<br />
đâu đó vẫn còn tồn tại tâm lý cạnh tranh, hơn<br />
thua vì quyền lợi. Đây là một thực tế không<br />
thể phủ nhận đƣợc, nhƣng cũng không dễ để<br />
xóa bỏ bởi nó đƣợc tạo nên và ràng buộc bởi<br />
nhiều yếu tố văn hóa từ xƣa đến nay.<br />
Thật vậy, chỉ có 6/40 (15%) giảng viên tham<br />
gia cuộc khảo sát cho biết họ thƣờng xuyên<br />
chia sẻ thông tin, tài liệu hay và mới mà họ có<br />
đƣợc cho đồng nghiệp, 37,5% giảng viên cho<br />
biết chỉ thỉnh thoảng mới chia sẻ và số ngƣời<br />
rất ít khi chia sẻ chiếm 27,5%. Điều đáng lƣu<br />
ý là vẫn còn tới 20% giảng viên chƣa bao giờ<br />
chia sẻ bất cứ thứ gì với đồng nghiệp của<br />
mình. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy rằng vẫn<br />
đang tồn tại một khoảng cách khá xa giữa<br />
những tuyên bố hợp tác cởi mở, tƣơng thân<br />
tƣơng ái và một thực tế cạnh tranh trong nhà<br />
trƣờng. Khoảng cách này có thể lớn, có thể bé<br />
tùy vào hoàn cảnh cụ thể và khác nhau của<br />
từng khoa, từng trƣờng.<br />
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy hiện<br />
nay, đòi hỏi ngƣời giảng viên phải là những<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 153<br />
<br />
Nguyễn Hữu Quý<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nhà khoa học thực thụ, nhất thiết cần phải có<br />
một mạng lƣới kết nối các giảng viên cùng<br />
chuyên ngành, sở thích để chia sẻ thông tin và<br />
trao đổi chuyên môn. 31/40 (77,5%) giảng<br />
viên nghĩ rằng cần thiết phải có sự chia sẻ<br />
trong giảng dạy; tạo dựng cho đƣợc không khí<br />
làm việc cởi mở, trung thực và khoan dung<br />
khi cộng tác với nhau trên tinh thần đôi bên<br />
cùng có lợi để nuôi dƣỡng niềm đam mê<br />
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra,<br />
sự nhiệt tình hỗ trợ và chia sẻ từ Ban chủ<br />
nhiệm khoa, Trƣởng bộ môn cũng không kém<br />
phần quan trọng (29/40).<br />
Nhƣ vậy, chúng ta thấy có sự tƣơng đồng<br />
giữa số giảng viên cho rằng cần phải hợp tác<br />
trong giảng dạy (77,5%) và số giảng viên đã<br />
từng chia sẻ tài liệu cho đồng nghiệp dù<br />
thƣờng xuyên hay ít khi (80%).<br />
Sinh hoạt chuyên môn thường xuyên<br />
Theo Austin & Baldwin (1991), có 3 lợi ích<br />
khi giảng viên trong khoa thƣờng xuyên<br />
tƣơng tác với nhau: i) nâng cao năng lực<br />
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ii) kích<br />
thích sự phát triển trí tuệ và tƣ duy sáng tạo<br />
và iii) giảm sự cô lập - tách rời theo các<br />
phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Đồng ý<br />
với Austin & Baldwin, Massy et al. (1994)<br />
cho rằng sự tƣơng tác thƣờng xuyên sẽ là<br />
nhân tố tích cực, hỗ trợ cho việc giảng dạy đạt<br />
hiệu quả cao hơn.<br />
Minh chứng cho các nhận định trên, 45%<br />
giảng viên trả lời “đồng ý” đối với câu hỏi:<br />
“Anh (chị) có cho rằng mọi giảng viên cần<br />
phải tƣơng tác, gặp gỡ nhau thƣờng xuyên tại<br />
khoa để trao đổi về vấn đề chuyên môn hay<br />
không?” và 22,5% giảng viên lựa chọn<br />
phƣơng án trả lời “rất đồng ý”. Tuy nhiên, kết<br />
quả khảo sát thực tế lại không ghi nhận sự<br />
thƣờng xuyên của các buổi sinh hoạt tổ<br />
chuyên môn định kỳ tại khoa. Chỉ có 12,5%<br />
giảng viên cho biết họ sinh hoạt tổ chuyên<br />
môn 1 lần / 1 tuần, 22,5% giảng viên họp tổ<br />
chuyên môn 1 lần / 1 tháng.<br />
<br />
72(10): 150 - 158<br />
<br />
Điều đáng ngạc nhiên là có đến 27,5% giảng<br />
viên cho biết chỉ sinh hoạt tổ chuyên môn 1<br />
lần / 1 học kỳ do không có thời gian để tập<br />
hợp tất cả các thành viên lại. Đây là một tỉ lệ<br />
khá thấp, tuy nhiên cũng do một thực tế hiện<br />
nay là tỉ lệ sinh viên trên giảng viên (SV/GV)<br />
ở các trƣờng đại học Việt Nam còn khá cao,<br />
cho nên hầu hết giảng viên phải dạy quá tải,<br />
không có nhiều thời gian gặp nhau ở khoa hay<br />
sinh hoạt chuyên môn. Theo Đại diện của 280<br />
trƣờng đại học, cao đẳng trong cả nƣớc tham<br />
dự hội thảo "Đánh giá - xếp hạng các trƣờng<br />
đại học và cao đẳng" đƣợc tổ chức tại thành<br />
phố Huế vào ngày 16/4/2010, tỷ lệ trung bình<br />
SV/GV của 376 trƣờng đại học, cao đẳng<br />
trong cả nƣớc là 28 SV/1 GV, trong khi tỉ lệ<br />
quy định trung bình chung của Bộ Giáo dục<br />
và Đào tạo cho tất cả các ngành là 20 SV/1<br />
GV (Thanh Niên Online, 2010), còn tỉ lệ cụ<br />
thể cho từng nhóm ngành Khoa học Kỹ thuậtCông nghệ, Khoa học Xã hội, Y dƣợc và<br />
Nghệ thuật thì khác nhau.<br />
Quản lý và giao tiếp cởi mở<br />
Để tạo đƣợc một môi trƣờng làm việc thân<br />
thiện nhất thiết tất cả giảng viên phải đƣợc<br />
tham gia vào quá trình quản lý khoa tức là cá<br />
nhân từng giảng viên và các tổ chuyên môn<br />
đều phải đƣợc tham khảo ý kiến trƣớc khi khoa<br />
có một chủ trƣơng, quyết định gì đó. Đồng<br />
thời, mọi ý kiến đóng góp của họ, bất kể tuổi<br />
tác - thâm niên công tác - học hàm - học vị,<br />
đều phải đƣợc tôn trọng và cân nhắc. Nếu có<br />
cơ hội đƣợc tham gia vào những hoạt động<br />
nhƣ thế, chắc chắn giảng viên sẽ cảm thấy<br />
tiếng nói của họ có giá trị và khoa là ngôi nhà<br />
thứ hai của chính họ (ownership), khi đó họ sẽ<br />
hết sức hợp tác với nhau, với ban chủ nhiệm<br />
khoa để xây dựng khoa ngày càng vững mạnh.<br />
Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy chỉ có<br />
37,5% giảng viên có cảm giác ownership đối<br />
với khoa, 30% giảng viên cảm thấy không có<br />
cảm giác đó và 32,5% giảng viên còn lại thể<br />
hiện thái độ bàng quan bằng cách trả lời<br />
“không có ý kiến” khi đƣợc hỏi “Anh (chị) có<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
| 154<br />
<br />