intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

Chia sẻ: Tran Huu Du | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

450
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến bao gồm những nội dung về những quá trình hoạt động của những phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ 19 đến thế kỷ 20; những khuynh hướng của các phong trào yêu nước tiêu biểu. Tài liệu hữu ích với các bạn chuyên ngành Lịch sử và những ngành có liên quan.

 

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

  1. I. Tóm tắt những quá trình hoạt động của những phong trào yêu  nước từ cuối tk19 den tk20:  1.Phong trào Cần Vương phát triển qua 2 giai triển qua đoạn: a)Từ năm 1885 đến năm 1888       Thời gian này, phong trào được đặt dưới sự chỉ huy của Hàm Nghi và   Tôn Thất Thuyết, vời hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra trên phạm  vi rộng lớn, nhất là Bắc Kì và Trung Kì. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, cùng nổi  dậy   có   Bùi   Điển,   Nguyễn   Đức   Nhuận,   Đào   Doãn   Địch,   Nguyễn   Duy  Cung…,; Lúc này, đi theo Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết có nhiều văn  thân, sĩ phu và tướng lĩnh khác như: Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Đàm, Tôn   Thất   Thiệp   (2   con   của   Tôn   Thất   Thuyết),   Phạm   Tường,   Trần   Văn  Định….Bộ chỉ huy của phong trào đóng tại vùng rừng núi phía tây hai tỉnh  Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cuối năm 1888, do có sự  chỉ  điểm của Trương Quang Ngọc, vua Hàm  Nghi rơi vào tay giặc. Nhà vua đã cự  tuyệt mọi sự  dụ  dỗ  của Pháp, chịu  án lưu đày sang An­giê­ri (Bắc Phi). b)Từ năm 1888 đến năm 1896        Ở  giai đoạn này, không còn sự  chỉ  đạo của triều đình, nhưng phong   trào vẫn tiếp tục phát triển, quy tụ  dần thành các trung tâm lớn và ngày  càng lan rộng. Trước những cuộc hành quân càn quét dự  dỗi của thực dân Pháp, phong   trào  ở  vùng đồng bằng ngày càng bị  thu hẹp và chuyển lên hoạt động  ở  vùng trung du và miền núi. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh do   Tống Duy Tân và Cao Điển chỉ  huy  ở  vùng rừng núi phía tây tỉnh Thanh   Hóa, khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo  ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh. Khi tiếng súng kháng chiến đã lặng im trên núi Vụ Quang (Hương Khê­Hà  Tĩnh) vào cuối năm 1895­đầu năm 1896, phong trào Cần Vương coi như  chấm dứt.
  2. 2.  ­ Năm 1919­1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ  phận tư  sản và địa chủ  lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng   nội hoá bài trừ  ngoại hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn;  chống độc quyền khai thác lúa gạo  ở  Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp  phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia. 3.  ­  Năm  1925­1926  đã  diễn ra Phong  trào  yêu  nước  dân chủ  công   khai của tiểu tư  sản thành thị  và tư  sản lớp dưới. Họ  lập ra nhiều   tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng   Nam, Thanh niên cao vọng (1926); 4. ­ Năm 1927­1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư  sản gắn liền  với sự  ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25­12­ 1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư  xã, lãnh tụ  là Nguyễn   Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính.  Đây là tổ  chức chính trị  tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản  ở  Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả  hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. II. Những khuynh hướng của các phong trào yêu nước tiêu biểu – Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến + Phong trào Cần Vương (1885­1896) + Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1883­1913) Mặc dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng cuối cùng các phong trào đều bị  dập tắt. Sự thất bại này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không thể giúp   nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ. Nó hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ  của lịch sử đề ra. – Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản. + Xu hướng bạo động của Phan Bội Châu + Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh
  3. + Các phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản Việt Nam: *  Phong trào  quốc gia cải lương (1919­1923), * Phong trào yêu nước dân chủ  công   khai (1925­1926), * Phong trào cách mạng quốc gia tư  sản  gắn liền với   cuộc khởi nghĩa Yên Bái…. => Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ  tư  sản ở Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng   tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú, thể  hiện ý thức dân  tộc, tinh thần chống đế  quốc của giai cấp tư  sản Việt Nam, nhưng cuối  cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế  và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải  phóng dân tộc. – Các giai cấp lãnh đạo phong kiến và tư sản với những ngọn cờ tư tưởng   của họ đều đã lỗi thời. Do vậy, họ không có một đường lối lãnh đạo đúng  đắn, không có phương pháp đấu tranh thích hợp. => Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng  dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân  dân ta, bồi đắp thêm cho chủ  nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp   phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có  khuynh hướng dân chủ  tư  sản chọn lựa một con đường mới, một giải  pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu thế  của thời đại và nhu cầu  mới của nhân dân Việt Nam. c) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản – Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên + Sự ra đời: Cuối năm 1924, lãnh tụ  Nguyễn Ái Quốc từ  Liên Xô về  Quảng Châu,  Trung Quốc. Đây là nơi có đông người Việt nam yêu nước sinh sống và  hoạt động, để xúc tiến mọi công tác chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng   Mácxit của Việt Nam. Với tư  cách là đặc phái viên của Quốc tế  Cộng  sản, trực tiếp Cục Phương Nam, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tìm hiểu tình  hình hoạt động của những người yêu nước Việt Nam đang sinh sống tại  đây, đặc biệt Người đã tiếp xúc với một nhóm thanh niên trong tổ  chức  
  4. “Tâm tâm xã”. Trên cơ sở đó, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực  để   tuyên   truyền   giác   ngộ   và   thành   lập   “Cộng   sản   đoàn”   (9   người)  (2/1925). Dựa trên nhóm Cộng sản đoàn, Nguyễn Ái Quốc đứng ra thành lập một tổ  chức cách mạng có tính chất quần chúng rộng rãi hơn lấy tên là Hội Việt   Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925). Ngay sau khi ra đời “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội” đã  công bố  Chương  trình,  Điều lệ  thể  hiện rõ  lập trường  quan  điểm và  nguyên tắc tổ chức của hội. Chương trình của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nêu rõ mục đích  của Hội là hi sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng làm cách mạng dân tộc   (đánh đổ đế quốc xâm lược để giành độc lập cho dân tộc), sau đó sẽ làm   cách mạng thế giới (đánh đổ đế quốc xây dựng chủ nghĩa cộng sản). Về đường lối chính trị, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương:   thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc rồi tiến lên làm cuộc cách   mạng xã hội chủ nghĩa; thành lập chính phủ công – nông – binh, thực hiện  chính sách phát triển sản xuất, xóa bỏ  tư  bản, xây dựng chủ  nghĩa cộng   sản ở Việt Nam và trên thế giới. Trước mắt, sau khi thành lập, chính phủ  công nông binh sẽ  thực hiện  chính sách chia ruộng đất cho nông dân, thực hiện ngày làm 8h, bãi bỏ  thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, thực hiện các quyền tự do dân chủ,  nam nữ bình quyền… Phải đoàn kết với lực lượng cách mạng thế giới. Về tổ chức, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được xây dựng thành 5   cấp có hệ thống chặt chẽ từ Trung  ương đến địa phương: Tổng bộ – Kỳ  bộ – Tỉnh bộ – Huyện bộ – Chi bộ. Như vậy, Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng chưa phải là Đảng Cộng  sản nhưng Chương trình, điều lệ  của Hội đã thể  hiện một cách đầy đủ  lập trường, quan điểm của giai cấp vô sản. + Hoạt động
  5. Sau khi thành lập, Hội đã cử người về nước tuyển chọn những thanh niên  tích cực sang Quảng Châu để đào tạo và bồi dưỡng họ về chính trị  và tổ  chức. Trong khoảng thời gian từ  1925 đến 1927, Hội đã mở  trên 10 lớp   huấn luyện và đào tạo được trên 200 hội viên… Ngoài  việc  đào tạo, huấn luyện cán bộ, dưới sự  chỉ   đạo của lãnh tụ  Nguyễn   Ái   Quốc,   Tổng   bộ   còn   cử   người   đi   học   tại   trường   Đại   học  Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (của Quốc dân  Đảng Trung Hoa). Để  đẩy mạnh công tác tuyên truyền, Hội cho ra tờ báo Thanh niên nhằm   truyền bá chủ nghĩa Mác­Lênin và làm cơ quan ngôn luận của Hội. + Hội có vai trò quan trọng trong việc tổ  chức, đào tạo một đội ngũ cán  bộ  Mácxit. Đồng thời, Hội còn góp phần truyền bá sâu rộng chủ  nghĩa  Mác­Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, tạo tiền đề  về  chính trị, tư  tưởng và tổ  chức cho việc thành lập đảng cộng sản  ở  nước ta. + Sự  ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có   ảnh hưởng  mạnh mẽ   đến phong trào cách mạng trong nước,  làm cho  khuynh hướng cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường cách mệnh  của Nguyễn ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế. + Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện chủ trương   “Vô sản hóa”, đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền   trong   nước,   cùng   sống   và   làm   việc   với   công   nhân,   đồng   thời   cũng   là  phương thức truyền bá lý luận giải phóng dân tộc, tổ  chức và lãnh đạo  quần chúng đấu tranh . + Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng  của Nguyễn ái Quốc – Hồ  Chí Minh đã phải “chọc thủng lưới sắt của  bọn thực dân Pháp” mới đến được với nhân dân Việt Nam ta. + Cùng với cuộc đấu tranh chống lại chính sách khủng bố  của bọn đế  quốc, những người theo con đường cách mạng Hồ  Chí Minh, con đường  cách   mạng   của   học   thuyết   Mác­Lênin   còn   phải   đấu   tranh   với   các   đề  xướng và vận động thành lập các chính đảng quốc gia, thành lập “khối  dân tộc”. j+ Lập trường giải phóng dân tộc đúng đắn của Hội Việt Nam  
  6. Cách mạng Thanh niên đã thắng lập trường giải phóng dân tộc tư sản. Nó  đã giáo dục, giác ngộ  nhiều người yêu nước chân chính theo con đường  cách mạng Hồ  Chí Minh, đào tạo và rèn luyện họ  thành những chiến sĩ  cách mạng trung thành làm nòng cốt cho việc thành lập đảng cộng sản. => Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ  chức, vận động nhân  dân đấu tranh đã dấy lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày   càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân. – Phong trào công nhân + Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam Giai cấp công nhân nước ta được hình thành ngay trong chương trình khai  thác thuộc địa lần I (1897­1914). Tuy nhiên, lúc này còn rất hạn chế về số  lượng (mới có khoảng 10 vạn). Thêm nữa, ý thức giai cấp và trình độ  nhận thức chính trị  của họ  rất hạn chế. Bởi vậy, trong thời kỳ đầu giai  cấp công nhân mới chỉ biết sử dụng những hình thức đấu tranh rất sơ khai  như đánh chủ, bỏ trốn tập thể… Phong trào công nhân Việt Nam trong những năm 1919­1929 không chỉ  là  sự tiếp nối phong trào đấu tranh cách mạng ở thời kỳ trước mà còn phản   ánh tập trung rõ nét nhất quá trình chuyển biến của giai cấp công nhân từ  trình độ tự phát sang tự giác. Bản chất của sự  trưởng thành của phong trào công nhân trong giai đoạn  này là quá trình tiếp thu chủ  nghĩa Mác­Lênin. Nhờ  vào chủ  nghĩa Mác­ Lênin mà ý thức giai cấp và nhận thức chính trị  của giai cấp công nhân   Việt  Nam   được  nâng lên. Theo  đó, phong trào  đấu tranh của họ  cũng  chuyển biến cả về số lượng và chất lượng. Quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn 1919­ 1929 được chia làm 2 thời kỳ ngắn: thời kỳ đấu tranh tự phát (1919­1929)   và thời kỳ đấu tranh tự giác (1925­1929). + Thời kỳ tự phát 1919­1925 Hoàn cảnh
  7. Bắt đầu từ  năm 1919 trờ đi, những điều kiện chủ  quan và khách quan đã  có tác động mạnh mẽ  đến giai cấp công nhân nước ta.  Ở  trong nước,   chương trình khai thác thuộc địa lần II của thực dân Pháp được đẩy mạnh  về  nhịp độ, mở  rộng về  quy mô, phạm vi.  Ứng với sự  mở  rộng và xây  dựng mới của các cơ  sở  công nghiệp là sự  phát triển nhanh chóng về  số  lượng của giai cấp công nhân. Năm 1929, công nhân nước ta đã có khoảng   22 vạn người. Thêm nữa, quá trình bóc lột một cách độc ác của bọn chủ  tư  bản đối với công nhân nước ta cũng là quá trình “cách mạng hóa” đối   với họ.  Ở bên ngoài,  ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười Nga   1917 và những hoạt động tích cực của lãnh tụ  Nguyễn Ái Quốc đã góp   phần truyền bá những tư  tưởng cách mạng, mặc dù còn ít  ỏi vào phong  trào cách mạng Việt Nam nói chung và phong trào công nhân nói riêng.   Theo đó, ý thức giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam được   nâng lên rõ rệt. Phong trào Do những điều kiện thuận lợi mới nên phong trào đấu tranh cách mạng  của giai cấp công nhân nước ta giai đoạn này đã có những bước tiến mới   đáng kể. Mở  đầu là những cuộc đấu tranh của thủy thủ, công nhân hai cảng Sài  Gòn – Hải Phòng nổ  ra năm 1919. Công nhân đã đấu tranh đòi giới chủ  phải thực hiện chính sách cải thiện đời sống, cải thiện điều kiện làm  việc.   Đỉnh cao của phong trào công nhân thời kỳ này là cuộc đấu tranh của giai  cấp công nhân xưởng thợ  Ba Son, Sài Gòn nổ  ra vào tháng 8 năm 1925  dưới sự lãnh đạo của tổ chức “Công hội đỏ” do đồng chí Tôn Đức Thắng  phụ trách. Thợ thuyền Ba Son đã kiên trì cuộc đấu tranh cản trở tàu chiến  Pháp chở vũ khí và quân đội sang đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng  của nhân dân Trung Quốc. Đây là biểu hiện sáng ngời của tinh thần quốc  tế vô sản cao cả, của giai cấp công nhân Việt Nam. Đặc điểm: Số  lượng: 25 cuộc bãi công, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công  nhân viên chức các sở  công thương tư  nhân Bắc Kỳ, công nhân 
  8. các lò nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các nhà máy dệt, rượu,  xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Đáng chú ý nhất  là cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân Xưởng sửa chữa tàu  thuỷ Ba Son, Sài Gòn (8­1925) do Tôn Đức Thắng tổ chức. Hình thức đấu tranh chủ yếu là phá máy móc, đánh cai ký, chủ thầu,  phá giao kèo, bỏ trốn tập thể. Mục tiêu đấu tranh: chủ  yếu là đòi  quyền lợi kinh tế  như  đòi tăng  lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt. Quy mô: nhỏ bé, lẻ tẻ, rời rạc. Tính chất: tự phát và phụ thuộc vào phong trào yêu nước. Nhận xét: Phong trào công nhân (1919­1925) đã có bước phát triển mới so với   trước đây. Công nhân đã tiến lên sử  dụng hình thức đấu tranh  đặc   trưng   là   bãi   công.   Thêm   nữa,   từ   trong   phong   trào   đấu  tranh, những tổ chức chính trị đầu tiên đại diện cho quyền lợi  của giai cấp công nhân Việt Nam đã xuất hiện như  Công hội  đỏ  (1920), một số công nhân gia nhập Liên đoàn công nhân tàu  biển Viễn Đông (1921). Tuy nhiên, phong trào công nhân giai đoạn này vẫn còn những hạn  chế như về mục đích các cuộc đấu tranh mới chỉ tập trung vào  các nội dung kinh tế. Về  quy mô, phong trào bị  bó hẹp trong  các hàng rào của một nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, diễn ra lẻ  tẻ. Về  tổ  chức, chỉ  có duy nhất 1/25 cuộc đấu tranh của công  nhân nổ ra là có sự lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ (cuộc đấu tranh   của công nhân Ba Son 8/1925).
  9. => Phong trào công nhân nước ta giai đoạn này vẫn còn dừng ở trình độ tự  phát. + Thời kỳ tự giác 1925­1929 Hoàn cảnh Từ  năm 1925 trở  đi, , Đại hội Quốc tế  Cộng sản lần thứ  V với những  nghị quyết quan trọng đã góp phần thúc đẩy phong trào công nhân. những   hoạt động tích cực của lãnh tụ  Nguyễn Ái Quốc thông qua tổ  chức Hội  Việt Nam Cách mạng Thanh niên báo Thanh Niên, tác phẩm “Đường Kách  Mệnh” và đặc biệt là phong trào “Vô sản hóa” được tổ chức trong những  năm 1925­1929, lý luận cách mạng của chủ  nghĩa Mác­Lênin đã được  truyền vào Việt   Nam một cách sâu rộng và liên tục.   ý thức giác ngộ  chính trị của giai cấp công nhân nước ta đã được nâng lên một cách rõ rệt.  Hệ quả tất yếu cùng là bước phát triển mới của phong trào công nhân cả  về số lượng và chất lượng. Phong trào năm 1926, hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy, xí   nghiệp, hầm mỏ   ở  Bắc Kỳ  đã nổ  ra. Tiêu biểu là những cuộc bãi công   đấu tranh của công nhân nhà máy sợi Nam Định, nhà máy bia rượu Hà  Nội­Hà Đông, xi măng Hải Phòng… công nhân đã đấu tranh đòi cải thiện  đời sống, cải thiện điều kiện làm việc, chống đánh đập sa thải thợ  Năm 1927, được tiếp nối bằng hàng chục cuộc đấu tranh khác của giai  cấp công nhân nổ ra trên phạm vi cả nước. Đỉnh cao của phong trào đấu tranh giai đoạn này là vào những năm 1928­ 1929, có hơn 40 cuộc đấu tranh của công nhân.   Sự  phát triển mạnh mẽ  cả  về  số  lượng và chất lượng của phong trào  công nhân đã đưa đến một kết quả  tất yếu là sự  ra đời của ba tổ  chức  cộng sản đầu tiên  ở  Việt Nam trong năm 1929: Đông Dương Cộng sản  Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đông Dương Cộng   sản Liên đoàn (9/1929). Đặc điểm:
  10. Số  lượng: 1926­1927 (27 cuộc đấu tranh của công nhân); 1928­1929  số  lượng gấp đôi thời kỳ  trước (40 cuộc đấu tranh của công  nhân). Tiêu biểu là các cuộc bãi công  ở  Nhà máy xi măng Hải Phòng, Nhà máy  sợi Nam Định, Nhà máy diêm và Nhà máy cưa Bến Thủy, Xưởng sửa  chữa ô tô Avia Hà Nội, Nhà máy sợi Hải Phòng, Mỏ  than Hòn Gai, Nhà  máy xe lửa Trường Thi (Vinh), Xưởng sửa chữa tàu thuỷ  Ba Son (Sài   Gòn), Đồn điền cao su Phú Riềng, v.v.. Hình thức đấu tranh: hình thức bãi công được sử dụng phổ biến. Mục tiêu đấu tranh: kinh tế & chính trị. Quy mô: liên tục, rộng khắp, có sự  lãnh đạo, chỉ  huy và phối hợp   tranh đấu, tranh thủ  được sự   ủng hộ  của nhân dân. Mức độ  đấu tranh sôi nổi, quyết liệt hơn, tính tự  phát trong đấu tranh   giảm đi, thay bằng những cuộc đấu tranh có ý thức tổ chức với   quy mô ngày càng lớn. Tính chất: tính tự giác cao. Nhận xét +   So   với   phong   trào   đấu   tranh   của   giai   cấp   công   nhân   giai   đoạn   trước, thời kỳ này phong trào đấu tranh của công nhân nước ta   đã có bước chuyển biến rõ rệt: >> Nếu như trước đó công nhân mới chỉ quan tâm đến mục tiêu kinh   tế  đòi giới chủ  phải thỏa mãn một số  yêu cầu do công nhân  đưa ra trong lĩnh vực cải thiện đời sống thì nay phong trào đã  tiến lên kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh kinh tế với mục   tiêu đấu tranh chính trị.
  11. >> Nếu như giai đoạn trước các cuộc đấu tranh thường nổ ra lẻ tẻ,   quy mô nhỏ  hẹp thì nay các cuộc đấu tranh của công nhân đã  diễn ra một cách liên tục và có quy mô lớn, phong trào đã vượt   ra khỏi phạm vi một nhà máy xí nghiệp để hình thành thế liên  kết ngành, liên kết địa phương. Theo đó, sức mạnh của phong  trào công nhân đã tăng lên gấp bội. >> Nếu như   ở  thời kỳ  trước chỉ  có 1/25 cuộc đấu tranh của công   nhân là có tính tổ chức thì ở giai đoạn này tất cả các cuộc đấu   tranh của công nhân đều được đặt dưới sự lãnh đạo của các tổ  chức chính trị  của giai cấp công nhân Việt Nam như  Công hội  đỏ, Hội Việt Nam Cách mạng  Thanh niên, Tân Việt cách mạng  Đảng, và ba tổ chức cộng sản ra đời năm 1929. => Những đặc điểm trên cho thấy phong trào công nhân thời kỳ  1925­ 1929 đã đạt đến trình độ đấu tranh tự giác. Trải qua 10 đấu tranh, trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt  tuy chưa được đều khắp. Từ  chỗ  chỉ  là một lực lượng trong phong trào  yêu nước, giai cấp công nhân dần dần vươn lên vị trí chủ thể của lịch sử.  Phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với  nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước càng lên cao, càng đòi hỏi   phải có người tổ  chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một chính đảng  cách mạng đủ  sức gánh vác sự  nghiệp cứu nước, càng được đặt ra một  cách bức xúc.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2