intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

“Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất”: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

30
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "“Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất”: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học" đề cập các nội dung: (i). Những vấn đề chung về chất lượng giáo dục, chất lượng giáo dục đại học; (ii). Những vấn đề chung về dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất; (iii) Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu “học thực chất, thi thực chất để có nhân tài thật” ở trường đại học hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất”: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học

  1. “DẠY THỰC CHẤT, HỌC THỰC CHẤT, ĐÁNH GIÁ THỰC CHẤT”: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TS. Đặng Lộc Thọ1 Tóm tắt: Sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những thách thức mới cho giáo dục và đào tạo. Để có thể nâng cao chất lượng đào tạo, yêu cầu “dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất để có nhân tài thật” là yêu cầu cần được quan tâm trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Bài viết đề cập các nội dung: (i). Những vấn đề chung về chất lượng giáo dục, chất lượng giáo dục đại học; (ii). Những vấn đề chung về dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất; (iii) Đề xuất một số biện pháp nhằm đáp ứng yêu cầu “học thực chất, thi thực chất để có nhân tài thật” ở trường đại học hiện nay. Từ khóa: Dạy thực, đánh giá thực, đổi mới giáo dục, học thực. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và đào tạo (GDĐT). Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, yêu cầu “học thực chất, thi thực chất để có nhân tài thật” là bài toán mà Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra cho ngành Giáo dục để có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và đặc biệt là nhân tài phục vụ nhu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập. “Dạy thực chất, học thực chất” xét về phương diện nội dung chính là đảm bảo cung cấp tri thức, kỹ năng, phẩm chất, đạo đức và tạo ra năng lực thực để người học có thể dùng nó cho công việc, cho mưu sinh, cho đời, cho đất nước; là để tránh việc học những cái ra đời không dùng vào việc gì, còn cái cần cho việc thì không được học. Tuy nhiên, hiện nay vẫn nhiều ngành nghề, nhiều trường, nhiều người học có danh mà không có thực, có bằng mà không có chất; còn nhiều người, nhiều nơi, việc dạy và học được thực hiện cốt để thực hiện việc cấp bằng, dẫn đến có người nhiều bằng cấp, nhưng trước công việc thì không làm được, danh vị là hư danh... Do đó, cần có sự chuyển hóa về chất trong giáo dục và đào tạo, đây không chỉ là vấn đề chất lượng giáo dục mà sâu xa chính là chất lượng con người để tạo ra sự phát triển của đất nước. * Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
  2. 536 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Để giáo dục đại học thực chất, phải “đánh giá thực chất”, phải có sự thay đổi rất lớn từ trong tư duy, từ trong nếp dạy, từ trong thói quen đã hình thành nhiều năm nay được định hình bởi quan điểm xã hội; cần phải có cơ sở vật chất tốt cho nhà trường, phòng thí nghiệm, phương tiện dạy và học đầy đủ, hiện đại để có thể tạo ra chất lượng giáo dục tốt nhất; cần có đội ngũ giáo viên giỏi, năng lực thực và có thu nhập xứng đáng, yên tâm với nghề. Có tạo được cái “thực” đó mới vực được chất lượng lên, mới đề cao được thực học trong bối cảnh hiện nay. NỘI DUNG 1. Chất lượng giáo dục, giáo dục đại học - “Chất lượng giáo dục” là khái niệm được đề cập rất nhiều trong hoạt động chuyên môn và cũng gây tranh cãi nhiều trong dư luận - xã hội, nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh. Từ cách nhìn khác nhau, sẽ có cách hiểu khác nhau, như: Giáo viên đánh giá chất lượng học tập bằng mức độ mà người học nắm vững được các kiến thức, kỹ năng, phương pháp và thái độ học tập; Người học tự đánh giá chất lượng học tập bằng việc nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực hành các bài tập, bài kiểm tra, bài thi; Phụ huynh đánh giá chất lượng học tập của con mình bằng điểm số kiểm tra - thi, xếp loại; Người sử dụng sản phẩm đào tạo đánh giá chất lượng bằng khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao, khả năng thích ứng với môi trường... Nhìn từ mục tiêu giáo dục thì chất lượng giáo dục là chất lượng con người được đào tạo từ các hoạt động giáo dục; là những lợi ích, giá trị mà kết quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội về trước mắt và lâu dài, được giới hạn trong phạm vi đánh giá sự phát triển của cá nhân sau quá trình học tập, khi họ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế sản xuất, chính trị - xã hội, văn hóa - thể thao. Như vậy, chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu của cơ sở giáo dục hoặc chương trình giáo dục, đáp ứng các yêu cầu của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước, đáp ứng được các yêu cầu về mục tiêu của cá nhân và yêu cầu xã hội đặt ra cho giáo dục [1]. - “Chất lượng giáo dục đại học” là sự đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực của giáo dục đại học về phẩm chất công dân, lý tưởng, kỹ năng sống; tri thức (chuyên môn, xã hội, ngoại ngữ, tin học...) và khả năng cập nhật thông tin; kĩ năng giao tiếp và hợp tác; năng lực thích ứng với những thay đổi và khả năng thực hành, tổ chức và thực hiện công việc, khả năng tìm việc làm và tự tạo việc làm có ích cho bản thân và người khác... nhằm đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 537 Như vậy, để đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, cần đảm bảo 10 tiêu chuẩn (với 61 tiêu chí), đó là: 1. Sứ mạng và mục tiêu của trường đại học; 2. Tổ chức và quản lý; 3. Chương trình đào tạo; 4. Hoạt động đào tạo; 5. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên; 6. Người học; 7. Nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ; 8. Hoạt động hợp tác quốc tế; 9. Thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác; 10. Tài chính và quản lý tài chính [2]. 2. Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất ở trường đại học - “Dạy thực chất” là dạy những gì mà người học cần được nhà trường dạy để đạt chuẩn kiến thức, năng lực theo chuyên ngành đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn mà xã hội cần có. Những yếu tố để có thể “dạy thực chất” gồm có: giáo viên, chương trình và sách giáo khoa; phương pháp dạy học; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học..., trong đó giáo viên là yếu tố có vai trò quyết định hàng đầu [7]. Khâu đột phá trong dạy thực chất chính là đổi mới phương pháp giảng dạy để khắc phục tình trạng truyền đạt kiến thức thụ động, hình thức; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, các hình ảnh/ thí nghiệm mô phỏng, số hóa trong giảng dạy và thực hành nghề nghiệp; gắn với việc giải quyết các tình huống thực theo hướng thực hiện các dự án, các hoạt động theo nhóm… [4]. Như vậy, để “dạy thực chất” cần rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo theo hướng chuẩn đầu ra từng môn học gắn với từng chuyên ngành đào tạo; khảo sát, nắm chất lượng, trình độ, nhu cầu đào tạo từng chuyên ngành để xác định khối kiến thức tối thiểu cần phải có/ phải đạt được, để có thể đáp ứng được chức trách, nhiệm vụ khi ra trường làm việc; xác định cụ thể các kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi cần đạt được sau khi kết thúc mỗi môn học, học phần... làm cơ sở để giáo viên lựa chọn và điều chỉnh phương pháp dạy học, hình thức tổ chức lớp học phù hợp với mọi đối tượng. Điều này đòi hỏi các cấp quản lí cần chú trọng phát huy dân chủ, trí tuệ của cán bộ, giảng viên, sinh viên; cần lấy ý kiến từ cơ sở sử dụng nguồn nhân lực về các yêu cầu, nhu cầu cần có của xã hội. - “Học thực chất” là quá trình học tập đòi hỏi phát huy cao độ tính chủ động, tự giác của người học theo mục đích: tích lũy kiến thức, kinh nghiệm để làm việc; đạt chuẩn kiến thức, năng lực, nhất là kỹ năng thực tiễn theo chuyên ngành đào tạo để có đủ khả năng đảm nhiệm chức trách, nhiệm vụ sau khi ra trường [7]. Do đó, cần đổi mới hình thức và phương pháp tổ chức đào tạo để đẩy mạnh đổi mới phương pháp học của người học theo hướng “tích cực”, “chủ động”; để người học phát huy vai trò là trung tâm trong hoạt động dạy - học, phát triển được năng lực tư duy, khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn chức trách, nhiệm vụ trong công việc sau này. Đặc biệt, cần có nhiều đổi mới trong phương pháp tổ chức hoạt động học để nâng cao chất lượng
  4. 538 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP các giờ thực hành, để trong mỗi bài học có phần thực hành giúp người học nắm chắc được kỹ năng và thực hành thành thạo theo hướng dẫn của giảng viên [4]. Như vậy, để “học thực chất” trước hết cần bỏ thói học nhồi nhét kiến thức, học cốt để thi, học theo bài mẫu, học không cần đào sâu suy nghĩ, không đi vào bản chất, học không gắn với thực tiễn... Cần làm cho người học xác định được: Học để biết, học để làm việc, học để phát triển phẩm chất năng lực bản thân chứ không phải học vì điểm số, để thi, để có bằng cấp chứng chỉ... Với ý nghĩa đó, cần chú trọng đổi mới phương pháp học của người học theo hướng kết hợp tiếp thu kiến thức trên lớp với tự học, tự nghiên cứu; tăng cường trao đổi, thảo luận và thực hành tập bài theo thực tiễn chuyên ngành đào tạo để biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo với khát vọng, chí hướng và tinh thần khởi nghiệp. - “Đánh giá thực chất” là đánh giá khách quan, trung thực, đúng trình độ và năng lực của người học. Theo J. Mueler, đánh giá thực là hình thức đánh giá trong đó người học được yêu cầu thực hiện những nhiệm vụ thực sự diễn ra trong cuộc sống, đòi hỏi phải vận dụng một cách có ý nghĩa những kiến thức, kĩ năng thiết yếu [5]; theo Grant Viggins, đó là những vấn đề, những câu hỏi quan trọng, đáng làm, trong đó người học phải sử dụng kiến thức để thiết kế những hoạt động một cách hiệu quả và sáng tạo, những nhiệm vụ đó có thể là sự mô phỏng lại hoặc tương tự như những vấn đề mà một công dân trưởng thành, những nhà chuyên môn phải đối diện trong cuộc sống; Theo Rubric, một bài đánh giá thực bao gồm những nhiệm vụ mà sinh viên phải hoàn thành và một bản miêu tả những tiêu chí đánh giá việc hoàn thành những nhiệm vụ đó (Dẫn theo [3]). Để làm được điều này, cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát quá trình đào tạo, từ quy trình, chương trình, nội dung đến chất lượng giảng dạy, tình hình khai thác, sử dụng thiết bị dạy học…; đẩy mạnh đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; trọng tâm là nâng cao chất lượng đề thi, kiểm tra; thực hiện đa dạng các hình thức thi, kiểm tra đánh giá kết quả, phù hợp với từng môn học, đối tượng đào tạo. Đặc trưng của đánh giá thực chất là: (i). Yêu cầu sinh viên phải phân tích, tổng hợp một cách có phê phán những kiến thức họ học được để kiến tạo 1 sản phẩm trong bối cảnh thực để trong quá trình đó họ sáng tạo ra ý tưởng mới chứ không phải chọn hay viết ra 1 câu trả lời đúng; (ii). Đo lường cả quá trình và cả sản phẩm của quá trình đó, điều này cho phép sinh viên có nhiều lựa chọn trong việc kiến tạo và xác định những gì họ sẽ trình bày như một minh chứng về năng lực thật của họ (ngay cả khi sinh viên không thể xác định được cách trình bày thì họ cũng có rất nhiều con đường khả dĩ khác để kiến tạo 1 sản phẩm); (iii). Trình bày một vấn đề thực trong thế giới thực để cho phép sinh viên bộc lộ khả năng vận dụng kiến thức vào tình huống thực tế và kiến tạo những kiến thức mới; (iv). Cho phép sinh viên bộc lộ đầy đủ những kiến
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 539 thức/ kĩ năng tiếp thu được trong quá trình học tập và thể hiện được năng lực tư duy phê phán của sinh viên thông qua việc thực hiện bài thi. Đây chính là sự ưu việt của đánh giá thực chất, một hình thức đánh giá được cả mức độ nhận thức nội dung kiến thức cả về quá trình vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống [3], [6]. Như vậy, “đánh giá thực chất” là kiểm tra đánh giá đúng, đáng bao nhiêu điểm thì cho bấy nhiêu, ai phải học lại thì cho học lại, luận văn/ luận án không chất lượng thì không cho qua và được thực hiện trong một quá trình mà trong đó giảng viên sử dụng bài thi hay một nhiệm vụ mà sinh viên phải hoàn thành để thu thập thông tin về cách thức mà họ thực hiện nhiệm vụ đó. 2.4. Mối quan hệ giữa “dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất” Dạy và học là hai hoạt động có mối quan hệ biện chứng với nhau, là hai yếu tố cấu thành của quá trình dạy học: Nếu chỉ có dạy hoặc chỉ có học riêng rẽ, độc lập thì không có quá trình dạy học và các mục tiêu đề ra của trường đại học là không thể thực hiện được; kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại [4]. Nếu giảng viên dạy tốt, có phương pháp tốt và đánh giá đúng kết quả học tập của người học (về phẩm chất và năng lực) thì sẽ phát huy được khả năng sáng tạo của sinh viên, sẽ tạo ra được kết quả học tập tốt, đồng thời giúp sinh viên tự giác, chủ động và tích cực tiếp nhận sự tác động từ phía giảng viên trên cơ sở ý thức được yêu cầu và nhiệm vụ học tập. Vai trò chủ thể của sinh viên càng được phát huy, kết quả học tập của sinh viên càng cao thì hiệu quả của quá trình dạy càng cao. Khi đó, việc dạy, học và đánh giá đảm bảo được sự thiết thực, hữu dụng, có thực chất để đáp ứng được nhu cầu xã hội và gắn chặt với đời sống. 2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc “dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất” Việc “dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất” phụ thuộc vào các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài môi trường học tập. Những yếu tố bên trong là: chương trình giáo dục, thể chế giáo dục (các quy định và tổ chức hệ thống); phẩm chất và năng lực của sinh viên, giảng viên, cán bộ quản lý; cơ sở vật chất, tài chính phục vụ dạy học (hệ thống trang thiết bị dạy học, học phí, đầu tư tài chính...); hệ thống trợ giúp sinh viên, hệ thống đánh giá, văn hóa trường học… Những yếu tố bên ngoài là: thị trường lao động (nhu cầu và chế độ tuyển dụng; thể chế thị trường) và xã hội (chế độ sử dụng, đãi ngộ; văn hóa, đạo đức của xã hội, của gia đình...). Nếu việc tuyển người, dùng người, đánh giá người theo năng lực thật, theo phẩm chất thật (ai có tài năng thực được trọng dụng, được đánh giá đúng...) thì khi đó người học sẽ đua nhau mà học thật, việc “dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất” sẽ chuyển động theo một cách nhanh chóng, khi đó người tài sẽ xuất hiện, người tài sẽ được bồi dưỡng và tài năng thực sẽ nở rộ. Nếu xã hội, cơ sở sử dụng nhân lực tổ chức tuyển người, dùng người, đánh giá người dựa trên bằng cấp mà không chú ý đến trình độ thực chất thì sẽ trực tiếp triệt tiêu động lực của việc này.
  6. 540 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Như vậy, cần xem yếu tố nào tác động mạnh nhất đến việc “dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất”. Theo tác giả, SV, đội ngũ giảng viên và điều kiện thực hiện yêu cầu phục vụ trong hoạt động dạy và học là những nhân tố quan trọng để có sản phẩm thật. 3. Một số biện pháp đề xuất 3.1. Nhóm biện pháp phát triển năng lực nghề nghiệp cho giảng viên để “dạy thực chất và học thực chất” Để có được đội ngũ giảng viên có chất lượng, đảm bảo được yêu cầu dạy thực chất, cần thường xuyên chú trọng bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho giảng viên bằng các biện pháp quan trọng sau: 1. Xây dựng đội ngũ giảng viên đủ số lượng với cơ cấu hợp lý, khoa học và có chất lượng Với mục tiêu rà soát, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển và kiện toàn đội ngũ giảng viên, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, độ tuổi, chuyên ngành; chuẩn hóa về chất lượng theo tiêu chuẩn theo quy định: (i). Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên: cần xác định đây là nhiệm vụ chiến lược trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để đội ngũ giảng viên có năng lực dạy học tốt; có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kì theo hình thức tập trung, tại chức…; cần kết hợp đào tạo bồi dưỡng những kiến thức mang tính hàn lâm với tham quan học tập các mô hình, học tập kinh nghiệm ở các địa phương trong nước và quốc tế để tăng cường kiến thức thực tiễn và kỹ năng dạy học; có chính sách hỗ trợ cho nhà giáo được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, học vấn, trình độ chính trị; (ii). Đổi mới công tác tự đánh giá, đánh giá đội ngũ nhà giáo: Xây dựng khung năng lực nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp trong giai đoạn tới làm thước đo để đánh giá đúng, chính xác; giảng viên tự đánh giá được chất lượng giảng dạy của mình để biết cần phát huy và cần khắc phục điều gì ở bản thân nhằm tạo được động lực phấn đấu của từng cá nhân, làm cho các nhà giáo nỗ lực vươn lên; (iii). Cải thiện các chính sách cho đội ngũ giáo viên: Ngoài việc đảm bảo chế độ tiền lương, các loại phụ cấp (phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thâm niên), cần tùy theo điều kiện cụ thể để có chính sách riêng đối với nhà giáo và cán bộ quản lý phù hợp; cần chú trọng việc bố trí sắp xếp vị trí việc làm, ghi nhận thành tích đạt được, chú ý lắng nghe và sử dụng những ý kiến đóng góp… để giảng viên thấy được sự quan tâm, nhìn nhận đánh giá đúng của các cấp quản lí về năng lực và những công sức đóng góp của giảng viên nhằm xây dựng một môi trường làm việc đầy cảm hứng, khích lệ, động viên và tạo ra động lực cho nhà giáo. Để thực hiện được các nôi dung trên, nhà trường cần tổ chức các hoạt động giáo dục thường xuyên để xây dựng/ hình thành ý thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ nhà giáo - chủ thể hoạt động dạy học, yếu tố quyết định việc “dạy thực chất” nhằm nâng cao
  7. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 541 năng lực và chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu và quản lý giáo dục bằng cách kết hợp đa dạng hình thức đào tạo, bồi dưỡng (cả ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); xây dựng hệ thống chính sách cho giáo viên (chính sách sử dụng, đào tạo bồi dưỡng và đãi ngộ) để đảm bảo việc bố trí sắp xếp đội ngũ theo tinh thần “đúng người, đúng việc”; xây dựng cơ chế tuyển chọn, đánh giá giáo viên và quản lý toàn diện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên; tạo thêm các hoạt động cho nhà giáo và có chế độ tiền thưởng thỏa đáng để tăng nguồn thu nhập; có chính sách đãi ngộ phù hợp với đội ngũ nhà giáo, nhất là nhà giáo có chức danh khoa học, danh hiệu Nhà nước… 2. Từng bước chuẩn hóa đội ngũ giảng viên về trình độ học vấn, phương pháp sư phạm và hoạt động thực tiễn Với mục tiêu xây dựng đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cần thực hiện các nội dung sau: (i). Thực hiện tốt công tác lập quy hoạch nguồn đào tạo đối với từng cán bộ, giảng viên; lấy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo làm nền tảng để nâng cao trình độ nhằm tạo ra chất lượng trên cơ sở thay đổi hình thức và phương pháp giảng dạy; (ii). Khuyến khích giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tạo tính tư duy độc lập, sáng tạo, xóa bỏ lối áp đặt kiến thức theo kiểu giáo điều; chú trọng phát triển kỹ năng và xây dựng thái độ làm việc khoa học cho SV; tăng cường thực hiện nề nếp việc dự giảng, kiểm tra… giúp người học tiếp thu tốt nhất, người học thích học, biết học để làm gì, học ngành nghề phù hợp với năng lực sở trường của mình; (iii). Nhà trường cần tạo cơ chế để tạo điều kiện và động lực cho giảng viên tự bồi dưỡng, tự đào tạo để nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ tương xứng với vị trí việc làm, phù hợp với điều kiện của bản thân để tự bồi dưỡng hoàn thiện mình, đáp ứng được yêu cầu đổi mới – đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cần được chú trọng để phát triển năng lực giảng viên. Để thực hiện, việc chuẩn bị bài giảng của giảng viên phải thể hiện rõ nội dung cơ bản, thực tiễn, hiện đại, gắn kết lý luận với thực tiễn tại các cơ sở sử dụng nhân lực và nhu cầu xã hội; kết hợp giữa trang bị kiến thức cơ bản với truyền thụ kinh nghiệm thực tế. Nội dung bài giảng cần được phân chia thời gian phù hợp, phần trọng tâm, trọng điểm phân tích trên cơ sở kết hợp nhiều phương pháp như: thuyết trình, nêu và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm, theo tình huống… để tạo sự tương tác giữa giảng viên và SV, giữa SV với nhau. 3. Phát triển năng lực nghề nghiệp cho giảng viên Với mục tiêu nâng cao năng lực chuyên môn và kĩ năng của giảng viên đáp ứng yêu cầu môn học giảng dạy, cụ thể: (i). Nâng cao năng lực giảng dạy, truyền thụ kiến thức của giảng viên: Giảng viên phải nghiên cứu để nắm vững kiến thức, kỹ năng về
  8. 542 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP môn học được phân công dạy; biết vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lý, biết hướng dẫn cách nghĩ, cách làm theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển kỹ năng của người học; (ii). Bồi dưỡng năng lực tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học: Lấy kiểm tra đánh giá kết quả học tập là thước đo giúp xác định mức độ chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng của người học để giảng viên điều chỉnh được quá trình dạy học của mình phù hợp với năng lực và các kỹ năng của người học; tạo nên sự khích lệ, động viên người học càng cố gắng, nỗ lực phấn đấu vươn lên để đạt thành tích cao hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu mới; (iii). Bồi dưỡng và rèn luyện năng lực thấu cảm đối với người học: Rèn luyện khả năng hiểu được cảm xúc, tâm trạng, đặc điểm, mong muốn, năng lực… của người học - đây chính là chìa khóa để tạo sự hợp tác giữa người dạy và người học để nâng cao chất lượng đào tạo. Người thầy thấu cảm là người luôn nỗ lực để biên soạn, chuẩn bị bộ tài liệu tự học cho người học với nội dung ở nhiều cấp độ, từ dễ đến khó để người học có thể lựa chọn phù hợp với năng lực và điều kiện của bản thân. Để thực hiện được các yêu cầu trên, giảng viên cần được bồi dưỡng để biết lập các loại kế hoạch dạy học; biết sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học, biết ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông chính làm công cụ hỗ trợ đắc lực để giảng viên có những bài giảng lý thú, cuốn hút trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Cần có sự quan tâm đào tạo tài năng trẻ, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao có đủ điều kiện vào làm việc. Đồng thời, quan tâm động viên, khuyến khích cán bộ, giảng viên tự học, tự nghiên cứu, chủ động tham dự các lớp tập huấn và đi thực tế (cả ngắn hạn và dài hạn). 4. Đẩy mạnh việc nghiên cứu các đề tài khoa học có tính ứng dụng cao, gắn với thực tiễn công việc theo ngành nghề để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Việc nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên ngày không chỉ về kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm giảng dạy, mà còn phải chú trọng nâng cao năng lực tự bồi dưỡng thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng sau: (i). Tạo sự đột phá trong đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng lấy người học làm trung tâm; ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, cập nhật kiến thức mới có liên quan, đáp ứng sự phát triển của khoa học – kĩ thuật; (ii). Rà soát lại khâu xây dựng chương trình, thiết kế chuẩn đầu ra, đặt từng môn học sao cho sát hợp thực tiễn để chỉ dạy cái thiết thực, cái thực nghiệp, giảm và tiến tới bỏ hẳn cái hình thức, phù phiếm, vô bổ; học đi đôi với hành, thực tập thực tế cho đầy đủ, thực chất; lấy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo làm nền tảng để tạo ra chất lượng; (iii). Đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu dạy – học để đảm bảo sự đồng bộ, lô gíc và có sự liên thông trong CTĐT. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy thực hành, cần chú trọng nghiên cứu các nội dung, chương trình, quy trình thực hành/ thí nghiệm; quản lý, khai thác, sử dụng thành thạo/ có hiệu quả hiệu quả hệ thống trang các thiết bị thực hành.
  9. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 543 Để thực hiện, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa nhà trường với cơ sở sử dụng nguồn nhân lực; cần tạo điều kiện thuận lợi nhất để giảng viên được tham gia các khóa đào tạo bậc học cao hơn, được đi thực tế tại đơn vị và có sự đầu tư kinh phí phù hợp; cần có sự khảo sát đánh giá nguồn nhân lực sau đào tạo và nhu cầu đòi hỏi của xã hội.  3.2. Nhóm biện pháp quản lí việc đánh giá thực chất để dạy thực chất, học thực chất và tạo động lực cho người dạy, người học 1. Thay đổi cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập Việc đánh giá phải đặt ra yêu cầu làm cho sinh viên phát triển những kĩ năng, những năng lực trong cuộc sống thực, bối cảnh thực để sau khi tốt nghiệp sinh viên phải trình diễn được những năng lực của mình bằng những kiến thức/ kĩ năng đã được đánh giá thực trong quá trình học tập tại trường đại học; để nguồn nhân lực được đào tạo có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỉ nguyên hội nhập kinh tế thế giới: (i) Kiên quyết thay đổi cách kiểm tra đánh giá hiện nay là chủ yếu chỉ được tiến hành thông qua những hình thức truyền thống (bài tự luận, bài trắc nghiệm) chỉ đòi hỏi sinh viên miêu tả lại những sự kiện riêng rẽ, hiếm khi yêu cầu sinh viên vận dụng những kiến thức đã học vào một tình huống thực trong cuộc sống; (ii) Cần phải gắn chặt hơn nữa những kiến thức, kĩ năng mà sinh viên học được trong trường đại học với những gì cuộc sống thực yêu cầu ở họ; (iii) Giảng viên cần có kỹ năng thiết kế các công cụ đánh giá kết quả giáo dục thể hiện ở mức độ đạt được các năng lực cần hình thành và phát triển ở người học; cần biết sử dụng các phần mềm hỗ trợ đánh giá; cần có kiến thức, kỹ năng về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học. Để thực hiện được yêu cầu đánh giá thực chất, cần chỉ đạo để giảng viên phải dạy những những kiến thức/ kĩ năng nào cần phải học để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ có ý nghĩa thực tế sau này. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên phải chỉ được cho sinh viên biết cách thực hiện nào là tốt, cách nào là không tốt; phải cung cấp được cho sinh viên một bản liệt kê những tiêu chí cần đạt ở mức độ cao nhất, giúp sinh viên biết thế nào là hoàn thành tốt một nhiệm vụ, biết những dấu hiệu (minh chứng) đặc trưng của việc hoàn thành tốt nhiệm vụ để họ phát huy được những kiến thức/kĩ năng cần thiết đã được học để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. 2. Tích hợp giữa việc dạy - học với kiểm tra – đánh giá để thường xuyên đo lường, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức của sinh viên Tăng cường chỉ đạo giảng viên thực hiện “đánh giá thực chất” và coi đây như là một phương pháp để “dạy thực chất và học thực chất”: (i). Giảng viên cần thường xuyên đưa ra những vấn đề/tình huống thực tiễn để sinh viên giải quyết, để giúp sinh viên học được kiến thức/kĩ năng trong quá trình tìm ra các giải pháp trên cơ sở có sự hỗ trợ của giảng viên trong quá trình dạy – học; (ii). Việc tổ chức hoạt động dạy - học
  10. 544 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP của giảng viên cần đặt ra yêu cầu kết hợp giữa phương pháp dạy - học với phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập dựa theo đặc thù của môn học; (iii) Các giải pháp do sinh viên tìm ra để giải quyết vấn đề sẽ trở thành bài làm giúp giảng viên đánh giá sinh viên đã vận dụng kiến thức một cách có ý nghĩa như thế nào. Để thực hiện điều này, đòi hỏi bài giảng của giảng viên phải được thiết kế và tiến hành sao cho sinh viên được trở thành những người biết giao tiếp, biết hợp tác và biết giải quyết vấn đề một cách hiệu quả ở từng bài học thông qua giải quyết một vấn đề cụ thể. Như vậy, thực hiện đánh giá thực sẽ trở thành động lực để sinh viên thể hiện những cách thức hoàn thành một nhiệm vụ một cách đa dạng, bằng những cách khác nhau từ những kiến thức/ kĩ năng đã học được tùy theo điểm mạnh/ điểm yếu của mỗi sinh viên. 3. Đẩy mạnh phân cấp quản lý theo hướng tự chủ tự chịu trách nhiệm, xây dựng và thực hiện chuẩn giáo dục, tăng cường thanh tra chuyên môn để đánh giá thực chất Để việc “đánh giá thực chất” được thực hiện, cần đẩy mạnh quản lý giáo dục, chú trọng đẩy mạnh phân cấp quản lý theo hướng giao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm cho giảng viên: (i) Để giảng viên tự xây dựng nội dung, hình thức kiểm tra đánh giá nhằm thực hiện chuẩn giáo dục, trên cơ sở tăng cường thanh tra chuyên môn để đánh giá thực chất; (ii). Việc phân cấp, giao trách nhiệm sẽ làm cho cho giảng viên và sinh viên luôn xác định “đánh giá thực chất” là sự bổ sung hoàn hảo giúp người dạy cũng như người học gắn kết những kiến thức, kỹ năng được học trong trường với cuộc sống thực, giúp người học có ý thức hơn với những nhiệm vụ mà họ sẽ phải thực hiện sau khi tốt nghiệp; quá trình dạy học trong trường cũng nhờ đó mà trở nên sống động hơn, giảng viên sẽ tìm tòi, sáng tạo hơn để tìm ra các bài tập hay, hỗ trợ sinh viên thực hiện các nhiệm vụ đó; làm cho sinh viên khát khao hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức, có ý thức rèn luyện kỹ năng để làm một việc có ý nghĩa hơn ngay từ khi còn trên ghế nhà trường; (iii). Cần có sự chỉ đạo trong xây dựng “Bộ tiêu chí đánh giá” với những chỉ số (những đặc trưng) của việc hoàn thành tốt nhiệm vụ, giúp trả lời câu hỏi: “Chúng ta sẽ đánh giá sinh viên hoàn thành nhiệm vụ đó như thế nào?” làm cơ sở để giảng viên thiết kế bài giảng với những tiêu chí đặc trưng riêng cho việc hoàn thành tốt từng nhiệm vụ được giao trong quá trình dạy học và sử dụng các tiêu chí này để đánh giá sinh viên đã hoàn thành nhiệm vụ ở mức nào, để xác định sinh viên đã đáp ứng “chuẩn” theo yêu cầu thực ở mức nào. Nhà trường/ Các khoa quản lí giảng viên cần coi việc thực hiện “đánh giá thực chất” trong quá trình dạy học là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại, xét thi đua, khen thưởng đối với giảng viên và sinh viên. 4. Đảm bảo thực hiện chặt chẽ qui trình tổ chức kiểm tra đánh giá Để “đánh giá thực chất” cần thực hiện qui trình kiểm tra đánh giá: (i) Tổ chức chặt chẽ khâu ra đề thi, xây dựng và thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống ngân
  11. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 545 hàng đề thi để đảm bảo có tính phân loại cao, đánh giá thực chất chất lượng người học theo hướng nâng cao năng lực thực hành, vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng kiến thức tổng hợp; duy trì nghiêm việc lựa chọn đề thi, giám sát coi thi, chấm thi tập trung, tăng cường chấm thanh tra, phúc tra… nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp chấm điểm không đúng thực chất; (ii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; lắp đặt hệ thống camera, kết nối các phòng học, phòng thi để giám sát, quản lý quá trình coi, chấm thi; từng bước triển khai, tiến tới đẩy mạnh việc thi trắc nghiệm trên hệ thống máy tính; (iii). Chấp hành nghiêm quy chế về chấm thi và kiểm tra, đảm bảo khách quan, trung thực, đúng chất lượng của người học, nhất là quy định về bốc đề và chấm thi tập trung; (iv). Kết hợp các hình thức thi, kiểm tra đánh giá phù hợp theo nội dung kiến thức và đặc thù môn học như: kết hợp giữa hình thức thi tự luận, thi vấn đáp, thi trắc nghiệm với viết chuyên đề, tiểu luận, bài tập lớn, thiết kế các sản phẩm ứng dụng... 3.3. Nhóm biện pháp bảo đảm điều kiện để “dạy thực chất, học thực chất và đánh giá thực chất” đạt hiệu quả cao 1. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đáp ứng đủ về số lượng, tốt về chất lượng và từng bước đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa (i). Nhà trường cần có kế hoạch đầu tư nâng cấp trang thiết bị dạy học theo chuẩn chung, trang bị đầy đủ theo hướng hiện đại hoá đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, trong đó có chú trọng đầu tư phòng học chuyên dùng phục vụ cho ngành đào tạo, đáp ứng được yêu cầu tự học ở các đơn vị quản lý học viên; đầu tư kinh phí, trang bị các phương tiện, điều kiện làm việc cho đội ngũ nhà giáo để động viên và tạo ra những động lực thúc đẩy các nhà giáo thường xuyên phấn đấu tự rèn luyện bản thân để nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực làm việc, làm việc có chất lượng và hiệu quả cao nhất. (ii). Nhà trường/các đơn vị chức năng trong trường cần có sự chỉ đạo để khai thác có hiệu quả các phòng học chuyên dùng/các phòng thí nghiệm, các phương tiện dạy và học/các phần mềm chuyên dùng trong dạy – học để có thể tạo ra chất lượng giáo dục tốt nhất, kết hợp giữa việc nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy và học tập với việc phát huy khả năng cải thiện trang thiết bị hiện có và thích ứng của người học với môi trường thực mà cuộc sống/xã hội đang đặt ra hiện nay. 2. Tập trung đầu tư nâng cấp, chuẩn hóa hệ thống giáo trình, tài liệu, nhất là bài tập phù hợp với tình hình mới và thực tiễn phát triển từng chuyên ngành (i). Đầu tư kinh phí để biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo và tài liệu tham khảo theo hướng cập nhật, bổ sung kiến thức kĩ năng đáp ứng kịp sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sự thay đổi nhu cầu xã hội; đồng thời tiến hành số hóa các văn bản, tài liệu học tập đáp ứng nhu cầu tra cứu, nghiên cứu của các đối tượng, góp phần quan trọng thúc đẩy chất lượng dạy - học; (ii). Đối với các phòng học tin học, ngoại ngữ, thư viện cần nâng
  12. 546 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP cấp và cài đặt các phần mềm hỗ trợ tự học, cần xây dựng qui chế/ qui định phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho cán bộ, giảng viên, học viên có thể học thêm vào các giờ nghỉ/ ngày nghỉ. KẾT LUẬN Trong kỉ nguyên kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế sâu sắc về tất cả các lĩnh vực, yêu cầu về nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, quyết định sự thành bại của một quốc gia. “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất” để nguồn nhân lực được đào tạo có khả năng cạnh tranh trong sự hội nhập phụ thuộc rất nhiều vào quá trình đào tạo của hệ thống giáo dục đại học. Giảng viên cần nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm để gắn kết những kiến thức, kỹ năng được học trong trường với cuộc sống thực, giúp người học có ý thức hơn với những nhiệm vụ mà họ sẽ phải thực hiện sau khi tốt nghiệp; giảng viên cần tìm tòi, sáng tạo hơn làm cho quá trình dạy - học trở nên sống động hơn, hỗ trợ sinh viên thực hiện các nhiệm vụ theo nghề nghiệp được học, giúp sinh viên có khát khao hơn trong quá trình tiếp nhận tri thức, rèn luyện kỹ năng để làm một việc có ý nghĩa hơn ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất” phải bắt đầu từ việc xác lập những mục tiêu học tập gắn chặt với đời sống thực để phát triển đội ngũ, đổi mới chương trình, tài liệu học tập, đảm bảo các điều kiện phục vụ dạy và học. Đây là công việc khó, phải tiến hành trong thời gian dài, tốn nhiều công sức, nhưng cần phải thực hiện ngày càng nghiêm túc và hiệu quả hơn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, ban hành theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1/11/2007. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức kiểm định giáo dục, ban hành theo Thông tư 61/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012. 3. Nguyễn Đức Chính (2013), “Đánh giá thực kết quả học tập trong giáo dục đại học và đào tạo nguồn nhân lực”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (2004), Lí luận dạy học đại học, NXB Đại học Sư phạm. 5. Jon Mueller, Authentic Asessment Toolbook. 6. Thomas A. Angels, K Prtricia cross (1993), Classroom Assessment Techniques, San Fransisco. 7. Wilbert J. McKEachie (2003), Những thủ thuật trong dạy học. Sách dự án Việt Bỉ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1