intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (1973 – 2010) (PHẦN 1)

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

75
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu tham khảo dành cho giáo viên, học sinh trung học phổ thông đang trong kì ôn thi chuẩn bị cho kì thi đại học, cao đẳng

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: 37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (1973 – 2010) (PHẦN 1)

  1. 37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (1973 – 2010) Việt Nam và Nhật Bản là hai nước châu Á có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên và đời sống văn hóa - xã hội nên từ nhiều thế kỷ qua, đã có các mối quan hệ giao lưu, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam- Nhật Bản (21-9-1973 - 21-9-2010), bài viết sẽ phân tích khái quát tiến trình phát triển của mối quan hệ hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước, nhất là từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Quan hệ chính trị Từ năm 1993 đến nay, đã có nhiều cuộc thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước. Về phía Nhật Bản, Thủ tướng Nhật Bản và phái đoàn chính phủ chính thức sang thăm Việt Nam 5 lần. Đó là các chuyến thăm của Thủ tướng T.Mu-ra-y-a-ma (tháng 8-1994), Thủ tướng R.Ha-si-mô-tô (tháng 1-1997), Thủ tướng K.O-bu-chi (tháng 12-1998), Thủ tướng J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và Thủ tướng S.A-bê (tháng 11- 2006). Hoàng tử Nhật Bản K. A-ki-si-no cũng đã thăm Việt Nam (tháng 6-1999). Kể từ chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Võ Văn Kiệt
  2. (tháng 3-1993), hằng năm liên tục có các chuyến thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước. Về phía Việt Nam, đó là chuyến thăm của các đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng 4-1995); Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-1999; tháng 6- 2001, tháng 4-2003, tháng 12-2003, tháng 6-2004 và tháng 7-2005); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 5-2002); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (tháng 10-2002).v.v.. Sau các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh (tháng 10-2002), quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên một nấc thang mới với tinh thần: "Cùng hành động, cùng tiến bước, thúc đẩy quan hệ ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau". Năm 2004, hai nước ký Tuyên bố chung vươn tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững. Tháng 10-2006, sau chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Hai bên cũng quyết định tiến hành cuộc Đối thoại Đối tác Chiến lược Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất vào tháng 12 năm 2010 nhằm thảo luận một cách toàn diện về các vấn đề chính trị, ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Đối thoại trên đã đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực. Chuyến thăm của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 11-2007 là chuyến thăm Nhật Bản lần đầu tiên của Nguyên thủ Nhà nước Việt Nam kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973. Sự kiện quan
  3. trọng và có ý nghĩa to lớn này đã tạo động lực mới, bước phát triển mới, củng cố sự tin cậy và mở rộng quan hệ giữa hai nước. Với quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và tân Thủ tướng Nhật Bản Y. Phư-cư-đa đã ký Tuyên bố chung và thông qua "Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Nhật Bản". Trong những năm qua, Việt Nam và Nhật Bản đã tạo dựng và liên tục phát triển cơ chế đối thoại ở nhiều cấp trong các hoạt động ngoại giao chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Đồng thời, các hoạt động giao lưu hợp tác giữa các ngành, địa phương và các tổ chức kinh tế - xã hội cũng không ngừng được mở rộng. Nhờ đó, các mối quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ thuật... giữa hai nước ngày càng phát triển mạnh hơn. Đến nay, Nhật Bản luôn là nước tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới; vận động Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) giúp Việt Nam về kỹ thuật, các ngân hàng, các quỹ tài chính quốc tế, khu vực tài trợ cho công cuộc tái thiết đất nước Việt Nam sau chiến tranh. Nhật Bản luôn coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện và tin cậy vào đối tác Việt Nam, mong muốn Việt Nam ủng hộ Nhật Bản trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc... Quan hệ kinh tế
  4. Tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Cũng kể từ thời điểm này, Nhật Bản luôn là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực thương mại, du lịch, đầu tư, viện trợ phát triển... Hợp tác thương mại Trong gần hai thập niên qua, Nhật Bản luôn là bạn hàng và là thị trường lớn nhất của Việt Nam. Những năm gần đây, do tương quan cạnh tranh giữa các đối tác thay đổi nên Nhật Bản đứng ở vị trí thứ 2 hoặc thứ 3, sau Trung Quốc từ năm 2005 và sau cả Mỹ từ năm 2006. Trong 5 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hằng năm giữa hai nước luôn ở mức từ 5 tỉ đến 9 tỉ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 14% - 16% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với tất cả các nước khác trên thế giới. Đáng lưu ý, kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản luôn tăng trưởng với tốc độ cao, trung bình từ 15% - 20% và từ nhiều năm qua Việt Nam là nước xuất siêu sang Nhật Bản. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 12,5 tỉ USD, tăng 26,1% so với năm 2006. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 6,5 tỉ USD, tăng 16,7% so với năm 2006. Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản năm 2007, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại với hơn 500 triệu USD. Việt Nam có khả năng xuất khẩu khá nhiều mặt hàng như dầu thô, nông sản, thủy sản, đồ gỗ, may mặc, giày dép,
  5. thủ công mỹ nghệ... Ngược lại, Nhật Bản cung cấp cho ta máy móc, thiết bị điện, sản phẩm công nghệ cao, sắt thép, hóa chất... Các hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả hai nước, đặc biệt là đối với Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng phát triển, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn chưa được khai thác triệt để. Trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, hàng hóa Việt Nam đến nay vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé chưa đến 1%, trong khi đó tỷ trọng của Trung Quốc hơn 13%, Thái Lan và Ma-lai-xi-a gần 3%... Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn đơn điệu, chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm mới qua sơ chế (trên 50%). Nhật Bản đã và đang dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan GSP; tuy nhiên, hàng Việt Nam vào thị trường Nhật Bản vẫn hay gặp phải khó khăn là hệ thống kiểm tra phi thuế quan chặt chẽ, đặc biệt là các quy định khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, kiểm dịch. Trong quan hệ song phương hai nước đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, song khó khăn lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam là phía Nhật Bản vẫn chưa ký kết Hiệp định Thương mại tự do. Khó khăn này đang được cả hai bên nỗ lực giải quyết. Trong tương lai không xa, hai nước Việt Nam - Nhật Bản sẽ chính thức ký kết một Hiệp định song phương đối tác kinh tế toàn diện (VJEPA), và do đó sẽ hoàn tất ký kết một Hiệp định song phương thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản
  6. (VJFTA). Khi đó, chắc chắn sẽ càng tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước. Hy vọng mục tiêu đạt 15 tỉ USD trong kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Nhật Bản như các nhà hoạch định chính sách và giải pháp phát triển thương mại của cả hai nước đã đề ra cho năm 2010 sẽ trở thành hiện thực. Hợp tác du lịch Hơn thập niên qua, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Năm 1990, có khoảng 1.390 lượt khách Nhật Bản du lịch Việt Nam, nhưng đến năm 2005 con số đó đã đạt tới 338.509 lượt... Năm 2007, trong bảng Top 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có nhiều khách du lịch đến Việt Nam, Nhật Bản giữ ở vị trí thứ 2. Liên tục từ năm 2000 đến nay, Nhật Bản luôn nằm trong danh sách 5 thị trường gửi khách lớn nhất nước ta và đã trở thành thị trường khách nước ngoài hàng đầu của du lịch Việt Nam về hiệu quả kinh tế, chỉ đứng sau Trung Quốc về lượng khách. Tuy nhiên, theo thông báo mới đây của Tổng cục Du lịch, trong 5 tháng đầu năm nay, có khoảng 169.640 lượt du khách Nhật Bản đến Việt Nam, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là động thái trái ngược với 4 năm trước đó khi lượng du khách Nhật Bản tăng đều đặn với tốc độ 27,5% trong năm 2004, 20% trong năm 2005, 13,4% trong năm 2006 và 9% trong 2007. Nguyên nhân của tình hình trên chủ yếu do kinh tế Nhật Bản đang trong
  7. tình trạng suy thoái chung toàn cầu nên nhiều người Nhật phải tiết kiệm chi tiêu. Mặt khác, do phía Việt Nam còn có những khiếm khuyết trong công tác tiếp thị, quảng bá du lịch và nhất là do chi phí cho các tour du lịch tại Việt Nam tiếp tục gia tăng, do vậy đã không khuyến khích khách Nhật đến Việt Nam. Tiềm năng và triển vọng của thị trường khách Nhật Bản du lịch vào Việt Nam còn rất lớn. Hằng năm, du khách Nhật Bản có nhu cầu du lịch nước ngoài lên tới 17 triệu - 18 triệu người, riêng đối với khu vực ASEAN là khoảng 3,7 triệu - 4 triệu người. Trong số đó, du khách Nhật Bản đến Việt Nam mới chỉ trên dưới 0,3 triệu người. Điều này chứng tỏ, thị trường Nhật Bản là tiềm năng rất lớn nếu ngành du lịch Việt Nam tập trung mọi nỗ lực để khai thác. Một trong những giải pháp quan trọng đang được phía ngành du lịch Việt Nam xúc tiến đó là khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản thành lập các công ty liên doanh du lịch giữa hai nước. Ngoài ra du lịch Việt Nam còn phối hợp với ngành thông tin - văn hóa và với nhiều cơ quan hữu quan khác của Việt Nam... để tăng cường nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Hy vọng, mục tiêu đón 500.000 lượt du khách Nhật Bản/năm vào năm 2008 - 2009 và đón 1 triệu lượt khách Nhật Bản vào năm 2010 có thể trở thành hiện thực. Hợp tác đầu tư (FDI) Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) đã vào Việt Nam kể từ năm 1993,
  8. khi các tổ chức quốc tế nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam (với nguồn cung cấp ODA lớn nhất là từ Nhật Bản). Tính đến cuối tháng 5- 2002, Nhật Bản là nước đứng thứ 3 trong số các nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 386 dự án được cấp phép, vốn đăng ký đạt 4,3 tỉ USD. Tuy đứng thứ 3 (sau Đài Loan và Xin-ga-po) về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam, nhưng Nhật Bản lại đứng đầu về vốn thực hiện (đạt 3,04 tỉ USD). Do đó, xét thực chất đầu tư, ngay từ năm 2002, Nhật Bản đã ở vị trí số 1 tại Việt Nam và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và của cả hai nước. Nguyên nhân cơ bản khiến nhiều nhà đầu tư Nhật Bản chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư là vì Việt Nam có thể chế chính trị - xã hội ổn định, nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, lao động dồi dào, giá rẻ, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và có quan hệ hợp tác phát triển từ nhiều năm qua... Chính vì thế, sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới ban hành của Việt Nam đã có hiệu lực thực thi kể từ ngày 1- 7-2006, đồng thời với việc chính phủ hai nước tiếp tục thực hiện giai đoạn 3 của Chương trình hành động "Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản" về cải thiện môi trường đầu tư đã khiến làn sóng đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam càng trở nên sôi động. Đó cũng là lý do chính khiến năm 2006 là năm đột phá, đánh dấu bước chuyển lớn về đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam (có tới 160 dự án, với số vốn đầu tư đăng ký lên đến
  9. hơn 1,5 tỉ USD). Tổng số dự án còn hiệu lực của Nhật Bản tại Việt Nam tính đến hết tháng 12-2007 là 928 dự án với tổng vốn đầu tư là 9,03 tỉ USD. Tuy về lượng giá trị tuyệt đối không bằng so với tổng vốn đầu tư của Hàn Quốc, Xin-ga-po và Đài Loan đều trên 10 tỉ USD, nhưng nếu xét về vốn đã thực hiện có hiệu quả thì tổng vốn đầu tư của Nhật Bản lên tới gần 5 tỉ USD, vượt xa các đối tác khác. Gần đây, theo điều tra hằng năm của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tiến hành trên 1.745 doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại châu Á, Việt Nam được đánh giá rất cao về triển vọng đầu tư cả trung và dài hạn. Về trung hạn, có 92,6% số doanh nghiệp sản xuất và 88% số doanh nghiệp dịch vụ dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong vòng 1 - 2 năm tới. Về dài hạn, trong vòng 5 - 10 năm tới, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu á. Phát biểu tại Hội thảo toàn cầu của Liên đoàn Hiệp hội quản lý Nhật Bản lần thứ 9 tổ chức ở Hà Nội ngày 3-7-2008, ông Yo- si-ô To-mi-xa-ka, Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên đoàn Hiệp hội quản lý Nhật Bản (JMA Group) cho rằng, Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường Việt Nam đang có tiềm năng rộng mở với chi phí lao động thấp, ổn định về chính trị... Đây là những điều quan trọng đối với doanh nghiệp Nhật Bản. Các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ đến Việt Nam rất nhiều trong thời gian tới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0