BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
TRẦN ĐỨC QUANG
ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ ĐẾN GIÁ
CHỨNG KHOÁN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN ĐỨC QUANG
ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ ĐẾN GIÁ
CHỨNG KHOÁN
Chuyên ngành: Tài chính–Ngân hàng Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THỊ LANH
TP. Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên giá chứng khoán”
là một nghiên cứu độc lập, do chính tôi thực hiện trên cơ sở các kiến thức đã học,
tham khảo một số nghiên cứu và không sao chép bất kỳ tài liệu nào khác. Tôi xin cam
đoan những điều trên là sự thật và chịu mọi trách nhiệm nếu vi phạm quy định của
nhà trường.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019
Trần Đức Quang
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT (ABSTRACT)
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 3
1.4. Bố cục luận văn ................................................................................................ 3
1.5. Ý nghĩa luận văn .............................................................................................. 4
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 5
2.1. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán ............... 5
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan ............................................................ 6
2.2.1. Mối quan hệ tuyến tính ............................................................................. 7
2.2.2. Mối quan hệ phi tuyến ............................................................................ 23
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 28
3.1. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 28
3.1.1. Mô hình ARDL tuyến tính ...................................................................... 28
3.1.2. Mô hình ARDL phi tuyến ....................................................................... 31
3.2. Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................... 33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 36
4.1. Kiểm định tính dừng ...................................................................................... 36
4.2. Kiểm định đồng liên kết tuyến tính và phi tuyến ........................................... 36
4.3. Kết quả mô hình ARDL ................................................................................. 37
4.3.1. Kết quả hồi quy ngắn hạn ....................................................................... 37
4.3.2. Kết quả hồi quy dài hạn .......................................................................... 39
4.4. Kết quả mô hình NARDL .............................................................................. 40
4.4.1. Kết quả hồi quy ngắn hạn ....................................................................... 40
4.4.2. Kết quả hồi quy dài hạn .......................................................................... 42
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ...................................................................................... 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 47
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 53
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Giải thích
ARDL Mô hình tự hồi quy phân phối trễ
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
IPI Chỉ số sản xuất công nghiệp
NARDL Mô hình tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến
NEER Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
PTM Mô hình định giá theo thị trường
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ tuyến tính .................... 13
Bảng 3.1. Mô tả biến số nghiên cứu ......................................................................... 30
Bảng 3.2. Thống kê mô tả ......................................................................................... 34
Bảng 4.1. Kiểm định tính dừng ................................................................................ 36
Bảng 4.2. Kết quả kiểm định đồng liên kết .............................................................. 37
Bảng 4.3. Kết quả ước lượng hệ số ngắn hạn với biến phụ thuộc là ∆sp ................. 38
Bảng 4.4. Kết quả ước lượng hệ số dài hạn của mô hình ARDL(4,3,3,2) ............... 40
Bảng 4.5. Kiểm định chẩn đoán................................................................................ 40
Bảng 4.6. Kết quả ước lượng hệ số ngắn hạn với biến phụ thuộc là ∆sp ................. 41
Bảng 4.7. Kết quả ước lượng hệ số dài hạn của mô hình NARDL(4,5,2,0,2) ......... 43
Bảng 4.8. Kiểm định chẩn đoán................................................................................ 44
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. .............. 6
Hình 3.1. Xu hướng của các biến số......................................................................... 35
TÓM TẮT
Nghiên cứu tiến hành khám phá mối liên kết động bất đối xứng giữa tỷ giá và giá
chứng khoán tại Việt Nam. Sử dụng mô hình ARDL phi tuyến và tuyến tính cùng dữ
liệu hàng tháng từ tháng 1/2001 đến tháng 5/2018, các kết quả thực nghiệm chỉ ra tồn
tại mối liên kết bất đối xứng giữa thị trường tiền tệ và chứng khoán cả trong ngắn hạn
và dài hạn. Theo đó, giá chứng khoán phản ứng với mức độ khác nhau trước sự tăng
giá và giảm giá tiền tệ. Tuy nhiên, sự tăng giá tiền tệ ảnh hưởng truyền dẫn mạnh hơn
lên giá chứng khoán khi so với sự mất giá tiền tệ trong dài hạn. Khi bỏ qua tính chất
bất đối xứng, tỷ giá hối đoái chỉ có tác động ngắn hạn lên giá chứng khoán. Điều đó
hàm ý giả định đối xứng đánh giá chưa đầy đủ tác động của thay đổi tỷ giá lên giá
chứng khoán tại Việt Nam.
Từ khóa: Giá chứng khoán; Tỷ giá; Bất đối xứng; NARDL.
ABSTRACT
This paper explores the asymmetric adjustment of the dynamic relation between
exchange rate and stock prices in Vietnam. Employing the linear and nonlinear
ARDL model and monthly data from 2001M01 to 2018M05, the empirical results
reveal that there exists asymmetrical linkages between the currency and equity
markets both in the short-run and long-run. That is, the reaction of stock prices to
depreciation is different from appreciation. However, currency appreciation has a
strong pass-through effect on stock prices than depreciation in the long-run. In the
absence of asymmetry, exchange rate has only short-run effect on stock prices. This
implies that the symmetry assumption underestimates the impact of exchange rate
changes on stock prices in Vietnam.
Keywords: Stock prices; Exchange rate; Asymmetry; NARDL.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian gần đây, mối liên kết giữa thị trường chứng khoán và thị trường
ngoại hối nhận được sự chú ý ngày một tăng trong giới nghiên cứu vĩ mô và tài chính.
Điều này, một phần, là do các chính sách tự do hóa tài chính và toàn cầu hóa thị
trường tài chính quốc tế đã khuyến khích sự gia tăng chu chuyển vốn quốc tế cả cho
đầu tư và đa dạng hóa danh mục (Phylaktis và Ravazzolo, 2005). Do đó, sự truyền
dẫn tiềm năng giữa thị trường ngoại hối và chứng khoán là điều khả dĩ. Đứng dưới
góc độ lý thuyết, hiện diện mối quan hệ nhân quả giữa giá chứng khoán với tỷ giá hối
đoái. Đầu tiên, từ tỷ giá đến giá cổ phiếu; các mô hình tỷ giá hối đoái định hướng
dòng chảy (flow–oriented model) (tham khảo Dornbusch và Fischer, 1980) phát biểu
rằng sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tính cạnh tranh quốc tế, và đến lượt
ảnh hưởng thu nhập và sản lượng thực cũng như giá chứng khoán, là hiện giá chiết
khấu của dòng tiền trong tương lai của các doanh nghiệp. Mặt khác, hiệu ứng phản
hồi (feedback effect) từ giá chứng khoán đến tỷ giá theo mô hình định hướng chứng
khoán (stock–orriented model) (tham khảo Frankel, 1983; Gavin, 1989; Branson,
1993) cho rằng đổi mới thị trường chứng khoán ảnh hưởng tổng cầu và cầu tiền thông
qua hiệu ứng giàu có (wealth effect) và thanh khoản (liquidity effect). Điều này dẫn
đến việc lãi suất thay đổi, ảnh hưởng dòng chảy vốn và do đó, thay đổi tỷ giá hối đoái.
Tập trung vào tác động của thay đổi tỷ giá lên giá chứng khoán, các nghiên cứu
trước đó giả định rằng mối liên kết giữa hai biến số là đối xứng, có nghĩa là giá chứng
khoán phản ứng theo cùng mức độ với sự mất giá (depreciation) và tăng giá
(appreciation) của nội tệ. Ví dụ, hiệu ứng giá chứng khoán do sự mất giá (tăng giá)
tiền tệ là dương (âm) lên các nhà xuất khẩu ròng. Với các nhà nhập khẩu ròng, hiệu
ứng giá chứng khoán vận hành theo hướng ngược lại cho cả mất giá và tăng giá tiền
tệ. Tuy nhiên, các hiệu ứng bất đối xứng tiềm ẩn trong mối quan hệ được ghi lại rõ
ràng trong các mô hình lý thuyết về hành vi của doanh nghiệp như mô hình định giá
theo thị trường (PTM), phòng ngừa rủi ro bất đối xứng (Koutmos và Martin, 2003).
2
Theo Knetter (1994), PTM dẫn đến hiệu ứng tỷ giá bất đối xứng khi các doanh nghiệp
cố gắng xây dựng thị phần hoặc đối mặt với những hạn chế về năng lực và ràng buộc
về số lượng. Bartram (2004) cũng cho rằng dòng tiền tương lai và rủi ro phá sản cũng
gây ra tính phi tuyến và bất cân xứng trong mối quan hệ khi đề cập đến rủi ro tỷ giá
hối đoái. Bahmani–Oskooee và Saha (2015) cũng xác nhận khi nội tệ mất giá, một
vài doanh nghiệp có thể giảm chi phí đầu vào nhập khẩu cao hơn bằng cách giảm lợi
nhuận biên. Theo cách đó, giá cổ phiếu có thể không phản ứng với sự mất giá, ngụ ý
rằng tác động của thay đổi tỷ giá có thể không đối xứng. Theo các lập luận này, giả
thuyết về mối liên kết đối xứng giữa giá chứng khoán và thay đổi tỷ giá có thể được
coi là quá hạn chế vì nó bỏ qua tính chất bất cân xứng tiềm ẩn trong ảnh hưởng của
sự mất giá và tăng giá tiền tệ.
Một số nghiên cứu đã nới lỏng giả định đối xứng và tìm thấy sự hỗ trợ cho hiệu
ứng bất đối xứng của thay đổi tỷ giá hối đoái đối lên giá chứng khoán (xem ví dụ
Miller và Reuer, 1998; Koutmos và Martin, 2003; Bartram, 2004; Hsu, Yau và Wu,
2009). Ví dụ, Bartram (2004) ước tính cả mô hình hồi quy tuyến tính và phi tuyến để
cho thấy sự thay đổi tỷ giá (độ nhạy cảm) thể hiện cấu trúc phi tuyến. Đối với những
nghiên cứu này, nhược điểm là không thể phân biệt giữa hiệu ứng bất đối xứng dài
hạn và ngắn hạn trong tác động của thay đổi tỷ giá. Điều này vô cùng quan trọng bởi
vì tỷ giá ảnh hưởng dòng tiền và giá cổ phiếu theo các khoảng thời gian khác nhau.
Với sự phát triển gần đây trong phân tích đồng liên kết phi tuyến, Shin, Yu và
Greenwood–Nimmo (2014) đã đề xuất khung mô hình phân phối trễ tự hồi quy phi
tuyến (NARDL) như là một đối trọng với mô hình ARDL đối xứng nổi tiếng của
Pesaran, Shin và Smith (2001). Khung phân tích mới này là khả thi để hợp nhất tính
chất bất cân xứng cả trong mối quan hệ dài hạn và cơ chế sai số hiệu chỉnh ngắn hạn.
Thông qua quá trình phân rã tổng từng phần, một biến cơ bản có thể được tách thành
cả hai thành phần dương và âm để phân tích tính không đối xứng động và phi tuyến.
Sử dụng mô hình NARDL, các nghiên cứu gần đây đã tìm thấy bằng chứng về hiệu
ứng tỷ giá bất đối xứng lên giá chứng khoán (xem Bahmani–Oskooee và Saha, 2015,
2016; Cuetas và Tang, 2017; Cheah và cộng sự, 2017; Bahmani–Oskooee và Saha,
3
2018). Theo hiểu biết của tác giả, các nghiên cứu cùng chủ đề tại Việt Nam như
Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013), Lê Hoàng Phong và Đặng Thị Bạch
Vân (2015) chưa đề cập đến mối quan hệ động phi tuyến tiềm ẩn giữa tỷ giá và giá
chứng khoán. Điều đó làm các kết quả nghiên cứu chưa xác nhận (khẳng định) sự tồn
tại mối quan hệ dài hạn chặt chẽ giữa các biến số. Xuất phát từ các thiếu sót trên,
nghiên cứu này tiến hành đánh giá mối quan hệ bất đối xứng (phi tuyến) có thể hiện
diện trong mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán tại thị trường Việt Nam.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả tham gia vào dòng nghiên cứu về mối liên kết dài
hạn giữa tỷ giá và giá chứng khoán, và kiểm chứng sự hiện diện của hiệu ứng bất đối
xứng trong tác động của thay đổi tỷ giá đối lên giá chứng khoán tại Việt Nam. Đặc
biệt, nghiên cứu kiểm tra cả động năng đối xứng và bất đối xứng ngắn hạn lẫn dài
hạn trong mối quan hệ giữa cả hai biến. Để thực hiện được mục tiêu trên, nghiên cứu
sử dụng mô hình NARDL của Shin và cộng sự (2014), cho dữ liệu của Việt Nam
trong giai đoạn 2001M01–2018M05, gồm biến giá chứng khoán, tỷ giá, mức giá (lạm
phát) và cung tiền.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
– Mối quan hệ dài hạn bất đối xứng (phi tuyến) giữa giá chứng khoán và tỷ giá
tại có tồn tại ở thị trường Việt Nam hay không?
– Thay đổi tăng và giảm của tỷ giá tác động đối xứng hay bất đối xứng lên giá
chứng khoán tại Việt Nam?
– Vai trò của các biến xác định còn lại (cung tiền và lạm phát) đối với thị trường
chứng khoán Việt Nam là gì?
1.4. Bố cục luận văn
Nội dung còn lại của nghiên cứu bao gồm: Phần 2 cung cấp các lý thuyết về mối
quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá, cùng các nghiên cứu thực nghiệm gần đây.
Phần 3 mô tả phương pháp và dữ liệu nghiên cứu. Phần 4 trình bày các kết quả thực
nghiệm và cuối cùng, Phần 5 cung cấp các kết luận.
4
1.5. Ý nghĩa luận văn
Luận văn bổ sung các hiểu biết mới về mối liên kết giữa thị trường chứng khoán
và thị trường ngoại hối, hỗ trợ cho các chủ thể tham gia thị trường tại Việt Nam. Vì
việc bỏ qua mối liên kết tiềm ẩn giữa hai thị trường có thể dẫn đến các sai lầm trong
việc xây dựng danh mục, dự báo và phòng ngừa rủi ro. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn
giúp ích cho giới hoạch định tài chính, vì các chính sách tỷ giá không phù hợp có thể
ảnh hưởng xấu lên thị trường chứng khoán.
5
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán
Về mặt lý thuyết, mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán có thể
được giải thích bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Giả thuyết thị trường hàng hóa
(còn được gọi là phương pháp truyền thống) của Dornbusch và Fischer (1980) đưa ra
mô hình định hướng dòng chảy cho thấy sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của các công ty đa quốc gia và do đó, ảnh hưởng thu nhập
và giá cổ phiếu của các công ty này.
Đối với các công ty xuất khẩu, sự mất giá (định giá thấp) của đồng nội tệ làm
cho hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn và có thể dẫn đến sự gia tăng cầu và doanh thu từ nước
ngoài. Ngược lại, sự tăng giá (định giá cao) của đồng nội tệ làm cho lợi nhuận của
công ty giảm xuống và giá cổ phiếu cũng giảm theo do sự suy giảm cầu nước ngoài
đối với hàng hóa xuất khẩu. Ngược lại với các công ty xuất khẩu, các công ty nhập
khẩu sẽ ở thế bất lợi khi đồng nội tệ mất giá. Do đó, độ nhạy cảm giá trị của các công
ty nhập khẩu đối với thay đổi tỷ giá là theo hướng ngược lại (so với các công ty xuất
khẩu); do đó, sự định giá cao (hoặc định giá thấp) của đồng nội tệ dẫn đến sự gia tăng
(hoặc suy giảm) giá trị doanh nghiệp.
Ngoài ra, theo mô hình định giá của Gordon, do giá trị của tài sản tài chính được
xác định bởi giá trị hiện tại của dòng tiền trong tương lai, nên kỳ vọng giá trị tiền tệ
tương đối (expectation of relative currency value) đóng vai trò đáng kể trong biến
động giá, do đó, thay đổi giá cổ phiếu có thể chịu ảnh hưởng bởi động năng tỷ giá hối
đoái (exchange rate dynamics). Ngoài ra, Branson (1983) và Frankel (1983) trình bày
mô hình định hướng chứng khoán (còn được gọi là lý thuyết cân bằng danh mục đầu
tư), xem xét mối quan hệ nhân quả xuất phát từ thị trường chứng khoán đến thị trường
ngoại hối. Các tác giả cho rằng những thay đổi trong thị trường chứng khoán quyết
định sự giàu có của các nhà đầu tư đối với cung và cầu tiền tệ. Do đó, thị trường
chứng khoán tăng sẽ thu hút dòng vốn dẫn đến tăng cầu và do đó làm tăng giá đồng
6
nội tệ. Ngược lại, giảm giá chứng khoán làm giảm tính thanh khoản thị trường, từ đó
làm giảm cầu tiền với kéo theo lãi suất thấp hơn. Theo đó, mức lãi suất thấp hơn làm
hạn chế dòng vốn quốc tế chảy vào thị trường trong nước và kết quả là gây ra sự mất
A
giá của đồng nội tệ.
Tỷ giá hối đoái Giá chứng khoán
Ghi chú: Chữ cái A và B lần lượt ký hiệu cho cách tiếp cận định hướng dòng chảy của
Dornbusch và Fischer (1980) và cách tiếp cận định hướng chứng khoán của Branson (1983)
và Frankel (1983).
B
Hình 2.1. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái tương
đối phong phú. Đa phần các nghiên cứu xoay quanh việc điều tra quan hệ nhân quả
Granger ngắn hạn và mối quan hệ dài hạn có thể có giữa giá chứng khoán và tỷ giá
hối đoái (xem Granger, Huang và Yang, 2000; Nieh và Lee, 2001; Phylaktis và
Ravazzolo, 2005; Pan, Fok và Liu, 2007; Alagidede, Panagiotidis và Zhang, 2011;
Lin, 2012; Fowowe, 2015; Efong, 2017;…). Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu khác sử
dụng các biến thể của mô hình GARCH để điều tra sự truyền dẫn biến động giữa hai
biến số (xem Apergis và Rezitis, 2001; Zhao, 2010; Andreou, Matsi và Savvides,
2013; Salisu và Oloko, 2015; Tule, Dogo và Uzonwanne, 2018;…). Cho đến nay,
bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu này vẫn chưa mang tính thống nhất. Điều
này là do mối quan hệ giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái được nghiên cứu trong
khung phân tích song biến (bivariate framework) hoặc khung đa biến (multivariate
framework), thông qua các phương pháp kinh tế lượng khác nhau cho các khoảng
thời gian khác nhau (bao gồm hoặc loại trừ các giai đoạn khủng hoảng), tần số dữ
liệu (hàng ngày, hàng tháng và hàng quý) của giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái
7
(danh nghĩa hoặc thực) và cho các nền kinh tế khác nhau (phát triển, mới nổi và đang
phát triển).
2.2.1. Mối quan hệ tuyến tính
Granger, Huang và Yang (2000) tập trung vào các quốc gia đang phát triển tại
Đông Á gồm Hồng Kông, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Đài Loan, nơi chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính
1997. Sử dụng kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Gregory–Hansen, các
tác giả phân tích mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái, thông qua dữ
liệu hàng ngày trong giai đoạn 3/1/1986 – 14/11/1997 và cho thấy rằng thay đổi tỷ
giá ảnh hưởng (quan hệ cùng chiều) đến giá chứng khoán tại thị trường Nhật Bản và
Thái Lan. Đối với Đài Loan, mối quan hệ này đảo ngược, đó là, giá chứng khoán ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái (mối tương quan nghịch chiều). Các tác giả tìm thấy mối
quan hệ hai chiều giữa hai thị trường (chứng khoán và ngoại hối) ở Indonesia, Hàn
Quốc, Malaysia và Philippines, tương tự phát hiện của Bahmani–Oskooee và
Sohrabian (1992) cho Mỹ. Tuy nhiên, thị trường Singapore không thể hiện bất kỳ
mẫu hình quan hệ nào. Thông qua kiểm tra nhân quả Granger, nghiên cứu tìm thấy
bằng chứng tỷ giá hối đoái ảnh hưởng nhân quả đến giá chứng khoán ở 8 trong số 9
quốc gia. Một nghiên cứu khác của Nieh và Lee (2001) cũng sử dụng dữ liệu hàng
ngày trong giai đoạn 1/10/1993 – 15/2/1996; thông qua phương pháp Engle–Granger
hai bước và kiểm định đồng liên kết hợp lý cực đại Johansen, các tác giả không tìm
thấy bất kỳ mối quan hệ đồng liên kết (dài hạn) nào giữa tỷ giá và giá chứng khoán
tại các thị trường Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Anh và Mỹ. Chỉ tồn tại duy nhất
mối quan hệ ngắn hạn trong một ngày tại các thị trường G7. Kết quả tương tự cũng
được tìm thấy bởi Smyth và Nandha (2003) cho các thị trường Bangladesh, Ấn Độ,
Pakistan và Sri Lanka trong giai đoạn 2/1/1995 – 23/11/2001. Thông qua phương
pháp Engle–Granger hai bước và đồng liên kết Johansen, không tồn tại mối quan hệ
cân bằng dài hạn giữa tỷ giá và giá chứng khoán. Tỷ giá tác động lên giá chứng khoán
ở Ấn Độ và Sri Lanka, nhưng không có bằng chứng về mối quan hệ nhân quả tại
Bangladesh và Pakistan. Xem xét trải nghiệm của các quốc gia trong khu vực khủng
8
hoảng, Lean, Halim và Wong (2005) sử dụng dữ liệu hàng tuần từ 1/1/1991 đến
31/12/2002 cho Hồng Kông, Indonesia, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Philippines
và Thái Lan để nghiên cứu kịch bản trước và sau khủng hoảng và ảnh hưởng của cuộc
tấn công khủng bố 9/11. Các tác giả áp dụng cả kỹ thuật đồng liên kết dựa trên OLS
và nhân quả Granger. Đối với tất cả các quốc gia ngoại trừ Philippines và Malaysia,
nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về quan hệ nhân quả Granger giữa giá chứng
khoán và tỷ giá hối đoái trong giai đoạn trước khủng hoảng tài chính châu Á. Trong
thời kỳ khủng hoảng, các tác giả tìm thấy bằng chứng về quan hệ nhân quả giữa hai
biến số. Kết quả cho thấy không có quan hệ đồng liên kết giữa các biến trước hoặc
trong cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997, nhưng sau cuộc tấn công khủng bố 9/11,
mối quan hệ đồng liên kết yếu hơn giữa các biến được tìm thấy.
Một nghiên cứu khác cho 7 quốc gia châu Á (Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Malaysia, Singapore, Đài Loan và Thái Lan) của Pan và cộng sự (2007) áp dụng các
phương pháp kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Johansen để kiểm tra mối
liên kết giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái, sử dụng dữ liệu hàng ngày từ tháng
1/1988 đến tháng 10/1998. Các tác giả kết luận rằng không có mối quan hệ cân bằng
dài hạn nào giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Đối với Hồng Kông, Nhật Bản,
Malaysia và Thái Lan, có mối quan hệ nhân quả đáng kể từ tỷ giá hối đoái đến giá
chứng khoán trước khủng hoảng tài chính châu Á và trong thời kỳ khủng hoảng tài
chính, các tác giả tìm thấy mối quan hệ nhân quả từ tỷ giá đến giá chứng khoán tại
tất cả thị trường ngoại trừ Malaysia. Rahman và Uddin (2009) sử dụng dữ liệu hàng
tháng từ tháng 1/2003 đến tháng 6/2008 cho Bangladesh, Ấn Độ và Pakistan cùng
phương pháp đồng liên kết Johansen và kiểm định nhân quả Granger. Một lần nữa,
các tác giả không tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của mối quan hệ dài hạn giữa
giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái, đồng thời cũng không tìm thấy mối quan hệ nhân
quả theo bất kỳ hướng nào giữa các biến. Các phát hiện hàm ý rằng những người
tham gia thị trường không thể sử dụng thông tin của bất kỳ một trong hai thị trường
(chứng khoán và ngoại hối) để giúp dự báo thị trường còn lại. Đề cập đến thị trường
Úc, sử dụng dữ liệu hàng ngày từ 2/1/2003 đến 30/6/2006, Richards và cộng sự (2009)
9
nghiên cứu mối quan hệ giữa hai biến. Bằng cách sử dụng kiểm định đồng liên kết
Johansen, các tác giả cho thấy rằng cả giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái đều đồng
liên kết trong dài hạn. Phương pháp kiểm tra nhân quả Granger đã hỗ trợ cách tiếp
cận danh mục đầu tư khi cho thấy những thay đổi về giá chứng khoán ảnh hưởng đến
thay đổi tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, sử dụng dữ liệu hàng tuần từ tháng 1/1989 đến
tháng 12/2006, Kutty (2010) không thể hỗ trợ quan hệ đồng liên kết ở Mexico, mặc
dù một số bằng chứng về quan hệ nhân quả Granger ngắn hạn được tìm thấy. Xem
xét thị trường Trung Quốc, mối quan hệ động giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán
được nghiên cứu bởi Zhao (2010), sử dụng dữ liệu hàng tháng từ tháng 1/1991 đến
tháng 6/2009. Áp dụng phương pháp đồng liên kết Johansen, kết quả cho thấy không
có mối quan hệ cân bằng dài hạn ổn định giữa tỷ giá hối đoái RMB thực đa phương
và giá chứng khoán. Nguồn gốc và độ lớn của các lan truyền được kiểm định thông
qua mô hình VAR và mô hình GARCH đa biến (MGARCH). Từ thị trường ngoại hối
đến thị trường chứng khoán, không có hiệu ứng lan truyền trung bình (mean spillover
effect) nhưng có hiệu ứng lan truyền biến động hai chiều (bi–directional volatility
spillover).
Các nghiên cứu được đề cập ở trên dựa trên khung phân tích song biến, gồm
biến tỷ giá và giá chứng khoán. Nhiều nghiên cứu khác sử dụng mô hình đa biến, bổ
sung các biến kiểm soát khác vào mô hình hồi quy. Ví dụ, Tian và cộng sự (2010)
nghiên cứu các mối quan hệ giữa giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô như tỷ
giá hối đoái, cung tiền, sản xuất công nghiệp (IPI) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI), sử
dụng dữ liệu hàng tháng từ tháng 12/1995 đến tháng 12/2009 cho Trung Quốc. Kết
quả từ mô hình ARDL cho thấy trước thời điểm tự do hóa tài chính năm 2005, không
có quan hệ đồng liên kết giữa tỷ giá hối đoái và chỉ số giá chứng khoán Thượng Hải.
Sau khi tự do hóa, quan hệ đồng liên kết xuất hiện. Cung tiền và tỷ giá hối đoái ảnh
hưởng đến giá chứng khoán với tương quan cùng chiều ở Trung Quốc và CPI tháng
trước cũng gây tác động nhân quả Granger tới giá chứng khoán. Sử dụng phương
pháp đồng liên kết Johansen, Chortareas và cộng sự (2011) phân tích cho các quốc
gia gồm Ai Cập, Kuwait, Oman và Saudi Ả rập nhằm kiểm tra vai trò của giá dầu
10
như một mối liên kết giữa thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. Các tác
giả sử dụng dữ liệu hàng tháng từ năm 1994 đến năm 2006 (tùy vào tính sẵn có của
dữ liệu) và kết quả cho thấy khi giá dầu không được sử dụng, không có sự đồng liên
kết dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Khi đưa biến giá dầu vào mô
hình, kết quả một lần nữa cho thấy không có đồng liên kết giữa tỷ giá hối đoái và giá
chứng khoán khi xem xét toàn bộ mẫu. Trước cú sốc giá dầu năm 1999, không tìm
thấy sự đồng liên kết giữa các biến số. Sau cú sốc, tỷ giá hối đoái, giá chứng khoán
và giá dầu đồng liên kết với nhau ở Ai Cập, Oman và Saudi Ả rập. Nhưng đối với
Kuwait, tồn tại mối quan hệ dài hạn chỉ giữa giá chứng khoán và giá dầu. Tỷ giá hối
đoái thực có liên quan cùng chiều đến giá chứng khoán ở Ai Cập và Oman, và tại
Saudi Ả rập, chúng có liên quan ngược chiều nhau. Giá dầu từ lâu đã tác động cùng
chiều đến giá chứng khoán. Mô hình VAR ANST GARCH–M do Liu và Tu (2011)
sử dụng bao gồm tỷ giá hối đoái và vốn nước ngoài là yếu tố quyết định giá chứng
khoán. Các tác giả sử dụng dữ liệu hàng ngày từ 3/1/2001 đến 31/12/2007 tại Đài
Loan để nghiên cứu mối quan hệ giữa các biến và phân tích liệu trong các thị trường
này, các tính chất của biến đổi bất đối xứng và chuyển đổi trung bình (mean–
reverting) tồn tại hay không. Các tác giả nhận thấy rằng các biến động của tỷ giá hối
đoái và chỉ số giá chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi tỷ lệ mua quá mức (overbuying)
và bán quá mức (overselling) của vốn nước ngoài. Tất cả 3 trung bình có điều kiện
(conditional mean) đều thể hiện hành vi chuyển đổi trung bình bất đối xứng (lợi nhuận
âm trở về nhanh hơn lợi nhuận dương). Sự biến động của 3 thị trường thể hiện hiệu
ứng GARCH.
Parsva và Lean (2011) sử dụng các biến số lãi suất, tỷ lệ lạm phát và giá dầu
làm các yếu tố xác định chính của giá chứng khoán tại Ai Cập, Iran, Jordan, Kuwait,
Oman và Saudi Ả rập. Sử dụng dữ liệu hàng tháng từ tháng 1/2004 đến tháng 9/2010,
các tác giả ước tính mô hình bằng cách sử dụng phương pháp đồng liên kết Johansen
và quan hệ nhân quả Granger. Các tác giả nhận thấy rằng trong dài hạn, tất cả các
biến đều đồng liên kết với nhau. Cả ngắn hạn và dài hạn đều có mối quan hệ nhân
quả hai chiều giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái tại Ai Cập, Iran và Oman trước
11
cuộc khủng hoảng. Tại thị trường Kuwait, quan hệ nhân quả chạy từ tỷ giá hối đoái
đến giá chứng khoán trong ngắn hạn. So sánh các giai đoạn trước và sau khủng hoảng,
không có nhiều khác biệt trong hành vi của tỷ giá hối đoái và lợi nhuận chứng khoán.
Giá dầu cũng được đưa vào mô hình của Basher và cộng sự (2012), nghiên cứu sử
dụng dữ liệu toàn cầu hàng tháng từ tháng 1/1988 đến tháng 12/2008 để kiểm tra mối
quan hệ giữa giá chứng khoán tại các thị trường mới nổi. Ngoài ra, mô hình cũng bao
gồm hoạt động kinh tế toàn cầu thực như một trong những biến ảnh hưởng đến giá
dầu. Sử dụng mô hình VAR cấu trúc và thông qua phân tích hàm phản ứng đẩy, các
tác giả nhận thấy rằng cú sốc gia tăng giá dầu sẽ làm giảm giá thị trường mới nổi và
tỷ giá đô la Mỹ trong ngắn hạn. Giá dầu giảm cùng với sự gia tăng sản lượng dầu,
nhưng một cú sốc tích cực cho hoạt động kinh tế thực sẽ làm tăng giá dầu. Cùng
chung nhận định trên, Eita (2012) sử dụng phương pháp của Johansen và dữ liệu hàng
quý từ quý 1/1998 đến quý 4/2009 cho Namibia để kiểm tra các yếu tố quyết định giá
chứng khoán. Kết quả cho thấy giá chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi hoạt động kinh
tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất và cung tiền. Giá chứng khoán tăng với sự gia
tăng trong hoạt động kinh tế và cung tiền; và giá chứng khoán giảm với sự gia tăng
lạm phát và lãi suất. Tỷ giá, GDP, cung tiền và lạm phát đẩy thị trường chứng khoán
ra khỏi trạng thái cân bằng.
Một cách riêng biệt, Aslam và cộng sự (2013), những người nghiên cứu ảnh
hưởng của chỉ số tỷ giá thực hiệu dụng, CPI, thu nhập bình quân đầu người và lãi suất
chiết khấu trên giá chứng khoán, tập trung vào mỗi thị trường Pakistan trong nghiên
cứu của mình. Áp dụng các kỹ thuật NLS và ARMA, kết quả cho thấy trong khi lãi
suất chiết khấu và lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số giá chứng khoán Karachi,
thì thu nhập bình quân đầu người và chỉ số tỷ giá thực hiệu dụng ảnh hưởng tích cực.
Lãi suất chiết khấu ảnh hưởng đến chỉ số chứng khoán nhiều nhất. Nghiên cứu giúp
hiểu một cách hiệu quả để một quốc gia có thể kiểm soát các biến kinh tế vĩ mô để
đạt hiệu suất thị trường chứng khoán tốt hơn. Tương tự, giá hàng hóa được đưa vào
mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và thị trường chứng khoán bởi Groenewold và cộng
sự (2013), người sử dụng dữ liệu hàng tháng trong giai đoạn 1979–2010 tại Úc. Kết
12
quả cho thấy rằng khi giá cả hàng hóa không được xem xét, không có quan hệ đồng
liên kết giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Tuy nhiên, khi bao gồm giá cả hàng
hóa, tất cả ba biến đồng liên kết trong dài hạn. Khi chỉ có tỷ giá hối đoái và giá chứng
khoán được xem xét, không có mối quan hệ nhân quả nào giữa chúng theo một trong
hai hướng. Trong ngắn hạn, tỷ giá ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa và giá cả hàng hóa
đến lượt ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Thay vì sử dụng giá chứng khoán, Moore
và cộng sự (2014) xem xét nguồn gốc của mối quan hệ giữa chênh lệch lợi nhuận
chứng khoán và tỷ giá hối đoái thực, sử dụng dữ liệu hàng tháng cho Úc, Canada,
Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan và Anh.
Ở giai đoạn đầu tiên, tương quan có điều kiện động (DCC) thu được từ hai biến và
sau đó, DCC thu được này được sử dụng để hồi quy chênh lệch lãi suất và cán cân
thương mại. Với sự giúp đỡ của mô hình GARCH hai biến với tương quan điều kiện
động (DCC), các tác giả phát hiện ra rằng có một mối quan hệ ngược chiều giữa giá
chứng khoán tương đối và tỷ giá hối đoái thực. Có tồn tại sự tương quan thay đổi theo
thời gian giữa chênh lệch lợi nhuận chứng khoán và thay đổi tỷ giá hối đoái thực. Thị
trường chứng khoán Mỹ ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối và thị trường chứng
khoán trong nước. Cán cân thương mại là yếu tố quyết định chính của mối tương
quan động đối với thị trường châu Á và chênh lệch lãi suất là yếu tố then chốt cho
các quốc gia phát triển. Đối với các quốc gia có tính chu chuyển vốn thấp, hoạt động
hội nhập kinh tế đóng vai trò là nguyên nhân của sự liên kết và do đó, nó hỗ trợ mô
hình định hướng dòng chảy. Nhưng khi tính di động vốn nhiều hơn, hoạt động tích
hợp tài chính đóng vai trò là nguyên nhân của mối liên kết mà lần lượt ủng hộ mô
hình định hướng cổ phiếu.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013)
thông qua mô hình VAR, phương pháp phân rã phương sai cùng kiểm định nhân quả
Granger, cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012, lãi suất cùng tỷ giá
tác động đến giá chứng khoán. Tồn tại mối quan hệ nghịch một chiều từ tỷ giá hối
đoái tại bậc trễ 2 đến giá cổ phiếu. Tỷ giá là nhân tố chính giải thích 100% biến động
của giá cổ phiếu tháng đầu tiên. Sử dụng phương pháp kiểm định đường bao cho mô
13
hình đa biến chứa biến lạm phát, cung tiền, tỷ giá và giá chứng khoán, Lê Hoàng
Phong và Đặng Thị Bạch Vân (2015) phát hiện bằng chứng không mạnh về mối quan
hệ dài hạn giữa giá chứng khoán và các biến số vĩ mô trong giai đoạn nghiên cứu
2001 – 2013. Tỷ giá hối đoái, lạm phát cùng các loại lãi suất tác động tiêu cực đến
giá chứng khoán trong khi cung tiền tác động tích cực. Một nghiên cứu khác sử dụng
mô hình VAR–GARCH của Trần Ngọc Thơ và Hồ Thị Lam (2015) cho thấy không
tồn tại quan hệ cân bằng dài hạn ổn định giữa tỷ giá và giá chứng khoán. Ngoài ra,
cũng tồn tại hiệu ứng lan tỏa bất ổn hai chiều giữa thị trường ngoại hối và thị trường
chứng khoán.
Bảng 2.1 Một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ tuyến tính.
Tác giả
Quốc gia
Giai đoạn
Biến số Kết quả chính
Phương pháp
(a) Các nghiên cứu sử dụng mô hình song biến (gồm tỷ giá và giá chứng khoán).
Tỷ giá
3/1/1986 – 14/11/1997
Granger, Huang và Yang (2000)
Kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Gregory– Hansen
Hồng Kông, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Đài Loan
Tỷ giá tác động lên giá chứng khoán (mối quan hệ cùng chiều) tại Nhật Bản và Thái Lan. Giá chứng khoán tác động lên tỷ giá (mối tương quan nghịch) tại Đài Loan. Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines thể hiện hiệu ứng phản hồi (feedback effect). Singapore không thể hiện bất kỳ mẫu hình nào.
Tỷ giá
Nieh và Lee (2001)
1/10/1993 – 15/2/1996
Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Anh và Mỹ
Phương pháp Engle– Granger hai bước; kiểm định đồng liên kết hợp lý cực đại Johansen
Không tồn tại bất kỳ mối quan hệ đồng liên kết (dài hạn) nào giữa tỷ giá và giá chứng khoán tại các thị trường. Chỉ tồn tại duy nhất mối quan hệ ngắn hạn trong một ngày tại các thị trường G7.
Tỷ giá
2/1/1995 – 23/11/2001
Smyth và Nandha (2003)
Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka
Phương pháp Engle– Granger hai bước và đồng liên kết Johansen
Không tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa tỷ giá và giá chứng khoán. Tỷ giá tác động lên giá chứng khoán ở Ấn Độ và Sri Lanka, nhưng không có bằng chứng về mối quan hệ nhân quả tại Bangladesh và Pakistan.
Tỷ giá
1/1/1991 – 31/12/2002
Lean, Halim và Wong (2005)
Hồng Kông, Indonesia, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan
Kỹ thuật đồng liên kết dựa trên OLS và nhân quả Granger
Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, tất cả các quốc gia ngoại trừ Philippines và Malaysia không có bằng chứng về mối quan hệ nhân quả Granger giữa giá chứng khoán và tỷ giá. Không có mối quan hệ đồng liên kết giữa hai biến trước và trong khủng hoảng châu Á 1997. Sau
14
cuộc tấn công khủng bố 9/11, mối quan hệ đồng liên kết yếu hơn giữa các biến được tìm thấy.
Tỷ giá
Pan và cộng sự (2007)
tháng 1/1988 – tháng 10/1998
Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Đài Loan và Thái Lan
Phương pháp kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Johansen
Không có mối quan hệ cân bằng dài hạn nào giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Đối với Hồng Kông, Nhật Bản, Malaysia và Thái Lan, có mối quan hệ nhân quả đáng kể từ tỷ giá hối đoái đến giá chứng khoán trước khủng hoảng tài chính châu Á và trong thời kỳ khủng hoảng tài chính, các tác giả tìm thấy mối quan hệ nhân quả từ tỷ giá đến giá chứng khoán tại tất cả thị trường ngoại trừ Malaysia.
Tỷ giá
Rahman và Uddin (2009)
Bangladesh, Ấn Độ và Pakistan
tháng 1/2003 – tháng 6/2008
Phương pháp kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Johansen
Không tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của mối quan hệ dài hạn giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái, đồng thời cũng không tìm thấy mối quan hệ nhân quả theo bất
15
kỳ hướng nào giữa các biến.
Úc
Tỷ giá
2/1/2003 – 30/6/2006
Richards và cộng sự (2009)
Phương pháp kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Johansen
Giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái đều đồng liên kết trong dài hạn. Phương pháp kiểm tra nhân quả Granger đã hỗ trợ cách tiếp cận danh mục đầu tư khi cho thấy những thay đổi về giá chứng khoán ảnh hưởng đến thay đổi tỷ giá hối đoái.
Kutty (2010) Mexico
Tỷ giá
tháng 1/1989 – tháng 12/2006
Phương pháp Engle– Granger và kiểm định nhân quả Granger
Trong ngắn hạn, giá chứng khoán tác động nhân quả Granger lên tỷ giá. Không có quan hệ dài hạn nào giữa hai biến.
Zhao (2010) Trung Quốc
Tỷ giá
tháng 1/1991 – tháng 6/2009
VAR, GARCH đa biến và đồng liên kết Johansen
Không có mối quan hệ cân bằng dài hạn ổn định giữa tỷ giá hối đoái RMB thực đa phương và giá chứng khoán. Từ thị trường ngoại hối đến thị trường chứng khoán, không có hiệu ứng lan truyền trung bình (mean spillover effect) nhưng có hiệu ứng lan truyền biến động hai chiều
16
(bi–directional volatility spillover).
(b) Các nghiên cứu sử dụng mô hình đa biến.
Trung Quốc
ARDL
Tian và cộng sự (2010)
tháng 12/1995 – tháng 12/2009
Tỷ giá, cung tiền, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Trước thời điểm tự do hóa tài chính năm 2005, không có quan hệ đồng liên kết giữa tỷ giá hối đoái và chỉ số giá chứng khoán Thượng Hải. Sau khi tự do hóa, quan hệ đồng liên kết xuất hiện. Cung tiền và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá chứng khoán với tương quan cùng chiều ở Trung Quốc và CPI tháng trước cũng gây tác động nhân quả Granger tới giá chứng khoán.
1994 – 2006
Chortareas và cộng sự (2011)
Đồng liên kết Johansen
Tỷ giá và giá dầu
Ai Cập, Kuwait, Oman và Saudi Ả rập
Khi giá dầu không được sử dụng, không có quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Khi đưa biến giá dầu vào mô hình, kết quả một lần nữa cho thấy không có đồng liên kết giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán
17
khi xem xét toàn bộ mẫu. Trước cú sốc giá dầu năm 1999, không tìm thấy sự đồng liên kết giữa các biến số. Sau cú sốc, tỷ giá hối đoái, giá chứng khoán và giá dầu đồng liên kết với nhau ở Ai Cập, Oman và Saudi Ả rập. Nhưng đối với Kuwait, tồn tại mối quan hệ dài hạn chỉ giữa giá chứng khoán và giá dầu.
Đài Loan
Liu và Tu (2011)
3/1/2001 – 31/12/2007
Tỷ giá và vốn nước ngoài
Mô hình VAR ANST GARCH– M
Các biến động của tỷ giá hối đoái và chỉ số giá chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi tỷ lệ mua quá mức (overbuying) và bán quá mức (overselling) của vốn nước ngoài. Tất cả 3 trung bình có điều kiện (conditional mean) đều thể hiện hành vi chuyển đổi trung bình bất đối xứng (lợi nhuận âm trở về nhanh hơn lợi nhuận dương). Sự biến động của 3 thị
18
trường thể hiện hiệu ứng GARCH.
Parsva và Lean (2011)
tháng 1/2004 – tháng 9/2010
Ai Cập, Iran, Jordan, Kuwait, Oman và Saudi Ả rập
Tỷ giá, lãi suất, tỷ lệ lạm phát và giá dầu
Phương pháp kiểm định nhân quả Granger và đồng liên kết Johansen
Trong dài hạn, tất cả các biến đều đồng liên kết với nhau. Cả ngắn hạn và dài hạn đều có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái tại Ai Cập, Iran và Oman trước cuộc khủng hoảng. Tại thị trường Kuwait, quan hệ nhân quả chạy từ tỷ giá hối đoái đến giá chứng khoán trong ngắn hạn. So sánh các giai đoạn trước và sau khủng hoảng, không có nhiều khác biệt trong hành vi của tỷ giá hối đoái và lợi nhuận chứng khoán.
Mô hình SVAR
Basher và cộng sự (2012)
Các thị trường mới nổi
Tỷ giá và giá dầu
tháng 1/1988 – tháng 12/2008
Cú sốc gia tăng giá dầu sẽ làm giảm giá thị trường mới nổi và tỷ giá đô la Mỹ trong ngắn hạn. Giá dầu giảm cùng với sự gia tăng sản lượng dầu, nhưng một cú sốc tích cực cho hoạt động
19
kinh tế thực sẽ làm tăng giá dầu.
Eita (2012) Namibia
quý 1/1998 – quý 4/2009
Đồng liên kết Johansen
Tỷ giá, lạm phát, lãi suất và cung tiền
Giá chứng khoán chịu ảnh hưởng bởi hoạt động kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất và cung tiền. Giá chứng khoán tăng với sự gia tăng trong hoạt động kinh tế và cung tiền; và giá chứng khoán giảm với sự gia tăng lạm phát và lãi suất. Tỷ giá, GDP, cung tiền và lạm phát đẩy thị trường chứng khoán ra khỏi trạng thái cân bằng.
Pakistan
1991 – 2012
Aslam và cộng sự (2013)
Kỹ thuật NLS và ARMA
Tỷ giá REER, lạm phát, thu nhập bình quân đầu người và lãi suất chiết khấu
Trong khi lãi suất chiết khấu và lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số giá chứng khoán Karachi, thì thu nhập bình quân đầu người và chỉ số tỷ giá thực hiệu dụng ảnh hưởng tích cực. Lãi suất chiết khấu ảnh hưởng đến chỉ số chứng khoán nhiều nhất.
Úc
1979 – 2010
Tỷ giá và giá
Groenewold và cộng sự (2013)
Phương pháp kiểm định nhân
Khi giá cả hàng hóa không được xem xét, không có
20
hàng hóa
quả Granger và đồng liên kết Johansen
quan hệ đồng liên kết giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Tuy nhiên, khi bao gồm giá cả hàng hóa, tất cả ba biến đồng liên kết trong dài hạn. Khi chỉ có tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán được xem xét, không có mối quan hệ nhân quả nào giữa chúng theo một trong hai hướng. Trong ngắn hạn, tỷ giá ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa và giá cả hàng hóa đến lượt ảnh hưởng đến giá chứng khoán.
1973 – 2006
Moore và cộng sự (2014)
Mô hình GARCH song biến với tương quan động có điều kiện (DCC)
Úc, Canada, Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan và Anh
Tỷ giá, cán cân thương mại, chênh lệch lãi suất thực và mức độ phát triển tài chính
Tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa giá chứng khoán tương đối và tỷ giá hối đoái thực. Có tồn tại sự tương quan thay đổi theo thời gian giữa chênh lệch lợi nhuận chứng khoán và thay đổi tỷ giá hối đoái thực. Thị trường chứng khoán Mỹ ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán trong
21
nước. Cán cân thương mại là yếu tố quyết định chính của mối tương quan động đối với thị trường châu Á và chênh lệch lãi suất là yếu tố then chốt cho các quốc gia phát triển.
(c) Các nghiên cứu tại Việt Nam.
Việt Nam
2007 – 2012
Tỷ giá, lãi suất
Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013)
Mô hình VAR, phương pháp phân rã phương sai và kiểm định nhân quả Granger
Lãi suất cùng tỷ giá tác động đến giá chứng khoán. Tồn tại mối quan hệ nghịch một chiều từ tỷ giá hối đoái tại bậc trễ 2 đến giá cổ phiếu. Tỷ giá là nhân tố chính giải thích 100% biến động của giá cổ phiếu tháng đầu tiên.
Việt Nam
ARDL
2001 – 2013
Lê Hoàng Phong và Đặng Thị Bạch Vân (2015)
Tỷ giá, lạm phát, lãi suất và cung tiền
Bằng chứng không mạnh về mối quan hệ dài hạn giữa giá chứng khoán và các biến số vĩ mô. Tỷ giá hối đoái, lạm phát cùng các loại lãi suất tác động tiêu cực đến giá chứng khoán trong khi cung tiền tác động tích cực.
Việt Nam
2000 – 2013
VAR- GARCH
Tỷ giá REER
Trần Ngọc Thơ và Hồ
Không tồn tại quan hệ cân bằng dài hạn ổn định
22
Thị Lam (2015)
giữa tỷ giá và giá chứng khoán. Ngoài ra, cũng tồn tại hiệu ứng lan tỏa bất ổn hai chiều giữa thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả.
23
2.2.2. Mối quan hệ phi tuyến
Trong một cuộc khảo sát gần đây, Bahmani–Oskooee và Saha (2015) đã quan
sát thấy hai đặc điểm chung trong các nghiên cứu trước đó. Thứ nhất, mối quan hệ
giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái là một hiện tượng ngắn hạn; cả hai biến số
không đồng liên kết trong dài hạn. Thứ hai, thay đổi tỷ giá hối đoái được giả định là
có tác động đối xứng lên giá chứng khoán, điều đó có nghĩa là sự mất giá và tăng giá
của đồng nội tệ ảnh hưởng giá chứng khoán theo cùng độ lớn nhưng theo hướng
ngược nhau. Thực tế là giá chứng khoán có thể phản ứng không đối xứng với thay
đổi tỷ giá, hiện đã được công nhận rộng rãi trong nhiều nghiên cứu. Sự bất đối xứng
này có thể được giải thích bằng hành vi định giá theo thị trường, tính chất trễ
(hysteresis) và phòng ngừa rủi ro bất đối xứng (xem Koutmos và Martin, 2003). Định
giá theo thị trường (PTM) chỉ đơn giản liên quan đến một cơ chế định giá doanh
nghiệp với mức độ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. PTM bất đối xứng xảy ra khi
một doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đang đối mặt với sự tăng giá của đồng nội tệ
thích duy trì giá ngoại tệ và giảm thay nhuận biên nhằm giảm thiểu rủi ro sụt giảm
doanh số bán hàng. PTM ít hơn có thể xảy ra với sự tăng giá của đồng nội tệ khi các
doanh nghiệp chọn hạ giá nước ngoài để tăng khối lượng bán hàng và thị phần. Trong
khi đó, PTM lớn hơn có thể xảy ra trong sự mất giá của đồng nội tệ khi các doanh
nghiệp phải đối mặt với những hạn chế về khối lượng và lựa chọn duy nhất là tăng
giá nước ngoài để mua hết hàng hóa trên thị trường (clear the market). Hành vi trễ
(hysteretic behaviour) biểu hiện khi những người tham gia thị trường mới bị lôi kéo
24
tham gia vào một thị trường hiện tại khi đồng nội tệ mất giá và tiếp tục duy trì trên
thị trường một khi đồng tiền tăng giá. Điều này tạo ra hiệu ứng cạnh tranh không đối
xứng, và do đó, độ nhạy cảm tỷ giá hối đoái bất đối xứng, vì dòng tiền có thể không
tăng khi mất giá tiền tệ, mà giảm khi tăng giá tiền tệ. Cuối cùng, phòng ngừa rủi ro
bất đối xứng xảy ra khi các doanh nghiệp sử dụng các quyền chọn tiền tệ để phòng
ngừa rủi ro thay đổi tỷ giá hối đoái. Các doanh nghiệp có khoản phải thu ngoại tệ
(phải trả) có thể phòng ngừa chống lại mất giá (tăng giá) tiền tệ nhưng vẫn không
được bảo vệ khi tăng giá (mất giá) tiền tệ. Hành vi như vậy tạo ra tác động không đối
xứng lên dòng tiền. Tóm lại, bất kể nguồn gốc của sự bất cân xứng, lập luận cơ bản
là sự bất cân xứng sẽ dẫn đến mức độ khác nhau của hiệu ứng giá chứng khoán do sự
tăng giá và mất giá tiền tệ tương ứng.
Do đó, một số nghiên cứu đã cố gắng cung cấp bằng chứng về sự tồn tại của
hiệu ứng nhạy cảm tỷ giá hối đoái không đối xứng lên lợi nhuận chứng khoán. Những
nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện ở cấp độ ngành. Ví dụ, Miller và Reuer (1998)
điều tra độ nhạy cảm ngành không đối xứng đối với sự thay đổi tỷ giá hối đoái đối
cho 239 doanh nghiệp sản xuất của Mỹ. Các tác giả cho rằng đối với một phần nhỏ
các doanh nghiệp, sự nhạy cảm với sự mất giá và tăng giá tiền tệ là không đối xứng.
Koutmos và Martin (2003) phân tách thay đổi tỷ giá thành các thành phần tăng và
giảm giá bằng cách sử dụng khái niệm tổng từng phần và ước tính mô hình nhạy cảm
tỷ giá cho 9 lĩnh vực ở Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ. Các tác giả tìm thấy sự nhảy cảm
tỷ giá bất đối xứng đáng kể trong khoảng 40% các mô hình khu vực quốc gia
(country–sector model) với biểu hiện rõ rệt hơn trong lĩnh vực tài chính và trong lĩnh
vực phi tiêu dùng. Trong khi đó, Hsu, Yau và Wu (2009) đưa ra ít bằng chứng ủng
hộ việc nhạy cảm tỷ giá hối đoái bất đối xứng trên các chỉ số giá chứng khoán của 33
ngành công nghiệp tại Nhật Bản. Tuy nhiên, dựa trên phân tích tương quan (nghĩa là
tương quan giữa các diễn biến tích cực và tiêu cực), các tác giả cho rằng chỉ các ngành
công nghiệp dược phẩm, bất động sản và vận tải hàng không thể hiện mối tương quan
bất đối xứng; và do đó nhạy cảm bất đối xứng. Trong khi mở rộng phạm vi, các nghiên
cứu này không thể điều tra hiệu ứng (nhạy cảm) tỷ giá hối đoái bất đối xứng ngắn
25
hạn và dài hạn. Để giải quyết sự bất cân xứng ngắn hạn và dài hạn trong mối quan hệ
giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái, các nghiên cứu gần đây đã sử dụng khung ARDL
phi tuyến (NARDL) cho mô hình đồng liên kết bất đối xứng và mô hình sai số hiệu
chỉnh của Shin, Yu và Greenwood–Nimmo (2014). Bahmani–Oskooee và Saha
(2015) điều tra tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đoái lên giá chứng khoán, sử dụng
dữ liệu của Mỹ trong khuôn khổ đa biến, bao gồm các yếu tố quyết định giá chứng
khoán khác như mức độ hoạt động kinh tế, mức giá và cung tiền. Các tác giả tìm thấy
sự hỗ trợ thực nghiệm cho sự bất cân xứng trong trường hợp thay đổi tỷ giá hối đoái
lên giá chứng khoán. Tương tự, Bahmani–Oskooee và Saha (2016) mở rộng phân tích
tương tự cho 11 quốc gia và tìm thấy bằng chứng cho thấy sự thay đổi tỷ giá tác động
bất cân xứng lên giá chứng khoán, mặc dù các hiệu ứng chủ yếu là ngắn hạn. Cuetas
và Tang (2017) điều tra nhạy cảm tỷ giá hối đoái bất đối xứng của 31 ngành công
nghiệp Trung Quốc, sử dụng cả dữ liệu hàng tháng từ tháng 8 năm 2006 đến tháng
12 năm 2015 và khung phân tích NARDL. Các tác giả tìm thấy sự nhạy cảm tỷ giá
hối đoái không đối xứng đối với một số ngành không xuất khẩu (non–exporting
industry), có thể bắt nguồn từ tỷ lệ đầu vào nhập khẩu cao. Ngoài ra, lợi nhuận của
ngành công nghiệp biểu hiện hiệu ứng nhạy cảm trễ và có sự điều chỉnh nhanh chóng
về trạng thái cân bằng mới trong một khoảng thời gian ngắn (khoảng vài tháng), làm
cho nhạy cảm tỷ giá đối xứng dài hạn hoặc rất nhỏ. Cheah, Yiew và Ng (2017) phân
tích tỷ giá hối đoái ở Malaysia bằng dữ liệu hàng tháng từ tháng 1 năm 1993 đến
tháng 12 năm 2015. Các tác giả tìm thấy hiệu ứng ngắn hạn và dài hạn đáng kể của
tỷ giá hối đoái lên giá chứng khoán. Mối quan hệ này không đối xứng với giá chứng
khoán phản ứng với sự mất giá của tiền tệ nhưng không với sự tăng giá của tiền tệ.
Nghiên cứu gần đây của Bahmani–Oskooee và Saha (2018) điều tra sự bất cân
xứng trong mối quan hệ hai bên giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái của 24 quốc
gia. Nghiên cứu cho rằng trong ngắn hạn, những thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác
động bất cân xứng lên giá chứng khoán. Hiệu ứng bất đối xứng này cũng được quan
sát trong mối quan hệ phản hồi ngược từ thay đổi giá chứng khoán đến tỷ giá hối đoái.
Trong dài hạn, những thay đổi về tỷ giá hối đoái chỉ tác động bất cân xứng lên giá
26
chứng khoán ở Canada và Malaysia, trong khi những thay đổi về giá chứng khoán chỉ
tác động bất cân xứng lên tỷ giá ở Brazil, Chile, Đức và Singapore. Effiong và Bassey
(2018) nghiên cứu tác động bất đối xứng của thay đổi tỷ giá hối đoái lên giá chứng
khoán ở Nigeria. Sử dụng khung phân tích ARDL phi tuyến và dữ liệu hàng tháng từ
tháng 1/2000 đến tháng 12/2016. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được tách thành hai cấu
thành đại diện sự định giá thấp và định giá cao thông qua quá trình phân tách tổng
từng phần. Sự bất đối xứng được kiểm tra cả trong mối quan hệ dài hạn và cơ chế sai
số hiệu chỉnh ngắn hạn. Kết quả cho thấy tác động của thay đổi tỷ giá lên giá chứng
khoán là không đối xứng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Theo đó, giá chứng khoán
phản ứng với mức độ khác nhau trước sự mất giá và tăng giá tiền tệ. Tuy nhiên, mất
giá tiền tệ có tác động mạnh mẽ lên giá chứng khoán hơn so với sự tăng giá trong dài
hạn. Trong trường hợp bỏ qua tính chất bất cân xứng tiềm ẩn, tỷ giá chỉ có tác động
ngắn hạn lên giá chứng khoán. Điều đó cho thấy giả định đối xứng chưa đánh giá
toàn diện tác động của thay đổi tỷ giá lên giá chứng khoán ở Nigeria (Effiong và
Bassey, 2018).
Tóm lại, từ các nghiên cứu trên, có thể nhận thấy, giả định tuyến tính trong mối
quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái là một giả định chưa chặt chẽ, vì
phản ứng của giá chứng khoán trước các thay đổi của tỷ giá hối đoái (tăng giá hay
mất giá) có thể khác nhau cả về hướng lẫn mức độ. Nói cách khác, mối quan hệ giữa
tỷ giá và giá chứng khoán có thể là bất đối xứng (phi tuyến). Các nghiên cứu tại Việt
Nam dù đặt trong khuôn khổ mô hình đa biến hay song biến, vẫn chưa kết luận (khẳng
định) rõ mối quan hệ dài hạn đáng kể giữa hai thị trường. Các nghiên cứu dù đã cố
gắng chỉ ra một vài dấu hiệu hoặc bằng chứng về tác động của tỷ giá lên giá chứng
khoán trong ngắn hạn và dài hạn, nhưng vẫn đều dựa trên giả định tính đối xứng trong
mối quan hệ giữa hai biến. Cách thực hiện trên không nắm bắt toàn diện tác động của
tỷ giá lên giá chứng khoán (Effiong và Bassey, 2018). Xuất phát từ lỗ hổng nghiên
cứu trên, tác giả tiến hành đánh giá mối quan hệ giữa tỷ giá và giá chứng khoán tại
thị trường Việt Nam trong khuôn khổ mô hình tuyến tính (ARDL) lẫn phi tuyến
27
(NARDL) nhằm trả lời cho câu hỏi về sự hiện diện của hiệu ứng bất đối xứng trong
mối quan hệ giữa thay đổi tỷ giá và giá chứng khoán tại Việt Nam.
28
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu
3.1.1. Mô hình ARDL tuyến tính
Nhiều nghiên cứu đề xuất việc thực nghiệm dựa trên dữ liệu chuỗi thời gian với
giả định rằng chuỗi thời gian cơ sở nên là dừng (stationary); nếu một chuỗi thời gian
không dừng (nonstationary), hồi quy giả mạo có thể xảy ra. Vì vậy, thông thường,
chúng ta sử dụng sai phân bậc nhất để khắc phục vấn đề này. Nhưng, việc sử dụng
sai phân bậc nhất sẽ loại bỏ thông tin dài hạn khỏi bộ dữ liệu, và chỉ cung cấp thông
tin ngắn hạn. Để giải quyết vấn đề như vậy, giới nghiên cứu kinh tế đề xuất việc kiểm
định nhằm xác định xem liệu có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến trong mô
hình hay không. Rất nhiều kỹ thuật khả dụng để kiểm định sự tồn tại của các mối
quan hệ cân bằng dài hạn tại bậc gốc (level) giữa các biến. Chủ yếu, các phân tích
này được dựa trên việc sử dụng các kỹ thuật đồng liên kết. Các kỹ thuật phổ biến có
thể nhắc tới là quy trình hai bước dựa trên phần dư (two-step residual-based
procedure) để kiểm tra giả thiết không (không có đồng liên kết) của Engle-Granger
(1987), các kiểm định của Johansen và Juselius (1990), phương pháp đồng liên kết
hợp lý cực đại của Johansen (1995).
Tuy nhiên, các kỹ thuật trên lại yêu cầu các biến cơ sở liên kết với nhau tại bậc
một. Ngoài ra, những kỹ thuật này cũng có một số hạn chế, ví dụ, nếu nghiên cứu có
cỡ mẫu nhỏ, kiểm định Engle-Granger (1987), Johansen (1988) và Juselius (1990) lại
không đáng tin cậy. Điều quan trọng, Kremers và cộng sự (1992) cũng cung cấp bằng
chứng thực nghiệm cho thấy với các mẫu quan sát nhỏ, không có quan hệ đồng liên
kết nào có thể được thiết lập giữa các biến nếu chúng liên kết tại bậc nhất, tức I(1).
Ngoài ra, Hakkio và Rush (1991) chứng minh rằng chỉ cần tăng độ dài khoảng thời
gian lên sẽ có thể cải thiện sự mạnh mẽ kết quả trong phân tích đồng liên kết. Vì vậy,
để tránh những vấn đề trên, trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng cách tiếp cận khác
để kiểm tra sự tồn tại của mối quan hệ giữa các biến tại bậc gốc. Kỹ thuật này được
khái quát hóa bởi Pesaran và Pesaran (1997), Pesaran và Smith (1998), Pesaran và
29
Shin (1999) và Pesaran và cộng sự (2001). Kỹ thuật này được biết với tên gọi tự hồi
quy phân phối trễ (ARDL). Mô hình ARDL thích hợp hơn các phương pháp đồng
liên kết khác. Lý do đầu tiên là mô hình không yêu cầu các tiền-kiểm định dữ liệu
(pre-testing variable), điều đó có nghĩa là kiểm định về sự tồn tại của mối quan hệ
giữa các biến ở bậc gốc có thể được áp dụng bất kể liệu các biến cơ sở hoàn toàn là
I(0), hoàn toàn là I(1) hay hỗn hợp giữa chúng (Pesaran và Pesaran, 1997). Hơn nữa,
mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM) có thể được suy ra từ mô hình ARDL bằng cách
chuyển đổi tuyến tính đơn giản (Banerjee và cộng sự, 1993). Mô hình ECM liên kết
các điều chỉnh ngắn hạn với trạng thái cân bằng dài hạn mà không làm mất thông tin
dài hạn. Một lý do khác là các thuộc tính mẫu nhỏ của phương pháp ARDL mạnh mẽ
hơn và vận hành tốt hơn so với phương pháp đồng liên kết của Johansen và Juselius
(Pesaran và Shin, 1999).
Để nghiên cứu vai trò của tính chất bất đối xứng trong tác động của thay đổi tỷ
giá hối đoái lên giá chứng khoán tại Việt Nam, tác giả dựa theo mô hình đa biến xác
định giá chứng khoán, được sử dụng trong nhiều nghiên cứu trước đây (xem
Bahmani–Oskooee và Saha 2015, 2016), trong đó, đề cập hiệu ứng của các biến số
kinh tế vĩ mô khác ngoài tỷ giá hối đoái:
(1) spt = β0 + β1ert + β2cpt + β3m2t + εt,
trong đó, εt là phần dư; βi là các tham số dài hạn; spt là chỉ số giá chứng khoán; ert
là tỷ giá hối đoái; cpt là chỉ số giá tiêu dùng được đo lường bằng tổng mức giá; và
m2t là thước đo của cung tiền danh nghĩa. Tất cả các biến đều được biểu diễn dưới
dạng logarite tự nhiên. Dựa theo mô hình định hướng dòng chảy của tỷ giá hối đoái,
hệ số của β1 có thể dương hoặc âm tùy thuộc vào việc định giá thấp nội tệ dẫn đến
thu nhập xuất khẩu cao hơn hay là làm tăng chi phí sản xuất.
30
Bảng 3.1 Mô tả biến số nghiên cứu.
Biến Khái niệm Mô tả Nguồn Kỳ vọng dấu
sp HOSE Chỉ số VN– Index
er Tỷ giá NEER +/– Datastream
cp Chỉ số CPI +/– IFS
Ghi chú: HOSE: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh; IFS: Thống kê tài chính quốc tế.
m2 Logarit tự nhiên giá chứng khoán Logarit tự nhiên tỷ giá hối đoái Logarit tự nhiên chỉ số giá tiêu dùng Logarit tự nhiên cung tiền Cung tiền M2 +/– IFS
Tương tự, tác động của mức giá tiêu dùng (hoặc lạm phát) có thể là tiêu cực
hoặc tích cực. Fama (1981) đưa ra giả thuyết về mối quan hệ tiêu cực: lạm phát làm
tăng giá đầu vào và chi phí sản xuất, từ đó làm giảm lợi nhuận biên và giá cổ phiếu.
Ngược lại, các chứng khoán vốn dự kiến sẽ đóng vai trò là một công cụ phòng ngừa
lạm phát, do đó giá chứng khoán và lạm phát đi theo cùng một hướng trong dài hạn.
Do đó, các nghiên cứu đã lập luận về mối quan hệ ngắn hạn ngược chiều và dài hạn
cùng chiều giữa giá chứng khoán và lạm phát (tham khảo Anari và Kolari, 2001). Đối
với mối quan hệ giữa cung tiền và giá chứng khoán, các tác động tích cực và tiêu cực
được xác nhận trong nhiều nghiên cứu. Hiệu ứng tích cực tồn tại khi sự gia tăng cung
tiền dẫn đến giảm lãi suất, điều này kích thích sự gia tăng đầu tư trong nước, tổng sản
lượng và giá chứng khoán, trong khi hiệu ứng tiêu cực có thể suy ra từ lập luận của
Fama về việc cung tiền có thể dẫn đến áp lực lạm phát lên nền kinh tế.
Phương trình (1) trình bày phương trình đồng liên kết dài hạn với các hệ số nắm
bắt hiệu ứng dài hạn của từng biến giải thích. Chuyển phương trình (1) sang dạng sai
số hiệu chỉnh, trong đó thay đổi của biến spt (cụ thể là lợi nhuận chứng khoán, xác
định bởi ∆spt = spt − spt−1) có liên quan tới sự mất cân bằng trong chu kỳ cuối
cùng, và các biến đổi gây ra bởi các thay đổi trong biến giải thích thu được:
p
′∆spt−i
31
i=1
∆spt = λ0 + λ1spt−1 + λ2ert−1 + λ3cpt−1 + λ4m2t−1 + ∑ θi
q
′∆ert−i
′∆cpt−i
′∆m2t−i
(2)
r + ∑ δi i=0
s + ∑ ϑi i=0
+ μt, + ∑ γi i=0
trong đó, μt là nhiễu trắng. Phương trình (2) chính là mô hình ARDL của Pesaran và
cộng sự (2001), trong đó kết hợp cả mối quan hệ dài hạn lẫn ngắn hạn của các biến
số nghiên cứu. Các hiệu ứng ngắn hạn được xác định dựa theo các hệ số ước lượng
đứng trước các biến sai phân bậc nhất, trong khi hiệu ứng dài hạn thu được từ các hệ
số λ2, λ3, λ4 chuẩn hóa trên λ1. Nhằm kiểm chứng mối quan hệ dài hạn giữa các biến
số, tác giả tiến hành kiểm định đồng liên kết dựa trên kiểm định F, với giả thiết như
sau:
H0: λ1 = λ2 = λ3 = λ4 = 0 (không có quan hệ dài hạn) và
H1: λ1 ≠ λ2 ≠ λ3 ≠ λ4 ≠ 0 (có quan hệ dài hạn)
Pesaran và cộng sự (2001) cung cấp hai thiết lập giá trị tới hạn. Giá trị giới hạn
trên (upper bound) thu được bằng cách giả định tất cả các biến là I(1) và giá trị giới
hạn dưới (lower bound) thu được bằng cách giả định tất cả các biến là I(0). Nếu giá
trị thống kê F được tính toán lớn hơn giá trị giới hạn trên, ta bác bỏ giả thiết không,
tức có sự tồn tại đồng liên kết giữa các biến.
3.1.2. Mô hình ARDL phi tuyến
Việc thiết lập mô hình ARDL ở trên giả định hiệu ứng đối xứng tuyến tính của
các biến giải thích lên các biến phụ thuộc. Trong trường hợp xét đến thay đổi tỷ giá
hối đoái, giá chứng khoán phản ứng đối xứng với những thay đổi của đồng nội tệ.
Nói cách khác, sự mất giá và tăng giá tiền tệ ảnh hưởng đến giá chứng khoán với
cùng độ lớn nhưng theo hướng ngược nhau. Tuy nhiên, như đã đề cập, thay đổi tỷ giá
hối đoái có thể gây ra những thay đổi bất đối xứng lên giá chứng khoán cả trong dài
hạn lẫn ngắn hạn, có thể là cùng chiều hoặc ngược chiều (nghĩa là trên hoặc dưới mối
quan hệ cân bằng). Như Shin và cộng sự (2014) đã trình bày, biểu diễn ARDL của
32
phương trình (2) là một tổ hợp tuyến tính đối xứng của các hồi quy ngẫu nhiên, điều
đó có thể quá hạn chế để tính đến tính chất bất đối xứng và phi tuyến trong các mối
quan hệ kinh tế. Do đó, các tác giả đã cải tiến mô hình truyền thống bằng giải pháp
thay thế: mô hình NARDL, cho phép tính chất không đối xứng trong mối quan hệ
đồng liên kết dài hạn và cơ chế sai số hiệu chỉnh ngắn hạn. Đặc biệt, mô hình NARDL
giữ nguyên các ưu điểm sẵn có của phương pháp ARDL. Dựa theo Shin và cộng sự
(2014), để kiểm chứng mối quan hệ đồng liên kết bất đối xứng, cũng như xem xét
hiệu ứng bất đối xứng của thay đổi tỷ giá lên giá chứng khoán, biến ert được tác thành
−,
+ + ert
các thành phần tích lũy riêng lẻ: dương và âm như sau:
− lần lượt là các thay đổi dương (phản ánh sự định giá cao) và âm
+ và ert
ert = er0 + ert
trong đó, ert
(phản ánh sự định giá thấp) của đồng VND, er0 phản ánh sự không đổi của đồng
t
VND. Các biến cấu thành dương và âm thu được từ quá trình cộng dồn sau:
t + + = ∑ ∆erj j=1
j=1
t
, (3) = ∑ max(∆erj, 0) ert
t − − = ∑ ∆erj j=1
j=1
−). Kết hợp các phương trình (3) và
, (4) ert = ∑ min(∆erj, 0)
Mô hình mới bây giờ sẽ trở thành mô hình phi tuyến (định nghĩa phi tuyến xuất + và ert phát từ các xây dựng của 2 biến mới ert
(4) và phương trình (1), ta thu được phương trình phi tuyến (5) xác định trong dài
hạn:
−ert
− + β2cpt + β3m2t + εt,
+ert
+ + β1
(5) spt = β0 + β1
và mô hình sai số hiệu chỉnh:
− + λ3cpt−1 + λ4m2t−1
33
−ert−1
+ert−1
+ + λ2 q
p
′∆spt−i
+ + γi
− ) −′∆ert−i
+′∆ert−i
∆spt = λ0 + λ1spt−1 + λ2
′∆cpt−i
′∆m2t−i
(6) + ∑(γi i=0 + ∑ θi i=1
s + ∑ ϑi i=0
r + ∑ δi i=0
+ μt,
+′ và γi
trong đó, tất cả các biến đã được xác định từ trước. Ước lượng dài hạn của mỗi cấu +/λ1 cho sự tăng giá, và β− = −λ2 −/λ1 thành trong tỷ giá hối đoái lần lượt là β+ = −λ2 −′ tương ứng là các ước lượng ngắn hạn của
cho sự giảm giá; trong khi đó, γi sự tăng giá và giảm giá. Do đó, phương trình (6) cho phép mối quan hệ dài hạn giữa
giá chứng khoán với các cấu thành dương và âm của tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, mô
hình còn cho phép sự hiện diện của tính chất bất đối xứng cả trong ngắn hạn và dài
hạn, hoặc chỉ trong ngắn hạn, hoặc chỉ trong dài hạn. Tương tự phương trình (2), tức
mô hình ARDL truyền thống, phương trình (6) cho phép kiểm định mối quan hệ dài
hạn bất đối xứng giữa các biến thông qua kiểm định thống kê F, liên kết hệ số dài hạn
− = λ3 = λ4 = 0 (không có quan hệ dài hạn) và
của các biến trễ thứ nhất:
+ = λ2
− ≠ λ3 ≠ λ4 ≠ 0 (có quan hệ dài hạn)
H0: λ1 = λ2
+ ≠ λ2
H1: λ1 ≠ λ2
Shin và cộng sự (2014) khẳng định rằng phương pháp ARDL của Pesaran và
cộng sự (2001) có thể được áp dụng cho mô hình phi tuyến trong phương trình (6),
do đó, các tiêu chuẩn kiểm định F thông thường của Pesaran và cộng sự (2001) cũng
có thể được áp dụng.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nhằm mục địch đánh giá mối quan hệ bất đối xứng giữa thay đổi tỷ giá và giá
chứng khoán tại thị trường Việt Nam, nghiên cứu sử dụng mô hình đa biến, chứa các
biến gồm chỉ số giá chứng khoán VN–Index, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
(NEER), cung tiền M2 và lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng). Dữ liệu theo tháng trong
34
giai đoạn tháng 1/2001–5/2018 được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, gồm Sở
Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE), Datastream và Thống kê tài chính quốc
tế (International Financial Statistics – IFS).
Bảng 3.2 Thống kê mô tả. Biến số Trung bình Trung vị Lớn nhất Nhỏ nhất Độ lệch chuẩn
6,05898 4,71388 4,50726 7,32610 6,16476 4,68413 4,52742 7,51877 7,04415 5,11823 5,07835 9,03011 4,90711 4,45244 3,86367 5,33936 0,51403 0,20850 0,43071 1,14077
sp er cp m2 Nguồn : Tính toán của tác giả.
Trong đó, dữ liệu chỉ số VN–Index theo tháng được tính toán bằng cách lấy
trung bình chỉ số VN–Index đóng cửa cuối mỗi ngày giao dịch trong tháng. Toàn bộ
các biến đều được chuyển về dạng logarite tự nhiên cho mục đích phân tích. Bên cạnh
đó, tác giả thiết lập biến giả nhị phân brk nhằm nắm bắt hệ quả từ cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008. Dựa theo cách xác định thời điểm khởi đầu và kết thúc
khủng hoảng của Luchtenberga và Quang (2015), biến giả brk nhận giá trị 1 trong
giai đoạn tháng 08/2007–03/2009 và nhận giá trị 0 trong các thời điểm còn lại. Thống
kê mô tả và xu hướng các biến số được trình bày tại Bảng 3.2 và Hình 3.1. Kết quả
Bảng 3.2 cho thấy giá trị trung bình của biến lạm phát và cung tiền lần lượt đạt giá trị
nhỏ nhất (4,71) và lớn nhất (7,32). Biến cung tiền thể hiện sự biến động cao, khi độ
lệch chuẩn tương đối cao (1,14). Trong khi đó, biến tỷ giá lại thể hiện sự biến động
thấp nhất. Biểu đồ 3.1 cho thấy giá chứng khoán biến động tăng giảm theo thời gian,
một đặc điểm chung của biến giá cả tài sản tài chính. Trong khi đó, biến cung tiền và
lạm phát đều hướng lên, thể hiện sự gia tăng lạm phát cũng như xu hướng mở rộng
cung tiền của nền kinh tế theo thời gian.
Nguồn: Phân tích của tác giả.
35
Hình 3.1. Xu hướng của các biến số.
36
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Kiểm định tính dừng
Mặc dù, mô hình ARDL truyền thống hay phiên bản NARDL không yêu cầu
thực hiện kiểm định tính dừng nhằm kiểm tra xem liệu các biến có dừng cùng bậc
hay không, vì cả hai mô hình đều áp dụng được cho dữ liệu I(0), I(1) hay hỗn hợp
giữa chúng. Tuy nhiên, trước khi tiến hành ước lượng các mô hình ARDL lẫn
NARDL cũng như kiểm chứng quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa các biến số, tác giả
thực hiện hai kiểm định tính dừng phổ biến, gồm ADF (Augmented Dickey–Fuller)
và PP (Philips–Perron) nhằm tránh sự hiện diện của các biến số dừng tại sai phân bậc
hai, tức I(2); vì nếu trường hợp này xảy ra, thống kê F sẽ trở nên vô nghĩa (Nkoro và
Uko, 2016). Kết quả tại Bảng 4.1 chỉ ra toàn bộ các biến số cùng dừng tại bậc nhất –
I(1); và do đó, không biến số nào dừng tại bậc hai. Do đó, chúng ta hoàn toàn có thể
hồi quy mô hình ARDL và NARDL.
Bảng 4.1 Kiểm định tính dừng.
Bậc gốc Sai phân bậc nhất Biến số
sp
er
cp
Ghi chú: *** biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
m2 ADF –1,8331 (0,3637) –1,3809 (0,5911) –0,6749 (0,8493) –2,2238 (0,1985) PP –1,4239 (0,5700) –1,3940 (0,5848) –0,6456 (0,8563) –1,8959 (0,3338) ADF –8,9126*** (0,0000) –14,103*** (0,0000) –7,5405*** (0,0000) –12,339*** (0,0000) PP –8,5014*** (0,0000) –14,099*** (0,0000) –7,7543*** (0,0000) –12,561*** (0,0000)
4.2. Kiểm định đồng liên kết tuyến tính và phi tuyến
Sau khi kiểm định tính dừng, tác giả tiến hành hồi quy cùng lúc mô hình ARDL
lẫn NARDL. Do dữ liệu theo tháng tương đối dài, tác giả áp đặt độ trễ tối đa cho các
biến giải thích là 6, độ trễ tối ưu của từng biến được xác định dựa theo tiêu chuẩn
37
AIC. Trước khi tiến hành phân tích kết quả mô hình, tác giả tiến hành thực hiện kiểm
định đồng liên kết (quan hệ dài hạn) giữa các biến số. Kiểm định đồng liên kết là
kiểm định thống kê F dựa vào hệ số dài hạn của các biến trễ bậc nhất trong phương
trình (2) – đối với kiểm định đồng liên kết đối xứng, và phương trình (6) – đối với
kiểm định đồng liên kết bất đối xứng.
Bảng 4.2 Kết quả kiểm định đồng liên kết.
Đường bao (dưới – trên) tại mức ý nghĩa Mô hình Thống kê F Kết luận 10% 5% 1%
ARDL 2,3088 (k=3) 2,37 – 3,2 2,79 – 3,67 3,65 – 4,66 Không có (4,3,3,2)
Ghi chú: ** biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 5%; k là số biến ngoại sinh trong mô hình. Nguồn: Tính toán của tác giả.
NARDL 4,0361 (k=4)** 2,2 – 3,09 2,56 – 3,49 3,29 – 4,37 Có (4,5,2,0,2)
Kết quả Bảng 4.2 chỉ ra, giá trị thống kê F thu được từ phương trình ARDL là
2,3088 nhỏ hơn giá trị đường bao dưới tại mức ý nghĩa 10% (2,37). Trong khi đó, giá
trị thống kê F trong mô hình NARDL lại là 4,0361, lớn hơn giá trị tới hạn trên tại
mức ý nghĩa 5% (3,49). Kết quả chỉ ra, giả thiết không (không có quan hệ đồng liên
kết) chỉ có thể bị bác bỏ trong mô hình NARDL. Nói cách khác, trong khuôn khổ mô
hình tuyến tính, không tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến số; tuy nhiên, khi đề
cập tính chất bất đối xứng (phi tuyến), mô hình NARDL xác nhận mối quan hệ đồng
liên kết bất đối xứng. Đây là một phát hiện quan trọng, vì giả định đối xứng chưa
đánh giá toàn diện mối quan hệ giữa giá chứng khoán và các biến xác định của nó,
tương tự khẳng định của Effiong và Bassey (2018).
4.3. Kết quả mô hình ARDL
4.3.1. Kết quả hồi quy ngắn hạn
Trước tiên, tác giả trình bày kết quả ngắn hạn của mô hình ARDL tuyến tính
nhằm xem xét liệu giá chứng khoán có chịu ảnh hưởng của các yếu tố xác định trong
38
ngắn hạn hay không. Đầu tiên, tỷ giá hối đoái có tác động đến giá chứng khoán tại
thị trường Việt Nam, các hệ số của biến sai phân tại bậc trễ thứ nhất (–1,07717) và
thứ hai (1,289346) đều có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tuy nhiên, dấu của các hệ
số này lại không thống nhất, do đó, chưa thể khẳng định hướng ảnh hưởng của tỷ giá
lên giá chứng khoán trong ngắn hạn. Chuyển sang ảnh hưởng của lạm phát, tác giả
chỉ quan sát được duy nhất hệ số của biến sai phân tại bậc trễ thứ hai (1,624223) là
có ý nghĩa thống kê tại mức 5% và mang dấu dương. Điều đó hàm ý, gia tăng mức
giá chung thúc đẩy giá chứng khoán tại Việt Nam trong ngắn hạn, hay nói cách khác,
giá chứng khoán là một công cụ phòng ngừa lạm phát trong ngắn hạn. Tương tự với
ảnh hưởng của lạm phát, gia tăng cung tiền kích thích giá chứng khoán, bằng chứng
là hệ số biến sai phân cung tiền tại bậc trễ thứ nhất (0,585083) dương và có ý nghĩa
thống kê tại mức 10%.
Bảng 4.3 Kết quả ước lượng hệ số ngắn hạn với biến phụ thuộc là ∆sp.
Biến hồi quy Hệ số Sai số chuẩn Tỷ số t Xác suất
0,477715*** 0,066236 7,212358 0,0000 ∆spt−1
–0,12389* 0,070786 –1,75029 0,0817 ∆spt−2
–0,10446 0,063673 –1,64058 0,1026 ∆spt−3
0,036369 0,374509 0,097111 0,9227 ∆ert
–1,07717*** 0,385289 –2,79576 0,0057 ∆ert−1
1,289346*** 0,394753 3,266212 0,0013 ∆ert−2
–0,57451 0,853560 –0,67307 0,5017 ∆cpt
–0,39429 0,858644 –0,45920 0,6466 ∆cpt−1
1,624223** 0,765989 2,120426 0,0353 ∆cpt−2
0,257404 0,292217 0,880867 0,3795 ∆m2t
0,585083* 0,308800 1,894695 0,0597 ∆m2t−1
–0,12642** 0,051245 –2,46711 0,0145 ∆brk
0,0000 –0,04529*** 0,010178 –4,45006
ECTt−1 Ghi chú: ***, ** và * lần lượt biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
39
Cuối cùng, từ hệ số biến trễ nhị phân brk, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
2007-2009 mang lại nhiều hệ lụy tiêu cực lên thị trường chứng khoán Việt Nam trong
ngắn hạn, khi hệ số của biến giả mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê tại mức 5%.
Đây là một phát hiện quan trọng, vì các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, đề cập
đến thị trường chứng khoán, như Huỳnh Thế Nguyễn và Nguyễn Quyết (2013), Lê
Hoàng Phong và Đặng Thị Bạch Vân (2015) và Trần Ngọc Thơ và Hồ Thị Lam
(2015), chưa đề cập hoặc chứng minh được tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng
tài chính gây ra. Hệ số sai số hiệu chỉnh (ECT) mang dấu âm (–0,04529) và có ý
nghĩa thống kê tại mức 1%. Hệ số này cho biết sau cú sốc hệ thống, giá chứng khoán
trở về trạng thái cân bằng với tốc độ 4,529% mỗi tháng.
4.3.2. Kết quả hồi quy dài hạn
Chuyển sang kết quả hồi quy dài hạn thu được từ mô hình tuyến tính. Như đã
trình bày trong phần 4.2, kết quả kiểm định đường bao (kiểm định F) không thể bác
bỏ giả thiết không (không có quan hệ đồng liên kết), nói cách khác, không tồn tại mối
quan hệ dài hạn giữa giá chứng khoán và các yếu tố xác định của nó. Kết quả Bảng
4.5 cũng xác nhận một phần khi hệ số biến tỷ giá không có ý nghĩa thống kê. Nói
cách khác, tỷ giá chỉ ảnh hưởng đến giá chứng khoán trong ngắn hạn, nhưng không
trong dài hạn. Tuy vậy, tác giả vẫn tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về tác động tiêu
cực và tích cực đáng kể lần lượt của lạm phát và cung tiền lên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Các kết quả sẽ được khẳng định rõ trong phần tiếp theo, khi phân tích các
kết quả từ khung phi tuyến - NARDL, nơi phát hiện mối quan hệ bất đối xứng dài
hạn giữa các biến số.
40
Bảng 4.4 Kết quả ước lượng hệ số dài hạn của mô hình ARDL(4,3,3,2).
Biến hồi quy Hệ số Sai số chuẩn Tỷ số t Xác suất
er –0,09846 2,646434 –0,03720 0,9704
cp –6,52381** 3,293863 –1,98059 0,0491
m2 2,832467*** 1,023770 2,766702 0,0062
brk –1,31407 0,818258 –1,60594 0,1100
Ghi chú: *** và ** lần lượt biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1% và 5%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
0,4589 Hằng số 14,98622 20,19358 0,742128
Trước khi kết thúc phần 4.3, tác giả thực hiện các kiểm định nhằm xem xét tính
phù hợp của mô hình hồi quy. Các kiểm định chẩn đoán của mô hình gồm kiểm định
tương quan chuỗi, phương sai thay đổi, dạng hàm và phân phối chuẩn. Từ Bảng 4.6,
mô hình tuyến tính vi phạm 2 kiểm định là phương sai thay đổi và phân phối chuẩn,
khi các giá trị thống kê đều bác bỏ giả thiết không tại mức ý nghĩa 1%.
Bảng 4.5 Kiểm định chẩn đoán.
Kiểm định Giá trị thống kê Xác suất
Tương quan chuỗi (Serial correlation LM) 1,336895 0,2652
Phương sai sai số thay đổi (Heteroskedasticity) 3,363420*** 0,0000
Phân phối chuẩn (Normality test) 30,30401*** 0,0000
Ghi chú: *** biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
Dạng hàm (Functional Form) 1,063117 0,2891
4.4. Kết quả mô hình NARDL
4.4.1. Kết quả hồi quy ngắn hạn
Tương tự cách trình bày kết quả mô hình ARDL, trong phần này, tác giả xuất
phát từ các kết quả hồi quy ngắn hạn. Với việc tách biến tỷ giá hối đoái thành các cấu
thành dương (đại diện sự tăng giá tiền tệ) và cấu thành âm (sự giảm giá tiền tệ), do
đó, mô hình bây giờ chứa 4 biến ngoại sinh, thay vì 3 biến trong mô hình tuyến tính.
41
Thứ nhất, thay đổi tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trong ngắn hạn,
tương tự kết quả trong khung tuyến tính. Các biến sai phân của cấu thành dương và
âm đều có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5%, ngoại trừ hệ số biến sai phân cấu
thành dương tại bậc trễ thứ nhất. Tuy nhiên, dấu của các hệ số vẫn chưa thống nhất.
Do đó, tác giả chưa thể khẳng định mối quan hệ giữa sự tăng giá (mất giá) tiền tệ với
giá chứng khoán trong ngắn hạn. Tuy nhiên, khác với mô hình ARDL, kết quả mô
hình NARDL lại không cho thấy mối quan hệ ngắn hạn đáng kể nào giữa lạm phát
và giá chứng khoán, nhưng xác nhận được mối quan hệ cùng chiều giữa cung tiền
M2 danh nghĩa và giá chứng khoán. Minh chứng là hệ số biến sai phân lạm phát
không có ý nghĩa thống kê, nhưng của cung tiền lại có ý nghĩa tại mức 5%.
Bảng 4.6 Kết quả ước lượng hệ số ngắn hạn với biến phụ thuộc là ∆sp.
Biến hồi quy Hệ số Sai số chuẩn Tỷ số t Xác suất
0,392754*** 0,064244 6,113422 0,0000 ∆spt−1
–0,11382 0,069574 –1,63601 0,1035 ∆spt−2
–0,14413** 0,061467 –2,34491 0,0201
–1,84732** 0,717827 –2,57349 0,0109
–0,65568 0,697373 –0,94021 0,3483
1,502600** 0,680018 2,209647 0,0284
–1,57044** 0,670585 –2,34191 0,0203
–1,40783** 0,658408 –2,13824 0,0338
1,071730** 0,530512 2,020179 0,0448 ∆spt−3 + ∆ert + ∆ert−1 + ∆ert−2 + ∆ert−3 + ∆ert−4 − ∆ert
–1,88516*** 0,557804 –3,37961 0,0009
− ∆ert−1 ∆cpt
–0,79497 0,607614 –1,30835 0,1924
0,466406 0,286364 1,628719 0,1051 ∆m2t
0,762192** 0,310228 2,456877 0,0149 ∆m2t−1
–0,13394*** 0,047645 –2,81130 0,0055 ∆brk
0,0000 –0,07407*** 0,013703 –5,40606
ECTt−1 Ghi chú: ***, ** và * lần lượt biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
42
Ngoài ra, biến trễ brk vẫn có ý nghĩa thống kê tại mức 1% và mang dấu âm, một
lần nữa, khẳng định tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến
thị trường chứng khoán Việt Nam. Hệ số sai số hiệu chỉnh mang dấu âm và có ý nghĩa
tại mức 1%, ủng hộ lập luận về mối quan hệ giữa giá chứng với các yếu tố xác định
trong dài hạn. Mặt khác, hệ số này cao hơn trong mô hình tuyến tính, cho thấy tốc độ
trở về trạng thái cân bằng dài hạn của biến giá chứng khoán nhanh hơn trong khung
phi tuyến.
4.4.2. Kết quả hồi quy dài hạn
Khác với khung tuyến tính, khi đề cập tính chất bất đối xứng trong mối quan hệ
giữa tỷ giá và giá chứng khoán, kiểm định F đã bác bỏ giả thiết không của kiểm định
đồng liên kết, đồng nghĩa xác nhận mối quan hệ dài hạn giữa giá chứng khoán và các
biến xác định. Kết quả dài hạn tại Bảng 4.8 xác nhận điều này, khi toàn bộ các biến
số đều có ý nghĩa thống kê. Các cấu thành dương và âm của tỷ giá đều có ý nghĩa. Cụ
thể, hệ số dài hạn của cấu thành dương (er+) mang dấu âm và có ý nghĩa tại mức 1%,
hàm ý khi đồng VND tăng giá 1% sẽ làm giá chứng khoán giảm 8,03233% trong dài
hạn. Tương tự, từ hệ số cấu thành âm (er−), khi đồng VND mất giá 1% sẽ làm giá
chứng khoán giảm 3,729617%. Tóm lại, thay đổi tỷ giá hối đoái, dù tăng hay giảm,
đều làm giảm giá chứng khoán tại Việt Nam trong dài hạn và mức độ tác động của
sự tăng giá tiền tệ sẽ mạnh hơn so với sự giảm giá tiền tệ. Đây là một kết quả thú vị,
vì mô hình tuyến tính với giả định đối xứng trong mối quan hệ giữa tỷ giá và giá
chứng khoán sẽ cho rằng, sự tăng giá hay giảm giá tiền tệ sẽ tác động lên giá chứng
khoán với cùng mức độ và hướng ngược nhau.
43
Bảng 4.7 Kết quả ước lượng hệ số dài hạn của mô hình NARDL(4,5,2,0,2).
Biến hồi quy Hệ số Sai số chuẩn Tỷ số t Xác suất
–8,03233*** 2,657496 –3,02252 0,0029 er+
3,729617** 1,877800 1,986163 0,0485 er−
cp –2,92529* 1,706197 –1,71451 0,0881
m2 4,332620*** 0,843183 5,138410 0,0000
brk –1,06671*** 0,402264 –2,65178 0,0087
Ghi chú: ***, ** và * lần lượt biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
0,3444 Hằng số –6,54320 6,902511 –0,94794
Tương tự khung tuyến tính, hệ số dài hạn của biến lạm phát và cung tiền lần
lượt là âm và dương, tức không thay đổi, hay hướng tác động của hai biến số lên giá
chứng khoán là không thay đổi trong khung tuyến tính hay phi tuyến. Do đó, tác giả
hoàn toàn khẳng định được mối quan hệ cùng chiều giữa cung tiền với giá chứng
khoán và mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và giá chứng khoán. Phát hiện của
tác giả tương tự nghiên cứu trước đây của Lê Hoàng Phong và Đặng Thị Bạch Vân
(2015). Có thể giải thích rằng, mức giá của nền kinh tế tăng, làm tăng chi phí sản
xuất, dẫn đến giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp, và đến lượt làm giảm giá cổ
phiếu. Trong khi đó, mở rộng cung tiền làm giảm lãi suất và khuyến khích hoạt động
đầu tư, thúc đẩy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong dài hạn. Tuy nhiên, khác
với khung tuyến tính, lần này, tác giả quan sát được tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính lên thị trường chứng khoán Việt Nam trong dài hạn lẫn ngắn hạn. Các
hệ số của biến giả brk đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê. Cuối cùng, tác giả
thực hiện các kiểm định chẩn đoán cho mô hình. Một lần nữa, các kiểm định phương
sai thay đổi và phân phối chuẩn đều bị vi phạm, tương tự với kết quả trong khung
tuyến tính.
44
Bảng 4.8 Kiểm định chẩn đoán. Kiểm định Giá trị thống kê Xác suất
Tương quan chuỗi (Serial correlation LM) 1,886557 0,1545
Phương sai sai số thay đổi (Heteroskedasticity) 3,144509*** 0,0000
Phân phối chuẩn (Normality test) 19,26467*** 0,0000
Ghi chú: *** biểu diễn mức ý nghĩa thống kê 1%. Nguồn: Tính toán của tác giả.
Dạng hàm (Functional Form) 0,501945 0,6163
45
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
Nghiên cứu này tìm hiểu vai trò của sự bất cân xứng trong các tác động của thay
đổi tỷ giá hối đoái lên giá chứng khoán ở Việt Nam. Trước đây, các nghiên cứu
thường giả định mối quan hệ đối xứng giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán. Theo
đó, cả sự mất giá và tăng giá tiền tệ đều ảnh hưởng đến giá chứng khoán với cùng độ
lớn nhưng ngược hướng nhau. Hơn nữa, sự đồng liên kết đối xứng chủ yếu là một
hiện tượng ngắn hạn và hầu như không phải là một hiện tượng dài hạn. Nỗ lực điều
tra các tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đoái lên giá chứng khoán là tương đối mới
với sự tập trung đặc biệt vào sự bất cân xứng dài hạn và ngắn hạn. Điều này đã được
khuyến khích bởi sự phát triển của phương pháp NARDL theo đề xuất của Shin và
cộng sự (2014), cho phép mô hình hóa sự bất đối xứng trong mối quan hệ đồng liên
kết dài hạn và cơ chế sai số hiệu chỉnh ngắn hạn.
Sử dụng khung mô hình NARDL với dữ liệu hàng tháng cho nền kinh tế Việt
Nam từ tháng 1/2001 đến tháng 5/2018 gồm chỉ số giá chứng khoán, tỷ giá hối đoái
danh nghĩa đa phương, mức giá tiêu dùng và cung tiền, tác giả ước tính và so sánh
kết quả thực nghiệm cho cả mô hình đối xứng và bất đối xứng. Bằng chứng thực
nghiệm có thể được tóm tắt như sau. Đầu tiên, tồn tại mối quan hệ ngắn hạn nhưng
không phải trong dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán khi giả định tính
đối xứng trong mối quan hệ giữa hai biến số. Thứ hai, thay đổi tỷ giá hối đoái có cả
tác động bất đối xứng ngắn hạn và dài hạn lên giá chứng khoán. Quan trọng hơn, thay
đổi tỷ giá đều tác động tiêu cực lên giá chứng khoán; sự bất cân xứng này rất mạnh
đối với sự tăng giá tiền tệ hơn là sự giảm giá. Thứ ba, cả mức giá (hoặc lạm phát) và
cung tiền đều có tác động lần lượt tiêu cực và tích cực lên thị trường chứng khoán
Việt Nam trong dài hạn ngay cả khi sử dụng khung phân tích tuyến tính lẫn phi tuyến.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, lạm phát chỉ tác động đến giá chứng khoán trong mô hình
tuyến tính.
Cuối cùng, từ các kết quả thu được, thay đổi tỷ giá hối đoái (cả mất giá và tăng
giá tiền tệ) đều ảnh hưởng xấu đến giá chứng khoán, và theo một cách bất đối xứng.
46
Do đó, các nhà hoạch định chính sách nên tính đến tác động tiềm năng khi xây dựng
các chính sách phù hợp để quản lý tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp của Việt Nam,
sự biến động thường xuyên của đồng nội tệ theo quan sát trong những năm qua sẽ
góp phần làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường. Điều này, không nghi ngờ
gì, sẽ tạo thành trở ngại đối với các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Do đó,
đảm bảo sự ổn định của tỷ giá hối đoái là điều tối quan trọng để giảm thiểu rủi ro tỷ
giá hối đoái trên thị trường chứng khoán. Cuối cùng, nghiên cứu trong tương lai có
thể xem xét hiệu ứng phản hồi từ các hoạt động của thị trường chứng khoán bằng
cách điều tra xem liệu thay đổi giá chứng khoán có tác động bất đối xứng lên tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam hay không.
47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alagidedea, P., Panagiotidisb, T., & Zhang, X. (2011). Causal relationship
between stock prices and exchange rates. The Journal of International Trade &
Economic Development, 20(1), 67–86.
Andreou, E., Maria M., & Andreas, S. (2013). Stock and foreign exchange
market linkages in emerging economies. Journal of International Financial
Markets, Institutions and Money, Elsevier, 27(C), 248–268.
Apergis, N., & Rezitis, A. (2001). Asymmetric Cross–Market Volatility
Spillovers: Evidence from Daily Data on Equity and Foreign Exchange Markets.
The Manchester School, 60, 81–96.
Aslam, M.T., & Ramzan, M. (2013). Impact of consumer price index, real
effective exchange rate index, per capita income and discount rate on Pakistan's
stock market index. International Journal of Research in Commerce, Economics
and Management, 3(5), 10–14.
Bahmani–Oskooee, M., & Saha, S. (2015). On the Relation between Stock
Prices and Exchange Rates. A Review Article. J Econ Stud, 42, 707–732.
Bahmani–Oskooee, M., & Saha, S. (2016). Do Exchange Rate Changes have
Symmetric or Asymmetric Effects on Stock Prices? Global Finance Journal,
forthcoming.
Bahmani–Oskooee, M., & Saha, S. (2018). On the Relation Between
Exchange Rates and Stock Prices: A Non–Linear ARDL Approach and Asymmetry
Analysis. Journal of Economics and Finance, 42(1), 112–137.
Bahmani–Oskooee, M., & Sohrabian, A. (1992). Stock prices and the effective
exchange rate of the dollar. Applied Economics, 24(4), 459–464.
48
Bartram, S. M. (2004). Linear and Nonlinear Foreign Exchange Rate
Exposures of German Nonfinancial Corporations. Journal of International Money
and Finance, 23, 673–699.
Basher, S. A., Haug, A. A., & Sadorsky, P. (2012). Oil prices, exchange rates
and emerging stock markets. Energy Economics, 34(1), 227–240.
Branson, W. H. (1993). Macroeconomic Determinants of Real Exchange Risk.
Managing Foreign Exchange Risk, 33–74.
Cheah, S. P., Yiew, T. H. & Ng, C. F. (2017). A Nonlinear ARDL Analysis on
the Relation Between Stock Price and Exchange Rate in Malaysia. Economics
Bulletin, 37(1), 336–346.
Chortareas, G., Cipollini, A., & Eissa, M. A. (2011). Exchange rates and stock
prices in the MENA countries: What role for oil? Review of Development
Economics, 15(4), 758–774.
Cuetas, J. C., & Tang, B. (2017). Asymmetric Exchange Rate Exposure of
Stock Returns: Empirical Evidence from Chinese Industries. Nonlinear Dynamics
and Econometrics, 21(4), 1–21.
Dornbusch, R., & Fischer, S. (1980). Exchange Rates and Current Account.
American Economic Review, 70, 960–971.
Effiong, E. L. (2017). Nonlinear Dependence Between Stock Prices and
Exchange rate in Nigeria. Economics Research, 39, 205–227.
Eita, J. H. (2012). Modelling macroeconomic determinants of stock market
prices: Evidence from Namibia. Journal of Applied Business Research, 871–884.
Fowowe, B. (2015). The Relationship Between Stock Prices and Exchange
Rates in South Africa and Nigeria: Structural Breaks Analysis. International Review
of Applied Economics, 29(1), 1–14.
49
Frankel, J. A. (1983). Monetary and Portfolio Balance Models of Exchange
Rate Determination. Economic Interdependence and Flexible Exchange Rates, 84–
115.
Gavin, M. (1989). The Stock Market and Exchange Rate Dynamics. Journal
of International Money and Finance, 8, 181–200.
Granger, C. W. J., Huang, B. N., & Yang, C. W. (2000). A bivariate causality
between stock prices and exchange rates: Evidence from recent Asian flu. The
Quarterly Review of Economics and Finance, 40(3), 337–354.
Groenewold, N., & Paterson, J. E. H. (2013). Stock prices and exchange rates
in Australia: Are commodity prices the missing link? Australian Economic Papers,
52(3–4), 150–170.
Hakkio, C., & Rush, M. (1991). Cointegration: How short is the long run?.
Journal of International Money and Finance, 10(4), 571–581.
Hsu, C. C., Yau, R., & Wu, J. Y. (2009). Asymmetric Exchange Rate
Exposure and Industry Characteristics: Evidence from Japanese Data. Hitotsubashi
Journal of Economics, 50(1) 57–69.
Huỳnh Thế Nguyễn & Nguyễn Quyết (2013). Mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái, lãi suất và giá cổ phiếu tại Thành Phố Hồ Chí Minh”. Tạp chí phát triển và hội
nhập, 7(21), 37–41.
Johansen, S. (1988). Statistical analysis of cointegration vectors. Journal of
Economic Dynamics and Control, 12(2–3), 231–254.
Johansen, S. (1995). Likelihood-based inference in cointegrated vector
autoregressive models (New York: Oxford University Press).
Knetter, M. M. (1994). Is Export Price Adjustment Asymmetric?: Evaluating
the Market Share and Marketing Bottlenecks Hypotheses. Journal of International
Money and Finance, 13, 55–70.
50
Koutmos, G., & Martin, A. D. (2003). Asymmetric Exchange Rate Exposure:
Theory and Evidence. Journal of International Money and Finance, 22, 365–383.
Kremers, J. J. M., Ericsson, N. L., & Dolado, J. (1992). The power of
cointegration tests. The Journals of Econometrics, 52, 389–402.
Lê Hoàng Phong & Đặng Thị Bạch Vân (2015). Kiểm chứng bằng mô hình
ARDL tác động của các nhân tố vĩ mô đến chỉ số chứng khoán Việt Nam. Tạp Chí
Phát Triển và Hội Nhập, 20(30), 61–66.
Lean, H. H., Halim, M. & Wong, W. K. (2005). Bivariate causality between
exchange rates and stock prices on major Asian countries. Monash Economics
Working Papers, 10(5).
Lin, C. H. (2012). The co–movement between exchange rates and stock prices
in the Asian emerging markets. International Review of Economics and Finance,
22(1), 161–172.
Liu, H. H. & Tu, T. T. (2011). Mean–reverting and asymmetric volatility
switching properties of stock price index, exchange rate and foreign capital in
Taiwan. Asian Economic Journal, 25(4), 375–395.
Luchtenberga, K. F., & Quang, V. V. (2015). The 2008 financial crisis: Stock
market contagion and its determinants. Research in International Business and
Finance, 33, 178–203.
Miller, K. D., & Reuer, J. J. (1998). Asymmetric Corporate Exposures to
Foreign Exchange Rate Changes. Strategy Management Journal, 19, 1183–1191.
Moore, T. & Wang, P. (2014). Dynamic linkage between real exchange rates
and stock prices: Evidence from developed and emerging Asian markets.
International Review of Economics and Finance, 29, 1–11.
Nieh, C. C., & Lee, C. F. (2001). Dynamic relationship between stock prices
and exchange rates for G–7 countries. The Quarterly Review of Economics and
Finance, 41(4), 477–490.
51
Pan, M. S., Fok, R. C. W. & Liu, Y. A. (2007). Dynamic linkages between
exchange rates and stock prices: Evidence from East Asian markets. International
Review of Economics & Finance, 16(4), 503–520.
Parsva, P. & Lean, H. H. (2011) The analysis of relationship between stock
prices and exchange rates: Evidence from six Middle Eastern financial markets.
International Research Journal of Finance and Economics, 66, 157–171.
Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R.J. (2001). Bounds testing approaches to
the analysis of level relationships. Journal of Applied Economics, 16, 289–326.
Phylaktis, K., & Ravazzolo, F. (2005). Stock prices and exchange rate
dynamics. Journal of International Money and Finance, 24(7), 1031–1053.
Rahman, M. L., & Uddin, J. (2009). Dynamic relationship between stock
prices and exchange rates: Evidence from three South Asian countries. International
Business Research, 2(2),167–174.
Richards, N. D., Simpson, J. & Evans, J. (2009). The interaction between
exchange rates and stock prices: An Australian context. International Journal of
Economics and Finance, 1(1), 3–23.
Salisu, A. A., & Oloko, T. F. (2015). Modelling Spillovers Between Stock
Market and FX Market: Evidence for Nigeria. Journal of African Business, 16(1–2),
84–108.
Shin, Y., Yu, B. & Greenwood–Nimmo, M. (2014). Modelling asymmetric
cointegration and dynamic multipliers in a non–linear ARDL framework.
Feestschrift in Honor of Peter Schmidt: econometric Methods and Applications,
Springer Science & Business Media, New York, 281–314.
Smyth, R., & Nandha, M. (2003). Bivariate causality between exchange rates
and stock prices in South Asia. Applied Economics Letters, 10(11), 699–704.
52
Tian, G. G., & Ma, S. (2010). The relationship between stock returns and the
foreign exchange rate: the ARDL approach. Journal of the Asia Pacific Economy,
15(4). 490–508.
Trần Ngọc Thơ và Hồ Thị Lam (2015). Hiệu ứng lan tỏa giữa thị trường
chứng khoán và thị trường ngoại hối ở Việt Nam, Tạp Chí Phát Triển và Hội Nhập,
21(31), 34–39.
Tule, M., Dogo, M., & Uzonwanne, G. (2018). Volatility of Stock Market
Returns and the Naira Exchange Rate. Global Finance Journal, 35, 97–105.
Zhao, H. (2010). Dynamic relationship between exchange rate and stock
price: Evidence from China. Res Int Bus Financ, 24(2), 103–112.
53
PHỤ LỤC
A. Kết quả kiểm định tính dừng
A.1. Kết quả từ phương pháp ADF
A.1.1. Bậc gốc
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -1.833162 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.3637
+ Biến giá chứng khoán SP Null Hypothesis: SP has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến tỷ giá ER Null Hypothesis: ER has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -1.380966 -3.461783 -2.875262 -2.574161
Prob.* 0.5911
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến lạm phát CP Null Hypothesis: CP has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 1 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -0.674928 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.8493
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
54
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -2.223822 -3.461783 -2.875262 -2.574161
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Prob.* 0.1985
A.1.2. Sai phân bậc nhất
+ Biến cung tiền M2 Null Hypothesis: M2 has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -8.912698 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.0000
+ Biến giá chứng khoán SP Null Hypothesis: D(SP) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến tỷ giá ER Null Hypothesis: D(ER) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -14.10357 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.0000
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
55
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -7.540552 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.0000
+ Biến lạm phát CP Null Hypothesis: D(CP) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến cung tiền M2 Null Hypothesis: D(M2) has a unit root Exogenous: Constant Lag Length: 0 (Automatic - based on SIC, maxlag=14)
Augmented Dickey-Fuller test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
t-Statistic -12.33989 -3.461938 -2.875330 -2.574198
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Prob.* 0.0000
A.2. Kết quả từ phương pháp PP
A.2.1. Bậc gốc
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -1.423958 -3.461783 -2.875262 -2.574161
Prob.* 0.5700
+ Biến giá chứng khoán SP Null Hypothesis: SP has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 3 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
56
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -1.394008 -3.461783 -2.875262 -2.574161
Prob.* 0.5848
+ Biến tỷ giá ER Null Hypothesis: ER has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 4 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến lạm phát CP Null Hypothesis: CP has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 9 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -0.645649 -3.461783 -2.875262 -2.574161
Prob.* 0.8563
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến cung tiền M2 Null Hypothesis: M2 has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 6 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -1.895904 -3.461783 -2.875262 -2.574161
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
Prob.* 0.3338
A.2.2. Sai phân bậc nhất
57
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -8.501448 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.0000
+ Biến giá chứng khoán SP Null Hypothesis: D(SP) has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 13 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến tỷ giá ER Null Hypothesis: D(ER) has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 3 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
1% level 5% level 10% level
Adj. t-Stat -14.09927 -3.461938 -2.875330 -2.574198
Prob.* 0.0000
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến lạm phát CP Null Hypothesis: D(CP) has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 5 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
Adj. t-Stat -7.754331 -3.461938 -2.875330 -2.574198
1% level 5% level 10% level
Prob.* 0.0000
*MacKinnon (1996) one-sided p-values. + Biến cung tiền M2
Null Hypothesis: D(M2) has a unit root Exogenous: Constant Bandwidth: 6 (Newey-West automatic) using Bartlett kernel
Phillips-Perron test statistic Test critical values:
Adj. t-Stat -12.56169 -3.461938 -2.875330 -2.574198
1% level 5% level 10% level
Prob.* 0.0000
*MacKinnon (1996) one-sided p-values.
58
B. Kết quả chạy mô hình
ARDL Cointegrating And Long Run Form Original dep. variable: SP Selected Model: ARDL(4, 3, 3, 2) Date: 04/20/19 Time: 16:48 Sample: 2001M01 2018M05 Included observations: 205
Cointegrating Form
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
0.477715 -0.123895 -0.104461 0.036369 -1.077176 1.289346 -0.574510 -0.394293 1.624223 0.257404 0.585083 -0.126428 -0.045295
0.066236 0.070786 0.063673 0.374509 0.385289 0.394753 0.853560 0.858644 0.765989 0.292217 0.308800 0.051245 0.010178
7.212358 -1.750291 -1.640581 0.097111 -2.795763 3.266212 -0.673075 -0.459204 2.120426 0.880867 1.894695 -2.467116 -4.450064
0.0000 0.0817 0.1026 0.9227 0.0057 0.0013 0.5017 0.6466 0.0353 0.3795 0.0597 0.0145 0.0000
Variable D(SP(-1)) D(SP(-2)) D(SP(-3)) D(ER) D(ER(-1)) D(ER(-2)) D(CP) D(CP(-1)) D(CP(-2)) D(M2) D(M2(-1)) D(BRK) CointEq(-1)
Cointeq = SP - (-0.0985*ER -6.5238*CP + 2.8325*M2 -1.3141*BRK + 14.9862 )
Long Run Coefficients
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
-0.098469 -6.523812 2.832467 -1.314077 14.986229
2.646434 3.293863 1.023770 0.818258 20.193585
-0.037208 -1.980596 2.766702 -1.605944 0.742128
0.9704 0.0491 0.0062 0.1100 0.4589
Variable ER CP M2 BRK C
B.1. Mô hình ARDL
59
ARDL Cointegrating And Long Run Form Original dep. variable: SP Selected Model: ARDL(4, 5, 2, 0, 2) Date: 04/20/19 Time: 21:52 Sample: 2001M01 2018M05 Included observations: 203
Cointegrating Form
Prob.
t-Statistic
Std. Error
Coefficient
0.392754 -0.113824 -0.144136 -1.847322 -0.655680 1.502600 -1.570449 -1.407839 1.071730 -1.885163 -0.794976 0.466406 0.762192 -0.133945 -0.074079
6.113422 -1.636017 -2.344916 -2.573492 -0.940214 2.209647 -2.341911 -2.138247 2.020179 -3.379612 -1.308357 1.628719 2.456877 -2.811302 -5.406065
0.064244 0.069574 0.061467 0.717827 0.697373 0.680018 0.670585 0.658408 0.530512 0.557804 0.607614 0.286364 0.310228 0.047645 0.013703
Variable D(SP(-1)) D(SP(-2)) D(SP(-3)) D(ER_POS) D(ER_POS(-1)) D(ER_POS(-2)) D(ER_POS(-3)) D(ER_POS(-4)) D(ER_NEG) D(ER_NEG(-1)) D(CP) D(M2) D(M2(-1)) D(BRK) CointEq(-1)
0.0000 0.1035 0.0201 0.0109 0.3483 0.0284 0.0203 0.0338 0.0448 0.0009 0.1924 0.1051 0.0149 0.0055 0.0000 Cointeq = SP - (-8.0323*ER_POS + 3.7296*ER_NEG -2.9253*CP + 4.3326 *M2 -1.0667*BRK -6.5432 )
Long Run Coefficients
Coefficient
Std. Error
t-Statistic
Prob.
-8.032338 3.729617 -2.925296 4.332620 -1.066717 -6.543204
2.657496 1.877800 1.706197 0.843183 0.402264 6.902511
-3.022521 1.986163 -1.714513 5.138410 -2.651780 -0.947945
Variable ER_POS ER_NEG CP M2 BRK C
0.0029 0.0485 0.0881 0.0000 0.0087 0.3444
B.2. Mô hình NARDL