intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của nhãn sinh thái tới thái độ và ý định mua xanh sản phẩm nông nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết

Chia sẻ: ViTheseus2711 ViTheseus2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

62
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề xuất khung phân tích sử dụng 4 yếu tố (kiến thức nhãn sinh thái, niềm tin, nhận thức giá trị, mối quan tâm đến môi trường) để phân tích ảnh hưởng của nhãn sinh thái đối với thái độ người tiêu dùng và ý định mua xanh sản phẩm nông nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của nhãn sinh thái tới thái độ và ý định mua xanh sản phẩm nông nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết

VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Review Article<br /> The Impact of Eco-label to Consumer Attitude and Green<br /> Purchase Intention in Agricultural Products:<br /> A Theoretical Approach<br /> <br /> <br /> Nguyen Thu Ha *, Le Trung Hieu, Vu Tra My<br /> VNU University of Economics and Business,<br /> 144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam<br /> Received 20 September 2019<br /> Revised 23 September 2019; Accepted 24 September 2019<br /> <br /> Abstract: Environmental pollution and green consumption trends are changing the intention of<br /> consumers' choices and purchases. Ecological labels form the role of stimulating acts of<br /> purchasing environmentally friendly products and transmitting green product messages. Based on<br /> synthetic of intentional behavioral models and theory, the paper proposes an analytical framework<br /> using four elements (ecological label knowledge, belief, value perception, environmental concern)<br /> to analyze the effect of eco-labels on consumer attitudes and green purchase intention of<br /> agricultural products.<br /> Keywords: The impact of eco-label to consumer attitude and green purchase intention in<br /> agricultural products: A theoretical approach.<br /> *<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> _______<br /> * Corresponding author.<br /> E-mail address: thuhanguyen179@gmail.com<br /> https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4254<br /> 102<br /> VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ảnh hưởng của nhãn sinh thái tới thái độ và ý định mua xanh<br /> sản phẩm nông nghiệp: Nghiên cứu lý thuyết<br /> <br /> <br /> Nguyễn Thu Hà*, Lê Trung Hiếu, Vũ Trà My<br /> Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam<br /> Nhận ngày 20 tháng 9 năm 2019<br /> Chỉnh sửa ngày 23 tháng 9 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 9 năm 2019<br /> <br /> Tóm tắt: Xu hướng tiêu dùng xanh đang làm thay đổi ý định trong lựa chọn và mua sắm của<br /> người tiêu dùng. Nhãn sinh thái hình thành với vai trò kích thích hành vi mua sản phẩm thân thiện<br /> môi trường và truyền tải thông điệp sản phẩm xanh. Dựa trên tổng hợp các mô hình và lý thuyết<br /> hành vi ý định, bài viết đề xuất khung phân tích sử dụng 4 yếu tố (kiến thức nhãn sinh thái, niềm<br /> tin, nhận thức giá trị, mối quan tâm đến môi trường) để phân tích ảnh hưởng của nhãn sinh thái đối<br /> với thái độ người tiêu dùng và ý định mua xanh sản phẩm nông nghiệp.<br /> Từ khóa: Nhãn sinh thái, ý định mua xanh, tiêu dùng xanh, sản phẩm xanh.<br /> <br /> <br /> 1. Mở đầu * nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, tiết kiệm,<br /> hạn chế các sản phẩm gây ô nhiễm. Từ đó, tiêu<br /> Ô nhiễm môi trường gây ra những hậu quả dùng xanh xuất hiện, trở thành giải pháp thiết<br /> nghiêm trọng đối với hệ sinh thái tự nhiên và thực, hiệu quả đối phó với ô nhiễm môi trường,<br /> sức khỏe con người. Việc tìm ra giải pháp nhằm nhanh chóng được người tiêu dùng chấp nhận.<br /> cải thiện môi trường tự nhiên là vô cùng cấp Người tiêu dùng hiện đại còn dành sự ưu tiên<br /> thiết và được nhiều chính phủ, doanh nghiệp, tổ nhiều hơn, sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản<br /> chức, người tiêu dùng trên toàn thế giới quan phẩm và dịch vụ xanh [1, 2].<br /> tâm. Nhìn chung, người tiêu dùng hiện đại trang Các doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt cơ<br /> bị những tri thức tốt hơn về môi trường do tiếp hội từ tiêu dùng xanh, phát triển hình thức<br /> cận nhiều nguồn thông tin hữu ích, bản thân họ marketing xanh trong sản xuất, phân phối và<br /> có xu hướng đóng góp những hành động tích tiêu thụ sản phẩm. Bộ ba công cụ chính của<br /> cực để bảo vệ môi trường. Đồng thời, chính phủ marketing xanh bao gồm: (i) thương hiệu sinh<br /> cùng bộ ngành liên tục ban hành các chính sách thái; (ii) nhãn sinh thái; (iii) quảng cáo bảo vệ<br /> kiểm soát ô nhiễm, nhiều tổ chức phi lợi nhuận môi trường [3]. Theo nghiên cứu của Rex và<br /> xuất hiện khuyến nghị người dân sử dụng tài Baumann (2007) chỉ ra rằng nhãn sinh thái<br /> _______ truyền tải những thông tin hiệu quả giúp người<br /> * Tác giả liên hệ. tiêu dùng dễ tiếp cận sản phẩm, nâng cao ý định<br /> Địa chỉ email: thuhanguyen179@gmail.com mua sản phẩm xanh [4]. Định nghĩa của WTO<br /> https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4254<br /> 103<br /> 104 N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> về nhãn sinh thái “là một loại chứng nhận cấp của nhãn sinh thái tới thái độ người tiêu dùng<br /> cho sản phẩm thỏa mãn một số tiêu chí nhất và ý định mua sản phẩm nông nghiệp dựa trên<br /> định về môi trường do cơ quan chính phủ hoặc kế thừa và tổng hợp các nghiên cứu từ trong và<br /> tổ chức được ủy nhiệm cung cấp” (Hội thảo về ngoài nước.<br /> nhãn sinh thái – WTO tháng 3-2005). Sự xuất<br /> hiện của nhãn đóng góp 2 vai trò chính: chức<br /> năng thông tin và chức năng trách nhiệm xã hội 2. Cở sở lý luận về nhãn sinh thái và ý định<br /> của doanh nghiệp [5]. Dưới góc độ thông tin, mua xanh\<br /> nhãn sinh thái chứng nhận độ tin cậy của sản<br /> phẩm, giảm mập mờ, đắn đo khi lựa chọn và 2.1. Marketing xanh<br /> gián tiếp hình thành chuỗi cung ứng xanh. [6]<br /> Ở nhiều quốc gia phát triển như Đức, Marketing xanh là thuật ngữ đặt nền móng<br /> Canada, Mĩ; chương trình nhãn sinh thái phát đầu tiên bởi Stanton (1987), rằng “marketing<br /> triển mạnh, trở thành một tiêu chí phát triển bền xanh là việc các tổ chức doanh nghiệp tìm kiếm<br /> vững của quốc gia. Các chương trình nhãn sinh những hoạt động kinh doanh mới thân thiện<br /> thái như “Blue Angel” năm 1978 ở Đức, “The môi trường”. Có nhiều quan điểm khác về<br /> ECOLOGO” năm 1988 ở Canada là minh marketing xanh nhưng nhìn chung, thuật ngữ<br /> chứng điển hình của chương trình nhãn sinh tập trung ở 3 hướng tiếp cận chính: “định<br /> thái khi đem lại lợi ích chung cho công động hướng marketing xanh”, “chiến lược marketing<br /> như nguồn tài chính cho chính phủ, chứng nhận xanh” và “chức năng marketing xanh”. Định<br /> sản phẩm doanh nghiệp và củng cố niềm tin nghĩa mới nhất được tổng hợp của Groening và<br /> người tiêu dùng. cộng sự (2018): “Marketing xanh bao gồm<br /> Tại Việt Nam, Tổng cục Môi trường học những hành động hướng tới khách và mục tiêu<br /> hỏi, kế thừa chương trình nhãn sinh thái ở nước tổ chức trên khía cạnh hoạt động tiếp thị -<br /> ngoài, bổ sung định nghĩa “nhãn sinh thái dành marketing, khẳng định mục tiêu doanh nghiệp<br /> cho những sản phẩm có mức độ ưu tiên chung trong làm giảm tác hại đến môi trường của sản<br /> về môi trường cao hơn so với sản phẩm cùng phẩm và dịch vụ” [7].<br /> loại khác trên cơ sở đánh giá toàn bộ chu trình Tiêu dùng xanh hình thành do nhận thức<br /> luân chuyển vòng đời sản phẩm”. Chương trình người tiêu dùng tốt hơn về tính thân thiện môi<br /> nhãn sinh thái có tên gọi “Nhãn xanh Việt trường của sản phẩm, sự phát triển của khoa<br /> Nam” do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát học, truyền thông và hiểm họa của gia tăng dân<br /> triển năm 2009 nhưng thiếu hấp dẫn đối với số và nóng lên toàn cầu [8]. Các doanh nghiệp<br /> doanh nghiệp và hiện chưa triển khai hiệu quả. nắm bắt xu hướng trên, chuyển hướng phát<br /> Mặt khác, ngành nông nghiệp nói riêng, các triển marketing xanh do con người đang trở nên<br /> doanh nghiệp nội địa phải đăng kí chứng nhận ưa chuộng sản phẩm có tính năng môi trường<br /> nhãn sinh thái ở nước ngoài với chi phí cao, nổi trội [9]. Tuy nhiên, marketing xanh vẫn<br /> người tiêu dùng gặp trở ngại trong lựa chọn khi đứng trước các thách thức về truyền đạt thông<br /> có quá nhiều hình thức nhãn khác nhau trên điệp tới người tiêu dùng và đáp ứng yêu cầu các<br /> thị trường. tổ chức liên quan (vd: chính phủ, siêu thị);<br /> Tham khảo các nghiên cứu trước đây về đề trong khi đó tiềm ẩn những vấn đề khó nhận<br /> tài nhãn sinh thái tại Việt Nam, nhóm nghiên biết khác như: văn hóa, cạnh tranh…<br /> cứu nhận thấy số lượng hạn chế các tài liệu liên Động lực phát triển marketing xanh của<br /> quan, đồng thời các bài viết chưa đưa ra khung doanh nghiệp gồm (i) phương thức thể hiện<br /> phân tích tổng quát hay tìm ra những tác động trách nhiệm xã hội (ii) nguyên nhân do cạnh<br /> của nhãn sinh thái đối với thái độ và ý định tranh. Các ngoại tố đóng vai trò quan trọng<br /> mua xanh. khác, gồm: chính sách chính phủ, so sánh sản<br /> Xuất phát từ những vấn đề trên, nghiên cứu phẩm truyền thống và sản phẩm xanh, chủ<br /> này hướng đề xuất khung phân tích ảnh hưởng nghĩa tiêu dùng [10].<br /> N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110 105<br /> <br /> <br /> 2.2.Sản phẩm xanh chức năng thông tin ảnh hưởng doanh nghiệp<br /> theo 2 hướng trong ra quyết định thị trường là:<br /> Theo định nghĩa của Ủy ban Liên minh mục tiêu khách hàng sử dụng sản phẩm, và<br /> Châu Âu (2001) định nghĩa sản phẩm xanh là khách hàng doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng<br /> loại sản phẩm sử dụng ít tài nguyên, rủi ro thấp [17]. Từ khóa thường gặp trên sản phẩm nhãn<br /> đối với môi trường và ít phát sinh chất thải. sinh thái trong truyền tải mục tiêu môi trường là<br /> Theo Dangelico và Pontrandolfo (2010), sản “thân thiện sinh thái”, “an toàn môi trường”,<br /> phẩm xanh là “những sản phẩm có tác động tốt “có thể tái chế”, “có thể phân hủy”, “thân thiện<br /> và giảm thiểu ảnh hưởng xấu từ các sản phẩm với tầng ozon” [19].<br /> đi kèm” [11]. Có thể hiểu rằng, sản phẩm xanh Nhãn sinh thái giúp công ty định hình tệp<br /> không nhất thiết tính chất sản phẩm phải khách hàng tiêu dùng xanh, sử dụng chiến lược<br /> “xanh” mà dưới nhiều hình thức như bao bì, khác biệt hóa trong cạnh tranh và tăng thêm giá<br /> đóng gói, vận chuyển… và các yếu tố phụ trợ trị sản phẩm. Chứng nhận giá trị sản phẩm qua<br /> tạo nên sản phẩm có khuynh hướng thân thiện nhãn sinh thái xóa đi những khoảng trống thông<br /> với môi trường. McDonagh và Prothero (1997) tin giữa người mua và người bán, thể hiện<br /> chỉ ra rằng có vô vàn cách tiếp cận để hiểu từ thông điệp môi trường của sản phẩm, thuyết<br /> “xanh”, như thân thiện sinh học, chính trị, trách phục người dùng về sự trung thực của mặt<br /> nhiệm xã hội, trao đổi công bằng, bảo tồn, phi hàng. Các sản phẩm “xanh” có giá bán cao hơn<br /> lợi nhuận, cách tiêu dùng mới, sự bền vững, so với sản phẩm truyền thống cùng loại, vì vậy,<br /> bình đẳng [12]. Hiện nay, các công ty xây dựng người mua sẽ đánh giá và xác định rõ giá trị<br /> chiến lược sản xuất với mục tiêu “xanh hóa” đem lại, mà quá trình này có thể rút ngắn nhờ<br /> sản phẩm và dịch vụ theo nhu cầu và cơ hội từ chứng nhận trực tiếp của nhãn sinh thái [4, 20]<br /> thị trường do nguyên nhân từ luật pháp, cạnh Người tiêu dùng chi trả nhiều hơn cho sản<br /> tranh và trách nhiệm sinh thái [13,14,15]; dẫn phẩm nhãn sinh thái do nhu cầu sử dụng sản<br /> đến chiến lược phát triển bền vững thân thiện phẩm đạt tiêu chuẩn và các giá trị nhận thức<br /> môi trường trở thành một trong những thế mạnh tiến bộ [21]. Tổng hợp lại ta thấy 3 nguyên<br /> cạnh tranh trên thị trường [16]. nhân chính thúc đẩy sử dụng nhãn sinh thái cho<br /> Sản phẩm xanh trong ngành nông nghiệp sản phẩm: (1) vai trò hiệu quả sinh thái của sản<br /> nhìn chung nhìn nhận theo nhiều hướng tiếp phẩm, (2) chiều sâu và rộng thông điệp truyền<br /> cận, một trong số đó có thể kể đến như: không đạt bởi chính phủ và các tổ chức, (3) giá trị<br /> dùng thuốc trừ sâu, sản phẩm hữu cơ, quy trình chiến lược và đổi mới của doanh nghiệp.<br /> chăm sóc, bao bì đóng gói … Như vậy, sản Tuy nhiên, nhãn sinh thái tồn tại một số hạn<br /> phẩm nông nghiệp xanh có thể dễ dàng chứng chế nhất định ảnh hưởng tới doanh nghiệp và<br /> nhận thông qua nhiều thành phần tính năng quá trình tiêu thụ sản phẩm, cụ thể: (i) rằng<br /> hướng phù hợp thị hiếu và sự quan tâm của buộc của chính sách cứng nhắc dẫn đến những<br /> người tiêu dùng đối với môi trường. tình huống phức tạp trong kinh doanh, (ii)<br /> 2.3. Nhãn sinh thái chứng minh đảm bảo chất lượng sản phẩm do<br /> giá bán sản phẩm gán nhãn cao, (iii) tác động<br /> Như đề cập ở phần mở đầu, nhãn sinh thái đối với các sản phẩm không có nhãn bán song<br /> là một trong ba công cụ hữu ích trong kích thích song, (iv) trở ngại trong giao thương theo quy<br /> người tiêu dùng sử dụng sản phẩm; có 2 vai trò định của WTO về chính sách mua sắm<br /> chức năng chính: (i) chức năng thông tin và (ii) công… [17]<br /> chức năng trách nhiệm xã hội và uy tín doanh * Nhãn sinh thái sản phẩm nông nghiệp<br /> nghiệp [18]. Ở bài viết này, nghiên cứu tập Nhãn sinh thái gắn trên sản phẩm nông<br /> trung vào chức năng thông tin nhãn sinh thái để nghiệp theo một hệ thống chứng nhận căn bản,<br /> làm rõ tác động đối với thái độ người tiêu dùng được phân loại theo tiến trình gây trồng hoặc<br /> và ý định mua xanh. Theo De Haes (2010), theo loại hình sản phẩm. Nhìn chung, có 3<br /> phương pháp gán nhãn sinh thái cho sản phẩm<br /> 106 N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> nông nghiệp: nhãn sinh thái công nghiệp, chứng nhiễm” [25]. Một quan điểm khác cho rằng ý<br /> chỉ bền vững về tài nguyên thiên nhiên và nhãn định mua xanh là mong muốn và khả năng một<br /> Fair Trade (tự do thương mại). người chi trả cho những đặc tính thân thiện môi<br /> Thông tin của nhãn sinh thái mô tả những trường của sản phẩm so với mặt hàng truyền<br /> đặc điểm sản phẩm nông nghiệp (dinh dưỡng, thống [26]. Các góc nhìn của học giả có những<br /> hương vị, hóa chất sử dụng) hoặc phương pháp điểm riêng biệt nhưng nhìn chung đều chỉ ra là<br /> canh tác nông nghiệp (thuốc trừ sâu, điều kiện ý định chủ quan của cá nhân trong thanh toán<br /> lao động, thời điểm canh tác). Sở dĩ chức năng các đặc điểm thân thiện môi trường của<br /> thông tin của sản phẩm có sự liên quan đến chất sản phẩm.<br /> lượng hơn những nhân tố môi trường do tính Nhiều học giả đã nghiên cứu xác định các<br /> chất nông sản khá đặc thù, người tiêu dùng dễ nhân tố thúc đẩy hành vi mua xanh của người<br /> hiểu nông nghiệp xanh là tốt cho trường. Ngoài tiêu dùng thông qua ý định, một số công trình<br /> ra, theo nghiên cứu của Richard S. Pirog (2003) đã cố gắng giải thích nhân tố ngoại vi và nội vi<br /> thực hiện ở tiểu bang Iowa, Hoa Kì cho thấy tác động lên nhận thức của người tiêu dùng sản<br /> người tiêu dùng mua nông sản xanh không phải phẩm xanh: (i) các yếu tố văn hóa và thể chế<br /> do yếu tố vượt trội hơn về môi trường mà vì sự chính trị có tác động lên ý thức và thái độ với<br /> an toàn và nhu cầu dinh dưỡng [22]. Nhãn sinh mua sản phẩm xanh do Chan (2001) phân tích<br /> thái sản phẩm nông nghiệp nhìn nhận dưới góc khảo sát ở người dân Trung Quốc. Đồng thời,<br /> độ chứng nhận sản phẩm “tươi sạch” mang lại nghiên cứu chỉ ra rằng nhận thức vấn đề suy<br /> hương vị tốt hơn. Đặc biệt, người tiêu dùng còn thoái môi trường sống có tác động rõ rệt đối với<br /> tự trang bị kiến thức về mùa vụ sản xuất sản ý định mua xanh hơn là tuyên truyền bảo vệ<br /> phẩm, khoảng cách vận chuyển sản phẩm đến môi trường [25]; (ii) Chen và Hsun Chan<br /> nơi bán phục vụ cho nhu cầu lựa chọn đúng sản (2012) nghiên cứu phương pháp tăng ý định<br /> phẩm tươi mới. Như vậy, nhãn sinh thái dành mua xanh, chỉ ra mối tương quan dương giữa ý<br /> cho thực phẩm có thể nhìn nhận là hình thức định mua xanh và giá trị nhận thức xanh,<br /> truyền tải thông điệp về chất lượng sản phẩm nghịch biến với nhận thức rủi ro; đồng thời<br /> đến người tiêu dùng [23]. khẳng định niềm tin là yếu tố trung gian thúc<br /> đẩy [27]; (iii) Clare D’Souza và cộng sự (2006)<br /> 2.4. Ý định mua xanh khuyến khích các nhà quản trị phân khúc thị<br /> Nghiên cứu của Ajzen (1991) về thuyết trường qua 3 nhân tố chính là giá, chất lượng,<br /> hành vi dự định TPB, ý định là nhân tố trực tiếp đặc điểm nhân khẩu - để kích thích hành vi mua<br /> và khách quan lí giải hành vi người tiêu dùng. xanh [19]; (iv) Nắm bắt nhân tố ý định thông<br /> Mô hình chỉ ra ý định là nhân tố trung gian nắm qua động lực cá nhân có ảnh hưởng đối với<br /> bắt động lực từ: thái độ, chuẩn chủ quan, nhận hành vi mua xanh [28]. Như vậy, các học giả đã<br /> thức hành vi kiểm soát; sau đó thúc đẩy hành vi tiếp cận trên nhiều góc độ và xác định các nhân<br /> thực hiện thực tế [24]. Như vậy, ý định càng tố có ảnh hưởng lên ý định mua xanh; Joshi &<br /> cao thì dễ hướng đến hành vi được thực hiện, Rahman (2015) đã tổng kết lại tất cả các công<br /> tuy nhiên cần cân nhắc ngoài ảnh hưởng bởi nội trình từ 2000 - 2014 chỉ ra 2 tác nhân chủ yếu<br /> tố bên trong con người, hành vi còn chịu tác hình thành ý định mua xanh: (1) Yếu tố con<br /> động của ngoại tố về cơ hội và nguồn lực (vd: người: cảm xúc, tập quán, hiệu quả nhận thấy,<br /> thời gian, tiền, kĩ năng). kiểm soát hành vi, giá trị, niềm tin, kiến thức,<br /> Ý định mua xanh là sự phát triển mới xuất phong cách sống; (2) Yếu tố tình huống: giá, sự<br /> phát từ ý định mua sắm, bổ sung thêm động lực sẵn có, tập tục môi trường, chức năng chất<br /> về bảo vệ môi trường của con người. Chan lượng sản phẩm, phân phối hàng, thương hiệu,<br /> (2001) định nghĩa “ý định mua xanh là hành vi nhãn sinh thái và thông điệp môi trường [29].<br /> chi trả cho sản phẩm thân thiện với môi trường<br /> và đồng thời tránh sử dụng sản phẩm gây ô<br /> N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110 107<br /> <br /> <br /> 3. Đề xuất khung phân tích các yếu tố ảnh định mua xanh của người tiêu dùng còn rất hạn<br /> hưởng tới thái độ và ý định mua xanh chế. Do vậy, nghiên cứu này đề xuất sử dụng<br /> mô hình TPB, tuy nhiên bỏ qua các nhân tố:<br /> Nghiên cứu của Groening và cộng sự<br /> chuẩn chủ quan (ảnh hưởng, sức ép của xã hội)<br /> (2018) tổng kết hơn 20 lý thuyết và mô hình sử<br /> và kiểm soát hành vi nhận thức (phản ánh việc<br /> dụng từ các nghiên cứu về nhãn sinh thái,<br /> dễ dàng hay khó khăn thực hiện hành vi phụ<br /> marketing xanh, đồng thời đưa ra những luận<br /> thuộc vào sự sẵn có của nguồn lực) do bài viết<br /> điểm phương thức nghiên cứu [7]. Nhìn chung,<br /> chỉ tập trung khai thác khía cạnh bên trong<br /> lí thuyết mà các công trình lựa chọn được chia<br /> người tiêu dùng. Nghiên cứu còn bổ sung các<br /> làm 6 nhóm, cụ thể là: giá trị và kiến thức, niềm<br /> nhân tố khác từ các nghiên cứu liên quan nhằm<br /> tin, thái độ, ý định, nhân tố động lực, sự chấp<br /> làm rõ tâm lí người tiêu dùng khi lựa chọn các<br /> nhận xã hội. Các lý thuyết được nhấn mạnh và<br /> sản phẩm nông nghiệp xanh.<br /> nhiều công trình sử dụng bao gồm: học thuyết<br /> Tham khảo các lý thuyết và mô hình nghiên<br /> thái độ, thuyết thái độ hành vi, thuyết hành vi<br /> cứu trước đây, bài viết đề xuất khung phân tích<br /> dự định (TPB), thuyết lựa chọn của người tiêu<br /> gồm 4 yếu tố là: kiến thức nhãn sinh thái, niềm<br /> dùng, thuyết lựa chọn hợp lí và thuyết thích<br /> tin, nhận thức giá trị, sự quan tâm đến môi<br /> nghi-đổi mới; trong đó là học thuyết hành vi dự<br /> trường - có ảnh hưởng đối với thái độ người<br /> định (TPB) được dùng rộng rãi và phổ biến<br /> tiêu dùng và ý định mua xanh.<br /> hơn cả.<br /> Khung phân tích bao gồm 6 cấu phần được<br /> Ở Việt Nam, các nghiên cứu về nhãn sinh<br /> mô tả cụ thể như sau:<br /> thái và tác động nhãn sinh thái tới thái độ và ý<br /> j<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1. Khung phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới thái độ người tiêu dùng và ý định mua xanh.<br /> Nguồn: Đề xuất của nhóm nghiên cứu<br /> 108 N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> Trong đó: giá trị lợi ích thặng dư bù đắp khoản chi phí<br /> ▪ Kiến thức nhãn sinh thái: Kiến thức chủ tăng them [35]. Tuy nhiên, giá trị lợi ích này có<br /> quan bao gồm cảm xúc, kinh nghiệm, quan sự khác nhau, chênh lệch giữa những người tiêu<br /> điểm cá nhân và là những tri thức hiểu biết dùng, phụ thuộc vào tâm lí, kiến thức và thái độ<br /> người tiêu dùng về sản phẩm. Kiến thức là tiền của họ. Như vậy, người tiêu dùng nhận biết<br /> đề để đánh giá và ra quyết định thực hiện hành được những giá trị tích cực của sản phẩm càng<br /> vi [30]. Các nghiên cứu trước đã khẳng định cao sẽ càng kích thích hành vi mua sắm.<br /> kiến thức có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành Nghiên cứu Schuzltz và cộng sự (2004) chỉ ra<br /> niềm tin vào sản phẩm nhãn sinh thái [31]. Kiến sự tương quan tích cực của nhận thức giá trị và<br /> thức là nền tảng của niềm tin, hình thành thái thái độ người tiêu dung [34].<br /> độ và dự đoán hành vi [32]. Ngoài ra, một số Sự▪ quan tâm đến môi trường: Mục tiêu<br /> học giả khác đã chỉ ra sự tương quan giữa kiến của nhãn sinh thái là chứng nhận và truyền tải<br /> thức và ý định mua xanh và hành vi của người những thông điệp xanh - thân thiện môi trường<br /> tiêu dùng. của sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Ý định<br /> Công trình của Wang và Hazen (2015) chỉ trong thanh toán sản phẩm xanh bắt nguồn từ<br /> ra nhận thức giá trị và nhận thức rủi ro có ảnh tiêu dùng xanh, hay rõ hơn là hành động của<br /> hưởng lớn bởi kiến thức về chất lượng sản người tiêu dùng hướng đến sử dụng những sản<br /> phẩm, giá cả so với kiến thức xanh [33]. Người phẩm thân thiện, gần gũi hơn đối với tự nhiên.<br /> tiêu dùng có thể nhận rõ được giá trị sản phẩm Người tiêu dùng nắm bắt những thông tin của<br /> tốt hơn thông qua kiến thức của mình và đánh sản phẩm trên khía cạnh môi trường, đánh giá<br /> giá những đặc tính môi trường của sản phẩm. và tự bản thân đề ra quyết định hành vi bảo vệ<br /> ▪ Niềm tin: Niềm tin định nghĩa là kì vọng môi trường [36]. Tiêu dùng sản phẩm nông<br /> người tiêu dùng vào sản phẩm mà các doanh nghiệp gán nhãn sinh thái, người tiêu dùng<br /> nghiệp, tổ chức tạo ra sản phẩm cam kết trách đồng bộ những thông tin về chất lượng và thông<br /> nhiệm và thực hiện nghĩa vụ liên quan (Perrini, tin về giá trị tự nhiên, do vậy, hành vi môi<br /> 2010). Niềm tin người tiêu dùng đóng góp vào trường phản ánh một phần mối quan tâm của<br /> quá trình đưa dự định thành hành vi mua sắm; người mua. Nghiên cứu Schuzltz và cộng sự<br /> đồng thời nhiều công trình khác nhau khẳng (2004) chỉ ra tương quan dương giữa sự quan<br /> định niềm tin vào nhãn sinh thái có ảnh hưởng tâm đến môi trường và thái độ người tiêu<br /> tích cực và tương quan cao với ý định thanh dùng [34].<br /> toán sản phẩm. Đối với các sản phẩm nông ▪ Thái độ: Trong lý thuyết hành vi dự định<br /> nghiệp nhãn sinh thái, nông sản xanh được định TPB, thái độ là nhân tố đầu tiên và quan trọng<br /> giá mức giá cao hơn những sản phẩm thông trong dự đoán ý định hình thành hành vi của<br /> thường, do vậy, sự ảnh hưởng của niềm tin con người. Thái độ định nghĩa là những phát<br /> đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết biểu, cảm quan, đánh giá về giá trị sự vật, hiện<br /> định mua sản phẩm xanh. Ngoài ra, nghiên cứu tượng dưới góc độ hữu quan của con người.<br /> của Schultz và cộng sự (2004) chỉ ra rằng, niềm Thái độ sinh thái chi tiết hơn là những quan tâm<br /> tin hình thành nên thái độ người tiêu dùng dành của con người đối với các vấn đề thuộc về môi<br /> cho sản phẩm và có tương quan dương [34]. trường tự nhiên, hình thành thông qua niềm tin,<br /> ▪ Nhận thức giá trị: Nhận thức giá trị được mối quan tâm, giá trị và ý định của người tiêu<br /> là đánh giá tổng thể của khách hàng về giá trị dùng [34]. Các đề tài liên quan lựa chọn thái độ<br /> của sản phẩm hay dịch vụ dựa trên những quan là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng hành vi ý định<br /> điểm cá nhân và những gì hàng hóa đem lại mua xanh nhờ các dấu hiệu nhận biết từ nhãn<br /> [27]. Theo nghiên cứu của Crosby (1987) và sinh thái, thương hiệu hay những minh chứng<br /> Furman (2010), nhận thức giá trị là yếu tố tiên cụ thể khác (đơn vị cấp nhãn: chính phủ hay tư<br /> quyết thể hiện sự hài lòng của khách hàng. nhân) [20, 25]. Nghiên cứu của Bickart và Ruth<br /> Thanh toán sản phẩm nhãn sinh thái có mức giá (2012) xác đinh thái độ người tiêu dùng qua<br /> cao hơn, người tiêu dùng sẽ mong đợi những<br /> N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110 109<br /> <br /> <br /> quảng cáo và thương hiệu có tác động tích cực với ý định mua xanh, và phát triển sâu hơn các<br /> lên ý định thanh toán sản phẩm xanh [37]. ngoại tố từ xã hội và đặc điểm nguồn lực khách<br /> ▪ Ý định mua xanh: Ý định mua xanh liên quan có ảnh hưởng trong lựa chọn hàng hóa<br /> quan đến việc chi trả những đặc tính môi trường hoặc bổ sung các nhân tố khác thông qua thực<br /> của sản phẩm và đồng thời tránh sử dụng những nghiệm để tìm ra mô hình phù hợp trong bối<br /> sản phẩm gây hại đến tự nhiên [25]. Nghiên cứu cảnh nghiên cứu cụ thể.<br /> về ý định mua xanh làm rõ quyết định của<br /> người tiêu dùng trong lựa chọn sản phẩm nhãn<br /> Tài liệu tham khảo<br /> sinh thái, và các nhân tố có tác động tới ý định<br /> mua xanh gợi ý cho các nhà thiết kế chương [1] Gordon-Wilson, Sianne, and Pratik Modi.<br /> trình nhãn tìm ra biện pháp kích thích tiêu "Personality and older consumers’ green behavior<br /> in the UK", Futures 71 (2015) 1-10.<br /> dùng xanh.<br /> [2] Moisander, Johanna. "Motivational complexity of<br /> Khung phân tích có thể được ứng dụng green consumerism." International journal of<br /> trong việc phân tích thái độ người tiêu dùng và consumer studies 31 (4) (2007) 404-409.<br /> ý định mua xanh hướng tới sản phẩm nông [3] E. Rahbar, N. Abdul Wahid, “Investigation of<br /> nghiệp. Ngoài ra, khung phân tích có thể được green marketing tools’ effect on consumers’<br /> ứng dụng cho các lĩnh vực rộng hơn khác của purchase behavior”, Business Strategy Series 12<br /> nhãn sinh thái, bao gồm: thiết bị điện tử, vận (2) (2011) 73-83.<br /> tải, chất tẩy rửa, thiết bị chiếu sáng … [4] E. Rex, H. Baumann, “Beyond ecolabels: what<br /> green marketing can learn from conventional<br /> marketing”, Journal of Cleaner Production 15 (6)<br /> 4. Kết luận (2007) 567-576.<br /> [5] K.M. Sønderskov, C. Daugbjerg, “The state and<br /> Thông qua khung phân tích đề xuất, bài viết<br /> consumer confidence in eco-labeling: organic<br /> đóng góp vào việc xây dựng thang đo các nhân labeling in Denmark, Sweden, The United<br /> tố ảnh hưởng đến việc sử dụng nhãn sinh thái Kingdom and The United States”, Agriculture and<br /> trong sản phẩm nông nghiệp. Dựa trên việc Human Values 28 (4) (2011) 507-517.<br /> tổng kết một số kết quả nghiên cứu lý thuyết và [6] Rex, Emma, and Henrikke Baumann. "Beyond<br /> kiểm nghiệm thực chứng, các yếu tố này được ecolabels: what green marketing can learn from<br /> dự đoán có thể ảnh hưởng tích cực đến thái độ conventional marketing", Journal of cleaner<br /> người tiêu dùng và ý định mua xanh, bao gồm: production 15 (6) (2007) 567-576.<br /> kiến thức nhãn sinh thái, niềm tin, nhận thức [7] C. Groening, J. Sarkis, Q. Zhu, “Green marketing<br /> consumer-level theory review: A compendium of<br /> giá trị, sự quan tâm đến môi trường. applied theories and further research directions”.<br /> Đóng góp quan trọng nhất của bài viết Journal of Cleaner Production 172 (2018)<br /> chính là đề xuất một khung phân tích được tổng 1848-1866.<br /> hợp trong bối cảnh sản phẩm nông nghiệp xanh [8] Cohen, Stephen, "The growing level of<br /> đang ngày càng được ưa chuộng và trong thời environmental awareness", online, Huffington<br /> điểm chương trình “Nhãn xanh Việt Nam” đang Post 29, 2014.<br /> gặp nhiều khó khăn cần tìm ra những giải pháp [9] Bhattacharya, Chitra Bhanu, and Sankar Sen.<br /> mới, các doanh nghiệp chưa tìm được nguồn "Doing better at doing good: When, why, and how<br /> cấp nhãn sinh thái chất lượng ở trong nước. consumers respond to corporate social<br /> initiatives", California management review 47 (1)<br /> Ngoài ra, bài viết mới chỉ chú trọng phân (2004)9-24.<br /> tích nội tố tâm lí bên trong người tiêu dùng mà [10] A.Z. He, T. Cai, T.X. Deng, X. Li, “Factors<br /> chưa chú trọng nghiên cứu các yếu tố liên quan affecting non‐green consumer behaviour: an<br /> đến xã hội (chuẩn chủ quan), hay các yếu tố exploratory study among Chinese consumers”,<br /> liên quan đến sự sẵn có của nguồn lực (nhận International Journal of Consumer Studies 40 (3)<br /> thức hành vi kiểm soát). Các nghiên cứu trong (2016) 345-356.<br /> tương lai có thể bổ sung cách tiếp cận mới là [11] R.M. Dangelico, P. Pontrandolfo, “From green<br /> tác động từ sự xuất hiện của nhãn sinh thái đối product definitions and classifications to the<br /> 110 N.T. Ha et al. / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 3 (2019) 102-110<br /> <br /> <br /> <br /> Green Option Matrix”, Journal of Cleaner [26] N.R.N.A. Rashid, “Awareness of Eco-label in<br /> Production 18(16-17) (2010) 1608-1628. Malaysia’s Green Marketing Initiative”,<br /> [12] P. McDonagh, A. Prothero, Green management: A International Journal of Business and<br /> reader, International Thomson Business Management 4 (8) (2009) số trang đầu –cuối.<br /> Press, 1997. [27] Y. Chen, C. Chang, “Enhance green purchase<br /> [13] P. Shrivastava, S. Hart, “Creating sustainable intentions: The roles of green perceived value,<br /> corporations”, Business strategy and the green perceived risk, and green trust”,<br /> environment 4 (3) (1995) 154-165. Management Decision 50 (3) (2012) 502-520.<br /> [14] P. Bansal, K. Roth, “Why companies go green: A [28] T. Ramayah, Jason Wai Chow Lee, Osman<br /> model of ecological responsiveness”, Academy of Mohamad, "Green product purchase intention:<br /> management journal 43 (4) (2000) 717-736. Some insights from a developing<br /> [15] J. González‐Benito, Ó. González‐Benito, “A country", Resources, conservation and recycling<br /> review of determinant factors of environmental 54 (12) (2010) 1419-1427.<br /> proactivity”, Business strategy and the<br /> [29] Y. Joshi, Z. Rahman, “Factors Affecting Green<br /> environment 15 (2) (2006) 87-102.<br /> Purchase Behaviour and Future Research<br /> [16] G. Unruh, R. Ettenson, “Growing green”, Harvard<br /> Directions”, International Strategic Management<br /> Business Review 88 (6) (2010) số trang đầu-cuối.<br /> Review 3 (1-2) (2015) 128-143.<br /> [17] de Haes, HA Udo, G. R. de Snoo, "Eco-labelling<br /> of agricultural food products", Environmental [30] J. Thøgersen, “Psychological Determinants of<br /> Assessment and Management in the Food Paying Attention to Eco-Labels in Purchase<br /> Industry, Woodhead Publishing, 2010, Decisions: Model Development and Multinational<br /> pp. 374-397 Validation”, Journal of Consumer Policy 23 (3)<br /> [18] K. Sammer, R. Wüstenhagen, “The influence of (2000) 285-313.<br /> eco-labelling on consumer behaviour - results of a [31] K.M.R. Taufique, A. Vocino, M.J. Polonsky,<br /> discrete choice analysis for washing machines”, “The influence of eco-label knowledge and trust<br /> Business Strategy and the Environment 15 (3) on pro- environmental consumer behaviour in an<br /> (2006) 185-199. emerging market”, Journal of Strategic Marketing<br /> [19] C. D’Souza, M. Taghian, P. Lamb, “An empirical 25 (7) (2017) 511-529.<br /> study on the influence of environmental labels on [32] M. Fishbein, I. Ajzen, Predicting and Changing<br /> consumers”, Corporate Communications: An Behavior: the Reasoned Action Approach, Taylor<br /> International Journal 11 (2) (2006) 162-173. & Francis, 2011.<br /> [20] Atkinson, Lucy, Sonny Rosenthal, "Signaling the [33] Y. Wang, B.T. Hazen, Consumer product<br /> green sell: the influence of eco-label source, knowledge and intention to purchase<br /> argument specificity, and product involvement on remanufactured products, Int. J. Prod. Econ. 181<br /> consumer trust", Journal of Advertising 43 (1) (4) (2015) 460-469.<br /> (2014) 33-45.<br /> [34] P.W. Schultz, C. Shriver, J.J. Tabanico, A.M.<br /> [21] Prieto-Sandoval, Vanessa, et al, "ECO-labels as a<br /> Khazian, “Implicit connections with nature”,<br /> multidimensional research topic: Trends and<br /> Journal of environmental psychology 24 (1)<br /> opportunities", Journal of Cleaner Production 135<br /> ((2004) 31-42.<br /> (2016) 806-818.<br /> [22] Pirog, S. Richard, "Ecolabel value assessment: [35] Furman, Wyndol, K. Jessica, Winkles, "Predicting<br /> Consumer and food business perceptions of local romantic involvement, relationship cognitions,<br /> foods", 2003. and relationship qualities from physical<br /> [23] A. Nilsson, A. Hansla, A. Biel, “Feeling the appearance, perceived norms, and relational styles<br /> green? Value orientation as a moderator of regarding friends and parents", Journal of<br /> emotional response to green electricity”, Journal Adolescence 33 (6) (2010) 827-836.<br /> of Applied Social Psychology 44 (10) (2014) [36] Grunert, C. Suzanne, Hans Jørn Juhl, "Values,<br /> 672-680. environmental attitudes, and buying of organic<br /> [24] I. Ajzen, “The theory of planned behavior”, foods", Journal of economic psychology 16 (1)<br /> Organizational Behavior and Human Decision (1995) 39-62.<br /> Processes 50 (2) (1991) 179-211. [37] B.A. Bickart, J.A. Ruth, “Green eco-seals and<br /> [25] R.Y.K. Chan, “Determinants of Chinese advertising persuasion”, Journal of Advertising,<br /> Consumers’ Green Purchase Behavior”, 41 (4) (2012) 51-67.<br /> Psychology & Marketing 18 (4) (2001) 389-413.<br /> P p<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
59=>2