intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của stress-mô phỏng quá trình vận chuyển lên chất lượng của vẹm tím (Mytilus Edulis Linnaeus, 1758) trong quá trình bảo quản khô

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

61
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khả năng bắt mồi của vẹm tím đạt giá trị cao nhất (1,100 mL h-1 g-1 khối lượng khô) ở ngày thứ 0 (sau 2 giờ) của quá trình bảo quản khô và sau đó giảm dần theo thời gian bảo quản. Khối lượng nước trung bình mà vẹm bị mất trong quá trình bảo quản khô dao động từ 0,4 ± 0,04g (tương ứng 5,3% tổng lượng nước) ở ngày 0 tới 0,98 ± 0,16g (tương ứng 15% tổng lượng nước) ở ngày thứ 8 cho cả hai nghiệm thức thí nghiệm nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ ghi nhận được ở nghiệm thức vẹm gây stress.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của stress-mô phỏng quá trình vận chuyển lên chất lượng của vẹm tím (Mytilus Edulis Linnaeus, 1758) trong quá trình bảo quản khô

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> <br /> Số 3/2015<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA STRESS-MÔ PHỎNG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN<br /> LÊN CHẤT LƯỢNG CỦA VẸM TÍM (Mytilus edulis Linnaeus, 1758)<br /> TRONG QUÁ TRÌNH BẢO QUẢN KHÔ<br /> EFFECTS OF SIMULATED TRANSPORTATION STRESS ON VIABILITY<br /> OF BLUE MUSSELS (Mytilus edulis Linnaeus, 1758) DURING DRY STORAGE<br /> Vũ Trọng Đại1<br /> Ngày nhận bài: 09/01/2015; Ngày phản biện thông qua: 10/02/2015; Ngày duyệt đăng: 15/9/2015<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thí nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của stress mô phỏng quá trình vận chuyển lên chất lượng của vẹm tím được đánh<br /> giá thông qua các chỉ tiêu: khả năng bắt mồi và mất nước của vẹm trong quá trình bảo quản khô. Các thí nghiệm được<br /> thực hiện trong 8 ngày bảo quản khô ở nhiệt độ 10oC tại Trung tâm thí nghiệm Sealab, Trường Đại học Khoa học và Công<br /> nghệ Na Uy, Trondheim, NaUy.<br /> Khả năng bắt mồi của vẹm tím đạt giá trị cao nhất (1,100 mL h-1 g-1 khối lượng khô) ở ngày thứ 0 (sau 2 giờ) của quá<br /> trình bảo quản khô và sau đó giảm dần theo thời gian bảo quản. Khối lượng nước trung bình mà vẹm bị mất trong quá trình<br /> bảo quản khô dao động từ 0,4 ± 0,04g (tương ứng 5,3% tổng lượng nước) ở ngày 0 tới 0,98 ± 0,16g (tương ứng 15% tổng<br /> lượng nước) ở ngày thứ 8 cho cả hai nghiệm thức thí nghiệm nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ ghi nhận được ở<br /> nghiệm thức vẹm gây stress.<br /> Từ khóa: stress, khả năng bắt mồi, mất nước, vẹm tím<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Experiments on effects of simulated transportation stress on viability of blue mussel such as: filtering capacity and<br /> water release of blue mussels was carried out during 8 days of dry storage conditions at 10oC in Sealab central, Norwegian<br /> University of Science and Technology, Trondheim, Norway.<br /> The filtering capacity of blue mussel was 1.100 mL h-1 g-1 dry weight as maximum value at day 0 (after 2 hours) of<br /> dry storage and then it decreased following storage durations. The average water of mussel released during dry storage<br /> conditions fluctuated from 0,4 ± 0,04g (5.3% of water weight) at day 0 to 0,98 ± 0,16g (15% of water weight) at day 8 in<br /> both treatments but a significant difference was only recorded in the stressed mussel treatment.<br /> Keywords: stress, viability, water release, blue mussel<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Vẹm tím Mytilus edulis là loài động vật hai mảnh<br /> vỏ phân bố rộng ở phía bắc bán cầu đặc biệt là Na<br /> Uy nhờ vào khả năng chịu đựng tốt với sự biến động<br /> mạnh của nhiệt độ, độ mặn, độ khô và ngưỡng ôxy<br /> hòa tan [4]. Nghề nuôi vẹm thương phẩm tại Na Uy<br /> phát triển rất sớm, từ những năm 1970 của thế kỷ<br /> trước do có những điều kiện tự nhiên thuận lợi như:<br /> đường bờ biển dài và không bị ô nhiễm; sự xuất hiện<br /> thường xuyên của hiện tượng nước trồi - cung cấp<br /> nguồn dinh dưỡng phong phú cho tảo phát triển [6].<br /> 1<br /> <br /> Để phát triển nghề nuôi vẹm thương phẩm tại<br /> Na Uy thì việc phát triển công nghệ sau thu hoạch<br /> như: thu hoạch, đóng gói, bảo quản và vận chuyển<br /> là hết sức quan trọng. Do khoảng cách xa với thị<br /> trường chính của Châu Âu nên thời gian bảo quản<br /> vẹm ở điều kiện khô trong quá trình vận chuyển từ<br /> các nhà máy sau thu hoạch tại Na Uy tới người tiêu<br /> dùng là vấn đề cần phải nghiên cứu tới vì stress<br /> gây ra bởi quá trình xử lý sau thu hoạch như: cắt<br /> đứt tơ chân, rửa sạch, phân cỡ, đóng gói và vận<br /> chuyển sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của vẹm [5].<br /> <br /> ThS. Vũ Trọng Đại: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> Trong đó, hàm lượng nước trong vẹm là chỉ tiêu<br /> kinh tế và chất lượng quan trọng. Người tiêu dùng<br /> cho rằng hàm lượng nước trong vẹm cao là vẹm có<br /> chất lượng cao do vẹm mới được thu hoạch. Điều<br /> này có nghĩa là để thu được lợi nhuận cao thì nền<br /> công nghiệp nuôi vẹm tím thương phẩm của Na Uy<br /> cần phải tìm kiếm được giải pháp nhằm kéo dài khả<br /> năng sống cũng như chất lượng của vẹm trong quá<br /> trình vận chuyển trong điều kiện bảo quản khô [3].<br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu<br /> Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến<br /> tháng 6 năm 2010 tại phòng thí nghiệm Sealab<br /> thuộc Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Na<br /> Uy (NTNU). Vẹm được nuôi tại vịnh Åfjorden, cung<br /> cấp bởi Công ty Snadder & Snaskun.<br /> Nước biển sử dụng trong phòng thí nghiệm<br /> được bơm từ biển có độ sâu 70m (độ mặn 34‰)<br /> qua hai lớp lọc cát với kích thước tấm lọc trên và<br /> <br /> Số 3/2015<br /> dưới lần lượt là 0,6 - 0,8mm và 0,8 - 1,2mm. Sau khi<br /> lọc, nước biển được giữ trong bể chứa có sử dụng<br /> hệ thống sục khí để loại bỏ các khí độc và sau đó<br /> được đưa qua hệ thống lọc nâng nhiệt (10 ± 0,5oC)<br /> có kích thước màng lọc từ 10 tới 25µm trước khi sử<br /> dụng cho các thí nghiệm.<br /> 2. Bố trí thí nghiệm<br /> 2.1. Vẹm đối chứng và vẹm được gây stress<br /> Vẹm tím M. edulis có kích thước thương phẩm<br /> (40 - 55mm) được lấy trực tiếp từ vùng nuôi thương<br /> phẩm chưa qua bất kỳ công đoạn xử lý sau thu<br /> hoạch nào được giữ trong bể composite với nước<br /> biển lọc sạch ở điều kiện độ mặn: 34‰, nhiệt độ:<br /> 10 ± 0,5oC. Vẹm được gây stress bằng phương<br /> pháp sử dụng máy tạo rung Retsch GmbH AS200<br /> với vận tốc 33,1 mm s-1.<br /> Vẹm được giữ trong 3 tuần và không cho ăn<br /> cho đến khi thí nghiệm bắt đầu như là vẹm đối<br /> chứng (không gây stress).<br /> <br /> Hình 1. Vẹm đối chứng (A) và máy rung tạo stress-mô phỏng quá trình vận chuyển (B)<br /> <br /> 2.2. Thí nghiệm khả năng bắt mồi của vẹm<br /> Thí nghiệm xác định khả năng bắt mồi của<br /> vẹm bằng cách tính thể tích nước mà vẹm lọc qua<br /> mang để bắt mồi và tỷ lệ giảm của các hạt thức ăn<br /> trong nước theo phương pháp gián tiếp [2]. Chọn<br /> 180 con vẹm, rửa sạch vỏ và giữ khô trong các túi<br /> nhựa kín, giữ ở 10oC (mỗi túi 6 con) trong 8 ngày.<br /> Trong đó ngày thí nghiệm 0 được tính sau 2 giờ từ<br /> khi cho vẹm vào túi nhựa. Mỗi ngày lấy ra 18 cá<br /> thể vẹm từ 3 túi nhựa, sử dụng 12 cá thể cho vào<br /> các bô-can nhựa được cấp 2.000 mL nước biển lọc<br /> sạch (độ mặn: 34‰, nhiệt độ: 10 ± 0,5oC), có sục<br /> khí. Sau 30 phút làm quen với môi trường, vẹm mở<br /> vỏ và hồi phục khả năng lọc nước để bắt mồi. Tảo<br /> Rhodomonas baltica với mật độ 25.000 tb mL-1<br /> được cho vào các bô-can và trộn đều. Sau khi<br /> các tế bào tảo phân bố đều trong các bô-can thì<br /> <br /> 10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> tiến hành thu 20mL nước mẫu để xác định sự<br /> giảm của mật độ tảo bằng máy đo mật độ tảo<br /> Coulter counter. Thời gian thí nghiệm kéo dài 75<br /> phút, khoảng cách giữa các lần thu mẫu là 15 phút.<br /> Khả năng lọc nước để bắt mồi của từng cá thể vẹm<br /> được xác định theo công thức sau:<br /> CR = V * (logC1 – logC2)/t<br /> Trong đó: CR (clearance rate): thể tích nước<br /> mà vẹm lọc qua mang để bắt mồi.<br /> C1 và C2 là mật độ tế bào tảo ở thời điểm bắt<br /> đầu và kết thúc mỗi đợt thu mẫu.<br /> V: thể tích nước.<br /> t: khoảng thời gian thí nghiệm<br /> 2.3. Thí nghiệm khả năng mất nước của vẹm<br /> Vẹm được rửa sạch và giữ khô trong các túi<br /> nhựa kín ở 10oC, mỗi túi nhựa gồm có 6 cá thể vẹm.<br /> Túi nhựa được cắt ở góc và đặt lên trên các cốc nhựa<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> để gom lượng nước chảy ra từ vẹm trong quá trình<br /> bảo quản khô. Cả túi nhựa chứa vẹm và cốc nhựa<br /> đểu được bọc kín bởi một túi nhựa khác để làm<br /> giảm sự bay hơi của nước.<br /> Sau mỗi khoảng thời gian 0, 2, 4, 6 và 8 ngày<br /> bảo quản khô, lượng nước mà vẹm thải ra được<br /> cân để xác định khối lượng (g) (độ chính xác 0,01g)<br /> của mỗi nghiệm thức thí nghiệm (ngày thí nghiệm 0<br /> được tính sau 2 giờ từ khi cho vẹm vào túi nhựa).<br /> Lượng nước có trong xoang màng áo của vẹm<br /> cũng được xác định bằng cách mở vỏ vẹm rồi cân<br /> lượng nước thu được bằng cân điện tử (độ chính<br /> xác 0,01g).<br /> Bên cạnh đó, khối lượng nước có trong cơ thịt<br /> của vẹm cũng được xác định bằng phương pháp:<br /> cân khối lượng phần thân mềm thấm khô của mỗi<br /> cá thể vẹm bằng cân điện tử (độ chính xác 0,01g),<br /> sấy khô phần thân mềm trong tủ sấy ở 80oC trong<br /> 48 giờ, cân khối lượng của phần thân mềm sấy khô<br /> bằng cân điện tử (độ chính xác 0,0001g).<br /> 2.4. Xử lý số liệu<br /> Tất cả các thí nghiệm được lặp lại 3 lần, số liệu<br /> được xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 17,0.<br /> Giá trị số liệu được thể hiện ở dạng trung bình ± sai<br /> số chuẩn (TB±SE). Sử dụng phép phân tích phương<br /> sai một yếu tố (one-way ANOVA) để kiểm định sự<br /> khác nhau của các nhóm giá trị. Sử dụng phép so<br /> sánh sự sai khác của các giá trị trung bình sau phân<br /> tích phương sai (Post Hoc Test) bằng phương pháp<br /> kiểm định Least significant difference (LSD). Khác<br /> nhau giữa các giá trị được xác định có ý nghĩa ở<br /> mức p < 0,05.<br /> <br /> Số 3/2015<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Khả năng bắt mồi của vẹm tím trong quá trình<br /> bảo quản khô<br /> Khả năng bắt mồi là chức năng sinh học chủ yếu<br /> để đánh giá sức khỏe của động vật thân mềm hai<br /> mảnh vỏ, do đó, sự suy giảm về khả năng bắt mồi<br /> chính là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự giảm sút về sức<br /> khỏe và khả năng sống của vẹm [4]. Kết quả nghiên<br /> cứu khả năng bắt mồi của vẹm được biểu diễn thông<br /> qua tỷ lệ giảm của số lượng tế bào tảo và thể tích<br /> nước mà chúng lọc qua mang tính trên một gram khối<br /> lượng khô trong quá trình bảo quản khô (hình 2 và 3).<br /> Hình 2 cho thấy khả năng bắt mồi của vẹm<br /> trong cả hai nghiệm thức stress và đối chứng đều<br /> có xu hướng giảm theo thời gian bảo quản khô và<br /> sự sai khác này là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)<br /> giữa các ngày thí nghiệm. Trong đó, khả năng bắt<br /> mồi của vẹm có giá trị lớn nhất sau 2 ngày đầu của<br /> quá trình bảo quản khô, tương ứng với tỷ lệ giảm<br /> trung bình của số lượng tế bào tảo lên đến 70%, sau<br /> đó khả năng bắt mồi của vẹm giảm dần ở ngày thứ<br /> 4, 6 và 8, tương ứng với tỷ lệ giảm trung bình xấp xỉ<br /> 30% số lượng của tế bào.<br /> Khi so sánh giữa hai nghiệm thức, khả năng<br /> bắt mồi của vẹm đối chứng sau 0 và 6 ngày bảo<br /> quản cao hơn so với vẹm stress (tỷ lệ số lượng tế<br /> bào giảm tương ứng là 81% và 20% so với 77% và<br /> 17%). Tuy nhiên, tại thời điểm sau 2 ngày bảo quản<br /> khô thì khả năng bắt mồi của vẹm bị stress lại lớn<br /> hơn so với vẹm đối chứng (tỷ lệ số lượng tế bào tảo<br /> giảm là 73% so với 64%). Không có sự sai khác về<br /> tỷ lệ bắt mồi của vẹm trong cả hai nghiệm thức ở<br /> ngày thứ 4 và ngày thứ 8 của quá trình bảo quản.<br /> <br /> Hình 2. Tỷ lệ phần trăm số lượng tế bào tảo giảm trong quá trình bảo quản khô<br /> (A: Vẹm đối chứng, B: vẹm bị stress)<br /> <br /> Tương tự, khả năng lọc nước của vẹm trong<br /> cả hai nghiệm thức cũng cho thấy xu hướng giống<br /> nhau trong quá trình bảo quản khô, trong đó, thể<br /> tích nước mà vẹm lọc được có giá trị cao nhất ở<br /> ngày thứ 0 của quá trình bảo quản khô (xấp xỉ 1.000<br /> mL h-1g-1 khối lượng khô) và có sự khác biệt có<br /> <br /> ý nghĩa thống kê so với các ngày còn lại (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2