Lời mở đầu

Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và nền kinh tế và

thế giới, hoạt động kinh tế trở nên hêt sức quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh

tế các quốc gia cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu.

Cùng với sự hình thành các khu vực Thương mại tự do như EU, NAFTA, các nước

ASEAN cũng đang hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN

FREETRADEAREA – AFTA). Mở ra cho các nước trong khu vực những cơ hội và

thách thức hết sức to lớn. trong đó Việt Nam chúng ta.

Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nướcdoanh nghiệp sản xuất giầy xuất

khẩu cần thấy được điểm mạnh điểm yếu, đánh giá khă năng cạnh tranh cũng như vị

thế của mình khi Việt Nam tham gia AFTA từ đó để đề ra các giải pháp nhằm phát

huy điểm mạnh hạn chế điểm yếu, gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Xuất

phát từ đòi hỏi này cũng như tình hình thực tế nơi cơ sở thực tập của mình, tôi chọn

đề tài: "Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụỵ Khê trong điều kiện

hội nhập AFTA" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm đánh giá khả

năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện hôị nhập AFTA từ đó đưa ra một số

định hướng, giải pháp cho công ty cũng như cơ quan quản lý trực tiếp là Sở công

nghiệp Hà Nội những kiến nghị nhằm giúp công ty gia tăng khả năng cạnh tranh

của mình.

Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.

Chương I : Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

và hội nhập AFTA.

Chương II: Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều

kiện hội nhập AFTA.

Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty

Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.

Chương I: Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và

hội nhập AFTA.

A. Cạnh tranh.

I. Một số lý luận chung trong nền kinh tế thị trường.

1. Thị trường - kinh tế thị trường - cơ chế thị trường và các quy luật của thị trường.

Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong quá trình phát triển của nó.

Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là để

trả lời câu hỏi:

Thị trường là gì?

- Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng

trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển giao hàng hoá

và dịch vụ từ người bán sang người mua".

- Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các cuộc mua

bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.

- Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị trường vận động

theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung cầu, đây là

định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết.

- Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hoá thực hiện các chức năng trao

đổi của nó. Theo Mác thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động của xã hội

là một trong những khâu của quả trình tái sản xuất mở rộng, là lỉnh vực lưu thông

hàng hoá là nơi gặp gở của cung và cầu.

Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập

hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng đang

mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái niệm thị

trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế của doanh

nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó“.

Bên cạnh đó nói tới thị trường đi liền với nó là khái niệm kinh tế thị trường, Cơ chế

thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề cơ bản: sản xuất cái

gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào là do thị trường quyết định. Nói cách

khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết, đó là cơ

chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các qui luật

kinh tế vốn có. Nền kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội trong

đó các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện thông qua

hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ của từng thành viên

, chủ thể là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích theo sự dẫn dắt của giá trị thị trường, cơ

chế thị trường thì ta định nghĩa cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ

môi trường động lực và các qui luật kinh tế chi phối sự vận động của cơ chế thị

trường.

Các qui luật này bao gồm qui luật giá trị,m qui luật cung cầu qui luật lưu thông, qui

luật cạnh tranh. Các qui luật trên đều có vị trí, vai trò độc lập song lại có mối liên hệ

chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra sự vận động của thị trường, chi phối sự

hoạt động của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, bất cứ một chủ thể nào hoạt động trong

nền kinh tế đều không thể không tính tới qui luật này, đặc biệt là các qui luật cạnh

tranh.

- Qui luật giá trị: Qui định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí

hao phí lao động xã hội cần thiết tức là mức chi phí bình quân trong xã hội .

- Qui luật cung cầu: Nêu ra mối quan hệ giữa nhu cầu cung ứng trên thị trường. Qui

luật này qui định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển dịch xích lại gần nhau để

tạo ra sự cân bằng trên thị trường.

- Qui luật lưu thông tiền tệ: Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng

tổng số giá cả hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ

cùng loại.

- Qui luật cạnh tranh: Tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá qui luật cạnh tranh

biểu hiện sự cạnh tranh giữa người bán và người mua giữa người bán và người bán

giữa người mua với người mua ... và luôn diễn ra mọi nơi mọi lúc trong tất cả các

hoạt động kinh tế trên thị trường.

Do đó trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp các chủ thể kinh tế luôn phải

năng động đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp này luôn phải cạnh

tranh gay gắt với nhau để tồn tại, phát triển và trong cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm

đạt tới lợi nhuận cao nhất.

2. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.

Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh

là sự đấu tranh gay gắt quyết định giữa các nhà sản xuất, kinh doanh vời nhau dựa

trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm chiếm được những điều kiện

sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo ra điều kiện thúc đẩy sản xuất phát

triển. Do đó, nói tới cạnh tranh là ta không thể không nói đến các nhân tố cấu thành

cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xẩy ra khi có đủ ba yếu tố sau đây:

Một là, các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có cung và có

cầu về hàng hoá và dịch vụ.

Hai là, đối tượng để thực hiện sự cạnh tranh tức là hàng hoá dịch vụ.

Ba là, môi trường cho cạnh tranh đó chính là thị trường.

Tuỳ theo từng góc độ tiếp cận chúng ta có thể phân cạnh tranh theo các nội dung

khác nhau:

+ Theo chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm ba loại :

Một là, Cạnh tranh giữa người bán và người mua.

Hai là, cạnh tranh giữa người mua với người bán.

Ba là, cạnh tranh giữa người bán với người bán.

Cạnh tranh giữa người babs với ngươi mua là cuộc cạnh tranh diễn ra dưới hình

thức sẽ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm, dịch vụ của mình với

giá cao. Trong khi người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự cạnh tranh được thực

hiện trong quá trình vẫn thường gọi là quá trình "mặc cả” với mức giá chấp nhận là

giá thống nhất giữa người bán và người mua.

Cạnh tranh giữa người mua với nhau là cuộc cạnh tranh trên cơ sở qui luật cung

cầu. Khi mức cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu hoặc

thay đổi thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Và giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó

sẽ tăng lên. Ta vẫn biết rằng đường cầu của mỗi cá thể không hoàn toàn giống

đường tổng cầu nên nếu người nào đưa ra được giá chung thống nhất phù hợp nhất

thì người đó sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh này.

Cạnh tranh giũa người bán với người bán là cuộc cạnh tranh giữa những người cung

cấp, hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nhằm bán được nhiều hàng hoá,dịch vụ. Đối

với mỗi doanh nghiệp đây là ý nghĩa sống còn, trong điều kiện quốc tế hoá , khu

vực hoá thì hội nhập thì cuộc cạnh tranh này lại càng khốc liệt hơn.

Theo phạm vi ngành kinh tế: Michael Porter đã chia cạnh tranh thành năm nhân tố

cạnh tranh.

1) Cạnh tranh giữa những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở ngành công

nghiệp đối với những doanh nghiệp của ngành.

Sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường có khả năng chiếm lĩnh

thị trường ( thị phần) của các công ty khác, để hạn chế sự cạnh tranh giữa các đối

thủ này các doanh nghiệp thường dựng lên các hàng rào như.

+ Mở rộng khối lượng sản xuất của công ty để giản chi phí.

+ Dị biệt hoá sản phẩm.

+ Mở rộng khả năng cung cấp vốn.

+ Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối tăng đầu tư vốn.

+ Mở rộng các dịch vụ bổ sung.

Ngoài ra có thể lựa chọ địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của chính phủ

và chon lựa đungs đắn thị trường nguyên liệu và thị trường sản phẩm.

2) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Sự cạnh tranh

ảnh hưởng đến doanh nghiệp về khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm

chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty.

3) Cạnh tranh giữa doanh nghiệp và những người mua. Khách hàng có thể mặc cả

thông qua sức ép làm giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa

ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.

4) Cạnh tranh giữa các sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm thay thế khi giá cả

của sản phẩm, dịch vụ tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm dịch

vụ thay thế sự cạnh tranh này đe doạ sự mất mát về thị trường của công ty. Các

công ty đưa ra thị trường những sản phẩm có khả năng khác biệt hoá cao độ so với

sản phẩm của công ty hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về các dịch vụ hay các

điều kiện tài chính.

5) Cạnh tranh trong mọi bộ ngành. Trong điều kiện này các công ty cạnh tranh với

nhau khốc liệt về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm hoặc sự đổi mới về sản phẩm

giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường.

Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do các đối thủ cạnh tranh nhiều và gần như

cân bằng; do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện đại ở mức độ thấp ; do các

loại chi phí ngày càng tăng ; do chưa quan tâm tới quá trình khác biệt hóa sản phẩm

hoặc các chi tiết về chi phí do sự thay đổi của các nhà cung cấp ; do các đối thủ

cạnh tranh có chiến lược kinh doanh đa dạng, có xuất xứ khác nhau ; do các hàng

rào kinh tế làm cho công ty khó có thể tự do di chuyển giữa các ngành.

3. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sản xuất

kinh doanh.

Chính sự cạnh tranh đã tạo ra động lực cho nền kinh tế phát triển tạo nên sức thu

hút, hấp dẫn cho nền kinh tế, không có cạnh tranh thì sẽ không có cơ chế thị trường,

cạnh tranh chính là sự thể hiện tính tự do ưu việt của nền kinh tế thị trường, nó luôn

luôn thúc đẩy cac doanh nghiệp ngày càng hòan thiện các sản phẩm, dịch vụ, đáp

ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp

đánh giá nhìn lại bản thân mình, phát huy điểm mạnh , khắc phục điểm yếu vận

dụng cơ hội, vượt qua được những khó khăn thử thách.

Vì vậy cạnh tranh lành mạnh luôn là mục tiêu mà xã hội thị trường và bản thân mỗi

doanh nghiệp mong muốn duy trì đạt tới.

Cạnh tranh là nhân tố kích thích tạo nguồn cho doanh nghiệp phát triển.

Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng rất khắc nghiệt. Cạnh tranh chỉ thực sự giúp đỡ

cho những doanh nghiệp có đủ khả năng, năng lực buộc các doanh nghiệp phải cố

gắng không ngừng nghỉ nó sẵn sàng loại bỏ không khón nhượng những kẻ lười nhác

không còn đủ khả năng thích nghi, sinh hoạt. Cạnh tranh diễn ra ở khắp nơi ta có

thể nói rằng sự hiện diện của cạnh tranh là hữu hình mà cũng có thể nói là vô tình.

Cạnh tranh lúc diễn ra công khai lúc diễn ra ngấm ngầm lúc dữ dội, lúc phẳng lặng

giữa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế mỗi doanh nghiệp nào biết nắm bắt cơ hội tìm

được hướng đi đúng đắn.

Xét riêng đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận mở rộng thị

trường hoạt động họ tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Đối với doanh nghiệp

của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay phương thức kinh doanh

quốc tế chủ yếu vẫn là xuất khẩu. Tuy nhiên thị trường nước ngoài với những đối

thủ cạnh tranh rất mạnh về tiềm lực. Ví vậy muốn tăng gia xuất khẩu thì phải tăng

khả năng cạnh tranh của chính mình nhằm chiếm và giữ lấy cho mình một thị phần

nhất định hay nói cách khác tăng kgả năng cạnh tranh là biên pháp nhàm tăng khả

năqng xuất khẩu.

Như vậy, rõ ràng cạnh tranh sẽ có tác động mạnh thực sự có tinh thần cầu thị, có

đạo đức kinh doanh tạo ra cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

II. Mô hình phân tích khă năng cạnh tranh của các doanh nghiệp (mô hình SWOT).

Mô hình SWOT là viết tắt của chữ Streng ths (các điểm mạnh) Oppotunities (các cơ

hội) Weaknesses (Các điểm yếu), Threates (Các thách thức). Trên cơ sở phân tích 4

nhân tố trên để tìm ra các điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp cũng như cơ hội,

thách thức đối với doanh nghiệp trên thị trường. Để từ đó các nhà lãnh đạo doanh

nghiệp trên thị trường ở thời điểm hiện nay và giúp cho doanh nghiệp để ra được

những chiến lược đúng đắn trong giai đoạn trước mắt và tương lai sau này.

Sơ đồ mô hình phân tích khả năng cạnh tranh.

1. Phân tích bên ngoài:

Đây là sự phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra các cơ hội cũng

như các thách thức đối với doanh nghiệp.

Các yếu tố bên ngoài có thể là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị , yếu tố pháp luật,

yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, yếu tố tự nhiên...

Các yếu tố này là tác động gián tiếp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do

vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích các yếu tố của môi trường bên

ngoài để tăng cơ hội, giảm thách thức hạn chế rủi ro một cách tối thiểu cho doanh

nghiệp và trên cơ sở phân tích đó lựa chọn chiến lược hợp lý cho doanh nghiệp.

2. Phân tích bên trong.

Đây là sự phân tích các yếu tố bên trong của doanh nghiệp hay là các nhân tố nội

tại của doanh nghiệp việc phân tích tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:

- Cơ cấu tổ chức.

- Đội ngũ cán bộ quản lý.

- Khả năng tài chính.

- Trình độ công nghệ ...

Từ việc phân tích những yếu tố trên, Doanh nghiệp sẽ tìm ra được những điểm

mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp sẽ biết mình

sẽ đứng ở đâu trên thị trường, thị phần hiện tại của các doanh nghiệp là bao nhiêu,

khả năng tăng thị phần của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới, khả năng phát

triển của doanh nghiệp trong tương lai ... một kẻ chiến thắng là kẻ biết mình, biết

người có như vậy doanh nghiệp mới biết được đâu là những mặt, những yếu tố đã

đang và sẽ gây ảnh hưởng cản trở cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Có

biết được nhược điểm và những điểm mạnh của mình thì doanh nghiệp mới biết

được cách để khắc phục, giải quyết vấn đề đang và sẽ đặt ra đối với Doanh nghiệp.

3. Mô hình đa giác cạnh tranh

Đứng trước một thị trường và các đối thủ cạnh tranh, Các doanh nghiệp cần thiết

lập được một bản đánh giá tương đối về các điểm mạnh và các điểm yếu của mình.

Điều này đặt ra hai vấn đề chính: Một mặt doanh nghiệp có những năng lực nào

vượt trội và mặt khác, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của các doanh nghiệp như

thế nào. Phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tức là nghiên cứu

những nguồn lực mà doanh nghiệp có từ môi trường khu vực và trong nước.

Phương pháp có thể được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh là dùng đồ thị

dưới dạng đa giác cạnh tranh đa giác này mô tả khả năng của doanh nghiệp theo các

yếu tố trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoặc một tập hợp các

đối thủ cạnh tranh để xây dựng một phân tích về khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp. Khi chồng sơ đồ này lên nhau ta có thể thu được nhanh chóng những ưu thế

tương đối của doanh nghiệp.

Các yếu tố xuất phát từ khả năng của doanh nghiệp.

- Chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng nhất được đánh giá một cách

khách quan bằng những định mức, những yêu cầu khác nhau về thị trường nước

ngoài.

- Giá cả cũng là một loại công cụ dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp cùng với chất lượng và các điều kiện như nhau thì giá cả thấp hơn khả năng

cạnh tranh của sản phẩm sẽ cao hơn.

- Bán hàng xét theo góc độ phương pháp và các phương tiện thương mại, cách thức

bán hàng của doanh nghiệp.

- Ngoại giao là khả năng điều hành theo hướng tích cực những mối liên hệ với các

nhân tố của môi trường ... điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh

doanh của mình. Đây là những tiền đề cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh

tranh của mình và mở rộng thị trường.

- Trước bán hàng là khả năng dự báo nhu cầu của thị trường và áp dụng các hoạt

động thành thạo để thuyết phục khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của

khách hàng tôt nhất thì doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà

còn có thể mở rộng thị trường của mình.

- Tài chính theo nghĩa là các nguồn tài chính hiện có và có thể huy động một cách

nhanh chóng . doanh nghiệp có thể mở rộng và sản xuất kinh doanh tăng cường hoạt

động nghiên cứu triển khai, mở rộng thị trường đều phải dựa trên nguồn tài chính

hiện có và khả năng huy động nhanh chóng.

III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự

tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ chính bản thân doanh

nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào bản

thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác của môi

trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố

cơ bản sau.

- Môi trường vĩ mô.

- Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter.

- doanh nghiệp,.

1. Môi trường vĩ mô.

Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.

Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh

hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng

thể các nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhan tố xã

hội , nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố này tác động và chi phối

mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội

hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về

các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những

biến động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này

cần được coi trọng.

a. Nhân tố kinh tế.

Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất

trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo

đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một

tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền

kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự

cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội tố

cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không

ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với

những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.

Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp

nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt

động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế bị

suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân giảm

sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách hàng,

lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại

càng trở nên khốc liệt hơn.

Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái...

cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.

b. Nhân tố chính trị và pháp luật.

Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp

nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật

là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các doanh

nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay

nước ngoài.

Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát triển

thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động

của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống pháp luật

riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi

trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với

từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ

giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế ... Các doanh nghiệp này cũng đặc

biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có

thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ

ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại

hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.

Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường

pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ...

trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả năng cạnh tranh.

c. Nhân tố xã hội :

Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi

khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà bất cứ doanh nghiệp

nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có muốn sống hay

không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.

-Lối sống, phong tục, tập quán.

-Thái độ tiêu dùng.

-Trình độ dân trí.

-Ngôn ngữ.

-Tôn giáo.

-Thẩm mỹ...

Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản phẩm, dịch

vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu muốn tồn tại

trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng đề cao sản phẩm

nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh

tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến

việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có

được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có đủ

khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh nghiệp

phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị

trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được những

giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng cao khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

d. Nhân tố tự nhiên.

Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn

cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công

nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay các

trục đường giao thông quan trọng ... sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển,

giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng phí tài

nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn

khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên

pháp hoạt động liên quan.

e. Nhân tố công nghệ.

Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất

ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết

định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh

nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.

Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách

chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào

muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát

thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ

cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở

vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường

doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho

các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

2. Môi trường ngành.

Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia

hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường

cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả

năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận.

Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh, người mua,

người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố thuộc mô

hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giữa

các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như các cơ hội và thách thức mà

doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp phải.

a. Đối thủ cạnh tranh.

Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các

doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng" Do đó

doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh.

Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để

giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung.

Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số

lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được

những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh

tranh.

b. Khách hàng .

Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh nghiệp bất

cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng luôn luôn đúng

nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách hàng mua sản phẩm

của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của

ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch

vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp

kia.

Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường hợp sau.

Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường về sản phẩm

nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả.

Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của người mua.

Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người mua thì gía cả là

một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ mua với giá có lợi và sẽ

chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp.

Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp đầy đủ về

thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng của sản phẩm thì

họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị trường với nhau họ sẽ có

xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp vì họ không thể đánh giá cũng

như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất.

Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc khách hàng

với người bán nhất định.

Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc mua bán của

mình.

Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành người cung cấp

cho chính mình.

Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị trường hiện hành

và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ càng lớn.

c. Nhà cung cấp.

Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ

có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà

cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng... họ có thể tạo ra sức ép lên

doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung cấp

... Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản

phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

d. Đối thủ tiềm năng.

Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngành

doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay

thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ

có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.

Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng lên các hàng

rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh tièem năng.

e. Sức ép của sản phẩm thay thế.

Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức

giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh

nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.

Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn

đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để phát

triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.

3. Doanh nghiệp.

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện

có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh

nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài

chính tổ chức, kinh nghiệm.

a. Nguồn nhân lực.

Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người

ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp:

Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công

của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.

Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những

gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh

nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là những thứ vô cùng quý

giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành thấp nhất,

đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ

cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ

cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết... sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là

lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh

nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và

trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.

Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự đồng bộ này

không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ những

nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng hợp riêng thu được từ

việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ

luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao

động, nâng cao chất lượng sản phẩm.

b. Nguồn lực vất chất.

Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù

hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản xuất,

làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một cơ sở vật chất tốt , chất

lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản phẩm kéo

theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của

doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả năng

cạnh tranh cao khi mà công nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm

giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là:

- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ mối tác

động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.

- Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng .

- Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc đảm bảo cho

sản xuất được liên tục, ổn định.

- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai,

nhà cửa, lao động,...) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng.

c. Nguồn lực tài chính.

Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng

như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.

Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân phối,

quảng cáo cho sản phẩm ... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của

doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng

trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có một hoạt động đầu tư mua

saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của

doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng

trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành

sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ

nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh

nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm

nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận

nhiều hơn.

Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.

Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có

phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ

dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách

hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.

Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các

nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu

động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập sẽ

có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có

có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần lợi nhuận được để lại

từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy

động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài

chính cần thiết , doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính

được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ

cạnh tranh .

Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng

mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.

d. Tổ chức.

Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn các công

việc trong doanh nghiệp.

Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm

của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ chức

có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược hoặc thúc

đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các thành viên

trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có

nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác.

e. Kinh nghiệm.

Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu

trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản

xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều sản phẩm tiết kiệm được

nhiều chi phí khác.

Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành

công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh nghiệp

có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người

lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận

B. AFTA và hội nhập AFTA.

1. Cơ sở hình thành AFTA.

Quá trình quốc tế hoá đời sỗng kinh tế thế giới đang diễn ra ở nhữn nơi cấp độ khác

nhau, với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.

Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất một hệ thống

tài chính, tín dụng toàn cầu là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc

tế theo chiều sâu , là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các

nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội có tính

chất toàn cầu như vấn đề, dân số tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái

... trong khi đó khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trongmột thời gian địa lý nhaqát định

dưới nhiều hình thức như: Khu vực mậu dịch tự do , đông minh liên minh, thuế

quan, đồng minh tiền tề, thị trường chung, đồng minh kinh tế... nhằm mục đích hợp

tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di

chuyển tư bản , lực lương lao động hàng hoá dịch vụ ... tiến tới tự do toàn cầu

nhữnh di chuyển mối liên hệ giữa các nước thành vien trong khu vực.

ở những quốc gia có kinh tế thị trường phát triển, thì xu hướng tham gia hội nhập

voà nền kinh tế trong khu vực bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng. Việc tham gia mạnh

mẽ và rông rãi các khối liên minh kinh tế khu vực, tiến tới sự nhất thể hoá cao trog

thông qua văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự

ổn định hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp của các quốc

gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như các gánh vác các

nghĩa vụ về tài chính giảm thuế cũng như giảm miễn phí khác ... Tình hình này

trong quá khứ, hiện tại và tương lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên

thế giới nói chung các quốc gia Đông Nam á nói riêng những cơ hội và thách thức

mới.

Sự hình thành kiên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục tiêu hợp tác ,

hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính sách bảo hộ mậu dịch

của các nước công nghiệp phát triển.

Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng quốc gia vào

nền kinh tế các nước trong khu vực vời nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng

khu vực liên kết và hình thức liên kết.

Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do là giai đoạn đầu của quá trình hội

nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia

nhằm mục đích tự do hoá buôn bán đối một hoặc một số nhóm mặt hàng náo đó.

đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế

quan nhằm tạo ra một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia là

thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các quốc gia ngoài

liên minh.

Sự hôi nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại những lợi ích

khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Một

quốc gia nào đó gia nhập hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đua lại

những kết quả chủ yếu sau.

Một là, Tạo lập quan hệ mậu dịch nối giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa

khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong liên minh với các nước các

khu vực khác trên thế giới : cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế các nước

thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Cũng trong điều kiện này lợi ích

của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa

vào nước như là luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó hàng hoá hạ xuống làm người dân

ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp

hơn.

Hai là, hội nhập kinh tế khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch, sự

chuyển biến này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan , và khi đó các

điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi

hơn, hấp dẫn hơn trước.

Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện thuận lợi

trong việc tiếp tục thu vốn, công nghề trình độ quản lý ... từ các quốc gia khác nhau

trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp

phần tăng năng suất lao động.

Để tiến thêm một bước nữa tới tự do thương mại toàn diện và để phản ứng với xu

thế hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, ngày 27/28

tháng 1 năm 1992 các nước ASEAN đã thoả thuận thiết lâp khu mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm trong 15 năm, kể từ 1.1.1993, thuế của các

nước trong khu vực sẽ được giảm xuống ở mức 0 – 5% và các hàng rào phí thuế

quan với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Năm 1994, các nước ASEAN đã rút

ngắn thời gian quá trình đó còn lại 10 năm, tức là thuế giảm xuống còn 0 – 5% vào

năm 2003. AFTA không phải là một liên minh thuế quan trong nuớc ASEAN vẫn

được tự do riêng để dặt thuế với những nước còn lại trên thế giới.

2. Nội dung chủ yếu của AFTA.

2.1. CEPT ( Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung )

CEPT là một cột chính để thành lập AFTA. CEPT ( Common Effective Preferential

Tarif). Được đưa ra nhằm thoả thuận các nước thành viên ASEAN trong việc giảm

thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống 0- 5% đồng thời loại bỏ những

hạn chế về định lượng các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ

1/1/1993 và hoàn thành 1/1/2003 đồng thời các nước thành viên cũng sẽ đi đến

thống nhất giữa các danh mục biếu thuế và các thủ tục hải quan để thực hiện CEPT.

Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu

đãi phải đạt 0 – 5 % trong thời gian dài nhất là 7 năm ( 5 năm đối với hàng hoá

chọn thuế thấp ) 15 nhóm sản phẩm

Đồ nhựa Đá quý và đồ trang sức

Sản phẩm cao su Cực âm dòng

Sản phẩm da Hàng điện tử

Bột giấy Nội thất bằng gỗ và mây

Hàng dệt Hoa chất

Dàu thực vật Dược phẩm

Xi măng Phân bón

Sản phẩm gốm và thuỷ tinh

Đối với nhóm giảm thông thường tốc độ giảm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao

hơn thì việc giảm thuế có thể thực hiện trong 15 năm.

Ban đầu, người ta dự tính có thể áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo

nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với các hàng hoá dễ bị tổn thương và khó

tính cạnh tranh trực tiếp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp hạn chế buôn bán là

cần thiết để đảm bảo an toàn an ninh quốc gia, sức khoẻ và truyền thống văn hoá.

Và việc loại bỏ ra khỏi CEPT các sản phẩm chỉ mang tính tạm thời. Một nước thành

viên laọi bỏ tạm thời một sản phẩm thì sẽ không còn tư cách để hướng sự xâm nhập

ưu đãi cho sản phẩm đó vào thị trường các quốc gia thành viên khác. Việc đình chỉ

ưu đãi chỉ phù hợp với điều XIX của GRATT ( hành động khẩn cấp về nhập khẩu

các sản phẩm đặc biệt ) .

Năm 1994 ASEAN đồng ý với tiến trình giảm thuế như sau.

1) Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện bình thường.

- Thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và sau đó còn 0

– 5%vào ngày 1/1/2003.

- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào ngày1/1/2000.

2) Đi với hàng hoá theo thời gian thực hiện nhanh.

- Thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào 1/1/2000.

- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào ngày1/1/1998.

* Danh sách các cửa hàng tạm thời không thuộc CEPT sẽ bị loại bỏ những sản

phẩm hiện đang nằm ngoài CEPT theo chu kỳ sẽ được đặt vào danh sách CEPT vào

thời gian bắt đầu từ 1/1/1995.

* Những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến bây giờ sẽ được đưa vào CEPT

Trước đây loại sản phẩm này nằm trong kế hoạch mậu dịch ưu đãi (PTA).

* Sẽ thành lập một đơn vị AFTA trong ban thư ký ASEAN và trong tất cả các nước

thành viên để đảm bảo một sự phối hợp giải quyết tốt hơn những vấn đề CEPT.

Phạm vi áp dụng của CEPT .

CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là của ASEAN bao gồm tư liệu sản

xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác . Một hàng hoá

đạt tiêu chuẩn của ASEAN nếu ít nhất đạt 40% nghuyên vật liẹu của nó xuất xứ từ

bất kỳ một nuức thành viên ASEAN nào đó. Trên thực tế, yêu cầu này thấp hơn yêu

cầu hàm lượng địa phương của hầu hết các klhối mậu dịch tự do khác như 50% giá

trị tăng thêm địa phương trong khối AFTA và trong hiệp định New Zealand –

Australia, AFTA yêu cầu giá trị vật tư và chi phí chế biến trực tiếp phải xuất phát từ

khối.

Theo quyết định thông qua năm 1994, những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến

sẽ phải đáp ứng tiêu chuẩn trên, dịch vụ được loại ra khỏi CEPT. Nguyên tắc xuất

xứ của ASEAN có nghĩa là có sự nhất trí chuyển hướng mậu dịch và đầu tư sang

nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành khác.

- Việc tham gia CEPT sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Tham gia AFTA sẽ

có một tác động trực tiếp nhất tới yếu tố gía cả của hàng hoá, bởi vì việc cắt giảm

thuế, đơn giản hoá thủ tục buôn bán thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố

khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép cạnh tranh trong nội bộ

AFTA.

Đặc biệt, tác động của khu vực mậu dịch tự do sẽ rõ ràng nhất trong điều kiện các

nước thành viên có điều kiện phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và buôn bán tương tự

nhau như ASEAN. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh khi sự thay đổi thuế quan sẽ có tác

dụng quyết định. Đồng thời khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn hoá cũng

lớn. Xu hướng chung phân bố sản xuất là chuyến các cơ sở sản xuất từ nơi có giá

thành cao sang nơi có gi thành thấp. Mức chênh lậch giá thành càng lớn thì luồng di

chuyển càng mạnh khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ.

Việt Nam chúng ta khi tham gia AFTA, sẽ có thuận lợi hơn cho xuất khẩu hàng

hoá sang các nước ASEAN vì các hàng rào bảo hộ của các nước đó cũng được cắt

giảm tương tự khi Việt Nam cắt giảm hàng rào bảo hộ của mình. Một thị trường lớn

nằm kế bên , có các đòi hỏi về chất lượng không phải quá cao, với các ưu đãi sẽ

được mở rộng ra cho các Doanh nghiệp Việt Nam.

CEPT sẽ là một tác nhân quan trọng không những thúc đẩy cải tiến kỹ thuật công

nghề và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, mà hơn thế còn điều

chế cơ cấu sản xuất bằng cách ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh

tranh.

Việc tham gia AFTA sẽ đặt một cươ sở công nghiệp non yếu của Việt Nam trước

một thực tế phải cạnh tranh trên thị trường nước mình trong một thé bất lợi. Do cơ

cấu mặt hàng sản xuất của ASEAN tương đối giống nhau và Việt Nam ở vào tình

thế nền sản xuất trong nước không còn được bảo hộ mạnh mẽ như trước sẽ có nguy

cơ tiêu diệt một số ngành trong nước với 100% vốn của Việt Nam, thị trường trong

nước sẽ bị chen lấn bởi sản phẩm xuất khẩu trong khuôn khổ AFTA cũng như

những liên doanh sản xuất tại Việt Nam có sự đầu tư vốn của các Doanh nghiệp

ASEAN về 15 nhóm sản phẩm tương tự.

2.2. Những hàng thuế quan (NTBS), hạn chế số lượng(ORS) và các biện pháp khác.

CEPT chỉ là một bộ phận của AFTA đã phát sinh hiệu lực, tuy nhiên thuế không

phải là cản trở duy nhất và quan trọng nhất đối với buôn bán khu vực. Cần gạt bỏ

nhiều hàng rào phi thuế quan và hạn chế số lượng .

- NTBS của Việt Nam bao gồm:

+ Giâý phép hoạt động cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu, chỉ có các doanh

nghiệp thuộc Bộ Thương Mại được thực hiện các hoạt động ngoại thương.

+ Giấy phép xuất nhập khẩu, áp dụng đối với một số loại hàng hoá.

+ Giáy chứng nhận của một số tổ chức có thẩm quyền áp dụng với các loại hàng

hoá đặc biệt.

- ORS của Việt Nam bao gồm:

+ Qua ta.

+ Các hàng hoá và như yếu phẩm do chính phủ kiểm soát đẻ tạo cân bằng cơ sở

giữa cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân.

2.3. Mục tiêu kinh tế của AFTA.

Mỗi một quốc gia tham gia vào AFTA đều đặt ra cho mình những mục tiêu nhất

định phù hợp với đặc thù của nước mình tuy nhiên tất cả họ đều có những mục tiêu

chung đó là:

- Tự do hóa thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ

khu vực và NTBS.

- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng cách mở rộng một thị

trường phối hợp rộng hơn.

- Làm thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi dặc biệt là quá trình

thành lập các khối thương mại trên thế giới.

2.4. Danh mục sản phẩm theo chương trình CEPT của Việt Nam.

Khi tham gia vào AFTA các quốc gia có thể đưa ra danh mục CEPT và lịch trình

cắt giảm của riêng mình. Hơn nữa, Việt Nam là nước gia nhập ASEAN sau lên

được gia hạn thêm 3 năm nữa có danh mục CEPT và lịch trình cắt giảm có đặc

điểm:

Danh mục CEPT được chia ra làm 3 loại.

- Danh mục các mặt hàng giảm thuế theo hai kênh nhanh và thông thường.

- Danh mục loại trữ tạm thời và loại trữ chung.

- Các sản phẩm chưa qua chế biến nhạy cảm.

Trong 3211 mặt hàng chịu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Thì 53.1% hiện có mức

thuế thấp hơn 5% ( chủ yếu là nguyên liệu thô dùng cho sản xuất trong nước các

mặt hàng chế tạo có mức thuế cao hơn để bảo vệ công nghiệp trong nước) do vậy

việc tham gia CEPT không có tác độgn mạnh đến thuế nhập khẩu.

Danh mục các mặt hàng giảm thuế gồm 1633 mặt hàng, chiếm 50.5% danh mục

hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời bao gồm 1168mặt hàng

chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu.

II. Sự hội nhập AFTA của Việt Nam.

1. Thực tiễn thực hiện AFTA :

Về tiến trình cắt giảm thuế Việt Nam nói chung không thực hiện tiến trình cắt giảm

nhanh tuy nhiên đối với những sản phẩm đang có thuế xuất 0 - 5%, tức là đã thoả

mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể thực hiện vào tién trình cắt giảm nhanh đối với

sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong doanh mục cát giảm thuế quan hướng thực

hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế bắt đầu từ năm 1998 để đảm bảo cho nguốn thu

và hôc trợ một phần cho sản xuất trong nước.

Trong hai năm 1996 - 1997 Việt Nam đã thực hiện hi cải cách thuế, trong đó đối với

chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam đã thực hiện việc phân tích

hai loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng trước khi tiến hành cát

giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu giảm trên phần

thuế nhập khẩu còn lại là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai

loại thuế trên.

Có thể nói, Việt Nam thực hiện nghiêm tục và rất thận trọng việc giảm thuế quan để

tránh ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, và làm giảm được giá hàng nhập khẩu

góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nước, còn các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu hàng sang các nước

ASEAN.

Về các biện pháp phi thuế quan thì ở Việt Nam còn rất đơn giản chỉ là giấy phép và

hạn ngạch. Để thực hiện được việc giảm thuế và bỏ hàng rào phi thuế quan Việt

Nam đã và đang phối hợp các nước ASEAN để thống nhất các danh mục biểu thuế,

có hệ thống định dạng hải quan, quy trình thủ tục hải quan, v.v...

Có thể nói, việc Việt Nam hoàn thành AFTA vào năm 2006 là hoàn toàn khả thi.

Kết luận này căn cứ vào lộ trình AFTA của Việt Nam kết hợp với chương trình cải

cách thuế và các chính sách như đã phân tích ở trên.

2. Khả năng Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003.

Để thực hiện được điểm có lợi cho từng quốc gia trong việc thực hiện AFTA là tăng

khả năng xuất khẩu và thu hút đầu tư trong khối và ngoài khối. Do vậy, để Việt

Nam tham gia vào AFTA vào 2003 vừa tận dụng được những lợi thế trên vừa phù

hợp với định hướng chiến lược các ngành kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng

rộng và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một

yếu tố quốc tế tạo nên sức bật cho nền kinh tế..

Nếu Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003 thì nguồn thu ngân sách từ thuế

nhập khẩu không giảm nhiều so với nếu hoàn thành vào năm 2006, vì thuế xuất

bình quân đối với hàng nhập từ ASEAN là 13%, nếu giảm xuống 5% vào năm 2000

thì mức giảm thungân sách chỉ là 8%đsối với 50% hàng nhập khẩu là hàng thuộc

CEPT.Trái lạ, nếu khp\ối lương hàng nhập khẩu từ ASEAN tăng thì đủ bù lại mức

giảm thu ngân sách trên. Do vậy việc Việt Nam hoàn tất giảm thuế theo ce vào năm

2003 không gây thiệt hại lớn cho ngân sách sơ với nếu vàop năm 2006. Mặt khác,

việc giảm thuế sẽ làm giảm giá bán hàng ở Việt Nam: người tiêu dùng có lợi, doanh

nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc có lợi, các nhà đầu tư thay vì xuất khẩu hàng

vào Việt Nam sẽ đầu tư trực tiếp vào đây để giữ thị phần. Tuy nhiên, các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng ché biến nhập từ ASEAN,

buộc họ phải vươn lên. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vươn

lên, song không thể thựuc hiện bất kỳ mộtchính sách bảo hộ mậu dịch nào. Các

doanh nghiệp chủ động vươn lên trong cạnh tranh là điều tích cực đối với nền kinh

tế Việt Nam.

Cái lợi lớn nhất nếu Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2003 là đầu tư nước ngoài

tăng rõ rệt, ngành công nghiệp chế biến Việt Nam sớm hướng mạnh xuất khẩu sang

ASEAN. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ tính đến thị trường

hàng công nghiệp chế biếm xuất khẩu cho thị trường ASEAN, để hưởng lợi từ

AFTA. Thị trường hàng công nghiệp chế biến ASEAN khi lớn, rất hấp dẫn đối với

các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam phải nắm lấy cơ hội này để có thể phát triển

nhanh công nghiệp chế biến xuất khẩu. Một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng, thời

cơ này chưa hề có trước đây, và tận dụng cơ hội này từ năm 1997 – 2003 Việt Nam

có thể thu hút được 21 tỷ USD FDY ( trung bình 3 tỷ USD/năm ), và cứ một đồng

vốn FDY sẽ tác động làm cho 4 đồng vốn trong nước hoạt động theo, thì số vốn

trong nước sẽ được huy động và phát huy tác dụng là 84 tỷ USD. Đây là nguồn lực

to lớn thúc đảy công nghiệp chế biến Việt Nam phát triển.

Tham gia AFTA vào năm 2003 cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam chuyển dich

cơ cấu kinh tế nhanh hơn, thị trường Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào thị trường

khu vực, một thị trường chung về hàng công nghiệp chế biến hình thành.

Trên cơ sở này, các nước ASEAN có thể hợp tác và chuyên môn hoá khu vực. Nếu

Việt Nam không chuyển đổi cơ cấu, không phát triển nhanh công nghiệp chế biến

thì Việt Nam tam gia AFTA không có ý nghĩa gì lớn , tài nguyên vv... là nơi mà các

chủ đầu tư nước ngoài rất quan tâm khi phát triển công nghiệp chế biến đầu tư vào

ASEAN.

Định hướng chiến lược phát triển các ngành vào xuất khẩu sang ASEAN mà trọng

tâm là công nghiệp chế biến đòi hỏi tất cả các biện pháp kinh tế vĩ mô như thuế

thương mại , tài chính ... đều cần được thay đổi để đảm bảo cho việc thực hiện

những thành công chiến lược đó . Sự tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN

trong thời gian qua do thực hiện những chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu -

chính là nguyen nhân tạo ra AFTA và cũng là tác động ngược lại của AFTA đối

vopứi kinh tế trong nước - đó là sự chứng minh rõ nét nhất cho sự cần thiết phải có

chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam, trong đó công nghiệp chế

biến là trọng tâm. Chúng ta sẽ thất bại nếu hội nhập kinh tế với bên ngoài mà chiến

lược kinh tế lại là thay thế nhập khẩu như trước đây hoặc duy trì song song với mức

độ như nhau cả chiến lược thay thế nhập khẩu hưỡng vào xuất khẩu ( như hiện nay).

Chúng ta ( trước 3 năm so với hạn 2006) như các nước thành viên khác vì đó là

phương án tích cực nhất , chủ động mang lại lợi ích phát triển cho Việt Nam. Việc

này đồi hỏi nhiều cố gắng trong việc đổi mới chính sách kinh tế. Càng chậm tham

gia vào AFTA thì những lợi ích thu được từ AFTA càng ít, nền kinh tế rơi vào thế

bị động trong quan hệ kinh tế quốc tế.

50.5% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời gồm 1168

mặt hàng chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu.

III. AFTA với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Việc hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA )trực tiếp ảnh hưởng ngay tại

xuất khẩu, nhập khẩu, , đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không dừng lại ở đó, mà nó

còn tác động cả vào công cuộc phát triển kinh tế của nước ta.

Các nhà kinh tế, chính trị trong và ngời nước đều có nhận định rằng nếu Việt Nam

nhập cuộc và hoà nhập vào thế giới bằng việc tham gia có hiệu quả và hợp lý váo

các hoạt động của ASEAN thì sự phát triển kinh tế chắc chắn sẽ thành đạt. Thời

gian này kéo dài bao lâu phụ thuộc chon hướng và thực hinj chuyển hưỡng cơ cấu

nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Đây là thời cơ lịch sử là thách thức của đất

nước.

1. AFTA với sự phát triển thương mại.

AFTA là mô hình được xây dựng theo nguyên tắc và nội dung cơ bản của hệ

thống thương mại toàn thế giới (WTO) hướng theo mô hình châu âu.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị định 91/CP ngày 18/12/1995về việc thực

hiện chương trình thuế quan ưu đãi chung – CEPT .Việt Nam cũng đã công bố danh

sách và các bước cắt giảm thuế ở trong nước với việc cắt giảm thuế quan là hoàn

toàn hợp lý.

Tính hợp lý đó nhằm mục đích chủ động hội nhập với các nước ASEAN, thực hiện

đường lối mở cửa của nền kinh tế , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước.

Hiện nay cơ cấu xuất khẩu của nước ta chưa hợp lý còn nhiều mặt hàng thô hàng

nguyên liệu chưa chế biến hoặc mức chế biến thấp như dầu thô , than, thiếc , cao su,

gạo. Hàng Việt Nam xuất cho các nước ASEAN chiếm khoảng ẳ khả năng xuất

khẩu và nhập khẩu từ ASEAN 1/3 khả năng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu lớn là

dầu thô ngày càng tăng trogn lúc ngành lọc dầu chưa hình thành ở trong nước.

Với cơ cấu xuất nhập khẩu như vậy chúng ta hầu như chưa được CEPT tạo thuận

lợi , vì sản phẩm đưa vào chương trình CEPT là hàng công nghiệp chế biến gồm cả

tư liệu sản xuất hàng nông sản chế biến mà Việt Nam còn chưa có ưư thế. Tại hội

nghị cấp cao tháng 12/95 đề cập tới hàng nông sản chưa chế biến được chính thức

đưa vào chương trình CEPT.

Để thực hiện CEPT, Việt Nam đã có chương trình của bộ Thương mại phối hợp với

Bộ tài Chính, đảm bảo 4 nguyên tắc.

- không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách.

- Bảo hộ hợp lý nếu sản xuất trong nước.

- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao công nghệ , đổi mới kỹ thuật cho

nền sản xuất trong nước.

- Hoà nhập với ASEAN để tranh thủ ưu đãi mở rộng thị trường và thu hút đầu tư

nước ngoài.

2. Chương trình về thuế.

Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện 3 luật thuế ( thuế giá trị gia tăng – VAT, thuế

thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân) , trong đó tôn trọng nguyên tắc không làm

giảm nguồn thu ngân sách

Mục tiêu chủ yếu của việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta là:

- Thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu .

- Đảm bảo huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

- Khắc phục việc thu thuế cùng của luật thuế doanh thu.

- Hoàn thiện chính sách hệ thống thuế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo

điều kiện hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Cắt giảm thuế theo ưu đãi của CEPT trước mắt chủ yếu là các mặt hàng công

nghiệp chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng cạnh tranh khối lương cũng

nhỏ. Hàng công nghiệp chưa qua chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng

cạnh tranh khối lư3ơng cũng nhỏ.

Hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được hưởng sự ưu đãi đó

3. AFTA và CEPT đối với các ngành kinh tế trong nước.

Việc thực hiện AFTA và CEPT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các bộ

thuộc lĩnh vực sản xuất lưu thông và các ngành quản lý.

Điều quan trọng là ổn định sự phát triển sản xuất nhưng cần tạo điều kiện để đổi

mới cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hoá , đi từng bước đi thích hợp, đáp

ứng thị trường nước ngoài, các yếu tố cần thiết trong đổi mới cơ cấu phù hợp với

vốn, kỹ thuật công nghệ và thị trường.

Theo tinh thần đó, cần xem xét việc gì có thể làm được sớm cần làm trong thời gian

ngắn nhất, như việc chế biến nông sản chẳng hạn, không cần vốn lớn chỉ cần thị

trường chấp nhận và có lợi thấ so sánh, có lãi, nên có thể làm trước.

Việt Nam đã tham gia AFTA như đã trình bày có tác đọng mạnh mẽ đến toàn Bộ

Thương Mại, đầu tư cơ cấu sản xuất ... và cả toàn bộ qua trình phát triển kinh tế của

Việt Nam.

Xem xét trên khía cạnh một doanh nghiệp tác động của AFTA là xem xát về khả

năng cạnh tranh ở trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN từ

những cơ hội và thách thức mà AFTA mở ra.

Chương II: đánh giá về khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thuỵ Khuê trong điều

kiện hội nhập AFTA

I. Thực trạng kinh doanh của công ty

1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Giầy Thụy Khuê.

1.1. Lịch sử hình thành.

Công ty Giầy Thụy Khuê là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở công nghiệp

– Hà Nội có chức năng và nhiệm vụ là: sản xuất và kinh doanh mặt hàng giày dép

các loại.

Địa chỉ của Công ty Giầy Thụy Khuê được đặt ở 2 nơi:

* Văn phòng giao dịch của công ty: Số 152 phố Thuỵ Khuê Hà Nội.

* Cơ sở sản xuất: Khu A2 xã phù diễn – huyện Từ Liêm – Hà Nội.

* Việc đặt văn phòng và cơ sở sản xuất của công ty ở những vị trí khác nhau rất

thuận lợi cho việc giao dịch, tiêu thụ sản phẩm của công ty, cũng như việc thu hút

nguồn nhân lực dồi dào của các vùng lân cận và làm việc tại công ty. Lĩnh vực sản

xuất chủ yếu của công ty là sản xuất kinh doanh các loại giày dép phục vụ cho nhu

cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể khái quát như sau:

Tiền thân của công ty là xí nghiệp quân nhu X3, ra đời vào tháng1/1957 chuyên sản

xuất giầy vải và mũ cứng cung cấp cho bộ đội, trải qua chặng đường gần nửa thế

kỷ, lúc nhập vào (1978) từ xí nghiệp X30 thành xí nghiệp giày vải thượng đình,

doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống mỹ cứu nước và xây

dưng XHCN. Do nhu cầu phát triển của ngành ngày 1/4/1989 một phân xưởng xí

nghiệp của giày cvải thượng đình được UBND thành phố Hà Nội cho tách ra thành

Giày vải Thuỵ Khuê theo quyết định số 93/QĐUB ký ngày 7/1/1989 của UBND

thành phố Hà Nội.

Năm 1992 xí nghiệp chuyển tên thành Công ty Giầy Thụy Khuê với tên giao dịch

quốc tế Thuy Khue SHOES COMPANY ( JTK). khi mới tách ra công ty có 650 ấn

bộ công nhân viên, giá trị tài sản gồm có vốn cố định 256 triệu đồng và vốn lưu

động là 200 triệu đồng bằng vật tư và bán thành phẩm. Lúc đó có hai phân xưởng

sản xuất, số nhà xưởng sản xuất hầu hết là nhà cấp 4 cũ nát, thiết bị máy móc cũ kỹ,

lạc hậu, sản xuất chủ yếu bằng phương pháp thủ công sản phẩm mỗi năm chỉ đạt

trên dưới 400000 sản phẩm, phân lớn ra công mũ giày cho liên Xô ( cũ ) và là sản

phẩm cấp thấp.

Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị

trường, hơn nữa là một doanh nghiệp trẻ mới được thành lập với đặc thù nhiệm vụ

sản xuất kinh doanh giày dép là một mặt hàng dân dụng phụ thuộc nhiều vào yếu tố

thời tiết, khí hậu, mùa vụ, sức sống dân cư... song công ty vẫn không ngừng đổi mới

đầu tư mua trang thiết bị máy móc hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh, bên

cạnh đó Công ty Giầy Thụy Khuê rất chú trọng tời nguồn nhân lực, công ty đã xác

định lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm

bảo chất lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao, số lương và chất lượng lao động sẽ

ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất hiệu quả máy móc thiết bị của công ty. Do đó

những năm qua công ty không ngừng lớn mạnh cả về số lương và chất lượng. Hiện

nay tổng số lao động của công ty là 2156 người trong đó có 87% lượng lao động trế

khoẻ, có trình độ tiếp thu những công nghề sản xuất tiên tiến. Trong nhũng năm gần

đây công ty đã không ngừng nâng cao và cải thiện điều kiện làm việc. Đối với các

phòng ban và nghiệp vụ nhân viên được làm việc trong điều kiện khá tốt. Có đày đủ

thiết bị văn phòng kể cả hệ thống thông tin liên lạc, từng phòng có gắn máy điều

hoà nhiệt độ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp được làm việc trong môi trường

an toàn có đủ hệ thống chiếu sáng, quạt máy và đủ m,áy móc chuyên dùng thay thế

cho những công việc nặng nhọc. Hiện nay công ty có 6 dây chuyền sản xuất và 20

0000m2 nhà xưởng.

Về thu nhập của người lao động: đây là một trong những mục tiêu cơ bản hàng đầu

của công ty. Trong những năm gần đây công ty không ngừng nâng cao và cải tiến

đời sống người lao động, lương tháng bình quân năm 1995 là 404.000 đồng, năm

1996 là 460.000 đồng năm 1997 là 535.000 đồng năm 1998 là 596.000đồng năm

1999 là 600.000 đồng.

Như vậy do chú trọng tới việc đầu tư máu móc thiết bị hiện đại và không ngừng

phát triển nguồn nhân lực của mình, nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất được mặt hàng

giày dép cấp thấp chủ yếu têu thụ thị trường nội địa, đến nay sản phẩm của công ty

đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại , chất lượng sản phẩm được nâng cao,

khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm từ chỗ công ty có rất ít khách hàng nhất

là khách hàng nước ngoài thì đến nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều nơi

trên thị trường thế giới như thị trường EU , úc, Bắc mỹ....

* Tài sản Công ty Giầy Thụy Khuê:

Với quá trình phát triển như vậy tính đến năm 2000quy mo sản xuất kinh doanh của

công ty là:

- Tổng số vốn kinh doanh 32198725000 đồng.

- Vốn ngân sách cấp: 11271321080đồng.

- Vốn vay 19269187000đồng.

- Vốn tự bổ sung :1658217000đồng.

1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty:

1.2.1. Chức năng

Công ty Giầy Thụy Khuê ( JTK) có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các loại

giày dép và một số mặt hàng khác ù cao su phục vụ do tiêu dùng và xuất khẩu.

Ngoài ra công ty còn có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy

phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2051081 cấp ngày 18/12/1992. Phạm vi kinh

doanh xuất nhập khẩu của công ty là:

* Xuất khẩu: các loại giày dép và mặt hàng công ty sản xuất ra.

* Nhập khẩu: vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất

của công ty.

Công ty thực hiện ché độ hạch toán kinh doanh độc lập trên cơ sở lấy thu bù chi,

khai thác các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của dất nước đẩy mạnh hoạt động

sản xuất tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.

1.2.2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty.

Là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Công ty

Giầy Thụy Khuê có vai trò quan trọng trogn sự nghiệp xây dựng thủ đô Hà Nội và

ngành giày dép Việt Nam. Nhiệm vụ của công ty được thể hiện:

- Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ ngiêm

chỉnh các quy định của luật pháp.

- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Sở

Công nghiệp Hà Nội giải quyết các vấn đề vướng mắc trong hoạt động sản xuất

kinh doanh.

- Tuân thủ luật pháp nhà nước về quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao

dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại

thương và các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh của công ty.

- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản

xuất kinh doanh, đầu tư vào hoạt động đổi mới trang thiết bị tự bù đắp chi phí, tự

cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành

nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước nghiên cứu thực hiện có hiệu quả nâng cao các

biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm do công ty sản xuất ra, kinh doanh làm

tăng sức cạnh tranh và mở rộng doanh thu tiêu thụ.

- Quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để phù hợp với hoạt động sản

xuất kinh doanh của công ty và theo kịp sự đổi mới của đất nước.

1.3. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty:

Xuất phát từ tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu của thị trường và

để phù hợp với sự phát tiển của mình, công ty đã không ngừng nâng cao, hoàn thiện

bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lýcủa công ty được chia làm

3 cấp : Công ty, Xưởng- Phân xưởng sản xuất. Hệ thống lãnh đạo của Công ty bao

gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc trong việc

tiến hành chỉ đạo quản lý.

-Ban giám đốc gồm :

+Tổng giám đốc .

+ Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật.

+ Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh.

- Hệ thống các phòng ban bao gồm.

+ Phòng tổ chức

+ Phòng tài vụ kế toán

+Phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu

+ Phòng cung ứng vật tư

+ Phòng cơ năng

+ Phòng kỹ thuật

- Ba xí nghiệp:

+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số I

+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số II

+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số III

- Một trung tâm thương mại và chuyển giao công nghệ: 152 – Tây Hồ – Hà Nội .

Mô hình tổ chức quản lý của Công ty là mô hình trực tuyến, chức năng. Đứng đầu

là Giám đốc Công ty sau đó là các phòng ban nghiệp vụ và sau là các đơn vị thành

viên trực thuộc.

2. Kết quả kinh doanh của công ty trong giai đoạn vừa qua.

Trong những năm gần đây công ty đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ.

Công ty đã không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lương lẫn chất

lượng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua

được thể hiện thông qua biểu dưới đây

Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khố khăn, co hẹp về tài chính,

thị trường biến động , cạnh tranh gay gắt nhưng công ty đã naqưng động trong việc

thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất

định.

Qua biểu trên ta thấy trong 4 năm 97 – 2000 công ty đã phấn đấu thực hiện chính

sách các kết quả sản xuất kinh doanh như sau:

- Về sản lương sản phẩm sản xuất.

Năm 1998 vượt năm 1997 là 35,2% năm 1999 vượt năm 1998 là 20,4% và năm

2000 vượt năm 1999 là 0%. Như vầy, số lượng sản phẩm sản xuất của công ty tăng

nhanh qua các năm. Điều này cghững tỏ sức sản xuất của công ty càng ngày càng

được mở rộng . Có được thành tích này là do công ty đã không ngừng đầu tư mở

rộng sản xuất, cải tiến , thiết bị tăng dây chuyền và người lao động sử dụng , thu

hút thêm nhiều lao động mới vào làm việc tại công ty.

- Về doanh thu: Qua số liệu trên ta thấy không chỉ có số lượng sản phẩm sản xuất

tăng nhanh mà doanh thu bán hàng cũng tăng đáng kể qua các năm 1998 tăng so với

năm 1997 là 31,02%, năm 1999 tăng so với năm 1998 là 17% và năm 2000 so với

năm 1999 là 18,5 %. Dièu này cho thấy sản phẩm sản xuất của công ty ngày càng

được khách hàng tiếp nhận hơn

- Về chi phí và lợi nhuận:

Trong năm 1998công ty đã tiết kiệm trong việc tiết kiệm chi phí để thu mức lợi

nhuận đạt 31,9% nhưng năm 1999 do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhân làm

cho mức lợi nhuận chỉ tăng 15% đến năm 2000 lợi nhuận của công ty lại tăng và đạt

32,58%

- Thu nhập bình quân đầu người của công ty đã được cải thiện qua các năm. Năm

1998/1997 tăng 16,39%, năm 1999/1998 tăng 11,4%, năm 2000/1999 tăng 16,66 %.

Có được kết quả này là do công ty đã không ngừng quan tâm tới lợi ích của các cán

bộ công nhân viên trong công ty và đã sử dụng đòn bẩy kinh tế khuyến khích người

lao động hăng say làm việc.

- Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của công ty cho nên việc

tăng doanh thu xuất khẩu là một nhân tố tích cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh

giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường

Nhìn chung, các mặt hàng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều tăng qua

các năm tuy tốc độ tăng không đều. Nhưng nhìn chung cũng đã thể hiện được một

sự phát triển của công ty.

3. Đặc điểm về mặt hàng giày.

Ngành giày là ngành công nghiệp nhẹ, sản phẩm của ngành vừa phục vụ cho sản

xuất vùa phục vụ cho tiêu dùng. đối tượng phục vụ của ngành giầy rất rộng lớn bởi

nhu cầu về loại sản phẩm của khách hàng rất đa dạng cho các mục đích sử dụng

sản phẩm giày là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mọi đối tượng khách

hàng . Mặt khác sản phẩm giày phụ thuộc nhiều vào mục đích sử dụng và thời tiết,

do đó công ty đã chú trọng sản xuất những sản phẩm chất lượng và yêu cầu kỹ thuật

cao – công nghệ phức tạp giá trị kinh tế của sản phẩm cao.

Sản phẩm chính của công ty là giày dép các loại dùng cho xuất khẩu và tiêu dùng

nội địa ( % sản xuất làm ra dành cho xuất khẩu ) đây là mặt hàng dân dụng phụ

thuộc rất nhiều vào yếu tố thời tiết khí hậu và mục đích sử dụng của khách hàng .

Vì thế để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và thị hiếu của người tiêu

dùng, công ty đã tung ra thị trường những mặt hàng giày dép chủ yếu sau:

- Giầy vải cao cấp dùng để du lịch và thể thao.

- Giày vải nữ thời trang cao cấp.

- Giày da xuất khẩu cho các loại.

- Dép giả da xuất khẩu các loại.

Do có sự cải tiến về công nghệ sản xuất cũng như làm tốt các công tác quản lý kỹ

thuật nên sản phẩm của công ty có chất lượng tương đương với sản phẩm

Của những nước đứng đầu châu á.

Đặc điểm sản phẩm của công ty có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động nâng cao khả

năng cạnh tranh của công ty. Đặc biệt sản phẩm của công ty chủ yếu là xuất khẩu,

đây là một đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh

của công ty. Đặc điểm này được thể hiện qua biểu sau.

Biểu: Kết quả xuất khẩu của Công ty Giầy Thụy Khuê.

4. Thực trạng về nhân lực:

Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh

do đó công ty đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu để sản xuất kinh doanh. Nếu

như đảm bảo chất lượng, số lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao vì yếu tố này

sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến hiệu quả của máy móc thiết bị, do đó

trong những năm qua lực lượng lao động của công ty không ngừng lớn mạnh cả về

chất lượng và số lượng

Ngày mới tách ra số cán bộ công nhân viên của công ty chỉ có 650 người do nhận

thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động, nhất là đối với sản xuất giày nên

số lương lao động của công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của

công ty là 2394 người trong đó 88% lực lượng lao động của công ty là những người

trẻ khoẻ có kiến thức văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiến tiến lao động trực

tiếp của công ty là 2224 người chiếm 92,9% tổng số lao động.

Hầu hết các công nhân viên của công ty đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn

của ngành. Số công nhân có trình độ tay nghề bậc 6/7 là 126 người chiếm

5,67%trình độ bậc 5/7 là 138 người chiếm 6,2% trình độ tay nghề 3/7 là 513 người

chiếm 23,06%. Số còn lại là lao động thủ công đã qua lớp đào tạo tay nghề từ 3 – 6

tháng do công ty tổ chức. Số lao động gián tiếp là 170 người chiếm 17,1 % trong

đó 88 người đã tôt nghiệp đại học . Bậc thợ bình quân của công ty qua các năm

ngày càng tăng cao chứng tỏ chất lượng lao động càng được chú ý dào tạo, huấn

luyện và nâng cao.

Về nguồn lao động thì chủ yếu thu hut từ các nguồn sau:

- Từ các trường đại học trung học và chuyên nghiệp, về làm cho các phòng ban tài

chính, phụ trách kỹ thuật tai công ty.

- Con em các cán bộ công nhân viên trong ngành tuyển dụng vào làm tại công ty.

- Tuyển qua các trung tâm giới thiệu việc làm ...

Về thu nhập của con người lao động trong công ty đã không ngừng nâng cao và cải

thiện đời sống người lao động. Lương thàng trung bình của người lao động hàng

năm 1995 là 403.000 đồng, năm 1996 là 500.000 đồng, năm 1997 là 535.000 đồng

năm 1998 là 596.000 đồng năm 1999 là 600.000 đồng năm 2000 là 700.000 đồng.

Như vậy do chú trong tới việc đầu tư máy móc và thiết bị hiện đại và không ngừng

phát triển nguồn nhân lực nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất một số sản phẩm cấp thấp

chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa đến nay, sản phẩm công ty rất đa dạng , phong

phú về màu sắc chủng loại, chất lượng sản phẩm được nâng cao, được khách hàng

trong và ngoài nước tín dụng, sản phẩm của công ty đã có mặt ở thị trường khó tính

trên thế giới.

5. Thực trạng về công nghệ.

Từ ngày tách ra thành một công ty làm ăn độc lập với những dây chuyền cũ, lạc hậu

không thích ứng với thời cuộc đứng trước tình hình đó ban giám đốc công ty đã tìm

ra phương hướng đi riêng cho mình, tìm đối tác làm ăn, ký kết hợp đồng chuyển

giao công nghệ. Hiện nay dây chuyền sản xuất chủ yếu của công ty đều nhập từ Đài

Loan, Hàn Quốc phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam về kỹ thuật và sử dụng

nhân công nhiều.

Đến nay công ty đã đầu tư 6 dây chuyền sản xuất, công suất 3.5 triệu đôi/ năm trong

đó gồm hai dây chuyền sản xuất giày dép thời trang, 4 dây chuyền sản xuất giày thể

thao, giày vải cao cấp xuất khẩu giày bảo vệ lao động và các sản phẩm may mặc,

cao su hoá. Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ, giày vào form;

cắt gián “ 02” ( đường viền quanh đế giày) , các dây chuyền có tính tự động hoá,

trong công xưởng công nhân không phải đi lại hệ thống chuyền chạy điều khắp nơi.

Chính đặc điểm qui định này trong công nghệ sản xuất giày đảm bảo hơn cho dây

chuyền sản xuất cân đối nhịp nhàng, cho phé p doanh nghiệp khai thác tới mức tối

đa các yếu tố vật chất trong sản xuất, nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh.

Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê có thể biểu diễn

theo sơ đồ sau.

Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê.

Quy trình sản xuất giầy có thể được hiểu như sau;

- Vải ( vải bạt, vải các loại ) đưa vào cắt may thành mũ giầy sau đó dập Oze.

- Crêp ( cao su, hoá chất) đưa vào cán luyện , đúc dập ra đế giầy.

- Mũi giầy vải kết hợp với đế cao su hoặc nhựa tổng hợp để đưa xuống gỗ lắp ráp ,

lònh mũi giầy để cho vào form giầy, quết kao vải để dán giầy, ráp đế giầy và các chi

tiết khác rồi đưa và gò.

- Gò mũi mang gót đế dán cao su làm phản giầy sau đó dán đường trang trí lên giầy

được sản phẩm giầy sống, lưu hoá trong 128 – 135 o C được giầy chín công đoạn

cuối cùng là xâu dây giầy vào kiểm nghiệm chất lượng và đóng gói.

II. Phân tích tình hình kinh doanh của công ty.

1. Về mặt hàng.

Sau thời kỳ Liên Xô và các nước đông âu tan rã, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn

về thị trường tiêu thụ sản phẩm trước đây chủ yếu là mũ, giầy vải giầy bảo hộ.

Đòi hỏi đặt ra đối với công ty trong thời gian đó là rất lớn.

Thứ nhất là về công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất của công ty hết sức lạc hậu.

Mà trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt một doanh nghiệp muốn

tồn tại thì phải tìm cách nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối ưu.

Muốn cạnh tranh thắng lợi thì chất lượng sản phẩm phẩi tốt giá không quá cao có

nghĩa là phải có giá thành thấp , để thực hiện được điều này thì một điều kiện hết

sức quan trọng là phải có công nghệ tiên tiến . Nhiều giải pháp lớn được đề ra và

thực hiện trong đó có giải pháp về sản xuất kết hợp và áp dụng các thành tựu khoa

học kỹ thuật mới về sản xuất là biện pháp hàng đầu. Công ty đã hợp tác với các đối

tác P.D.G củaThái Lan, Arc của Hàn Quốc ...

Thứ hai, là nguyên vật liệu đầu vào ban đầu hầu hết các nguyên vật liệu như vải cao

su , nhựa, da ni lông , hoá chất... được nhập khẩu từ bên ngoài . đây là một khó khăn

lớn cho công ty vì việc nhập các loại nguyên vật liệu từ nước ngoài thừơng thì giá

cao, phải phụ thuộc vào ngân hàng. Dần dần công ty đã chuyển hướng khai thác

nguồn nguyên vật liệu từ trong nước, từ các công ty như :

- Công ty dệt 8/3.

- Công ty cao su sao vàng.

- Mặt lớp vạn thành ...

Thứ 3 là vốn sản xuất ban đầu công ty chỉ có 256 triệu đồng vốn cố định và vốn lưu

động có 200 triệu đồng bằng vật tư và bằng bán thành phẩm.

Cho đến nay tổng vốn kinh doanh của công ty lên đến 32.198.725.000 đồng trong

đó vốn chủ sở hữu là 12.929.538.000 đồng vốn vay 19.269.187.000 đồng .

Là một doanh nghiệp nhà nước nên hàng năm công ty cũng được nâng cấp vốn dưới

dạng cho vay với lãi suất ưu đãi.

Như vây, trong quá trình phát triển của mình công ty đã tạo ra được những sự tiến

bộ theo một hướng đi riêng chính điều này đã tạo nên đặc điểm riêng về cả cơ cấu

mặt hàng của công ty.

Mười năm phát triển cũng là một chặng đường khá dài đối với một doanh nghiệp

sản xuất, với hình thức chủ yếu là gia công xuất khẩu cho đối tác nước ngoài , công

ty đã dần xây dựng quan hệ tạo ra cho mình những khách hàng truyền thống. Cũng

chính vì hình thức kinh doanh chủ yếu là gia công xuất khẩu nên cơ cấu mặt hàng

của công ty được xây dựng trên cơ sở khách hàng truyền thống.

điều này được hiếu theo cách khách hàng đưa ra những mẫu mã kiếu dáng , yêu cầu

về chất lượng đặt hàng cho công ty từ đó công ty xây dựng nền cho mình cơ cấu

mặt hàng để sản xuất và tiêu thụ trong nước và thị trường ở nước khác.

2. Về thị trường.

Là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy xuất khẩu công ty giầyThuỵ

Khuê đã bắt đầu coi trọng đến công tác phát triển thị trường cũng như việc xác định

mục tiêu của công tác đó. Thị trường xuất khẩu của công ty khá rộng, công ty có

quan hệ hơn 20 nước trên thế giới.

a. Thị trường xuất khẩu.

- Thị trường EU.

Đây là thị trường chính của công ty chiếm tỷ trong lớn đối với bạn hàng thường

xuyên là Đức, Anh, Pháp, Mỹ, trên thị trường này công ty đã khẳng định được chỗ

đứng của mình ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe và thoả mãn nhu

cầu của khách hàng quốc tế.

Với 15 nước thành viên , EU là một thị trường lớn đối với sản phẩm giầy mà công

ty đang tiếp tục khai thác trong những năm gần đây sản phẩm giầy của công ty xuất

sang thị trường này tăng lên đáng kể và chiếm tỷ trọng lớn ( trên 90%) doanh thu

xuất khẩu luôn đạt được mức tăng trưởng từ 1,4 đén 1,5 lần, trong đó thị trường ở

đứ Anh, Pháp là ba thị trường lớn và thường xuyên của công ty với giá trị khả năng

xuất khẩu sang thị trường này không ngừng tăng và mở rộng đặc biệt là thị trường

Đức chiếm 52,10% sang đến năm 1998 chiếm và tiếp tục tăng trong các năm 99 và

2000.

Hai thị trường Anh và Pháp vẫn là hai thị trường chủ yếu nhưn có xu hướng giảm

nhẹ. Thị trường Pháp năm 1997 chiếm 11,02% năm 1998 chiếm 6,6% năm 1999

chiếm6,3% và năm 2000 chiếm 11,6% tỷ trọng ở các thị trường này có xu hướng

giảm nhẹ là do công ty đang có xu hướng mở rộng sang các thị trường mới như

Hylap, Hà lan, áo, ... công ty nắm bắt được những đặc điểm của thị trường EU nên

đã gia tăng thị phần ở thị trường này.

Đặc điểm của thị trường này là.

- Khi tham gia vào EU Việt Nam được hưỏng quy chế ưu đai chung. Theo quy định

này, các hàng hoá của Việt Nam được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan theo hệ

thống ưu đãi phổ cập của EU đây là thuận lợi lớn mà một số quốc gia đứng đầu về

sản phẩm sản xuất giầy như Hàn Quốc, Đài Loan không có được.

EU là thị trường đầy tiềm năng có mức tiêu dùng giầy cao nhất thế giới là 6 đôi /

người / năm. Khu vực này có điều kiện khí hậu lạnh người dân đã quen với việc sử

dụng giầy hàng ngày. Mặt khác là do đặc điểm của sản phẩm giầy luôn gắn bó với

các trào lưu mốt, thời trang mà một số nước trong khối EU là những trung tâm thời

trang của thế giới nên thị trường này rất cao đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng

cao về mẫu mã và phù hợp.

- Thị trường Bắc Mỹ.

Ngoài EU, bắc mỹ cũng là một thị trường lớn của công ty đặc biệt trong đó có

Canada và Mỹ là hai thị trường có tiềm năng năm 1997 xuất khẩu sang Cana đa

chiếm 4,94% năm 1998 là 3,57% năm 1999 3,95% và sang năm 2000 tăng lên

3,61%. Đặc trưng đòi về giầy của dân chúng Mỹ trước hết là các loại giầy thể thao

giầy cho việc nghỉ ngơi thư giản , giầy tiện nghi. Tuy nhiên khu vực thị trường lại

đòi hỏi rất khắt khe với chất lượng mẫu mã của sản phẩm.

Tháng 7/2000 Việt Nam và Mỹ đã ký hiệp định thương mại song phương đây là cơ

sở cho Việt Nam có thể có được quy chế toứi huệ quốc (MFN) của mỹ, mở ra cơ

hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp thuộc gngành

giầy da nên trong tương lai thị phần cho công ty ở khu vực này sẽ tăng lên mạnh

mẽ.

- Thị trường khác.

Ngoài ra công ty còn xuất sản phẩm của mình ra các nước Châu á và Châu úc.

Khu vực Châu á được coi là khu vực năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển

cao. Thị trường Châu á với số dân rất lớn nhưng mức tiêu dùng giầy chưa cao 0,5 –

2 đôi / năm. Với các nước Châu á do điều kiện tự nhiên rất giống với Việt Nam,

mang truyền thống văn hoá á đông không cách xa nhau lắm nên giảm được chi phí

vận chuyển, hàng hoá của công ty xuất sang Châu á có nhiều thuận lợi hơn. Song

thị trường Châu á lại mang tính cạnh tranh khốc liệt về mặt hàng giâỳ do có nhiều

nước cùng sản xuất đặc biệt là Trung Quốc, Đài loan, Hàn Quốc. úc cũng là một thị

trường có quy mô của công ty Năm 97 thị trường này chiếm 2,3% và năm 2000

chiếm 2,8%.

b. Thị trường trong nước.

Thị trường trong nước của công ty chưa phát triển mạnh vẫn thổi nổi lượng giầy

tiêu thụ của người dân hàng năm không cao, đối tác chủ yếu của công ty là các công

ty tại thành phố Hồ Chí minh. Trong nước hiện nay chưa có rất nhiều công ty sản

xuất giày dép như Thượng Đình, Thăng Long, Bittis nên sự cạnh tranh khá mạnh

trong tương lai công ty cần có chính sách đúng để chiếm lĩnh thị trường trong nước.

III. Tác động của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt Nam và đối với

công ty giày dép thuỵ khuê.

1. Tác động của doanh nghiệp Việt Nam.

1.1. Vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam.

a. Về mậu dịch.

Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu luồn lách với các nước Liên Xô cũ và

đông âu. Hàng hoá xuất khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghệ địch thủ

ký kết giữa các chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các

doanh nghiệp trong nước.

Tù khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986 số lượng các bạn hàng buôn bán

với Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam- ASEAN tăng

mạnh với tốc độ khoảng 27%/ năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân

thương mại. Thương mại Việt Nam – ASEAN chiếm 1/3 kim ngạch ngoại thương

của Việt Nam và trong đó xuất khẩu chiếm 1:4 và nhập khẩu chiếm 1/3. Quan hệ

thương mạo trong khu vực vẫn nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước .

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nông sản thô, thực phẩm chiếm

48% nhiên liẹu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo 18% . Nghĩa là khi tham gia

vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế ít hơn các doanh

nghiệp các nước trong khu vực.

Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN bao gồm Dỗu thô, đậu, cao su,

chè ngô, hạt dièu, tiêu, rau quả tươi, thuỷ sản, thép, gỗ, thiếc, hàng thủ công,... như

vậy trong số các sản phẩm này có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp

chế biến , mặt hàng được ưu đãi thuế quan ở mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các

nh này chỉ có tính chất bổ sung cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không

có vị thế cạnh tranh thực sự.

Khoảng cách giữa mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5 % sau khi thực hiện

AFTA. đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến nmà doanh nghiệp Việt Nam

có thể tăng cường trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý, ...

Mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá của ASEAN trên thị trường nội địa sẽ ngày

càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được thực hiện đầy đủ.

Đối với quan hệ thương mại Việt Nam và giữa các nước ngoài ASEAN thì lợi ích

thu được đối với doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được

vật tư đầu vào vopứi giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối

lượng hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên các nước ASEAN cũng xuất khẩu ra thị

trường thế giới những sản phẩm tương tự Việt Nam cho nên họ cũng tăng sức cạnh

tranh khi gia nhập AFTA.

b. Về sản xuất.

Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu ở Việt Nam chỉ chiếm

trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với

các con số tương ứng với các nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế

tạo của Việt Nam hầu như chưa có mặt trên thị trường ASEAN, ngược lại hàng hoá

công nghiệp chế tạo ASEAN đã thâm nhập khá sâu sắc vào trong số 15 nhóm hàng

giảm thuế nhanh các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản

phẩm để xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vẫn chưa có

chất lượng được tin cậy, lại vừa chưa gây được ấn tượng vì hình thức kiểu dáng.

Các doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động

do tiền lương ở Việt Nam tương đối thấp hơn so với các nước ASEAN khác. Tuy

nhiên sản phẩm của các ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà

xuất sang các nước thuộc khu vực khác. Do vậy việc tham gia AFTA chưa có tác

động quan trọng đến các doanh nghiệp sử dụng người lao động.

1.2. Những cơ hội và thách thức của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt

Nam.

a. Cơ hội.

- Thứ nhất, tham gia vào AFTA sẽ tạo sức ép được buộc doanh nghiệp Việt Nam

phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực áp

dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và cung cách làm ăn mới, hơn nữa gia

nhập AFTA cũng bắt buộc, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào

những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức

cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải

đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã giá cả hàng hoá trong

vòng 5 – 8 năm, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho đối thủ trong

khu vực.

Thứ hai, Các doanh nghiệp Việt Nam có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được

những nguyên liệu đầu vào rẻ hơn. đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ

một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên vật liệu sẽ bị loại bỏ

khi gia nhập AFTA, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt cơ hội này họ có

thể vượt lên cạnh tranh tôt với các đối thủ trong khu vực.

Thứ ba, Doanh nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua

cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp Việt Nam xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng

vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bới những doanh nghiệp nước ngoài

hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng . Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả

hơn và thích ứng hơn đối với điều kiện quốc tế thay đổi.

b. Thách thức.

- Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang sử dụng những công nghệ lạc hậu, cũ

kỹ sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lợi từ những sản phẩm có công nghệ tương đối cao

của ASEAN. Không loại trừ một số trường hợp hàng hoá Việt Nam sẽ bị đánh bật

ngay trên thị trường Việt Nam.

- Tham gia AFTA có nghĩa là nhà nước Việt Nam phải từ bỏ các khoản thu ngân

sách nhất định do giảm thuế nhaạo khẩu và giảm thu năng suất có thể ảnh hưởng

ngay lập tức tới các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các ngành sản xuất mang tính

chiến lưọc đang được trợ cấp.

2. Tác động đối với Công ty Giầy Thụy Khuê.

a. Về nguồn nguyên liệu.

Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm, chất lượng sản phẩm

góp phần vào việc làm hạ giá thành sản phẩm.

Nguyên vật liệu của công ty bao gồm rất nhiều loại như vải, cao su, nhựa, da , ni

lon, ... hiện nay phần lớn hoạt động sản xuất giày dép cuả công ty là làm hàng gia

công cho nước ngoài nên nhiều loại nguyên liệu hóa chất đều phải nhập từ nước

ngoài vào.

Bên cạnh việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài vào , Công ty còn khai thác

nguồn nguyên vật liệu ở trong nước thông qua các doanh nghiệp sản xuất trong

nước.

Những năm gần đây dây vải sợi trong nước đã có nhiều tiến bộ về chất lượng đã

đáp ưngs được phần nào vải sợi có chất lượng cao để phục vụ hàng xuất khẩu.

Các công ty đã hợp tác chặt chẽ với các công ty như.

+ Công ty dệt 8/3, công ty dệt kim Hà Nội, công ty dệt 19/5.

+ Công ty cao su sao vàng.

+ Mút xốp vạn thành.

+ Đế đức sơn.

+ Tổ hợp dệt tân thành.

Các công ty này tuy đã đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng , chất lượng, nhưng

còn một số điểm tồn tại như đôi khi còn chậm chạp, giá cao, chưa theo kịp sự thay

đổi của mốt giầy.

Ngoài nguồn nguyên vật liệu trong nước. Công ty còn nhập một số lượng lớn các

nguyên vật liệu ở nước ngoài. Việc phải nhập nguyên liệu từ nguồn nước ngoài do

nhiều nguyên nhân bắt buộc công ty phải nhập như là:

- Do yêu cầu của chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu, vì vậy phải nhập khẩu

nguyên vật liệu nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.

- Do nguồn nguyên vật liệu trong nước chưa đáp ứng đủ số lượng và chất lượng

nguyên vật liệu.

Khi tham gia vào AFTA, về mặt nguyên vật liệu công ty chịu những tác động sau.

Thứ nhất, về các Nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi hoàn thành AFTA giá các sản

phẩm nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 0 – 5% nên giá các sản phẩm nhập khẩu chắc

chắn sẽ giảm. Các nước trong khu vực ASEAN sẽ cung cấp một số lượng lớn hơn

về Nguyên vật liệu cho công ty đảm bảo chất lượng và giá giảm hơn hiện nay.

Thứ hai, về Nguyên vật liệu trong nước. Khi hoàn thành AFTA các doanh nghiệp

trong nước sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp thuộc các

quốc gia ASEAN nên họ phải cải tiến công nghệ, giảm giá thành nâng cao chất

lượng nên công ty sẽ có được những Nguyên vật liệu tốt hơn với giá hạ hơn.

b. Về công nghệ .

Chúng ta biết rằng Châu á phát triển theo mô hình “đàn nhạc” dẫn đầu là Nhật Bản

sau đó là các nước NIEs trong đó có XINGAPO tiếp theo là các nước NIEs thứ hai ,

sự di chuyển công nghề theo hiệu ứng “chảy tràn”có nghĩa là công nghệ được di

chuyển cũng theo thứ tự từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn – khi

tham gia vào AFTA với các hàng rào được dỡ bỏ sự di chuyển công nghệ sản xuất

lài càng mạnh mẽ hơn . Việt Nam chúng ta là nước đi sau nên có điều kiện tiếp thu

công nghệ tiên tiến hơn. Công ty Giầy Thụy Khuê cũng nằm trong bối cảnh này nên

cũng tiếp thu được những công nghệ sản xuất giày dép hiện đại , các mẫu mã kiểu

dáng công nghiệp cũng như các sở hữu công nghiệp khác ... tao điều kiện hạ giá

thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.

c. Về kinh tế.

Khi tham gia AFTA các điều kiện thương mại sẽ thuện lợi hơn cho các thành viên.

Theo nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của ASEAN sẽ được hưởng các điều kiện ưu đãi

từ các quốc gia thành viên vì vậy sẽ có những luồng đầu tư từ bên ngoài vào nhất là

từ các nước phát triển để tận dụng các nguồn vật liệu, lao động từ ASEAN và phát

triển thị trường ở khu vực ASEAN kéo theo nó là các kinh nghiệm quản lý, phát

triển thị trường ... không những thế các đối tác của các quốc gia có nền kinh tế thị

trường phát triển hơn Việt Nam cũng xâm nhập vào Việt Nam mạnh mẽ hơn ở họ

có những kinh nghiệm mà bên phía các doanh nghiệp Việt Nam cần học tập.

Tác động này ảnh hưởng đến toàn bộ các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

trong đó Công ty Giầy Thụy Khuê.

d. Về đối tác.

Khi tham gia AFTA, môi trường cạnh tranh trong nước sẽ khốc liệt hơn các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ được hưỏng ngày càng ít hơn sự trợ cáp của nhà nước , chính

điều kiện cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém , điều này sẽ làm

giảm bớt đi những đối tác trong nước, các đối tác nước ngoài sẽ xâm nhập vào Việt

Nam điều này làm tăng về số lượng các đối tác nước ngoài.

Hơn nữa, AFTA sẽ làm tăng tính chuyên môn hoá giữa các quốc gia có nghĩa là mỗi

một quốc gia sẽ sản xuất một số mặt hàng hoá nhất định mà mình có lợi thế để cung

cấp cho các quốc gia thành viên điều này làm thay đổi về chất trong quan hệ giữa

công ty và các đối tác của mình.

IV. Đánh giá về khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện

hội nhập AFTA.

Như đã phân tích ở trên khi tham gia hội nhập AFTA có tác động mạnh mẽ đến

Công ty Giầy Thụy Khuê nó đem lại những cơ hội cũng như các thách thức đối với

công ty điều này có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty.

A. Theo mô hình SWOT.

1. Về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.

Hoạt động kinh doanh xuất khẩu giày dép là một trong những hoạt động chính chủ

yếu của công ty, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của công ty.

Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê thì vấn đề chính là giá cả và chất lượng mặt hàng

giày dép, do công ty chưa có uy tín trên thị trường quốc tế cho nên vấn đề nhãn hiệu

không phải là vấn đề quan trọng cần chú ý ngay.

Trong những lĩnh vực này thì chúng ta có thể chỉ ra những điểm mạnh điểm yếu của

công ty như sau.

* Mặt mạnh: quy mô của công ty không qua lớn, hoạt động sinh hoạt để thích ứng

với sự thay đổi của thị trường. Công ty có trụ sở chính , cơ sở sản xuất sản xuất ở

Hà Nội điều này sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho việc đối tác nước ngoài iđến tìm hiểu ,

ký kết hợp đồng làm ăn vì Hà Nội là trung tâm văn hoá - kinh tế – chính trị của các

nước, các đoàn thương gia nước ngoài thường đến thủ đô để tìm hiểu tìm kiếm các

đối tác làm ăn trong tất cả các lĩnh vực cũng như môi trường đầu tư, Hà Nội có vị

trí thuận lợi gần cảng Hải Phòng , do đó mà được vận chuyển giao hàng cho các đối

tác nước ngoài sẽ gặp nhiều thuận lợi.

* Mặt yếu: công ty còn bị động trong kinh doanh do phụ thuộc vào đối tác trong

nước và nước ngoài. Mẫu mã do nước ngoài đưa sang chứ chưa có mẫu mã chom

riêng bản thân mình , công ty thường tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc vận

chuyển vì công ty không có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp thường phải đi thuê. Kho

bãi của công ty chưa đủ lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh.

2. Về nhân sự.

Nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi hoạt động của mỗi doanh nghiệp

nếu chỉ nói đén lao động sản xuất trực tiếp của công ty thì không có gì phải bàn

nhưng nói đến lao động gián tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh , giao dịch tìm

kiếm khách hàng thì lại là một vấn đề khác.

* Mặt mạnh: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo công ty đa phần là những người có kinh

ngiệm lâu năm . có trình độ chuyên môn kỹ thuật có mối quan hệ rộng.

* Mặt yếu: Số lượng người có trình độ cao ít ở trình độ cao học công ty không có

một người nào, số lượng người có trình độ đại học còn chưa cao, một số trong đó

không được đào tạo thích ứng với cơ chế thị trường. Do đó, một số cán bộ trẻ được

đào tạo trong cơ chế mới không phát huy được năng lực cũng như không kết hợp

được với kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lâu năm giầu kinh nghiệm trên.

3. Về tài chính.

Mặt mạnh về tài chính là cơ cấu tài chính linh hoạt được nhà nước cho vay với lãi

suất ưu đãi, công ty có thể huiy động vốn với nhièu nguồn khác nhau.

Vốn lưu động nhiều nguồn vốn vay khá lớn số lượng chu kỳ sản xuất tương đối

ngắn nên thời gian quay vòng vốn ngắn.

Mặt yếu: Vốn chủ sở hữu chủ yếu là ngân sách cấp chiếm 88% nên khi tham AFTA

nguồn vốn này có thể sẽ bị giảm do sự giảm sút nguồn thu ngân sách từ thuế nhập

khẩu.

4. Về Marketing.

Marketing là khâu quan trọng đưa khách hàng đến với công ty là con đường để

công ty chiếm lĩnh thị trường đồng thời là một trong những cách để nâng cao khả

năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoạt động Marketing có nhiệm vụ nghiên cứu

thị trường trong và ngoài nước , tìm hiểu nắm vững và dự báo nhu cầu thị trường

đưa ra cách thức tôt nhất để công ty nâng cao được khả năng cạnh tranh cuả công

ty.

Trong điều kiện hội nhập AFTA công ty có những mặt mạnh và mặt yếu sau đây.

Mặt mạnh: sự tín nhiệm của một số khách hàng truyền thống giữ được nguồn

khách hàng cũ , khuếch trương và lôi kéo được khách hàng mới về làm ăn với công

ty trực tiếp đi ra nước ngoài để tìm kiếm và ký kết hợp đồng làm ăm mới , đông thời

khuyến khích mọi thành viên trong công ty cùng tìm kiếm khách hàng .

Mặt yếu: công ty chư a có biện pháp tiến hành Marketing theo đúng nghĩa của nó

công ty chỉ chú trọng thị trường nước ngoài mà không chú trọng thị trường trong

nước, hoạt động khuyến mại hầu như không có. Chiến lược định vị không được

công ty chú trọng việc thu nhâph thông tin về thị trường chưa có cơ sở khoa học ở

thể bị động phụ thuộc nhiều vào khách hàng nước ngoài không có chiến lược giá rõ

ràng.

5. Về tổ chức quản lý chung.

Vấn đề tổ chức quản lý chung của công ty có ảnh hưởng lớn tới mọi hoạt động mọi

cá nhân làm việc trong công ty néu việc tổ chưca quản lý không tốt bố trí không

đúng người đúng việc thì sẽ trơt thành nhược điểm, cản trở hoạt động sản xuất kinh

doanh của công ty.

*Mặt mạnh: Nhiều cán bộ có nhiều kinh nghiệm lâu năm trong nghề lãnh đạo doanh

nghiệp có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước.

Học tâp được kỹ năng tổ chức quản lý chung từ phía đối tác nước ngoài.

* Mặt yếu: công tác cập nhật, báo cáo, chứng từ sổ sách của các phòng ban nghiệp

vụ chưa thường xuyên có khi thiếu chính xác. Việc giúp lãnh đạo nắm bát tình hình

để chỉ đạo kịp thời trong sản xuất kinh doanh và các mặt hoạt động khác chưa cao.

Qua những phân tích trên ta có thể khái quát lại một số mặt mạnh mặt yếu của

Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA như sau.

1. Quy mô công ty không quá lớn, hoạt động lĩnh vực thích ứng sự thay đổi của môi

trường. 1. Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên

nghiệp

2. Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm. 2. Số lượng người có trình độ cao được

đào tạo theo cơ chế thị trường ít

3. Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động

chiếm tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn

3. tỷ trọng năng suất cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn

4.được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới. 4. Hoạt động

Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi trọng không

có chiến lược rõ ràng.

5. Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, các cơ quan quản

lý nhà nước có thể học tập được kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài

5. Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp

thời các mặt hoạt động sản xuất chưa cao.

* Phân tích theo cơ hội và nguy cơ.

Việc phân tích những mặt mạnh mặt yếu ở trên chưa cho phép chúng ta đánh giá

một cách tổng quát toàn diện về khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện

hội nhập AFTA vì vậy chúng ta cần xem xét những cơ hội và thách thức mà AFTA

đem lại cho công ty như đẫ phân tích ở phần.

Chúng ta có thể thấy được những cơ hội mà AFTA đã đưa lại cho công tylà:

- Công ty có thể mua được những nguyên liệu phục vụ cho sản xuất giày dép với

giá rẻ hơn chất lượng cao hơn làm giảm giá thành sản phẩm.

- Công ty có điều kiện tiếp thu những công nghệ hiện đại hơn.

- Học tập được kinh nghiệm quản lý của các đối tác sau đây chúng ta sexets những

thách thức AFTA đưa đến cho công ty.

Khi tham gia AFTA nhà nước Việt Nam sẽ bị giảm đi những khoản thu ngân sách

nên có thể giảm những khoản trợ cấp cho công ty vôn năng suất cấp chiếm 88% vốn

chủ sở hữu nên khi không được cung cấp hoặc cung cấp hạn chế hơn công ty sẽ gặp

phải những khó khăn.

- Công nghệ hiện nay của công ty hiện nay còn thời gian khấu hao máy móc thiết bị

còn dài mà nó không phải là hiện đại nhất trong các doanh nghiệp trong khu vực

ASEAN nên có những hạn chế trong việc nâng cao chất lượng.

- Cả nước trong khu vực ASEAN có các điều kiện khá giống nhau nên khi tham gia

ắt ta điều kiện thuận lợi công ty sẽ phải chịu sự cạnh tranh của các đối thủ khác ở

ngay trên thị trường Việt Nam.

- Họ cũng có cơ hội để hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh vì

vậy vt còn phải chịu sự cạnh tranh của họ tại các thị trường bên ngoài khu vực

ASEAN.

- Các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng gia tăng sức ép cạnh tranh cho công ty.

1. Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn 1. Giảm trợ cấp từ phía nhà nước

2. Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại 2. Công nghệ

của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA

3. Học tập kinh nghiệm quản lý 3. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoài.

4. Đối thủ cạnh tranh

Ma trận swot của công ty Giày Thuỵ Thuê.

Sử dụng ma trận SWOT nhằm tạo ra sự phối hợp logic giữa các mặt mạnh, yếu với

các cơ hội thách thứccủa công ty. Mục đích của sự phối hợp này là để giúp công ty

đề ra các biện pháp đúng đắn để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu, tận dụng và

gia tăng cơ hội, giảm thiểu và đối phó được với các thách thức.

Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê ma trận SWOT có thể được trình bày tóm tắt ở

bảng sau

Ma trận SWOT Cơ hội(O)

Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn 1.

Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại 2.

Học tập kinh nghiệm quản lý Thách thức(T) 3.

Giảm trợ cấp từ phía nhà nước 1.

Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA 2.

Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà 3.

Đối thủ cạnh tranh. 4.

Mặt mạnh(S)

Quy mô công ty không quá lớn 1.

Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm. 2.

3. Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động

chiếm tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn

4. được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.

5. Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập

được kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài S/O

-Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn

-Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại

-Học tập kinh nghiệm quản lý

-Quy mô công ty không quá lớn

-Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm.

-Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động chiếm

tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn

-được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.

-Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập được

kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài S/T

-Quy mô công ty không quá lớn

-Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm.

-Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động chiếm

tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn

-được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.

-Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập được

kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài

-Giảm trợ cấp từ phía nhà nước

-Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA

-Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà

Đối thủ cạnh tranh

Mặt yếu(W)

1. Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp

2. 2. Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít

3. tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn

4. Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được

coi trọng không có chiến lược rõ ràng.

5. Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các

mặt hoạt động sản xuất chưa cao.

W/O

-Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp

-Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít

-tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn

-Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi

trọng không có chiến lược rõ ràng.

-Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các

mặt hoạt động sản xuất chưa cao.

-Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn

-Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại

-Học tập kinh nghiệm quản lý W/T

-Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp

-Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít

-tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn

-Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi

trọng không có chiến lược rõ ràng.

-Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các

mặt hoạt động sản xuất chưa cao.

-Giảm trợ cấp từ phía nhà nước

- Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA

- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà

-Đối thủ cạnh tranh.

B. Theo đa giác cạnh tranh:

Mô hình đa giác cạnh tranh dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Giầy

Thụy Khuê . nó mô tả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo các yếu tố , chất

lượng, tài chính, giá cả, bán hàng, trước bán hàng, ngoại giao. Trong mối quan hệ so

sánh với các đối thủ cạnh tranh công ty.

Khi hoàn thành AFTA, sẽ có những đối thủ cạnh tranh.

Khi hoàn thành AFTA. Công ty sẽ có những đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào

và đối thủ cạnh tranh trong nuớc.

Sau đây chúng ta sẽ phân tích khả năng cạnh tranh của công ty trong quan hệ so

sánh với các đối thủ cạnh tranh đó.

1. Chất lượng sản phẩm:

Đây là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh với chất lượng thì doanh nghiệp

sẽ giành được lợi thế cạnh tranh.

Về mặt này Công ty Giầy Thụy Khuê

Điểm mạnh: Công ty đã chú trọng tời việc nâng cao chất lượng sản phẩm một cách

kiên trì, thường xuyên. Công ty cũng đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ

khá cao để kiểm tra giám sát, chất lượng của sản phẩm thường ổn định.

Điểm yếu: công ty chưa tạo được uy tín về chất lượng và sản phẩm của công ty vì

sản phẩm của công ty xuất khẩu phần lớn là mang nhãn hiệu của đối tác đặt hàng

chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực cũng như trong nước.

Doanh nghiệp trong khu vực ASEAN có những điểm mạnh và điểm yếu sau:

+Điểm mạnh: chú trong đến viêch nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản

phẩm khá cao ổn định , số lượng bán hàng truyền thống của mhọ lớn hơn do họ có

quan hệ ở bên ngoài trước các doanh nghiệp Việt Nam.

+ Điểm yếu: Chưa tạo được yếu tố tín về chất lượng sản phẩm đốivới thị trường

khắt khe do quan niệm quốc tế về khu vực ASEAN.

Các doanh nghiệp trong nước có những điểm mạnh và điểm yếu sau.

+ Điểm mạnh: Đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản

phẩm khá cao và ổn định đã dần tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm trong

nước:

+ Điểm yếu: Chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực, chưa tạo ra

được uy tín quốc tế bên ngoài khu vực ASEAN.

2. Về tài chính.

Công ty Giầy Thụy Khuê:

+ điểm mạnh: được nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi. Có thể huy động vốn từ

nhiều nguồn khác nhau.

+ Điểm yếu: Khả năng phân tích tài chính còn yếu còn chưa nhiều vào việc trợ giúp

của ngân sách nhà nước.

Các doanh nghiệp trong khu vực ASEAN.

+ Điểm mạnh: Khả năng tài chính lớn có thể vay được từ nhiều nguồn trong nước

và nước ngoài với số lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.

+ Điểm yếu: Khả năng tài chính cũng không phải là lớn đủ để không phải lo về vấn

đề tài chính.

Các công ty giầy trong nước:

Điểm manh:Có thể vay vốn với nhiều nguồn khác nhau với khối lượng lớn hơn

Công ty Giầy Thụy Khuê, tiềm lực tài chính lớn hơn.

Điểm yếu : Trả lãi suất vay lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.

3. Về giá cả.

Công ty Giầy Thụy Khuê:

+ Điểm mạnh: Giá sản xuất tương đối thấp, ngày càng có xu hướng do công ty có

thể giảm được giá thành sản phẩm.

+ Điểm yếu: Không thể giảm giá quá nhiều. Do chi phí vận chuyển, kho bãi còn

lớn.

Các công ty giầy trong nước:

+ Mặt mạnh: Giá cả được chấp nhận ở mức ổn định do chiến lược giá đã bắt đầu

được xây dựng.

+ Mặt yếu: Giá cả không phải là thấp so với đối thủ cạnh tranh

Các công ty giầy trong khu vực ASEAN.

+ Mặt mạnh: Có thể xuất khẩu được nhiều nguyên vật liệu trong quá trình xuất

khẩu, giá thành sản phẩm thấp.

+ Mặt yếu: ở họ có sự liên kết tạo ra mức giá chung nên khó có thể tự hạ giá , với

những đối tác khó tính họ dễ bị mất khách hàng.

4.Về bán hàng .

Công ty Giầy Thụy Khuê.

+ Điểm mạnh: Bán hàng theo phương thức, chiến kược kinh doanh quen thuộc,

khách hàng không bị bất ngờ

+ Điểm yếu: Phương thức bán hàng còn cứng nhắc bị động không hấp dẫn và

khuyến khích khách hàng.

Các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước.

+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thức đa dạng khác nhau.

+ Điểm yếu: Chưa thật sự linh hoạt.

Các công ty sản xuất trong khu vực ASEAN.

+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thúc nhanh gọn, đa dạng.

+ Điểm yếu: Hầu như không có.

5. Về ngoại giao:

Công ty Giầy Thụy Khuê:

+Điểm mạnh: Có mối quan hệ tôt với đối tác hợp tác, bán hàng, các cấp chức quyền

và cơ quan quản lý nhà nước.

+Điểm yếu: Chưa có những đối sách mới về xây dựng quan hệ mới với các đối tác

nước ngoài.

Đây là điểm mạnh đối với các công ty giầy trong nước khác và các doanh nghiệp

trong khu vực ASEAN.

6. Trước bán hàng:

Đây là việc dự báo nhu cầu thị trường và thoả mãn nhu cầu đó.

Công ty Giầy Thụy Khuê:

+ Điểm mạnh: Có một số khách hàng truyền thống nên luôn xác định được lượng

nhu cầu tối thiểu sẽ có trên thị trường.

+ Điểm yếu: Hầu như không có đội ngũ Marketing chuyên nghiệp, dự báo tốt nhu

cầu của thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng để đưa ra được kế hoạch kinh

doanh tối ưu nhất.

Các công ty giầy trong nước.

+ Điểm mạnh: được khách hàng tin cậy nên rễ ràng xác điịnh được nhu cầu và thoả

mãn được nhu cầu đó.

+ Điểm yếu: Đôi khi chưa dự báo chính xác được nhu cầu của thị trường làm ảnh

hưởng tới việc kinh doanh.

Các công ty giầy trong khu vực ASEAN.

+ Điểm mạnh: Có nhiều khách hàng trên nhiều thế giới được các khách hàng tín

nhiệm, có thể thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng .

+ Điểm yếu: đối khi còn coi thường các đối thủ cạnh tranh.

Dưới đây là bảng tóm tắt một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu.

Bảng tóm tắt về một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu

Công ty Giầy Thụy Khuê Các công ty trong nước Các công ty trong

khu vưc

1. Chất lượng sản phẩm:

Điểm mạnh: Công ty đã chú trọng tời việc nâng cao chất lượng sản phẩm

một cách kiên trì, thường xuyên. Công ty cũng đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có

trình độ khá cao để kiểm tra giám sát, chất lượng của sản phẩm thường ổn định.

Điểm yếu: công ty chưa tạo được uy tín về chất lượng và sản phẩm của công ty vì

sản phẩm của công ty xuất khẩu phần lớn là mang nhãn hiệu của đối tác đặt hàng

chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực cũng như trong nước. +

Điểm mạnh: Đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản

phẩm khá cao và ổn định đã dần tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm trong

nước:

+ Điểm yếu: Chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực, chưa tạo ra

được uy tín quốc tế bên ngoài khu vực ASEAN.

+Điểm mạnh: chú trong đến viêch nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng

sản phẩm khá cao ổn định , số lượng bán hàng truyền thống của mhọ lớn hơn do

họ có quan hệ ở bên ngoài trước các doanh nghiệp Việt Nam.

+ Điểm yếu: Chưa tạo được yếu tố tín về chất lượng sản phẩm đốivới thị trường

khắt khe do quan niệm quốc tế về khu vực ASEAN.

2. Về tài chính.

+ Điểm mạnh: được nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi. Có thể huy động

vốn từ nhiều nguồn khác nhau.

+ Điểm yếu: Khả năng phân tích tài chính còn yếu còn chưa nhiều vào việc trợ giúp

của ngân sách nhà nước. + Điểm mạnh:Có thể vay vốn với nhiều nguồn khác

nhau với khối lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê, tiềm lực tài chính lớn hơn.

điểm yếu : Trả lãi suất vay lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.

+ Điểm mạnh: Khả năng tài chính lớn có thể vay được từ nhiều nguồn trong

nước và nước ngoài với số lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.

+ Điểm yếu: Khả năng tài chính cũng không phải là lớn đủ để không phải lo về vấn

đề tài chính.

3. về Giá cả + Điểm mạnh: Giá sản xuất tương đối thấp, ngày càng có xu hướng do

công ty có thể giảm được giá thành sản phẩm.

+ Điểm yếu: Không thể giảm giá quá nhiều. Do chi phí vận chuyển, kho bãi còn

lớn.

+ Mặt mạnh: Giá cả được chấp nhận ở mức ổn định do chiến lược giá đã bắt

đầu được xây dựng.

+ Mặt yếu: Giá cả không phải là thấp so với đối thủ cạnh tranh

+ Mặt mạnh: Có thể xuất khẩu được nhiều nguyên vật liệu trong quá trình

xuất khẩu, giá thành sản phẩm thấp.

+ Mặt yếu: ở họ có sự liên kết tạo ra mức giá chung nên khó có thể tự hạ giá , với

những đối tác khó tính họ dễ bị mất khách hàng.

4.Về bán hàng + Điểm mạnh: Bán hàng theo phương thức, chiến kược kinh

doanh quen thuộc, khách hàng không bị bất ngờ

+ Điểm yếu: Phương thức bán hàng còn cứng nhắc bị động không hấp dẫn và

khuyến khích khách hàng.

+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thức đa dạng khác nhau.

+ Điểm yếu: Chưa thật sự linh hoạt.

+Điểm mạnh:

Bán hàng theo nhiều phương thúc nhanh gọn, đa dạng.

+ Điểm yếu:

Hầu như không có.

5. về ngoại giao +Điểm mạnh: Có mối quan hệ tôt với đối tác hợp tác, bán

hàng, các cấp chức quyền và cơ quan quản lý nhà nước.

+Điểm yếu: Chưa có những đối sách mới về xây dựng quan hệ mới với các đối tác

nước ngoài.

Không có điểm yếu. Không có điểm yếu.

C. Kết luận về khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện

hội nhập AFTA.

1. Những ưu điểm

Khi Việt Nam tham gia vào AFTA. Một sức ép cạnh tranh mới sẽ đè nặng lên Công

ty Giầy Thụy Khuê.

Nếu như công ty cạnh tranh thắng lợi, giành được thị phần lớn công ty sẽ tăng được

khối lượng hàng hoá bán ra từ đó gia tăng được lưọi nhuận và sụ phát triển vững

chắc của công ty qua phân tích trên ta có thể kết luận về những ưu điểm của Công

ty Giầy Thụy Khuê như sau:

Quan hệ của lãnh đạo cũng như toàn bộ công ty đối với bán hàng là khá tốt nên

trong tương lai công ty vẫn giữ được các bạn hàng truyền thống của mình và với

quy mô không quá lớn, hoạt động thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi

trường sẽ tạo khả năng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng . Với những cán bộ

lãnh đạo giầu kinh nghiệm sẽ dẫn dắt công ty đương đầu voéi những chiến lược

cạnh tranh của các đối thủ.

Cơ cấu tài chính của công ty linh hoạt vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao thời gian

quay vòng vốn ngắn tạo điều kiện cho công ty có thể đáp ứng tối đa những sự thay

đổi trong kiểu dáng và chất lượng.

Sự tiếp thu được những kỹ năng kinh nghiệm quản lý giúp cho công ty hoạt động

ngày càng có hiệu quả hơn.

Với những nguyên vật liệu mua vào rẻ hơn , chất lượng tốt hơn công nghệ sản xuất

hiện đại hơn chắc chắn công ty sẽđưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng tốt

hơn, giá rẻ hơn. Làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong tương lai.

2. Những hạn chế

Công ty thiếu quá nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ cao do đó hoạt động sản

xuất kinh doanh còn kém.

Trong đội ngũ cán bộ hiện tại đang thiếu những cán bộ kinh tế có năng lực, thật sự

thích ứng với cơ chế thị trường, các cán bộ có kinh nghiệm lâu năm vẫn giữ thgói

quen cũ trogn cơ chế bao cấp. Kế hoạch hoá nên đã gây cản trở nhiều cho hoạt động

sản xuất kinh doanh của công ty.

Đội ngũ công nhân lao động trực tiếp sản xuất tuy lành ngề nhưng chưa có tác

phong công nghiệp nên hoạt động sản xuất chưa phát huy hết công suất cũng như

hiệu quả.

Công ty không có chiến lược giá thích hợp, áp dụng giá cả cứng nhắc với mọi khách

hàng, vì vậy khi gặp những khách hàng khó tính. Khả năng đàm phán tốt thì lại bị

ép giá, phải hạ giá rất nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho công ty.

Công ty vẫn chưa xâm nhập được thật sự vào những thị trường nước ngoài có tương

lai phát triển tốt mà chủ yếu là mới ở thế chen chân có mặt trên thị trường chứ chưa

thực sự khẳng định được sự có mặt vững chắc của mình.

Công ty chưa có đội ngũ cán bộ được đào tạo quy củ, bài bản làm công tác

Marketing, nghiên cứu, dự báo, lập kế hoạch, chiến lược theo đúng nghĩa của nó.

Công ty còn bỏ trống thị trường trogn nước, tạo cơ hội cho các đối thú cạnh tranh

chiếm lĩnh thị trường này.

Vấn đề nhà kho cũng gây khó khăn cho công ty, vấn đề bảo quản hàng hoá cũng

như diện tích của nhà kho không đủ lớn để công ty mở rộng hoạt động sản xuất

kinh doanh mà nếu thuê nhà kho sẽ gây tốn kém không ít cho công ty.

chương III: giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy

Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.

A. Định hướng chung

Trong mười năm qua Công ty Giầy Thụy Khuê đã không ngừng phát triển thị

trường chủ yếu của công ty là EU, Bắc Mỹ... với khối lượng sản phẩm, doanh số

bán ngày càng tăng.

Khi Việt Nam tham gia hội nhập AFTA đã mở ra nhưng cơ hội cũng như những

thách thức mới. chúng ta đâ xem xét khả năng cạnh tranh của công ty trong điều

kiện đó. Tuy nhiên, như đã nói thị trường chủ yếu của công ty không phải là khu

vực châu á hay ASEAN. Vì vậy để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty

chúng ta không thể không tính đến triển vọng phát triển thị trường của công ty.

1. Triển vọng phát triển.

- Công ty Giầy Thụy Khuê rất chú trọng thị trường EU. Đây là thị trường khó

tính, yêu cầu cao phong cách hoạt động và tâm lý kinh doanh của các doanh nghiệp

thuộc thị trường EU cũng khác so với các doanh nghiệp châu á, vì vậy khi tiếp xúc

làm ăn, đàm phán phải kiên trì tiếp cận trực tiếp, thảo luận cụ thể, đặc biệt giữ chữ

tín trong kinh doanh, bảo đảm đúngcác điều kiện của hợp đồng thì khả năng xuất

khẩu giày vào thị trường này mới phát triển được.

Sang năm 2005, chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ lúc đó tuy không còn các hạn chế định

lượng nhưng công ty cũng không được hưởng các ưu đãi về thuế đòi hỏi công ty

phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì và phát triển thị phần của mình.

Về mặt nhu cầu giày, người dân các nước thuộc EU có thói quen dùng giày thể

thao, lượng tiêu dùng hàng năm của mỗi người dân ở khu vực này là lớn nhấtt thế

giới, mà sản xuất giày thể thao là một hoạt động chủ yếu của công ty nên tiển vọng

phát triển của công ty ở khu vực này là khá lớn, công ty có thể đặt nhiều hivọng vào

khu vự c này.

- Về thị trường Bắc Mỹ: khu vực Bắc Mỹ với NAFTA (North American Free

Trade) là thị trường rộng lớn của tất cả các loại hàng hoá của các nước EU, Nhật

Bản hay như các Châu á đều coi đây là thị trường chính của mình. ở đây là sự tổng

hợp lớn nhất của cung cầu hàng hoá các loại với dòng vào và dòng ra có quy mô

khổng lồ.

Hơn nữa, người dân ở đây cung có thói quên dùng giày. Lượng tiêu dùng của mỗi

người dân hàng năm khá lớn nên nhìn chung mức cầu về hàng giày dép khu vực này

là rất lớn.

Tháng 7/2000 Việt Nam và Mỹ đẫ ký hiệp định thương mại song phương, đây là cơ

sở để Việt Nam láy được quy chế tối huệ quốc (Most favourist nation- MFN) của

Mỹ, với quy chế này hàng hoá của Việt Nam sẽ được giảm thiểu thuế nhập khẩu

cũng như các hàng rào phi thuế quan khi vào thị trường Mỹ và coi như đẫ đặt được

một chân vào thị trường NAFTA.

Như vậy, tương lai cho các loại hàng hoá của Việt Nam cũng như mặt hàng giày

của chúng tôi ở thị trường này là rất khả quan công ty cần chuẩn bị cho mình khả

năng cạnh tranh mạnh mẽ để đặt nốt chân còn lại vào NAFTA mở rộng thị phần, gia

tăng doanh số bán và đạt được sự phát triển bền vững.

2. Phương hướng chung.

Mục tiêu hoạt động của công ty trong thời gian tới là mở rộng thêm thị trường hoạt

động, tìm kiếm thêm thị trường mới, gia tằn lợi nhuận tăng uy tín vị thế của công ty

trên thị trường thế giới. Công ty phải xác định phương hướng hoạt động đúng đắn,

phù hợp với thực tế tình hình quốc tế. Công ty phải xác định được thị trường mục

tiêu chu kỳ sống của sản phẩm là bao lâu trên thị trường nước ngoài, những danh

mục nào cần phải cải tiến nâng cao, đồng thời phải luôn tiến hành điều tra nghiên

cứu nhu cầu trên thị trường, chú trọng đến những thay đổi trong thị hiếu, trên thế

giới cũng như từng thị trường... để từ đó đưa ra các chiến lược Marketing đúng đắn,

lập ra được những kế hoạch trong ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp để tiến

hành đầu tư thích đáng và sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Công ty phải nâng cao cải tiến đổi mới dây chuyền công nghệ, chất lượng

sản phẩm đặc biệt là những mặt hàng cao cấp. Bên cạnh đó phải chú trọng đến việc

tìm kiếm nguồn nguyên liệu ổn định không những trông nước mà cả trong khu vực,

giá cả phải chăng chất lượng tốt.

Bên cạnh đó, công ty còn phải đảm bảo chăm lo cho công tác đào tạo, bồi dưỡng

phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là những cán bộ có trình độ quản lý và kỹ thuật

cao, nâng cao trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp của đội ngũ công nhân viên,

sử dụng đúng người đúng việc.

Công ty cũng nên cử cán bộ ra nước ngoài học tập thiết kế các kiểu dáng giày dép

kết hợp với công tác nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu để xây dựng hệ thống Marketing

mix, đưa ra được những sản phẩm riêng. Từng bước định vị sản phẩm của mình ở

thị trường nước ngoài cũng nhơ thị trường trong nước. Tránh được sợ bị động, phụ

thuộc của công ty vào đối tác. Gia tăng ược lợi nhuận do "bán tận ngọn". Công ty

cũng nên xây dựng cho mình các kênh phân phối trong và ngoài nước, chuyển dần

từ xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp nhằm gia tăng lợi nhuận của công ty

do giảm được chi phí cho các đơn vị trung gian.

Việt Nam chúng ta theo kế hoạch năm 2006 sẽ hoàn thành AFTA, lúc đó thị

trường ASEAN sẽ là một thị trường chung thống nhất, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt

hơn. từ bây giờ đến lúc đó chỉ còn 4 năm, đây là một thời gian ngắn, vì thế công ty

phải tận dụng nó để hoàn thiện bản thân để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị

trường.

B. Giải pháp.

I. Tăng cường năng lực nội tại.

Để có thể cạnh tranh thắng lợi, nhất thiết Công ty phải có một tiềm lực mạnh.

Các đối thủ trong khu vực ASEAN nhất là Xingapore, Thái Lan, Malaixia đã đi

trước chúng ta một thời gian, họ có tiềm lực khá mạnh nên. Để có thể đứng đầu

được với họ trước hết Công ty cần phải nâng cao nội tại của mình. Có nghĩa là

Công ty phải phát huy các nhân tố như: con người, tài chính, chất lượng sản phẩm.

Marketing, chiến lược thị trường.

1. Phát huy nhân tố con người.

Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng

trọng sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Việc phát triển nhân tố con

người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực

hiện giải pháp kinh doanh của mình. Việc đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động

sinh lời nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp nào. Mà Công ty Giầy

Thụy Khuê là một doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ với đặc điểm sản

xuất sử dụng nhiều lao động thì việc phát huy nhân tố con người là điều vô cùng

quan trọng. Thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của bất cứ một doanh

nghiệp nào, bao giờ người ta cũng chú trọng đánh giá vào nhân lực của doanh

nghiệp đó bởi vì sự phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đội ngũ lao

động của họ.

Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải chú trọng hơn nữa trong vấn đề tổ chức

đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ, đồng thời phải sắp xếp, bố trí lao động

một cách hợp lý đúng người đúng việc, tránh tình trạng chuyên môn một đằng phân

công một nẻo. Sắp xếp lại các phòng ban theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, năng động

và có hiệu quả.

Công ty cần lập quỹ để làm kinh phí cho các nhân viên đến các trường đại

học cập nhật những kiến thức mới, các tiếp cận vấn đề một cách hiện đại để có thể

thu được kết quả cao hơn, đáp ứng đòi hỏi của công việc kinh doanh trong cơ chế

thị trường hiện nay, và phù hợp với quy luật của sự phát triển. Công ty cũng nên

xây dựng một nội quy kỷ luật làm việc rõ ràng, khuyến khích mọi người làm

việtheo tác phong công nghiệp. Công ty cũng phải xây dựng các chế độ khuyến

khích về lợi ích kinh tế, lợi ích tinh thần cho công nhân viên trong Công ty. Phải

triệt để khai thác lợi thế để giải quyết quyền lợi của người lao động với t, làm cho

họ coi Công ty là mái nhà chung để cùng cố gắng chăm lo.

2. Khả năng tài chính.

Công ty phải tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng chất lượng sản phẩm,

tăng cường việc đào tạo cho cán bộ công nhân viên... Nhưng tất cả những biện pháp

đó chỉ có thể được thực hiện khi Công ty có đủ năng lực tài chính tiến hành các hoạt

động đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị cả về chiều sâu lẫn chiều rộng và đầu tư cho

công tác đào tạo, sử dụng tuyển chọn trả lương cao cho những người lao động,

những chuyên gia kinh tế cao cấp.

Nguồn vốn của Công ty và khả năng huy động vốn của Công ty hiện tại là

khá lớn tuy nhiên để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu mối dây chuyền công

nghệ, đầu tư vào lao động, như đã nói đòi hỏi một lượng vốn mới có quy mô lớn và

sử dụng dài. Về vốn của Công ty hiện nay chỉ là cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.

Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn mà Công ty có thể sử dụng lâu dài, có thể đầu tư cho

các hoạt động đó. Tuy nhiên phần lớn lại là của ngân sách cấp mà trong tương lai,

như đã phân tích ở phần trước, nó sẽ bị thu hẹp, hạn chế, có nghĩa là sự tăng quy mô

vốn ngân sách là rất ít. Vì vậy, ngay từ bây giờ Công ty phải xây dựng cho mình thế

chủ động về tài chính bằng cách lập các quỹ phát triển như: Quỹ phát triển nhân lực,

quỹ phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường... Tăng dần tỷ trọng nguồn vốn tự bổ

sung.

Một trong những bước tiếp theo là phải đầu tư mạnh cho Trung tâm nghiên

cứu chuyển giao công nghệ. Tăng cường hợp tác liên kết với các đối tác từ bên

ngoài để tiếp thu các dây chuyền máy móc công nghệ hiện đại giảm bớt gánh nặng

tài chính để đầu tư cho công nghệ mới hiện đại.

3. Chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm.

Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu trong mối quan tâm của khách

hàng ở trên bất cứ thị trường nào. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ

đơn thuần là việc làm cho hàng của doanh nghiệp bền hơn mà còn làm cho sản

phẩm đẹp hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn, phù hợp với yêu cầu sở thích của

khách hàng. Do đặc điểm của chính sản phẩm giầy nên chất lượng hàng hoá cần

thiết phải phù hợp với giá cả của nó. Vì vậy, Công ty cần xây dựng một chiến lược

giá hợp lý, linh hoạt phù hợp với từng khách hàng, phù hợp với từng loại sản phẩm

khắc phục tình trạng chính sách giá cứng nhắc như hiện nay.

Đối với thị trường trong nước, do đặc điểm nền kinh tế chưa phát triển, thu

nhập của người dân chưa cao, nên thường ưu những sản phẩm có giá hạ vì vậy

muốn chiếm lĩnh được thị trường trong nước thì phải lựa chọn là sản xuất những

mặt hàng giầy dép có thể chất lượng thấp hơn một chút, bán với mức giá rẻ theo

"chính sách giá thấm dần" hơn là sản xuất những mặt hàng cao cấp hơn hẳn do bán

với những mức giá cao hẳn so với đối thủ cạnh tranh theo "Chính sách hớt váng

sữa" hoặc "lướt qua thị trường", "trượt theo đường cầu" đối với những khách hàng

quen thuộc Công ty nên giảm giá để giữ được những khách hàng này một cách ổn

định. Công ty cũng có thể đưa ra nhiều cách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc

vào từng thời điểm, mục tiêu như:

- Chiết giá sản lượng nhằm khuyến khích khách hàng mua với số lượng lớn.

- Chiết giá sản lượng phi tích luỹ: áp dụng đối với tất cả mọi khách hàng mua

với số lượng tuỳ ý, không có ràng buộc về khối lượng hàng hoá về mỗi lần.

- Chiết giá tích luỹ: Ngoài sự ràng buộc về sản lượng mua, còn ấn định

khoảng thời gian trong đó nếu khách hàng thực hiện hợp đồng thoả thuận về khối

lượng mua nhất định lúc đó khách hàng mới nhận được chiết giá.

- Chiết giá thương mại: Đó là khoản tiền được tính theo tỷ lệ % so với mức

giá gốc, thực chất của chiết giá này là trang trải chi phí theo chức năng bán buôn và

bán lẻ một phần lợi nhuận nhất định.

- Chiết giá tiền mặt: Đây là một chiết giá có liên quan tới thời hạn thanh toán

của khách hàng.

4. Tiến hành hoạt động Marketing.

Vì hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra ở nhiều thị trường khác nhau, các nhân tố

ảnh hưởng cũng rất phức tạp và thay đổi không ngừng. Do vây, Công ty giầy Thuỵ

Khê phải luôn kịp thời nắm bắt được sự thay đổi của từng thị trường để từ đó đpá

ứng kịp thời các yêu cầu của thị trường. Ngoài ra do đặc điểm của mặt hàng giầylà

mặt hàng tiêu dùng, có rất nhiều nhà sản xuất trên thị trường cho nên đòi hỏi Công

ty giày Thuỵ khê phải chủ động tìm kiếm khách hàng, tiến hành khâu thu thập, xử

lý thông tin phải nhanh nhạy, chính xác, đảm bảo độ tin cậy cao.

Công ty cần lập ra một bộ phận chuyên trách hoạt động Marketing để các hoạt động

bán hàng, phân tích, nghiên cứu và phân đoạn thị trường... được tiến hành một cách

hiệu quả, giúp tìm được hướng đi đúng đắn, hợp lý là cơ sở cho các chính sách, kế

hoạch, chiến lược của Công ty. Bởi vì, hoạt động Marketing là chiếc cầu nối giữa

Công ty với thị trường và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của Công ty.

Mối quan hệ giữa Công ty với thị trường càng chặt chẽ thì khả năng thành công,

khả năng cạnh tranh của Công ty càng cao. Tiến hành tốt, có hiệu quả hoạt động

Marketing chính là việc làm tốt mọi khâu của hoạt động marketing từ khâu nghiên

cứu thị trường nghiên cứu và phân tích đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu thị hiếu và

những yêu cầu của khách hàng, tổ chức tốt công tác tiếp thị, chào hàng, phát triển

mạng lưới phân phối bán hàng, phát triển hệ thống phân phối, phát hành các catalog

về sản phẩm của Công ty tung ra khắp thị trường tới các khách hàng, duy trì và mở

rộng quan hệ với khách hàng.

Nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả

hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vì thị trường chính là dối tượng chủ yếu

của các hoạt động này. Công ty cần phải nắm bắt được những nhu cầu, đặc điểm

của thị trường đó, các hoạt động nghiên cứu, khảo sát và phân đoạn thị trường phải

được tiến hành thường xuyên trên cơ sở đó để Xây dựng các chính sách, chiến lược

thích hợp, xác định được thị trường mục tieu của Công ty cho từng loại sản phẩm.

Công tác nghiên cứu thị trường là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ doanh nghiệp

nào để từ đó tìm ra cách hữu hiệu thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Bên cạnh đó

việc nghiên cứu và phân tích đối thủ cạnh tranh cũng là việc làm hết sức cần thiết

đẻe xác định được khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Công ty cần

phải nghiên cứu phân tích đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng có hệ thống. Hiện

nay Công ty giày Thuỵ Khê đang rất yếu trong lĩnh vực này. Từ việc nghiên cứu

phân tích đối thủ cạnh tranh, Công ty cần trả lời các câu hỏi sau đây:

+ Đối thủ cạnh tranh chính của Công ty là ai?

+ Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì?

+ Điểm mạnh, điểm yếu, khả năng tài chính của họ như thế nào?

+ Cách thức mà họ sử dụng để thâm nhập thị trường?

+ ...

Hiện nay, kinh doanh hàng giày là ngành kinh doanh nhanh chóng thu được lợi

nhuận, dễ làm cho nó có sức thu hút cao đối với các doanh nghiệp trong ngành.

Công ty giày Thuỵ Khê cần phải có các biện pháp để hạn chế sự mở rộng của các

doanh nghiệp mới vào thị trường này.

Bên cạnh việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, các hoạt động nghiên cứu và phân tích

những yêu cầu đòi hỏi của khách hàng cũng cần được tăng cươbngf hay nói chính

xác hơn là phân tích khách hàng là một mảng quan trọng trong hoạt động nghiên

cứu thị trường, nhất là đối với Công ty Giầy Thụy Khuê. Bởi vì như chúng ta đã

biết mặt hàng giày là mặt ahngf tiêu dùng mang tính thời vụ và thời trang rất cao,

khách hàng chỉ mua những sản phẩm đúng mốt, được ưa chuộng trên thị trường.

Nếu sản phẩm có mẫu mã không phù hợp, thì dù sản phẩm đó có chất lượng tốt, giá

rẻ thì khách hàng vẫn cứ không mua.

Không chỉ vậy, Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải tổ chức tốt công tác tiếp thị, chào

hàng. Đây là yêu cầu quan trọng của việc nghiên cứu, mở rộng thị trường. Chính

những người làm côngtác Marketing của Công ty sẽ là những người thu thập cũng

như xử lý những thông tin về thị trường, xác định những đặc điểm cũng như mức độ

cạnh tranh và nhu cầu của từng đoạn thị trường để từ đó có thể quyết định các chính

sách khác của Công ty. Hiện nay, việc nghiên cứu thị trường của Công ty Giầy

Thụy Khuê chỉ đơn thuần là việc giới thiệu và bán sản phẩm. Nhưng thị trường luôn

biến động, đòi hỏi Công ty phải có sự tìm hiẻu liên tục, thường xuyên. Mặt khác,

Công ty Giầy Thụy Khuê muốn mở rộng thị trường của mình, dù là thị trường trong

nước hay thị trường nước ngoài thì cũng đều cần có một kế hoạch xây dựng mạng

lưới bán hàng hiệu quả vì đây chính là cơ sở tốt nhất để bảo vệ thị trường cũ và

thâm nhập thị trường mới, chống lại sự tranh giành thị trường của các đối thủ cạnh

tranh.

Công ty Giầy Thụy Khuê nên chú trọng tới các dịch vụ quảng cáo, hỗ trợ bán hàng.

Ban đầu với khả năng tài chính nhỏ như hiện nay thì Công ty có thể gửi thư qua

mạng thư điện tử tới các Công ty kinh doanh, Thương mại ... trên thế giới, đây là

cách làm rất rẻ, thuận tiện cho năng lực của Công ty hiện nay. Hơn nữa, Công ty

cần phát triển hệ thống nhà kho theo chiều sâu có nghĩa là thực hiện công tác hiện

đại hoá các kho chứa hàng, đảm bảo những công cụ bốc xếp hàng hoá và đảm bảo

an toàn cho hàng hoá. Hơn nữa Công ty nên duy trì và mở rộng quan hệ với khách

hàng bằng nhiều biện pháp như tổ chức các cuộc tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp.

Tiếp xúc trực tiếp là tiếp xúc qua hội nghị khách hàng, bán hàng cá nhân. hoạt động

này có tác động trực tiếp tới tamlý và hành vi của khách hàng. Tại đây, các luồng

thông tin được trao đổi giữa khách hàng và Công ty. Công ty nên cung cấp các

thông tin về sản phẩm, khả năng cung ứng và các dịch vụ bán hàng, đồng thời các

thông tin được ghi nhận, xử lý để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng một cách

nhanh chóng. Các hoạt động tiếp xúc này nên diễn ra thường xuyên, mỗi cuộc tiếp

xúc sẽ được ghi chép cụ thể để làm cơ sở cho các cuộc tiếp xúc sau.

Tiếp xúc gián tiếp chủ yếu tập trung ở các hoạt động uỷ thác, tiếp nhận và uỷ thác

bán. Các khách hàng thuộc loại này thường không có nhu cầu thường xuyên. Để

duy trì loại khách hàng này, Công ty cần có mối quan hệ với các bên trung gian

thông qua việc xác định tỷ lệ hoa hồng đối với họ.

Công ty còn cần phải thiết lập hệ thống thông tintư vấn. Thiếu thông tin, thiếu sự hỗ

trợ cần thiết, chính xác đầy đủ, kịp thời luôn làm cho Công ty Giầy Thụy Khuê bị

giảm sức cạnh tranh bị thua thiệt trên thị trường giày thế giới. Hệ thống thông tin tư

vấn sẽ cung cấp rất nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ, chính xác cho Công ty đồng

thời tư vấn giúp Công ty đi đúng hướng, lập kế hoạch chiến lược kinh doanh ngắn

và dài hạn trong tương lai cho Công ty. Hệ thống thông tin cũng giúp cho Công ty

phát triển, tăng cường năng lực cạnh tranh trong quá trình chạy đua với các đối thủ

cạnh tranh. Mặt khác, Công ty Giầy Thụy Khuê cần quan tâm hơn nữa tới việc mở

chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước, trang bị cac phương tiện làm

việc, quan hệ giao dịch hiện đại để giúp việc cung cấp thông tin kinh tế, tìm kiếm

bạn hàng, mở rộng thị trường. Công ty cần kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh

doanh, giữa sản xuất công nghiệp với Thương mại dịch vụ.

Do vây, Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải có bộ phận marketing làm việc hiệu quả,

giàu năng lực, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình yêu nghề thì mới có thể nâng cao khả

năng cạnh tranh của Công ty.

Bên cạnh những giải pháp từ nỗ lực bản thân của Công ty thì Công ty Giầy Thụy

Khuê muốn nâng cao đực khả năng cạnh tranh của mình phải cùng đoàn kết, liên

kết lại với các công ty sản xuất giày khác trong nước tạo thành sức mạnh tổng hợp,

cùng nhau cạnh tranh cùng nhau tiến bộ là việc làm hết sức cần thiết hiện nay.

Chính vì sự thiếu đoàn kết mà phái nước ngoài thường lợi dụng triệt để để chia ré

các doanh nghiệp, hạ giá thành hàng giày của ta. Không đoàn kết tiếng nói của

Công ty Giầy Thụy Khuê sẽ không có sức mạnh, không được Chính phủ,Bộ

Thương mại , Sở Công nghiệp hà Nội chú ý thích đáng, không tạo được sự hỗ trợ,

tương trợ lẫn nhau khi cần thiết. Công ty Giầy Thụy Khuê sẽ dễ dàng bị các đối thủ

cạnh tranh thôn tính nếu không biết đoàn kết lại. Vì vậy, Công ty Giầy Thụy Khuê

cần phải đoàn kết lại tạo thành sức mạnh để cùng nhau đưa ra những kiến nghị cần

thiết đối với Nhà nước, mà cụ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước cấp ngành, trên

địa bàn mình.

*****888888888888888888888

5. Xây dựng chiến lược thị trường.

Hiện sự phụ thuộc của Công ty vào đối tác là rất lớn. Điều này làm hạn chế

khả năng cạnh tranh của Công ty. Nhằm khắc phục tình trạng này Công ty cần xây

dựng cho mình một chiến lược thị trường đúng đắn.

Chiến lược thị trường như là một hệ điều hành của một chiếc máy tính mà tổ

chức Marketing của Công ty với đội ngũ nhân lực, cơ sở vật chất là phần cứng. Sự

kết hợp của "phần cứng" và "phần mền" sẽ đưa khách hàng đến cho Công ty, là cho

Công ty có thể cạnh tranh thắng lợi.

Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê một chiến lược thị trường đúng đắn sẽ làm

cho Công ty đứng vững trong điều kiện hội nhập AFTA:

II. Nắm bắt cơ hội AFTA đem lại.

1. Về thuế.

Đến năm 2003, riêng Việt Nam là 2006 CEPT được hoàn thành điều này có

nghĩa là mức thuế của hàng hoá trong khu vực là từ 0 - 5% vì vậy các loại hàng hoá

sẽ có cơ hội trong lưu thông phân phối nên hàng hoá giầy dép của Công ty có một

con đường nữa để xâm nhập thị trường bên ngoài.

Điều này có thể được hiểu như sau: Trong các nước ASEAN có những nước có nền

kinh tế thị trường, có mối quan hệ với bên ngoài trước chúng ta khá lâu (bởi vì Việt

Nam chúng ta đến năm 1986 mới chính thức mở cửa nền kinh tế - trước đó chỉ quan

hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ) nên họ có tiềm lực và

kinh nghiệm trong việc xuất khẩu hàng hoá ra bên ngoài hơn các trung gian xuất

khẩu của chúng ta. Khi hoàn thành CEPT chúng ta có thể bán hàng hoá cho họ với

mức giá ngang với thị trường trong nước. Như thế lượng bán của Công ty sẽ tăng

lên nếu như Công ty biết tranh thủ.

Muốn được như vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên thiết lập quan hệ với họ để khi

hoàn thành CEPT có thể thực hiện ngay được chiến lược này.

2. Về chi phí nguyên vật liệu.

Như đã phân tích ở chương II, khi Việt Nam hội nhập AFTA Công ty có mua

được nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh với giá hạ hơn, chất lượng tốt

hơn để tung ra thị trường những sản phẩm giầy dép với giá thấp hơn do giảm được

giá thành và chất lượng tốt hơn từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Vì vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên có những hoạt động tìm hiểu và nghiên

cứu những nguồn nguyên liệu mà đến lúc đó Công ty có thể mua sao cho có lợi và

thuận lợi nhất. Công ty phải đưa ra được những nhà cung cấp trong khu vực, tiềm

lực của họ, khả năng cũng như kinh nghiệm "mặc cả" của họ, những công ty nào mà

mình có thể tạo ra sức ép giảm giá... trong và ngoài nước.

3. Về đối tác.

AFTA tạo ra sự phân công lại lao động giữa các quốc gia. Một quốc gia sẽ

sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế nhất. Vì vậy sẽ có sự thay đổi không

ngừng về lượng mà còn cả về chất những đối tác của Công ty.

Trong số những đối tác của Công ty trong tương lai sẽ có những đối tác có

kinh nghiệm về quản lý, tiềm lực, năng lực cạnh tranh mạnh. Nên ở những đối tác

này Công ty có thể: học hỏi ở họ những kinh nghiệm quản lý, tranh thủ của họ về

khả năng tài chính thông qua tín dụng thương mại...

Từ đó nâng cao tiềm lực của chính bản thân Công ty, gia tăng khả năng cạnh

tranh.

C. Một số kiến ghị với Sở Công nghiệp Hà Nội, Bộ Thương mại và Chính phủ.

Sở Công nghiệp Hà Nội là cơ quan quản lý Nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp và

toàn diện từ UBND Thành phố. Kể từ khi thành lập đến nay, Sở Công nghiệp đã

giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê rất nhiều, giúp Công ty đệ trình các kiến nghị của

mình lên trên Bộ Thương mại , đề nghị Bộ xem xét và giúp đỡ. Thông qua Sở Công

nghiệp , Bộ Thương mại đã nắm vững tình hình thực tế của Công ty Giầy Thụy

Khuê và đã căn cứ vào các kiến nghị của Sở mà đã có những chính sách hữu hiệu

giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê trong thời gian qua. Mặc dù vậy, Công ty Giầy

Thụy Khuê vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ mà những

khó khăn vướng mắc này chỉ có thể được tháo gỡ khi có sự giúp đỡ từ phía chính

phủ, Bộ Thương mại và Sở Công nghiệp .

a. Các kiến nghị về thủ tục hành chính.

Thủ tục hành chính gây nhiều rắc rối là vấn đề gây rất nhiều khó khăn cho Công ty

Giầy Thụy Khuê trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, và làm chậm chễ,

gây cản trở cho Công ty trong hoạt động làm ăn nhất là khi gặp được khách hàng có

nhu cầu hợp tác kinh doanh nhanh chóng, những cơ hội làm ăn cần chớp lấy thật

nhanh. Vì vậy, đê khắc phục tình trạng này, Nhà nước ta cần phải:

- Tạo điều kiện thuân lợi nhất cho Công ty Giầy Thụy Khuê trong việc làm thủ tục

ra nước ngoài để tìm kiếm đối tác, tìm bạn hàng, học hỏi kinh nghiệm kể cả trong

điều kiện tài chính của Công ty có thể trước mắt còn eo hẹp nhưng có thể có lợi

trong tương lai...

- Nhanh chóng ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn dưới luật Thương mại và

giúp đỡ thực hiện, phổ biến chúng tới doanh nghiệp.

- Giảm bớt sự chồng chéo trong việc kiểm tra, kiểm soát các cơ sở sản xuất và kinh

doanh, tập trung vào những đầu mối cần thiết để tạo ra sự ổn định cho Công ty,

giảm sự gây phiền hà cho Công ty.

- Thiết lập tiêu thức phân bổ hạn ngạch phù hợp hơn, nên xem xét đến cả hiệu quả

kinh tế - xã hội, không nên loại bỏ Công ty Giầy Thụy Khuê có năng lực sản xuất

thấp nếu chất lượng và hiẹu quả của họ không thua kém các doanh nghiệp giày có

quy mô lớn hơn.

- Quy chế gia công giày cần pải cải tiến cho thông thoáng.

- Tạo môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động kinh doanh và sản xuất của Công

ty.

b. Các kiến nghị về hoạt động hỗ trợ Thương mại của các cơ quan quản lý Nhà

nước.

Hoạt động hỗ trợ Thương mại từ phía các cơ quan quản lý nhà nước là vô cùng càn

thiết đối với sự tồn tại và vươn lên của Công ty trong cả quá khứ, hiện tại và tương

lai sau này. Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước cần phải.

- Bộ Thương mại cần phải thiết lập phòng Thương mại đảm nhận trách nhiệm môi

giới mua bán hàng giày của các doanh nghiệp giày ta trên thị trường quốc tế.

- Đàm phán để đưa các doanh nghiệp giày vượt qua các rào cản của các thị trường

nước ngoài.

- Bộ Thương mại và Sở Công nghiệp Hà Nội cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến

Thương mại và hỗ trợ, giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê liên hệ thường xuyên với

hệ thống thương vụ Việt Nam tại các nước trong việc cung cấp thông tin thị trường

các nước, tiếp tục khuyến khích Công ty tham gia các đoàn khảo sát thị trường như

EU, Ca nada, Mĩ, Châu Phi... để Công ty có cơ hội tìm hiểu thị trường học hỏi kinh

nghiệm làm ăn của các nước. Đẩy mạnh hoạt động của “Trung tâm xúc tiến Thương

mại ” để cung cấp các thông tin trao đổi khả năng kinh doanh và xúc tiến Thương

mại cho Công ty Giầy Thụy Khuê kịp thời nắm bắt thông tin, tích cực tham gia, hội

nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.

- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê tham gia các hội chợc triển lãm trong

nước và quốc tế để giới thiệu hàng giày xuất khẩu của Công ty mình.

- Sở Công nghiệp cần thành lập “Phòng trưng bày sản phẩm giày” để giứo thiệu

rộng rãi các sản phẩm giày của Hà Nội trên cơ sở đó tạo khả năng tiếp cận với các

khách hàng nước ngoaì khi họ đến tìm hiểu và làm ăn, tìm đối tác.

- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê sản xuất và xuất hàng trực tiếp cho nước

ngoài theo hình thức hợp đồng mua bán.

- Kiên trì thương lượng để sớm có thoả thuận với các nước ASEAN sử dụng hạn

ngạch xuất khẩu vào EU của các nước này chuyển cho ta khi họ không sử dụng hết

như Singapore.

- Phối hợp với các ngành hữu quan tìm các biện pháp khôi phục và phát triển thị

trường truyền thống SNG và Dông Âu, đề nghị chính phủ giao cho ngân hàng tìm

cách tháo gỡ những khó khăn về thanh toán giúp cho Công ty Giầy Thụy Khuê mở

rộng thị trường.

- Chống các hiện tượng độc quyền, ép giá, phá giá với các sản phẩm giầy trên thị

trường quốc tế.

- Thành lập các phòng nghiên cứu thị trường tại các thị trường nước ngoài.

- Điều chỉnh tỷ giá tăng dần, tránh để tình trạng tỷ giá tăng vọt như vừa qua gây

thiệt hại rất nhiều cho Công ty Giầy Thụy Khuê.

- Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước.

- Tìm hiểu và tiếp cận với với hệ thống phân phối sản phẩm giày của từng nước và

giúp Công ty tiếp cận với các nhà nhập khẩu.

c. Các kiến nghị về chính sách hỗ trợ vốn.

Thiếu vốn trong quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh luôn gây ra rất nhiều khó

khăn cho sự phát triển của Công ty Giầy Thụy Khuê, vì vậy mà vấn đề cần phải sự

hỗ trợ vốn từ phía Nhà nước là điều hết sức cần thiết cho sự thành công của Công ty

hiện nay. Do vậy, Nhà nước cần phải có các chính sách sau trong thời gian sắp tới

như:

- Hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ quản lý giầy trình độ cao và công nhân lành nghề

cho Công ty Giầy Thụy Khuê trong thời gian đầu và Công ty sẽ trả lại dần trong

thời gian sau này nếu họ gặp phải khó khăn về tài chính.

- Thành lập các tổ chức tín dụng riêng cho Công ty Giầy Thụy Khuê.

- Giúp Công ty Giầy Thụy Khuê kiểm tr chất lượng sản phẩm giầy qua các hoạt

động hỗ trợ Công ty đầu tư vào hệ thống, quy trình quản lý chất lượng sản phẩm.

- Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Hà Nội để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất

giầy trong hoạt động xuất khẩu trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp và bù đắp những

rủi ro phát triển mặt hàng và thị trường mới.

- Có chính sách hõ tợ và khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế sản xuất hàng mẫu,

đầu tư đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác

đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo điều kiện đưa các sản phẩm tên hiệu Việt Nam ra

thị trường thế giới.

- Cho vay kịp thời, đủ vón với Công ty Giầy Thụy Khuê làm ăn có lãi, có dự án

kinh doanh khả thi và hiệu quả.

d. Các kiến nghị về chính sách thuế:

Chính sách thuế luôn làm cho Công ty Giầy Thụy Khuê đau đầu và gây rất nhiều

khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, làm chậm vòng quay vốn

của Công ty Giầy Thụy Khuê. Để tạo điều kiện cho Công ty Giầy Thụy Khuê phát

triển trong thời gian tới thì Nhà nước cần phải có những sự điều chỉnh sau:

- Điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với tình hình thực tế, ưu đãi thuế cho các

doanh nghiệp giầy xuất khẩu những mặt hàng giầy dép, hoặc những mặt hàng mới.

- Không bắt Công ty Giầy Thụy Khuê ứng trước thuế giá trị gia tăng cho nguyên

liệu đầu vào, làm như thế sẽ đỡ cho Công ty Giầy Thụy Khuê bị chết vốn không cần

thiết.

- Tăng thời hạn hoãn thuế, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu dùng để sản xuất hàng

giày dép.

- Thay đổi chính sách thuế về việc đánh thuế đối với các hoạt động mua sắm máy

móc thiết bị của các doanh nghiệp giày dep. Một điều rất mâu thuẫn là trong khi

phải có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo

máy móc thiết bị của các doanh nghiệp Việt Nam thì việc mua sắm thiết bị tròn

nước của các doanh nghiệp giay dép lại bị đánh thuế rất cao và cao hơn nhiều so với

việc mua sắm thiết bị, máy móc từ các doanh nghiệp nước ngoài. Rõ ràng đây là

điều gây cản trở rất lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất và chế tạo

máy móc thiết bị trong nước cũng như cho sự hỗ trợ hợp tác lẫn nhau giữa Công ty

Giầy Thụy Khuê với các doanh nghiệp sản xuất chế tạo máy móc thiết bị trong

nước. Vì vậy, Nhà nước cần có sự điều chỉnh thích hợp về thuế đối với các hoạt

động này trong thời gian sắp tới.

e. Các kiến nghị về chính sách đầu tư, kế hoạch chiến lược.

Hoạt động đầu tư, Xây dựng kế hoạch chiến lực của Nhà nước đóng vai trò rất quan

trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp sản xuất giầy nào. Mỗi

sự thay đổi điều chỉnh trong các chính sách đaùa tư, kế hoạch, chiến lược cũng đều

gây ảnh hưởng đối với các doanh nghiệp, sự thay đổi đó có thể giúp cho doanh

nghiệp phát triển tốt lên hoặc xấu đi. Vì vậy mà để tạo điều kiện thuận lợi cho

Công ty Giầy Thụy Khuê phát triển, Nhà nước cần phải:

- Giúp Công ty Giầy Thụy Khuê kiểm tra chất lượng sản phẩm giày qua các hoạt

động hỗ trợ Công ty đầu tư vào hệ thống, quy trình quản lý chất lượng sản phẩm.

- Xây dựng chương trình chiến lược bao gồm các biện pháp cụ thể như tập trung

đầu tư, đồng bộ hoá các dây truyền công nghệ và thiết bị sản xuất hàng giày mới,

mở rộng gấp đôi hạn ngạch cho Công ty Giầy Thụy Khuê . Đặc biệt cần khuyến

khích các Công ty đầu tư vào những mặt hàng không bị áp dụng hạn ngạch hoặc

hạn ngạch khôngđược sử dụng hết.

- Xây dựng các chương trình đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực

giay dép vào trong sản xuất của Công ty Giầy Thụy Khuê. Điều này sẽ giúp Công ty

Giầy Thụy Khuê giảm nhiều chi phí, nâng cao chất lượng, cải tiến đổi mới sản

phẩm, công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh.

- Có kế hoạch cụ thể rõ ràng cho việc Xây dựng nền công nghiệp giày của Thành

phố Hà Nội.

f. Các kiến nghị về đoà tạo nguồn nhân lực.

Đào tạo nhân lực luôn là việc cần thiết cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia,

mỗi nền kinh tế, môi doanh nghiệp trong quá trình đi lên và phát triển. Hiện nay,

việc đào tạo nhân lực cho ngành giày là chưa đáp ưng đủ nhu cầu cần có trong hiện

tại và cả tương lai. Chính vì thếmà đ• kìm h•m sự hoạt động sản xuất, sự đi lên của

Công ty Giầy Thụy Khuê trong những năm qua rất nhiều. Để khắc phục tình trạng

này, Nhà nước cần phải:

- Cử người đi đào tạo, học hỏi kinh nghiệm tại các trường đại học, các Nhà máy

giầy, các nước sản xuất giầy nổi tiếng trên thé giới để về phục vụ cho Công ty qua

các chương trình hợp tác, hỗ trợ, các hiệp định về giáo dục và kinh tế giữa nước ta

với các nước tiên tiến trên thế giới.

- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê phải trích một khoản chi phí đào tạo cán

bộ kinh tế, cán bộ kỹ thuật ngành sản xuất giàyhàng năm trong tổng số doanh thu,

lợi nhuận của Công ty.

- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê có những chính sách đãi ngộ đặc biệt với

các cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và cho đi đào tạo, nâng cao để

thu hút nhân tài, giữ họ ở lại Công ty làm việc lâu dài.

- Thường xuyên liên hệ với các trường đại học có những ngành đào tạo về thời

trang, công nghệ giày dép và những ngành kinh tế có liên qua... trích học bổng cho

những sinh viên xuất sắc, sau đó giới thiệu cho Công ty để họ cân nhắc lựa chọn

những sinh viên xuất sắc để đầu tư đào tạo cho Công ty ngay từ khi họ còn ngồi trên

ghế nhà trường. Những sinh viên này sẽ là nguồn nhân lực rất quan trọng cho Công

ty Giầy Thụy Khuê trong tương lai và sẽ là những cán bộ tri thức rất nhiệt tình,

trung thành với Công ty, hết lòng phục vụ cho sự phát triển của Công ty về sau này.

- Hợp tác với các trường đại học,các viện về kỹ thuật công nghệ tổ chức các khoá

học đào tạo các chuyên viên lập trình cho ngành giày dép trong thời gian tới cho

những người hoạt động kinh doanh trong những ngành này.

Tóm lại, Công ty Giầy Thụy Khuê rất cần có sự giúp đỡ thông cảm từ phía các cơ

quan quản lý Nhà nước từ cấp Thành phố cho đến cấp chính phủ trong quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Những giải pháp mà Công ty Giầy Thụy

Khuê cần phải thực hiện để nâng cao khả năng cạnh tranh trong kinh doanh hàng

giay dép của Công ty mình đòi hỏi phải có sự hõ trợ, giúp đỡ từ phía Nhà nước thì

mới có thể đem lại hiệu quả thật sự được, mới có thể nâng cao được uy tín, vị thế

của Công ty trong thời gian sắp tới và cả tương lai lâu dài về sau. Nhưng dù thế nào

đi nữa thì sự có gắng nỗ lực từ phía bản thân Công ty vẫn là điều quan trọng nhất

giúp Công ty Giầy Thụy Khuê nâng cao được khả năng cạnh tranh trong kinh doanh

hàng dệt may của mình cả trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước

ngoài bên cạnh sự hỗ trợ giúp đỡ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước.

Trên đây là những kiến nghị hết sức cần thiết và chính đáng, mà Công ty Giầy Thụy

Khuê muốn gửi đến chính phủ, Bộ Thương mại , Sổ Thương mại Hà Nội hi vọng

rằng chính phủ, Bộ Thương mại , Sổ Thương mại Hà Nội sẽ có các biện pháp giúp

đỡ hiệu qủa hơn cho Công ty Giầy Thụy Khuê.