Lời mở đầu
Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và nền kinh tế và
thế giới, hoạt động kinh tế trở nên hêt sức quan trọng, tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh
tế các quốc gia cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Cùng với sự hình thành các khu vực Thương mại tự do như EU, NAFTA, các nước
ASEAN cũng đang hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN (ASEAN
FREETRADEAREA – AFTA). Mở ra cho các nước trong khu vực những cơ hội và
thách thức hết sức to lớn. trong đó Việt Nam chúng ta.
Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nướcdoanh nghiệp sản xuất giầy xuất
khẩu cần thấy được điểm mạnh điểm yếu, đánh giá khă năng cạnh tranh cũng như vị
thế của mình khi Việt Nam tham gia AFTA từ đó để đề ra các giải pháp nhằm phát
huy điểm mạnh hạn chế điểm yếu, gia tăng khả năng cạnh tranh của mình. Xuất
phát từ đòi hỏi này cũng như tình hình thực tế nơi cơ sở thực tập của mình, tôi chọn
đề tài: "Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thụỵ Khê trong điều kiện
hội nhập AFTA" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm đánh giá khả
năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện hôị nhập AFTA từ đó đưa ra một số
định hướng, giải pháp cho công ty cũng như cơ quan quản lý trực tiếp là Sở công
nghiệp Hà Nội những kiến nghị nhằm giúp công ty gia tăng khả năng cạnh tranh
của mình.
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương I : Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
và hội nhập AFTA.
Chương II: Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều
kiện hội nhập AFTA.
Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty
Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.
Chương I: Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập AFTA.
A. Cạnh tranh.
I. Một số lý luận chung trong nền kinh tế thị trường.
1. Thị trường - kinh tế thị trường - cơ chế thị trường và các quy luật của thị trường.
Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong quá trình phát triển của nó.
Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là để
trả lời câu hỏi:
Thị trường là gì?
- Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng
trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển giao hàng hoá
và dịch vụ từ người bán sang người mua".
- Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các cuộc mua
bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.
- Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị trường vận động
theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung cầu, đây là
định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết.
- Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hoá thực hiện các chức năng trao
đổi của nó. Theo Mác thị trường là biểu hiện của sự phân công lao động của xã hội
là một trong những khâu của quả trình tái sản xuất mở rộng, là lỉnh vực lưu thông
hàng hoá là nơi gặp gở của cung và cầu.
Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập
hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng đang
mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái niệm thị
trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế của doanh
nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó“.
Bên cạnh đó nói tới thị trường đi liền với nó là khái niệm kinh tế thị trường, Cơ chế
thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề cơ bản: sản xuất cái
gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào là do thị trường quyết định. Nói cách
khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết, đó là cơ
chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động khách quan của các qui luật
kinh tế vốn có. Nền kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội trong
đó các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện thông qua
hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ của từng thành viên
, chủ thể là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích theo sự dẫn dắt của giá trị thị trường, cơ
chế thị trường thì ta định nghĩa cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ
môi trường động lực và các qui luật kinh tế chi phối sự vận động của cơ chế thị
trường.
Các qui luật này bao gồm qui luật giá trị,m qui luật cung cầu qui luật lưu thông, qui
luật cạnh tranh. Các qui luật trên đều có vị trí, vai trò độc lập song lại có mối liên hệ
chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra sự vận động của thị trường, chi phối sự
hoạt động của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, bất cứ một chủ thể nào hoạt động trong
nền kinh tế đều không thể không tính tới qui luật này, đặc biệt là các qui luật cạnh
tranh.
- Qui luật giá trị: Qui định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí
hao phí lao động xã hội cần thiết tức là mức chi phí bình quân trong xã hội .
- Qui luật cung cầu: Nêu ra mối quan hệ giữa nhu cầu cung ứng trên thị trường. Qui
luật này qui định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển dịch xích lại gần nhau để
tạo ra sự cân bằng trên thị trường.
- Qui luật lưu thông tiền tệ: Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng
tổng số giá cả hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ
cùng loại.
- Qui luật cạnh tranh: Tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá qui luật cạnh tranh
biểu hiện sự cạnh tranh giữa người bán và người mua giữa người bán và người bán
giữa người mua với người mua ... và luôn diễn ra mọi nơi mọi lúc trong tất cả các
hoạt động kinh tế trên thị trường.
Do đó trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp các chủ thể kinh tế luôn phải
năng động đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp này luôn phải cạnh
tranh gay gắt với nhau để tồn tại, phát triển và trong cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm
đạt tới lợi nhuận cao nhất.
2. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
là sự đấu tranh gay gắt quyết định giữa các nhà sản xuất, kinh doanh vời nhau dựa
trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm chiếm được những điều kiện
sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo ra điều kiện thúc đẩy sản xuất phát
triển. Do đó, nói tới cạnh tranh là ta không thể không nói đến các nhân tố cấu thành
cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xẩy ra khi có đủ ba yếu tố sau đây:
Một là, các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có cung và có
cầu về hàng hoá và dịch vụ.
Hai là, đối tượng để thực hiện sự cạnh tranh tức là hàng hoá dịch vụ.
Ba là, môi trường cho cạnh tranh đó chính là thị trường.
Tuỳ theo từng góc độ tiếp cận chúng ta có thể phân cạnh tranh theo các nội dung
khác nhau:
+ Theo chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm ba loại :
Một là, Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Hai là, cạnh tranh giữa người mua với người bán.
Ba là, cạnh tranh giữa người bán với người bán.
Cạnh tranh giữa người babs với ngươi mua là cuộc cạnh tranh diễn ra dưới hình
thức sẽ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm, dịch vụ của mình với
giá cao. Trong khi người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự cạnh tranh được thực
hiện trong quá trình vẫn thường gọi là quá trình "mặc cả” với mức giá chấp nhận là
giá thống nhất giữa người bán và người mua.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau là cuộc cạnh tranh trên cơ sở qui luật cung
cầu. Khi mức cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu hoặc
thay đổi thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Và giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó
sẽ tăng lên. Ta vẫn biết rằng đường cầu của mỗi cá thể không hoàn toàn giống
đường tổng cầu nên nếu người nào đưa ra được giá chung thống nhất phù hợp nhất
thì người đó sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh này.
Cạnh tranh giũa người bán với người bán là cuộc cạnh tranh giữa những người cung
cấp, hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nhằm bán được nhiều hàng hoá,dịch vụ. Đối
với mỗi doanh nghiệp đây là ý nghĩa sống còn, trong điều kiện quốc tế hoá , khu
vực hoá thì hội nhập thì cuộc cạnh tranh này lại càng khốc liệt hơn.
Theo phạm vi ngành kinh tế: Michael Porter đã chia cạnh tranh thành năm nhân tố
cạnh tranh.
1) Cạnh tranh giữa những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở ngành công
nghiệp đối với những doanh nghiệp của ngành.
Sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường có khả năng chiếm lĩnh
thị trường ( thị phần) của các công ty khác, để hạn chế sự cạnh tranh giữa các đối
thủ này các doanh nghiệp thường dựng lên các hàng rào như.
+ Mở rộng khối lượng sản xuất của công ty để giản chi phí.
+ Dị biệt hoá sản phẩm.
+ Mở rộng khả năng cung cấp vốn.
+ Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối tăng đầu tư vốn.
+ Mở rộng các dịch vụ bổ sung.
Ngoài ra có thể lựa chọ địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ của chính phủ
và chon lựa đungs đắn thị trường nguyên liệu và thị trường sản phẩm.
2) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Sự cạnh tranh
ảnh hưởng đến doanh nghiệp về khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm
chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty.
3) Cạnh tranh giữa doanh nghiệp và những người mua. Khách hàng có thể mặc cả
thông qua sức ép làm giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ công ty hoặc đưa
ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.
4) Cạnh tranh giữa các sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm thay thế khi giá cả
của sản phẩm, dịch vụ tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử dụng sản phẩm dịch
vụ thay thế sự cạnh tranh này đe doạ sự mất mát về thị trường của công ty. Các
công ty đưa ra thị trường những sản phẩm có khả năng khác biệt hoá cao độ so với
sản phẩm của công ty hoặc tạo ra các điều kiện ưu đãi hơn về các dịch vụ hay các
điều kiện tài chính.
5) Cạnh tranh trong mọi bộ ngành. Trong điều kiện này các công ty cạnh tranh với
nhau khốc liệt về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm hoặc sự đổi mới về sản phẩm
giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường.
Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do các đối thủ cạnh tranh nhiều và gần như
cân bằng; do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện đại ở mức độ thấp ; do các
loại chi phí ngày càng tăng ; do chưa quan tâm tới quá trình khác biệt hóa sản phẩm
hoặc các chi tiết về chi phí do sự thay đổi của các nhà cung cấp ; do các đối thủ
cạnh tranh có chiến lược kinh doanh đa dạng, có xuất xứ khác nhau ; do các hàng
rào kinh tế làm cho công ty khó có thể tự do di chuyển giữa các ngành.
3. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh.
Chính sự cạnh tranh đã tạo ra động lực cho nền kinh tế phát triển tạo nên sức thu
hút, hấp dẫn cho nền kinh tế, không có cạnh tranh thì sẽ không có cơ chế thị trường,
cạnh tranh chính là sự thể hiện tính tự do ưu việt của nền kinh tế thị trường, nó luôn
luôn thúc đẩy cac doanh nghiệp ngày càng hòan thiện các sản phẩm, dịch vụ, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp
đánh giá nhìn lại bản thân mình, phát huy điểm mạnh , khắc phục điểm yếu vận
dụng cơ hội, vượt qua được những khó khăn thử thách.
Vì vậy cạnh tranh lành mạnh luôn là mục tiêu mà xã hội thị trường và bản thân mỗi
doanh nghiệp mong muốn duy trì đạt tới.
Cạnh tranh là nhân tố kích thích tạo nguồn cho doanh nghiệp phát triển.
Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng rất khắc nghiệt. Cạnh tranh chỉ thực sự giúp đỡ
cho những doanh nghiệp có đủ khả năng, năng lực buộc các doanh nghiệp phải cố
gắng không ngừng nghỉ nó sẵn sàng loại bỏ không khón nhượng những kẻ lười nhác
không còn đủ khả năng thích nghi, sinh hoạt. Cạnh tranh diễn ra ở khắp nơi ta có
thể nói rằng sự hiện diện của cạnh tranh là hữu hình mà cũng có thể nói là vô tình.
Cạnh tranh lúc diễn ra công khai lúc diễn ra ngấm ngầm lúc dữ dội, lúc phẳng lặng
giữa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế mỗi doanh nghiệp nào biết nắm bắt cơ hội tìm
được hướng đi đúng đắn.
Xét riêng đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận mở rộng thị
trường hoạt động họ tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Đối với doanh nghiệp
của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay phương thức kinh doanh
quốc tế chủ yếu vẫn là xuất khẩu. Tuy nhiên thị trường nước ngoài với những đối
thủ cạnh tranh rất mạnh về tiềm lực. Ví vậy muốn tăng gia xuất khẩu thì phải tăng
khả năng cạnh tranh của chính mình nhằm chiếm và giữ lấy cho mình một thị phần
nhất định hay nói cách khác tăng kgả năng cạnh tranh là biên pháp nhàm tăng khả
năqng xuất khẩu.
Như vậy, rõ ràng cạnh tranh sẽ có tác động mạnh thực sự có tinh thần cầu thị, có
đạo đức kinh doanh tạo ra cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
II. Mô hình phân tích khă năng cạnh tranh của các doanh nghiệp (mô hình SWOT).
Mô hình SWOT là viết tắt của chữ Streng ths (các điểm mạnh) Oppotunities (các cơ
hội) Weaknesses (Các điểm yếu), Threates (Các thách thức). Trên cơ sở phân tích 4
nhân tố trên để tìm ra các điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp cũng như cơ hội,
thách thức đối với doanh nghiệp trên thị trường. Để từ đó các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp trên thị trường ở thời điểm hiện nay và giúp cho doanh nghiệp để ra được
những chiến lược đúng đắn trong giai đoạn trước mắt và tương lai sau này.
Sơ đồ mô hình phân tích khả năng cạnh tranh.
1. Phân tích bên ngoài:
Đây là sự phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra các cơ hội cũng
như các thách thức đối với doanh nghiệp.
Các yếu tố bên ngoài có thể là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị , yếu tố pháp luật,
yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, yếu tố tự nhiên...
Các yếu tố này là tác động gián tiếp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do
vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích các yếu tố của môi trường bên
ngoài để tăng cơ hội, giảm thách thức hạn chế rủi ro một cách tối thiểu cho doanh
nghiệp và trên cơ sở phân tích đó lựa chọn chiến lược hợp lý cho doanh nghiệp.
2. Phân tích bên trong.
Đây là sự phân tích các yếu tố bên trong của doanh nghiệp hay là các nhân tố nội
tại của doanh nghiệp việc phân tích tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
- Cơ cấu tổ chức.
- Đội ngũ cán bộ quản lý.
- Khả năng tài chính.
- Trình độ công nghệ ...
Từ việc phân tích những yếu tố trên, Doanh nghiệp sẽ tìm ra được những điểm
mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp sẽ biết mình
sẽ đứng ở đâu trên thị trường, thị phần hiện tại của các doanh nghiệp là bao nhiêu,
khả năng tăng thị phần của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới, khả năng phát
triển của doanh nghiệp trong tương lai ... một kẻ chiến thắng là kẻ biết mình, biết
người có như vậy doanh nghiệp mới biết được đâu là những mặt, những yếu tố đã
đang và sẽ gây ảnh hưởng cản trở cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Có
biết được nhược điểm và những điểm mạnh của mình thì doanh nghiệp mới biết
được cách để khắc phục, giải quyết vấn đề đang và sẽ đặt ra đối với Doanh nghiệp.
3. Mô hình đa giác cạnh tranh
Đứng trước một thị trường và các đối thủ cạnh tranh, Các doanh nghiệp cần thiết
lập được một bản đánh giá tương đối về các điểm mạnh và các điểm yếu của mình.
Điều này đặt ra hai vấn đề chính: Một mặt doanh nghiệp có những năng lực nào
vượt trội và mặt khác, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của các doanh nghiệp như
thế nào. Phân tích khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tức là nghiên cứu
những nguồn lực mà doanh nghiệp có từ môi trường khu vực và trong nước.
Phương pháp có thể được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh là dùng đồ thị
dưới dạng đa giác cạnh tranh đa giác này mô tả khả năng của doanh nghiệp theo các
yếu tố trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoặc một tập hợp các
đối thủ cạnh tranh để xây dựng một phân tích về khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khi chồng sơ đồ này lên nhau ta có thể thu được nhanh chóng những ưu thế
tương đối của doanh nghiệp.
Các yếu tố xuất phát từ khả năng của doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng nhất được đánh giá một cách
khách quan bằng những định mức, những yêu cầu khác nhau về thị trường nước
ngoài.
- Giá cả cũng là một loại công cụ dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cùng với chất lượng và các điều kiện như nhau thì giá cả thấp hơn khả năng
cạnh tranh của sản phẩm sẽ cao hơn.
- Bán hàng xét theo góc độ phương pháp và các phương tiện thương mại, cách thức
bán hàng của doanh nghiệp.
- Ngoại giao là khả năng điều hành theo hướng tích cực những mối liên hệ với các
nhân tố của môi trường ... điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh của mình. Đây là những tiền đề cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình và mở rộng thị trường.
- Trước bán hàng là khả năng dự báo nhu cầu của thị trường và áp dụng các hoạt
động thành thạo để thuyết phục khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng tôt nhất thì doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà
còn có thể mở rộng thị trường của mình.
- Tài chính theo nghĩa là các nguồn tài chính hiện có và có thể huy động một cách
nhanh chóng . doanh nghiệp có thể mở rộng và sản xuất kinh doanh tăng cường hoạt
động nghiên cứu triển khai, mở rộng thị trường đều phải dựa trên nguồn tài chính
hiện có và khả năng huy động nhanh chóng.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều phải chịu sự
tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ chính bản thân doanh
nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào bản
thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác của môi
trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố
cơ bản sau.
- Môi trường vĩ mô.
- Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter.
- doanh nghiệp,.
1. Môi trường vĩ mô.
Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức tạp ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó chính là tổng
thể các nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và pháp luật, nhan tố xã
hội , nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố này tác động và chi phối
mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng có thể là cơ hội
hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về
các nhân tố trên và đưa ra cách ứng xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những
biến động của chúng đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này
cần được coi trọng.
a. Nhân tố kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan trọng nhất
trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo
đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên đồng nghĩa với một
tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích luỹ vốn đầu tư trong nền
kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường được mở rộng đây chính là cơ hội tố
cho những doanh nghiệp biết tận dụng thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không
ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường. Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với
những doanh nghiệp không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp
nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp đó đang hoạt
động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược lại khi nền kinh tế bị
suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang, sức mua của người dân giảm
sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải tìm mọi cách để giữ khách hàng,
lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại
càng trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối đoái...
cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
b. Nhân tố chính trị và pháp luật.
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ doanh nghiệp
nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Chính trị và pháp luật
là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý cho các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị trường nào dù là trong nước hay
nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn định, phát triển
thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh trực tiếp đến hoạt động
của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị trường đều có hệ thống pháp luật
riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi
trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với
từng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ
giữa các chính phủ, các hiệp định kinh tế quốc tế ... Các doanh nghiệp này cũng đặc
biệt quan tâm tới sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có
thể sẽ làm tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển, loại
hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một môi trường
pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ...
trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả năng cạnh tranh.
c. Nhân tố xã hội :
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian nên đôi khi
khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà bất cứ doanh nghiệp
nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó cho dù có muốn sống hay
không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.
-Lối sống, phong tục, tập quán.
-Thái độ tiêu dùng.
-Trình độ dân trí.
-Ngôn ngữ.
-Tôn giáo.
-Thẩm mỹ...
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về sản phẩm, dịch
vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được nếu muốn tồn tại
trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư tưởng đề cao sản phẩm
nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại nhập sẽ kém khả năng cạnh
tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó. Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến
việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi xuất sang thị trường nước ngoài đó có
được thị trường đó chấp nhận hay không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có đủ
khả năng đáp được yêu cầu của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh nghiệp
phải tìm hiếu nghiên cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị
trường truyền thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được những
giải pháp riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
d. Nhân tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn
cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở trung tâm công
nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao, lành nghề hay các
trục đường giao thông quan trọng ... sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển,
giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường, thiếu năng lượng, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn
khiến cho xã hội cũng như các doanh nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên
pháp hoạt động liên quan.
e. Nhân tố công nghệ.
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm nào được sản xuất
ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công nghệ sản xuất đó sẽ quyết
định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi phí cá biệt của từng doanh
nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin một cách
chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền phát
thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu quả về thị trường và đối thủ
cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường
doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho
các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
2. Môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là môi trường
cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành ảnh hưởng tới khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể phủ nhận.
Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh, người mua,
người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là nhân tố thuộc mô
hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn sức ép cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như các cơ hội và thách thức mà
doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp phải.
a. Đối thủ cạnh tranh.
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “biết mình biết trăm trận trăm thắng" Do đó
doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh.
Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để
giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số
lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được
những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh
tranh.
b. Khách hàng .
Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh nghiệp bất
cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng luôn luôn đúng
nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách hàng mua sản phẩm
của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có thể làm giảm lợi nhuận của
ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch
vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp
kia.
Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường hợp sau.
Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường về sản phẩm
nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả.
Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của người mua.
Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người mua thì gía cả là
một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ mua với giá có lợi và sẽ
chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp.
Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp đầy đủ về
thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng của sản phẩm thì
họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị trường với nhau họ sẽ có
xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp vì họ không thể đánh giá cũng
như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản phẩm doanh nghiệp sản xuất.
Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc khách hàng
với người bán nhất định.
Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc mua bán của
mình.
Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành người cung cấp
cho chính mình.
Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị trường hiện hành
và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ càng lớn.
c. Nhà cung cấp.
Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Họ
có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền của một số nhà
cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng... họ có thể tạo ra sức ép lên
doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên vật liệu. được cung cấp
... Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản
phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
d. Đối thủ tiềm năng.
Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở ngành
doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay
thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp, họ
có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng lên các hàng
rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh tièem năng.
e. Sức ép của sản phẩm thay thế.
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức
giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.
Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công nghệ. Muốn
đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành nguồn lực để phát
triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của mình.
3. Doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các nguồn lực hiện
có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài
chính tổ chức, kinh nghiệm.
a. Nguồn nhân lực.
Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, người
ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh nghiệp:
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành công
của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt tất cả những
gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn lực khác cho doanh
nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là những thứ vô cùng quý
giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt hơn với giá thành thấp nhất,
đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh nghiệp vượt lên trên các đối thủ
cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ
cao, năng động, linh hoạt và hiểu biết... sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là
lợi ích trước nmắt như tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh
nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và
trưởng thành của doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự đồng bộ này
không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh nghiệp là từ những
nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng hợp riêng thu được từ
việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức trình độ tay nghề, ý thức kỹ
luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
b. Nguồn lực vất chất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù
hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực sản xuất,
làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một cơ sở vật chất tốt , chất
lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với việc hạ giá thành sản phẩm kéo
theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại không một doanh nghiệp nào lại có khả năng
cạnh tranh cao khi mà công nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm
giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là:
- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ mối tác
động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
- Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách hàng .
- Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc đảm bảo cho
sản xuất được liên tục, ổn định.
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai,
nhà cửa, lao động,...) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng.
c. Nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng sản xuất cũng
như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay phân phối,
quảng cáo cho sản phẩm ... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng
trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có một hoạt động đầu tư mua
saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của
doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng
trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành
sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ
nâng cao sức cạnh tranh. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh
nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm
nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận
nhiều hơn.
Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý.
Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có
phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính vững chắc sẽ là chỗ
dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin cậy, đầu tư từ phía khách
hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự có và các
nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm các tài sản lưu
động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các khoản vay, khoản nhập sẽ
có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có
có thể do các thành viên sáng lập đóng góp hoặc do một phần lợi nhuận được để lại
từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy
động từ ngân hàng các tổ chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài
chính cần thiết , doanh nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính
được coi là phương tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ
cạnh tranh .
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các đối thủ hùng
mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
d. Tổ chức.
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn các công
việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm
của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ cấu nề nếp tổ chức
có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực hiện chiến lược hoặc thúc
đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng động sáng tạo của các thành viên
trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có
nhiều cơ hội thành công hơn các doanh nghiệp khác.
e. Kinh nghiệm.
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu
trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc sản
xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều sản phẩm tiết kiệm được
nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt động thành
công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác của doanh nghiệp
có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người
lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ phận
B. AFTA và hội nhập AFTA.
1. Cơ sở hình thành AFTA.
Quá trình quốc tế hoá đời sỗng kinh tế thế giới đang diễn ra ở nhữn nơi cấp độ khác
nhau, với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất một hệ thống
tài chính, tín dụng toàn cầu là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc
tế theo chiều sâu , là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các
nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội có tính
chất toàn cầu như vấn đề, dân số tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái
... trong khi đó khu vực hoá kinh tế chỉ diễn ra trongmột thời gian địa lý nhaqát định
dưới nhiều hình thức như: Khu vực mậu dịch tự do , đông minh liên minh, thuế
quan, đồng minh tiền tề, thị trường chung, đồng minh kinh tế... nhằm mục đích hợp
tác, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di
chuyển tư bản , lực lương lao động hàng hoá dịch vụ ... tiến tới tự do toàn cầu
nhữnh di chuyển mối liên hệ giữa các nước thành vien trong khu vực.
ở những quốc gia có kinh tế thị trường phát triển, thì xu hướng tham gia hội nhập
voà nền kinh tế trong khu vực bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng. Việc tham gia mạnh
mẽ và rông rãi các khối liên minh kinh tế khu vực, tiến tới sự nhất thể hoá cao trog
thông qua văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự
ổn định hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó các doanh nghiệp của các quốc
gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như các gánh vác các
nghĩa vụ về tài chính giảm thuế cũng như giảm miễn phí khác ... Tình hình này
trong quá khứ, hiện tại và tương lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên
thế giới nói chung các quốc gia Đông Nam á nói riêng những cơ hội và thách thức
mới.
Sự hình thành kiên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục tiêu hợp tác ,
hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính sách bảo hộ mậu dịch
của các nước công nghiệp phát triển.
Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng quốc gia vào
nền kinh tế các nước trong khu vực vời nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào từng
khu vực liên kết và hình thức liên kết.
Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do là giai đoạn đầu của quá trình hội
nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều quốc gia
nhằm mục đích tự do hoá buôn bán đối một hoặc một số nhóm mặt hàng náo đó.
đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan nhằm tạo ra một thị trường thống nhất của khu vực. Nhưng mỗi quốc gia là
thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các quốc gia ngoài
liên minh.
Sự hôi nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại những lợi ích
khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên. Một
quốc gia nào đó gia nhập hội các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đua lại
những kết quả chủ yếu sau.
Một là, Tạo lập quan hệ mậu dịch nối giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa
khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong liên minh với các nước các
khu vực khác trên thế giới : cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế các nước
thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Cũng trong điều kiện này lợi ích
của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa
vào nước như là luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó hàng hoá hạ xuống làm người dân
ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp
hơn.
Hai là, hội nhập kinh tế khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch, sự
chuyển biến này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan , và khi đó các
điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi
hơn, hấp dẫn hơn trước.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện thuận lợi
trong việc tiếp tục thu vốn, công nghề trình độ quản lý ... từ các quốc gia khác nhau
trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp
phần tăng năng suất lao động.
Để tiến thêm một bước nữa tới tự do thương mại toàn diện và để phản ứng với xu
thế hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, ngày 27/28
tháng 1 năm 1992 các nước ASEAN đã thoả thuận thiết lâp khu mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm trong 15 năm, kể từ 1.1.1993, thuế của các
nước trong khu vực sẽ được giảm xuống ở mức 0 – 5% và các hàng rào phí thuế
quan với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Năm 1994, các nước ASEAN đã rút
ngắn thời gian quá trình đó còn lại 10 năm, tức là thuế giảm xuống còn 0 – 5% vào
năm 2003. AFTA không phải là một liên minh thuế quan trong nuớc ASEAN vẫn
được tự do riêng để dặt thuế với những nước còn lại trên thế giới.
2. Nội dung chủ yếu của AFTA.
2.1. CEPT ( Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung )
CEPT là một cột chính để thành lập AFTA. CEPT ( Common Effective Preferential
Tarif). Được đưa ra nhằm thoả thuận các nước thành viên ASEAN trong việc giảm
thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống 0- 5% đồng thời loại bỏ những
hạn chế về định lượng các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành 1/1/2003 đồng thời các nước thành viên cũng sẽ đi đến
thống nhất giữa các danh mục biếu thuế và các thủ tục hải quan để thực hiện CEPT.
Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu
đãi phải đạt 0 – 5 % trong thời gian dài nhất là 7 năm ( 5 năm đối với hàng hoá
chọn thuế thấp ) 15 nhóm sản phẩm
Đồ nhựa Đá quý và đồ trang sức
Sản phẩm cao su Cực âm dòng
Sản phẩm da Hàng điện tử
Bột giấy Nội thất bằng gỗ và mây
Hàng dệt Hoa chất
Dàu thực vật Dược phẩm
Xi măng Phân bón
Sản phẩm gốm và thuỷ tinh
Đối với nhóm giảm thông thường tốc độ giảm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao
hơn thì việc giảm thuế có thể thực hiện trong 15 năm.
Ban đầu, người ta dự tính có thể áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo
nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với các hàng hoá dễ bị tổn thương và khó
tính cạnh tranh trực tiếp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp hạn chế buôn bán là
cần thiết để đảm bảo an toàn an ninh quốc gia, sức khoẻ và truyền thống văn hoá.
Và việc loại bỏ ra khỏi CEPT các sản phẩm chỉ mang tính tạm thời. Một nước thành
viên laọi bỏ tạm thời một sản phẩm thì sẽ không còn tư cách để hướng sự xâm nhập
ưu đãi cho sản phẩm đó vào thị trường các quốc gia thành viên khác. Việc đình chỉ
ưu đãi chỉ phù hợp với điều XIX của GRATT ( hành động khẩn cấp về nhập khẩu
các sản phẩm đặc biệt ) .
Năm 1994 ASEAN đồng ý với tiến trình giảm thuế như sau.
1) Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện bình thường.
- Thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và sau đó còn 0
– 5%vào ngày 1/1/2003.
- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào ngày1/1/2000.
2) Đi với hàng hoá theo thời gian thực hiện nhanh.
- Thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào 1/1/2000.
- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào ngày1/1/1998.
* Danh sách các cửa hàng tạm thời không thuộc CEPT sẽ bị loại bỏ những sản
phẩm hiện đang nằm ngoài CEPT theo chu kỳ sẽ được đặt vào danh sách CEPT vào
thời gian bắt đầu từ 1/1/1995.
* Những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến bây giờ sẽ được đưa vào CEPT
Trước đây loại sản phẩm này nằm trong kế hoạch mậu dịch ưu đãi (PTA).
* Sẽ thành lập một đơn vị AFTA trong ban thư ký ASEAN và trong tất cả các nước
thành viên để đảm bảo một sự phối hợp giải quyết tốt hơn những vấn đề CEPT.
Phạm vi áp dụng của CEPT .
CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là của ASEAN bao gồm tư liệu sản
xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác . Một hàng hoá
đạt tiêu chuẩn của ASEAN nếu ít nhất đạt 40% nghuyên vật liẹu của nó xuất xứ từ
bất kỳ một nuức thành viên ASEAN nào đó. Trên thực tế, yêu cầu này thấp hơn yêu
cầu hàm lượng địa phương của hầu hết các klhối mậu dịch tự do khác như 50% giá
trị tăng thêm địa phương trong khối AFTA và trong hiệp định New Zealand –
Australia, AFTA yêu cầu giá trị vật tư và chi phí chế biến trực tiếp phải xuất phát từ
khối.
Theo quyết định thông qua năm 1994, những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến
sẽ phải đáp ứng tiêu chuẩn trên, dịch vụ được loại ra khỏi CEPT. Nguyên tắc xuất
xứ của ASEAN có nghĩa là có sự nhất trí chuyển hướng mậu dịch và đầu tư sang
nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành khác.
- Việc tham gia CEPT sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Tham gia AFTA sẽ
có một tác động trực tiếp nhất tới yếu tố gía cả của hàng hoá, bởi vì việc cắt giảm
thuế, đơn giản hoá thủ tục buôn bán thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố
khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do sức ép cạnh tranh trong nội bộ
AFTA.
Đặc biệt, tác động của khu vực mậu dịch tự do sẽ rõ ràng nhất trong điều kiện các
nước thành viên có điều kiện phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế và buôn bán tương tự
nhau như ASEAN. Tính cạnh tranh sẽ rất mạnh khi sự thay đổi thuế quan sẽ có tác
dụng quyết định. Đồng thời khả năng tạo lập sự hợp tác và chuyên môn hoá cũng
lớn. Xu hướng chung phân bố sản xuất là chuyến các cơ sở sản xuất từ nơi có giá
thành cao sang nơi có gi thành thấp. Mức chênh lậch giá thành càng lớn thì luồng di
chuyển càng mạnh khi các hàng rào thuế quan bị xoá bỏ.
Việt Nam chúng ta khi tham gia AFTA, sẽ có thuận lợi hơn cho xuất khẩu hàng
hoá sang các nước ASEAN vì các hàng rào bảo hộ của các nước đó cũng được cắt
giảm tương tự khi Việt Nam cắt giảm hàng rào bảo hộ của mình. Một thị trường lớn
nằm kế bên , có các đòi hỏi về chất lượng không phải quá cao, với các ưu đãi sẽ
được mở rộng ra cho các Doanh nghiệp Việt Nam.
CEPT sẽ là một tác nhân quan trọng không những thúc đẩy cải tiến kỹ thuật công
nghề và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất, mà hơn thế còn điều
chế cơ cấu sản xuất bằng cách ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh
tranh.
Việc tham gia AFTA sẽ đặt một cươ sở công nghiệp non yếu của Việt Nam trước
một thực tế phải cạnh tranh trên thị trường nước mình trong một thé bất lợi. Do cơ
cấu mặt hàng sản xuất của ASEAN tương đối giống nhau và Việt Nam ở vào tình
thế nền sản xuất trong nước không còn được bảo hộ mạnh mẽ như trước sẽ có nguy
cơ tiêu diệt một số ngành trong nước với 100% vốn của Việt Nam, thị trường trong
nước sẽ bị chen lấn bởi sản phẩm xuất khẩu trong khuôn khổ AFTA cũng như
những liên doanh sản xuất tại Việt Nam có sự đầu tư vốn của các Doanh nghiệp
ASEAN về 15 nhóm sản phẩm tương tự.
2.2. Những hàng thuế quan (NTBS), hạn chế số lượng(ORS) và các biện pháp khác.
CEPT chỉ là một bộ phận của AFTA đã phát sinh hiệu lực, tuy nhiên thuế không
phải là cản trở duy nhất và quan trọng nhất đối với buôn bán khu vực. Cần gạt bỏ
nhiều hàng rào phi thuế quan và hạn chế số lượng .
- NTBS của Việt Nam bao gồm:
+ Giâý phép hoạt động cho các nhà xuất khẩu và nhập khẩu, chỉ có các doanh
nghiệp thuộc Bộ Thương Mại được thực hiện các hoạt động ngoại thương.
+ Giấy phép xuất nhập khẩu, áp dụng đối với một số loại hàng hoá.
+ Giáy chứng nhận của một số tổ chức có thẩm quyền áp dụng với các loại hàng
hoá đặc biệt.
- ORS của Việt Nam bao gồm:
+ Qua ta.
+ Các hàng hoá và như yếu phẩm do chính phủ kiểm soát đẻ tạo cân bằng cơ sở
giữa cung và cầu trong nền kinh tế quốc dân.
2.3. Mục tiêu kinh tế của AFTA.
Mỗi một quốc gia tham gia vào AFTA đều đặt ra cho mình những mục tiêu nhất
định phù hợp với đặc thù của nước mình tuy nhiên tất cả họ đều có những mục tiêu
chung đó là:
- Tự do hóa thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ
khu vực và NTBS.
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng cách mở rộng một thị
trường phối hợp rộng hơn.
- Làm thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi dặc biệt là quá trình
thành lập các khối thương mại trên thế giới.
2.4. Danh mục sản phẩm theo chương trình CEPT của Việt Nam.
Khi tham gia vào AFTA các quốc gia có thể đưa ra danh mục CEPT và lịch trình
cắt giảm của riêng mình. Hơn nữa, Việt Nam là nước gia nhập ASEAN sau lên
được gia hạn thêm 3 năm nữa có danh mục CEPT và lịch trình cắt giảm có đặc
điểm:
Danh mục CEPT được chia ra làm 3 loại.
- Danh mục các mặt hàng giảm thuế theo hai kênh nhanh và thông thường.
- Danh mục loại trữ tạm thời và loại trữ chung.
- Các sản phẩm chưa qua chế biến nhạy cảm.
Trong 3211 mặt hàng chịu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Thì 53.1% hiện có mức
thuế thấp hơn 5% ( chủ yếu là nguyên liệu thô dùng cho sản xuất trong nước các
mặt hàng chế tạo có mức thuế cao hơn để bảo vệ công nghiệp trong nước) do vậy
việc tham gia CEPT không có tác độgn mạnh đến thuế nhập khẩu.
Danh mục các mặt hàng giảm thuế gồm 1633 mặt hàng, chiếm 50.5% danh mục
hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời bao gồm 1168mặt hàng
chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu.
II. Sự hội nhập AFTA của Việt Nam.
1. Thực tiễn thực hiện AFTA :
Về tiến trình cắt giảm thuế Việt Nam nói chung không thực hiện tiến trình cắt giảm
nhanh tuy nhiên đối với những sản phẩm đang có thuế xuất 0 - 5%, tức là đã thoả
mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể thực hiện vào tién trình cắt giảm nhanh đối với
sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong doanh mục cát giảm thuế quan hướng thực
hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế bắt đầu từ năm 1998 để đảm bảo cho nguốn thu
và hôc trợ một phần cho sản xuất trong nước.
Trong hai năm 1996 - 1997 Việt Nam đã thực hiện hi cải cách thuế, trong đó đối với
chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam đã thực hiện việc phân tích
hai loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng trước khi tiến hành cát
giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu giảm trên phần
thuế nhập khẩu còn lại là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai
loại thuế trên.
Có thể nói, Việt Nam thực hiện nghiêm tục và rất thận trọng việc giảm thuế quan để
tránh ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, và làm giảm được giá hàng nhập khẩu
góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nước, còn các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu hàng sang các nước
ASEAN.
Về các biện pháp phi thuế quan thì ở Việt Nam còn rất đơn giản chỉ là giấy phép và
hạn ngạch. Để thực hiện được việc giảm thuế và bỏ hàng rào phi thuế quan Việt
Nam đã và đang phối hợp các nước ASEAN để thống nhất các danh mục biểu thuế,
có hệ thống định dạng hải quan, quy trình thủ tục hải quan, v.v...
Có thể nói, việc Việt Nam hoàn thành AFTA vào năm 2006 là hoàn toàn khả thi.
Kết luận này căn cứ vào lộ trình AFTA của Việt Nam kết hợp với chương trình cải
cách thuế và các chính sách như đã phân tích ở trên.
2. Khả năng Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003.
Để thực hiện được điểm có lợi cho từng quốc gia trong việc thực hiện AFTA là tăng
khả năng xuất khẩu và thu hút đầu tư trong khối và ngoài khối. Do vậy, để Việt
Nam tham gia vào AFTA vào 2003 vừa tận dụng được những lợi thế trên vừa phù
hợp với định hướng chiến lược các ngành kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng
rộng và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một
yếu tố quốc tế tạo nên sức bật cho nền kinh tế..
Nếu Việt Nam hoàn thành CEPT vào năm 2003 thì nguồn thu ngân sách từ thuế
nhập khẩu không giảm nhiều so với nếu hoàn thành vào năm 2006, vì thuế xuất
bình quân đối với hàng nhập từ ASEAN là 13%, nếu giảm xuống 5% vào năm 2000
thì mức giảm thungân sách chỉ là 8%đsối với 50% hàng nhập khẩu là hàng thuộc
CEPT.Trái lạ, nếu khp\ối lương hàng nhập khẩu từ ASEAN tăng thì đủ bù lại mức
giảm thu ngân sách trên. Do vậy việc Việt Nam hoàn tất giảm thuế theo ce vào năm
2003 không gây thiệt hại lớn cho ngân sách sơ với nếu vàop năm 2006. Mặt khác,
việc giảm thuế sẽ làm giảm giá bán hàng ở Việt Nam: người tiêu dùng có lợi, doanh
nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc có lợi, các nhà đầu tư thay vì xuất khẩu hàng
vào Việt Nam sẽ đầu tư trực tiếp vào đây để giữ thị phần. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng ché biến nhập từ ASEAN,
buộc họ phải vươn lên. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vươn
lên, song không thể thựuc hiện bất kỳ mộtchính sách bảo hộ mậu dịch nào. Các
doanh nghiệp chủ động vươn lên trong cạnh tranh là điều tích cực đối với nền kinh
tế Việt Nam.
Cái lợi lớn nhất nếu Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2003 là đầu tư nước ngoài
tăng rõ rệt, ngành công nghiệp chế biến Việt Nam sớm hướng mạnh xuất khẩu sang
ASEAN. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam sẽ tính đến thị trường
hàng công nghiệp chế biếm xuất khẩu cho thị trường ASEAN, để hưởng lợi từ
AFTA. Thị trường hàng công nghiệp chế biến ASEAN khi lớn, rất hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam phải nắm lấy cơ hội này để có thể phát triển
nhanh công nghiệp chế biến xuất khẩu. Một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng, thời
cơ này chưa hề có trước đây, và tận dụng cơ hội này từ năm 1997 – 2003 Việt Nam
có thể thu hút được 21 tỷ USD FDY ( trung bình 3 tỷ USD/năm ), và cứ một đồng
vốn FDY sẽ tác động làm cho 4 đồng vốn trong nước hoạt động theo, thì số vốn
trong nước sẽ được huy động và phát huy tác dụng là 84 tỷ USD. Đây là nguồn lực
to lớn thúc đảy công nghiệp chế biến Việt Nam phát triển.
Tham gia AFTA vào năm 2003 cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam chuyển dich
cơ cấu kinh tế nhanh hơn, thị trường Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào thị trường
khu vực, một thị trường chung về hàng công nghiệp chế biến hình thành.
Trên cơ sở này, các nước ASEAN có thể hợp tác và chuyên môn hoá khu vực. Nếu
Việt Nam không chuyển đổi cơ cấu, không phát triển nhanh công nghiệp chế biến
thì Việt Nam tam gia AFTA không có ý nghĩa gì lớn , tài nguyên vv... là nơi mà các
chủ đầu tư nước ngoài rất quan tâm khi phát triển công nghiệp chế biến đầu tư vào
ASEAN.
Định hướng chiến lược phát triển các ngành vào xuất khẩu sang ASEAN mà trọng
tâm là công nghiệp chế biến đòi hỏi tất cả các biện pháp kinh tế vĩ mô như thuế
thương mại , tài chính ... đều cần được thay đổi để đảm bảo cho việc thực hiện
những thành công chiến lược đó . Sự tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN
trong thời gian qua do thực hiện những chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu -
chính là nguyen nhân tạo ra AFTA và cũng là tác động ngược lại của AFTA đối
vopứi kinh tế trong nước - đó là sự chứng minh rõ nét nhất cho sự cần thiết phải có
chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam, trong đó công nghiệp chế
biến là trọng tâm. Chúng ta sẽ thất bại nếu hội nhập kinh tế với bên ngoài mà chiến
lược kinh tế lại là thay thế nhập khẩu như trước đây hoặc duy trì song song với mức
độ như nhau cả chiến lược thay thế nhập khẩu hưỡng vào xuất khẩu ( như hiện nay).
Chúng ta ( trước 3 năm so với hạn 2006) như các nước thành viên khác vì đó là
phương án tích cực nhất , chủ động mang lại lợi ích phát triển cho Việt Nam. Việc
này đồi hỏi nhiều cố gắng trong việc đổi mới chính sách kinh tế. Càng chậm tham
gia vào AFTA thì những lợi ích thu được từ AFTA càng ít, nền kinh tế rơi vào thế
bị động trong quan hệ kinh tế quốc tế.
50.5% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục ngoại tệ tạm thời gồm 1168
mặt hàng chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu.
III. AFTA với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Việc hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA )trực tiếp ảnh hưởng ngay tại
xuất khẩu, nhập khẩu, , đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không dừng lại ở đó, mà nó
còn tác động cả vào công cuộc phát triển kinh tế của nước ta.
Các nhà kinh tế, chính trị trong và ngời nước đều có nhận định rằng nếu Việt Nam
nhập cuộc và hoà nhập vào thế giới bằng việc tham gia có hiệu quả và hợp lý váo
các hoạt động của ASEAN thì sự phát triển kinh tế chắc chắn sẽ thành đạt. Thời
gian này kéo dài bao lâu phụ thuộc chon hướng và thực hinj chuyển hưỡng cơ cấu
nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Đây là thời cơ lịch sử là thách thức của đất
nước.
1. AFTA với sự phát triển thương mại.
AFTA là mô hình được xây dựng theo nguyên tắc và nội dung cơ bản của hệ
thống thương mại toàn thế giới (WTO) hướng theo mô hình châu âu.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị định 91/CP ngày 18/12/1995về việc thực
hiện chương trình thuế quan ưu đãi chung – CEPT .Việt Nam cũng đã công bố danh
sách và các bước cắt giảm thuế ở trong nước với việc cắt giảm thuế quan là hoàn
toàn hợp lý.
Tính hợp lý đó nhằm mục đích chủ động hội nhập với các nước ASEAN, thực hiện
đường lối mở cửa của nền kinh tế , đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước.
Hiện nay cơ cấu xuất khẩu của nước ta chưa hợp lý còn nhiều mặt hàng thô hàng
nguyên liệu chưa chế biến hoặc mức chế biến thấp như dầu thô , than, thiếc , cao su,
gạo. Hàng Việt Nam xuất cho các nước ASEAN chiếm khoảng ẳ khả năng xuất
khẩu và nhập khẩu từ ASEAN 1/3 khả năng xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu lớn là
dầu thô ngày càng tăng trogn lúc ngành lọc dầu chưa hình thành ở trong nước.
Với cơ cấu xuất nhập khẩu như vậy chúng ta hầu như chưa được CEPT tạo thuận
lợi , vì sản phẩm đưa vào chương trình CEPT là hàng công nghiệp chế biến gồm cả
tư liệu sản xuất hàng nông sản chế biến mà Việt Nam còn chưa có ưư thế. Tại hội
nghị cấp cao tháng 12/95 đề cập tới hàng nông sản chưa chế biến được chính thức
đưa vào chương trình CEPT.
Để thực hiện CEPT, Việt Nam đã có chương trình của bộ Thương mại phối hợp với
Bộ tài Chính, đảm bảo 4 nguyên tắc.
- không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách.
- Bảo hộ hợp lý nếu sản xuất trong nước.
- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao công nghệ , đổi mới kỹ thuật cho
nền sản xuất trong nước.
- Hoà nhập với ASEAN để tranh thủ ưu đãi mở rộng thị trường và thu hút đầu tư
nước ngoài.
2. Chương trình về thuế.
Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện 3 luật thuế ( thuế giá trị gia tăng – VAT, thuế
thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân) , trong đó tôn trọng nguyên tắc không làm
giảm nguồn thu ngân sách
Mục tiêu chủ yếu của việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng ở nước ta là:
- Thúc đẩy sản xuất và kinh doanh phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu .
- Đảm bảo huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Khắc phục việc thu thuế cùng của luật thuế doanh thu.
- Hoàn thiện chính sách hệ thống thuế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo
điều kiện hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cắt giảm thuế theo ưu đãi của CEPT trước mắt chủ yếu là các mặt hàng công
nghiệp chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng cạnh tranh khối lương cũng
nhỏ. Hàng công nghiệp chưa qua chế biến. Các mặt hàng này ta chưa có khả năng
cạnh tranh khối lư3ơng cũng nhỏ.
Hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được hưởng sự ưu đãi đó
3. AFTA và CEPT đối với các ngành kinh tế trong nước.
Việc thực hiện AFTA và CEPT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các bộ
thuộc lĩnh vực sản xuất lưu thông và các ngành quản lý.
Điều quan trọng là ổn định sự phát triển sản xuất nhưng cần tạo điều kiện để đổi
mới cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hoá , đi từng bước đi thích hợp, đáp
ứng thị trường nước ngoài, các yếu tố cần thiết trong đổi mới cơ cấu phù hợp với
vốn, kỹ thuật công nghệ và thị trường.
Theo tinh thần đó, cần xem xét việc gì có thể làm được sớm cần làm trong thời gian
ngắn nhất, như việc chế biến nông sản chẳng hạn, không cần vốn lớn chỉ cần thị
trường chấp nhận và có lợi thấ so sánh, có lãi, nên có thể làm trước.
Việt Nam đã tham gia AFTA như đã trình bày có tác đọng mạnh mẽ đến toàn Bộ
Thương Mại, đầu tư cơ cấu sản xuất ... và cả toàn bộ qua trình phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Xem xét trên khía cạnh một doanh nghiệp tác động của AFTA là xem xát về khả
năng cạnh tranh ở trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN từ
những cơ hội và thách thức mà AFTA mở ra.
Chương II: đánh giá về khả năng cạnh tranh của công ty giầy Thuỵ Khuê trong điều
kiện hội nhập AFTA
I. Thực trạng kinh doanh của công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Giầy Thụy Khuê.
1.1. Lịch sử hình thành.
Công ty Giầy Thụy Khuê là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở công nghiệp
– Hà Nội có chức năng và nhiệm vụ là: sản xuất và kinh doanh mặt hàng giày dép
các loại.
Địa chỉ của Công ty Giầy Thụy Khuê được đặt ở 2 nơi:
* Văn phòng giao dịch của công ty: Số 152 phố Thuỵ Khuê Hà Nội.
* Cơ sở sản xuất: Khu A2 xã phù diễn – huyện Từ Liêm – Hà Nội.
* Việc đặt văn phòng và cơ sở sản xuất của công ty ở những vị trí khác nhau rất
thuận lợi cho việc giao dịch, tiêu thụ sản phẩm của công ty, cũng như việc thu hút
nguồn nhân lực dồi dào của các vùng lân cận và làm việc tại công ty. Lĩnh vực sản
xuất chủ yếu của công ty là sản xuất kinh doanh các loại giày dép phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể khái quát như sau:
Tiền thân của công ty là xí nghiệp quân nhu X3, ra đời vào tháng1/1957 chuyên sản
xuất giầy vải và mũ cứng cung cấp cho bộ đội, trải qua chặng đường gần nửa thế
kỷ, lúc nhập vào (1978) từ xí nghiệp X30 thành xí nghiệp giày vải thượng đình,
doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống mỹ cứu nước và xây
dưng XHCN. Do nhu cầu phát triển của ngành ngày 1/4/1989 một phân xưởng xí
nghiệp của giày cvải thượng đình được UBND thành phố Hà Nội cho tách ra thành
Giày vải Thuỵ Khuê theo quyết định số 93/QĐUB ký ngày 7/1/1989 của UBND
thành phố Hà Nội.
Năm 1992 xí nghiệp chuyển tên thành Công ty Giầy Thụy Khuê với tên giao dịch
quốc tế Thuy Khue SHOES COMPANY ( JTK). khi mới tách ra công ty có 650 ấn
bộ công nhân viên, giá trị tài sản gồm có vốn cố định 256 triệu đồng và vốn lưu
động là 200 triệu đồng bằng vật tư và bán thành phẩm. Lúc đó có hai phân xưởng
sản xuất, số nhà xưởng sản xuất hầu hết là nhà cấp 4 cũ nát, thiết bị máy móc cũ kỹ,
lạc hậu, sản xuất chủ yếu bằng phương pháp thủ công sản phẩm mỗi năm chỉ đạt
trên dưới 400000 sản phẩm, phân lớn ra công mũ giày cho liên Xô ( cũ ) và là sản
phẩm cấp thấp.
Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị
trường, hơn nữa là một doanh nghiệp trẻ mới được thành lập với đặc thù nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh giày dép là một mặt hàng dân dụng phụ thuộc nhiều vào yếu tố
thời tiết, khí hậu, mùa vụ, sức sống dân cư... song công ty vẫn không ngừng đổi mới
đầu tư mua trang thiết bị máy móc hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh, bên
cạnh đó Công ty Giầy Thụy Khuê rất chú trọng tời nguồn nhân lực, công ty đã xác
định lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm
bảo chất lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao, số lương và chất lượng lao động sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất hiệu quả máy móc thiết bị của công ty. Do đó
những năm qua công ty không ngừng lớn mạnh cả về số lương và chất lượng. Hiện
nay tổng số lao động của công ty là 2156 người trong đó có 87% lượng lao động trế
khoẻ, có trình độ tiếp thu những công nghề sản xuất tiên tiến. Trong nhũng năm gần
đây công ty đã không ngừng nâng cao và cải thiện điều kiện làm việc. Đối với các
phòng ban và nghiệp vụ nhân viên được làm việc trong điều kiện khá tốt. Có đày đủ
thiết bị văn phòng kể cả hệ thống thông tin liên lạc, từng phòng có gắn máy điều
hoà nhiệt độ. Đối với công nhân sản xuất trực tiếp được làm việc trong môi trường
an toàn có đủ hệ thống chiếu sáng, quạt máy và đủ m,áy móc chuyên dùng thay thế
cho những công việc nặng nhọc. Hiện nay công ty có 6 dây chuyền sản xuất và 20
0000m2 nhà xưởng.
Về thu nhập của người lao động: đây là một trong những mục tiêu cơ bản hàng đầu
của công ty. Trong những năm gần đây công ty không ngừng nâng cao và cải tiến
đời sống người lao động, lương tháng bình quân năm 1995 là 404.000 đồng, năm
1996 là 460.000 đồng năm 1997 là 535.000 đồng năm 1998 là 596.000đồng năm
1999 là 600.000 đồng.
Như vậy do chú trọng tới việc đầu tư máu móc thiết bị hiện đại và không ngừng
phát triển nguồn nhân lực của mình, nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất được mặt hàng
giày dép cấp thấp chủ yếu têu thụ thị trường nội địa, đến nay sản phẩm của công ty
đa dạng phong phú về màu sắc, chủng loại , chất lượng sản phẩm được nâng cao,
khách hàng trong và ngoài nước tín nhiệm từ chỗ công ty có rất ít khách hàng nhất
là khách hàng nước ngoài thì đến nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều nơi
trên thị trường thế giới như thị trường EU , úc, Bắc mỹ....
* Tài sản Công ty Giầy Thụy Khuê:
Với quá trình phát triển như vậy tính đến năm 2000quy mo sản xuất kinh doanh của
công ty là:
- Tổng số vốn kinh doanh 32198725000 đồng.
- Vốn ngân sách cấp: 11271321080đồng.
- Vốn vay 19269187000đồng.
- Vốn tự bổ sung :1658217000đồng.
1.2. Chức năng nhiệm vụ của công ty:
1.2.1. Chức năng
Công ty Giầy Thụy Khuê ( JTK) có chức năng chính là sản xuất kinh doanh các loại
giày dép và một số mặt hàng khác ù cao su phục vụ do tiêu dùng và xuất khẩu.
Ngoài ra công ty còn có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy
phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 2051081 cấp ngày 18/12/1992. Phạm vi kinh
doanh xuất nhập khẩu của công ty là:
* Xuất khẩu: các loại giày dép và mặt hàng công ty sản xuất ra.
* Nhập khẩu: vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất
của công ty.
Công ty thực hiện ché độ hạch toán kinh doanh độc lập trên cơ sở lấy thu bù chi,
khai thác các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của dất nước đẩy mạnh hoạt động
sản xuất tăng thu ngoại tệ góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
1.2.2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty.
Là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Công ty
Giầy Thụy Khuê có vai trò quan trọng trogn sự nghiệp xây dựng thủ đô Hà Nội và
ngành giày dép Việt Nam. Nhiệm vụ của công ty được thể hiện:
- Thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở chủ động và tuân thủ ngiêm
chỉnh các quy định của luật pháp.
- Nghiên cứu khả năng sản xuất, nhu cầu thị trường, kiến nghị và đề xuất với Sở
Công nghiệp Hà Nội giải quyết các vấn đề vướng mắc trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Tuân thủ luật pháp nhà nước về quản lý tài chính, quản lý xuất nhập khẩu và giao
dịch đối ngoại, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại
thương và các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh của công ty.
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời tự tạo nguồn vốn cho sản
xuất kinh doanh, đầu tư vào hoạt động đổi mới trang thiết bị tự bù đắp chi phí, tự
cân đối xuất nhập khẩu, đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi và hoàn thành
nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước nghiên cứu thực hiện có hiệu quả nâng cao các
biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm do công ty sản xuất ra, kinh doanh làm
tăng sức cạnh tranh và mở rộng doanh thu tiêu thụ.
- Quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để phù hợp với hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty và theo kịp sự đổi mới của đất nước.
1.3. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Xuất phát từ tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu cầu của thị trường và
để phù hợp với sự phát tiển của mình, công ty đã không ngừng nâng cao, hoàn thiện
bộ máy tổ chức quản lý. Đến nay bộ máy tổ chức quản lýcủa công ty được chia làm
3 cấp : Công ty, Xưởng- Phân xưởng sản xuất. Hệ thống lãnh đạo của Công ty bao
gồm Ban giám đốc và các phòng ban nghiệp vụ giúp việc cho giám đốc trong việc
tiến hành chỉ đạo quản lý.
-Ban giám đốc gồm :
+Tổng giám đốc .
+ Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật.
+ Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh.
- Hệ thống các phòng ban bao gồm.
+ Phòng tổ chức
+ Phòng tài vụ kế toán
+Phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu
+ Phòng cung ứng vật tư
+ Phòng cơ năng
+ Phòng kỹ thuật
- Ba xí nghiệp:
+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số I
+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số II
+ Xí nghiệp giày xuất khẩu số III
- Một trung tâm thương mại và chuyển giao công nghệ: 152 – Tây Hồ – Hà Nội .
Mô hình tổ chức quản lý của Công ty là mô hình trực tuyến, chức năng. Đứng đầu
là Giám đốc Công ty sau đó là các phòng ban nghiệp vụ và sau là các đơn vị thành
viên trực thuộc.
2. Kết quả kinh doanh của công ty trong giai đoạn vừa qua.
Trong những năm gần đây công ty đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ.
Công ty đã không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lương lẫn chất
lượng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua
được thể hiện thông qua biểu dưới đây
Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khố khăn, co hẹp về tài chính,
thị trường biến động , cạnh tranh gay gắt nhưng công ty đã naqưng động trong việc
thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất
định.
Qua biểu trên ta thấy trong 4 năm 97 – 2000 công ty đã phấn đấu thực hiện chính
sách các kết quả sản xuất kinh doanh như sau:
- Về sản lương sản phẩm sản xuất.
Năm 1998 vượt năm 1997 là 35,2% năm 1999 vượt năm 1998 là 20,4% và năm
2000 vượt năm 1999 là 0%. Như vầy, số lượng sản phẩm sản xuất của công ty tăng
nhanh qua các năm. Điều này cghững tỏ sức sản xuất của công ty càng ngày càng
được mở rộng . Có được thành tích này là do công ty đã không ngừng đầu tư mở
rộng sản xuất, cải tiến , thiết bị tăng dây chuyền và người lao động sử dụng , thu
hút thêm nhiều lao động mới vào làm việc tại công ty.
- Về doanh thu: Qua số liệu trên ta thấy không chỉ có số lượng sản phẩm sản xuất
tăng nhanh mà doanh thu bán hàng cũng tăng đáng kể qua các năm 1998 tăng so với
năm 1997 là 31,02%, năm 1999 tăng so với năm 1998 là 17% và năm 2000 so với
năm 1999 là 18,5 %. Dièu này cho thấy sản phẩm sản xuất của công ty ngày càng
được khách hàng tiếp nhận hơn
- Về chi phí và lợi nhuận:
Trong năm 1998công ty đã tiết kiệm trong việc tiết kiệm chi phí để thu mức lợi
nhuận đạt 31,9% nhưng năm 1999 do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhân làm
cho mức lợi nhuận chỉ tăng 15% đến năm 2000 lợi nhuận của công ty lại tăng và đạt
32,58%
- Thu nhập bình quân đầu người của công ty đã được cải thiện qua các năm. Năm
1998/1997 tăng 16,39%, năm 1999/1998 tăng 11,4%, năm 2000/1999 tăng 16,66 %.
Có được kết quả này là do công ty đã không ngừng quan tâm tới lợi ích của các cán
bộ công nhân viên trong công ty và đã sử dụng đòn bẩy kinh tế khuyến khích người
lao động hăng say làm việc.
- Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của công ty cho nên việc
tăng doanh thu xuất khẩu là một nhân tố tích cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh
giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường
Nhìn chung, các mặt hàng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều tăng qua
các năm tuy tốc độ tăng không đều. Nhưng nhìn chung cũng đã thể hiện được một
sự phát triển của công ty.
3. Đặc điểm về mặt hàng giày.
Ngành giày là ngành công nghiệp nhẹ, sản phẩm của ngành vừa phục vụ cho sản
xuất vùa phục vụ cho tiêu dùng. đối tượng phục vụ của ngành giầy rất rộng lớn bởi
nhu cầu về loại sản phẩm của khách hàng rất đa dạng cho các mục đích sử dụng
sản phẩm giày là sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mọi đối tượng khách
hàng . Mặt khác sản phẩm giày phụ thuộc nhiều vào mục đích sử dụng và thời tiết,
do đó công ty đã chú trọng sản xuất những sản phẩm chất lượng và yêu cầu kỹ thuật
cao – công nghệ phức tạp giá trị kinh tế của sản phẩm cao.
Sản phẩm chính của công ty là giày dép các loại dùng cho xuất khẩu và tiêu dùng
nội địa ( % sản xuất làm ra dành cho xuất khẩu ) đây là mặt hàng dân dụng phụ
thuộc rất nhiều vào yếu tố thời tiết khí hậu và mục đích sử dụng của khách hàng .
Vì thế để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường và thị hiếu của người tiêu
dùng, công ty đã tung ra thị trường những mặt hàng giày dép chủ yếu sau:
- Giầy vải cao cấp dùng để du lịch và thể thao.
- Giày vải nữ thời trang cao cấp.
- Giày da xuất khẩu cho các loại.
- Dép giả da xuất khẩu các loại.
Do có sự cải tiến về công nghệ sản xuất cũng như làm tốt các công tác quản lý kỹ
thuật nên sản phẩm của công ty có chất lượng tương đương với sản phẩm
Của những nước đứng đầu châu á.
Đặc điểm sản phẩm của công ty có ảnh hưởng rất lớn trong hoạt động nâng cao khả
năng cạnh tranh của công ty. Đặc biệt sản phẩm của công ty chủ yếu là xuất khẩu,
đây là một đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh
của công ty. Đặc điểm này được thể hiện qua biểu sau.
Biểu: Kết quả xuất khẩu của Công ty Giầy Thụy Khuê.
4. Thực trạng về nhân lực:
Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh
do đó công ty đã xác định: lao động là yếu tố hàng đầu để sản xuất kinh doanh. Nếu
như đảm bảo chất lượng, số lượng lao động sẽ mang lại kết quả cao vì yếu tố này
sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến hiệu quả của máy móc thiết bị, do đó
trong những năm qua lực lượng lao động của công ty không ngừng lớn mạnh cả về
chất lượng và số lượng
Ngày mới tách ra số cán bộ công nhân viên của công ty chỉ có 650 người do nhận
thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động, nhất là đối với sản xuất giày nên
số lương lao động của công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của
công ty là 2394 người trong đó 88% lực lượng lao động của công ty là những người
trẻ khoẻ có kiến thức văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiến tiến lao động trực
tiếp của công ty là 2224 người chiếm 92,9% tổng số lao động.
Hầu hết các công nhân viên của công ty đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn
của ngành. Số công nhân có trình độ tay nghề bậc 6/7 là 126 người chiếm
5,67%trình độ bậc 5/7 là 138 người chiếm 6,2% trình độ tay nghề 3/7 là 513 người
chiếm 23,06%. Số còn lại là lao động thủ công đã qua lớp đào tạo tay nghề từ 3 – 6
tháng do công ty tổ chức. Số lao động gián tiếp là 170 người chiếm 17,1 % trong
đó 88 người đã tôt nghiệp đại học . Bậc thợ bình quân của công ty qua các năm
ngày càng tăng cao chứng tỏ chất lượng lao động càng được chú ý dào tạo, huấn
luyện và nâng cao.
Về nguồn lao động thì chủ yếu thu hut từ các nguồn sau:
- Từ các trường đại học trung học và chuyên nghiệp, về làm cho các phòng ban tài
chính, phụ trách kỹ thuật tai công ty.
- Con em các cán bộ công nhân viên trong ngành tuyển dụng vào làm tại công ty.
- Tuyển qua các trung tâm giới thiệu việc làm ...
Về thu nhập của con người lao động trong công ty đã không ngừng nâng cao và cải
thiện đời sống người lao động. Lương thàng trung bình của người lao động hàng
năm 1995 là 403.000 đồng, năm 1996 là 500.000 đồng, năm 1997 là 535.000 đồng
năm 1998 là 596.000 đồng năm 1999 là 600.000 đồng năm 2000 là 700.000 đồng.
Như vậy do chú trong tới việc đầu tư máy móc và thiết bị hiện đại và không ngừng
phát triển nguồn nhân lực nên từ chỗ công ty chỉ sản xuất một số sản phẩm cấp thấp
chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa đến nay, sản phẩm công ty rất đa dạng , phong
phú về màu sắc chủng loại, chất lượng sản phẩm được nâng cao, được khách hàng
trong và ngoài nước tín dụng, sản phẩm của công ty đã có mặt ở thị trường khó tính
trên thế giới.
5. Thực trạng về công nghệ.
Từ ngày tách ra thành một công ty làm ăn độc lập với những dây chuyền cũ, lạc hậu
không thích ứng với thời cuộc đứng trước tình hình đó ban giám đốc công ty đã tìm
ra phương hướng đi riêng cho mình, tìm đối tác làm ăn, ký kết hợp đồng chuyển
giao công nghệ. Hiện nay dây chuyền sản xuất chủ yếu của công ty đều nhập từ Đài
Loan, Hàn Quốc phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam về kỹ thuật và sử dụng
nhân công nhiều.
Đến nay công ty đã đầu tư 6 dây chuyền sản xuất, công suất 3.5 triệu đôi/ năm trong
đó gồm hai dây chuyền sản xuất giày dép thời trang, 4 dây chuyền sản xuất giày thể
thao, giày vải cao cấp xuất khẩu giày bảo vệ lao động và các sản phẩm may mặc,
cao su hoá. Đây là dây chuyền hoàn toàn khép kín từ khâu may mũ, giày vào form;
cắt gián “ 02” ( đường viền quanh đế giày) , các dây chuyền có tính tự động hoá,
trong công xưởng công nhân không phải đi lại hệ thống chuyền chạy điều khắp nơi.
Chính đặc điểm qui định này trong công nghệ sản xuất giày đảm bảo hơn cho dây
chuyền sản xuất cân đối nhịp nhàng, cho phé p doanh nghiệp khai thác tới mức tối
đa các yếu tố vật chất trong sản xuất, nhờ đó mà góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê có thể biểu diễn
theo sơ đồ sau.
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất giầy của Công ty Giầy Thụy Khuê.
Quy trình sản xuất giầy có thể được hiểu như sau;
- Vải ( vải bạt, vải các loại ) đưa vào cắt may thành mũ giầy sau đó dập Oze.
- Crêp ( cao su, hoá chất) đưa vào cán luyện , đúc dập ra đế giầy.
- Mũi giầy vải kết hợp với đế cao su hoặc nhựa tổng hợp để đưa xuống gỗ lắp ráp ,
lònh mũi giầy để cho vào form giầy, quết kao vải để dán giầy, ráp đế giầy và các chi
tiết khác rồi đưa và gò.
- Gò mũi mang gót đế dán cao su làm phản giầy sau đó dán đường trang trí lên giầy
được sản phẩm giầy sống, lưu hoá trong 128 – 135 o C được giầy chín công đoạn
cuối cùng là xâu dây giầy vào kiểm nghiệm chất lượng và đóng gói.
II. Phân tích tình hình kinh doanh của công ty.
1. Về mặt hàng.
Sau thời kỳ Liên Xô và các nước đông âu tan rã, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn
về thị trường tiêu thụ sản phẩm trước đây chủ yếu là mũ, giầy vải giầy bảo hộ.
Đòi hỏi đặt ra đối với công ty trong thời gian đó là rất lớn.
Thứ nhất là về công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất của công ty hết sức lạc hậu.
Mà trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt một doanh nghiệp muốn
tồn tại thì phải tìm cách nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tối ưu.
Muốn cạnh tranh thắng lợi thì chất lượng sản phẩm phẩi tốt giá không quá cao có
nghĩa là phải có giá thành thấp , để thực hiện được điều này thì một điều kiện hết
sức quan trọng là phải có công nghệ tiên tiến . Nhiều giải pháp lớn được đề ra và
thực hiện trong đó có giải pháp về sản xuất kết hợp và áp dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật mới về sản xuất là biện pháp hàng đầu. Công ty đã hợp tác với các đối
tác P.D.G củaThái Lan, Arc của Hàn Quốc ...
Thứ hai, là nguyên vật liệu đầu vào ban đầu hầu hết các nguyên vật liệu như vải cao
su , nhựa, da ni lông , hoá chất... được nhập khẩu từ bên ngoài . đây là một khó khăn
lớn cho công ty vì việc nhập các loại nguyên vật liệu từ nước ngoài thừơng thì giá
cao, phải phụ thuộc vào ngân hàng. Dần dần công ty đã chuyển hướng khai thác
nguồn nguyên vật liệu từ trong nước, từ các công ty như :
- Công ty dệt 8/3.
- Công ty cao su sao vàng.
- Mặt lớp vạn thành ...
Thứ 3 là vốn sản xuất ban đầu công ty chỉ có 256 triệu đồng vốn cố định và vốn lưu
động có 200 triệu đồng bằng vật tư và bằng bán thành phẩm.
Cho đến nay tổng vốn kinh doanh của công ty lên đến 32.198.725.000 đồng trong
đó vốn chủ sở hữu là 12.929.538.000 đồng vốn vay 19.269.187.000 đồng .
Là một doanh nghiệp nhà nước nên hàng năm công ty cũng được nâng cấp vốn dưới
dạng cho vay với lãi suất ưu đãi.
Như vây, trong quá trình phát triển của mình công ty đã tạo ra được những sự tiến
bộ theo một hướng đi riêng chính điều này đã tạo nên đặc điểm riêng về cả cơ cấu
mặt hàng của công ty.
Mười năm phát triển cũng là một chặng đường khá dài đối với một doanh nghiệp
sản xuất, với hình thức chủ yếu là gia công xuất khẩu cho đối tác nước ngoài , công
ty đã dần xây dựng quan hệ tạo ra cho mình những khách hàng truyền thống. Cũng
chính vì hình thức kinh doanh chủ yếu là gia công xuất khẩu nên cơ cấu mặt hàng
của công ty được xây dựng trên cơ sở khách hàng truyền thống.
điều này được hiếu theo cách khách hàng đưa ra những mẫu mã kiếu dáng , yêu cầu
về chất lượng đặt hàng cho công ty từ đó công ty xây dựng nền cho mình cơ cấu
mặt hàng để sản xuất và tiêu thụ trong nước và thị trường ở nước khác.
2. Về thị trường.
Là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy xuất khẩu công ty giầyThuỵ
Khuê đã bắt đầu coi trọng đến công tác phát triển thị trường cũng như việc xác định
mục tiêu của công tác đó. Thị trường xuất khẩu của công ty khá rộng, công ty có
quan hệ hơn 20 nước trên thế giới.
a. Thị trường xuất khẩu.
- Thị trường EU.
Đây là thị trường chính của công ty chiếm tỷ trong lớn đối với bạn hàng thường
xuyên là Đức, Anh, Pháp, Mỹ, trên thị trường này công ty đã khẳng định được chỗ
đứng của mình ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe và thoả mãn nhu
cầu của khách hàng quốc tế.
Với 15 nước thành viên , EU là một thị trường lớn đối với sản phẩm giầy mà công
ty đang tiếp tục khai thác trong những năm gần đây sản phẩm giầy của công ty xuất
sang thị trường này tăng lên đáng kể và chiếm tỷ trọng lớn ( trên 90%) doanh thu
xuất khẩu luôn đạt được mức tăng trưởng từ 1,4 đén 1,5 lần, trong đó thị trường ở
đứ Anh, Pháp là ba thị trường lớn và thường xuyên của công ty với giá trị khả năng
xuất khẩu sang thị trường này không ngừng tăng và mở rộng đặc biệt là thị trường
Đức chiếm 52,10% sang đến năm 1998 chiếm và tiếp tục tăng trong các năm 99 và
2000.
Hai thị trường Anh và Pháp vẫn là hai thị trường chủ yếu nhưn có xu hướng giảm
nhẹ. Thị trường Pháp năm 1997 chiếm 11,02% năm 1998 chiếm 6,6% năm 1999
chiếm6,3% và năm 2000 chiếm 11,6% tỷ trọng ở các thị trường này có xu hướng
giảm nhẹ là do công ty đang có xu hướng mở rộng sang các thị trường mới như
Hylap, Hà lan, áo, ... công ty nắm bắt được những đặc điểm của thị trường EU nên
đã gia tăng thị phần ở thị trường này.
Đặc điểm của thị trường này là.
- Khi tham gia vào EU Việt Nam được hưỏng quy chế ưu đai chung. Theo quy định
này, các hàng hoá của Việt Nam được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan theo hệ
thống ưu đãi phổ cập của EU đây là thuận lợi lớn mà một số quốc gia đứng đầu về
sản phẩm sản xuất giầy như Hàn Quốc, Đài Loan không có được.
EU là thị trường đầy tiềm năng có mức tiêu dùng giầy cao nhất thế giới là 6 đôi /
người / năm. Khu vực này có điều kiện khí hậu lạnh người dân đã quen với việc sử
dụng giầy hàng ngày. Mặt khác là do đặc điểm của sản phẩm giầy luôn gắn bó với
các trào lưu mốt, thời trang mà một số nước trong khối EU là những trung tâm thời
trang của thế giới nên thị trường này rất cao đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng
cao về mẫu mã và phù hợp.
- Thị trường Bắc Mỹ.
Ngoài EU, bắc mỹ cũng là một thị trường lớn của công ty đặc biệt trong đó có
Canada và Mỹ là hai thị trường có tiềm năng năm 1997 xuất khẩu sang Cana đa
chiếm 4,94% năm 1998 là 3,57% năm 1999 3,95% và sang năm 2000 tăng lên
3,61%. Đặc trưng đòi về giầy của dân chúng Mỹ trước hết là các loại giầy thể thao
giầy cho việc nghỉ ngơi thư giản , giầy tiện nghi. Tuy nhiên khu vực thị trường lại
đòi hỏi rất khắt khe với chất lượng mẫu mã của sản phẩm.
Tháng 7/2000 Việt Nam và Mỹ đã ký hiệp định thương mại song phương đây là cơ
sở cho Việt Nam có thể có được quy chế toứi huệ quốc (MFN) của mỹ, mở ra cơ
hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có doanh nghiệp thuộc gngành
giầy da nên trong tương lai thị phần cho công ty ở khu vực này sẽ tăng lên mạnh
mẽ.
- Thị trường khác.
Ngoài ra công ty còn xuất sản phẩm của mình ra các nước Châu á và Châu úc.
Khu vực Châu á được coi là khu vực năng động nhất thế giới với tốc độ phát triển
cao. Thị trường Châu á với số dân rất lớn nhưng mức tiêu dùng giầy chưa cao 0,5 –
2 đôi / năm. Với các nước Châu á do điều kiện tự nhiên rất giống với Việt Nam,
mang truyền thống văn hoá á đông không cách xa nhau lắm nên giảm được chi phí
vận chuyển, hàng hoá của công ty xuất sang Châu á có nhiều thuận lợi hơn. Song
thị trường Châu á lại mang tính cạnh tranh khốc liệt về mặt hàng giâỳ do có nhiều
nước cùng sản xuất đặc biệt là Trung Quốc, Đài loan, Hàn Quốc. úc cũng là một thị
trường có quy mô của công ty Năm 97 thị trường này chiếm 2,3% và năm 2000
chiếm 2,8%.
b. Thị trường trong nước.
Thị trường trong nước của công ty chưa phát triển mạnh vẫn thổi nổi lượng giầy
tiêu thụ của người dân hàng năm không cao, đối tác chủ yếu của công ty là các công
ty tại thành phố Hồ Chí minh. Trong nước hiện nay chưa có rất nhiều công ty sản
xuất giày dép như Thượng Đình, Thăng Long, Bittis nên sự cạnh tranh khá mạnh
trong tương lai công ty cần có chính sách đúng để chiếm lĩnh thị trường trong nước.
III. Tác động của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt Nam và đối với
công ty giày dép thuỵ khuê.
1. Tác động của doanh nghiệp Việt Nam.
1.1. Vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam.
a. Về mậu dịch.
Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu luồn lách với các nước Liên Xô cũ và
đông âu. Hàng hoá xuất khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghệ địch thủ
ký kết giữa các chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các
doanh nghiệp trong nước.
Tù khi thực hiện chính sách đổi mới vào năm 1986 số lượng các bạn hàng buôn bán
với Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam- ASEAN tăng
mạnh với tốc độ khoảng 27%/ năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân
thương mại. Thương mại Việt Nam – ASEAN chiếm 1/3 kim ngạch ngoại thương
của Việt Nam và trong đó xuất khẩu chiếm 1:4 và nhập khẩu chiếm 1/3. Quan hệ
thương mạo trong khu vực vẫn nằm trong tay các doanh nghiệp nhà nước .
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nông sản thô, thực phẩm chiếm
48% nhiên liẹu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo 18% . Nghĩa là khi tham gia
vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế ít hơn các doanh
nghiệp các nước trong khu vực.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN bao gồm Dỗu thô, đậu, cao su,
chè ngô, hạt dièu, tiêu, rau quả tươi, thuỷ sản, thép, gỗ, thiếc, hàng thủ công,... như
vậy trong số các sản phẩm này có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp
chế biến , mặt hàng được ưu đãi thuế quan ở mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các
nh này chỉ có tính chất bổ sung cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không
có vị thế cạnh tranh thực sự.
Khoảng cách giữa mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5 % sau khi thực hiện
AFTA. đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến nmà doanh nghiệp Việt Nam
có thể tăng cường trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý, ...
Mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá của ASEAN trên thị trường nội địa sẽ ngày
càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được thực hiện đầy đủ.
Đối với quan hệ thương mại Việt Nam và giữa các nước ngoài ASEAN thì lợi ích
thu được đối với doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được
vật tư đầu vào vopứi giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối
lượng hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên các nước ASEAN cũng xuất khẩu ra thị
trường thế giới những sản phẩm tương tự Việt Nam cho nên họ cũng tăng sức cạnh
tranh khi gia nhập AFTA.
b. Về sản xuất.
Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu ở Việt Nam chỉ chiếm
trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với
các con số tương ứng với các nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế
tạo của Việt Nam hầu như chưa có mặt trên thị trường ASEAN, ngược lại hàng hoá
công nghiệp chế tạo ASEAN đã thâm nhập khá sâu sắc vào trong số 15 nhóm hàng
giảm thuế nhanh các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản
phẩm để xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vẫn chưa có
chất lượng được tin cậy, lại vừa chưa gây được ấn tượng vì hình thức kiểu dáng.
Các doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động
do tiền lương ở Việt Nam tương đối thấp hơn so với các nước ASEAN khác. Tuy
nhiên sản phẩm của các ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà
xuất sang các nước thuộc khu vực khác. Do vậy việc tham gia AFTA chưa có tác
động quan trọng đến các doanh nghiệp sử dụng người lao động.
1.2. Những cơ hội và thách thức của hội nhập AFTA đối với các doanh nghiệp Việt
Nam.
a. Cơ hội.
- Thứ nhất, tham gia vào AFTA sẽ tạo sức ép được buộc doanh nghiệp Việt Nam
phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực áp
dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và cung cách làm ăn mới, hơn nữa gia
nhập AFTA cũng bắt buộc, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào
những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức
cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải
đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã giá cả hàng hoá trong
vòng 5 – 8 năm, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho đối thủ trong
khu vực.
Thứ hai, Các doanh nghiệp Việt Nam có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được
những nguyên liệu đầu vào rẻ hơn. đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ
một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên vật liệu sẽ bị loại bỏ
khi gia nhập AFTA, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt cơ hội này họ có
thể vượt lên cạnh tranh tôt với các đối thủ trong khu vực.
Thứ ba, Doanh nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua
cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp Việt Nam xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng
vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bới những doanh nghiệp nước ngoài
hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng . Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả
hơn và thích ứng hơn đối với điều kiện quốc tế thay đổi.
b. Thách thức.
- Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang sử dụng những công nghệ lạc hậu, cũ
kỹ sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lợi từ những sản phẩm có công nghệ tương đối cao
của ASEAN. Không loại trừ một số trường hợp hàng hoá Việt Nam sẽ bị đánh bật
ngay trên thị trường Việt Nam.
- Tham gia AFTA có nghĩa là nhà nước Việt Nam phải từ bỏ các khoản thu ngân
sách nhất định do giảm thuế nhaạo khẩu và giảm thu năng suất có thể ảnh hưởng
ngay lập tức tới các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các ngành sản xuất mang tính
chiến lưọc đang được trợ cấp.
2. Tác động đối với Công ty Giầy Thụy Khuê.
a. Về nguồn nguyên liệu.
Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm, chất lượng sản phẩm
góp phần vào việc làm hạ giá thành sản phẩm.
Nguyên vật liệu của công ty bao gồm rất nhiều loại như vải, cao su, nhựa, da , ni
lon, ... hiện nay phần lớn hoạt động sản xuất giày dép cuả công ty là làm hàng gia
công cho nước ngoài nên nhiều loại nguyên liệu hóa chất đều phải nhập từ nước
ngoài vào.
Bên cạnh việc nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài vào , Công ty còn khai thác
nguồn nguyên vật liệu ở trong nước thông qua các doanh nghiệp sản xuất trong
nước.
Những năm gần đây dây vải sợi trong nước đã có nhiều tiến bộ về chất lượng đã
đáp ưngs được phần nào vải sợi có chất lượng cao để phục vụ hàng xuất khẩu.
Các công ty đã hợp tác chặt chẽ với các công ty như.
+ Công ty dệt 8/3, công ty dệt kim Hà Nội, công ty dệt 19/5.
+ Công ty cao su sao vàng.
+ Mút xốp vạn thành.
+ Đế đức sơn.
+ Tổ hợp dệt tân thành.
Các công ty này tuy đã đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng , chất lượng, nhưng
còn một số điểm tồn tại như đôi khi còn chậm chạp, giá cao, chưa theo kịp sự thay
đổi của mốt giầy.
Ngoài nguồn nguyên vật liệu trong nước. Công ty còn nhập một số lượng lớn các
nguyên vật liệu ở nước ngoài. Việc phải nhập nguyên liệu từ nguồn nước ngoài do
nhiều nguyên nhân bắt buộc công ty phải nhập như là:
- Do yêu cầu của chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu, vì vậy phải nhập khẩu
nguyên vật liệu nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Do nguồn nguyên vật liệu trong nước chưa đáp ứng đủ số lượng và chất lượng
nguyên vật liệu.
Khi tham gia vào AFTA, về mặt nguyên vật liệu công ty chịu những tác động sau.
Thứ nhất, về các Nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi hoàn thành AFTA giá các sản
phẩm nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 0 – 5% nên giá các sản phẩm nhập khẩu chắc
chắn sẽ giảm. Các nước trong khu vực ASEAN sẽ cung cấp một số lượng lớn hơn
về Nguyên vật liệu cho công ty đảm bảo chất lượng và giá giảm hơn hiện nay.
Thứ hai, về Nguyên vật liệu trong nước. Khi hoàn thành AFTA các doanh nghiệp
trong nước sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp thuộc các
quốc gia ASEAN nên họ phải cải tiến công nghệ, giảm giá thành nâng cao chất
lượng nên công ty sẽ có được những Nguyên vật liệu tốt hơn với giá hạ hơn.
b. Về công nghệ .
Chúng ta biết rằng Châu á phát triển theo mô hình “đàn nhạc” dẫn đầu là Nhật Bản
sau đó là các nước NIEs trong đó có XINGAPO tiếp theo là các nước NIEs thứ hai ,
sự di chuyển công nghề theo hiệu ứng “chảy tràn”có nghĩa là công nghệ được di
chuyển cũng theo thứ tự từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn – khi
tham gia vào AFTA với các hàng rào được dỡ bỏ sự di chuyển công nghệ sản xuất
lài càng mạnh mẽ hơn . Việt Nam chúng ta là nước đi sau nên có điều kiện tiếp thu
công nghệ tiên tiến hơn. Công ty Giầy Thụy Khuê cũng nằm trong bối cảnh này nên
cũng tiếp thu được những công nghệ sản xuất giày dép hiện đại , các mẫu mã kiểu
dáng công nghiệp cũng như các sở hữu công nghiệp khác ... tao điều kiện hạ giá
thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
c. Về kinh tế.
Khi tham gia AFTA các điều kiện thương mại sẽ thuện lợi hơn cho các thành viên.
Theo nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của ASEAN sẽ được hưởng các điều kiện ưu đãi
từ các quốc gia thành viên vì vậy sẽ có những luồng đầu tư từ bên ngoài vào nhất là
từ các nước phát triển để tận dụng các nguồn vật liệu, lao động từ ASEAN và phát
triển thị trường ở khu vực ASEAN kéo theo nó là các kinh nghiệm quản lý, phát
triển thị trường ... không những thế các đối tác của các quốc gia có nền kinh tế thị
trường phát triển hơn Việt Nam cũng xâm nhập vào Việt Nam mạnh mẽ hơn ở họ
có những kinh nghiệm mà bên phía các doanh nghiệp Việt Nam cần học tập.
Tác động này ảnh hưởng đến toàn bộ các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
trong đó Công ty Giầy Thụy Khuê.
d. Về đối tác.
Khi tham gia AFTA, môi trường cạnh tranh trong nước sẽ khốc liệt hơn các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ được hưỏng ngày càng ít hơn sự trợ cáp của nhà nước , chính
điều kiện cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém , điều này sẽ làm
giảm bớt đi những đối tác trong nước, các đối tác nước ngoài sẽ xâm nhập vào Việt
Nam điều này làm tăng về số lượng các đối tác nước ngoài.
Hơn nữa, AFTA sẽ làm tăng tính chuyên môn hoá giữa các quốc gia có nghĩa là mỗi
một quốc gia sẽ sản xuất một số mặt hàng hoá nhất định mà mình có lợi thế để cung
cấp cho các quốc gia thành viên điều này làm thay đổi về chất trong quan hệ giữa
công ty và các đối tác của mình.
IV. Đánh giá về khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện
hội nhập AFTA.
Như đã phân tích ở trên khi tham gia hội nhập AFTA có tác động mạnh mẽ đến
Công ty Giầy Thụy Khuê nó đem lại những cơ hội cũng như các thách thức đối với
công ty điều này có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty.
A. Theo mô hình SWOT.
1. Về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu giày dép là một trong những hoạt động chính chủ
yếu của công ty, nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của công ty.
Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê thì vấn đề chính là giá cả và chất lượng mặt hàng
giày dép, do công ty chưa có uy tín trên thị trường quốc tế cho nên vấn đề nhãn hiệu
không phải là vấn đề quan trọng cần chú ý ngay.
Trong những lĩnh vực này thì chúng ta có thể chỉ ra những điểm mạnh điểm yếu của
công ty như sau.
* Mặt mạnh: quy mô của công ty không qua lớn, hoạt động sinh hoạt để thích ứng
với sự thay đổi của thị trường. Công ty có trụ sở chính , cơ sở sản xuất sản xuất ở
Hà Nội điều này sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho việc đối tác nước ngoài iđến tìm hiểu ,
ký kết hợp đồng làm ăn vì Hà Nội là trung tâm văn hoá - kinh tế – chính trị của các
nước, các đoàn thương gia nước ngoài thường đến thủ đô để tìm hiểu tìm kiếm các
đối tác làm ăn trong tất cả các lĩnh vực cũng như môi trường đầu tư, Hà Nội có vị
trí thuận lợi gần cảng Hải Phòng , do đó mà được vận chuyển giao hàng cho các đối
tác nước ngoài sẽ gặp nhiều thuận lợi.
* Mặt yếu: công ty còn bị động trong kinh doanh do phụ thuộc vào đối tác trong
nước và nước ngoài. Mẫu mã do nước ngoài đưa sang chứ chưa có mẫu mã chom
riêng bản thân mình , công ty thường tốn nhiều thời gian và chi phí cho việc vận
chuyển vì công ty không có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp thường phải đi thuê. Kho
bãi của công ty chưa đủ lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh.
2. Về nhân sự.
Nhân sự là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi hoạt động của mỗi doanh nghiệp
nếu chỉ nói đén lao động sản xuất trực tiếp của công ty thì không có gì phải bàn
nhưng nói đến lao động gián tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh , giao dịch tìm
kiếm khách hàng thì lại là một vấn đề khác.
* Mặt mạnh: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo công ty đa phần là những người có kinh
ngiệm lâu năm . có trình độ chuyên môn kỹ thuật có mối quan hệ rộng.
* Mặt yếu: Số lượng người có trình độ cao ít ở trình độ cao học công ty không có
một người nào, số lượng người có trình độ đại học còn chưa cao, một số trong đó
không được đào tạo thích ứng với cơ chế thị trường. Do đó, một số cán bộ trẻ được
đào tạo trong cơ chế mới không phát huy được năng lực cũng như không kết hợp
được với kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lâu năm giầu kinh nghiệm trên.
3. Về tài chính.
Mặt mạnh về tài chính là cơ cấu tài chính linh hoạt được nhà nước cho vay với lãi
suất ưu đãi, công ty có thể huiy động vốn với nhièu nguồn khác nhau.
Vốn lưu động nhiều nguồn vốn vay khá lớn số lượng chu kỳ sản xuất tương đối
ngắn nên thời gian quay vòng vốn ngắn.
Mặt yếu: Vốn chủ sở hữu chủ yếu là ngân sách cấp chiếm 88% nên khi tham AFTA
nguồn vốn này có thể sẽ bị giảm do sự giảm sút nguồn thu ngân sách từ thuế nhập
khẩu.
4. Về Marketing.
Marketing là khâu quan trọng đưa khách hàng đến với công ty là con đường để
công ty chiếm lĩnh thị trường đồng thời là một trong những cách để nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoạt động Marketing có nhiệm vụ nghiên cứu
thị trường trong và ngoài nước , tìm hiểu nắm vững và dự báo nhu cầu thị trường
đưa ra cách thức tôt nhất để công ty nâng cao được khả năng cạnh tranh cuả công
ty.
Trong điều kiện hội nhập AFTA công ty có những mặt mạnh và mặt yếu sau đây.
Mặt mạnh: sự tín nhiệm của một số khách hàng truyền thống giữ được nguồn
khách hàng cũ , khuếch trương và lôi kéo được khách hàng mới về làm ăn với công
ty trực tiếp đi ra nước ngoài để tìm kiếm và ký kết hợp đồng làm ăm mới , đông thời
khuyến khích mọi thành viên trong công ty cùng tìm kiếm khách hàng .
Mặt yếu: công ty chư a có biện pháp tiến hành Marketing theo đúng nghĩa của nó
công ty chỉ chú trọng thị trường nước ngoài mà không chú trọng thị trường trong
nước, hoạt động khuyến mại hầu như không có. Chiến lược định vị không được
công ty chú trọng việc thu nhâph thông tin về thị trường chưa có cơ sở khoa học ở
thể bị động phụ thuộc nhiều vào khách hàng nước ngoài không có chiến lược giá rõ
ràng.
5. Về tổ chức quản lý chung.
Vấn đề tổ chức quản lý chung của công ty có ảnh hưởng lớn tới mọi hoạt động mọi
cá nhân làm việc trong công ty néu việc tổ chưca quản lý không tốt bố trí không
đúng người đúng việc thì sẽ trơt thành nhược điểm, cản trở hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty.
*Mặt mạnh: Nhiều cán bộ có nhiều kinh nghiệm lâu năm trong nghề lãnh đạo doanh
nghiệp có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước.
Học tâp được kỹ năng tổ chức quản lý chung từ phía đối tác nước ngoài.
* Mặt yếu: công tác cập nhật, báo cáo, chứng từ sổ sách của các phòng ban nghiệp
vụ chưa thường xuyên có khi thiếu chính xác. Việc giúp lãnh đạo nắm bát tình hình
để chỉ đạo kịp thời trong sản xuất kinh doanh và các mặt hoạt động khác chưa cao.
Qua những phân tích trên ta có thể khái quát lại một số mặt mạnh mặt yếu của
Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA như sau.
1. Quy mô công ty không quá lớn, hoạt động lĩnh vực thích ứng sự thay đổi của môi
trường. 1. Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên
nghiệp
2. Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm. 2. Số lượng người có trình độ cao được
đào tạo theo cơ chế thị trường ít
3. Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động
chiếm tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn
3. tỷ trọng năng suất cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn
4.được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới. 4. Hoạt động
Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi trọng không
có chiến lược rõ ràng.
5. Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, các cơ quan quản
lý nhà nước có thể học tập được kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài
5. Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp
thời các mặt hoạt động sản xuất chưa cao.
* Phân tích theo cơ hội và nguy cơ.
Việc phân tích những mặt mạnh mặt yếu ở trên chưa cho phép chúng ta đánh giá
một cách tổng quát toàn diện về khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện
hội nhập AFTA vì vậy chúng ta cần xem xét những cơ hội và thách thức mà AFTA
đem lại cho công ty như đẫ phân tích ở phần.
Chúng ta có thể thấy được những cơ hội mà AFTA đã đưa lại cho công tylà:
- Công ty có thể mua được những nguyên liệu phục vụ cho sản xuất giày dép với
giá rẻ hơn chất lượng cao hơn làm giảm giá thành sản phẩm.
- Công ty có điều kiện tiếp thu những công nghệ hiện đại hơn.
- Học tập được kinh nghiệm quản lý của các đối tác sau đây chúng ta sexets những
thách thức AFTA đưa đến cho công ty.
Khi tham gia AFTA nhà nước Việt Nam sẽ bị giảm đi những khoản thu ngân sách
nên có thể giảm những khoản trợ cấp cho công ty vôn năng suất cấp chiếm 88% vốn
chủ sở hữu nên khi không được cung cấp hoặc cung cấp hạn chế hơn công ty sẽ gặp
phải những khó khăn.
- Công nghệ hiện nay của công ty hiện nay còn thời gian khấu hao máy móc thiết bị
còn dài mà nó không phải là hiện đại nhất trong các doanh nghiệp trong khu vực
ASEAN nên có những hạn chế trong việc nâng cao chất lượng.
- Cả nước trong khu vực ASEAN có các điều kiện khá giống nhau nên khi tham gia
ắt ta điều kiện thuận lợi công ty sẽ phải chịu sự cạnh tranh của các đối thủ khác ở
ngay trên thị trường Việt Nam.
- Họ cũng có cơ hội để hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh vì
vậy vt còn phải chịu sự cạnh tranh của họ tại các thị trường bên ngoài khu vực
ASEAN.
- Các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng gia tăng sức ép cạnh tranh cho công ty.
1. Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn 1. Giảm trợ cấp từ phía nhà nước
2. Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại 2. Công nghệ
của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA
3. Học tập kinh nghiệm quản lý 3. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoài.
4. Đối thủ cạnh tranh
Ma trận swot của công ty Giày Thuỵ Thuê.
Sử dụng ma trận SWOT nhằm tạo ra sự phối hợp logic giữa các mặt mạnh, yếu với
các cơ hội thách thứccủa công ty. Mục đích của sự phối hợp này là để giúp công ty
đề ra các biện pháp đúng đắn để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu, tận dụng và
gia tăng cơ hội, giảm thiểu và đối phó được với các thách thức.
Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê ma trận SWOT có thể được trình bày tóm tắt ở
bảng sau
Ma trận SWOT Cơ hội(O)
Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn 1.
Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại 2.
Học tập kinh nghiệm quản lý Thách thức(T) 3.
Giảm trợ cấp từ phía nhà nước 1.
Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA 2.
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà 3.
Đối thủ cạnh tranh. 4.
Mặt mạnh(S)
Quy mô công ty không quá lớn 1.
Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm. 2.
3. Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động
chiếm tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn
4. được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.
5. Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập
được kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài S/O
-Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn
-Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại
-Học tập kinh nghiệm quản lý
-Quy mô công ty không quá lớn
-Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm.
-Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động chiếm
tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn
-được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.
-Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập được
kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài S/T
-Quy mô công ty không quá lớn
-Cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm.
-Cơ cấu tài chính linh hoạt, nhà nước cho vay với lãi suất thấp, vốn lưu động chiếm
tỷ lệ cao, số lượng quy mô vốn khá lớn, thời gian quay vòng vốn ngắn
-được khách hàng tín nhiệm, lôi kéo được khách hàng mới.
-Lãnh đạo công ty có mối quan hệ tốt với các cấp chính quyền, có thể học tập được
kỹ năng quản lý từ phía đối tác nước ngoài
-Giảm trợ cấp từ phía nhà nước
-Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA
-Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà
Đối thủ cạnh tranh
Mặt yếu(W)
1. Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp
2. 2. Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít
3. tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn
4. Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được
coi trọng không có chiến lược rõ ràng.
5. Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các
mặt hoạt động sản xuất chưa cao.
W/O
-Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp
-Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít
-tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn
-Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi
trọng không có chiến lược rõ ràng.
-Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các
mặt hoạt động sản xuất chưa cao.
-Nguyên vật liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn
-Công ty có điều kiện tiếp thu được những công nghệ hiện đại
-Học tập kinh nghiệm quản lý W/T
-Phụ thuộc vào đối tác nước ngoài chưa có đội ngũ vận tải chuyên nghiệp
-Số lượng người có trình độ cao được đào tạo theo cơ chế thị trường ít
-tỷ trọng ngân sách cấp trong vốn chủ sở hữu là lớn dễ gặp khó khăn
-Hoạt động Marketing chưa có bài bản, chiến lược địa vị sản phẩm chưa được coi
trọng không có chiến lược rõ ràng.
-Công tác cập nhật, báo cáo còn kém việc nắm bắt tình hình chỉ đạo kịp thời các
mặt hoạt động sản xuất chưa cao.
-Giảm trợ cấp từ phía nhà nước
- Công nghệ của công ty không phải là hiện đại nhất trong AFTA
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn từ bên ngoà
-Đối thủ cạnh tranh.
B. Theo đa giác cạnh tranh:
Mô hình đa giác cạnh tranh dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Giầy
Thụy Khuê . nó mô tả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo các yếu tố , chất
lượng, tài chính, giá cả, bán hàng, trước bán hàng, ngoại giao. Trong mối quan hệ so
sánh với các đối thủ cạnh tranh công ty.
Khi hoàn thành AFTA, sẽ có những đối thủ cạnh tranh.
Khi hoàn thành AFTA. Công ty sẽ có những đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào
và đối thủ cạnh tranh trong nuớc.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích khả năng cạnh tranh của công ty trong quan hệ so
sánh với các đối thủ cạnh tranh đó.
1. Chất lượng sản phẩm:
Đây là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh với chất lượng thì doanh nghiệp
sẽ giành được lợi thế cạnh tranh.
Về mặt này Công ty Giầy Thụy Khuê
Điểm mạnh: Công ty đã chú trọng tời việc nâng cao chất lượng sản phẩm một cách
kiên trì, thường xuyên. Công ty cũng đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ
khá cao để kiểm tra giám sát, chất lượng của sản phẩm thường ổn định.
Điểm yếu: công ty chưa tạo được uy tín về chất lượng và sản phẩm của công ty vì
sản phẩm của công ty xuất khẩu phần lớn là mang nhãn hiệu của đối tác đặt hàng
chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực cũng như trong nước.
Doanh nghiệp trong khu vực ASEAN có những điểm mạnh và điểm yếu sau:
+Điểm mạnh: chú trong đến viêch nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản
phẩm khá cao ổn định , số lượng bán hàng truyền thống của mhọ lớn hơn do họ có
quan hệ ở bên ngoài trước các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Điểm yếu: Chưa tạo được yếu tố tín về chất lượng sản phẩm đốivới thị trường
khắt khe do quan niệm quốc tế về khu vực ASEAN.
Các doanh nghiệp trong nước có những điểm mạnh và điểm yếu sau.
+ Điểm mạnh: Đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản
phẩm khá cao và ổn định đã dần tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm trong
nước:
+ Điểm yếu: Chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực, chưa tạo ra
được uy tín quốc tế bên ngoài khu vực ASEAN.
2. Về tài chính.
Công ty Giầy Thụy Khuê:
+ điểm mạnh: được nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi. Có thể huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau.
+ Điểm yếu: Khả năng phân tích tài chính còn yếu còn chưa nhiều vào việc trợ giúp
của ngân sách nhà nước.
Các doanh nghiệp trong khu vực ASEAN.
+ Điểm mạnh: Khả năng tài chính lớn có thể vay được từ nhiều nguồn trong nước
và nước ngoài với số lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.
+ Điểm yếu: Khả năng tài chính cũng không phải là lớn đủ để không phải lo về vấn
đề tài chính.
Các công ty giầy trong nước:
Điểm manh:Có thể vay vốn với nhiều nguồn khác nhau với khối lượng lớn hơn
Công ty Giầy Thụy Khuê, tiềm lực tài chính lớn hơn.
Điểm yếu : Trả lãi suất vay lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.
3. Về giá cả.
Công ty Giầy Thụy Khuê:
+ Điểm mạnh: Giá sản xuất tương đối thấp, ngày càng có xu hướng do công ty có
thể giảm được giá thành sản phẩm.
+ Điểm yếu: Không thể giảm giá quá nhiều. Do chi phí vận chuyển, kho bãi còn
lớn.
Các công ty giầy trong nước:
+ Mặt mạnh: Giá cả được chấp nhận ở mức ổn định do chiến lược giá đã bắt đầu
được xây dựng.
+ Mặt yếu: Giá cả không phải là thấp so với đối thủ cạnh tranh
Các công ty giầy trong khu vực ASEAN.
+ Mặt mạnh: Có thể xuất khẩu được nhiều nguyên vật liệu trong quá trình xuất
khẩu, giá thành sản phẩm thấp.
+ Mặt yếu: ở họ có sự liên kết tạo ra mức giá chung nên khó có thể tự hạ giá , với
những đối tác khó tính họ dễ bị mất khách hàng.
4.Về bán hàng .
Công ty Giầy Thụy Khuê.
+ Điểm mạnh: Bán hàng theo phương thức, chiến kược kinh doanh quen thuộc,
khách hàng không bị bất ngờ
+ Điểm yếu: Phương thức bán hàng còn cứng nhắc bị động không hấp dẫn và
khuyến khích khách hàng.
Các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước.
+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thức đa dạng khác nhau.
+ Điểm yếu: Chưa thật sự linh hoạt.
Các công ty sản xuất trong khu vực ASEAN.
+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thúc nhanh gọn, đa dạng.
+ Điểm yếu: Hầu như không có.
5. Về ngoại giao:
Công ty Giầy Thụy Khuê:
+Điểm mạnh: Có mối quan hệ tôt với đối tác hợp tác, bán hàng, các cấp chức quyền
và cơ quan quản lý nhà nước.
+Điểm yếu: Chưa có những đối sách mới về xây dựng quan hệ mới với các đối tác
nước ngoài.
Đây là điểm mạnh đối với các công ty giầy trong nước khác và các doanh nghiệp
trong khu vực ASEAN.
6. Trước bán hàng:
Đây là việc dự báo nhu cầu thị trường và thoả mãn nhu cầu đó.
Công ty Giầy Thụy Khuê:
+ Điểm mạnh: Có một số khách hàng truyền thống nên luôn xác định được lượng
nhu cầu tối thiểu sẽ có trên thị trường.
+ Điểm yếu: Hầu như không có đội ngũ Marketing chuyên nghiệp, dự báo tốt nhu
cầu của thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng để đưa ra được kế hoạch kinh
doanh tối ưu nhất.
Các công ty giầy trong nước.
+ Điểm mạnh: được khách hàng tin cậy nên rễ ràng xác điịnh được nhu cầu và thoả
mãn được nhu cầu đó.
+ Điểm yếu: Đôi khi chưa dự báo chính xác được nhu cầu của thị trường làm ảnh
hưởng tới việc kinh doanh.
Các công ty giầy trong khu vực ASEAN.
+ Điểm mạnh: Có nhiều khách hàng trên nhiều thế giới được các khách hàng tín
nhiệm, có thể thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng .
+ Điểm yếu: đối khi còn coi thường các đối thủ cạnh tranh.
Dưới đây là bảng tóm tắt một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu.
Bảng tóm tắt về một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu
Công ty Giầy Thụy Khuê Các công ty trong nước Các công ty trong
khu vưc
1. Chất lượng sản phẩm:
Điểm mạnh: Công ty đã chú trọng tời việc nâng cao chất lượng sản phẩm
một cách kiên trì, thường xuyên. Công ty cũng đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có
trình độ khá cao để kiểm tra giám sát, chất lượng của sản phẩm thường ổn định.
Điểm yếu: công ty chưa tạo được uy tín về chất lượng và sản phẩm của công ty vì
sản phẩm của công ty xuất khẩu phần lớn là mang nhãn hiệu của đối tác đặt hàng
chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực cũng như trong nước. +
Điểm mạnh: Đã quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng sản
phẩm khá cao và ổn định đã dần tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm trong
nước:
+ Điểm yếu: Chất lượng sản phẩm chưa thực sự vượt trội trong khu vực, chưa tạo ra
được uy tín quốc tế bên ngoài khu vực ASEAN.
+Điểm mạnh: chú trong đến viêch nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng
sản phẩm khá cao ổn định , số lượng bán hàng truyền thống của mhọ lớn hơn do
họ có quan hệ ở bên ngoài trước các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Điểm yếu: Chưa tạo được yếu tố tín về chất lượng sản phẩm đốivới thị trường
khắt khe do quan niệm quốc tế về khu vực ASEAN.
2. Về tài chính.
+ Điểm mạnh: được nhà nước cho vay với lãi suất ưu đãi. Có thể huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau.
+ Điểm yếu: Khả năng phân tích tài chính còn yếu còn chưa nhiều vào việc trợ giúp
của ngân sách nhà nước. + Điểm mạnh:Có thể vay vốn với nhiều nguồn khác
nhau với khối lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê, tiềm lực tài chính lớn hơn.
điểm yếu : Trả lãi suất vay lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.
+ Điểm mạnh: Khả năng tài chính lớn có thể vay được từ nhiều nguồn trong
nước và nước ngoài với số lượng lớn hơn Công ty Giầy Thụy Khuê.
+ Điểm yếu: Khả năng tài chính cũng không phải là lớn đủ để không phải lo về vấn
đề tài chính.
3. về Giá cả + Điểm mạnh: Giá sản xuất tương đối thấp, ngày càng có xu hướng do
công ty có thể giảm được giá thành sản phẩm.
+ Điểm yếu: Không thể giảm giá quá nhiều. Do chi phí vận chuyển, kho bãi còn
lớn.
+ Mặt mạnh: Giá cả được chấp nhận ở mức ổn định do chiến lược giá đã bắt
đầu được xây dựng.
+ Mặt yếu: Giá cả không phải là thấp so với đối thủ cạnh tranh
+ Mặt mạnh: Có thể xuất khẩu được nhiều nguyên vật liệu trong quá trình
xuất khẩu, giá thành sản phẩm thấp.
+ Mặt yếu: ở họ có sự liên kết tạo ra mức giá chung nên khó có thể tự hạ giá , với
những đối tác khó tính họ dễ bị mất khách hàng.
4.Về bán hàng + Điểm mạnh: Bán hàng theo phương thức, chiến kược kinh
doanh quen thuộc, khách hàng không bị bất ngờ
+ Điểm yếu: Phương thức bán hàng còn cứng nhắc bị động không hấp dẫn và
khuyến khích khách hàng.
+ Điểm mạnh: Bán hàng theo nhiều phương thức đa dạng khác nhau.
+ Điểm yếu: Chưa thật sự linh hoạt.
+Điểm mạnh:
Bán hàng theo nhiều phương thúc nhanh gọn, đa dạng.
+ Điểm yếu:
Hầu như không có.
5. về ngoại giao +Điểm mạnh: Có mối quan hệ tôt với đối tác hợp tác, bán
hàng, các cấp chức quyền và cơ quan quản lý nhà nước.
+Điểm yếu: Chưa có những đối sách mới về xây dựng quan hệ mới với các đối tác
nước ngoài.
Không có điểm yếu. Không có điểm yếu.
C. Kết luận về khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện
hội nhập AFTA.
1. Những ưu điểm
Khi Việt Nam tham gia vào AFTA. Một sức ép cạnh tranh mới sẽ đè nặng lên Công
ty Giầy Thụy Khuê.
Nếu như công ty cạnh tranh thắng lợi, giành được thị phần lớn công ty sẽ tăng được
khối lượng hàng hoá bán ra từ đó gia tăng được lưọi nhuận và sụ phát triển vững
chắc của công ty qua phân tích trên ta có thể kết luận về những ưu điểm của Công
ty Giầy Thụy Khuê như sau:
Quan hệ của lãnh đạo cũng như toàn bộ công ty đối với bán hàng là khá tốt nên
trong tương lai công ty vẫn giữ được các bạn hàng truyền thống của mình và với
quy mô không quá lớn, hoạt động thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi
trường sẽ tạo khả năng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng . Với những cán bộ
lãnh đạo giầu kinh nghiệm sẽ dẫn dắt công ty đương đầu voéi những chiến lược
cạnh tranh của các đối thủ.
Cơ cấu tài chính của công ty linh hoạt vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao thời gian
quay vòng vốn ngắn tạo điều kiện cho công ty có thể đáp ứng tối đa những sự thay
đổi trong kiểu dáng và chất lượng.
Sự tiếp thu được những kỹ năng kinh nghiệm quản lý giúp cho công ty hoạt động
ngày càng có hiệu quả hơn.
Với những nguyên vật liệu mua vào rẻ hơn , chất lượng tốt hơn công nghệ sản xuất
hiện đại hơn chắc chắn công ty sẽđưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng tốt
hơn, giá rẻ hơn. Làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong tương lai.
2. Những hạn chế
Công ty thiếu quá nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật có trình độ cao do đó hoạt động sản
xuất kinh doanh còn kém.
Trong đội ngũ cán bộ hiện tại đang thiếu những cán bộ kinh tế có năng lực, thật sự
thích ứng với cơ chế thị trường, các cán bộ có kinh nghiệm lâu năm vẫn giữ thgói
quen cũ trogn cơ chế bao cấp. Kế hoạch hoá nên đã gây cản trở nhiều cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty.
Đội ngũ công nhân lao động trực tiếp sản xuất tuy lành ngề nhưng chưa có tác
phong công nghiệp nên hoạt động sản xuất chưa phát huy hết công suất cũng như
hiệu quả.
Công ty không có chiến lược giá thích hợp, áp dụng giá cả cứng nhắc với mọi khách
hàng, vì vậy khi gặp những khách hàng khó tính. Khả năng đàm phán tốt thì lại bị
ép giá, phải hạ giá rất nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho công ty.
Công ty vẫn chưa xâm nhập được thật sự vào những thị trường nước ngoài có tương
lai phát triển tốt mà chủ yếu là mới ở thế chen chân có mặt trên thị trường chứ chưa
thực sự khẳng định được sự có mặt vững chắc của mình.
Công ty chưa có đội ngũ cán bộ được đào tạo quy củ, bài bản làm công tác
Marketing, nghiên cứu, dự báo, lập kế hoạch, chiến lược theo đúng nghĩa của nó.
Công ty còn bỏ trống thị trường trogn nước, tạo cơ hội cho các đối thú cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường này.
Vấn đề nhà kho cũng gây khó khăn cho công ty, vấn đề bảo quản hàng hoá cũng
như diện tích của nhà kho không đủ lớn để công ty mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh mà nếu thuê nhà kho sẽ gây tốn kém không ít cho công ty.
chương III: giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy
Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.
A. Định hướng chung
Trong mười năm qua Công ty Giầy Thụy Khuê đã không ngừng phát triển thị
trường chủ yếu của công ty là EU, Bắc Mỹ... với khối lượng sản phẩm, doanh số
bán ngày càng tăng.
Khi Việt Nam tham gia hội nhập AFTA đã mở ra nhưng cơ hội cũng như những
thách thức mới. chúng ta đâ xem xét khả năng cạnh tranh của công ty trong điều
kiện đó. Tuy nhiên, như đã nói thị trường chủ yếu của công ty không phải là khu
vực châu á hay ASEAN. Vì vậy để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty
chúng ta không thể không tính đến triển vọng phát triển thị trường của công ty.
1. Triển vọng phát triển.
- Công ty Giầy Thụy Khuê rất chú trọng thị trường EU. Đây là thị trường khó
tính, yêu cầu cao phong cách hoạt động và tâm lý kinh doanh của các doanh nghiệp
thuộc thị trường EU cũng khác so với các doanh nghiệp châu á, vì vậy khi tiếp xúc
làm ăn, đàm phán phải kiên trì tiếp cận trực tiếp, thảo luận cụ thể, đặc biệt giữ chữ
tín trong kinh doanh, bảo đảm đúngcác điều kiện của hợp đồng thì khả năng xuất
khẩu giày vào thị trường này mới phát triển được.
Sang năm 2005, chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ lúc đó tuy không còn các hạn chế định
lượng nhưng công ty cũng không được hưởng các ưu đãi về thuế đòi hỏi công ty
phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì và phát triển thị phần của mình.
Về mặt nhu cầu giày, người dân các nước thuộc EU có thói quen dùng giày thể
thao, lượng tiêu dùng hàng năm của mỗi người dân ở khu vực này là lớn nhấtt thế
giới, mà sản xuất giày thể thao là một hoạt động chủ yếu của công ty nên tiển vọng
phát triển của công ty ở khu vực này là khá lớn, công ty có thể đặt nhiều hivọng vào
khu vự c này.
- Về thị trường Bắc Mỹ: khu vực Bắc Mỹ với NAFTA (North American Free
Trade) là thị trường rộng lớn của tất cả các loại hàng hoá của các nước EU, Nhật
Bản hay như các Châu á đều coi đây là thị trường chính của mình. ở đây là sự tổng
hợp lớn nhất của cung cầu hàng hoá các loại với dòng vào và dòng ra có quy mô
khổng lồ.
Hơn nữa, người dân ở đây cung có thói quên dùng giày. Lượng tiêu dùng của mỗi
người dân hàng năm khá lớn nên nhìn chung mức cầu về hàng giày dép khu vực này
là rất lớn.
Tháng 7/2000 Việt Nam và Mỹ đẫ ký hiệp định thương mại song phương, đây là cơ
sở để Việt Nam láy được quy chế tối huệ quốc (Most favourist nation- MFN) của
Mỹ, với quy chế này hàng hoá của Việt Nam sẽ được giảm thiểu thuế nhập khẩu
cũng như các hàng rào phi thuế quan khi vào thị trường Mỹ và coi như đẫ đặt được
một chân vào thị trường NAFTA.
Như vậy, tương lai cho các loại hàng hoá của Việt Nam cũng như mặt hàng giày
của chúng tôi ở thị trường này là rất khả quan công ty cần chuẩn bị cho mình khả
năng cạnh tranh mạnh mẽ để đặt nốt chân còn lại vào NAFTA mở rộng thị phần, gia
tăng doanh số bán và đạt được sự phát triển bền vững.
2. Phương hướng chung.
Mục tiêu hoạt động của công ty trong thời gian tới là mở rộng thêm thị trường hoạt
động, tìm kiếm thêm thị trường mới, gia tằn lợi nhuận tăng uy tín vị thế của công ty
trên thị trường thế giới. Công ty phải xác định phương hướng hoạt động đúng đắn,
phù hợp với thực tế tình hình quốc tế. Công ty phải xác định được thị trường mục
tiêu chu kỳ sống của sản phẩm là bao lâu trên thị trường nước ngoài, những danh
mục nào cần phải cải tiến nâng cao, đồng thời phải luôn tiến hành điều tra nghiên
cứu nhu cầu trên thị trường, chú trọng đến những thay đổi trong thị hiếu, trên thế
giới cũng như từng thị trường... để từ đó đưa ra các chiến lược Marketing đúng đắn,
lập ra được những kế hoạch trong ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp để tiến
hành đầu tư thích đáng và sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Công ty phải nâng cao cải tiến đổi mới dây chuyền công nghệ, chất lượng
sản phẩm đặc biệt là những mặt hàng cao cấp. Bên cạnh đó phải chú trọng đến việc
tìm kiếm nguồn nguyên liệu ổn định không những trông nước mà cả trong khu vực,
giá cả phải chăng chất lượng tốt.
Bên cạnh đó, công ty còn phải đảm bảo chăm lo cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là những cán bộ có trình độ quản lý và kỹ thuật
cao, nâng cao trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp của đội ngũ công nhân viên,
sử dụng đúng người đúng việc.
Công ty cũng nên cử cán bộ ra nước ngoài học tập thiết kế các kiểu dáng giày dép
kết hợp với công tác nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu để xây dựng hệ thống Marketing
mix, đưa ra được những sản phẩm riêng. Từng bước định vị sản phẩm của mình ở
thị trường nước ngoài cũng nhơ thị trường trong nước. Tránh được sợ bị động, phụ
thuộc của công ty vào đối tác. Gia tăng ược lợi nhuận do "bán tận ngọn". Công ty
cũng nên xây dựng cho mình các kênh phân phối trong và ngoài nước, chuyển dần
từ xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp nhằm gia tăng lợi nhuận của công ty
do giảm được chi phí cho các đơn vị trung gian.
Việt Nam chúng ta theo kế hoạch năm 2006 sẽ hoàn thành AFTA, lúc đó thị
trường ASEAN sẽ là một thị trường chung thống nhất, sự cạnh tranh sẽ khốc liệt
hơn. từ bây giờ đến lúc đó chỉ còn 4 năm, đây là một thời gian ngắn, vì thế công ty
phải tận dụng nó để hoàn thiện bản thân để có thể cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường.
B. Giải pháp.
I. Tăng cường năng lực nội tại.
Để có thể cạnh tranh thắng lợi, nhất thiết Công ty phải có một tiềm lực mạnh.
Các đối thủ trong khu vực ASEAN nhất là Xingapore, Thái Lan, Malaixia đã đi
trước chúng ta một thời gian, họ có tiềm lực khá mạnh nên. Để có thể đứng đầu
được với họ trước hết Công ty cần phải nâng cao nội tại của mình. Có nghĩa là
Công ty phải phát huy các nhân tố như: con người, tài chính, chất lượng sản phẩm.
Marketing, chiến lược thị trường.
1. Phát huy nhân tố con người.
Thực tiễn đã chứng minh, nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng
trọng sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Việc phát triển nhân tố con
người đóng vai trò then chốt, là điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình thực
hiện giải pháp kinh doanh của mình. Việc đầu tư vào nguồn nhân lực là hoạt động
sinh lời nhất, hiệu quả nhất đối với tất cả các doanh nghiệp nào. Mà Công ty Giầy
Thụy Khuê là một doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ với đặc điểm sản
xuất sử dụng nhiều lao động thì việc phát huy nhân tố con người là điều vô cùng
quan trọng. Thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của bất cứ một doanh
nghiệp nào, bao giờ người ta cũng chú trọng đánh giá vào nhân lực của doanh
nghiệp đó bởi vì sự phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đội ngũ lao
động của họ.
Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải chú trọng hơn nữa trong vấn đề tổ chức
đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ, đồng thời phải sắp xếp, bố trí lao động
một cách hợp lý đúng người đúng việc, tránh tình trạng chuyên môn một đằng phân
công một nẻo. Sắp xếp lại các phòng ban theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, năng động
và có hiệu quả.
Công ty cần lập quỹ để làm kinh phí cho các nhân viên đến các trường đại
học cập nhật những kiến thức mới, các tiếp cận vấn đề một cách hiện đại để có thể
thu được kết quả cao hơn, đáp ứng đòi hỏi của công việc kinh doanh trong cơ chế
thị trường hiện nay, và phù hợp với quy luật của sự phát triển. Công ty cũng nên
xây dựng một nội quy kỷ luật làm việc rõ ràng, khuyến khích mọi người làm
việtheo tác phong công nghiệp. Công ty cũng phải xây dựng các chế độ khuyến
khích về lợi ích kinh tế, lợi ích tinh thần cho công nhân viên trong Công ty. Phải
triệt để khai thác lợi thế để giải quyết quyền lợi của người lao động với t, làm cho
họ coi Công ty là mái nhà chung để cùng cố gắng chăm lo.
2. Khả năng tài chính.
Công ty phải tăng khả năng cạnh tranh bằng việc tăng chất lượng sản phẩm,
tăng cường việc đào tạo cho cán bộ công nhân viên... Nhưng tất cả những biện pháp
đó chỉ có thể được thực hiện khi Công ty có đủ năng lực tài chính tiến hành các hoạt
động đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị cả về chiều sâu lẫn chiều rộng và đầu tư cho
công tác đào tạo, sử dụng tuyển chọn trả lương cao cho những người lao động,
những chuyên gia kinh tế cao cấp.
Nguồn vốn của Công ty và khả năng huy động vốn của Công ty hiện tại là
khá lớn tuy nhiên để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu mối dây chuyền công
nghệ, đầu tư vào lao động, như đã nói đòi hỏi một lượng vốn mới có quy mô lớn và
sử dụng dài. Về vốn của Công ty hiện nay chỉ là cho sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn mà Công ty có thể sử dụng lâu dài, có thể đầu tư cho
các hoạt động đó. Tuy nhiên phần lớn lại là của ngân sách cấp mà trong tương lai,
như đã phân tích ở phần trước, nó sẽ bị thu hẹp, hạn chế, có nghĩa là sự tăng quy mô
vốn ngân sách là rất ít. Vì vậy, ngay từ bây giờ Công ty phải xây dựng cho mình thế
chủ động về tài chính bằng cách lập các quỹ phát triển như: Quỹ phát triển nhân lực,
quỹ phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường... Tăng dần tỷ trọng nguồn vốn tự bổ
sung.
Một trong những bước tiếp theo là phải đầu tư mạnh cho Trung tâm nghiên
cứu chuyển giao công nghệ. Tăng cường hợp tác liên kết với các đối tác từ bên
ngoài để tiếp thu các dây chuyền máy móc công nghệ hiện đại giảm bớt gánh nặng
tài chính để đầu tư cho công nghệ mới hiện đại.
3. Chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu trong mối quan tâm của khách
hàng ở trên bất cứ thị trường nào. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ
đơn thuần là việc làm cho hàng của doanh nghiệp bền hơn mà còn làm cho sản
phẩm đẹp hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn, phù hợp với yêu cầu sở thích của
khách hàng. Do đặc điểm của chính sản phẩm giầy nên chất lượng hàng hoá cần
thiết phải phù hợp với giá cả của nó. Vì vậy, Công ty cần xây dựng một chiến lược
giá hợp lý, linh hoạt phù hợp với từng khách hàng, phù hợp với từng loại sản phẩm
khắc phục tình trạng chính sách giá cứng nhắc như hiện nay.
Đối với thị trường trong nước, do đặc điểm nền kinh tế chưa phát triển, thu
nhập của người dân chưa cao, nên thường ưu những sản phẩm có giá hạ vì vậy
muốn chiếm lĩnh được thị trường trong nước thì phải lựa chọn là sản xuất những
mặt hàng giầy dép có thể chất lượng thấp hơn một chút, bán với mức giá rẻ theo
"chính sách giá thấm dần" hơn là sản xuất những mặt hàng cao cấp hơn hẳn do bán
với những mức giá cao hẳn so với đối thủ cạnh tranh theo "Chính sách hớt váng
sữa" hoặc "lướt qua thị trường", "trượt theo đường cầu" đối với những khách hàng
quen thuộc Công ty nên giảm giá để giữ được những khách hàng này một cách ổn
định. Công ty cũng có thể đưa ra nhiều cách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc
vào từng thời điểm, mục tiêu như:
- Chiết giá sản lượng nhằm khuyến khích khách hàng mua với số lượng lớn.
- Chiết giá sản lượng phi tích luỹ: áp dụng đối với tất cả mọi khách hàng mua
với số lượng tuỳ ý, không có ràng buộc về khối lượng hàng hoá về mỗi lần.
- Chiết giá tích luỹ: Ngoài sự ràng buộc về sản lượng mua, còn ấn định
khoảng thời gian trong đó nếu khách hàng thực hiện hợp đồng thoả thuận về khối
lượng mua nhất định lúc đó khách hàng mới nhận được chiết giá.
- Chiết giá thương mại: Đó là khoản tiền được tính theo tỷ lệ % so với mức
giá gốc, thực chất của chiết giá này là trang trải chi phí theo chức năng bán buôn và
bán lẻ một phần lợi nhuận nhất định.
- Chiết giá tiền mặt: Đây là một chiết giá có liên quan tới thời hạn thanh toán
của khách hàng.
4. Tiến hành hoạt động Marketing.
Vì hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra ở nhiều thị trường khác nhau, các nhân tố
ảnh hưởng cũng rất phức tạp và thay đổi không ngừng. Do vây, Công ty giầy Thuỵ
Khê phải luôn kịp thời nắm bắt được sự thay đổi của từng thị trường để từ đó đpá
ứng kịp thời các yêu cầu của thị trường. Ngoài ra do đặc điểm của mặt hàng giầylà
mặt hàng tiêu dùng, có rất nhiều nhà sản xuất trên thị trường cho nên đòi hỏi Công
ty giày Thuỵ khê phải chủ động tìm kiếm khách hàng, tiến hành khâu thu thập, xử
lý thông tin phải nhanh nhạy, chính xác, đảm bảo độ tin cậy cao.
Công ty cần lập ra một bộ phận chuyên trách hoạt động Marketing để các hoạt động
bán hàng, phân tích, nghiên cứu và phân đoạn thị trường... được tiến hành một cách
hiệu quả, giúp tìm được hướng đi đúng đắn, hợp lý là cơ sở cho các chính sách, kế
hoạch, chiến lược của Công ty. Bởi vì, hoạt động Marketing là chiếc cầu nối giữa
Công ty với thị trường và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của Công ty.
Mối quan hệ giữa Công ty với thị trường càng chặt chẽ thì khả năng thành công,
khả năng cạnh tranh của Công ty càng cao. Tiến hành tốt, có hiệu quả hoạt động
Marketing chính là việc làm tốt mọi khâu của hoạt động marketing từ khâu nghiên
cứu thị trường nghiên cứu và phân tích đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu thị hiếu và
những yêu cầu của khách hàng, tổ chức tốt công tác tiếp thị, chào hàng, phát triển
mạng lưới phân phối bán hàng, phát triển hệ thống phân phối, phát hành các catalog
về sản phẩm của Công ty tung ra khắp thị trường tới các khách hàng, duy trì và mở
rộng quan hệ với khách hàng.
Nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty vì thị trường chính là dối tượng chủ yếu
của các hoạt động này. Công ty cần phải nắm bắt được những nhu cầu, đặc điểm
của thị trường đó, các hoạt động nghiên cứu, khảo sát và phân đoạn thị trường phải
được tiến hành thường xuyên trên cơ sở đó để Xây dựng các chính sách, chiến lược
thích hợp, xác định được thị trường mục tieu của Công ty cho từng loại sản phẩm.
Công tác nghiên cứu thị trường là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ doanh nghiệp
nào để từ đó tìm ra cách hữu hiệu thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Bên cạnh đó
việc nghiên cứu và phân tích đối thủ cạnh tranh cũng là việc làm hết sức cần thiết
đẻe xác định được khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Công ty cần
phải nghiên cứu phân tích đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng có hệ thống. Hiện
nay Công ty giày Thuỵ Khê đang rất yếu trong lĩnh vực này. Từ việc nghiên cứu
phân tích đối thủ cạnh tranh, Công ty cần trả lời các câu hỏi sau đây:
+ Đối thủ cạnh tranh chính của Công ty là ai?
+ Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì?
+ Điểm mạnh, điểm yếu, khả năng tài chính của họ như thế nào?
+ Cách thức mà họ sử dụng để thâm nhập thị trường?
+ ...
Hiện nay, kinh doanh hàng giày là ngành kinh doanh nhanh chóng thu được lợi
nhuận, dễ làm cho nó có sức thu hút cao đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Công ty giày Thuỵ Khê cần phải có các biện pháp để hạn chế sự mở rộng của các
doanh nghiệp mới vào thị trường này.
Bên cạnh việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, các hoạt động nghiên cứu và phân tích
những yêu cầu đòi hỏi của khách hàng cũng cần được tăng cươbngf hay nói chính
xác hơn là phân tích khách hàng là một mảng quan trọng trong hoạt động nghiên
cứu thị trường, nhất là đối với Công ty Giầy Thụy Khuê. Bởi vì như chúng ta đã
biết mặt hàng giày là mặt ahngf tiêu dùng mang tính thời vụ và thời trang rất cao,
khách hàng chỉ mua những sản phẩm đúng mốt, được ưa chuộng trên thị trường.
Nếu sản phẩm có mẫu mã không phù hợp, thì dù sản phẩm đó có chất lượng tốt, giá
rẻ thì khách hàng vẫn cứ không mua.
Không chỉ vậy, Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải tổ chức tốt công tác tiếp thị, chào
hàng. Đây là yêu cầu quan trọng của việc nghiên cứu, mở rộng thị trường. Chính
những người làm côngtác Marketing của Công ty sẽ là những người thu thập cũng
như xử lý những thông tin về thị trường, xác định những đặc điểm cũng như mức độ
cạnh tranh và nhu cầu của từng đoạn thị trường để từ đó có thể quyết định các chính
sách khác của Công ty. Hiện nay, việc nghiên cứu thị trường của Công ty Giầy
Thụy Khuê chỉ đơn thuần là việc giới thiệu và bán sản phẩm. Nhưng thị trường luôn
biến động, đòi hỏi Công ty phải có sự tìm hiẻu liên tục, thường xuyên. Mặt khác,
Công ty Giầy Thụy Khuê muốn mở rộng thị trường của mình, dù là thị trường trong
nước hay thị trường nước ngoài thì cũng đều cần có một kế hoạch xây dựng mạng
lưới bán hàng hiệu quả vì đây chính là cơ sở tốt nhất để bảo vệ thị trường cũ và
thâm nhập thị trường mới, chống lại sự tranh giành thị trường của các đối thủ cạnh
tranh.
Công ty Giầy Thụy Khuê nên chú trọng tới các dịch vụ quảng cáo, hỗ trợ bán hàng.
Ban đầu với khả năng tài chính nhỏ như hiện nay thì Công ty có thể gửi thư qua
mạng thư điện tử tới các Công ty kinh doanh, Thương mại ... trên thế giới, đây là
cách làm rất rẻ, thuận tiện cho năng lực của Công ty hiện nay. Hơn nữa, Công ty
cần phát triển hệ thống nhà kho theo chiều sâu có nghĩa là thực hiện công tác hiện
đại hoá các kho chứa hàng, đảm bảo những công cụ bốc xếp hàng hoá và đảm bảo
an toàn cho hàng hoá. Hơn nữa Công ty nên duy trì và mở rộng quan hệ với khách
hàng bằng nhiều biện pháp như tổ chức các cuộc tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp.
Tiếp xúc trực tiếp là tiếp xúc qua hội nghị khách hàng, bán hàng cá nhân. hoạt động
này có tác động trực tiếp tới tamlý và hành vi của khách hàng. Tại đây, các luồng
thông tin được trao đổi giữa khách hàng và Công ty. Công ty nên cung cấp các
thông tin về sản phẩm, khả năng cung ứng và các dịch vụ bán hàng, đồng thời các
thông tin được ghi nhận, xử lý để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng một cách
nhanh chóng. Các hoạt động tiếp xúc này nên diễn ra thường xuyên, mỗi cuộc tiếp
xúc sẽ được ghi chép cụ thể để làm cơ sở cho các cuộc tiếp xúc sau.
Tiếp xúc gián tiếp chủ yếu tập trung ở các hoạt động uỷ thác, tiếp nhận và uỷ thác
bán. Các khách hàng thuộc loại này thường không có nhu cầu thường xuyên. Để
duy trì loại khách hàng này, Công ty cần có mối quan hệ với các bên trung gian
thông qua việc xác định tỷ lệ hoa hồng đối với họ.
Công ty còn cần phải thiết lập hệ thống thông tintư vấn. Thiếu thông tin, thiếu sự hỗ
trợ cần thiết, chính xác đầy đủ, kịp thời luôn làm cho Công ty Giầy Thụy Khuê bị
giảm sức cạnh tranh bị thua thiệt trên thị trường giày thế giới. Hệ thống thông tin tư
vấn sẽ cung cấp rất nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ, chính xác cho Công ty đồng
thời tư vấn giúp Công ty đi đúng hướng, lập kế hoạch chiến lược kinh doanh ngắn
và dài hạn trong tương lai cho Công ty. Hệ thống thông tin cũng giúp cho Công ty
phát triển, tăng cường năng lực cạnh tranh trong quá trình chạy đua với các đối thủ
cạnh tranh. Mặt khác, Công ty Giầy Thụy Khuê cần quan tâm hơn nữa tới việc mở
chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước, trang bị cac phương tiện làm
việc, quan hệ giao dịch hiện đại để giúp việc cung cấp thông tin kinh tế, tìm kiếm
bạn hàng, mở rộng thị trường. Công ty cần kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và kinh
doanh, giữa sản xuất công nghiệp với Thương mại dịch vụ.
Do vây, Công ty Giầy Thụy Khuê cần phải có bộ phận marketing làm việc hiệu quả,
giàu năng lực, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình yêu nghề thì mới có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh của Công ty.
Bên cạnh những giải pháp từ nỗ lực bản thân của Công ty thì Công ty Giầy Thụy
Khuê muốn nâng cao đực khả năng cạnh tranh của mình phải cùng đoàn kết, liên
kết lại với các công ty sản xuất giày khác trong nước tạo thành sức mạnh tổng hợp,
cùng nhau cạnh tranh cùng nhau tiến bộ là việc làm hết sức cần thiết hiện nay.
Chính vì sự thiếu đoàn kết mà phái nước ngoài thường lợi dụng triệt để để chia ré
các doanh nghiệp, hạ giá thành hàng giày của ta. Không đoàn kết tiếng nói của
Công ty Giầy Thụy Khuê sẽ không có sức mạnh, không được Chính phủ,Bộ
Thương mại , Sở Công nghiệp hà Nội chú ý thích đáng, không tạo được sự hỗ trợ,
tương trợ lẫn nhau khi cần thiết. Công ty Giầy Thụy Khuê sẽ dễ dàng bị các đối thủ
cạnh tranh thôn tính nếu không biết đoàn kết lại. Vì vậy, Công ty Giầy Thụy Khuê
cần phải đoàn kết lại tạo thành sức mạnh để cùng nhau đưa ra những kiến nghị cần
thiết đối với Nhà nước, mà cụ thể là các cơ quan quản lý Nhà nước cấp ngành, trên
địa bàn mình.
*****888888888888888888888
5. Xây dựng chiến lược thị trường.
Hiện sự phụ thuộc của Công ty vào đối tác là rất lớn. Điều này làm hạn chế
khả năng cạnh tranh của Công ty. Nhằm khắc phục tình trạng này Công ty cần xây
dựng cho mình một chiến lược thị trường đúng đắn.
Chiến lược thị trường như là một hệ điều hành của một chiếc máy tính mà tổ
chức Marketing của Công ty với đội ngũ nhân lực, cơ sở vật chất là phần cứng. Sự
kết hợp của "phần cứng" và "phần mền" sẽ đưa khách hàng đến cho Công ty, là cho
Công ty có thể cạnh tranh thắng lợi.
Đối với Công ty Giầy Thụy Khuê một chiến lược thị trường đúng đắn sẽ làm
cho Công ty đứng vững trong điều kiện hội nhập AFTA:
II. Nắm bắt cơ hội AFTA đem lại.
1. Về thuế.
Đến năm 2003, riêng Việt Nam là 2006 CEPT được hoàn thành điều này có
nghĩa là mức thuế của hàng hoá trong khu vực là từ 0 - 5% vì vậy các loại hàng hoá
sẽ có cơ hội trong lưu thông phân phối nên hàng hoá giầy dép của Công ty có một
con đường nữa để xâm nhập thị trường bên ngoài.
Điều này có thể được hiểu như sau: Trong các nước ASEAN có những nước có nền
kinh tế thị trường, có mối quan hệ với bên ngoài trước chúng ta khá lâu (bởi vì Việt
Nam chúng ta đến năm 1986 mới chính thức mở cửa nền kinh tế - trước đó chỉ quan
hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ) nên họ có tiềm lực và
kinh nghiệm trong việc xuất khẩu hàng hoá ra bên ngoài hơn các trung gian xuất
khẩu của chúng ta. Khi hoàn thành CEPT chúng ta có thể bán hàng hoá cho họ với
mức giá ngang với thị trường trong nước. Như thế lượng bán của Công ty sẽ tăng
lên nếu như Công ty biết tranh thủ.
Muốn được như vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên thiết lập quan hệ với họ để khi
hoàn thành CEPT có thể thực hiện ngay được chiến lược này.
2. Về chi phí nguyên vật liệu.
Như đã phân tích ở chương II, khi Việt Nam hội nhập AFTA Công ty có mua
được nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh với giá hạ hơn, chất lượng tốt
hơn để tung ra thị trường những sản phẩm giầy dép với giá thấp hơn do giảm được
giá thành và chất lượng tốt hơn từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Vì vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên có những hoạt động tìm hiểu và nghiên
cứu những nguồn nguyên liệu mà đến lúc đó Công ty có thể mua sao cho có lợi và
thuận lợi nhất. Công ty phải đưa ra được những nhà cung cấp trong khu vực, tiềm
lực của họ, khả năng cũng như kinh nghiệm "mặc cả" của họ, những công ty nào mà
mình có thể tạo ra sức ép giảm giá... trong và ngoài nước.
3. Về đối tác.
AFTA tạo ra sự phân công lại lao động giữa các quốc gia. Một quốc gia sẽ
sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế nhất. Vì vậy sẽ có sự thay đổi không
ngừng về lượng mà còn cả về chất những đối tác của Công ty.
Trong số những đối tác của Công ty trong tương lai sẽ có những đối tác có
kinh nghiệm về quản lý, tiềm lực, năng lực cạnh tranh mạnh. Nên ở những đối tác
này Công ty có thể: học hỏi ở họ những kinh nghiệm quản lý, tranh thủ của họ về
khả năng tài chính thông qua tín dụng thương mại...
Từ đó nâng cao tiềm lực của chính bản thân Công ty, gia tăng khả năng cạnh
tranh.
C. Một số kiến ghị với Sở Công nghiệp Hà Nội, Bộ Thương mại và Chính phủ.
Sở Công nghiệp Hà Nội là cơ quan quản lý Nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp và
toàn diện từ UBND Thành phố. Kể từ khi thành lập đến nay, Sở Công nghiệp đã
giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê rất nhiều, giúp Công ty đệ trình các kiến nghị của
mình lên trên Bộ Thương mại , đề nghị Bộ xem xét và giúp đỡ. Thông qua Sở Công
nghiệp , Bộ Thương mại đã nắm vững tình hình thực tế của Công ty Giầy Thụy
Khuê và đã căn cứ vào các kiến nghị của Sở mà đã có những chính sách hữu hiệu
giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê trong thời gian qua. Mặc dù vậy, Công ty Giầy
Thụy Khuê vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ mà những
khó khăn vướng mắc này chỉ có thể được tháo gỡ khi có sự giúp đỡ từ phía chính
phủ, Bộ Thương mại và Sở Công nghiệp .
a. Các kiến nghị về thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính gây nhiều rắc rối là vấn đề gây rất nhiều khó khăn cho Công ty
Giầy Thụy Khuê trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, và làm chậm chễ,
gây cản trở cho Công ty trong hoạt động làm ăn nhất là khi gặp được khách hàng có
nhu cầu hợp tác kinh doanh nhanh chóng, những cơ hội làm ăn cần chớp lấy thật
nhanh. Vì vậy, đê khắc phục tình trạng này, Nhà nước ta cần phải:
- Tạo điều kiện thuân lợi nhất cho Công ty Giầy Thụy Khuê trong việc làm thủ tục
ra nước ngoài để tìm kiếm đối tác, tìm bạn hàng, học hỏi kinh nghiệm kể cả trong
điều kiện tài chính của Công ty có thể trước mắt còn eo hẹp nhưng có thể có lợi
trong tương lai...
- Nhanh chóng ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn dưới luật Thương mại và
giúp đỡ thực hiện, phổ biến chúng tới doanh nghiệp.
- Giảm bớt sự chồng chéo trong việc kiểm tra, kiểm soát các cơ sở sản xuất và kinh
doanh, tập trung vào những đầu mối cần thiết để tạo ra sự ổn định cho Công ty,
giảm sự gây phiền hà cho Công ty.
- Thiết lập tiêu thức phân bổ hạn ngạch phù hợp hơn, nên xem xét đến cả hiệu quả
kinh tế - xã hội, không nên loại bỏ Công ty Giầy Thụy Khuê có năng lực sản xuất
thấp nếu chất lượng và hiẹu quả của họ không thua kém các doanh nghiệp giày có
quy mô lớn hơn.
- Quy chế gia công giày cần pải cải tiến cho thông thoáng.
- Tạo môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động kinh doanh và sản xuất của Công
ty.
b. Các kiến nghị về hoạt động hỗ trợ Thương mại của các cơ quan quản lý Nhà
nước.
Hoạt động hỗ trợ Thương mại từ phía các cơ quan quản lý nhà nước là vô cùng càn
thiết đối với sự tồn tại và vươn lên của Công ty trong cả quá khứ, hiện tại và tương
lai sau này. Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước cần phải.
- Bộ Thương mại cần phải thiết lập phòng Thương mại đảm nhận trách nhiệm môi
giới mua bán hàng giày của các doanh nghiệp giày ta trên thị trường quốc tế.
- Đàm phán để đưa các doanh nghiệp giày vượt qua các rào cản của các thị trường
nước ngoài.
- Bộ Thương mại và Sở Công nghiệp Hà Nội cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến
Thương mại và hỗ trợ, giúp đỡ Công ty Giầy Thụy Khuê liên hệ thường xuyên với
hệ thống thương vụ Việt Nam tại các nước trong việc cung cấp thông tin thị trường
các nước, tiếp tục khuyến khích Công ty tham gia các đoàn khảo sát thị trường như
EU, Ca nada, Mĩ, Châu Phi... để Công ty có cơ hội tìm hiểu thị trường học hỏi kinh
nghiệm làm ăn của các nước. Đẩy mạnh hoạt động của “Trung tâm xúc tiến Thương
mại ” để cung cấp các thông tin trao đổi khả năng kinh doanh và xúc tiến Thương
mại cho Công ty Giầy Thụy Khuê kịp thời nắm bắt thông tin, tích cực tham gia, hội
nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê tham gia các hội chợc triển lãm trong
nước và quốc tế để giới thiệu hàng giày xuất khẩu của Công ty mình.
- Sở Công nghiệp cần thành lập “Phòng trưng bày sản phẩm giày” để giứo thiệu
rộng rãi các sản phẩm giày của Hà Nội trên cơ sở đó tạo khả năng tiếp cận với các
khách hàng nước ngoaì khi họ đến tìm hiểu và làm ăn, tìm đối tác.
- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê sản xuất và xuất hàng trực tiếp cho nước
ngoài theo hình thức hợp đồng mua bán.
- Kiên trì thương lượng để sớm có thoả thuận với các nước ASEAN sử dụng hạn
ngạch xuất khẩu vào EU của các nước này chuyển cho ta khi họ không sử dụng hết
như Singapore.
- Phối hợp với các ngành hữu quan tìm các biện pháp khôi phục và phát triển thị
trường truyền thống SNG và Dông Âu, đề nghị chính phủ giao cho ngân hàng tìm
cách tháo gỡ những khó khăn về thanh toán giúp cho Công ty Giầy Thụy Khuê mở
rộng thị trường.
- Chống các hiện tượng độc quyền, ép giá, phá giá với các sản phẩm giầy trên thị
trường quốc tế.
- Thành lập các phòng nghiên cứu thị trường tại các thị trường nước ngoài.
- Điều chỉnh tỷ giá tăng dần, tránh để tình trạng tỷ giá tăng vọt như vừa qua gây
thiệt hại rất nhiều cho Công ty Giầy Thụy Khuê.
- Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước.
- Tìm hiểu và tiếp cận với với hệ thống phân phối sản phẩm giày của từng nước và
giúp Công ty tiếp cận với các nhà nhập khẩu.
c. Các kiến nghị về chính sách hỗ trợ vốn.
Thiếu vốn trong quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh luôn gây ra rất nhiều khó
khăn cho sự phát triển của Công ty Giầy Thụy Khuê, vì vậy mà vấn đề cần phải sự
hỗ trợ vốn từ phía Nhà nước là điều hết sức cần thiết cho sự thành công của Công ty
hiện nay. Do vậy, Nhà nước cần phải có các chính sách sau trong thời gian sắp tới
như:
- Hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ quản lý giầy trình độ cao và công nhân lành nghề
cho Công ty Giầy Thụy Khuê trong thời gian đầu và Công ty sẽ trả lại dần trong
thời gian sau này nếu họ gặp phải khó khăn về tài chính.
- Thành lập các tổ chức tín dụng riêng cho Công ty Giầy Thụy Khuê.
- Giúp Công ty Giầy Thụy Khuê kiểm tr chất lượng sản phẩm giầy qua các hoạt
động hỗ trợ Công ty đầu tư vào hệ thống, quy trình quản lý chất lượng sản phẩm.
- Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Hà Nội để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất
giầy trong hoạt động xuất khẩu trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp và bù đắp những
rủi ro phát triển mặt hàng và thị trường mới.
- Có chính sách hõ tợ và khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế sản xuất hàng mẫu,
đầu tư đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo điều kiện đưa các sản phẩm tên hiệu Việt Nam ra
thị trường thế giới.
- Cho vay kịp thời, đủ vón với Công ty Giầy Thụy Khuê làm ăn có lãi, có dự án
kinh doanh khả thi và hiệu quả.
d. Các kiến nghị về chính sách thuế:
Chính sách thuế luôn làm cho Công ty Giầy Thụy Khuê đau đầu và gây rất nhiều
khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, làm chậm vòng quay vốn
của Công ty Giầy Thụy Khuê. Để tạo điều kiện cho Công ty Giầy Thụy Khuê phát
triển trong thời gian tới thì Nhà nước cần phải có những sự điều chỉnh sau:
- Điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với tình hình thực tế, ưu đãi thuế cho các
doanh nghiệp giầy xuất khẩu những mặt hàng giầy dép, hoặc những mặt hàng mới.
- Không bắt Công ty Giầy Thụy Khuê ứng trước thuế giá trị gia tăng cho nguyên
liệu đầu vào, làm như thế sẽ đỡ cho Công ty Giầy Thụy Khuê bị chết vốn không cần
thiết.
- Tăng thời hạn hoãn thuế, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu dùng để sản xuất hàng
giày dép.
- Thay đổi chính sách thuế về việc đánh thuế đối với các hoạt động mua sắm máy
móc thiết bị của các doanh nghiệp giày dep. Một điều rất mâu thuẫn là trong khi
phải có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo
máy móc thiết bị của các doanh nghiệp Việt Nam thì việc mua sắm thiết bị tròn
nước của các doanh nghiệp giay dép lại bị đánh thuế rất cao và cao hơn nhiều so với
việc mua sắm thiết bị, máy móc từ các doanh nghiệp nước ngoài. Rõ ràng đây là
điều gây cản trở rất lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất và chế tạo
máy móc thiết bị trong nước cũng như cho sự hỗ trợ hợp tác lẫn nhau giữa Công ty
Giầy Thụy Khuê với các doanh nghiệp sản xuất chế tạo máy móc thiết bị trong
nước. Vì vậy, Nhà nước cần có sự điều chỉnh thích hợp về thuế đối với các hoạt
động này trong thời gian sắp tới.
e. Các kiến nghị về chính sách đầu tư, kế hoạch chiến lược.
Hoạt động đầu tư, Xây dựng kế hoạch chiến lực của Nhà nước đóng vai trò rất quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bất cứ doanh nghiệp sản xuất giầy nào. Mỗi
sự thay đổi điều chỉnh trong các chính sách đaùa tư, kế hoạch, chiến lược cũng đều
gây ảnh hưởng đối với các doanh nghiệp, sự thay đổi đó có thể giúp cho doanh
nghiệp phát triển tốt lên hoặc xấu đi. Vì vậy mà để tạo điều kiện thuận lợi cho
Công ty Giầy Thụy Khuê phát triển, Nhà nước cần phải:
- Giúp Công ty Giầy Thụy Khuê kiểm tra chất lượng sản phẩm giày qua các hoạt
động hỗ trợ Công ty đầu tư vào hệ thống, quy trình quản lý chất lượng sản phẩm.
- Xây dựng chương trình chiến lược bao gồm các biện pháp cụ thể như tập trung
đầu tư, đồng bộ hoá các dây truyền công nghệ và thiết bị sản xuất hàng giày mới,
mở rộng gấp đôi hạn ngạch cho Công ty Giầy Thụy Khuê . Đặc biệt cần khuyến
khích các Công ty đầu tư vào những mặt hàng không bị áp dụng hạn ngạch hoặc
hạn ngạch khôngđược sử dụng hết.
- Xây dựng các chương trình đưa các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực
giay dép vào trong sản xuất của Công ty Giầy Thụy Khuê. Điều này sẽ giúp Công ty
Giầy Thụy Khuê giảm nhiều chi phí, nâng cao chất lượng, cải tiến đổi mới sản
phẩm, công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Có kế hoạch cụ thể rõ ràng cho việc Xây dựng nền công nghiệp giày của Thành
phố Hà Nội.
f. Các kiến nghị về đoà tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nhân lực luôn là việc cần thiết cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia,
mỗi nền kinh tế, môi doanh nghiệp trong quá trình đi lên và phát triển. Hiện nay,
việc đào tạo nhân lực cho ngành giày là chưa đáp ưng đủ nhu cầu cần có trong hiện
tại và cả tương lai. Chính vì thếmà đ• kìm h•m sự hoạt động sản xuất, sự đi lên của
Công ty Giầy Thụy Khuê trong những năm qua rất nhiều. Để khắc phục tình trạng
này, Nhà nước cần phải:
- Cử người đi đào tạo, học hỏi kinh nghiệm tại các trường đại học, các Nhà máy
giầy, các nước sản xuất giầy nổi tiếng trên thé giới để về phục vụ cho Công ty qua
các chương trình hợp tác, hỗ trợ, các hiệp định về giáo dục và kinh tế giữa nước ta
với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê phải trích một khoản chi phí đào tạo cán
bộ kinh tế, cán bộ kỹ thuật ngành sản xuất giàyhàng năm trong tổng số doanh thu,
lợi nhuận của Công ty.
- Khuyến khích Công ty Giầy Thụy Khuê có những chính sách đãi ngộ đặc biệt với
các cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn cao và cho đi đào tạo, nâng cao để
thu hút nhân tài, giữ họ ở lại Công ty làm việc lâu dài.
- Thường xuyên liên hệ với các trường đại học có những ngành đào tạo về thời
trang, công nghệ giày dép và những ngành kinh tế có liên qua... trích học bổng cho
những sinh viên xuất sắc, sau đó giới thiệu cho Công ty để họ cân nhắc lựa chọn
những sinh viên xuất sắc để đầu tư đào tạo cho Công ty ngay từ khi họ còn ngồi trên
ghế nhà trường. Những sinh viên này sẽ là nguồn nhân lực rất quan trọng cho Công
ty Giầy Thụy Khuê trong tương lai và sẽ là những cán bộ tri thức rất nhiệt tình,
trung thành với Công ty, hết lòng phục vụ cho sự phát triển của Công ty về sau này.
- Hợp tác với các trường đại học,các viện về kỹ thuật công nghệ tổ chức các khoá
học đào tạo các chuyên viên lập trình cho ngành giày dép trong thời gian tới cho
những người hoạt động kinh doanh trong những ngành này.
Tóm lại, Công ty Giầy Thụy Khuê rất cần có sự giúp đỡ thông cảm từ phía các cơ
quan quản lý Nhà nước từ cấp Thành phố cho đến cấp chính phủ trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Những giải pháp mà Công ty Giầy Thụy
Khuê cần phải thực hiện để nâng cao khả năng cạnh tranh trong kinh doanh hàng
giay dép của Công ty mình đòi hỏi phải có sự hõ trợ, giúp đỡ từ phía Nhà nước thì
mới có thể đem lại hiệu quả thật sự được, mới có thể nâng cao được uy tín, vị thế
của Công ty trong thời gian sắp tới và cả tương lai lâu dài về sau. Nhưng dù thế nào
đi nữa thì sự có gắng nỗ lực từ phía bản thân Công ty vẫn là điều quan trọng nhất
giúp Công ty Giầy Thụy Khuê nâng cao được khả năng cạnh tranh trong kinh doanh
hàng dệt may của mình cả trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước
ngoài bên cạnh sự hỗ trợ giúp đỡ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước.
Trên đây là những kiến nghị hết sức cần thiết và chính đáng, mà Công ty Giầy Thụy
Khuê muốn gửi đến chính phủ, Bộ Thương mại , Sổ Thương mại Hà Nội hi vọng
rằng chính phủ, Bộ Thương mại , Sổ Thương mại Hà Nội sẽ có các biện pháp giúp
đỡ hiệu qủa hơn cho Công ty Giầy Thụy Khuê.