
Bài 6: Phân tích chứng khoán
TXNHCK03_Bai6_v1.0015107201 97
6.1. Khái quát về phân tích và đầu tư chứng khoán
6.1.1. Khái niệm phân tích và đầu tư chứng khoán
Phân tích chứng khoán nói chung và phân tích cơ bản nói riêng là hoạt động trợ giúp
cho việc ra quyết định đầu tư. Đến lượt nó, mỗi quyết định đầu tư khác nhau đòi hỏi
nội dung và kỹ thuật phân tích khác nhau. Chẳng hạn, nhà đầu cơ chứng khoán kiếm
lợi nhờ việc nắm giữ chứng khoán trong dài hạn, do vậy, cần phân tích đánh giá giá trị
của chứng khoán và đầu tư vào các cổ phiếu đang bị đánh giá thấp hơn giá trị. Trong
khi đó, kinh doanh chênh lệch giá lại chỉ nắm giữ chứng khoán trong khoảng thời gian
ngắn, hoặc lợi dụng chênh lệch giá chứng khoán tại các thị trường khác nhau, vì vậy,
chỉ phân tích cơ hội chênh lệch giá. Để xác định mục tiêu và lựa chọn phương pháp
phân tích chứng khoán, trước hết cần nghiên cứu về hoạt động đầu tư chứng khoán.
Đầu tư chứng khoán là một thuật ngữ được nói đến
nhiều nhất trong thời gian qua, đặc biệt là khi thị
trường chứng khoán Việt Nam có sự phát triển bùng
phát năm 2005 - 2006. Để hiểu thuật ngữ này, trước
hết cần làm rõ khái niệm về đầu tư. Trong mỗi tình
huống khác nhau, thuật ngữ đầu tư được hiểu theo các
khía cạnh khác nhau. Một cách chung nhất, đầu tư
thường được hiểu là sự hy sinh một vài thứ hiện tại mà chúng ta đang có (thời gian,
tiền bạc, của cải, công sức,...) để đổi lấy nhiều thứ hơn trong tương lai. Chẳng hạn, có
thể hy sinh thời gian hưởng thụ hiện tại để có được một tương lai tốt hơn bằng cách
vùi đầu vào sách vở trong khi các bạn khác đang vui chơi ở đâu đó, hoặc bỏ qua tiêu
dùng hiện tại để có được tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai bằng cách gửi khoản tiền
hiện có vào ngân hàng nhằm hưởng lãi.
Trong kinh tế, đầu tư thường được hiểu là sự trao đổi một lượng giá trị ở thời điểm
hiện tại trong một thời gian để thu về một lượng giá trị lớn hơn trong tương lai. Khoản
chênh lệch tăng hay thu nhập này có thể bù đắp cho nhà đầu tư về: (1) thời gian mà
lượng giá trị được đem trao đổi, (2) tỉ lệ lạm phát dự tính, (3) rủi ro thanh toán (sự
không chắc chắn được chi trả số tiền trong tương lai). Như vậy, có thể nói, động lực
của hoạt động đầu tư chính là yếu tố sinh lời - tạo ra thu nhập từ hoạt động đầu tư. Để
có được khoản thu nhập này, nhà đầu tư (một cá nhân, một tổ chức, Chính phủ hoặc
nước ngoài) phải bỏ ra một lượng giá trị cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định
để mua một lượng tài sản. Nhà đầu tư sẽ chỉ chấp nhận hy sinh tiêu dùng hiện tại khi
mà thu nhập mang lại trong tương lai đủ bù đắp cho những tổn thất mà họ phải gánh
chịu về thời gian đầu tư, về tổn thất do sự mất giá của đồng tiền và những rủi ro khác
phát sinh.
Tài sản đầu tư có thể là các tài sản thực – các tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy
móc thiết bị,… Các tài sản này có hình thái vật chất cụ thể, có giá trị và giá trị sử
dụng. Theo cách thức đó, hoạt động đầu tư này làm tăng năng lực sản xuất của nền
kinh tế. Nói một cách khác, hoạt động đầu tư vào các tài sản thực giúp cho tiết kiệm
thực sự chuyển thành đầu tư trong nền kinh tế. Bên cạnh các tài sản thực, nhà đầu tư
có thể bỏ tiền để nắm giữ các tài sản tài chính hay các giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái