Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu hướng dẫn:
GS.TS Nguyễn Văn Nam & PGS.TS Vương Trọng Nghĩa, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Tài chính, 2002.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
Trần Đăng Khâm, Thị trường chứng khoán – Phân tích cơ bản, NXB ĐH Kinh tế Quốc dân, 2009.
Trang Web môn học.
qua email.
Nội dung Cấu trúc của thị trường chứng khoán. Vai trò của thị trường chứng khoán. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. Điều kiện phát triển thị trường chứng khoán. Mục tiêu Kết thúc bài 1, sinh viên cần nắm rõ những nội dung sau: Hiểu được các khái niệm cơ bản về thị trường chứng khoán; vị trí, vai trò của thị
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
trường chứng khoán trong cấu trúc thị trường tài chính. Phân biệt được các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. Phân tích được xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán trong thời gian tới.
1
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Tình huống dẫn nhập
Vinashin phát hành trái phiếu quốc tế trên thị trường Singapore. Một trong những vai trò hết sức to lớn của thị trường chứng khoán là giúp các doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Việt Nam có thể huy động vốn trên thị trường quốc tế. Vinashin là tập đoàn đã có lịch sử vay vốn trên thị trường nước ngoài từ rất lâu và hiện có một số khoản nợ đã đến hạn nhưng tập đoàn vẫn chưa thể trả. Vào ngày 11/10/2013, Vinashin đã phát hành thêm 600 triệu USD trái phiếu, niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore.
1. Mục tiêu của đợt phát hành trái phiếu này là gì?
2. Đơn vị nào đứng ra bảo lãnh cho Vinashin phát hành?
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
3. Nghĩa vụ của nhà phát hành trong thương vụ phát hành trái phiếu vay vốn là gì?
2
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1.
Khái quát về thị trường chứng khoán
1.1.1.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
Đại cương về thị trường tài chính
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tích lũy trong xã hội không ngừng tăng lên và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Trong xã hội xuất hiện những người cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, đồng thời lại có một số người có vốn nhàn rỗi tạm thời muốn cho vay để lấy lãi. Ban đầu những người này thường tìm gặp nhau một cách trực tiếp để trao đổi mua bán, nhưng khi cung và cầu vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay và cho vay trực tiếp không đáp ứng được nữa, do đó đòi hỏi một thị trường cung cấp thị trường gắn kết cung và cầu vốn, đáp ứng nhu cầu tài chính của nhau. Đó là thị trường tài chính.
Tài trợ gián tiếp
Các trung gian tài chính
Ngân hàng thương mại
Vốn
Vốn
Bảo hiểm, quỹ hưu trí Tổ chức nhận tiền gửi và cho vay
Người cho vay vốn
Người đi vay vốn
Hộ gia đình
Hộ gia đình
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Vốn
Chính phủ
Chính phủ
Nước ngoài
Nước ngoài
Thị trường tài chính
Thị trường tiền tệ
Thị trường vốn
Vốn
Vốn
Tài trợ trực tiếp
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Các dòng vốn qua hệ thống tài chính
3
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
o Các công cụ của thị trường tiền tệ có độ an toàn tương đối cao. Thị trường vốn: Là thị trường mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn cho nền kinh tế. Một số đặc điểm của thị trường vốn: o Giai đoạn luân chuyển vốn dài hạn. o Các công cụ chủ yếu trên thị trường vốn gồm các công cụ vay nợ và các chứng khoán có kỳ hạn thanh toán trên 1 năm. Nhìn chung, so với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ của thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn nhưng lại mang đến lợi tức cao hơn cho nhà đầu tư.
Như vậy, có thể nói chức năng cơ bản của thị trường tài chính là chuyển tiền từ những người có tiền sang những người cần tiền. Những người cần tiền hay có tiền có thể là Chính phủ, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước… Sự dịch chuyển tiền được thực hiện thông qua hai con đường: tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Tài trợ trực tiếp nghĩa là những người cần tiền huy động trực tiếp từ những người có tiền bằng cách bán các chứng khoán. Các chứng khoán này là các công cụ tài chính có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản đối với tổ chức phát hành. Cách thức thứ hai chuyển tiền là gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, tổ chức tín dụng, bảo hiểm… Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ: là thị trường trao đổi, mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn (thường có thời hạn dưới 1 năm). Thị trường tiền tệ có một số đặc điểm: o Giai đoạn luân chuyển vốn ngắn hạn. o Thị trường tiền tệ đặc trưng bởi hình thức tài chính gián tiếp, đóng vai trò trung gian tài chính giữa người vay và người cho vay là các ngân hàng thương mại.
Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK)
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được hình thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân cư chưa cao và ban đầu nhu cầu chủ yếu về vốn là ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn dài hạn cho đầu tư phát triển thị trường ngày càng cao và thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng những nhu cầu này. Để huy động vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và một số công ty còn thực hiện huy động vốn thông qua phát hành các chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá nhất định được phát hành thì tất yếu nảy sinh nhu cầu về mua bán, trao đổi các chứng khoán đó. Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Đến nay, hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển đều đã có thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Đến nay đã có trên 160 thị trường chứng khoán lớn nhỏ hoạt động
4
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
trên khắp các châu lục. Một số TTCK lâu đời và quan trọng như TTCK New York (1792), TTCK Tokyo (1878), TTCK London (1793)…
1.1.2.
Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán.
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Quan điểm trên đồng nhất TTCK và thị trường vốn căn cứ vào thời hạn cung cấp vốn cho doanh nghiệp là vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên khi đồng nhất hai thị trường này đã bỏ qua tính thanh khoản của các công cụ huy động vốn (cổ phiếu, trái phiếu, vay, thuê mua...).
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: "Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một". Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng "Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu", hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Quan điểm này xuất phát từ việc xem xét mức độ tác động của thị trường tới nền kinh tế khi có biến động thì cổ phiếu ảnh hưởng mạnh hơn.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán được hiểu đơn giản là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán hay các giấy tờ có giá. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
1.1.3.
Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành 4 nhóm sau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, các tổ chức cung ứng dịch vụ và cơ quan quản lý giám sát thị trường.
1.1.3.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Đây là những người cần tiền và huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và bán cho những nhà đầu tư hoặc những người kinh doanh chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như: các quỹ đầu tư; tổ chức tài chính trung gian...
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Chính phủ và chính quyền địa phương: Là chủ thể phát hành các chứng khoán: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu địa phương, Trái phiếu công trình, Tín phiếu kho bạc. Nhà nước tham gia TTCK chủ yếu với tư cách là người vay nợ.
5
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
o Chính phủ: Đại diện là Bộ Tài chính hoặc Kho bạc Nhà nước phát hành các loại trái phiếu kho bạc nhằm mục đích tìm vốn tài trợ cho những công trình lớn thuộc cơ sở hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế hoặc bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước.
o Chính quyền địa phương: Ở nhiều nước, chính quyền bang, tiểu bang hoặc cấp tỉnh cũng được phép phát hành trái phiếu địa phương để vay nợ nhằm huy động vốn phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để hấp dẫn những người đầu tư mua trái phiếu địa phương, một số nước đã có chính sách miễn thuế lợi tức đối với trái phiếu địa phương.
Các doanh nghiệp: Là chủ thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty. Tùy theo quy định của Luật Chứng khoán của mỗi nước mà các công ty được quy định hình thức và tiêu chuẩn phát hành khác nhau. Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, có các loại hình doanh nghiệp sau: o Công ty TNHH; o Công ty cổ phần; o Công ty hợp danh; o Doanh nghiệp tư nhân. Trong số các loại hình doanh nghiệp trên, công ty TNHH không được phép phát hành cổ phần (theo điều 38 Luật Doanh nghiệp 2005), còn công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn (điều 77 Luật Doanh nghiệp 2005).
o Quỹ đầu tư dạng hợp đồng: Quỹ phát hành chứng chỉ quỹ để xác nhận số vốn mà nhà đầu tư góp vào quỹ. Quỹ đầu tư dạng hợp đồng bao gồm công ty quản lý quỹ, người lưu giữ tài sản của quỹ (thường do ngân hàng thương mại đảm nhận) và nhà đầu tư.
Quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là một tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác. Các quỹ đầu tư thường phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đầu tư mà không được phép phát hành trái phiếu hay sử dụng các nguồn vốn khác để đầu tư. Quỹ đầu tư được phân thành nhiều loại khác nhau như: o Quỹ đầu tư dạng công ty: Quỹ phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Cơ cấu tổ chức của quỹ này về cơ bản giống như một công ty cổ phần: đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc và các thành phần khác. Quỹ đầu tư dạng công ty phải chịu sự chi phối của Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán và thường hoạt động ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển.
Khi phát hành chứng khoán, quỹ đầu tư được phép quảng cáo để thu hút vốn, trong đó nói rõ mục đích đầu tư của quỹ mà không được phép cam kết về lợi nhuận thu được.
1.1.3.2. Nhà đầu tư
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư trên TTCK bằng cách mua bán chứng khoán nhằm hưởng lợi nhuận. Khi đầu tư, nhà đầu tư phải xem
6
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
xét kĩ các nhân tố như khả năng lợi nhuận, tính ổn định và khả năng thị trường để đưa ra các phương thức đầu tư khác nhau. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Trên thực tế, căn cứ vào mức độ chấp nhận rủi ro, các nhà đầu tư cá nhân có thể được phân thành nhà đầu tư thận trọng và nhà đầu tư mạo hiểm. Nhà đầu tư thận trọng là những nhà đầu tư cá nhân không thích rủi ro và bảo thủ khi lựa chọn phương thức đầu tư. Mục tiêu chính của họ là tìm kiếm lợi nhuận từ những chứng khoán có rủi ro thấp. Trong khi đó, nhà đầu tư mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận các chứng khoán có tỷ lệ rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng lớn. Họ thường đầu tư ngắn hạn mà không đầu tư lâu dài vào bất cứ một loại chứng khoán nào. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cá nhân có thể được phân thành “investors” (các nhà đầu tư) và “traders” (các thương gia). Theo Investopedia, điểm khác biệt lớn nhất giữa hai khái niệm nhà đầu tư cá nhân này chính là khoảng thời gian nắm giữ các chứng khoán. Nếu “investors” nắm giữ các chứng khoán trong khoảng thời gian dài thì “traders” lại có xu hướng nắm giữ chúng trong ngắn hạn. Mặt khác, trong quá trình đầu tư, “investors” đầu tư trên thị trường nhưng không có kế hoạch cụ thể. Họ kỳ vọng vào sự tăng giá của các chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận mà không hề xây dựng cho mình chiến thuật đầu tư nào trong trường hợp thị trường đảo chiều. Trong khi đó, ngược lại, “traders” luôn đặt ra những mục tiêu cụ thể và lên kế hoạch cho những tình huống có thể xảy ra trên thị trường chứng khoán.
Các nhà đầu tư có tổ chức
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm... Việc đầu tư thông qua các tổ chức có ưu điểm là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngoài ra, các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm. o Quỹ đầu tư: Đầu tư là hoạt động quan trọng nhất đối với một quỹ đầu tư. Các quỹ thường đầu tư rất rộng như chứng khoán, bất động sản,... Một trong những nhân tố quan trọng khiến hình thức quỹ đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư, đó là chi phí đầu tư. Sự so sánh có thể khác nhau, nhưng nhà đầu tư vừa và nhỏ thường phải trả chi phí đầu tư nhiều hơn một quỹ đầu tư trong việc thực hiện việc mua bán chứng khoán trong một danh mục đầu tư. Lý do là chi phí giao
7
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
o Ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư, kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhiều hay ít là tùy thuộc vào mô hình ngân hàng đa năng hay ngân hàng chuyên doanh ở mỗi nước. Theo mô hình đa năng, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau: Loại đa năng một phần: Theo mô hình này các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Mô hình này còn được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh.
dịch trong hầu hết các thị trường từ trước đến nay đều có liên quan chặt chẽ với quy mô giao dịch. Chi phí giao dịch của các nhà đầu tư cá nhân đối với các khoản mua bán nhỏ thường cao hơn nhiều vì giá trị của mỗi giao dịch họ thực hiện nhỏ hơn nhiều so với các quỹ đầu tư khi họ giao dịch với số lượng chứng khoán lớn hơn. Hoạt động của quỹ được điều chỉnh và giám sát bởi Ủy ban chứng khoán Nhà nước và Sở giao dịch Chứng khoán.
Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. Mô hình này còn được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.
o Công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán tham gia vào thị trường với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức thông qua nghiệp vụ tự doanh. Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, ban chứng khoán cho chính mình. Công ty chứng khoán có thể thực hiện hoạt động đầu tư kiếm lời thông qua hai hình thức giao dịch: Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước.
Trong khi đó, nếu theo mô hình chuyên doanh, các ngân hàng thương mại không được tham gia kinh doanh chứng khoán trên thị trường.
o Công ty bảo hiểm: Các công ty bảo hiểm sử dụng một phần phí bảo hiểm thu được nhờ bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư vào các tài sản như trái phiếu, cổ phiếu, các món vay thế chấp hay các món vay khác. Từ đó, họ thanh toán cho những khiếu nại đòi bồi thường theo các hợp đồng đã bán. Thông thường các công ty bảo hiểm đầu tư vào chứng khoán hơn 40% tổng số tài sản.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng khoán với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC. Các đối tác giao dịch thường trực tiếp thực hiện các thủ tục thanh toán và chuyển nhượng chứng khoán. Vì vậy, trong giao dịch này không có bất kỳ một loại phí nào; riêng phí thanh toán do bên hưởng thụ chịu, phí chuyển khoản chứng khoán do bên chuyển nhượng chịu.
8
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1.3.3. Cơ quan quản lý thị trường
Đây là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau: do các tổ chức tự quản thành lập, trực thuộc Chính phủ hoặc có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và Nhà nước. Nhưng nhìn chung, thị trường chứng khoán chịu sự quản lý và giám sát của hai nhóm chính:
Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK: Các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý thông qua việc ban hành hoặc đề nghị các cơ quan cấp trên như Chính phủ, Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật định hướng và điều tiết hoạt động của thị trường. Ngoài ra, các cơ quan này có thể sử dụng những hình thức khác để can thiệp vào thị trường trong các trường hợp cần thiết, khẩn cấp. Thông thường, các cơ quan quản lý nhà nước về TTCK gồm có: Ủy ban chứng khoán và các bộ ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Bộ Tư pháp… Trong đó Ủy ban chứng khoán là cơ quan quản lý chuyên ngành đầy đủ của nhà nước trong lĩnh vực này. Đây là cơ quan đóng vai trò chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành liên quan để điều hành TTCK hoạt động có hiệu quả. Ở mỗi nước khác nhau, cơ quan này có thể có tên gọi khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ cơ quan này là Ủy ban chứng khoán và giao dịch (SEC); ở Nhật Bản là Ủy ban giám sát chứng khoán và giao dịch chứng khoán (ESC); ở Pháp là Ủy ban các nghiệp vụ chứng khoán (COB); ở Hàn Quốc là Ủy ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (SEC), đồng thời giám sát chứng khoán (SSB) và ở Việt Nam là Ủy ban chứng khoán Nhà nước (SSC).
Các tổ chức tự quản: Là các tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán và được cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK phân cấp quản lý một số lĩnh vực trên TTCK, trên cơ sở tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước. Các tổ chức này có hai đặc điểm cơ bản là phải tự cân đối thu chi dựa vào nguồn thu từ các hoạt động trên thị trường và hoạt động nhằm phục vụ lợi ích chung của toàn thị trường. Thông thường trên thị trường chứng khoán có hai hình thức tổ chức tự quản: o Sở giao dịch chứng khoán
o Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán là một pháp nhân được thành lập theo quy định pháp luật. Cơ quan này chịu trách nhiệm thực hiện tổ chức giao dịch chứng khoán đối với chứng khoán của các tổ chức phát hành đủ điều kiện niêm yết. Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành TTCK thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Ủy ban chứng khoán.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán thường là tổ chức tự quản và
9
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chức năng cơ bản của Hiệp hội như: tập hợp các công ty chứng khoán để có tiếng nói thống nhất đóng góp ý kiến cho các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán, đề xuất ý kiến, nguyện vọng của các thành viên đối với các chính sách của Chính phủ để từ đó có thể bổ sung, sửa đổi các chính sách đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng là đầu mối thực hiện công tác đào tạo nghiệp vụ cho các thành viên; đại diện cho các thành viên trong việc liên kết, tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế về kinh phí, chương trình đào tạo. Ngoài ra, Hiệp hội có thể là tổ chức ban xây dựng, ban hành, đề ra các nguyên tắc, quy tắc, quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp, giám sát nội bộ, tránh cạnh tranh thiếu lành mạnh...
Nhìn chung, cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản trên thị trường chứng khoán, mặc dù có nhiệm vụ, cơ chế quản lý, tổ chức khác nhau nhưng đều có mục tiêu chính là đảm bảo tính ổn định và sự phát triển của thị trường. Do đó, trong quá trình quản lý, điều hành, cần thiết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa hai tổ chức này.
1.1.3.4. Các tổ chức cung ứng dịch vụ trên thị trường chứng khoán
o
Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại tham gia việc tổ chức cung ứng dịch vụ trên thị trường chứng khoán với vai trò là ngân hàng chỉ định thanh toán, ngân hàng giám sát...
o Ngân hàng giám sát: Bảo quản tài sản cho quỹ đầu tư, định giá tài sản, theo dõi sự tăng giảm của tài sản, đồng thời làm nhiệm vụ giám sát kiểm tra hoạt động của các công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của những nhà đầu tư. Đối với quỹ đầu tư hợp đồng, ngân hàng giám sát còn được gọi là ngân hàng tín thác.
Ngân hàng chỉ định thanh toán: Thực hiện việc thanh toán các giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch.
Công ty chứng khoán: Tùy theo mô hình ngân hàng thương mại ở mỗi nước mà khả năng và mức độ tham gia TTCK của công ty chứng khoán là khác nhau. Hoạt động cung ứng dịch vụ của công ty chứng khoán bao gồm: o Hoạt động môi giới chứng khoán: Là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua,
o
o Hoạt động bảo lãnh phát hành: Là việc công ty chứng khoán có chức năngbảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Hoạt động tư vấn đầu tư: Là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ giá trị của các loại chứng khoán và các diễn biến của thị trường.
o Hoạt động quản lý danh mục đầu tư: Là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
10
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Tại Việt Nam, theo Quy chế tổ chức và hoạt động, các công ty chứng khoán thực hiện cung ứng các dịch vụ thông qua hoạt động môi giới, bảo lãnh phát hành, và tư vấn đầu tư.
Công ty quản lý quỹ: Là tổ chức thực hiện quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Công ty quản lý quỹ có thể được tổ chức theo hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. Công ty quản lý quỹ do Hội đồng quản trị của quỹ thuê theo hợp đồng. Nhiệm vụ của công ty quản lý quỹ là nghiên cứu đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính, qua đó hỗ trợ khách hàng tối ưu hóa các khoản đầu tư thông qua các công cụ tài chính.
Công ty kiểm toán: TTCK là một thị trường đòi hỏi tính minh bạch cao đối với các thông tin được công bố. Nếu thông tin không xác thực có thể dẫn tới quyết định đầu tư sai lầm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của các nhà đầu tư, vi phạm nguyên tắc công bằng trên TTCK. Trong đó, tính minh bạch và độ tin cậy của thông tin tài chính là cơ sở quan trọng nhất để bảo vệ tính ổn định của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò của các cơ quan quản lý liên quan như Uỷ ban Chứng khoán, các Bộ, ngành thì sự nhận thức, tiếp nhận, đáp ứng và vận hành các thông tin đó phụ thuộc đáng kể vào cộng đồng doanh nghiệp hay nói cụ thể hơn là các công ty niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết, các công ty kiểm toán và kiểm toán viên trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công tác kiểm toán đóng một vai trò quan trọng.
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: Năm 1909, hệ số tín nhiệm lần đầu tiên được John Moody đưa ra và công bố trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt”, đánh dấu sự ra đời của các công ty xếp hạng tín nhiệm. Đây là những công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá về khả năng thanh toán nợ của các nhà phát hành các công cụ nợ (như trái phiếu, thương phiếu...). Trên thế giới hiện nay có ba tổ chức xếp hạng tiêu biểu nhất là Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch. Để thuận lợi cho việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm, các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm đã đưa ra hệ thống các ký hiệu. Các ký hiệu này được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng. Đối với các công ty và các tổ chức, kết quả xếp hạng hệ số tín nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu, nhất là khi phát hành trái phiếu ra nước ngoài, cũng như việc xác định lãi suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi suất trái phiếu càng thấp và ngược lại).
Nhóm trái phiếu nên đầu tư
Hạng mức trái phiếu theo tiêu chuẩn của Moody’s
khả năng dẫn đến sự suy yếu trong tương lai.
Aaa: Các trái phiếu có chất lượng cao nhất, độ rủi ro thấp nhất. Aa1, Aa2, Aa3: Các trái phiếu có chất lượng cao, rủi ro thấp. A1, A2, A3: Trái phiếu có chất lượng tốt, rủi ro thấp tuy nhiên vẫn tồn tại những yếu tố có
trung bình và có những yếu tố không đáng tin cậy.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Baa1, Baa2, Baa3: Trái phiếu có rủi ro tương đối, được coi là các trái phiếu có chất lượng
11
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Nhóm trái phiếu không nên đầu tư
phát hành trái phiếu này có thể đang mất khả năng trả nợ.
Ba1, Ba2, Ba3: Các trái phiếu có chất lượng tín dụng không rõ ràng. B1, B2, B3: Trái phiếu có độ rủi ro tín dụng cao và chất lượng tín dụng khá thấp. Caa1, Caa2, Caa3: Trái phiếu có chất lượng kém, rủi ro tín dụng rất cao. Các công ty
không còn khả năng thanh toán và khả năng phục hồi thấp.
Nguồn: http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/chung-khoan/
Ca: Trái phiếu có độ rủi ro rất cao, các công ty phát hành thường đang mất khả năng trả nợ. C: Trái phiếu chất lượng thấp nhất trong bảng xếp hạng, các công ty phát hành thường
Như vậy, sự xuất hiện của các chủ thể trên thị trường chứng khoán đã tạo nên tính đa dạng, đồng thời cũng giúp thị trường hoạt động hiệu quả, có hệ thống hơn. Thị trường chứng khoán được gắn với cụm từ “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Việc xem xét vai trò của thị trường sẽ giúp làm rõ hơn những đóng góp đáng kể mà thị trường chứng khoán mang lại.
o Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Cấu trúc thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo các cách sau: Cách thứ nhất là tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange), tại đây, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over The Counter Market) là nơi mua bán các loại chứng khoán chưa được niêm yết trên Sở giao dịch hay những chứng khoán chưa đáp ứng điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch. Thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch. o Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một “kênh” thu hút, huy động nguồn tiền nhàn rỗi của công chúng chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
12
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
o Phân loại theo hàng hoá
Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán giữa các nhà đầu tư, tiền thu được từ việc bán chứng khoán không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu tư bán chứng khoán, nhượng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ sau: Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư . Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời, tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả. Sự di chuyển vốn đầu tư trong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế "bàn tay vô hình", cơ chế xác định giá chứng khoán và thông qua hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp. Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty. Thứ ba, thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình, vốn sẽ được chuyển tới những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Tóm lại, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất.
13
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của ngư ời vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. Thị trường cổ phiếu (Stock Markets) là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn là không xác định. Thị trường các công cụ dẫn suất (Derivative Markets) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Đây là loại thị trường cao cấp, mua bán chuyển nhượng các công cụ tài chính cao cấp. Do đó thị trường này thường chỉ xuất hiện ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao.
1.2.
Vai trò của thị trường chứng khoán
o TTCK tạo ra một kênh huy động vốn mới với chi phí vốn hợp lý. o Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
Đối với nhà phát hành
o TTCK là nơi đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Theo Điều 1, NĐ 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. Mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần: 1. Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 2. Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. 3. Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
14
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
o Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK. Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế đồng thời mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
o TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý. Khi quy mô doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo.
tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
o Các nhà đầu tư có thể phân tích và sàng lọc một danh mục đầu tư hấp dẫn và đầu tư vốn theo danh mục đó. Đây chính là thực hiện theo nguyên lý của đa dạng hóa đầu tư: “không nên bỏ tất cả số trứng vào một giỏ”. Điều này sẽ làm giảm rủiro cho các nhà đầu tư.
o Hình thành thói quen phân tích trong đầu tư, tạo nên văn hóa đầu tư. o TTCK cung cấp môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội đầu tư phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn, khả năng đưa lại lợi tức và mức độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại chứng khoán phù hợp với khả năng, sở thích và mục đích của mình. Chính vì vậy, TTCK có tác dụng quan trọng trong việc khuyến khích tiết kiệm để đầu tư.
Đối với nhà đầu tư
o TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn lực tài chính và tạo ra các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. o Thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. o Tạo ra kênh huy động vốn có hiệu quả cho nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được chuyển tải tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy, giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách có hiệu quả các nguồn lực.Một số tiêu cực khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại cho quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư và như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trườngnhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo cho tính hiệu quả của thị trường.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Đối với Chính phủ và nền kinh tế
15
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng khoán có thực sự được phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước.
1.3.
Giới thiệu một số thị trường chứng khoán trên thế giới
Tài liệu tham khảo: Giáo trinh TTCK Chuong 1, trang 30-35. http://en.wikipedia.org/wiki/New_York_Stock_Exchange http://en.wikipedia.org/wiki/American_Stock_Exchange http://en.wikipedia.org/wiki/NASDAQ http://en.wikipedia.org/wiki/Korea_Exchange http://en.wikipedia.org/wiki/Tokyo_Stock_Exchange
1.3.1.
Thị trường chứng khoán Mỹ
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Thị trường chứng khoán Mỹ có lịch sử phát triển lâu dài và đã đạt đến trìnhđộ cao về mọi mặt. Mô hình TTCK Mỹ đã được nhiều nước học tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng nước. Thời điểm đánh dấu sự ra đời TTCK Mỹ là 17 tháng 05 năm 1792 khi một số nhà môi giới công bố thoả thuận của họ sau khi nhóm họp dưới gốc cây ngô đồng ở số 68 phố Wall (gọi là Hiệp ước cây ngô đồng) và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) đầu tiên, tiếp theo đó là hàng loạt các SGDCK được hình thành trên khắp nước Mỹ. Thị trường chứng khoán Mỹ hiện nay là một thị trường quan trọng bậc nhất trên thế giới nếu xét trên tổng thể khối lượng tư bản giao dịch và sự ảnh hưởng to lớn của nó đối với các thị trường chứng khoán khác. Điều đáng chú ý là 2/3 nghiệp vụ giao dịch chứng khoán ở Mỹ được thực hiện trên thị trường phi tập trung, đặc biệt là đối với các hàng hoá là trái phiếu chính phủ. Sở Giao dịch Chứng khoán NewYork (NYSE) là Sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ. Thị trường chứng khoán này của Mỹ còn được gọi là thị trường phố Wall - nơi phôi thai những giao dịch đầu tiên của nước Mỹ kể từ năm 1864 và hiện là trung tâm giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới, quản lý tới hơn 80% các giao dịch chứng khoán của Mỹ và kể từ năm 1962 đã trở thành thị trường chứng khoán quốc gia. Năm 2000, tổng số có 262,5 tỷ cổ phần được giao dịch trên NYSE, số cổ phần giao dịch bình quân ngày đạt 1.041,6 triệu USD. Giá trị giao dịch bình quân ngày cũng đạt 43,9 tỷ USD, tổng giá trị giao dịch trong năm 2000 của NYSE đạt 11,1 nghìn tỷ USD. Năm 2000 là năm NYSE hoàn thiện hơn nữa hệ thống giao dịch bằng sự thay đổi của cách yết giá (yết giá dạng thập phân thay vì dạng phân số trước kia). Cuối năm 2000, có 2.862 cổ phiếu được niêm yết trên NYSE với tổng giá trị là 17,1 nghìn tỷ USD. Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchange - AMEX) là thị trường chứng khoán tập trung lớn thứ hai ở Mỹ và hiện nay có khoảng 1/5 số chứng khoán của Mỹ được mua bán trên thị trường này. Cũng tương tự như Sở giao dịch chứng khoán NewYork, AMEX hoạt động theo hệ thống đấu giá mở và các chuyên gia trên thị trường đóng vai trò quan trọng. Hiện nay, thành viên của Sở là 661 thành viên.
16
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Bên cạnh các thị trường chứng khoán tập trung là các Sở giao dịch (hiện có khoảng 14 Sở GDCK khác nhau), tại Mỹ còn có thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) rất phát triển đó là Nasdaq. Thị trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq được thành lập từ năm 1971, là bộ phận lớn nhất của thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường với trên 15000 chứng khoán, lớn hơn rất nhiều so với số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường tập trung NYSE. Chứng khoán giao dịch trên thị trư ờng này chiếm đa số là của các công ty thuộc ngành công nghệ thông tin và các công ty vừa và nhỏ. Thị trường được vận hành bởi một hệ thống các nhà tạo lập thị trường và các nhà môi giới, có khoảng 600 nhà tạo lập thị trường hoạt động tích cực trên Nasdaq và trung bình mỗi nhà tạo lập thị trường đảm nhận 8 loại cổ phiếu. Thị trường Nasdaq chịu sự quản lý hai cấp của Uỷ ban chứng khoán Mỹ (SEC) và Hiệp hội các nhà giao dịch chứng khoán quốc gia Mỹ (NASD) quản lý trực tiếp. Thị trường Nasdaq hiện nay đã được nối mạng toàn cầu vớinhiều thị trường OTC khác trên thế giới.
1.3.2.
Thị trường chứng khoán Nhật Bản
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Thị trường chứng khoán Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn dài hạn cho Chính phủ và các công ty. Nói đến thị trường chứng khoán Nhật Bản trước hết phải kể đến Sở giao dịch chứng khoán Tokyo (Tokyo StockExchange - TSE) bởi vì Sở giao dịch chứng khoán Tokyo ra đời sớm nhất, là thị trường lớn nhất tại Nhật bản về số lượng chứng khoán lưu hành cũng như về doanh thu. Sở giao dịch chứng khoán Tokyo được hình thành cùng thời điểm với Sởgiao dịch chứng khoán Osaka vào cuối năm 1878. Những năm 1943-1945, Sở giao dịch này bị đóng cửa do ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ II. Năm 1948, Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán được ban hành và Sở giao dịch chứng khoán Tokyo được mở cửa hoạt động trở lại vào năm 1949. Từ đó đến nay, qua nhiều lần cải cách và đổi mới, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo ngày càng phát triển, trở thành định chế tài chính quan trọng trong hệ thống kinh tế của Nhật bản. Sở Giao dịch Chứng khoán Tokyo (TSE) là sở giao dịch lớn thứ 2 trên thế giới về doanh số bán, chỉ sau NYSE. Trên TSE, việc giao dịch, mua bán chứng khoán được qui định dựa trên các nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất là: Nguyên tắc công khai: Công khai về hoạt động của người phát hành; các loại chứng khoán được chào bán, đặt mua; giá cả, số lượng chứng khoán được mua bán... Nguyên tắc trung gian mua bán: Mọi hoạt động mua bán chứng khoán đều phải qua môi giới là các công ty chứng khoán được quyền hoạt động trên TSE (TSE có 125 Công ty chứng khoán, trong đó có 25 công ty nước ngoài) để đảm bảo sự tin cậy của thị trường, tránh sự giả mạo, lừa đảo. Nguyên tắc tập trung: Có nghĩa là tập trung tất cả mọi đơn đặt hàng, đơn chào bán vào TSE để đảm bảo việc hình thành giá cả trung thực, hợp lý. Nguyên tắc đấu giá: Bao gồm quyền ưu tiên giá (ưu tiên giá chào bán thấp nhất và giá đặt mua cao nhất) và quyền ưu tiên về thời gian. Sau khi đưa hệ thống giao dịch bằng máy tính chính thức đi vào hoạt động (ngày 18/03/1991). Hiện nay, các cổ phiếu trên
17
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
TSE vẫn được giao dịch theo haiphương thức khác nhau: giao dịch tại sàn và thông qua hệ thống máy tính Trên TSE, hầu hết các giao dịch mua bán chứng khoán được thanh toán vào ngày làm việc thứ ba sau ngày giao dịch (T+3). Hiện nay, Nhật Bản có 8 Sở giao dịch chứng khoán theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Sapporo, Niigata, Tokyo, Nagoya, Kyoto, Osaka, Hiroshima và Fukuoka. Trong đó 3 Sở giao dịch chứng khoán Tokyo, Nagoya, Osaka là Sở giao dịch chứng khoán mang tính "quốc gia", giao dịch chiếm tới 98,1% tổng giá trị giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Nhật Bản. Bên cạnh các Sở giao dịch chứng khoán, tại Nhật Bản còn có các thị trường chứng khoán phi tập trung, tiêu biểu đó là Nhật Bản có hai thị trường OTC cùng hoạt động đồng thời, đó là thị trư ờng Jasdaq và thị trường Jưnet. Thị trường Jasdaq, hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát triển thị trường OTC truyền thống hoạt động từ tháng 2/1963 do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Nhật Bản (JSDA) quản lý. Luật chứng khoán sửa đổi năm 1983 đã đưa thị trường OTC này vào quỹ đạo quản lý của Nhà nước, cơ chế thương lượng giá tay đôi giữa các công ty chứng khoán và giữa công ty chứng khoán với khách hàng được đổi sang cơ chế đấu giá tập trung qua hệ thống các nhà tạo lập thị trường. Hiện nay trên thị trường Jasdaq, có 449 công ty làm vai trò tạo lập thị trường. Thị trường Jưnet mới được đưa vào hoạt động từ tháng 5 năm 2000, chịu sự quản lý trực tiếp của Sở giao dịch chứng khoán Osaka (OSE), được tổ chức dàn cho các chứng khoán không được niêm yếttrên sở giao dịch nhằm đáp ứng yêu cầu tiết kiệm thời gian và chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường, hoạt động theo phương thức thương lượng giá. Thành viên của OSE, người đầu tư và trung tâm quản lý được trực tiếp nối mạng với nhau thông qua một mạng điện tử đa tầng, tạo điều kiện cho các đối tượng này có thể chia sẻ thông tin thị trường.
1.3.3.
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc ra đời và chính thức đi vào hoạt động vào năm 1956 cùng với sự khai sinh của Sở giao dịch chứng khoán Deahan - tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc. Từ đó đến nay, thị trường chứng khoán Hàn Quốc đã trở thành một trong 10 thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Thị trường này đã phát triển một cách nhanh chóng. Chỉ trong giai đoạn năm 1990-1999, khối lượng giao dịch cổ phiếu đã tăng từ 53 triệu tỷ Won lên 867 triệu tỷ Won, khối lượng giao dịch trái phiếu tăng từ 39 triệu tỷ lên đến 2.183 triệu tỷ Won, trong khi đó giá trị niêm yết trên thị trường cũng tăng từ 79 triệu tỷ Won lên 350 triệu tỷ Won.Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KSE) là một sàn giao dịch duy nhất có tổ chức ở Hàn Quốc, có 3 khu vực giao dịch trên Sở: Khu vực giao dịch cho cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phát sinh. Khu vực cho cổ phiếu được chia ra thành hai khu vực: Khu vực thứ nhất dành cho các công ty có quy mô lớn, với hơn 80% tổng số cổ phiếu trên thị trường; Khu vực thứ hai là địa điểm cho các cổ phiếu mới được niêm yết, hoặc cho các công ty có quy mô vừa và nhỏ được giao dịch. Đến tháng 03/2001, tổng số công ty chứng khoán hoạt động tại Hàn Quốc là 64 công ty, trong đó có 43 công ty trong nước và 21 công ty nước ngoài. Thị trường OTC truyền thống của Hàn quốc được thành lập tháng 04/1987 nhằm tạo môi trường hoạt động cho các chứng khoán
18
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
không được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hàn quốc (KSE), thị trường chịu sự kiểm soát của Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hàn Quốc (KSDA) thành lập năm 1953. Tháng 04/1997, Chính phủ Hàn quốcquyết định tổ chức lại và thúc đẩy phát triển thị trường này bằng việc thành lập thị trường mạng máy tính điện tử Kosdaq nhằm tạo điều kiện cho các công ty mạo hiểm, công ty công nghệ cao, quỹ tương hỗ và các công ty vừa và nhỏ không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên thị trường tập trung có thể huy động vốn trực tiếp. Thị trư ờng được xây dựng theo mô hình thị trường Nasdaq, tiến hành giao dịch qua mạng điện tửcó sự kiểm soát của trung tâm. Các tổ chức niêm yết trên thị trường Kosdaq phải đáp ứng một số tiêu chí cơ bản như mức vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ phát hành ra công chúng... Tuy nhiên, việc đấu giá được thực hiện theo phương thức đấu lệnh tập trung tương tự như Sở giao dịch.
1.4.
Xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán
1.4.1.
Xu hướng phát triển thị trường chứng khoán
Mặc dù thị trường chứng khoán ở mỗi nước có những đặc điểm riêng, phản ánh các điều kiện cụ thể của nước đó, song vẫn có những xu hướng phát triển chung cho TTCK của các nước trên thế giới.
Xu hướng quốc tế hóa thị trường chứng khoán
Hiện nay, xu hướng quốc tế hóa TTCK đang trở nên phổ biến trên khắp thế giới. TTCK là công cụ quan trọng để huy động các nguồn vốn dài hạn cho phát triển kinh tế, bởi vậy nhiều nước phát triển đã mở cửa thị trường chứng khoán để thu hút các nguồn vốn đầy tiềm năng từ nước ngoài. Tại các nước phát triển, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư không cao bằng các nước đang phát triển, vì vậy nhiều nhà đầu tư ở các nước phát triển thích đầu tư vào các nước đang phát triển, và ngay cả Chính phủ những nước đang phát triển cũng có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Khi đầu tư được đa dạng hóa, mang tính quốc tế thì các rủi ro trong đầu tư cũng được giảm xuống. Bởi vậy đầu tư thông qua các quỹ đầu tư quốc tế ngày càng trở nên được ưa chuộng trên thế giới. Thêm vào đó, sự phát triển của kỹ thuật thông tin liên lạc làm cho hoạt động của TTCK các nước có liên quan chặt chẽ với nhau hơn, hoạt động của thị trường này phản ánh các thông tin của thị trường khác. Chính vì vậy, xu hướng quốc tế hóa TTCK trên thế giới ngày càng rõ nét.
Xu hướng gia tăng các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Xu hướng phát triển mạnh mẽ TTCK phái sinh.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Cùng với sự phát triển của TTCK và sự hiện đại hóa hệ thống thông tin liên lạc, ngày nay các sản phẩm chứng khoán phái sinh ngày càng trở nên phổ biến. Các sản phẩm chứng khoán phái sinh ngày càng được ưa chuộng vì nó cung cấp những công cụ làm hạn chế đáng kể các rủi ro về thay đổi giá. Hơn nữa, thị trường các sản phẩm phái sinh rất đa dạng, có thể thực hiện cho tất cả các loại hàng hóa bao gồm cả các chứng khoán, lại có thể thực hiện nhanh gọn với số lượng lớn.
19
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.4.2.
Các điều kiện cần thiết để phát triển thị trường chứng khoán
Các chứng khoán khả mại - hàng hoá của thị trường
Thị trường chứng khoán là nơi mua bán, trao đổi các chứng khoán, vì thế, muốn phát triển cần phải tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trường, tức là các chứng khoán có khả năng chuyển nhượng trên thị trường. Có rất nhiều loại chứng khoán khác nhau, song những loại hàng hoá cơ bản của thị trường chứng khoán là cổ phiếu và trái phiếu. Trái phiếu chính phủ là một loại hàng hoá quan trọng trong giai đầu phát triển của thị trường. Những chứng khoán này có khối lượng phát hành lớn, rủi ro thấp nên chắc chắn sẽ hấp dẫn với các nhà đầu tư. Trái phiếu công ty, đặc biệt là trái phiếu do các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính phát hành cung cấp mức độ bảo đảm cao cho các nhà đầu tư nên cũng sẽ có khả năng thị trường cao. Khả năng lưu thông của các cổ phiếu do các công ty phát hành có điều kiện khó khăn hơn do mức độ rủi ro cao hơn và cần có thời gian kiểm chứng. Các cổ phiếu sẽ là các hàng hoá quan trọng trong tương lai khi thị trường phát triển, vì thế cần quan tâm giám sát và tạo điều kiện phát hành các loại cổ phiếu thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước cũng như khuyến khích hình thành các công ty cổ phần. Điểm cần lưu ý, quyết định sự phát triển của thị trường là lượng chứng khoán khả mại, hay lượng chứng khoán có thể giao dịch. Khi quy mô của các doanh nghiệp quá nhỏ, lượng chứng khoán khả mại thấp, tính thanh khoản của chứng khoán chắc chắn sẽ không cao, thị trường dễ bị chi phối bởi các hoạt động đầu cơ, thao túng giá cả chứng khoán. Mặt khác, quy mô nhỏ sẽ khó có điều kiện chuyên môn hoá về quản lý, khó đa dạng hoá hoạt động, do vậy, gặp bất lợi về quy mô và hiệu quả hoạt động không cao. Vì vậy, cần tăng quy mô của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết trên thị trường tập trung thông qua chính sách khuyến khích phát hành chứng khoán ra công chúng, khuyến khích thâu tóm và sáp nhập doanh nghiệp. Chính sách của Chính Phủ Hàn Quốc đầu những năm 80 và của Chính Phủ Hoa Kỳ, Chính Phủ Vương Quốc Anh cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX về tăng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp, giảm tỷ lệ Nợ/Vốn chủ sở hữu trong cải cách kinh tế là bài học tốt cho các nước đi sau trong việc phát triển thị trường chứng khoán.
Khuyến khích các thành viên tham gia thị trường
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Cũng giống như các thị trường khác, thị trường chứng khoán cũng vận động theo quy luật cung cầu. Hệ thống thị trường chứng khoán phải được thiết lập để người mua và người bán có thể gặp nhau và thực hiện các giao dịch. Cần phải cho các công chúng đầu tư thấy bản chất của việc đầu tư vào chứng khoán. Họ phải nhận thức được rằng, chứng khoán có giá trị, song nó cũng chứa đựng rủi ro, nghĩa là, các nhà đầu tư có thể tăng tài sản của họ nhờ kinh doanh
20
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
chứng khoán, song họ cũng có thể bị thua lỗ, thậm chí mất toàn bộ tài sản và bị phá sản. Kinh doanh chứng khoán không phải là trò chơi may rủi mà là lòng yêu nước, sự ham muốn đóng góp vào phát triển kinh tế, đồng thời đây là sự thử sức trí tuệ với những bài toán mang đầy chất thơ của sự mạo hiểm. Chỉ những người có trí tuệ, biết tập hợp và xử lý thông tin, giám đương đầu và chế ngự được rủi ro mới có cơ hội kiếm được lợi trên thị trường. Các nhà quản lý cần trang bị những kiến thức cơ bản cho các nhà đầu tư và tạo các điều kiện hỗ trợ về tài chính khi họ tham gia thị trường (Chẳng hạn việc cấp không cổ phiếu, mua với giá ưu đãi hoặc cho vay để mua cổ phiếu đối với cán bộ công nhân viên chức của các doanh nghiệp cổ phần hoá). Đối với những người cần vốn hay những người cung cấp các chứng khoán cho thị trường, Chính Phủ cần tạo điều kiện để các công ty có thực lực và lành mạnh về tài chính để họ có thể cung cấp các chứng khoán có chất lượng cao cho thị trường vốn. Cụ thể là các chính sách khuyến khích các công ty đại chúng, chính sách bảo vệ các công ty chống lại sự thôn tính và sát nhập không công bằng, các ưu đãi về thuế hoặc trợ giúp huy động vốn. Mặt khác, cần xây dựng quy chế quản trị công ty thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết nhằm hoàn thiện vấn đề quản trị điều hành, minh bạch hoá về tài chính và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư thiểu số. Chính Phủ cần khuyến khích sự phát triển và tham gia vào thị trường của các nhà đầu tư có tổ chức như các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ đầu tư, các ngân hàng và các trung gian tài chính khác. Chính Phủ có thể giao trách nhiệm cho các công ty tài chính Nhà Nước đầu tư một phần vốn vào chứng khoán hoặc có các chính sách ưu đãi về thuế. Thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng nhằm tăng tính hiệu quả hoạt động của thị trường. Cần tăng số lượng và chất lượng của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, phát triển loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia các dịch vụ như môi giới, đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn và đầu tư chứng khoán, thanh toán và lưu ký chứng khoán… Những chính sách tác động vào cung và cầu của chứng khoán sẽ có tác dụng tích cực trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng khoán.
Hệ thống kế toán và kiểm toán
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Hệ thống kế toán và kiểm toán là hệ thống phụ trợ quan trọng nhất trong nền kinh tế tư bản. Hệ thống này cung cấp các thông tin cần thiết và tin cậy cho việc xác định giá trị kinh tế cơ bản của công ty hay các thông tin về điều kiện tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tăng trưởng của công ty trong tương lai. Đây là các thông tin cơ bản giúp cho việc định giá chứng khoán. Hệ thống kiểm toán và kế toán cung cấp các quy tắc nền tảng buộc phải tuân theo đối với các công ty. Chỉ có hệ thống kế toán, kiểm toán tin cậy mới có thể cung cấp các thông tin chính xác cho các nhà đầu tư. Các tiêu chuẩn về kế toán và kiểm toán của các nước cần phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đặc
21
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
biệt cần thiết trong giai đoạn quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư sẽ đặc biệt quan tâm tới hệ thống kiểm toán độc lập trong việc làm tăng uy tín cuả các báo cáo tài chính. Trong giai đoạn phát triển của thị trường vốn, hệ thống lưu giữ và thanh toán bù trừ chứng khoán cũng rất quan trọng, vì thế, nó cần phải được xem xét đầy đủ khi thành lập thị trường nếu các nhà quản lý không muốn thị trường bị tê liệt.
Hệ thống công bố công khai
Mục đích cơ bản của hệ thống này là để cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán và để ngăn chặn các gian lận trong giao dịch. Điều này được biểu hiện trong các quy định về đăng ký và báo cáo định kỳ. Hệ thống đăng ký đòi hỏi người phát hành phải công bố một số tài liệu liên quan tại thời điểm phát hành chứng khoán, còn hệ thống báo cáo định kỳ đòi hỏi các công ty đại chúng cập nhật thông tin đã được công bố bao gồm các báo cáo quý, báo cáo giữa năm, báo cáo năm và báo cáo hiện hành. Hệ thống công bố công khai góp phần lầm tăng độ tin cậy của thị trường chứng khoán và giải quyết vấn đề về thông tin không cân xứng và rủi ro đạo đức. Nó tạo điều kiện công bằng về thông tin giữa các nhà phát hành với các nhà đầu tư trên thị trường. Cần xây dựng hệ thống các tổ chức định mức tín nhiệm nhằm cung cấp chuẩn xác thông tin và đánh giá xếp hạng cho các chứng khoán, đặc biệt là các chứng khoán nợ. Hoạt động có hiệu quả của các tổ chức này làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường.
Hệ thống quản lý và giám sát thị trường chứng khoán Sự điều tiết thị trường chứng khoán đòi hỏi nhưng kiến thức về chuyên môn, kinh nghiệm và sự tinh tế rất cao của các nhà quản lý. Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý thị trường chứng khoán là khác nhau, phụ thuộc vào hệ thống pháp lý, vào cơ sở kinh tế và văn hoá của từng quốc gia. Việc lựa chọn mô hình quản lý thị trường chứng khoán cần phải xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố và phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường trên nguyên tắc tối đa hoá sự tin cậy của các nhà đầu tư đối với thị trường. Chúng ta không để cho thị trường trở thành sòng bạc với các trò gian lận làm thiệt hại cho các nhà đầu tư, cũng không nên hạn chế thị trường bằng sự can thiệp quá mức của chính phủ. Chúng ta nên nhớ, mục đích đầu tiên của quản lý là bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư chứ không phải bảo vệ nhà phát hành.
Vấn đề đào tạo
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Vấn đề đào tạo bao gồm đào tạo các chuyên gia cho thị trường và đào tạo kiến thức cơ bản cho cả nhà phát hành lẫn các nhà đầu tư. Ngành chứng khoán là thành phần cấp tiến nhất trong ngành tài chính. Các chuyên gia của thị trường đòi hỏi những kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ cao, kinh nghiệm phong phú. Công tác cán bộ và công tác đào tạo quyết định sự phát triển của thị trường. Cần tận dụng tối đa các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp như các trường đại học về kinh tế, hệ thống
22
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
thông tin đại chúng trong việc phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như tăng cường phổ biến kiến thức đến công chúng đầu tư.
Các yêu cầu khác
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Mục tiêu của việc phát triển thị trường chứng khoán là để tăng cường huy động vốn, thúc đẩy phát triển kinh tế, song ngược lại, điều kiện ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô là một trong những điều kiện cần thiết cho phát triển của thị trường. Chỉ có trên cơ sở tăng trưởng và ổn định kinh tế mới có thể tăng tiết kiệm và đầu tư. Một điều kiện khác không kém phần quan trọng đối với sự phát triển của thị trường là hệ thống pháp luật. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được tôn trọng và các nhà đầu tư cũng như các nhà phát hành chỉ an tâm tham gia thị trường khi quyền lợi của họ được tôn trọng. Cần xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ nhằm bảo vệ quyền lợi của các thành phần tham gia thị trường.Vì thế, song song với việc ban hành các Luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, cần hoàn thiện các Luật Doanh nghiệp, các Luật thuế, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật Đầu tư,... cho phù hợp với điều kiện mới. Cuối cùng là sự ứng dụng các thành tựu phát triển của khoa học, công nghệ cũng như việc đầu tư trang thiết bị cần thiết cho hoạt động của thị trường. Thị trường chứng khoán là thị trường bậc cao, hoạt động của nó đòi hỏi phải trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến phù hợp và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các tiến bộ tin học. Đây là cơ sở cho sự phát triển thành công của thị trường.
23
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Tóm lược cuối bài
Cấu trúc của thị trường chứng khoán.
Vai trò của thị trường chứng khoán.
Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
Điều kiện phát triển thị trường chứng khoán.
24
Bài 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày mối liên hệ giữa Thị trường sơ cấp và Thị trường thứ cấp?
2. Trình bày vai trò của Thị trường chứng khoán?
3. Phân tích đặc điểm của các công cụ trên Thị trường tiền và Thị trường vốn?
4. Các chủ thể trên Thị trường chứng khoán? Liên hệ thực tiễn Thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay.
TXNHCK01_Bai1_v1.0014109222
5. Phân tích xu hướng phát triển của Thị trường chứng khoán thời gian tới.