intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp trong nền kinh tế phi thị trường: Phần 2

Chia sẻ: ViThanos2711 ViThanos2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

80
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp phần 1, phần 2 của tài liệu Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp trong nền kinh tế phi thị trường sẽ tiếp tục giới thiệu đến bạn các nội dung về tác động của việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam và một số khuyến nghị, đánh giá những tác động của các vụ việc áp dụng kép biện pháp phòng vệ thương mại AD và CVD đối với Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về nguy cơ đánh trùng thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp trong nền kinh tế phi thị trường: Phần 2

  1. Chương II TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG KÉP CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ I. Tổng quan về các vụ áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam 1. Thông tin về các vụ việc Kể từ năm 2002 đến nay, Chính phủ và doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã phải đương đầu với 04 vụ việc điều tra và áp dụng trùng biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp do cơ quan điều tra của Hoa Kỳ là Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiến hành. Cụ thể là: (1) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm túi nhựa PE đựng hàng bán lẻ (năm 2009); (2) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm ống thép hàn các bon CWP (năm 2011); (3) Vụ việc điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm mắc áo bằng thép (năm 2012); (4) Vụ việc điều tra chống bán phá giá sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh (2003) và vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh (2012); 75
  2. Bảng 3: Thông tin cơ bản về các vụ việc của Việt Nam TT Tên sản Loại Quốc Năm Mức thuế áp dụng phẩm hình vụ gia khởi khởi việc xướng xướng AD CVD 1 Túi nhựa AD/CVD Hoa Kỳ 2009 52.30% - 76.11% 0.44% - 52.56% PE 2 Ống thép hàn các AD/CVD Hoa Kỳ 2011 0% 0% bon (CWP) 3 Mắc áo 135.81% - bằng AD/CVD Hoa Kỳ 2012 31.58% - 90.42% 220.68% thép AD 2003 4,13% - 25.76% Tôm nước ấm 4 Hoa Kỳ Chưa có quyết đông CVD 2012 định cuối cùng lạnh (dự kiến 12%) Việc áp dụng đồng thời cả thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ dẫn đến việc thuế chống trợ cấp bị áp dụng hai lần. Điều này có thể thấy rõ nhất trong vụ việc Túi nhựa PE (2009) và Mắc áo bằng thép (2012). 76
  3. Đối với vụ việc tôm nước ấm đông lạnh, thuế chống bán phá giá được áp dụng từ năm 2004 và vẫn tiếp tục được duy trì cho đến nay. Vụ việc điều tra chống trợ cấp đang diễn ra và dự kiến sẽ có kết luận cuối cùng vào tháng 8/2013 với khả năng mức thuế áp dụng cũng khá cao. 2. Khả năng áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới Trong vụ kiện chống trợ cấp đầu tiên đối với Việt Nam, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) nhận định rằng Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong công cuộc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và không còn là nền kinh tế kế hoạch tập trung theo kiểu các nước Xô-Viết cổ điển. Ví dụ, Việt Nam đã có một môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp tư nhân nội địa và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các doanh nghiệp nhà nước đã được cải cách đáng kể bằng việc các doanh nghiệp này có sự tăng cường kiểm soát các hoạt động kinh doanh của mình; việc kiểm soát các yếu tố giá và nguồn cung đầu vào sản xuất, bao gồm cả việc sử dụng đất và tín dụng đã được bãi bỏ đáng kể; chấm dứt độc quyền của Chính phủ trong thương mại. Dựa vào những sự phát triển này, DOC đã kết luận rằng hiện nay có thể xác định được: Chính phủ Việt Nam có dành cho các nhà sản xuất Việt Nam một “lợi ích” nào đó hay không, có thể xác định liệu lợi ích đó có là “cá biệt” cho một doanh nghiệp, ngành công nghiệp hay nhóm ngành xác định hay không; và có thể tính toán được mức độ của các lợi ích đó để bù trừ với thuế chống trợ cấp. 77
  4. DOC cũng xác định rằng “ngày áp dụng” luật Chống trợ cấp với Việt Nam là ngày 11 tháng 1 năm 2007, ngày Việt Nam gia nhập WTO. Đây là thời điểm DOC xác định và tính toán các trợ cấp tại Việt Nam để áp dụng luật chống trợ cấp. DOC sẽ không áp dụng các biện pháp đối kháng với các lợi ích được nhận từ trước thời điểm này. Để giải thích cho việc lựa chọn ngày áp dụng luật như trên, DOC chỉ ra mối quan hệ giữa việc gia nhập WTO của Việt Nam và cải cách kinh tế được thực hiện bởi Chính phủ Việt Nam. DOC cũng lưu ý rằng, tại Đoạn 255- Báo cáo của Ban Công tác WTO về việc gia nhập của Việt Nam, Việt Nam đã đồng ý một số quy định liên quan đến việc sử dụng các mốc chuẩn để xác định giá trị các lợi ích trợ cấp trong các vụ việc Chống trợ cấp. Do vậy, DOC cho rằng các trợ cấp và các quy định về thuế Chống trợ cấp có thể được áp dụng với Việt Nam, ít nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Mặc dù hoạt động điều tra chống trợ cấp của Hoa Kỳ (nước sử dụng rất nhiều biện pháp chống trợ cấp) có thể sẽ bị hạn chế bởi các thủ tục tư pháp nội bộ của Hoa Kỳ trong tương lai nhưng vẫn tồn tại một số lý do để phải quan ngại liên quan đến các vấn đề về áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại, ít nhất là trong khoảng thời gian ngắn. Như đã đề cập trong vụ chống trợ cấp đầu tiên đối với Việt Nam, DOC thể hiện mạnh mẽ cam kết về các hành động chống trợ cấp đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường (NME) do DOC khởi xướng vụ chống trợ cấp đầu tiên dựa trên bằng chứng về “nguy cơ gây thiệt hại đáng kể” thay vì dựa trên bằng chứng về “thiệt hại đáng kể” thực tế82. Do Quốc hội và 82 Vụ việc điều tra P.E của Việt Nam: Lệnh áp thuế chống trợ cấp, 75 FR 16428 (ngày 1 tháng 4 năm 2010) 78
  5. Chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn sẽ gia tăng áp lực lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc nên các biện pháp chống trợ cấp áp dụng chống lại các nước NME nói chung bao gồm Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên. Bất kỳ một nỗ lực nào nhằm đối xử với Việt Nam khác với Trung Quốc trong cả quá trình ra quyết định khởi xướng vụ việc chống trợ cấp và lựa chọn phương pháp để tính toán biên độ trợ cấp cũng sẽ tác động đến quan điểm của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Do vậy, có khả năng các vụ việc chống lại Trung Quốc sẽ tiếp tục tác động đáng kể đến thực tiễn áp dụng trên toàn thế giới khi tiến hành điều tra các vụ Chống trợ cấp liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường khác như Việt Nam. Điều đáng lo ngại hơn là các chính sách trợ cấp bị cáo buộc trong vụ việc đầu tiên Hoa Kỳ điều tra có thể sẽ là một tiền lệ quan trọng cho các cuộc điều tra tiếp theo. Khi các biện pháp chống trợ cấp được sử dụng đối với Việt Nam, về cơ bản, tất cả các khái niệm thông thường về các chương trình trợ cấp được áp dụng mà không xét đến cấu trúc kinh tế cơ bản hay hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, khi có một dự án phát triển ngành của Chính phủ, các khoản vay từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và các Ngân hàng Thương mại Nhà nước (SOCBs)83 dễ bị xem là đối tượng của các đơn kiện Chống trợ cấp vì SOCBs được xem là để thực hiện những mục tiêu của Chính sách kế hoạch quốc gia. Trong trường hợp về sử dụng đất, Chính phủ Việt Nam sở hữu tất cả đất đai ở Việt Nam và dành các khoản ưu đãi cho thuê đất hoặc các miễn tiền thuê đất đối với các công ty đầu tư vào các “chương trình trọng điểm”. Các 83 Theo Chính phủ Việt Nam, có 5 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước: Vietcombank; BIDV, Vietinbank, Agribank và Mekong Housing và thương mại 79
  6. chính sách cho thuê đất này cũng được xác định là một chương trình trợ cấp lớn có thể bị đối kháng. Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FIEs) hoặc các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cũng được xem là các ưu đãi thuế có thể bị đối kháng. Một dạng chương trình trợ cấp điển hình khác là miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô. Miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hoặc các công ty trong các khu công nghiệp có thể cấu thành các khoản trợ cấp xuất khẩu bị đối kháng ở mức độ là số tiền được miễn, giảm vượt quá mức thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu đầu vào được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu. Thực tiễn áp dụng các quy ước khung để tính toán các khoản trợ cấp có thể bị đối kháng đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường có nguy cơ gây ra nhiều vấn đề cho các nhà xuất khẩu ở các nước có nền kinh tế phi thị trường. II. Đánh giá những tác động của các vụ việc áp dụng kép biện pháp phòng vệ thương mại (AD và CVD) đối với Việt Nam 1. Nguy cơ áp dụng trùng thuế AD và CVD khi áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại Trong giai đoạn 1995 - 2012, có 65 vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với Việt Nam đã diễn ra, trong đó năm 2012 đã có tới 10 vụ, chiếm 1/6 tổng số vụ điều tra trong cả giai đoạn nói trên. Trong thời gian tới các vụ điều tra dạng này sẽ còn tiếp tục tăng và việc đối phó sẽ ngày càng phức tạp. Các vụ kiện này tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như tôm, cá, da giày, sợi, thép, điện tử gia dụng… 80
  7. và ở các thị trường có kim ngạch lớn như Hoa Kỳ, EU, Canada. Các vụ điều tra này khiến doanh nghiệp Việt Nam mất thị trường, ví dụ như mặt hàng xe đạp đã không thể quay lại thị trường EU sau thời gian bị điều tra, bởi khi đó bạn hàng đã tìm đối tác khác. Ngay khi bắt đầu bị điều tra chống bán phá giá thì kim ngạch 100 triệu USD hàng năm của mặt hàng này từ từ giảm xuống và sau khi bị áp thuế thì tiếp tục giảm tiếp và chỉ còn khoảng hơn 1 triệu USD mỗi năm. Tính đến hết năm 2012, hàng xuất khẩu Việt Nam bị điều tra 04 vụ kép gồm cả chống bán phá giá và chống trợ cấp và cả 4 vụ đều xuất phát từ Hoa Kỳ. Vụ việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại xảy ra khi cơ quan điều tra nước ngoài tiến hành điều tra cả chống bán phá giá và chống trợ cấp trên cùng một sản phẩm xuất khẩu đồng thời kết luận rằng có căn cứ để áp dụng các biện pháp nhằm khôi phục lại thương mại từ những hành vi trên. Mức thuế khi cơ quan điều tra áp dụng dựa trên biên độ phá giá hay trợ cấp thường sẽ rất cao do kết hợp cả hai hành vi của nhà xuất khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là việc áp dụng cả hai biện pháp mà là việc cơ quan điều tra không thể bóc tách từng khoản trợ cấp hoặc phá giá trên cùng một sản phẩm xuất khẩu dẫn đến việc bị trùng (hay tính thuế hai lần) các khoản trợ cấp. Trước đây, Tòa án Thương mại Quốc tế (CIT) giải quyết những vướng mắc khi điều tra CVD đối với một NME 81
  8. trong vụ việc GPX . Tòa án cụ thể tập trung vào vấn đề áp đặt song song các biện pháp AD và CVD đối với lốp xe có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong kết luận của mình, Tòa án đã ra phán quyết rằng DOC đã không có biện pháp phù hợp để tránh trùng lặp trong việc áp đặt thuế đối kháng và các biện pháp AD và yêu cầu DOC phải tìm ra phương pháp tính toán để xử lý vấn đề trên. Việc tính trùng thuế có thể dễ dàng xảy ra khi một cơ quan điều tra áp đặt một biện pháp chống trợ cấp để bù đắp bất kỳ khoản trợ cấp bị cáo buộc nào từ chính phủ nước xuất khẩu. Do giá trị thông thường được tính toán dựa trên giá từ quốc gia tương tự (nước thay thế) không được trợ cấp hay chi phí. Tuy nhiên, cơ quan điều tra, đôi khi, áp dụng thuế chống trợ cấp dựa trên một mức giá trợ cấp nội địa đồng thời thiết lập một biên độ bán phá giá dựa trên giá trị thông thường (từ một quốc gia tương tự). Mô hình kinh tế mô tả các khoản lỗ phát sinh thêm do việc áp dụng kép các biện pháp phòng vệ thương mại đối với NMEs như sau: Giá trị thông Giá xuất khẩu - (1) Biên độ phá giá thường (NV) (MD) = Giá xuất khẩu Trong trường hợp sản phẩm xuất khẩu được trợ cấp: (2)EP = Giá chưa trợ cấp (EP1) – Khoản trợ cấp (S) Từ (1) và (2): NV – EP1 + S MD = EP 82
  9. Khi cơ quan điều tra xác định các khoản trợ cấp trong vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với sản phẩm xuất khẩu: Khoản trợ cấp (S) (3)Biên độ trợ cấp (MS) = Giá xuất khẩu Từ (1) (2) (3), ta có thể nhận thấy khi cơ quan điều tra tiến hành áp dụng kép các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, biên độ như sau: NV – EP1 + S S MS + MD = + EP EP NV – EP1 2S MS + MD = + EP EP Từ công thức trên, dễ dàng nhận thấy khoản thuế chống trợ cấp đã bị áp dụng kép đối với cùng một sản phẩm xuất khẩu. Điều này là trái với quy định của WTO, tuy nhiên, trong thực tế, cơ quan điều tra rất khó có thể tách biệt được khoản trợ cấp khi xác định biên độ phá giá sản phẩm xuất khẩu do khoản trợ cấp phân bổ khác nhau. Mặt khác, công thức trên áp dụng với những nước được coi là kinh tế thị trường, đối với các NMEs, cơ quan điều tra thường không sử dụng các giá trị và mốc chuẩn tại nước xuất khẩu mà áp dụng nước thay thế để xác định các giá trị trên. Thông thường, các giá trị thay thế sẽ cao hơn giá trị thực tại nước NMEs hay NV1 > NV. Do đó, theo công thức trên, nếu NV1 > NV, mức thuế lại bị đẩy lên cao hơn. Với kết quả bất lợi như vậy, mức thuế áp dụng đối với các NMEs (hoặc Việt Nam) sẽ khiến các nhà xuất khẩu không thể tiếp tục xuất khẩu hàng hóa bị áp thuế vào thị trường nước điều tra và coi như bị mất thị trường. 83
  10. Việc áp dụng thuế không đơn thuần chỉ trong thời gian ngắn, mức thuế sẽ được rà soát (tùy theo quy định của từng quốc gia) để đánh giá đúng thực trạng nhập khẩu sản phẩm và mức giá từ đó điều chỉnh mức thuế phù hợp (có thể cao hơn hoặc thấp hơn). 2. Khó khăn trong công tác kháng kiện Các biện pháp phòng vệ thương mại chỉ được áp dụng khi cơ quan điều tra nước ngoài đã tiến hành điều tra và xác định tồn tại những bằng chứng về hành vi cạnh tranh không công bằng từ đó đưa ra lệnh áp thuế hoặc các biện pháp khác nhằm bù đắp những khoản trợ cấp hoặc bị bán phá giá. Do đó, khi cơ quan có thẩm quyền nước ngoài khởi xướng điều tra các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm bị điều tra doanh nghiệp phải tham gia vào cả hai quá trình điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp nếu như không muốn bị áp dụng những dữ liệu sẵn có bất lợi có thể khiến mức thuế bị áp sau này lên rất cao. Đối với vụ việc chống bán phá giá, bản chất vụ việc là doanh nghiệp nước ngoài kiện doanh nghiệp việt nam có hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với hàng hoá xuất khẩu nên vai trò của doanh nghiệp trong vụ việc là chủ yếu. Hỗ trợ của chính phủ chỉ dừng lại ở mức độ tư vấn pháp lý, giám sát và bày tỏ ý kiến, quan điểm về vụ việc. Khi cơ quan điều tra nước ngoài ra quyết định cuối cùng, trong trường hợp quá trình điều tra xảy ra sai phạm, chính phủ có thể đưa vụ việc ra kiện tại Cơ quan giải quyết tranh chấp tại WTO. Đối với vụ việc chống trợ cấp, bản chất là doanh nghiệp nước ngoài cáo buộc chính phủ trợ cấp những khoản trái với quy định của WTO cho các doanh nghiệp xuất khẩu 84
  11. để tạo ra lợi thế cạnh tranh không lành mạnh của hàng hoá xuất khẩu với hàng hoá tương tự sản xuất tại nước điều tra. Trong vụ việc này, cả chính phủ và doanh nghiệp đều phải tham gia trực tiếp vào quá trình điều tra (trả lời bản câu hỏi, thẩm tra…). Tuy nhiên, vai trò của chính phủ trong vụ việc này nhằm chứng minh những chính sách ban hành không đem lại bất kỳ lợi ích trái phép cho doanh nghiệp. Mặt khác, vai trò của doanh nghiệp sẽ là chứng minh công ty không nhận bất kỳ loại hỗ trợ nào trái quy định WTO từ chính phủ. Như vậy, khi Cơ quan điều tra nước ngoài khi tiến hành điều tra kép, doanh nghiệp Việt Nam phải tham gia 2 vụ kiện khác nhau (chống bán phá giá và chống trợ cấp) với các bản câu hỏi khác nhau và được tiến hành với những cách thức, quy trình, thủ tục khác nhau. Điều này khiến doanh nghiệp càng gặp khó khăn khi phải tham gia vào hai vụ việc trong bối cảnh, hầu hết các doanh nghiệp Việt nam đều là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ với nguồn lực hết sức hạn chế. Đa số khi xảy ra vụ kiện, các doanh nghiệp đều phải tiến hành thuê luật sư tư vấn để tham gia quá trình kháng kiện. Vấn đề tài chính là gánh nặng không nhỏ đối với các doanh nghiệp khi nguồn lực không đủ để có thể trang trải những khoản chi phí này. Các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp có xu hướng được các nước sử dụng nhiều hơn khi kinh tế thế giới xảy ra khủng hoảng nhằm bảo hộ ngành sản xuất nội địa. Việc khó khăn trong xuất khẩu và chi phí kháng kiện khiến một số doanh nghiệp không tham gia vào quá trình kháng kiện mà tìm cách thay đổi thị trường xuất khẩu truyền thống. Điều này sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm bị điều tra do cơ quan điều tra sẽ áp dụng 85
  12. những thông tin bất lợi sẵn có khi đưa ra quyết định. Mặt khác, khi doanh nghiệp chuyển hướng xuất khẩu, không có gì đảm bảo ngành sản xuất nội địa tại thị trường mới không yêu cầu điều tra các vụ việc tương tự. Khó khăn tiếp theo đó là việc các doanh nghiệp cũng cần bố trí nhân sự, thời gian để theo đuổi vụ việc, điều này lại một lần nữa đặt các doanh nghiệp vào tình huống khó khăn khi các hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng rất nhiều khi xảy ra vụ kiện. III. Khuyến nghị 1. Đối với Chính phủ 1.1 Xây dựng hệ thống giám sát và quản lý Nếu xem xét những xung đột thương mại có xu hướng ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì những hành động của Hoa Kỳ đối với NMEs, trong đó có Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục gia tăng. Do thực tiễn áp thuế chống trợ cấp của Hoa Kỳ đối với NMEs sẽ ngày càng trở nên rõ ràng hơn và có mối quan hệ trực tiếp tới các biện pháp áp dụng đối với Việt Nam nên việc tiếp tục giám sát các biện pháp chống trợ cấp của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc là vấn đề rất quan trọng để hiểu được những loại chương trình trợ cấp nào đang là mục tiêu của các vụ điều tra chống trợ cấp và chuẩn bị ứng phó trong quá trình xuất khẩu. Thực tế, việc chuẩn bị ứng phó đối với các vụ điều tra chống trợ cấp không hề dễ dàng đứng ở góc độ các bị đơn là những công ty trung bình ở NMEs, có lẽ Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, Chính phủ cần tăng cường hơn nữa trách nhiệm của mình vì thuế chống trợ cấp về cơ bản là do 86
  13. các chương trình trợ cấp của Chính phủ chứ không phải hành vi của các bên tư nhân. Việc chỉ định một viện nghiên cứu hay một cơ quan Chính phủ giám sát các hành vi điều tra chống trợ cấp của các nước khác có thể có ích trong việc cung cấp thông tin cho các Bộ cũng như cộng động đồng doanh nghiệp. Ví dụ, ở Hàn Quốc, Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hàn Quốc, một tổ chức tư nhân được tài trợ chủ yếu bởi các công ty xuất khẩu, thường xuyên cung cấp thông tin về các biện pháp Chống bán phá giá và Chống trợ cấp tới các công ty thành viên. 1.2 Xây dựng năng lực xử lý các vấn đề trợ cấp của WTO Một chính sách hay luật quy định về một khoản trợ cấp không nhất thiết giới hạn chỉ dành cho các công ty hay ngành công nghiệp nhất định để bị coi là cá biệt và do đó có thể đối kháng. Trong các tranh chấp gần đây của WTO, xuất hiện thêm nhiều vụ việc trợ cấp dựa trên các chương trình trợ cấp “thực tế” (de-facto) mà việc xác định những chương trình này là khó khăn hơn nhiều, đặc biệt tại thời điểm soạn thảo chính sách hoặc pháp luật. Nếu một hệ thống các văn bản quy định rằng có một chính sách của Chính phủ nhằm ưu tiên thúc đẩy một số ngành công nghiệp - trường hợp điển hình của một nước đang phát triển chủ trương công nghiệp hóa nền kinh tế, thì chính sách đó có thể bị sử dụng như bằng chứng về sự ưu đãi cấu thành một lợi ích dựa trên các văn bản khác. Ví dụ, các khoản vay do các Ngân hàng Nhà nước cấp cho các ngành công nghiệp “mục tiêu” đặc biệt có thể bị cáo buộc là “các khoản vay ưu đãi” và có thể là đối tượng của thuế Chống trợ cấp. Do vậy, điều quan trọng là phải nâng cao khả năng đối phó với các vấn đề trợ cấp trong phạm vi phát triển chính sách và thực thi chính sách. Hơn nữa, điều cần chú ý là việc xây dựng và thực hiện giao dịch bán hàng như thế nào sẽ 87
  14. quyết định việc liệu các trợ cấp mà các công ty Việt Nam đã nhận trong quá khứ có được “duy trì” và tiếp tục bị đối kháng hay không. Thêm vào đó, một khoản trợ cấp bắt đầu từ trước khi Việt Nam gia nhập WTO vẫn có thể bị coi là đối kháng như một “khoản trợ cấp mới” nếu cách thức hoặc các quy định nền tảng của khoản trợ cấp đó đã được gia hạn hoặc thay đổi sau ngày tính mốc trợ cấp là ngày 11 tháng 1 năm 2007. Để giải quyết các vấn đề phức tạp này, Chính phủ Việt Nam cần thận trọng hơn nữa khi xây dựng và thực hiện các chương trình trợ cấp mà được sử dụng rộng rãi trên nhiều khía cạnh trong các chính sách của Chính phủ. Cũng sẽ rất có ích nếu Chính phủ thành lập các bộ phận pháp chế với các chuyên gia pháp lý có thể xử lý các vấn đề liên quan đến trợ cấp của WTO. Trong trường hợp của Hàn Quốc, Bộ Tư pháp đã thành lập một Ủy ban tư vấn đặc biệt với các luật sư và các học giả để đưa ra các ý kiến tư vấn về một số vấn đề liên quan đến pháp luật thương mại, bao gồm cả vấn đề trợ cấp. Sau đó, Bộ Ngoại giao và Thương mại đã thành lập phòng luật thương mại gồm chủ yếu là các luật sư được đào tạo tại Hàn Quốc và nước ngoài. Thời gian gần đây, các Bộ khác đã thuê các luật sư hoặc các chuyên gia luật thương mại để xem xét các vấn đề pháp lý có thể xảy ra liên quan đến Hiệp định WTO đối với các chính sách của mình. Mặc dù những tiến bộ này không thể hoàn toàn xóa bỏ các tranh chấp về trợ cấp hay các biện pháp chống trợ cấp đối với xuất khẩu của Hàn Quốc, những xung đột thương mại liên quan đến trợ cấp đã giảm đáng kể so với giai đoạn 1946 – 1994 (giai đoạn GATT) hay những năm 1990. Theo đó, việc cấp bách là phải nâng cao năng lực tổng thể bằng việc thành lập một cơ quan mà có thể tích lũy và đưa ra các ý kiến chuyên môn về quy định trợ cấp của WTO. Sử dụng các chương trình tu nghiệp nước ngoài để bồi dưỡng các 88
  15. chuyên gia luật thương mại sẽ là một trong những cách nâng cao năng lực. Ngoài ra, sự tham gia tích cực hơn nữa trong các tranh chấp về trợ cấp tại WTO với tư cách bên thứ ba cũng có thể là một cách tốt để nâng cao chuyên môn về các vấn đề này. Việc xây dựng các chương trình đào tạo theo yêu cầu cho cộng đồng doanh nghiệp cũng như những nhà hoạch định chính sách cũng góp phần nâng cao năng lực xử lý các vấn đề về trợ cấp. 1.3 Tham gia tích cực vào các vụ điều tra chống trợ cấp Khi các biện pháp chống trợ cấp được khởi xướng nhằm vào hàng xuất khẩu của Việt Nam, việc chủ động chuẩn bị và tích cực ứng phó với các vụ điều tra là rất quan trọng. Giống như các vụ việc chống bán phá giá, các vụ chống trợ cấp cũng rất dễ bị lạm dụng bằng cách sử dụng các thông tin sẵn có bất lợi. Các nhà xuất khẩu được xác định là các bị đơn bắt buộc do lượng xuất khẩu lớn có thể phải đối mặt với mức thuế chống trợ cấp rất cao vì những thông tin bất lợi sẵn có dựa trên cáo buộc của nguyên đơn nếu họ không hợp tác và cung cấp bản trả lời đầy đủ. Thông thường, sự thiếu hợp tác của các cơ quan Chính phủ liên quan đã trở thành lý do để cơ quan điều tra sử dụng các thông tin sẵn có bất lợi, dẫn đến mức thuế chống trợ cấp rất cao đối với hàng xuất khẩu của các ngành sản xuất bị ảnh hưởng. Hơn nữa, do hệ thống pháp luật chống trợ cấp của Hoa Kỳ có thể được thay đổi đáng kể do các quyết định của tòa án nên các công ty là mục tiêu của các biện pháp chống trợ cấp cần đưa ra các lập luận rõ ràng nhằm 1) phản đối các vụ việc chống trợ cấp đối với các nước thực sự là nền kinh tế phi thị trường; và 2) phản đối một phương pháp tính thuế chống trợ cấp trong các vụ việc như vậy, để đảm bảo quyền kháng cáo 89
  16. và được bồi thường hợp pháp trong trường hợp thuế chống trợ cấp bị áp dụng sai. Bên cạnh đó, các nhà nhập khẩu hàng hóa là đối tượng áp thuế chống trợ cấp từ Việt Nam cần phản đối việc thanh khoản bất cứ lô hàng nào cho đến khi đạt được giải pháp cuối cùng tại Tòa án Hoa Kỳ và WTO. Để nâng cao năng lực trong các vụ điều tra chống trợ cấp, điều cần thiết là tổ chức một nhóm hoặc bộ phận pháp lý trong một Bộ mà có thể xử lý tất cả các vụ việc chống trợ cấp và đảm bảo tham gia trong các vụ việc chống trợ cấp ít nhất là với vai trò hỗ trợ hoặc đồng tư vấn trong trường hợp không phải là tư vấn chính hoặc chỉ đạo trong các vụ việc chống trợ cấp.Việc xây dựng dần dần cơ chế xử lý các vụ việc chống trợ cấp sẽ rất quan trọng trong việc đối phó với các tranh chấp thương mại tương lai để đảm bảo an toàn cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam. 2. Đối với Doanh nghiệp Các vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng với tính chất và mức độ gay gắt hơn, khó khăn hơn là điều không thể tránh khỏi. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nâng cao nhận thức của mình về các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại để tham gia một cách chủ động hơn và tích cực hơn nữa trong quá trình kháng kiện. Kinh nghiệm các vụ việc phòng vệ thương mại cho thấy những doanh nghiệp nào tích cực tham gia vào công tác kháng kiện một cách nghiêm túc, có trách nhiệm và hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra thì luôn đạt được kết quả khả quan cho doanh nghiệp mình, tiếp tục giữ được bạn hàng và thậm chí mở rộng được thị trường xuất khẩu nhờ những lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp mình có được thông qua việc tham gia xử lý các vụ việc điều tra chống bán phá giá. 90
  17. Sự đoàn kết và thống nhất tạo ra một chiến lược kháng kiện chung trong một vụ việc là rất quan trọng và có tính chất quyết định đến kết quả của vụ việc, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam (bao gồm cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ) dưới sự chủ trì của các Hiệp hội ngành hàng cần phải liên kết chặt chẽ và thống nhất với nhau trong việc xây dựng và triển khai chiến lược ứng phó với các vụ điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, như đóng góp tài chính, hỗ trợ nguồn nhân lực, chia sẻ thông tin, phối hợp với liên minh có cùng lợi ích với Việt Nam tại nước sở tại, triển khai công tác vận động hành lang, quan hệ công chúng để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cả ngành hàng xuất khẩu Việt Nam trong quá trình ứng phó. Mặt khác, nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ bị khởi kiện điều tra các vụ việc phòng vệ thương mại từ các nước khác, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, chuyển dần từ chiến lược cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương hiệu. Như chúng ta thấy phần lớn các sản phẩm bị điều tra thường rơi vào những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, sản xuất hàng loạt, sử dụng nhiều tài nguyên môi trường… với lượng giá trị gia tăng không cao. Do đó, doanh nghiệp cần tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển, mở rộng sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn bằng cách đầu tư công nghệ, thiết bị máy móc để nâng cao chất lượng và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu 91
  18. HIỆP ĐỊNH THỰC THI ĐIỀU VI CỦA HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI - GATT (1994) HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ (ADA) Các Thành viên dưới đây thoả thuận như sau: Phần I Điều 1 Các nguyên tắc Một biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng trong trường hợp được qui định tại Điều VI của GATT 1994 và phải tuân theo các thủ tục điều tra được bắt đầu[1] và tiến hành theo đúng các qui định của Hiệp định này. Các qui định sau đây điều tiết việc áp dụng Điều VI của GATT 1994 khi có một hành động được thực thi theo luật hoặc các qui định về chống bán phá giá. Điều 2 Xác định việc bán phá giá 2.1 Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. 92
  19. 2.2 Trong trường hợp không có các sản phẩm tương tự được bán trong nước theo các điều kiện thương mại thông thường tại thị trường nước xuất khẩu hoặc trong trường hợp việc bán trong nước đó không cho phép có được sự so sánh chính xác do điều kiện đặc biệt của thị trường đó hoặc do số lượng hàng bán tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu hàng hóa quá nhỏ[2], biên độ bán phá giá sẽ được xác định thông qua so sánh với mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ 3 thích hợp, với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hóa cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản lý, chi phí bán hàng, các chi phí chung và lợi nhuận. 2.2.1 Việc bán các sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu hoặc bán sang một nước thứ ba với giá thấp hơn chi phí sản xuất theo đơn vị sản phẩm (bao gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi) cộng với các chi phí quản trị, chi phí bán hàng và các chi phí chung có thể được coi là giá bán không theo các điều kiện thương mại thông thường về giá và có thể không được xem xét tới trong quá trình xác định giá trị thông thường của sản phẩm chỉ khi các cơ quan có thẩm quyền[3] quyết định rằng việc bán hàng đó được thực hiện trong một khoảng thời gian kéo dài[4] với một khối lượng đáng kể[5] và được bán với mức giá không đủ bù đắp chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Nếu như mức giá bán thấp hơn chi phí tại thời điểm bán hàng nhưng lại cao hơn mức chi phí bình quân gia quyền cho mỗi sản phẩm trong khoảng thời gian tiến hành điều tra thì mức giá đó được 93
  20. coi là đủ để bù đắp cho các chi phí trong một khoảng thời gian hợp lý. 2.2.1.1 Theo khoản 2 này, các chi phí được tính toán thông thường trên cơ sở sổ sách của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi tại nước xuất khẩu và phản ánh một cách hợp lý các chi phí đi kèm với việc sản xuất và bán hàng hóa đang được xem xét. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét tất cả các bằng chứng sẵn có về việc phân bổ chi phí, trong đó bao gồm cả các bằng chứng do nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất cung cấp trong quá trình điều tra với điều kiện là việc phân bổ trên thực tế đã được nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sử dụng trong quá khứ, đặc biệt là sử dụng trong việc xây dựng thời gian khấu hao thích hợp và hạn mức cho phép chi tiêu xây dựng cơ bản và các chi phí phát triển khác. Trừ khi đã được phản ánh trong sự phân bổ chi phí theo qui định tại mục này, các chi phí sẽ được điều chỉnh một cách thích hợp đối với các hạng mục chi phí không thường xuyên được sử dụng để làm lợi cho hoạt động sản xuất trong tương lai và/hoặc hiện tại, hoặc trong trường hợp các chi phí trong thời gian điều tra bị ảnh hưởng bởi các hoạt động khi bắt đầu sản xuất.[6] 2.2.2 Nhằm thực hiện khoản 2, tổng số tiền chi phí cho quản lý, bán hàng và các chi phí chung khác sẽ được xác định dựa trên các số liệu thực tế liên quan đến quá trình sản xuất và bán sản phẩm tương tự theo điều kiện thương mại thông thường của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất đang bị điều tra đó. Khi số tiền trên không thể xác định theo cách này thì số tiền đó được xác định trên cơ sở như sau: 94
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0