intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài kiểm tra giữa kỳ môn: Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Chia sẻ: Ngô Thị Tuyết | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:6

683
lượt xem
109
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân tích quá trình chuyển biến về đường lối cách mạng của Đảng từ năm 1930 đến năm 1941? Vì sao có sự chuyển biến đó, nhằm giúp các bạn giải đáp những câu hỏi trên, mời các bạn cùng tham khảo bài kiểm tra giữa kỳ môn "Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài kiểm tra giữa kỳ môn: Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Bài  kiểm  tra giữa  kỳ Môn:  Đường  lối cách  mạng  của Đảng  cộng sản  Việt Nam                                                               Họ và tên: Ngô Thị  Tuyết                                           Lớp: QH2013E TCNH                                                Mã sinh viên: 13050262                                       Hà Nội, tháng 10 năm 2015 Câu hỏi: Hãy phân tích quá trình chuyển biến về đường lối cách mạng của  Đảng từ năm 1930 đến năm 1941? Vì sao có sự chuyển biến đó? Bài làm I. Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939
  2. 1. Trong những năm 1930­1935 a. Bối cảnh lịch sử Tình hình quốc tế Những năm 1929­1933, các nước tư bản rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế thế  giới. Các nước đế quốc tăng cường vơ vét, bóc lột của nhân dân thuộc địa. Liên Xô giành thắng lợi trong công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ  nghĩa và  phát triển kinh tế nhanh, điều đó tác động tích cực tới Việt Nam. Tình hình trong nước Việc vơ vét, bóc lột dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân ta đã khiến cho   mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và   tay sai trở  nên gay  gắt. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh, đỉnh cao của   phong trào cách mạng 1930­1931 là phong trào Xô Viết Nghệ ­ Tĩnh. Tuy nhiên,   do đế quốc Pháp đàn áp dã man nên chúng ta đã bị tổn thất nặng nề. Song phong  trào cách mạng 1930­1931 đã để lại những thành quả vô cùng to lớn. b. Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng      Nhờ tinh thần và nghị lực phi thường được rèn luyện qua thực tế đấu tranh những  năm 1930­1931, Đảng cùng quần chúng cách mạng đã vượt qua khó khăn, từng bước   khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng.      Tháng 6­1932, Ban lãnh đạo Trung  ương đã công bố  chương trình hành động của   Đảng Cộng sản Đông Dương. Chương trình hành động đã đánh giá hai năm đấu tranh   của quần chúng công nông và khẳng định: Công nông Đông Dương dưới sự lãnh đạo  của Đảng sẽ  nổi lên võ trang bạo động thực hiện nhiệm vụ  chống đế  quốc, chống  phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Để chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo  động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành những quyền   lợi thiết thực hàng ngày, rồi mới tiến lên đấu tranh cho những yêu cầu chính trị  cao   hơn. Thứ nhất, đòi quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra  nước ngoài. Thứ hai, bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho   tù chính trị, bỏ  ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề  hình.  Thứ  ba, bỏ  thuế  thân, thuế  ngụ  cư  và các thứ  thuế  vô lý khác.  Thứ  tư, bỏ  các độc quyền về  rượu,  thuốc phiện và muối. Ngoài ra, Chương trình hành động còn đề  ra những yêu cầu cụ  thể  cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân, dẫn dắt quần chúng đấu tranh chuẩn bị  cho khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều kiện.    Tháng 3­1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao ( Trung Quốc)   đã khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ 
  3. thống tổ  chức Đảng. Đại hội đề  ra ba nhiệm vụ  trước mắt là: củng cố  phát triển   Đảng; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng; mở  rộng tuyên truyền chống  đế quốc và chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc… 2. Trong những năm 1936­1939 a. Bối cảnh lịch sử Tình hình thế giới Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929­1933 đã khiến cho mâu thuẫn nội tại giữa chủ  nghĩa tư bản với phong trào cách mạng của quần chúng ngày càng dâng cao. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa  bình và an ninh quốc tế. Tại đại hội lần thứ  VII của Quốc tế Cộng sản đã xác định kẻ  thù nguy hiểm   trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế  giới lúc này là chủ  nghĩa phát xít. Vì vậy đại hội cũng vạch ra nhiệm vụ trước mắt lúc này là đấu   tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình. Tình hình trong nước Bọn phản động  ở  Đông Dương ra sức vơ  vét, bóc lột nhân dân để  phục vụ  chiến tranh,bóp nghẹt mọi quyền tự  do,dân chủ  và thi hành chính sách khủng  bố, đàn áp. Trước tình hình đó, mọi giai cấp tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau nhưng   đều căm thù bọn thực dân, tư  bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng  chung là đấu tranh giành quyền sống, quyền tự  do, dân chủ  , cơm áo và hòa  bình. Hệ  thống tổ  chức Đảng và cơ  sở  cách mạng của quần chúng đã được khôi   phục. b. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng     Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và thế giới cùng với chủ trương  chuyển hướng chiến lược của Quốc tế Cộng sản, Ban chấp hành Trung  ương Đảng  Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ hai (tháng 7­1936), lần thứ  ba (tháng   3­1937), lần thứ tư (tháng 9­1937), lần thứ năm (tháng 3­1938)…đề ra chủ trương mới  về  đường lối chính trị, tổ  chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình  ở  nước ta.    Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh : Yêu cầu cấp thiết của nhân dân  lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm những yêu cầu  này để phát động quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao   hơn.
  4.    Về kẻ thù của cách mạng: cần tập trung đánh đổ bọn phản động thuộc địa và tay sai.    Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc,  chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.      Về  đoàn kết quốc tế: để  thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ  của cách mạng thì không   những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, “Ủng   hộ  Mặt trận nhân dân Pháp” mà còn phải đề  ra khẩu hiệu “Ủng hộ  Chính Phủ  Mặt  trận nhân dân Pháp” để cùng chống lại bọn phát xít ở Pháp và bọn phản động ở Đông   Dương.    Về  hình thức tổ  chức và biện pháp đấu tranh: chuyển từ  hình thức tổ  chức bí mật  không hợp pháp sang đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp nửa hợp pháp   nhưng vẫn phải giữ  vững nguyên tắc củng cố,tăng cường tổ  chức và hoạt động bí  mật của Đảng.      Nhận thức mới của Đảng về  mối quan hệ  giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ:  Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10­1936, Đảng đã  nêu ra một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt   với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần   phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề  điền địa thì cần phải  đánh đổ  đế  quốc. Lý thuyết  ấy có chỗ  không xác đáng”. Theo đó, tùy thuộc vào tình   hình cần phải xác định vấn đề nào quan trọng hơn thì phải giải quyết trước. II. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1941 1. Bối cảnh lịch sử Tình hình thế giới Ngày 1­9­1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên  chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 6­1940, Đức tấn công Pháp, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22­6­1941, Đức tấn công Liên Xô. Tính chất chiến tranh đế  quốc chuyển  thành chiến tranh giữa lực lượng dân chủ với lực lượng phát xít. Tình hình trong nước:  Chiến tranh thế  giới thứ  hai đã  ảnh hưởng mạnh mẽ  và trực  tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28­9­1939, Toàn quyền Đông Dương ra quyết đinh cấm tuyên truyền cộng  sản, tàng trữ, lưu hành, đặt Đảng cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp  luật. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936­1939 bị thủ tiêu.  Chúng ban lệnh tổng  động viên, thực hiện chính sách kinh tế  chỉ  huy, tăng  cường vơ vét sức người sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc.
  5. Ngày 22­9­1940, phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ  bộ  vào Hải Phòng.   Ngày 23­9­1940, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó nhân dân ta chịu cảnh  một cổ hai tròng áp bức , bóc lột của Pháp­Nhật. 2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng     Từ  khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung  ương Đảng đã  họp Hội nghị lần thứ sáu (11­1939), làn thứ  bảy (11­1940), lần thứ tám (5­1941). Trên   cơ sở nhận định khả năng diễn biến của chiến tranh và căn cứ vào tình hình cụ thể ở  nước ta, ban Chấp hành Trung  ương Đảng quyết định chuyển hướng chỉ  đạo chiến   lược như sau:    Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.     Mâu thuẫn chủ  yếu  ở nước ta là giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế  quốc, phát xít   Pháp­Nhật cần phải được giải quyết cấp bách, phải giải phóng dân tộc để đòi lại độc  lập tự do do cho đồng bào ta. Tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho  dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế  quốc và Việt gian cho  dân cày nghèo”, “chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”…      Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để  đoàn kết, tập hợp lực lượng   cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.      Mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận thống nh ất dân tộc phản đế  Đông Dương,  đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc để vận động, thu hút mọi người dân yêu   nước đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.     Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị  khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ  trung tâm của  Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại.     Phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị và vũ trang,  xây dựng căn cứ địa cách mạng. Duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và thành lập các  đội du kích hoạt động phân tán, vừa chiến đấu chống địch vừa bảo vệ  nhân dân vừa  phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ  lấy vùng Bắc Sơn­Vũ Nhai  làm trung tâm. Phương châm và hình thức khởi nghĩa: chuẩn bị lực lượng khi có cơ hội  thuận tiện có thể  khởi nghĩa từng phần theo từng địa phương mở  đường cho cuộc  tổng khỏi nghĩa. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực và sức  chiến đấu của Đảng. 3. Nguyên nhân chuyển hướng chỉ đạo của Đảng    Trước tình hình trong nước và trên thế giới, Đảng đã phân tích một cách sâu sắc về  tính chất, hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới; vai trò, vị trí của Đông Dương trong  cuộc chiến tranh đó; bản chất sâu xa trong các chính sách phản động của thực dân  Pháp và thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội Việt Nam trước biến động của  
  6. thời cuộc. Những nhận định và phân tích tình hình đó là cơ sở cho việc định ra phương   hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân đi tới giải phóng dân tộc, giành chính   quyền về tay nhân dân. 4. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược    Ban Chấp hành Trung ương hoàn thành sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm   giải quyết mục tiêu số  một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề  ra nhiều chủ  trương đúng đắn để  thực hiện mục tiêu  ấy. Tập hợp rộng rãi mọi người dân yêu  nước, xây dựng lực lượng chính trị  của quần chúng, xây dựng căn cứ  địa cách mạng  và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân tiến lên thực hiện thắng lợi  cách mạng. Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các   cấp bộ  đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ  chức cứu quốc của  quần chúng, phát triển lực lượng chính trị  và phong trào đấu tranh. Sau khi Mặt trận   Việt Minh ra đời đã công bố  10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nên được nhân   dân nhiệt liệt hưởng  ứng. Lực lượng chính trị  quần chúng ngày càng đông đảo và   được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp­Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt   Minh. Công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi trên khắp cả  nước,  thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng đấu tranh giành chính quyền. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0