
Tiểu luận
Lãi suất và vấn đề quản trị rủi ro lãi suất

LỜI M Ở ĐẦU
Rủi ro là khái niệm gắn liền với hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
không thể tách rời rủi ro ra khỏi hoạt động của ngân hàng. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc mọi nghiệp vụ của ngân hàng đều có khả năng xảy ra rủi ro. Quản
trị rủi ro tốt sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động tốt hơn. Hiểu rõ điều đó, trong
những năm gần đây, các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã bắt tay vào công
việc thúc đẩy hoạt động quản trị rủi ro nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thị trường tiền tệ. Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển, nhiều biến động không
lường trước, đặc biệt là biến động lãi suất. Biến động lãi suất ảnh hưởng trực tiếp
tới nguồn vốn cũng như lợi nhuận của ngân hàng, do đó các ngân hàng ở
Việt Nam coi việc quản trị rủi ro lãi suất như một mục tiêu cần đạt được
trong tương lai gần. Đề tài “Lãi suất và vấn đề quản trị rủi ro lãi suất” nhóm
nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá tình hình thực tế rủi ro lãi suất tại một số
Ngân hàng Thương Mại hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp và công cụ để lượng
hóa rủi ro lãi suất, phương pháp nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất, với mục đích
hỗ trợ ngân hàng quản lý rủi ro lãi suất một cách hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Rủi ro lãi suất trong ngân hàng là một phạm trù rất lớn, đòi hỏi nghiên cứu
chuyên sâu và công nghệ phù hợp, đồng thời cần kiến thức rộng về công tác quản
lý rủi ro nói chung trong lĩnh vực ngân hàng.

Chương I: Cơ sở lý thuyết.
1.1. Lãi suất.
1.1.1. Khái niệm lãi suất.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, lãi suất hiểu theo nghĩa
chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay
trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho
vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng
thời gian nhất định. Hoặc, lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng
tiền không thuộcquyền sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được từ việc
trì hoãn chi tiêu. Như vậy, lãi suất được biểu hiện bằng quan hệ giữa tỷ lệ lợi tức
tín dụng và tổngsố tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định, trong đó lợi
tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được từ việc trả tiền cho việc sử
dụng tiền vay của người đivay.
1.1.2. Các loại lãi suất.
Trên thị trường tồn tại rất nhiều loại lãi suất, tùy theo nguồn gốc và mục
đích sửdụng thì có những loại lãi suất khác nhau.
- Phân loại theo nghiệp vụ ngân hàng:
+ Lãi suất huy động: là lãi suất phát sinh khi các ngân hàng thương
mạithực hiện các nghiệp vụ huy động vốn.
+ Lãi suất cho vay: là loại lãi suất phát sinh khi các ngân hàng thươngmại
thực hiện các nghiệp vụ cho vay vốn.
- Phân loại theo phương thức tính lãi:
+ Lãi suất cố định: là loại lãi suất được xác định bằng một tỷ lệ cố
địnhtrong suốt thời gian hợp đồng
+ Lãi suất thả nổi: là loại lãi suất thay đổi theo lãi suất thị trường.- Phân

loại theo nội dung kinh tế:
+ Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho một kỳ hạn
gửihoặc cho vay được thể hiện trên hợp đồng tín dụng (không tính đến biến
độnggiá trị tiền tệ). Lãi suất danh nghĩa còn được hiểu là lãi suất được công bố
đốivới một khoản vay (khoản đầu tư).
+ Lãi suất thực: là loại lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của tiền
tệ,như lạm phát. Lãi suất thực là lãi suất thực tế thu được từ khoản đầu tư hoặc
lãisuất thực tế phải trả cho khoản vay đó.
Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực thường được biểu
hiện bằng công thức:(1+r) (1+i) = 1+R Trong đó, r là lãi suất thực.i là tỷ lệ lạm
phát.R là lãi suất danh nghĩa.
- Phân loại theo tính sinh lợi của cộng đồng vốn:
+ Lãi đơn: là lãi suất được xác định dựa trên vốn gốc ban đầu mà
khôngtính đến tiền lãi tích lũy các kỳ trước đó. Lãi đơn thường là lãi suất danh
nghĩa.
+ Lãi kép: là lãi suất được hình thành bởi việc ghép lãi đơn trong kỳ
vàovốn để tính lãi kỳ tiếp sau đó. Lãi kép còn được gọi là lãi nhập gốc.
- Ngoài ra, còn có các loại lãi suất như:
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do Ngân hàng trung ương công bố, làm cơ
sở cho các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh.Ở Việt Nam, lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhàn
ước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà
nướccông bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi
suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi
suấtnghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà nước, lãi suất huy động đầu vào
củatổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung – cầu vốn. Theo Luật Dân sự,

các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp 1,5 lần lãi suất cơ
bản.
+ Lãi suất sàn và lãi suất trần: là lãi suất thấp nhất và cao nhất trong
mộtkhung lãi suất nào đó mà Ngân hàng trung ương ấn định cho các Ngân
hàngthương mại hoặc do các Ngân hàng thương mại quy định trong nội bộ hệ
thống,nhằm thống nhất các hoạt động tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế.
+ Lãi suất tái cấp vốn: theo điều 9 của Luật Ngân hàng Nhà nước, tái
cấpvốn là hình thức Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng có bảo đảm cho các
Ngânhàng thương mại nhằm cung ứng vốn ngắn hạn. Như vậy, lãi suất tái cấp
vốn làlãi suất được sử dụng trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn
cho các Ngân hàng.
+ Lãi suất chiết khấu: là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước đánh vào
cáckhoản tiền cho các Ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt
ngắnhạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất tái chiết khấu
làmột trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền.
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng: là lãi suất vay vốn giữa các
Ngânhàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng.
1.1.3. Các loại lãi suất tham chiếu ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, các ngân hàng thường căn cứ trên các lãi suất tham chiếu
nhưLIBOR, SIBOR, EUIBOR hay VNIBOR cộng với mức lãi suất biên đối với
các hoạtđộng cho vay VND và ngoại tệ trong các hợp đồng tín dụng ngắn hạn,
các hợp đồng kỳhạn, hoán đổi hay quyền chọn…
1.1.3.1. Lãi suất LIBOR
LIBOR là từ viết tắt của London Interbank Offered Rate, là loại lãi suất mà
các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng Anh
Quốc. LIBOR được cố định hàng ngày bởi hiệp hội các ngân hàng Anh Quốc căn
cứ trên mức lãi suất trung bình đối với các khoản tín dụng với thời gian đáo hạn

