YOMEDIA
ADSENSE
Bài thảo luận nhóm: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với mâu thuẫn của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay
430
lượt xem 76
download
lượt xem 76
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài thảo luận nhóm đề tài Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với mâu thuẫn của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay được nghiên cứu với các nội dung: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, quy luật mâu thuẫn với hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài thảo luận nhóm: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với mâu thuẫn của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay
- NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM HỌC VIỆN NGÂN HÀNG BÀI THẢO LUẬN Đề tài: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VỚI MÂU THUẪN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM HIỆN NAY LỚP : 18.01.NHA NHÓM : 7 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN THU HƯỜNG 1
- Hà Nội, 92016 DANH SÁCH NHÓM 7 Họ và tên Mã số sinh viên Lê Thị Thanh Hà 18K401013 Trương Đức Thái 18K401044 Nguyễn Khắc Lân 18K401026 Lê Việt Hùng 18K401020 Tạ Thị Phương 18K401038 Nguyễn Thị Hòa 18K401017 2
- MỤC LỤC 3
- I. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập 1. Quan điểm của chủ nhĩa duy vật về mâu thuẫn Nhận thức duy vật biện chứng về mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác là nhận thức đúng đắn nhất, nó đã phát triển thành một quy luật Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt các mặt đối lập. quy luật thống nhất và đâu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân” của phép biện chứng. Theo V.I.Lenin, “ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó còn đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đôi lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động. phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượngtrong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong.Mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ ràng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Không có sự vật hay hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng lại không có mấu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại hình thành. Theo Ph.Ăngghen,ngay hình thức đơn giản nhất của vật chất vận động cơ học, đã là một mâu thuẫn. Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này, lại vừa ở nơi khác, vừa là ở trong một chỗ duy nhất, lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất ở những hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn. Trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thức vô tận ở bên 4
- trong con người với sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp giữa các thê hệ, sự nối tiếp đó rút ra với chúng ta, thực tế cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân biệt rằng bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. trong cùng một thời điểm, mỗi sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ phủ định và chuyển hóa lẫn nhau ( sự chuyển hóa này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật), có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn thống nhất, được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định ràng buộc lân nhau, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tôn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riên g có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ: Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho sự tổn tại của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế khác nhau hoàn toàn về bản chất và những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó có sự thống nhất này nên nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tổn tại với ý nghĩa là chính nó. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hóa giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hóa, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. 5
- Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản. Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến hành độc lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hóa tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Vì vậy, Lênin khẳng đỊnh"sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập". Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng:"Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó như có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tổn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chất". 2. Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển Không phải mọi sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết dãn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong 6
- xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hóa theo hai phương thức: Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn. Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ các mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc t ính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, ph ổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trinh phát triển. II. Quy luật mâu thuẫn với hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại 1. Khái quát tình hình hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam hiện nay Sau 9 năm Việt Nam là thành viên của WTO, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu bước đầu. Môi trường và thể chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam 7
- (NHVN) có những chuyển biến tích cực với những thành công đáng ghi nhận về khung điều tiết; quản trị nội bộ; tổ chức bộ máy, chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Song đi sâu vào quá trình phát triển này cho thấy những bất cập chưa có tiền lệ nảy sinh, hệ thống NHVN dễ bị tổn thương trước các biến động của môi trường bên trong và bên ngoài. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy hội nhập WTO là động lực hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế, của ngân hàng nếu biết tận dụng có hiệu quả cơ hội và điều chỉnh chính sách cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Sau khi là thành viên WTO, việc thực hiện các cam kết về tài chính – ngân hàng, cùng với quá trình tái cấu trúc đã có tác động rất mạnh đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam như sau: Ngân hàng Việt Nam vẫn là một kênh đáp ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đóng góp không nhỏ vào mức tăng GDP hàng năm. Khi tham gia sâu vào hội nhập, cạnh tranh đã thực sự là động lực to lớn cho cải cách, đổi mới mạnh mẽ trong hoạt động ngân hàng. Chính sự cạnh tranh này đã tác động đến quản trị nội bộ và văn hóa rủi ro của ngân hàng theo hướng minh bạch hơn, tin cậy hơn, đặc biệt khi 03 ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước(Vietinbank, Vietcombank, BIDV) thực hiện cổ phần hóa, chuyển sang hoạt động theo mô hình cổ phần (CP). Việc nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu, duy trì hệ số an toàn vốn tối thiểu, đầu tư công nghệ, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, mở các chi nhánh ở nước ngoài... để phục vụ tốt hơn, hiệu quả hơn khách hàng cả trong và ngoài nước đều được các NHTM quan tâm và thực hiện bằng những biện pháp khác nhau. Các NHTM CP cũng có sự bứt phá trong việc tăng năng lực tài chính thông qua việc góp vốn của các cổ đông chiến lược trong, ngoài nước. Trước hội nhập, chỉ có 6 NHTM CP có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia, nhưng sau 6 năm hội nhập, đã có thêm 17 NHTM có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn. Một số NHTM có số vốn góp của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chiếm tới 20 30% như VietinBank,VCB,Techcombank… Số lượng các ngân hàng giảm đi, quy mô của một số ngân hàng tăng lên, thanh khoản đảm bảo, uy tín được cải thiện. Sau gần 3 năm thực hiện, một số các NHTM yếu 8
- kém đã được sáp nhập với nhau, hoặc sáp nhập vào các NHTM lớn; một số NHTM hoạt động yếu kém, nợ khách hàng lớn hơn nhiều lần vốn chủ sở hữu, NHNN đã mua với giá 0 VND (như Oceanbank, GPBank, VNBC), chuyển sang mô hình Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sau đó giao cho Vietcombank và Vietinbank quản lý, điều hành. Theo báo cáo, khu vực ngân hàng ổn định, tín dụng tăng khá, cơ cấu tín dụng chuyển động theo hướng tích cực. Cả năm 2015, tín dụng tăng 18% (nếu tính cả TPDN thì tăng trưởng tín dụng ở mức 19,3%), cao hơn nhiều so với kế hoạch đầu năm (13% 15%).Trong đó tín dụng trung và dài hạn tăng 31,4%, cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng ngắn hạn (7%). Trong bối cảnh khu vực doanh nghiệp tái cấu trúc mạnh mẽ sau giai đoạn khủng hoảng, cầu đối với nguồn vốn trung và dài hạn tăng cao để đáp ứng yêu cầu đầu tư dài hạn và đổi mới công nghệ. Chính sách lãi suất chênh lệch giữa đồng USD và VND đã phát huy tác dụng, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cả năm giảm ()12,9% so với cùng kỳ 2014. Thanh khoản hệ thống ngân hàng tốt, hiệu quả kinh doanh phục hồi nhẹ. Tỷ lệ LDR của toàn hệ thống ở mức 80,9% (mức an toàn cao về thanh khoản). Thanh khoản đối với VND và ngoại tệ lần lượt ở mức 83,5% và 64,1%, ở giới hạn an toàn thanh khoản. Hiệu quả kinh doanh tuy còn thấp (do trích lập DPRR) nhưng đã phục hồi nhẹ so với năm 2014. 2. Những biểu hiện mâu thuẫn trong hệ thống ngân hàng Mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Xung quanh chúng ta, môi trường làm việc của chúng ta cũng không nằm ngoại lệ. Mâu thuẫn trong hoạt động Ngân hàng rất nhiều, nhưng ở đây Tôi xin phân tích một số mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Một quá trình sản xuất kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng trong nó rất nhiều mâu thuẫn như; mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mâu thuẫn giữa cung và cầu về sản phẩm, mâu thuẫn giữa chủ quản lý với người lao động, mâu thuẫn giữa tính kế hoạch trong xí nghiệp với tính tự phát của cơ chế thị trường, mâu thuẫn giữa sức phát triển nhanh của công cụ sản xuất và công nghệ tiên tiến với sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên liệu của sản xuất, mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro.... 9
- 2.1 Mâu thuẫn giữa rủi ro và lợi nhuận Chúng ta đã biết hoạt động chính của ngân hàng là nhận gửi và cho vay với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro là một mâu thuẫn biện chứng, là hai mặt của một vấn đề. Bất cứ quá trình sản xuất, kinh doanh nào cũng vậy, lợi nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với nhau, mâu thuẫn với nhau. Kết thúc một quá trình sản xuất, kinh doanh chúng ta có thể thu được lợi nhuận nhưng có khi là gặp phải rủi ro. Lợi nhuận dự kiến mang lại càng cao thì độ rủi ro nếu gặp phải cũng sẽ rất lớn và ngược lại. Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng vẫn là gánh nặng lớn, làm bốc hơi hàng ngàn tỷ đồng lợi nhuận của các nhà băng trong quý 2/2016 (Nguồn: http://touch.vietstock.vn/2016/08/loinhuannganhangquy22016tieptucboc hoitruocganhnangduphong757488980.htm). Nổi bật nhất là trường hợp của Sacombank, lãi ròng hợp nhất thu về trong quý 2 chỉ đạt 147 tỷ đồng, giảm 73% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù lãi thuần từ hầu hết các hoạt động dịch vụ, kinh doanh và đầu tư đều tăng trưởng tốt, nhưng thu nhập lãi thuần giảm 18% và chi phí hoạt động tăng 8% đã kéo lợi nhuận thuần trước dự phòng rủi ro giảm 22% xuống 846 tỷ đồng. Thêm vào đó, chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh hơn 86% lên 682 tỷ đồng đã khiến lợi nhuận sau thuế của ngân hàng này “bốc hơi” đáng 10
- kể, chỉ còn 147 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm, lãi ròng của Sacombank giảm 74% xuống chỉ còn 309 tỷ đồng. Một trường hợp khác, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trước trích lập dự phòng của Ngân hàng SCB trong quý 2 đạt hơn 1,120 tỷ đồng, gấp 3 lần cùng kỳ nhờ sự tăng trưởng tốt trong lãi thuần và cắt giảm chi phí hoạt động. Tuy nhiên, khoản chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng đột biến từ 420 tỷ lên 1,038 tỷ đồng đã khiến lợi nhuận của ngân hàng “không cánh mà bay”. Tính trong quý 2, SCB chỉ thu về vỏn vẹn gần 67 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế (cùng kỳ năm trước lỗ 7.7 tỷ đồng). Ngược lại, lợi nhuận thuần trước dự phòng rủi ro của Vietcombank trong quý 2 tuy chỉ xấp xỉ cùng kỳ năm trước, nhưng nhờ chi phí dự phòng rủi ro giảm gần 130 tỷ đồng xuống 1,700 tỷ đồng (chiếm 46% lợi nhuận trước dự phòng) đã giúp lợi nhuận ròng cải thiện, tăng 19% và ghi nhận 1,576 tỷ đồng. Riêng với BIDV, mặc dù lợi nhuận sau thuế quý 2/2016 tăng 58% lên 975 tỷ đồng, nhưng hiện Ngân hàng này đang có mức trích lập dự phòng rủi ro cao nhất, gần 2,536 tỷ đồng (tương đương 67% lợi nhuận trước dự phòng), bỏ khá xa so với Vietcombank và VietinBank. Đáng lưu ý, tổng giá trị nợ xấu của BIDV tại thời điểm kết thúc quý 2/2016 tăng hơn 3,000 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó nợ nhóm 4 tăng đột biến từ gần 888 tỷ đầu năm lên hơn 2,326 tỷ đồng./. Do đó có thể nói mâu thuẫn giữa lợi nhuận vả rủi ro là một trong những mâu thuẫn cơ bản không chỉ của các Ngân hàng mà còn của những tất cả các doanh nghiệp nói chung. Đồng thời, rủi ro và lợi nhuận là động lực để các doanh nghiệp ngày một phát triển về trình độ quản lý doanh nghiệp. 2.2 Mâu thuẫn giữa cung và cầu (giữa Ngân hàng và Khách hàng vay) Một mâu thuẫn khác có thể nói đến trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại đó là mối liên hệ biện chứng giữa những người có nhu cầu vay vốn và bên cấp vốn. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp thì vốn là điều không thể thiếu. Và nếu thiếu, thì chỉ có một cách là đi vay. Tuy nhiên, những doanh nghiệp, những cá nhân này có đủ điều kiện vay vốn hay không? Điều này lại phụ thuộc hoàn toàn vào việc thẩm định tín dụng của Ngân hàng. 11
- Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không đáp ứng được đủ những yêu cầu từ phía Ngân hàng. Những thủ tục hành chính rườm rà chỉ là một phần nhỏ, và điều đáng chú ý ở đây, có thể thấy là do các Ngân hàng đòi hỏi về sự an toàn, lành mạnh tài chính ở doanh nghiệp. Một doanh nghiệp để có thể đáp ứng hồ sơ vay vốn, họ cần một báo cáo tài chính lành mạnh, trong sạch trong ít nhất là 02 năm gần nhất. Cùng với đó là những tài sản bảo đảm có giá trị lớn hơn giá trị của khoản vay. Và rất nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu tối thiểu từ phía Ngân hàng. Mặt khác, về phía các Ngân hàng Thương mại, các Ngân hàng cũng không thể cho vay dưới chuẩn. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn ở đây đó là người cần vốn thì không đáp ứng được yêu cầu vay vốn, người cho vay, tức là các Ngân hàng Thương mại lại không thể ôm rủi ro để cho vay dưới chuẩn với những doanh nghiệp này. 2.3 Mâu thuẫn trong sự hình thành và phá sảncủa các Ngân hàng Thương mại Thập kỷ trước có lẽ được gọi là thập kỷ cho sự bùng nổ và phát triển hệ thống Ngân hàng. Hàng loạt các Ngân hàng được thành lập và hoạt động tín dụng đã tạo nên một hệ thống tài chính phức tạp, đan xen nhau giữa các trung gian tài chính. Nhiều Ngân hàng mới được thành lập theo mô hình Ngân hàng cổ phần (trong đó nhiều ngân hàng nông thôn quy mô nhỏ được cổ phần hóa). Chính sự “bùng nổ” hoạt động cả về quy mô và mức độ đa dạng của hệ thống ngân hàng trong thời gian trước đây, cùng hạn chế trong quản lý của từng Ngân hàng, kiểm soát của NHNN đã tiềm ẩn những rủi ro và nguy cơ lớn tác động trực tiếp đến sự an toàn và lành mạnh của hệ thống NHTM. T rong đó, phải kể đến 3 vấn đề nổi bật: chất lượng tài sản kém, thanh khoản khó khăn và quy mô vốn tự có nhỏ. Vấn đề đầu tiên của hệ thống ngân hàng là chất lượng tài sản kém, thể hiện ở tỷ lệ dư nợ phi sản xuất cao và tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Chạy đua tăng lãi suất, cùng với việc cho vay dưới chuẩn là nguyên nhân khiến nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Thương mại có xu hướng tăng cao(Oceanbank âm vốn chủ sở hữu 6.000 tỷ đồng, VNCB âm vốn chủ sở hữu 9.000 tỷ đồng). Các Ngân hàng cổ phần hóa hoạt động theo nguyên tắc thị trường phải cho phá sản nếu kinh doanh thua lỗ, tuy 12
- nhiên hiện nay tại Việt Nam vẫn còn tư duy”Ngân hàng không thể đổ vỡ” vì lo ngại tiêu cực đến cả hệ thống Ngân hàng, đến quyền lợi của Người gửi tiền. Thứ hai, những khó khăn về thanh khoản đang khiến nhiều ngân hàng điêu đứng. Những khó khăn này đã được thể hiện rất rõ ở những cuộc đua lãi suất trên cả thị trường 1(từ tổ chức kinh tế và cá nhân) và thị trường liên ngân hàng (LNH).Nhắc lại thời kỳ 2009 – 2011, huy động TT1 trở nên rất khó khăn, đến mức người gửi tiết kiệm có thể mặc cả lãi suất với ngân hàng trong suốt quý 3/2011. Trong giai đoạn này, có những lúc, lãi suất huy động từ dân cư lên tới 20%, áp dụng cho khoản tiết kiệm tối thiểu 100 triệu đồng trong thời hạn 1 tháng. Chi phí huy động tăng quá cao làm tăng lãi suất cho vay, vượt quá khả năng sinh lời của các Doanh nghiệp để bù đắp chi phí đi vay, dẫn đến nợ xấu tăng cao. Chỉ cho đến khi NHNN tuýt còi, việc huy động vượt trần lãi suất mới tạm dừng và lắng xuống.Sự thiếu thanh khoản trầm trọng đã buộc một số ngân hàng phụ thuộc cao vào thị trường LNH, đến mức lãi suất LNH qua đêm đã bị đẩy lên tới hơn 20% trong khoảng thời gian đầu tháng 10/2011. Một số ngân hàng cá biệt gặp vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản đã chấp nhận trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn nhằm huy động vốn bằng mọi giá! Thứ ba, thiếu vốn tự có. Theo số liệu thống kê của chúng tôi, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR của các ngân hàng TM trong nước ở mức khá ổn, trên 9%. Tuy nhiên, mức độ cụ thể lại rất khác nhau giữa các ngân hàng. Một nghịch lý là các ngân hàng có quy mô vốn điều lệ càng lớn thì lại có CAR càng nhỏ. Theo số liệu ước tính, CAR của nhóm các NHTM Nhà nước chỉ ở mức 6,9% trong khi CAR của nhóm các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ (3.000 tỷ đồng) lại ở mức 26,5%. Thêm vào đó, nếu phân loại nợ xấu theo đúng chuẩn quốc tế và thực hiện trích lập dự phòng đầy đủ trên số nợ xấu này, tỷ lệ CAR sẽ còn thấp hơn. (Do dự phòng tăng làm giảm lợi nhuận luỹ kế, dẫn tới giảm vốn tự có (VTC) và giảm CAR. CAR được tính bằng VTC/Tổng tài sản có rủi ro). Trong đó, VĐL chiếm tới 84% vốn tự có, tuy nhiên tính đến thời điểm này, vẫn còn những ngân hàng có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng. Hiện tại, NHNN đang dự thảo nghị định buộc các ngân hàng có vốn tối thiểu 5.000 tỷ vào năm 2012 và 10.000 tỷ đồng vào năm 2015. Nếu quy định này được ban hành, chắc chắn nhiều ngân hàng khó có thể đáp ứng được. 13
- Từ những mâu thuẫn trên, điều mà hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam buộc phải làm đó là cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng và hệ thống tài chính của mình nhằm ngăn chặn rủi ro khi sự đổ vỡ của tổ chức tài chính này sẽ kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống. Hoạt động ngân hàng tự nó đã chứa đựng rất nhiều rủi ro và khi những rủi ro đó tích tụ, trở nên quá lớn do tác động của các yếu tố bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường chứng khoán hay/và thị trường bất động sản lao dốc hay do các yếu tố bên trong như quản trị rủi ro bất cập, quy trình tín dụng không hoàn chỉnh, đầu tư mạo hiểm, trình độ năng lực và đạo đức của đội ngũ không đáp ứng yêu cầu,… thì ngân hàng sẽ không thể tránh khỏi đổ vỡ nếu không được cơ cấu lại, cả cơ cấu lại từng ngân hàng, cũng như cơ cấu lại cả hệ thống ngân hàng. 2.4 Sở hữu chéo phức tạp Mức độ sở hữu chéo cao giữa các ngân hàng và giữa các ngân hàng với DN. Cơ cấu cổ đông phức tạp gây ra quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và hoạt động cho vay bên có quan hệ/liên quan, nhằm tài trợ cho các dự án thiếu minh bạch. Cơ cấu này cũng dẫn đến tình trạng phóng đại vốn do cho vay mua cổ phần lẫn nhau và đã tạo điều kiện lách các quy định an toàn. Việc cho các Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn quản lý, điều hành Ngân hàng cổ phần để tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu vốn của thị trường. Tuy nhiên, các cổ đông tham gia góp vốn xảy ra tình trạng thiếu năng lực quản lý, thiếu đạo đức kinh doanh ảnh hưởng tiêu cực đến cả hệ thống tài chính các năm vừa qua. 14
- (Theo:http://t aichinhplus.vn/TIENTE/Nganhang/Thamnhapmatransohuucheotronglinhvuc 15
- nganhangpost153141.html) Tháng 07/2015 Những đặc điểm này khiến ngành ngân hàng dù phát triển mạnh trong những năm qua, nhưng đồng thời cũng gặp nhiều biến động mạnh. Kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng xấu đi trong những năm gần đây và có thể còn kém hơn so với báo cáo. Chất lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường chính xác hầu hết các chỉ số hiệu quả hoạt động như ROA, NPL và các hệ số vốn. Hệ thống ngân hàng đã tích tụ một khoản nợ xấu lớn (NPL). Nhiều ngân hàng nhỏ có vấn đề về thanh khoản và khả năng thanh toán ở mức độ nghiêm trọng, khiến NHNN phải can thiệp. Năng lực cho vay của hệ thống ngân hàng giảm là một trong những yếu tố khiến tăng trưởng tín dụng giảm mạnh. 3. Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam sau khi có sự chuyển hóa của các mặt đối lập Trong hoạt động ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng là số chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức phải trả trừ đi các chi phí nghiệp vụ ngân hàng số còn lại gọi là lợi nhuận. Ngân hàng thu hút vốn trong dân cư dưới các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư, cung cấp dịch vụ thanh toán... Rồi dùng vốn huy động đó để cho vay và hưởng chênh lệch lợi tức. Trong quá trình cho vay đó, ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận sau khi đã trừ đi lợi tức phải trả khi vay, hoặc ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro nếu khách hàng không có khả năng thanh toán bởi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ rủi ro, thất bại nên mất khả năng thanh toán. Làm thế nào để hạn chế rủi ro và đối đa lợi nhuận chính là cách thức để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro. Giảm rủi ro không phải là ngân hàng sẽ không cho vay đối với những khách hàng lớn, vay tiền nhiều mà hoạt động kinh doanh của họ tuy mang lại lợi nhuận cao nhưng độ rủi ro lớn. Mà thay vào đó ngân hàng phải tự đổi mới, tự phát triển mình, thông qua việc hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ tín dụng, đào tạo ra đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao, năng động và nhanh nhạy với cơ chế thị trường. Hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng, thẩm định dự án trước trong và sau khi cho vay. Trước khi cho vay thì tiến hành thẩm định dự án một cách cẩn thẩn, trong và sau khi cho vay phải thường xuyên tcử cán bộ tín dụng trực tiếp xuống cơ sở để giám sát quá trình sản xuất kinh 16
- doanh của khách hàng, xem họ sử dụng tiền vay có đúng mục đích như cam kết khi vay không…Làm tốt các công việc trên, ngân hàng sẽ khắc phục và hạn chế được rủi ro, nhờ đó mà tăng được lợi nhuận cho ngân hàng, cũng có nghĩa là giải quyết tốt được mâu thuẫn giữa lợi nhuận và rủi ro, (mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở méc phát triển hơn) đó la làm cho ngân hàng ngày một phát triển, điều này phù hợp với quy luật khách quan đó là; mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển. Thực hiện sáp nhập bắt buộc các TCTD yếu kém, hoặc cho phá sản (sau khi xây dựng được hệ thống bảo hiểm tiền gửi phát triển để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, hệ thống phát luật, kiểm soát hoàn thiện hơn), buộc giảm, rút vốn cổ phần tại các TCTD để khắc phục tình trạng chi phối, sở hữu chéo giữa các Ngân hàng. Tuy nhiên như trên chúng ta đã nghiên cứu, khi giải quyết được mâu thuẫn rồi không có nghĩa là không còn tồn tại mâu thuẫn, mà ngược lại, mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại xuất hiện. Khi chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ tín dụng với trình độ cao, công tác thẩm định tốt nhưng rủi ro trên thương trường không phải là không xảy ra nữa mà trái laị khi trình độ sản xuất càng phát triển thì mức độ rủi ro nếu gặp phải sẽ rất lớn và thiệt hại cũng rất nặng nề, do vậy nó lại tiếp tục là động lực để cho ngân hàng phát triển. Như thế mới là phù hợp với quy luật khách quan. 17
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn