YOMEDIA
ADSENSE
Bài thảo luận nhóm: Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
182
lượt xem 5
download
lượt xem 5
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu Bài thảo luận nhóm: Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản sau đây. Hi vọng tài liệu sẽ giúp các bạn trang bị cho bản thân những hiểu biết cơ bản nhất về pháp luật để tránh những quy định thiếu sót từ đó có thể bảo vệ bản thân khỏi những tranh chấp trong cuộc sống.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài thảo luận nhóm: Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
- LỜI MỞ ĐẦU Hợp đồng gửi giữ tài sản là một hợp đồng thông dụng trong thực tế được quy định từ điều 559 tới điều 566 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó Luật dân sự đã xác định quyền, nghĩa vụ của các bên và cũng quy định về trách nhiệm dân sự (nếu có) của bên giữ tài sản phát sinh trong thời gian gửi giữ. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp người giữ tài sản trong quá trình thực hiện hợp đồng gửi giữ tài sản đã thực hiện công việc công có ủy quyền vì lợi ích của bên gửi tài sản. Nhất là ở khu vực nông thôn, khi mà tài sản của các hộ gia đình bao gồm cả nông sản hoa màu – những tài sản có nguy cơ hư hỏng cao nếu không được thu hoạch kịp thời. Tuy nhiên không phải lúc nào việc thực hiện công việc không có ủy quyền này cũng được bên gửi tài sản hài lòng khi họ phải trả một khoản phí cho việc thực hiện công việc không có ủy quyền hoặc công việc khi hoàn thành không đúng với mong muốn của họ. Trong trường hợp này pháp luật sẽ bảo vệ quyền lợi của ai và đâu là cách giải quyết hợp tình hợp lí. Để phần nào hiểu hơn về vấn đề này nhóm chúng em xin đưa ra quan điểm giải quyết cho tình huống số 01 về vụ tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị L và bà Trần Thị H xoay quanh hợp đồng gửi giữ tài sản. NỘI DUNG Tóm tắt vụ việc Ngày 20.2.2007, bà Nguyễn Thị L có nhờ bà Trần Thị H trong coi nhà cho mình. Cuối tháng 3.2007, thấy vườn cam nhà bà L đã chín mọng, bà H không liên lạc được với bà L nên đã thuê nhân công thu hoạch và bán cam giúp bà L. Ngày 20.5.2007 bà L về, bà H trả lại nhà và 30 triệu (tiền bán cam được 50 triệu, trừ các chi phí thuê nhân công, xe vận chuyển để thu hoạch còn lại 30 triệu). Bà L không đồng ý việc bà H bán giúp cam nên ngày 22.5.2007 bà L yêu cầu bà H trả lại 50 triệu đồng thời buộc bà H phải chịu phí thu hoạch cam. Bà H không chấp nhận, hai bên xảy ra tranh chấp. 1
- Câu 1: Có những hợp đồng nào được xác lập? Hợp đồng nào hợp pháp, hơp đồng nào vô hiệu? Tại sao? * Các hợp đồng được xác lập: Hợp đồng gửi giữ tài sản giữa bên gửi tài sản là bà Nguyễn Thị L ( bên A ) và bên nhận gửi giữ là bà Trần Thị H ( bên B ). Đối tượng của hợp đồng gửi giữ là công việc trông coi nhà ở. Hợp đồng mua bán tài sản: Giữa bên bán là bên B và bên mua là thương lái mua cam ( bên C ). Đối tượng của hợp đồng là số cam thu được từ vườn cam của bà L. Các hợp đồng khác: Hợp đồng thuê nhân công để thu hoạch vườn cam; Hợp đồng thuê xe vận chuyển cam. * Các hợp đồng hợp pháp: Hợp đồng gửi giữ: Hợp đồng này được xây dựng dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp của hai bên. Đồng thời, nó đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại điều 122 bộ luật dân sự (BLDS 2005) và không thuộc vào các trường hợp vô hiệu của hợp đồng quy định tại điều 410 và 411 BLDS 2005. Hợp đồng mua bán tài sản: Cũng như hợp đồng trên, hợp đồng mua bán tài sản giữa các chủ thể và đối tượng như đã phân tích trên đáp ứng đầy đủ các điều kiện kiện quy định tại điều 122 bộ luật dân sự (BLDS 2005) và không thuộc vào các trường hợp vô hiệu của hợp đồng quy định tại điều 410 và 411 BLDS 2005. Thông thường hợp đồng mua bán theo quy định của pháp luật chỉ được xác lập với bên bán là chủ sở hữu của tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền hoặc người được quyền bán theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, trong hợp đồng này, bên bán thuộc trường hợp người được quyền bán theo quy định của pháp luật. Bởi, mặc dù trong các điều khoản quy định về quyền của người thực hiện công việc không có ủy quyền không có quy định về người thực hiện có quyền bán tài sản nhưng xuất phát từ việc tự nguyện thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của chủ sở hữu tài sản nên pháp luật cho phép người thực hiện công việc không 2
- có ủy quyền được thực hiện công việc khi chủ sở hữu không biết ( Điều 594, BLDS 2005). Như vậy việc bán tài sản có nguy cơ hư hỏng cũng là công việc pháp luật cho phép họ được phép thực hiện. Trên cơ sở những phân tích trên ,theo quan điểm của nhóm em thì hợp đồng mua bán trong trường hợp này là hợp pháp. Các hợp đồng khác: Đều thỏa mãn các điều kiện như hợp đồng trên. Câu 2: Bằng cơ sở pháp lí đã học, anh/chị hãy giải quyết tình huống trên. Phân tích tình huống : Giữa bên A và bà B tồn tại một hợp đồng gửi giữ tài sản. Theo đó, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên như sau: Bên A: có quyền và nghĩa vụ của bên gửi giữ được quy định tại Điều 560 về nghĩa vụ của bên gửi tài sản và Điều 561 về quyền của bên gửi tài sản. Bên B: có quyền và nghĩa vụ của bên giữ tài sản theo quy định tại Điều 562 về nghĩa vụ của bên giữ tài sản và Điều 563 về quyền của bên giữ tài sản. Tranh chấp xảy ra do bên A cho rằng việc làm của bên B đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của mình. Lí do đưa ra là bên A chỉ nhờ bên B trông nhà nên bên B không được động đến vườn cam; và kết quả việc bên B bán cam cũng không được như mong muốn của bên A. Bởi vậy, bên A cho rằng bên B sẽ phải chịu chi phí thu hoạch và bán cam thay mình. Như vậy, theo bên A thì bên B sẽ phải chịu trách nhiệm do xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình với các lí do: + Giữa A và B tồn tại một hợp đồng gửi giữ nhưng đối tượng của công việc gửi giữ đó chỉ là nhà ở nên B không được động đến vườn cam. + Việc vượt quá đó năm ngoài mong muốn của A và không được sự đồng ý của bà. Kết quả của việc thực hiện phần vượt quá không đem lại lợi ích như ý muốn của A. Thậm chí còn thiệt hại hơn so với các năm trước. Do vậy, A không cần phải thanh toán chi phí cho việc thực hiện phần vượt quá của B, B phải tự chịu. 3
- Tuy nhiên, B cho rằng việc làm của mình là đúng pháp luật với các lí do: + Cam là nông sản đã đến vụ thu hoạch ( chín mọng), nếu không thu hoạch ngay sẽ bị hư hỏng. Trong khi đó, B không biết đến bao giờ A mới về. + B đã cố gắng liên lạc với Anhưng không thành. + B đã giúp A thu hoạch cam nên đã giữ lại được giá trị của vườn cam nếu không A đã mất trắng số cam đó. Giải quyết tình huống: Dựa vào những phân tích tình huống như trên, chúng em đưa ra ý kiến của nhóm mình như sau: Thứ nhất, về hợp đồng gửi giữ nhà, B đã thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình và A cũng không có tranh chấp về hợp đồng này nên quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ giải quyết theo thỏa thuận của các bên cũng như theo quy đinh của pháp luật nếu như không có thỏa thuận. Thứ hai, về tranh chấp giữa A và B: Đầu tiên, A cho rằng mình chỉ nhờ B trông coi nhà giúp nên B không có quyền bán cam trong vườn của A. Trong tình huống này, thỏa thuận giữa Avà B chỉ là trông coi nhà nên đối tượng của công việc gửi giữ ở đây được xác định là nhà. Còn đối với cam, do không thuộc phần tài sản mà A nhờ B trông coi, nên không là đối tượng B có thể bán theo khoản 4 Điều 563 về quyền của bên nhận gửi giữ tài sản. Tuy nhiên, nhóm em không đồng ý với A khi cho rằng B đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình và yêu cầu B phải tự chịu các chi phí thuê nhân công, thuê xe vận chuyển. Theo quan điểm của nhóm,trong tình huống này, B đã thực hiện công việc không có ủy quyền dựa vào các căn cứ sau: Điều 594 BLDS 2005 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết, hoặc biết mà không phản đối” Việc làm của B đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên: 4
- + B không có nghĩa vụ thu hoạch và bán cam cho A nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó. + Việc thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của A: xuất phát từ việc muốn giữ lại giá trị vườn cam cho A. Sau khi bán, B đã đưa lại số tiền bán cam khi đã trừ chi phí thu hoạch, vận chuyển. + Trước khi thực hiện công việc B đã tìm cách liên lạc với A nhưng không được. Nên A không biết việc thực hiện công việc này của B. + Việc làm này mang tính cấp thiết, vì nếu không thu hoạch ngay số cam đó sẽ bị hư hỏng và mất giá trị. Theo đó, áp dụng các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền thì việc B thực hiện công việc đó thay cho A là hợp pháp. Đồng thời, A có nghĩa vụ thanh toán chi phí cho B theo quy định tại Điều 596 BLDS 2005. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 79 luật Tố tụng Dân sự 2004 quy định: “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh”. Trong tình huống trên, A yêu cầu B chịu chi phí thuê nhân công xe vận chuyển nên nghĩa vụ chứng minh số chi phí đã bỏ ra thuộc về B. Nếu B chứng minh được số tiền 20 triệu là số tiền thực tế hợp lí bà đã bỏ ra để thực hiện công việc thay cho A thì sẽ không phải chịu số tiền đó theo yêu cầu của A. Ngược lại, A vẫn cho rằng chi phí này không hợp lí thì có nghĩa vụ chứng minh điều này theo quy định của luật Tố tụng Dân sự. Hơn nữa, nếu B đã thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho A mà có yêu cầu về thù lao thì A sẽ phải trả một khoản thù lao hợp lí cho B( khoản 2, Điều 596 BLDS 2005). Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 596 BLDS 2005 cũng đã quy định người có công việc được thực hiện phải thanh toán các chi phí hợp lí mà người người thực hiện công việc không có ủy quyền bỏ ra để thực hiện, kể cả kết quả công việc không được như ý muốn của họ. Như vậy, cho dù A cho rằng sản lượng cam không được như mọi năm thì 20 triệu đồng mà B đã bỏ ra để thu hoạch, bán cam,… cho A, A vẫn phải thanh toán. 5
- Tóm lại, theo quan điểm của nhóm, trong vụ tranh chấp trên B không phải chịu các chi phí theo yêu cầu của A bởi việc thu hoạch và bán cam giúp B và thực hiện công việc không có ủy quyền phù hợp với quy định của pháp luật. Câu 3: Bình luận, đánh giá trong các quy định của pháp luật được sử dụng để giải quyết tình huống trên, đồng thời kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật đó? Trong tình huống trên, ta thấy vấn đề chính nổi lên đó là tranh chấp liên quan đến việc thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong thực tế có khá nhiều trường hợp mà người có công việc cần được thực hiện không biết, hoặc không có mặt kịp thời,.. để thực hiện công việc của mình, dẫn đến tình trạng đáng tiếc cho mình, thậm chí là ảnh hưởng đến những người xung quanh. Để tạo điều kiện cho mọi người xung quanh giúp đỡ, ngăn chặn bớt thiệt hại, bảo vệ tài sản cho người có công việc và xã hội, bộ luật Dân sự 2005 đã quy định về công việc không có ủy quyền tại Chương XIX: Thực hiện công việc không có ủy quyền, từ Điều 594 đến Điều 598, bên cạnh đó, một số quy định liên quan cũng được nhắc đến trong Chương VII: Đại diện. Những quy định này đã tạo ra một hành lang pháp lý cho việc tự nguyện thực hiện thay công việc dù không có sự ủy quyền. Khái niệm “thực hiện công việc không có ủy quyền” có nghĩa là một người thực hiện công việc của người khác mà không được người đó ủy quyền. Thông thường, một người không có quyền can thiệp vào công việc của người khác, không có quyền làm điều đó theo ý chí chủ quan của mình mà không được người có công việc chấp nhận. Tuy nhiên, trong thực tế nếu việc thực hiện công việc đó hoàn toàn là vì lợi ích của người có công việc, nhằm mang lại lợi ích cho người có công việc thì cần được pháp luật thừa nhận. Đây chính là một trong những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn hoặc không tự mình thực hiện được. Để cho việc thực hiện công việc không có ủy quyền không bị lợi dụng, nâng cao trách nhiệm của người thực hiện công việc, đồng thời bảo đảm cho người thực hiện công việc không bị thiệt thòi, BLDS 2005 cần thiết phải quy định các nghĩa vụ có liên quan đến việc thực hiện công việc không có ủy quyền. Hơn nữa việc thực hiện công việc không có ủy quyền hoàn toàn do sự 6
- tự nguyện của bên thực hiện mà không hề có sự thỏa thuận của hai bên, cho nên luật càng phải quy định chặt chẽ vấn đề này. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm, những quy định của BLDS 2005 về vấn đề này có một số điểm đáng lưu ý như sau: Về khoản 2, Điều 595: Quy định này đặt ra nhằm bảo vệ ý chí của bên có công việc cần thực hiện cũng như đảm bảo việc thực hiện công việc, tuy nhiên lại khá mơ hồ và chung chung. Nếu như bên thực hiện biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc nhưng họ cố tình không thực hiện theo thì cũng khó để chứng minh, đồng thời luật cũng chưa quy định chế tài đối với câu chuyện họ cố tình làm trái vì mục đích nào đó. Về khoản 1, Điều 596: cụm từ “chi phí hợp lý”. Như thế nào được coi là chi phí hợp lý? Chỉ là những chi phí trong những giao dịch để thực hiện công việc đó, hay bao gồm cả những khoản phí phát sinh mà bên thực hiện công việc bỏ ra để thực hiện công việc đó (VD: chi phí đi lại,..). Hơn nữa, nếu bên có công việc chứng minh được những chi phí này là nhiều hơn mức cần thiết thì có phải trả cho bên thực hiện không, trả bao nhiêu, và chế tài đối với bên thực hiện như thế nào? Nhóm chúng em đi theo ý kiến thứ hai, đó là bao gồm cả những khoản phí phát sinh, nếu bên thực hiện công việc chứng minh được. Một điểm nữa, đó là, trong trường hợp người thực hiện công việc chết, thì việc thực hiện công việc không có ủy quyền sẽ chấm dứt. Nhưng nhưng giao dịch mà người thực hiện đã xác lập để thực hiện công việc đó sẽ chấm dứt theo hay vô hiệu? Nếu giao dịch đó cũng hết hiệu lực thì đại diện hoặc người thân thích của người có công việc sẽ đứng ra thanh toán hay người thừa kế của người thực hiện công việc sẽ thanh toán. Theo nhóm, nên bổ sung thêm quy định người thừa kế của người thực hiện công việc dựa trên cơ những gì người thực hiện công việc đã làm sở (giao dịch, kết quả phần đã được thực hiện,..) tiếp tục công việc nếu họ đồng ý. Nếu họ không đồng ý thì phải báo lại cho người đại diện hoặc thân thích của người có công việc. Chứ không nên chấm dứt theo khoản 4, Điều 598. KẾT LUẬN Qua việc giải quyết tình huống trên, ta thấy “hợp đồng” luôn hiện hữu trong cuộc sống thường nhật của chúng ta và các vấn đề liên quan đến hợp 7
- đồng rất đa dạng, phức tạp. Chỉ qua một vụ việc tranh chấp nhỏ như vậy cũng giúp ta phần nào thấy được bên cạnh những quy định rất chặt chẽ, rõ ràng của Bộ Luật dân sự 2005 vẫn còn các quy định chưa chặt chẽ, mơ hồ và thể hiện tính “quan điểm”. Mong rằng trong tương lai không xa các quy định sẽ được hoàn thiện hơn. Nhưng trước mắt mỗi người chúng ta nên trang bị cho bản thân những hiểu biết cơ bản nhất về pháp luật để tránh những quy định thiếu sót từ đó có thể bảo vệ bản thân khỏi những tranh chấp trong cuộc sống. Trên đây là toàn bộ ý kiến của nhóm, mặc dù đã cố gắng nhưng do phạm vi bài viết cũng như sự hạn chế về kiến thức nên bài viết còn rất nhiều thiếu sót mong thầy cô góp ý để bài viết của chúng em hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn! 8
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn