intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thuyết trình: Tư tưởng xã hội thời Trung cổ

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: PPTX | Số trang:24

110
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thuyết trình: Tư tưởng xã hội thời Trung cổ sẽ cho bạn đọc cái nhìn tổng quan nhất về tư tưởng xã hội thời trung cổ với các nội dung như bối cảnh lịch sử, tư tưởng của xã hội thời Trung cổ và một số nhà tư tưởng nổi bật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thuyết trình: Tư tưởng xã hội thời Trung cổ

  1. TƯ TƯỞNG XàHỘI THỜI  TRUNG CỔ
  2. Trước thế kỷ 19, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học  độc lập mà bị hòa tan vào trong các khoa học khác như nhân chủng  học, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, tâm lý học xã hội và đặc  biệt là triết học ­ môn khoa học của mọi khoa học. Tư tưởng xã hội  của các nhà triết học thời trung cổ là tiền đề để hình thành tư  tưởng của các nhà xã hội học sau này. Trong lịch sử thời trung cổ của thế giới, do điều kiện, đường lối và  thời gian của các dân tộc, các quốc gia quá độ sang xã hội phong  kiến đều khác nhau, nên bối cảnh cụ thể của từng nước cũng  không giống nhau. Do vậy, đặc điểm của chế độ phong kiến giữa  họ đều khác nhau. Điểm giống nhau giữa các nước trên thế giới là  phương thức sản xuất phong kiến chính là nền tảng của đời sống  xã  hội trong thời trung cổ. Sự mâu thuẫn cơ bản trong phương thức  sản xuất phong kiến, chính là sự mâu thuẫn giữa sức sản xuất và  quan hệ sản xuất của phong kiến, mâu thuẫn giữa thượng tầng  kiến trúc và cơ sở kinh tế của phong kiến. 
  3.    Tư tưởng về Nho gia:      So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và  mang  tính  hệ  thống  hơn  cả;  hơn  thế  nữa,  nó  còn  là  hệ  tư  tưởng  chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm  của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng chính thống, Nho  gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung  đại.  Quá  trình  bổ  sung  và  hoàn  thiện  Nho  gia  thời  trung  đại  được  tiến hành theo hai xu hướng cơ bản:
  4. Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm  triết  học  của  Nho  gia  theo  mục  đích  ứng  dụng  vào  đời  sống  xã  hội,  phục  vụ  lợi  ích  thống  trị  của  giai  cấp  phong  kiến;  vì  thế  Đổng  Trọng  Thư  đã  làm  nghèo  nàn  đi  nhiều  giá  trị  nhân  bản  và  biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia  trong  các  quan  điểm  về  xã  hội  cũng  được  đề  cao.  Tính  khắc  nghiệt  một  chiều  trong  các  quan  hệ  Tam  cương,  Ngũ  thường  thường  được  nhấn  mạnh.  Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia  trên cơ sở bổ sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm  Dương ­ Ngũ hành, những quan niệm về bản thể của Đạo gia,  tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể nói: Nho  gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa.
  5. 1. Bối cảnh lịch sử:  Thời  trung  cổ  (thế  kỷ  thứ  X  đến  thế kỷ XV) xã hội phương Tây chìm  đắm  trong  xiềng  xích  nô  lệ  của  hai  thế lực thần quyền và thế quyền, đó  là  Thiên  chúa  giáo  và  chế  độ  phong  kiến mà người ta gọi “Đêm trường  Trung cổ”. Thiên chúa giáo lấn át cả  chế  độ  phong  kiến  và  chi  phối  toàn  bộ đời sống xã hội bằng những luật  lệ hà khắc. Chính vì vậy, thời kỳ này  xã  hội  phương  Tây  hầu  như  không  phát  triển  được  về  mọi  mặt,  kể  cả  hệ tư tưởng chính trị.  Đặc  trưng  đời  sống  xã  hội  Tây  Âu  thời  kỳ  này  là  sự  tan  rã  của  chế  độ 
  6.  Kiểu cũ – kiểu nô lệ                    Kiểu mới – kiểu nông   nô Nông nô đang cày cấy   Sự phân hóa giai cấp cũng trở nên sâu sắc.
  7.  Trong xã hội do nền kinh  tế tự nhiên,  tự cung tự cấp thống trị,  sản phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của công xã và thái  ấp(một  thế  giới  đóng  kín)  của  bọn  địa  chủ.  Người  nông  dân  không chỉ bị lệ thuộc về mặt ruộng đất vào địa chủ mà còn cả về  mặt cá nhân, thân thể, không có quyền chính trị.  Trong thời đại phong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng  thống  trị  trong  đời  sống  tinh  thần  của  xã  hội.  Tôn  giáo  đã  bắt  những hình thái khác của ý thức xã hội phải phụ thuộc vào nó.   Ăng­ghen viết: “…  Điều đó giải thích vì sao giai cấp nông dân 
  8.  Về  trình  độ  văn  hoá,  khoa  học  và  kỹ  thuật  trong  thời  kỳ  này  bước đầu đã có sự phát triển, tuy còn chậm chạp. Những cuộc  tấn  công  của  thập  tự quân  đã  giúp cho phương Tây  hiểu  biết  văn hoá phương Đông.   Như  vậy,  sự  thay  thế  chế  độ  chiếm  hữu  nô  lệ  bằng  chế  độ  phong  kiến,  ở  thời  kỳ  đầu  xét  về  mặt  phát  triển  triết  học  và  văn hoá có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại, song xét trên bình  diện toàn thể thì đã có những tiến bộ lịch sử nhất định. Đó là 
  9. 2. Tư tưởng của xã hội thời Trung Cổ: Thứ  nhất, sự  phát  triển  của  những  tư  tưởng  triết  học  các  nước  Tây  Âu  thời  Trung  cổ  bị  chi  phối  rất mạnh bởi tư tưởng  tôn  giáo  và  thần  học  của thiên chúa giáo.         Đây  là  thời  kỳ  lịch  sử  mà  tiếng  nói  “trí  tuệ  và  lương  tri  nhân  loại”  bị  áp  đảo  bởi  sự  tuyên  truyền  của  giáo  hội  về  đức  tin  nơi  Thiên chúa. Đây cũng là thời kỳ các nhà thần học được phép tuyên  bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinh thánh  (Cựu  ước  và  Tân  ước);  rằng  tất  cả  những  gì  trái  với  kinh  thánh  đều đáng nguyền rủa và xử tội.
  10.    Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học  kinh viện (chủ nghĩa kinh viện) cũng là một nét nổi bật của thời kỳ  Trung cổ  ở Tây Âu; chủ nghĩa kinh viện với tư cách là một trường  phái triết học – một thứ triết học “nhà trường”, “sách vở”. Nghĩa là,  một thứ triết học đặt ra và giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc  sống.  Triết học kinh viện là triết học chính thức của giai cấp  phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học và triết học  duy vật. Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng  là  đặc  trưng  của  tư  tưởng  triết  học  Trung  cổ  Tây  Âu.  Xét  đến  cùng, cuộc đấu tranh này phản ánh ít nhiều hai xu hướng triết học  đối lập nhau: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
  11. 3. Một số nhà Tư tưởng nổi bật: Augustine John the Scot Erigena   (354­430) (810 ­ 877) Thomas Von Aquin   Robert bacon  (1225 ­ 1274) (1214 – 1294)
  12. 3.1 Augustine (354-430):
  13.     Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của  ông là: Toàn bộ  thế giới là do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng  đế.  Thượng  đế  có  sức  mạnh  vạn  năng,  có  quyền  lực  tuyệt  đối;  thượng đế là "Bác sĩ của trái tim mình". ý chí của con người là tự do,  song  nằm  trong  giới  hạn  tiền  định  của  Thượng  đế;  quá  trình  nhận  thức của con người là quá trình nhận thức của Thượng  đế. Thượng  đế là chân lý tối cao. Về lý luận nhận thức, Augustine gắn liền với thần học. Ông cho  rằng  quá  trình  nhận  thức  của  con  người  là  quá  trình  nhận  thức  Thượng đế. Và nhận thức Thượng đế chỉ đạt được bởi lòng tin  tôn giáo.  Cho  nên cần  phải tin  để  mà hiểu và cần phải hiểu  để  mà  tin.  Khi  giải  quyết  vấn  đề  chân  lý,  ông  cho  rằng  con  người  không cần đi khỏi tâm hồn mình; trong tâm hồn con người đã chỉ  ra chân lý tối cao và từ chân lý tối cao mà nảy sinh ra mọi chân lý. Ôguýtxtanh là nhà triết học ra sức bảo vệ tôn giáo, chống  khoa học và triết học duy vật.
  14. 3.2 John the Scot Erigena(810 - 877):  Là  người  Ai  Len,  là  một  trong  những  nhà  tư  tưởng  nổi  tiếng  thời Trung cổ, là người theo chủ  nghĩa duy thực triệt để.  Triết  học  của  ông  là  một  hệ  thống  duy  tâm  tìm  cách  kết  hợp  chủ nghĩa Pla­tôn với Thiên chúa  giáo.  Ông  nói;  "Triết  học  chân  chính  và  tôn  giáo  chân  chính  là  một".  Trung  tâm  trong  học  thuyết  của  ông  là  chứng  minh  cho  sự  tồn  tại  và  vai  trò  tối  cao  của Thượng đế đối với đời sống  con  người  và  giới  tự  nhiên.Theo  ông,  bản  thân  quá  trình  thế  giới  là  sự  giáng  thế  liên  tục  của 
  15.  Triết học của G.  Ơrigiennơ  đã  trình  bày  mối  quan  hệ  giữa lòng tin và lý trí ­ một  vấn  đề  trung  tâm  của  triết  học  Trung  cổ.  Theo  ông,  giữa  lòng  tin  và  lý  trí  là  hoàn  toàn  có  thể  dung  hợp  được;  nếu  phủ  nhận  lý  trí  đề cao tôn giáo hoặc đề cao  lý trí phủ nhận tôn giáo đều  là  nguy  hiểm  cho  nhà  thờ. Như vậy, toàn bộ học thuyết của G. Ơrigiennơ là sự tiếp  tục của quan điểm Platôn dưới hình thức mới.
  16. 3.3 Thomas Von Aquin(1225 - 1274):  Sinh ở Italia, là nhà thần  học, nhà triết học kinh viện  nổi tiếng. Ngoài ra ông còn  nghiên cứu những vấn đề  pháp quyền đạo đức, chế độ  nhà nước và kinh tế. Triết  học của ông được đạo  Thiên chúa coi là triết học  duy nhất đúng đắn và lấy  làm hệ tư tưởng của mình. Scholasticism
  17.       Trong  những  tác  phẩm  của  mình,  Tômát  Đacanh  đã  nêu  lên  học  thuyết về bản chất và tồn tại. Sự tồn tại của Thượng đế đã được  chứng minh trên cơ sở tồn tại của thế giới vật chất do Thượng đế  sáng tạo ra.  Con  người  cũng  do  Chúa  trời  tạo  ra  "theo  hình  dáng  của  mình",  sống  trên  trái  đất  ­  trung  tâm  của  vũ  trụ.  Mọi  cái  trong  tự  nhiên  đều thích ứng với con người như thế nào là do chúa trời quy định.  Tômát  Đacanh  còn  khẳng  định  rằng:  Đẳng  cấp  của  mỗi  người  trong xã hội là do trời sắp đặt, nếu người nào vươn lên cao hơn  đẳng cấp của mình là có tội. Chính quyền, nhà vua là do "ý trời",  thân  xác  con  người  phải  phục  tùng  chính  quyền  nhà  vua  còn  quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.
  18.  Tômát Đacanh đứng trên lập trường duy thực ôn hoà để giải  quyết vấn đề bản chất của cái chung. Ông cho rằng, cái chung  tồn tại trên ba phương diện:   Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật, trong trí tuệ chúa trời  như là mẫu mực lý tưởng của các sự vật riêng lẻ.   Thứ hai, cái chung được tìm thấy trong các sự vật, nó chỉ tồn tại  khách quan khi nó chứa đựng các sự vật riêng lẻ.   Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá  của trí tuệ con người từ các sự vật riêng lẻ.
  19.  Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh cho rằng nhận thức diễn ra  trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ  thể, chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp  thu; đó là hình ảnh của sự vật, chứ không phải bản thân sự vật. Như  vậy,  lý  luận  nhận  thức  của  Tômát  Đacanh  áp  dụng  học thuyết về "hình dạng" của Arixtốt; là một bước tiến  trong triết học kinh viện Trung cổ. Tuy nhiên, nó chỉ khôi  phục  về  hình  thức  học  thuyết  của  Arixtốt,  chứ  nó  không  lấy cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học  thuyết của Arixtốt.
  20. 3.4 Robert Bacon(1214-1294): Là  nhà  triết  học  người  Anh.  Ông được sinh ra trong một gia  đình  quý  tộc,  được  học  hành  một cách căn bản.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0