intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Chia sẻ: Tuan Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

186
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 3 chương, bài tiểu luận "Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp" trình bày tổng quan, một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự, quy định của luật hình sự về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, nguyên nhân, thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

  1. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ Mục lục Lời mở đầu  Trang 1 Chương  1: Tổng quan, một  số  vấn  đề  chung  về  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công nghiệp trong luật hình sự  Trang 2 1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở  hữu công  nghiệp  Trang 2 2.  Các  đặc  điểm  cơ  bản  của  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  Trang 2 3.  Tính   hi ệ u   qu ả  của  việc  ghi  nhận  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp trong luật hình sự Trang 3 Chương 2: Quy định của luật hình sự  về  tội  xâm phạm quyền sở hữu công  nghiệp Trang 4 1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở  hữu  công nghiệp  Trang 4 2. Hình phạt  đối với  tội xâm phạm quyền sở  hữu  công nghiệp   Trang 7 3. Phân biệt  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  với  một số  tội  phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ Trang 9 Chương 3: nguyên nhân, thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công  nghiệp hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công  tác  đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp  Trang 13 1. Nguyên nhân tình hình  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  13 1
  2. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ 2. Thực  trạng  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp tại tỉnh Kiên  Giang  Trang 16 3. Một số giải pháp góp phần phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu   công nghiệp Trang 17 Kết luận  Trang 19 ­­­­­­­­­­­­­ 2
  3. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ LỜI MỞ ĐẦU ̣ ́ ̀ ̣ ̣ ́ ́ ́ ̀ phát triển  Viêt Nam đang trong qua trinh hôi nhâp kinh tê Quôc tê, thi kinh tế có vai rò rất quan trọng; trong việc thực hiện kinh doanh, buôn bán,  sản xuất hàng hóa thì sở hữu công nghiệp là việc không thể thiếu. ̣   Viêc thi ếu hiểu biết về  sở  hữu trí tuệ, sở  hữu công nghiệp  gây ra  những thiệt hại rất lớn cho chủ thể sản xuất, buôn bán và kinh tế đất nước .  Xuất phát từ nhu cầu va đòi h ̀ ỏi mới phát sinh từ thực tiễn  trong nền kinh tế  thị trường, Nhà nước đã đặc biệt chú trọng tới công tác xây dựng, sửa đổi, bổ  sung hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tron đó có quyền sở  hữu công nghiệp. Tuy nhiên, do mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp  nhiều nguyên nhân mà tình trạng vi phạm pháp luật  về sở hữu ngày càng trở  nên phổ biến, tinh vi, gây nhiều hậu quả xấu tác động đến nên kinh tế trong   nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, tìm hiểu cơ  sở  pháp lý, quy định của tội xâm phạm  quyền sở  hữu  công  nghiệp  có  ý  nghĩa  vô  cùng  to  lớn.  Thông  qua  tình  hình  thực  tế  nắm bắt được, chúng ta có thể biết được xu hướng phát triển  của tội phạm  qua  đó  tìm  ra  được  những  ph ươ ng   pháp   tuyên   truy ề n   pháp   lu ậ t   và   đ ề  xu ấ t   phương  hướng  hoàn  thiện pháp  luật  cũng  như  những  giải  pháp  đúng  đắn, sát thực nhằm đấu tranh phòng, chống  có hiệu quả tội phạm này. Hạn chế của đề tài: Do khi chọn đề tài đi vào nghiên cứu lý luận và sau   đó mới tìm số liệu xét xử Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên địa  bàn tỉnh Kiên Giang. Do từ trước đến nay không điều tra, truy tố, xử vụ việc   nào có liên quan đến Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên không có   số  liệu cho tiểu luận và trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai  sót. Mong quý Thầy niệm tình thông cảm bỏ qua, tạo điều kiện cho em hoàn  thành môn học. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô! 3
  4. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ Chương  1: TỔNG QUAN, MỘT  SỐ  VẤN  ĐỀ  CHUNG  VỀ  TỘI  XÂM  PHẠM  QUYỀN  SỞ  HỮU  CÔNG NGHIỆP TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở  hữu công  nghiệp  Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã  hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ  tuổi  chịu  trách  nhiệm  hình  sự  thực  hiện  một  cách  cố  ý,  xâm  phạm  quyền  sở  hữu của cá nhân, pháp nhân đối với nhãn hiệu hoặc chỉ  dẫn địa lý đang  được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thươ ng mại. 2.  Các  đặc  điểm  cơ  bản  của  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp Tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  có  bốn  đặc điểm  cơ  bản  sau: Thứ  nhất,  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  là  hành  vi  nguy  hiểm cho xã hội: Đó  là  hành  vi gây  nên thiệt  hại đáng  kể  cho  các  quan  hệ  xã  hội  trong  lĩnh vực sở hữu công nghiệp được pháp luật  hình sự bảo vệ. Đây căn cứ để  phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Thứ  hai,  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  là  hành  vi  bị  luật  hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm): Đặc  điểm pháp  lý về hình thức  của  tội xâm phạm quyền sở hữu công  nghiệp được  quy  định  trong  luật  hình sự  thể  hiện  ở  Điều  2  Bộ  luật  hình  sự  hiện  hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định  mới  phải  chịu  trách  nhiệm  hình  sự"  và tại  Điều  171  Bộ  luật  hình  sự  năm  1999  (được  sửa  đổi,  bổ  sung  năm 2009), đã  áp  dụng chế  tài  đối  với  người  thực hiện hành vi phạm tội là  phạt tiền, phạt cải tạo không giam  giữ hoặc  phạt tù có thời hạn. 4
  5. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ Thứ ba, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do người có năng lực  trách  nhiệm  hình  sự  và  đủ  tuổi  chịu  trách  nhiệm  hình  sự  thực  hiện  với  lỗi  cố  ý: Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở  hữu công nghiệp phải là người ở  trong  trạng  thái  bình  thường  (không  bị  bệnh  tâm  thần  hoặc  bệnh  lý  khác  làm  mất  hoàn  toàn khả  năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi) và tại thời  điểm  thực  hiện  tội  phạm,  người  này  còn  phải  đạt  đến  một  độ  tuổi  nhất  định mà luật hình sự quy định  tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Cùng  với  năng  lực  trách  nhiệm  hình  sự,  chủ  thể  khi  thực  hiện  tội  phạm ngoài  độ  tuổi  chịu  trách  nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi cũng là một đặc  điểm  chủ  quan  (lỗi  cố  ý)  mang  tính  bắt  buộc; gây  nguy  hiểm  cho  xã  hội,  thấy  trước  được  hậu  quả  của  hành  vi  do  mình  gây  ra  nhưng  vẫn  mong  muốn hậu quả xảy ra. Thứ tư, đối tượng của tội phạm này là xâm phạm đến nhãn hiệu và chỉ  dẫn  địa  lý  đang  được  bảo  hộ  tại  Việt  Nam  với  quy  mô  thương  mại  của  quyền sở hữu công nghiệp cụ thể: Bộ luật hình sự năm 1999 khi chưa sửa đổi, bổ  sung thì  đối  tượng  tác  động  của  tội  phạm  gồm  rất  nhiều:  sáng  chế,  giải  pháp  hữu  ích,  kiểu  dáng  công  nghiệp,  nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa v.v.. đang  được bảo hộ tại Việt  Nam).  Sau khi sửa  đổi năm 2009 thì thì  đối tượng tác  động của  tội  phạm này chủ yếu là nhãn hiệu gồm (nhãn hiệu tập thể,  nhãn  hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết) và chỉ dẫn địa lý (chủ sở hữu chỉ  dẫn  địa lý chỉ có thể là tổ chức hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền).  3. Tính hiệu quả  của việc  ghi  nhận  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp trong luật hình sự. Một  là,  tạo  ra  hành  lang pháp  lý an toàn cho  các  chủ thể  trong  xã  hội,  khuyến khích  khả  năng  sáng  tạo  các  tài  sản  trí  tuệ,  tạo  động  lực  để  phát  triển  kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật và hướng tới một môi trường kinh  doanh  lành mạnh. Hai là, việc quy định tội phạm này trong luật hình sự đã tạo cơ sở pháp  lý  vững  chắc  đấu  tranh  phòng,  chống  các  xâm  phạm  về  sở  hữu  công  5
  6. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ nghiệp  nói  chung  và  tội  xâm phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  nói  riêng.  Góp phần giáo dục  ý thức tôn trọng pháp luật về sở hữu công nghiệp.  Ba là, việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật  hình  sự  còn  là  một  bước  quan trọng  để  tiến  tới  hoàn  thiện  hệ  thống pháp  luật  về sở hữu trí tuệ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 6
  7. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ  VỀ  TỘI  XÂM PHẠM  QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 1. Những đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của tội xâm phạm quyền sở  hữu công nghiệp Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng như tất cả các tội phạm  khác  bao  giờ  cũng  là  sự  hợp  thành  của  bốn  yếu  tố:  Khách  thể,  mặt  khách  quan, chủ thể, mặt chủ quan.. Bởi tính  chất quyết định của chúng cho  nên khi nghiên cứu về tội xâm phạm quyền sở  hữu công nghiệp nói riêng và  tất cả các tội phạm khác nói chung, ta nhất thiết  phải xem xét đánh giá một  cách toàn diện và đầy đủ cả bốn dấu hiệu này. 1.1. Khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Khách  thể  của  tội  phạm  là  những  quan  hệ  xã  hội  được  luật  hình  sự  bảo  vệ  và  bị tội phạm xâm hại đến. Khách thể  của  tội  phạm  này  chính  là  quyền  và  lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,  chỉ dẫn địa lý  đang được bảo hộ tại Việt Nam. Đối  tượng  tác  động  của  tội  phạm  là  nhãn  hiệu  và  chỉ  dẫn  địa  lý  đang  được  bảo  hộ  tại  Việt  Nam.  Trong  nhãn  hiệu  có  một  số  trường  hợp  như: nhãn hiệu tập thể,  nhãn  hiệu chứng  nhận,  nhãn  hiệu  liên kết  và  nhãn  hiệu  nổi  tiếng. Nhãn  hiệu  có  thể  dùng  được  cho  sản  phẩm  hoặc  dịch  vụ  nhưng  chỉ  dẫn  địa  lý  chỉ  dùng  cho  sản  phẩm;  chủ  sở  hữu  nhãn  hiệu  là  tổ  chức, cá nhân song chủ sở hữu chỉ  dẫn địa lý lại chỉ có thể là tổ chức hoặc  cơ  quan  nhà  nước  có  thẩm  quyền.  Đây  chính  là  những  điểm  khác  biệt  dễ  nhận ra giữa nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. 1.2. Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công  nghiệp Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm  các  biểu  hiện  tội  phạm  diễn  ra  như:  hành  vi  nguy  hiểm  cho  xã  hội,  hậu  quả  của  tội  phạm,  mối  quan  hệ  giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu  quả;  những  biểu  hiện  khác  thuộc  mặt  khách quan của  tội  phạm như  định  7
  8. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ lượng về giá trị, vật chất. Trong đó, dấu hiệu thuộc  mặt khách quan của tội  phạm: Là  hành vi "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu,  chỉ dẫn địa  lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại". Các  hành  vi  thuộc  mặt  khách  quan  của  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công nghiệp có thể làm rõ ở đây gồm có hai dạng hành vi: ­ Hành  vi  chiếm  đoạt  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  đối  với  nhãn hiệu,  chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Hành vi này là hành động, người phạm tội cố ý  dịch chuyển nhãn hiệu,  chỉ  dẫn  địa  lý  của  người  khác  thành  của  mình  bằng  nhiều  thủ  đoạn như  dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, gian dối hay lén lút.v.v.. Hành  vi  này  đồng  thời  làm  cho  chủ  sở  hữu  nhãn  hiệu,  chỉ  dẫn  địa  lý  mất  đi  khả  năng thực  tế thực hiện đầy đủ quyền năng của mình. Hành vi chiếm đoạt này  là  tài  sản trí  tuệ  (một  loại  tài sản  vô  hình), là  kết quả của sự sáng tạo đã được bảo hộ và được thể hiện dưới bất kỳ  hình  thức  nào. ­ Hành  vi  sử  dụng  bất  hợp  pháp  nhãn  hiệu,  chỉ  dẫn  địa  lý  đang được  bảo hộ tại Việt Nam. Đây là hành vi khai thác lợi ích, công dụng của nhãn hiệu, chỉ dẫn địa  lý  của  chủ  thể  khác  mà  không  được  sự  cho  phép  của  chủ  thể  đó  (có  thể  chủ  sở  hữu  hoặc  cơ  quan  nhà  nước  có  thẩm  quyền  quản  lý  theo  quy  định  của  pháp luật). Các hành vi sử dụng bất hợp pháp có thể là:  + Đối  với  nhẵn hiệu hàng hóa: Gắn  nhãn  hiệu  được  bảo  hộ  lên  hàng  hóa, bao bì hàng hóa, phương  tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ  giao dịch trong hoạt động kinh  doanh;  Lưu  thông,  chào  bán,  quảng  cáo  để  bán,  tàng  trữ  để  bán  hàng  hóa  mang  nhãn  hiệu  được  bảo  hộ  mà  không  được  phép  của  chủ  sở  hữu  công  nghiệp đối với nhãn hiệu đó. + Đối với chỉ dẫn địa lý:  Gắn  chỉ  dẫn  địa  lý  được  bảo  hộ  lên  hàng  hóa,  bao  bì  hàng  hóa,  phương  tiện  kinh  doanh,  giấy  tờ  giao  dịch  trong  hoạt  động  kinh  doanh;  Lưu  thông,  chào  bán,  quảng  cáo  nhằm để  bán,  tàng  8
  9. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ trữ  để  bán  hàng  hóa  có  mang  chỉ dẫn  địa  lý  được  bảo  hộ  mà  không  được  phép của chủ sở hữu  công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý đó. 9
  10. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ 1.3. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Chủ  thể  của  của  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp là cá nhân  hoặc  nhóm người, có năng lực trách nhiệm  hình sự và đạt độ tuổi mà pháp  luật quy định phải chịu trách nhiệm hình sự quy định trong Bộ luật hình sự. Điều  12  Bộ  luật  hình  sự  năm  1999  được  sửa  đổi,  bổ  sung  năm  2009  quy định  "Người  từ  đủ  16  tuổi  trở  lên  phải  chịu  trách  nhiệm  hình  sự  về  mọi  tội  phạm.  Người  từ  đủ  14  tuổi  trở  lên  nhưng  chưa  đủ  16  tuổi  phải  chịu  trách  nhiệm  hình  sự  về  tội  phạm  rất  nghiêm  trọng  do  cố  ý  và  tội  phạm  đặc  biệt nghiêm  trọng". Điều 171 Bộ luật hình sự hiện hành quy định  (mức phạt của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là từ sáu tháng đến  ba  năm tù)  vì vậy  tội xâm phạm quyền sở  hữu công  nghiệp thuộc vào loại  tội phạm ít nghiêm trọng. Chủ thể của tội phạm  này có thể là người từ đủ  16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. 1.4. Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp Mặt  chủ  quan  của  tội  phạm là  mặt  bên  trong  của  tội  phạm,  bao  gồm  các  dấu hiệu  về  lỗi,  động cơ  phạm  tội và  mục  đích phạm tội. Thực hiệ n  hành  vi  nguy  hiểm  cho  xã  hội  và  hậu quả  do  hành  vi  đó  gây  ra,  nó  là  dấu  hiệu  chủ  quan  có  tính  bắt  buộc  đối  với  mọi  tội  phạm.  Đối  với  tội  xâm  phạm quyền sở hữu công nghiệp, lỗi được biểu  hiện dưới hình thức lỗi cố  ý trực tiếp.  Cụ thể: người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt, sử  dụng bất hợp pháp  nhãn hiệu, chỉ dẫn  địa  lý  của  người  khác đang  được bảo  hộ  tại Việt Nam  mục đích với quy mô thương mại là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được  hậu quả có thể hoặc tất  yếu xảy ra do hành vi của mình gây nên song vẫn  thực hiện với ý thức mong muốn cho hậu quả xảy ra. Trường  hợp  có  hành  vi  xâm  phạm  quyền  sở  hữu công  nghiệp  với  lỗi  cố  ý  gián  tiếp  (trường  hợp  người  phạm  tội  nhận  thức  được  hành  vi  của  mình  là  nguy  hiểm  cho  xã  hội,  thấy  trước  được  hậu  quả  của  hành  vi  đó,  tuy  không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra) hay hình  thức  lỗi vô ý (tức là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của  mình có  thể  gây ra  hậu  quả  nguy  hại cho  xã  hội  nhưng cho  rằng  hậu quả  10
  11. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ đó  sẽ  không  xảy  ra  hoặc  có  thể  ngăn  ngừa  được  (lỗi  vô  ý  vì  quá  tự  tin)  hoặc  trường  hợp  khác  là  người  phạm  tội  không  thấy  trước  hành  vi  của  mình có thể gây ra hậu  quả nguy hại cho xã hội mặc dù bắt buộc phải thấy  trước và có thể thấy trước  hậu quả đó (lỗi vô ý do cẩu thả) thì không bị coi  là tội phạm và không phải  chịu trách nhiệm hình sự. 2. Hình phạt  đối với tội xâm phạm  quyền sở  hữu  công nghiệp Theo Điều 171  Bộ  luật  hình sự  năm 1999  (được sửa đổi, bổ sung năm  2009)  quy  định  về  hình  phạt  đối  với  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp như  sau: 2.1. Hình phạt chính: Bao gồm hai khung hình phạt: +  Khung 1: được  áp  dụng đối  với  trường hợp  phạm  tội  có  cấu  thành  quy  định  tại  khoản  1  Điều  171  Bộ  luật  hình  sự  hiện  hành:  "Phạt  tiền  từ  năm  mươi  triệu  đồng  đến  năm  trăm  triệu  đồng  hoặc  cải  tạo  không  giam  giữ đến hai năm". Phạt tiền: Nếu  phạt  tiền  ở  khung  1  được  áp  dụng  là  hình phạt  chính  thì  mức  phạt  tối  đa  là  năm  trăm  triệu  đồng,  mức  tối  thiểu  là  năm  mươi  nghìn  đồng.  Khi Tòa  án  quyết  định  hình phạt  tiền  đối  với  người  bị  kết  án  không được vượt quá mức tối đa  đã được điều luật quy định. Cải tạo không giam giữ: Mức cải tạo không giam giữ đối người phạm  tội  này  là  không  quá hai  năm.  Khi  Tòa  án  quyết  định  hình  phạt  cải  tạo  không  giam  giữ  đối  với  người  bị  kết  án  không  được  vượt  quá  mức  tối  đa  đã được điều luật quy định. Người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 của Điều 171 Bộ luật hình  sự  thì chỉ  bị  Tòa  án  áp  dụng  hình  phạt  tiền  hoặc  là  phạt  cải  tạo  không  giam  giữ, không được áp  dụng đồng thời cả hai loại hình phạt này. + Khung hai: được quy định tại khoản 2  của Điều 171 Bộ luật hình sự:  "Phạt  tiền  từ  bốn  trăm  triệu  đồng  đến  một  tỷ  đồng  hoặc  phạt  tù  từ  sáu  tháng đến ba năm" đối với người phạm tội có một trong các tình tiết sau:  a) Có tổ chức; (là  hình  thức  đồng  phạm  có  sự  cấu  kết  chặt  chẽ  giữa  những người cùng tham gia tội phạm t ừ  hai ng ườ i tr ở  lên,  cũng như có sự  11
  12. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ phân  công  vai  trò  nhiệm  vụ  cụ thể,  tính  toán chu đáo  và  chuẩn bị  kỹ càng  cho việc thực hiện tội  phạm) được thể hiện dưới hai dạng: Dạng thứ  nhất:  Những  người đồng phạm cùng tham gia  một  tổ  chức  phạm  tội  được  hình  thành  với  phương  thức  hoạt  động  có  tính  chất  lâu  dài,  bền vững; Dạng  thứ  hai:  Những  người  đồng  phạm  cùng  nhau  thực  hiện  hành  vi  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  nhiều  lần  (mỗi  lần  đều  đủ  yếu  tố  cấu  thành  tội  phạm)  theo  một  kế  hoạch  đã  được  thống  nhất  vạch  ra  từ  trước. b) Phạm tội nhiều lần (chủ  thể  phạm  tội  từ  hai  lần  trở  lên,  mỗi lần  phạm tội đều có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng chưa lần nào bị  truy  cứu  trách  nhiệm  hình  sự  và  khi  đưa  ra  xét  xử  vẫn còn trong thời hiệu truy  cứu trách nhiệm hình sự). Phạt tiền: Tươn tự khung 1, hình  phạt  tiền ở  khung  2  được áp dụng là  hình  phạt  chính  thì  mức  phạt  nâng   lên  tối  đa  là  năm  trăm  triệu  đồng lên  mức tối đa là một tỷ đồng, mức tối thiểu là bốn trăm triệu đồng. Khi Tòa án  quyết  định  hình  phạt  tiền  đối  với  người  bị  kết  án  không  được  vượt  quá  mức tối đa  đã được điều luật quy định. Hình phạt tù: buộc người bị kết án phải cách ly khỏi  xã  hội  trong  một  thời  gian  nhất  định  (tối  thiểu  là  sáu  tháng  và  tối  đa  là  ba  năm). Tuy nhiên  Tòa án vẫn có thể áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức tối thiểu  đã  được  quy  định  trong  trường  hợp  người  bị  kết  án  có  nhiều  tình  tiết  giảm  nhẹ  trách nhiệm hình sự và đủ điều kiện để được hưởng Điều 47 Bộ luật  hình  sự "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật".  2.2. Hình phạt bổ sung:  Ngoài  hình  phạt  chính,  tại khoản  3  Điều  171  còn  có  quy  định  về  hình  phạt  bổ  sung  để  hỗ  trợ  cho  hình  phạt  chính nhằm  đạt  được  mục  đích  của  hình  phạt.  Hình  phạt  bổ  sung  không  áp  dụng  một  cách  độc  lập  mà  chỉ  có  thể được  áp dụng đồng thời với hình phạt chính. Các hình phạt bổ sung cụ  thể là: "Phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cấm  đảm  12
  13. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ nhiệm  chức  vụ,  cấm  hành  nghề  hoặc  làm  công  việc  nhất  định  từ  một  năm đến năm năm". Hình phạt bổ sung là  biện pháp có tính chất phòng ngừa, được Tòa  án  áp dụng đối với người bị kết án khi xét thấy nếu để người này tiếp tục đảm  nhiệm chức  vụ,  tiếp  tục  hành  nghề  hoặc tiếp tục  làm công việc  nhất định  nào  đó  thì  họ  có  thể  lại  có  điều  kiện  để  phạm  tội  mới  hoặc  tiếp  tục  gây  nguy hại  cho xã hội. So hình  phạt  áp  dụng  đối  với  chủ  thể  của  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  nhẹ  hơn  hầu  hết  hình  phạt  ở  các  tội  khác  trong  cùng  Chương  "Các  tội  xâm  phạm  trật  tự  quản  lý  kinh  tế",  như:  tội  buôn  lậu  (Điều 153, mức  hình  phạt  cao  nhất  có  thể  được  áp  dụng  lên  đến  tù  chung  thân;  tội  vận  chuyển  trái  phép  hàng  hóa,  tiền  tệ  qua  biên  giới  (Điều  154)  mức  hình  phạt  cao  nhất  là  10  năm  tù;  tội  sản  xuất,  buôn  bán  hàng  giả  (Điều 156) mức hình  phạt cao nhất là 15 năm tù; tội sản xuất buôn bán hàng  giả  là  lương thực, thực   phẩm,  thuốc  chữa  bệnh,  thuốc  phòng  bệnh  (Điều  157) mức phạt cao nhất lên  đến tử hình… 3. Phân biệt tội  xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số  tội phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ 3.1 Phân  biệt  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  với  tội  xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan:   ống    nhau : * Gi Tội xâm phạm quyền sở  hữu công nghiệp (Điều 171) và tội xâm phạm  quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a) có những điểm giống nhau cơ bản  là: Đều là  những tội  xâm phạm  quyền sở  hữu đối với tài sản trí tuệ  và  được  bố  trí  nằm  trong  cùng  Chươ ng   ­  "Các  tội  xâm  phạm  trật  tự  quản  lý  kinh tế". Các tội phạm này thường được thực hiện có tính tổ chức cao, số lượng  đồng phạm đông đảo và khả năng tái phạm nhiều. 13
  14. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ ­ Về  mặt  khách  quan:  Hành  vi  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  hay hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chỉ bị coi là tội phạm  khi các hành vi đó xâm phạm với "quy mô thương mại". ­  Về  chủ  thể:  Cả  hai  tội  phạm  đều  có  chủ  thể  là  người  có  năng  lực  trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. ­  Về  mặt  chủ  quan:  Cả  hai  tội  phạm  đều  được  thực  hiện  dưới  hình  thức  lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi mình thực hiện là nguy hiểm cho  xã  hội,  nhận  thức  được  hậu  quả  nguy  hại  có  thể  hoặc  tất  yếu  xảy  ra  nhưng vẫn thực  hiện. ­ Về hình phạt: Hai tội phạm này được Bộ luật hình sự năm 1999 (được  sửa  đổi,  bổ  sung  năm  2009)  quy  định  về  hình  phạt  tương  đối  giống  nhau  ở  khung hình phạt cơ bản và hình phạt bổ sung áp dụng kèm theo. * Khác       nhau : Mỗi  tội  phạm  đều  có  những  đặc  điểm riêng  nhất  định  cho  phép  phân  biệt  tội  phạm  này  với  tội  phạm  khác.  Tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  và  tội  xâm  phạm  quyền  tác  giả,  quyền  liên  quan  có  những  điểm khác  nhau cơ bản sau: ­ Về khách thể:    +  Quyền sở  hữu  công  nghiệp:  Chủ  thể  đối  với  nhãn  hiệu,  chỉ  dẫn  địa lý đang  được  bảo  hộ  tại  Việt Nam. + Quyền tác  giả, quyền liên quan: Là  quyền  tác  giả,  quyền  liên  quan  của  chủ  thể  đối  với  tác  phẩm,  bản  ghi  âm,   bản  ghi  hình  hoặc  bản  sao  của chúng được pháp luật bảo hộ ­ Về đối tượng tác động của tội phạm: + Quyền sở hữu công nghiệp: Là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý  đang  được  bảo  hộ  tại  Việt  Nam  (căn  cứ  để  nhãn  hiệu,  chỉ  dẫn  địa  lý  được  bảo  hộ  chủ yếu dựa trên quyết định  cấp văn bằng bảo hộ của  cơ  quan  nhà  nước  có  thẩm quyền). 14
  15. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ +  Quyền  tác  giả,  quyền  liên  quan:  Là  tác  phẩm,  bản  ghi  âm,  bản  ghi  hình  hoặc  bản  sao  của  chúng  (được  mặc  nhiên  bảo  hộ  không  phụ  thuộc  vào việc đăng ký bảo hộ hay chưa) ­ Về mặt khách quan +  Quyền   sở  hữu  công  nghiệp:  gồm  hai  dạng  hành  vi:  (1)  hành  vi  chiếm đoạt quyền sở hữu  công  nghiệp  đối  với  nhãn  hiệu, chỉ  dẫn  địa lý  đang  được  bảo  hộ  tại Việt  Nam; và (2) hành vi sử dụng bất hợp  pháp nhãn  hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo  hộ tại Việt Nam. +  Quyền  tác  giả,  quyền  liên  quan:  gồm  hai  dạng  hành  vi:  (1)  hành  vi  sao  chép  tác  phẩm,  bản  ghi  âm,  bản  ghi  hình  mà  không  được phép của  chủ thể quyền  tác  giả,  quyền  liên  quan;  (2)  hành  vi  phân  phối  đến  công  chúng  bản  sao  tác  phẩm,  bản  sao  bản  ghi  âm,  bản  sao  bản  ghi  hình  mà  không  được phép  của  chủ  thể  quyền  tác  giả, quyền liên quan. + Quyền sở hữu công nghiệp: + Quyền tác  giả, quyền liên quan: 3.2  Phân  biệt  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  với  tội  vi  phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp Tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  (Điều  171)  và  tội  vi  phạm  các  quy  định  về  cấp  văn  bằng  bảo  hộ  quyền  sở  hữu  công  nghiệp  (Điều  170)  có những điểm giống và khác nhau cơ bản như sau: * Giống nhau: Cả hai tội phạm này đều nằm trong nhóm các tội phạm trong lĩnh vực  sở  hữu  công  nghiệp,  là  những  hành  vi  nguy  hiểm  cho  xã  hội,  được  thực  hiện  với  lỗi  cố  ý  và  đều  có  khách  thể  bị  xâm  hại  là  trật  tự  quản  lý  kinh  của  Nhà  nước  trong  lĩnh  vực  sở  hữu  công  nghiệp  (như  xác  lập  quyền  sở  hữu  công nghiệp và thực thi quyền sở hữu công nghiệp...). Do cả hai tội phạm đều thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng (có khung  hình  phạt  cao  nhất  không  quá  ba  năm  tù)  nên  chủ  thể  của  hai  tội này  đều  phải  là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình  sự. 15
  16. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ * Khác nhau: ­ Về mặt khách quan + Tội xâm phạm quyền  sở hữu công nghiệp: Hành  vi thuộc  mặt  khách  quan  của tội phạm này được thực  hiện  bằng  hành  động bao gồm 02 dạng  đó  là:  hành  vi  chiếm  đoạt và  hành vi sử dụng bất hợp  pháp  nhãn hiệu,  chỉ  dẫn địa lý đang được bảo hộ tại  Việt  Nam  với  quy mô thương mại. + Tội  vi  phạm  các  quy định  về  cấp  văn  bằng  bảo  hộ  quyền  SHCN:  được thực  hiện  bằng  hành  động  hoặc  không  hành động, bao gồm 04 dạng  hành  vi: (1) không cấp văn bằng bảo hộ  cho  chủ  thể  đã  có  đủ  điều  kiện  được cấp; (2) đưa những thông tin  sai lệch về các vấn đề có  liên  quan  đến  việc  cấp  văn  bằng  bảo hộ; (3)  cấp  văn  bằng  bảo  hộ không đúng quy định  về  thời  gian,  thủ  tục;  (4)  cấp  văn  bằng  bảo  hộ  đối  tượng  sở  hữu  công  nghiệp mà trước  đó  đối  tượng  này  đã  được cấp văn bằng bảo hộ cho một  chủ  sở  hữu  công  nghiệp  khác.  Ngoài  ra, hành vi nêu trên chỉ cấu thành  tội  phạm  khi  đã  bị  xử  lý  kỷ  luật  hoặc  xử phạt  hành chính về  hành vi  này  mà  còn  vi  phạm,  gây  hậu quả nghiêm trọng. ­ Về chủ thể  + Tội xâm phạm quyền  sở hữu công nghiệp: Là  bất  kỳ  người  nào  có  năng  lực  trách  nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên. + Tội vi phạm các quy định về cấp  văn bằng bảo hộ quyền SHCN: chỉ  những người  có  thẩm  quyền  trong  hoạt  động  cấp  các loại văn bằng bảo  hộ quyền sở hữu công nghiệp. 16
  17. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ Chương 3: NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG TỘI  XÂM PHẠM QUYỀN SỞ  HỮU CÔNG  NGHIỆP HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM  NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG  TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,  CHỐNG TỘI PHẠM XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 1.   Nguyên   nhân   tình   hình  tội  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công  nghiệp 1.1. Nguyên nhân do mặt trái của nền kinh tế thị trường. ­ Với  quy  luật  cạnh  tranh  khốc  liệt của  kinh  tế  thị  trường và khi đất  nước bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế  quốc tế  đã  đem đến cho  xã  hội  sự  phân  hóa.  Các  chủ  thể  trong  xã  hội,  nhất  là  hoạt  động  trong  cùng  lĩnh  vực cạnh tranh đã tìm nhiều cách, nhiều thủ đoạn để cạnh tranh   nhau;  hành  vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, xâm phạm quyền   sở  hữu công nghiệp luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo  được nhiều đối tượng tham gia,  trên nhiều địa bàn, nhiều lĩnh vực khác nhau,  ngang  nhiên  xâm  phạm  quyền  sở  hữu  công nghiệp một cách trái pháp luật.  ­ Ngoài ra trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực, còn  phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần  với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội  địa đa dạng, phong phú nhưng vẫn chưa đáp  ứng được nhu cầu cho người  tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá sản  phẩm phục vụ  sinh hoạt cao tạo nên sự  bất cân đối. Vì vậy mà người tiêu  dùng lựa chọn những sản phẩm nhái, giả  nhưng mẫu mã, kiểu dáng công  nghiệp “như  thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít   doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu  dùng, vì mục tiêu lợi nhuận đã làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo  hộ  có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để  gây nhầm lẫn đối với người tiêu  dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để  giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những   17
  18. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả  và xâm phạm sở  hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động. 18
  19. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ 1.2. Nguyên nhân thuộc về chính sách, pháp luật nhà nước. Các quy định về sở hữu trí tuệ  và hành vi xâm phạm sở  hữu trí tuệ  còn  chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản từ  Hiến pháp, Bộ  luật  Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoa học và Công nghệ,  Bộ luật Hình sự  và nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật trên; những quy định về  sở  hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ chưa thật đầy đủ, chưa đồng  bộ, đặc biệt là những quy định về  các biện pháp và chế  tài xử lý chủ  yếu là  hình thức xử lý hành chính, rất ít xử lý hình sự, cụ thể là tại tỉnh Kiên Giang   từ trước đến nay hoàn toàn không xử lý hình sự đối với tội xâm phạm quyền  sở  hữu công nghiệp mà chủ  yếu là áp dụng các biện pháp xử  lý hành chính,   chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ  sức răn đe đối tượng vi phạm.  Chế  tài về  hình sự  chỉ  được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về  sở  hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách   nhiệm hình sự với pháp nhân được.  1.3. Nguyên nhân chủ quan từ chủ sở hữu công nghiệp. Hiện nay, ít doanh nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ,  ít có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí  tuệ là bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở  thành đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường nên phần lớn các  chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình,  chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ  nhãn hiệu hàng hoá, trong khi   trình độ  và hiểu biết về  tác hại của xâm phạm sở  hữu trí tuệ  đối với sức   khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế.  Các doanh nghiệp đã có sự  chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu,   kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại quên mất  khâu đăng ký bảo hộ  nhãn hiệu hàng hoá của mình  ở  những khu vực thị  trường đã và sẽ  phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc   phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động   phối   hợp  với  các  cơ  quan  chức   năng trong việc kiểm  tra,  kiểm soát.  Có   những doanh nghiệp do sợ bị   ảnh hưởng đến doanh số  và mức tiêu thụ  sản   phẩm, không dám công khai về  sản phẩm bị  làm giả. Có những sản phẩm   19
  20. Nguyễn Tuấn Anh. Tiểu luận Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ________________________________________________________________________________________________________________ làm giả  tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện   được, đến khi biết, tuy có một số  biện pháp khắc phục nhưng không đáng  kể.  1.4. Hoạt động và sự phối hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ   quan quản lý nhà nước trong đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm   phạm quyền sở hữu công nghiệp. Công tác phối hợp trên thực tế của các tổ chức và hoạt động của các cơ  quan có trách nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở  hữu trí  tuệ  còn thiếu đồng bộ  và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử  lý khiến hiệu lực  thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có nhiều cơ quan (UBND các cấp, thanh  tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị  trường, hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các  nước trên thế giới thì tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý  các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng  ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của  tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn   vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ  quan hành chính, nhưng số  vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại quá ít trường hợp, một số địa phương ở  cấp tỉnh và huyện không xét xử  tội xâm phạm quyền sở  hữu công nghiệp  (điển hình như  tại Tòa án tỉnh Kiên Giang). Chưa kể, trình độ  chuyên môn,   nghiệp vụ  của phần lớn đội ngũ cán bộ  làm công tác bảo vệ  pháp luật còn   hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính,   ngân hàng, chứng khoán, công nghệ  máy tính… Ngoài ra chúng ta còn phải   phối hợp công tác phòng, chống xử  lý các tội về  xâm phạm quyền sở  hữu   công nghiệp với các nước trong khu vực và quốc tế. 1.5. Công tác tuyên truyền phổ  biến giáo dục pháp luật trong đấu   tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trong những năm, thời điềm sau khi mở cửa phát triển kinh tế thị trường  theo định hướng xã hội chủ  nghĩa và gia nhập tổ  chức thương mại thế  giới   WTO Việt Nam thì việc xâm phạm đến quyền sở  hữu trí tuê trong đó có  quyền sở  hữu công nghiệp diễn ra ngày một phức tạp bằng nhiều thủ  đoạn  tinh vi, bằng công nghệ  cao nhưng công tác tuyên truyền, phồ  biến giáo dục  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0