PHAN ĐĂNG NHẬT

10

không thôi, nghe kể liền ba, bôn lần cũng không chán’,H).

MỘT BẢN ANH HÙNG

CA ĐAM XĂN MỠI CHUYỂN THỂ THO

PHAN ĐĂNG NHẬT*’’

Anh hùng ca Đam Xàn là một tác phẩm kiệt xuất trong nền văn học các dân tộc nước ta. Nhiều học giả đã ca ngợi nó:

- p. Pasquier: "Làm thê nào để hiểu một dân tộc có hiệu quả hơn là truyền bá các bàỉ ca này trong đó chứa dựng tâ't cà dời sống xã hội, phong tục, hi vọng không thành, quá khứ huy hoàng đã trôi qua".n>

Đam Xăn cũng đã được đưa vào sách giáo khoa các cấp. Tuy nhiên, học sinh và quần chúng dông đảo chưa cảm thấy cái hay cái đẹp của bản anh hùng ca này, và thầy giáo thì nhận thấy khó giảng. Có lẽ một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là người dịch từ trước vẫn dịch tiếng dân tộc ra văn xuôi. Bản Đam Xăn đầu tiên do L. Sabatier, người Pháp, dịch ra văn xuôi Pháp (năm 1927). Sau đó các soạn giả người Việt, như Đào Tử Chí, Nguyễn Hữu Thấu, Y Wang,... đều dựa theo nếp cũ dịch ra văn xuôi Việt. Trong lúc dó Đam Xăn cũng như sử thi nói chung dều được diễn dạt bằng một thứ văn vần và được diễn xướng theo một làn điệu có tính chất hát - kể (récitativo).

Loại văn vần dùng dể diễn đạt Đam Xãn, dược đồng bào Êdê gọi là đuê. Đuê là một thứ vãn vần, có nhịp điệu, có vần, có dôiì xúng.

Ví dụ 1:

- G. Condominas: "Người ta không thể nói dến folklore tiền Đông Dương mà trong dầu không lập tức xuất hiện nhan đề tác phẩm sử thi Đam. Xăn. Bài thơ tuyệt dẹp đó, tác phẩm nổi tiếng hàng đầu của văn học truyền miệng của các bộ tộc sinh sống sâu trong nội địa của Trung Bộ Việt Nam, cho đến nay vẫn là một kiệt tác không phải bàn cãi",2).

Blu sa knga Ha sa sắp Bi ư khắp klei mbit (Nghe chung một tai Nói chung một miệng Cùng với nhau một tiếng một lời) - J. Dournes: "Một tác phẩm tuyệt vòi của folklore Êdê, trước dây được Sabatier sưu tầm, xúng đáng được chú ý đặc biệt... Đó là Bài ca Đam Xăn, chàng trai đẹp mà không có điều gì thoả mãn được anh ta",3). Ví dụ 2:

Amâo thâo di cư, dru ktung Amao thao tru n dhung đru doh Amao thao boh klei, đru bi lac,

dru mtô brei

(Không biết lên núi, giúp đõ kéo Không biết lên đồi, giúp dỡ lôi Không biết công chuyện, cùng nói, cùng dạy bảo cho) - Y Wang: “Mỗi lần có ngưòi kể khan thì trẻ già trai gái không sót một ai không đến nghe. Kể suốt đêm cho đến sáng ngưòi ta cũng nghe đến hết. Nghe hết rồi, nhiều khi còn nhờ kể lại... c ả truyện Đam Xăn toả ra một cuộc sông gần cuộc sông thật, nhưng phong phú hơn, phóng khoáng hơn, cao xa hơn. Đó là điểm chính làm cho ngưòi ta thích nghe truyện Đam Xăn, nghe mãi

Để trở vể gần với hình thức diễn dạt của nguyên bản, soạn già Hồ Sưỏng đã chuyển GS. TSKH. Viện Nghiên cứu Văn hoá.

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

1 1

tù' bàn Dam Xăn vãn xuôi, cùa Nguyễn Hữu Thấu, sang thơ lục bát. Đây là một "loại thơ khó viết nhưng đề đọc, (lỗ nhó. (lễ truyền miệng, (lề lan rộng trong cộng dồng” (Hồ Sưởng).

ỏng đã rấ t cố gắng và đã làm cho Dam Xăn hấp dan hơn. mà không xa nguyên bán. Sau dây là sự so sánh bản dịch XUÔI cùa Nguyễn Hũu Thấu' ' (viết tắt là NHT) và bản dịch thơ cùa 1 lồ Sường"'1 (viêt tắ t là 11S).

Tác g iá cùng Y B h iu (Pondrang, K ro ng bu k, Đác Lác) nghệ nhàn và ngư ờ i sưu tám s ử th i Ẻ Đê.

1. v ề m iêu tả c ả n h sắc

Vẻ đẹp một cô gái:

Bồ chao vỗ cánh, con công khoe màu Nhẹ nhàng như cánh diêu hâu Như con ó liệng giữa bầu trời trong Như mây trôi giữa không trung Nước lờ lững chảy cũng không sánh bằng.

(HS, tr.127)

Vẻ đẹp rực rỡ của nữ thần Mặt. trời: - Hơ Nhị di ra nhà khách, trông lưốt thướt như một cành blô là ngọn, lượt thượt như một cành klơng lìa gốc, vảy còn ở đây mà người đã ờ dằng kia. Mỗi bước đi lên, nàng mồi nhón chân, người luôn luôn ngay ngắn, gót kiễng lên, vừa di vừa ưỡn ẹo làm duyên, hai tay vung vẩy trông như con gà xù lông, như con bồ chao vỗ cánh. Khi nàng lướt lên, trông như diều bay ó liệng, nước lững lờ tròi cũng không bằng. (NI 1T, tr. 182)

- Nàng di những bước nhẹ nhàng Bước ra phòng khách dàng hoàng

phong lưu Trông nàng lướt thưốt dáng yêu Như blỏ lả ngọn, lại liêu xiêu cành Nhìn nàng lượt thượt rấ t xinh Như klơng lìa gốíc U(’)Ì1 mình nghiêng nghiêng Váy nàng dang ở sàn hiên Người nàng dã ở cạnh bên khách rồi

- Nữ thần bỏ váy cũ, mặc váy mói. Chưa hài lòng với váy này, nàng lấy váy kia. Nàng mặc một, váy ánh như sét, loáng như chó)). Mái tóc nàng vén bên tai trông thật là dẹp. Nàng từ trong buồng di ra, cửa buồng liền bừng sáng. Nàng di như diều bay, ó liệng, như nước lững lờ trôi cũng không bằng. Khi lỡ chân hụt bước, nàng dừng lại dứng yên, dầu nghiêng nghiêng cúi xuống, hay nàng ngồi thụp xuống, (lau nhè nhẹ ngẩng lên. Tiếng nàng lanh lảnh, người chưa tới mà tiếng dà vẳng lại. (NHT, tr.212) Nàng di mỗi bước vung tay Ngón chân uyển chuyển giữ ngay ngắn mình Nữ thần thay váy rấ t mau

Bỏ ngay váy cũ dã nhàu, không hoa Quấn vào váy mới thưôt tha Nàng còn ưỡn ẹo làm duyên Gót chân dặt xuống kiễng lên nhịp nhàng Ngắm di nghía lại vẫn chưa hài lòng Như con gà mái xù lông Lại thay váy khác mấy lần

PHAN ĐĂNG NHẬT

12

Đồ chơi những kẻ giàu sang Cuôĩ cùng là váy khít thân thể nàng Chén hoa bích ngọc, bát lừng tiếng chim.

Váy này như sét loé ngang Lại như ánh chớp sáng choang (HS, tr.29) giữa trời S ự giàu có

Tóc nàng vón gọn bên tai Trông nàng xinh đẹp không ai sánh bằng

Nàng đi từ phía buồng trong Cửa buồng bừng sáng như vầng nắng soi

Nàng đi ra phía buồng ngoài

Trông như ó liệng diều bay nhẹ nhàng

Như trôi lơ lửng trên sông (Mà trôi lơ lửng cũng không nhẹ bằng)

Lỡ chân nàng hụt bước chăng

Hay nàng ngồi thụp?... ồ không việc gì!

Từ từ nàng tiếp tục di

Đầu nghiêng nghiêng cúi dễ bề tự nhiên Rồi nhè nhẹ ngẩng đầu lên Tiếng nàng lanh lảnh vang lên giữa - Y Đhing phóng tầm m ắt ngắm làng Đam Săn: nơi dựng làng như cái mai rùa, rẫy giăng khấp núi, trâu bò nhi nhúc như môĩ như kiến, dường di bên phải rộng một vổi giáo, đường di bên trái rộng một với chà gạc, dấu chân ngựa chân voi như bện thừng, nô lệ trai ngực đụng ngực, nô lệ gái vú đụng vú. Cành làng chàng Đam Săn trông quả th ậ t là đẹp là vui! Dấu chân ngựa như chân rết, dấu chân voi như trôn côi giã gạo, nồi bung nồi bẩy như ấc sên rừng, nhà dài cả một hơi chiêng, sàn hiên rộng cà một hơi chim bay, trên cột phơi chỉ thì nào chim bhị chuyền, chim nhồng đậu, nào là các tà vải sọc rằn dủ màu. (NHT, tr.140) phòng

Ngưòi nàng đang ở phía trong - Y Dhing phóng mắt ngắm làng Làng trông có dáng cong cong mai rùa Tiếng nàng dã vọng dã vang phía ngoài Đàn gí như kiến môĩ bò Như là thánh thót mưa rơi Chưa nhìn thấy m ặt mà lòi đã nghe. Hoá ra nhung nhúc trâu bò thả rông Dấu chân voi ngựa bện thừng (HS, tr.207) Như trôn côì gạo, như chân rết ngoằng S ự sang trọng: Vạn ngàn nồi bẩy, nồi bung Trông như lũ ốc sên rừng ngổn ngang

Đường di lôì lại thênh thang Tôi trai tỏ gái như dàn ong bay Đàn ông vai cọ vào vai

- Vừa giập một bã trầu, cơm đã chín tới. Nàng xới cơm ra chén hoa da bích ngọc, đơm thức ăn vào bát hoa vẽ cây dộng dinh với con cu xanh đang gù, con ktuk đang hót, những chén bát đồ chơi của các nhà giàu. (NHT, tr.183). Đàn bà vú dụng, vú mài vào nhau Rộng dài làng trưốc xóm sau Mây trôi lơ lững một màu bình yên - Bã trầu vừa giập, cơm dà chín ngon Nhà dài cả một hơi chiêng Nhanh tay nàng vội xới cơm

Xới ra những chón, mùi thơm đầy nhà

(H S .tr. 18-19)

Chén hoa bích ngọc màu da Sàn hiên rộng, một hơi chim bay vòng Sào phơi chim bhị, chim nhồng Con bay con dậu, vải lồng với chim. Thức ãn vào những bát hoa động dinh

Động đình, cành uốn rấ t xinh Sức m ạnh của tiếng chiêng Trên cành dậu những cu xanh đang gù Những con kơ tuk say sưa - Hãy đánh những chiêng có tiếng ngân vang, những chiêng có tiếng đồng tiếng bạc, Như vang tiếng hót giữa trưa nắng vàng

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

13

trường nào như chàng cà! (NHT, tr.207 - 208).

- Đam Săn vừa đến sân nhà Người nhà chạy xuống mặn mà mòi lên

Người trông ngựa, kẻ tháo yên Mấy người vồn vã đón lên tận sàn Chàng đi từng bước lên thang Cầu thang lún xuông, nhẹ nhàng nẩy lên Chàng vừa bước giậm sàn hiên đánh nhè nhẹ cũng vang vọng khắp núi non, hễ đánh lên là ỏ dưới rung lên các cây đòn ngạch, là ở trên rung lên các cây xà ngang, là khỉ vượn quên đu cây, ma quỷ quên làm hại người, sóc chuột quên đào hang, rắn hổ, rắn mai đều chui lên nằm dài trên mặt đất, là hoẵng đứng ngẩn, thỏ ngồi ngơ, hươu nai đứng sững sờ, mải vui với tiếng chiêng của Hơ Nhị, Hơ Bhị, chang còn mảng nhoai dầu ra ăn cỏ nữa. (NHT, tr.139)

Sàn hiên đã vỗ cảnh lên hai lần Chao tây rồi lại chao dông Ngôi nhà như bỗng chuyển rung - Chọn chiêng có tiếng ngân vang Đánh nhè nhẹ đã ngân vang núi rừng Chiêng ngân tiếng bạc tiếng dồng theo chàng Dưới rung đòn ngạch, trên rùng Chàng giắt chà gạc lên trần xà ngang Rồi chàng ngồi xuống ân cần hỏi han Nghe chiêng khỉ vượn ngỡ ngàng Nghênh nghênh như rắn trong hang Ngồi trơ m ặt nghệch, không màng Ngang ngang như cọp trong đầm đu cây nước trong Quỷ ma bỏ thói hại người

Như con tê giác trong thung Chàng cười, chàng nói oang oang

bừng nhà Rắn mang, rắn hổ nằm dài giữa sân Chuột chồn quên việc đào hang Sóc không nhảy, hoẵng bàng hoàng Sấm gầm sét dậy còn thua ngẩn ngơ

C à nhà lác m ắt ngẩn ngơ nhìn chàng

Hươu nai cả lũ sững sờ Quả là tấ t cà chưa từng Chưa ai từng thấy một chàng hiên Đứng nghe chiêng vọng bên bờ suôi vang. ngang (HS, tr.17-18) Như là tù trưởng Đam Săn.

2. v ề tính chất anh hùng (HS, tr.194)

S ự oai hùng

- Đến đây Đam Sãn đứng lên bỏ đi. Chàng với tay lấy cây chà gạc tai, chà gạc bưng của chàng cầm theo, rồi nhảy phịch một cái xuống đất ra di. Chàng bưốc ung dung, giữ từng bước th ậ t ung dung. Chàng di khoan thai, hai tay đánh xa đến là dẹp. Trên dường cái, chàng lưởt lên như con rắn mây. Trong rừng cây, lúc chàng vọt cao, lúc chàng nhảy dài, trông cứ như con rắn roi dang quà't tói.

Đam Săn đến nhà Hbia Điêt Kluich. Chàng lên thang, hai lần cầu thang lún xuống. Chàng giậm chân trên sàn hiên, hai - Đam Săn dến bãi ven làng, rồi đến nhà Đam Par Kvây, người trong nhả chạy xuống, kẻ giữ ngựa tháo yên, người dưa lời thăm hỏi. Đam Săn lên cầu thang, hai lần cầu thang lún xuống. Chàng giậm chân trên sàn hiên, sàn hiên chao qua chao lại từ đông sang tây. Chàng giắt chà gạc lên rồi ngồi xuống, trông nghênh nghênh như con rắn trong hang, ngang ngang như con cọp trong dầm, như con tê giác trong thung. Chàng nói cưòi, tiếng oang oang như sấm gẩm sét dậy. T hật chưa từng thấy một tù

PHAN ĐÃNG NHẬT

14

Tính hoành tráng

lần sàn hiên làm như vỗ cánh, bẩy vì cột nhà đung đưa sang đông, đung đưa sang tây. Chàng bước vào nhà, gác chà gạc lên xà nhà, rồi đi thẳng vào trong. (NHT, tr 151-152).

- Đam Săn vội bỏ đi ra Tay cầm chà gạc bước qua căn buồng

Một tay cầm chà gạc bưng

Phượng hoàng nghếch cổ trông hùng dũng thay - Thế là Đam Săn lại múa. Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc, chòi lẫm dổ lăn lóc. Cây côĩ chết rụi. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba dồi tranh bật rễ bay tung. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy những oan hồn của chàng nhằm đùi Mtao Mxây phóng tới. (NHT, tr. 192-193). Tay kia là chà gạc tai Lưỡi to cán ngắn tăng oai người cầm - Thế là chàng múa tung tròi Chàng phốic lên những ngọn đồi Vừa di ra khỏi căn buồng trên cao Múa như sấm nổi gió gào Chàng liền nhảy “phịch” chẳng cần cầu thang

Rồi chàng nhảy xuống, ào ào lá bay Múa như một trận lốc xoay Lẫm chòi đổ nát, tung bay lên tròi Xuống sân chàng bưốc vội vàng Cuốn lên khói bụi theo hàng đôi chân Sải dài từng bước hiên ngang Cỏ cây bật gốc tan chồi Đôi tay lên xuống, nhịp nhàng đánh xa Cũng bay mù mịt, đầy tròi rợp den

Múa từ dưới thấp múa lên Nghe vang âm, điệu đĩa khiên

Bước trên đường cái đầy hoa Chàng như con rắn mây già lướt đi Bước trong rừng lá xanh rì Thì chàng nhảy vọt khác gì rắn roi

Rắn roi dù quất liên hồi

đồng vàng Trên cao múa xuống nhịp nhàng Đĩa khiên kênh lại rộn ràng vang xa Chàng chơi nưôc kiệu phong ba Không bằng chàng nhảy, bước dài bước cao Làm ba quả núi nứt ra, rạn sưòn Thời gian chẳng m ất bao lâu Ba đồi tranh rễ b ật tung

Đam Săn dã đến trước cầu thang Hbia Dừng chân chàng ngó quanh hè Rễ tranh bay rdp cả vùng tròi xanh Chàng vung cao ngọn giáo thần Giáo này dính những oan hồn khổ đau

Rồi chàng bước mạnh chân đè cầu thang Rồi nâng ngọn giáo chàng lao Giáo bay vùn vụt phóng vào Mtao Chàng lên những bước ngang tàng Mxây.

(HS, tr. 153-154)

Sức m ạnh phi thường, tinh ngang tàng Cầu thang lún xuống, nhịp nhàng nẩy lên Chàng đi chân giậm sàn hiên Sàn hiên như vỗ cánh lên hai lần

Chàng di hàng cột chuyển rung Xiêu qua vẹo lại rùng rùng đung đưa Lặng yên chàng bước vào nhà Rồi treo xà gạc lên xà..., lặng yên

- Cả miền Êđê Êga ca ngợi Đam Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước. Ngực quấn chéo một tấm mển chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai deo nụ, sát bên mình nghênh ngang dủ giáo gươm, đôi m ắt long lanh như m ắt chim (HS, tr.47-48)

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

15

ghếch ăn hoa tre. Chàng Đam Săn hiện lên là một tù trưởng mới giàu lên, đang tràn sức trai, tiếng tăm lừng lẫy. Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy. Chàng nằm sấp thì gẫy rầm sàn, nằm ngửa thi gẫy xà dọc: Đam Săn vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ. (NHT, tr.196). tôi đã gặp những khó khăn không nhò, dó là làm thơ mà ngòi bút bị “trói chặt” vào nguyên bản một tác phẩm văn xuôi dạng thoại; làm thơ lục bát mà ngòi bút phải “lên thác xuống ghềnh” cùng những chữ đa âm cùa tiếng dân tộc; không những thế, câu thơ lục bát vốn rấ t dịu lại phải “lao” vào những trận chiến đấu ác liệt, mà ở đó chân giậm núi vỡ làm dôi, cây dại thụ bột gốc bay lên tròi là chuyện thường” (HS, tr.10).

- Khắp miền Êđê Êga Coi chàng như tướng tài hoa nhất đời

Dù cho biết chết mưòi mươi

Cũng không hề sợ, không lùi bước chân Chiếc mền chiến, quấn chéo thân

Bên ngoài khoác tấm áo choàng Có một mâu thuẫn phải được điều hoà, dịch phải vừa sát nghĩa, vừa bay bổng. Nếu không thì hoặc là trở thành một thứ diễn ca tầm thường, hoặc là một tác phẩm riêng xa lạ. Hồ Sưởng đã cô' gắng làm được việc điểu hoà này. chiến binh

Nghênh ngang gươm giáo bên mình

Tai đeo nụ, m ắt long lanh ánh trời Như chim ghếch, m ắt sáng ngời Ản hoa tre, rồi hót hoài không thôi Điểu quan trọng nhất là ông dã dịch sát nguyên bản (của Nguyễn Hữu Thấu). Hiện có 4 bản dịch Đam Xăn, một bản tiếng Pháp của L. Sabatier, 3 bản tiếng Việt của Đào Tử Chí, Nguyễn Hữu Thấu và Y Wang. Tràn đầy khí th ế sức trai

Tiếng tăm lừng lẫy, không ai sánh

bằng

Bắp chân như cái xà ngang Đùi so ống bễ rõ ràng không thua

Sức như voi dực còn thừa Cụ Nguyễn Hữu Thấu nguyên là giáo viên trường tiểu học Pháp - Việt Buôn Ma Thuột, giỏi tiếng Êđê và tiếng Pháp. Sau cụ trở thành một nhà dân tộc học, râ't am hiểu về Ẽdê. Cụ dịch và chú thích rấ t công phu, thận trọng, một sự thận trọng hiếm có.

Thở như sấm dậy giữa mùa bão dông Chàng nằm sấp gãy xà ngang Chàng nằm ngửa gãy tan hoang

dầm sàn

Đam Săn vốn dã ngang tàng

Từ trong bụng mẹ ngược ngang đến giờ. Hồ Sưỏng chọn bản Nguyễn Hữu Thấu là chính xác và dịch theo nó là một sự bào dảm chắc chắn. Dịch giả đã bám sát nghĩa của bản này. Phần so sánh ỏ trên chứng minh điều dó. Có thể kể một vài trường hợp tiêu biểu:

N H Ậ N X É T

(HS, tr.163-164)

- “Mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm” (nguyên bản).

- “Bên ngoài khoác tấm áo choàng chiến binh

Nghêng ngang gươm giáo bên mình

Tai deo nụ, m ắt long lanh ánh trời” (Thơ) Châm ngôn Pháp có câu: “Dịch là phản” (Traduire c’est trahir). Đây là cách cường điệu sự khó khăn của việc dịch, càng khó khăn nếu đó là dịch thơ. Hồ Sưởng biết rõ diều này khi chọn dịch Đam Xãn: “Trong quá trình hoàn thành tác phẩm này, chúng

PHAN ĐĂNG NHẬT

16

- “Chàng dẫm chân lên sàn hiên. Hai lần sàn hiên làm như vỗ cánh" (nguyên bản) Bản dịch vừa sát nghĩa vừa thanh thoát, đã chuyển tải dược nhiều tình trạng khác nhau cùa sử thi, mà với thể thơ lục bát, như trên dã liệt kê: - “Chàng đi chân giậm sàn hiên

Sàn hiên như vỗ cánh lên hai lần” (Thơ)

- Về miêu tả cảnh sắc có: vẻ dẹp bình dị của cô gái; vỏ dẹp rực rỡ của nữ thần; sự sang trọng, cảnh giàu có, sức mạnh của tiếng chiêng.

- Về tính châ't anh hùng có: sự oai hùng, tính hoành tráng, sự ngang tàng, sức mạnh phi thường cùa anh hùng.

- “Chàng giắt chà gạc lên rồi ngồi xuống, trông nghênh nghênh như con rắn trong hang, ngang ngang như con cọp trong dầm. như con tê giác trong thung. Chàng nói cười, tiếng oang oang như sấm dậy sét gầm" (nguyên bàn)

- “Chàng giắt chà gạc lên trần Rồi chàng ngồi xuống ân cần hỏi han Nghênh nghênh như rắn trong hang Ngang ngang như cọp trong dầm Các tình huống trên rấ t đa dạng, nhiều khi dôĩ lập nhau, dặc biệt khó dối vổi thơ lục bát là tả các cuộc chiến tranh. Hồ Sưởng đã vượt qua được khó khăn này do hai sỗ trường là dùng từ và sử dụng nhịp điệu. nước trong Có những từ dùng rấ t sáng tạo: Như con tê giác trong thung Chàng cười chàng nói oang oang bừng nhà - “Nghe chiêng, khỉ vượn ngỡ ngàng Ngồi trơ m ặt nghệch không màng Sấm gầm sét dậy còn thua.” (Thơ) du cay".

- “Núi non, rừng rú lùi dần Gió reo, một thoáng dã làng Đam Săn"

- “Đàn ông vai cọ vào vai Đàn bà vú dụng, vú mài vào nhau” - “Rõ ràng là tù trưởng Đam Sàn đang giàu lền, chiêng lắm la nhiều. Rõ ràng là Đam Săn có chiêng đông voi bầy, có bè bạn như nêm như xếp. Làm sao mà có được một tù trưởng, đầu đội khăn nhiễu, vai mang nải hoa, đánh đâu dập tan đó, vây đâu phá nát đó như chàng?” (nguyên bản)

- “Sào phơi chim bhị, chim nhồng - “Rõ ràng tù trưởng Đam Săn La nhiều chiêng lắm dang càng Con bay, con đậu vải lồng với chim” giàu lên

- “Lặng yên chàng bước vào nhà Rồi treo chà - gạc lên xà... Lặng yên.

Voi bầy chiêng đống sắm thêm Bạn bè như xếp như nêm hàng ngàn Trên đời chì một Đam Săn Đầu mang khăn nhiễu, vai quàng nài hoa

Đánh dâu dập dó ra ma Vây đâu phá đó nát ra tro tàn Tìm đâu có một Đam Săn Vừa hùng mạnh, vừa giàu sang như chàng" (Thơ) Lặng yên dược dùng trong một văn cảnh đặc biệt. Đây là lúc gia đình Hơ Nhị đi hỏi Đam Xăn, khách khứa đang đầy nhà, chàng đang “ngúng nguẩy”. Bỗng, không nói không rằng, chàng cầm xà gạc, nhảy phịch xuống dất, không thèm bước qua cầu thang, ra đi. Chẳng ai biết Đam Xăn di đâu. Chàng đi một đoạn đường, qua quãng

NGHIÊN CỨU TRAO Đ ổ l

17

- “Vô toang cái ché m ất rồi/ còn dâu” (6/2)

- “Đĩa khiên Aên/ỉ/lại rộn ràng vang xa” (3/5)

- “Làm ba quả núi nứt ra /rạn sườn” rừng, đến ngôi nhà này rồi ngồi lặng yên. Người đọc đang theo dõi hành dộng khó hiểu này của người anh hùng “bất trị”. Đến dây từ “lặng yên” được lặp lại, đặt ở cuối câu, càng tăng thêm vẻ khó hiểu, càng gợi tò mò cho người đọc. (6/2) *

Về nhịp điệu, GS Phan Ngọc đánh giá rấ t cao. Ông viết: “Nhịp điệu là xương sống của thơ. Thơ có thể bỏ vần, bỏ quan hệ dều đặn về sô' chữ, bỏ mọi quy luật bằng trắc, nhưng không thể vứt bỏ nhịp điệu. Tôi không thấy có một thể thơ nào có thể vứt bò nhịp diệu, tự xây dựng mình trên một tình trạng tuỳ hứng về nhịp điệu”{7).

Các nhà nghiên cứu vãn hoá dân gian đã từng hết lòi ca ngợi sử thi, mà trong dó Đam Xăn ‘Tà một kiệt tác không phải bàn cãi”. Tôi cũng là một ngưòi cuồng nhiệt “khua chiêng gõ trống” cổ dộng cho sù thi. Thế nhưng, Đam Xăn không dược như sự mong đợi của học sinh và quần chúng phổ thông, về m ặt thơ ca. R ất tiếc Đẻ đất đẻ nước, cũng là một sử thi hàng đầu, cũng tình trạng ấy.

Thơ lục b át thường có nhịp thông dụng: 2/2/2. 2/2/2/2. (Trăm năm/trong cõi/người ta. Chữ tài/chữ mệnh/khéo là/ghét nhau; hoặc Sáng trăng/giải chiếu/hai hàng. Bên anh /đọc sách/bên nàng/quay tơ). Nếu như vậy thì sẽ đơn điệu và khó diễn đạt những tình huống sôi dộng.

Hồ Sưỏng đã khéo biến hoá nhịp điệu thơ lục bát trong vòng 2 câu, 14 chữ. Vì lí do trên tôi đã động viên và giúp đỡ ông Hồ Sưởng trong việc chuyển dịch Đam San. Công việc khó khăn này dã bước dầu thành công, nhưng không thể hoàn mĩ. Mong bạn đọc nhận ỏ ông một tấm lòng vì sử thi Tây N guyên.o

P.Đ.N - “Vượn kêu như xé rừng dày

Chim trong núi/chim ngoài này

(1) Bài tựa, Bài ca chàng Đam Xăn, sdd

gọi nhau” (3/5)

tr.7.

- “Nghe mòi/khách đến từng mâm.”

(2) G. Condominns, Lời nói đầu khan klei

(2/4)

Đam Di BEFEO, tr.46, fasc 2, 1955, tr.555.

- “Gió reo/một thoáng đã làng Đam Săn” (2/6)

(3) J. Dournes (Dam Bo), France - Asie số 49 - 50, mùa xuân 1950, sô' dặc biệt dành cho các dân tộc Tây Nguyên, tr.1054.

- “Cột xong ngựa/họ tới gần cầu thang”

(4) Lời giới thiệu sách Bài ca chàng Đam

(3/5)

San, Nxb. Vản hoá, Hà Nội, 1959.

- “Chiếc chiêng cái/vẫn để bên ngươi (3/5) chàng”

(5) Đam Săn, sử thì Êđê, GS Nguyễn Văn Hoàn (Chù biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.

(6) Hổ Sường, Anh hùng ca Dam Săn, sử thi

- “Sóc không nhảy/hoằng bàng hoàng (3/5) ngẩn ngơ”

Ẻđẽ, Nxb. Hội Nhà văn. Hà Nội, 2004.

- “Ché nào nưởc cũng quá vai/gần tràn” (6/2)

(7) Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 1985, tr.215.

- “Các con ơi/hãy đổ đầy” (3/3)