YOMEDIA
ADSENSE
BÁO CÁO CHẨN ĐOÁN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH VIỆT NAM DỰ BÁO LĨNH VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
68
lượt xem 10
download
lượt xem 10
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Cả Chủ tịch nước mới và Thủ tướng mới được bổ nhiệm gần đây của Việt Nam đều thuộc thế hệ trẻ của những nhà đổi mới mà mọi người mong đợi các vị này hành động một cách thực tế hướng đến việc thực hiện những nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam bao gồm những yêu cầu là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: BÁO CÁO CHẨN ĐOÁN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH VIỆT NAM DỰ BÁO LĨNH VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC CÔNG TY TÀI CHÍNH QUỐC TẾ (IFC) Tập đoàn Ngân hàng thế giới ------------- BÁO CÁO CHẨN ĐOÁN LĨNH VỰC TÀI CHÍNH VIỆT NAM DỰ BÁO LĨNH VỰC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TÁC GIẢ: Margarete O.Biallas, Thái Hồng Thu, Nguyễn Nam Hạnh Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 1
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC GIỚI THIỆU 1.1. MÔI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Cả Chủ tịch nước mới và Thủ tướng mới được bổ nhiệm gần đây của Việt Nam đều thuộc thế hệ trẻ của những nhà đổi mới mà mọi người mong đợi các vị này hành động một cách thực tế hướng đến việc thực hiện những nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam bao gồm những yêu cầu là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong khi xu thế chính trị đòi hỏi các cam kết mới trong việc chống tham nhũng và cải tổ thị trường dần dần, việc này vẫn còn được thực hiện một cách dè dặt vì lãnh đạo của Việt Nam bị ràng buộc bởi mệnh lệnh của Đảng là phát triển “một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều này được thể hiện qua việc quản lý của Nhà nước trong những lĩnh vực chiến lược của nền kinh tế và việc hạn chế tầm ảnh hưởng của các doanh nghiệp tư nhân. 1.2. BỐI CẢNH KINH TẾ VĨ MÔ Tăng trưởng ổn định, tình hình kinh tế vĩ mô khả quan và đường lối cải tổ vững chắc của Chính phủ hiện tại tạo thành một môi trường giúp phát triển kinh tế và khu vực tư nhân. Sự bùng nổ gây ấn tượng mạnh gần đây của thị trường chứng khoán và động thái đầu tư vào các danh mục chứng khoán đòi hỏi phải có nhiều biện pháp hơn nữa để tăng cường giám sát một cách thận trọng đối với các định chế tài chính là ngân hàng và phi ngân hàng. Xu hướng tăng trưởng kinh tế đang có chiều hướng khả quan. Năm 2006, mức tăng trưởng kinh tế (GDP) vẫn duy trì cao ở mức 8, 2% so với năm trước (xem bảng 1). Các ngành đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế chủ yếu là: ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và thương mại với tỷ lệ tăng trưởng giữa mức 8,3% và 10,4%. Trái lại, tăng trưởng ở khu vực nông nghiệp vẫn thấp do một loạt các thiên tai, bao gồm hạn hán ở miền Bắc, lũ lụt ở khu vực Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long và dịch bệnh ở miền Nam. Năm 2006, lạm phát vẫn duy trì ở mức kiểm soát được là 6,6%. Tỷ lệ người dân sống ở mức rất nghèo giảm từ 37% (năm 1998) xuống còn 23% (năm 2003) và cuối năm 2006 chỉ còn 18%. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 2
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Bảng 1 2003 2004 2005 2006 GDP(triệu USD – giá hiện hành) 39.672 45.210 52.408 60.850 Tăng trưởng GDP(% năm) 7,3 7,7 8,4 8,2 GDP thực / đầu người (USD) 492 556 638 725 Lạm phát, giảm phát GDP(% năm) 6,7 7,9 8,4 6,6 Tỉ giá ngoại hối (VND :USD) 15.414 15.676 15.817 15.964 Nông nghiệp (giá trị gia tăng (% của GDP) 22,54 21,76 20,89 20,4 Công nghiệp (giá trị gia tăng (% của GDP) 39,47 40,09 41,03 41,52 Dịch vụ,..(giá trị gia tăng (% của GDP) 37,99 38,15 38,07 38,08 Tỉ lệ hộ gia đình nghèo (phạm vi quốc gia) 23% 22% 18% (%) Nguồn: Ngân hàng thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; tổ chức thu thập thông tin kinh tế (EIU). Trong khi thị trường chứng khoán phát triển quá nóng vào 6 tháng cuối năm 2006 và đầu năm 2007 khiến cho chính phủ phải quan tâm nhiều hơn đến việc quản lý thị trường có khả năng đi xuống, chính thị trường đầu cơ giá lên đã đang là động lực lớn cho các doanh nghiệp Nhà nước - đặc biệt là năm ngân hàng thương mại quốc doanh - thực hiện cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Khu vực tư nhân tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong năm 2006, đóng góp của khu vực tư nhân vào nền kinh tế tăng xấp xỉ 10% GDP. Trong những năm gần đây, con số các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới (150.000 doanh nghiệp trong giai đoạn 2000-2005) là một dấu hiệu nữa cho thấy khu vực kinh tế tư nhân đang khởi sắc. Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực từ tháng 07/2006 tạo thuận lợi cho việc phát triển hơn nữa của khu vực tư nhân. Theo thống kê của chính phủ, trong 06 tháng thực hiện luật doanh nghiệp mới có 43.219 doanh nghiệp mới được đăng ký, chiếm 25% tổng số doanh nghiệp đăng ký trong giai đoạn 2000-2005 và bằng 120% số doanh nghiệp đăng ký trong năm 2005. Đầu tư tư nhân được khuyến khích nhờ vào sự đơn giản hóa thủ tục hành chính hơn nữa trong hoạt động kinh doanh và hướng đến “một sân chơi bình đẳng” cho tất cả các doanh nghiệp. Trong năm 2006, khu vực tư nhân trong nước chiếm 34% tổng gộp các khoản vốn đầu tư. Theo luật đầu tư mới có Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 3
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC hiệu lực trong năm 2006, tăng trưởng khu vực tư nhân tăng gấp đôi so với khu vực nhà nước. Khu vực tư nhân tiếp tục chứng tỏ hiệu quả hoạt động của mình so với khu vực nhà nước với mức tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp lên đến 22 % trong năm 2006 so với mức tăng trưởng của các doanh nghiệp Nhà nước là 9,4%. Cũng trong thời gian này - 2006, có 5.200 doanh nghiệp vẫn còn thuộc sở hữu toàn bộ Nhà nước hoặc sở hữu một phần Nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước với mức đóng góp 36% vào GDP thể hiện một phần ba sức mạnh kinh tế của đất nước. Cuối năm 2006, 3.782 doanh nghiệp Nhà nước đã được cổ phần hóa(1). Một khi được cổ phần hóa, một số doanh nghiệp Nhà nước này sẽ được Cục đầu tư vốn Nhà nước tập trung quản lý và Cục này sẽ giữ lại khoảng 100 đến 200 công ty chiến lược và sẽ giải tán phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa nhưng hoạt động với quy mô nhỏ và không hiệu quả. Mức độ xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam đã được 03 tổ chức lớn về xếp hạng tín nhiệm quốc tế nâng lên, cho điểm Việt Nam trên một mức tương tự như Thái Lan, Ấn Độ hoặc Philippines . Việt Nam được công ty Fitch xếp hạng BB- về xếp hạng quốc gia (ngoại tệ) và BB (nội tệ), công ty Moody xếp hạng Ba2 (về ngoại tệ - tăng hơn mức Ba3 trong năm 2006) và công ty Standard&Poor’s (S&P) xếp hạng BB+ (về nội tệ -tăng hơn mức BB trong năm 2006) và BB (về ngoại tệ, tăng hơn mức BB- trong năm 2006). 1.3. Các ưu tiên của chính phủ : Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) đã được tuyên bố là một ưu tiên của chính phủ. Để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, Chính phủ đã thông qua một số luật quy định quản lý lĩnh vực tư nhân và phát triển doanh nghiệp như Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp hợp nhất. 2. NHU CẦU DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Người ta biết tương đối ít về nhu cầu thực sự của các dịch vụ tài chính đối với các doanh nghiệp và hộ gia đình Việt Nam. Nhìn chung, lĩnh vực tài chính của đất nước được thể hiện tiêu biểu qua mức thâm nhập tài chính thấp.2 Trong tổng số dân cư là 83 triệu người, ước tính ít hơn 10% sử dụng dịch vụ ngân hàng một cách thường xuyên và ít hơn 30% mở tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng.3 Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 4
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Tiêu dùng và đầu tư trong nước vẫn giữ ở mức cao trong năm 2006. Chi phí tiêu dùng tăng 11% từ năm 2005 đến năm 2006 và 12,5% từ năm 2006 đến năm 2007 và trong năm 2007, dự báo mức tăng 13%. Mức tăng chi tiêu phản ánh sự gia tăng tuyệt đối về tài sản trong xã hội Việt Nam do kết quả từ việc tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Các hộ gia đình đã cho thấy sự gia tăng mạnh về GDP danh nghĩa trên đầu người (từ 355 USD trong năm 1998 lên 556 USD trong năm 2002 và 725 USD trong năm 2006), nguyên nhân chính là do mức lương và thu nhập phi nông nghiệp chiếm 70 % mức tăng này. Vì tài sản cá nhân tăng nên tiêu dùng cá nhân dường như cũng tăng. Tương tự như thế, tình hình công việc làm có trả lương gia tăng sẽ dẫn đến khả năng đi vay tăng cũng như mở rộng nhu cầu về các dịch vụ khác như chuyển tiền và sản phẩm tiết kiệm. Ghi chú: (1) Cổ phần hóa là việc chuyển đổi một doanh nghiệp Nhà nước thành một công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn, với đa số cổ phiếu được Nhà nước nắm giữ. (2) Trong năm 2005, chỉ có 06 triệu tài khoản ngân hàng tại Việt nam trên tổng số 80 triệu dân, trong số đó có 05 triệu tài khoản cá nhân, cho thấy mức độ thâm nhập tài chính là 6%. Con số của năm 2006 là 08 triệu tài khoản cá nhân và mức độ thâm nhập tài chính là 9,4%. (3) Theo báo cáo Phát triển Việt nam gần đây nhất của Ngân hàng thế giới, số lượng tài khoản tiết kiệm ở Việt nam hiện ở mức 25 triệu tài khoản . 2.1. Khu vực tư nhân: Tính đến thời điểm năm 2006, Việt Nam có trên 2,7 triệu doanh nghiệp đăng ký trong đó có 90% được xếp vào loại các doanh nghiệp siêu nhỏ (quy mô dưới 9 nhân viên) và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đa số các doanh nghiệp này đểu không đăng ký hoạt động với chính quyền. Theo số liệu báo cáo từ cơ quan phát triển, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, khoảng 30% các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hoặc sản xuất, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp khác (gần 70%) hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 5
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Trong năm 2006, hơn 46.000 doanh nghiệp tư nhân mới được đăng ký, thể hiện mức tăng vốn là 148 ngàn tỷ đồng so với năm trước. Điều này hứa hẹn sự gia tăng trong năm 2007 này. Trong sáu tháng đầu năm 2007, khoảng 24.000 doanh nghiệp mới được đăng ký với tổng mức vốn là 165 ngàn tỷ đồng. Trong suốt giai đoạn từ năm 2000 đến 6 tháng đầu năm 2007, hơn 230.000 doanh nghiệp mới được đăng ký với mức vốn bình quân là 2,3 tỷ đồng. Khoảng 97% trong số các doanh nghiệp mới đăng ký được xếp vào hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô và sự phức tạp của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng cùng với số lượng tổng thể của các doanh nghiệp này. Những doanh nghiệp này cần được tiếp cận nhiều hơn nữa về mặt tài chính để tăng trưởng và thành công. Trong khi đó, các khoản cho vay của ngân hàng tăng trưởng nhanh, chúng chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu tài chính của các công ty(4). Hầu hết các khoản vay cung cấp trên thị trường đều từ ngắn hạn đến trung hạn, vì các ngân hàng nói chung lại thiếu nguồn vốn dài hạn và tránh xảy ra tình trạng không tương hợp giữa các kỳ hạn gửi tiền và cho vay. Ghi chú : (4) Theo một nghiên cứu của CIDA ( Cơ quan Phát triển quốc tế của Canada), các khoản tín dụng mới trong năm 2006 chiếm khoảng 17% - 19 % GDP, trong khi đầu tư mới chiếm khoảng 38%-42% GDP. Các ngân hàng đang đáp ứng được khoảng phân nửa các nhu cầu đầu tư. 3. TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC TÀI CHÍNH Lĩnh vực tài chính Việt Nam ít thanh khoản hơn so với một vài nước trong khu vực với hầu hết các khoản tiền gửi đều được sử dụng vào các khoản cho vay. Các khoản cho vay tăng trưởng nhanh hơn doanh số tiền gửi trong những năm qua, như được trình bày trong bảng 2. Xu hướng này có vẻ bị đảo ngược trong năm 2006, trong đó tăng trưởng tín dụng đi xuống do bùng nổ thị trường chứng khoán chính thức và phi chính thức- nơi mà các doanh nghiệp có thể nhận được hình thức tài trợ khác thay thế rẻ hơn bằng việc huy động vốn cổ phần. Trong năm 2006, tăng trưởng tín dụng giảm cũng là do Ngân hàng nhà nước thắt chặt tín dụng bằng cách tăng gấp đôi mức dự trữ bắt buộc để kiểm soát lạm phát. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 6
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Cho dù các khoản vay cho thấy vẫn tăng trưởng ổn định so với năm trước, dư nợ tín dụng chiếm 70% GDP, vẫn còn thấp hơn mức bình quân 80% của các quốc gia Đông Nam Á Bảng 2 2003 2004 2005 2006 Các khoản vay (Dư nợ tín dụng) (triệu 19.251 26.795 34.969 43.462 USD) Tỷ lệ tăng trưởng cho vay (%) (dư nợ tín 28 42 32 25 dụng) Tỷ trọng cho vay (%GDP) (Dư nợ tín 49 59 67 71 dụng trong GDP) (Doanh số) Tiền gửi (triệu USD) 21.498 28.205 36.839 49.905 Tỷ lệ tăng trưởng doanh số tiền gửi 26 33 32 37 Tỷ trọng tiền gửi (% GDP) 54 62 70 82 Cho vay / Tiền gửi (%) (Tỷ lệ Dư nợ tín 90 95 95 87 dụng trong doanh số tiền gửi) Tiền mặt/ Tổng số tiền gửi (%) (Tỷ 45 30 trọng tiền mặt trong doanh số tiền gửi) Các khoản vay trên 1.000 người Số tiền gửi trên 1.000 người Số định chế tài chính trên 100.000 người Số chi nhánh trên 100.000 người Nguồn : Ngân hàng thế giới và Ngân hàng Nhà nước Việt nam Cho tới năm 1988, khi hệ thống ngân hàng đã trở thành một hệ thống hai cấp, Việt Nam đã vận hành một hệ thống ngân hàng một cấp, dẫn đến hệ quả là sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Kể từ năm 1988, việc chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung sang một nền kinh tế thị trường đã tạo ra một hệ thống ngân hàng đa dạng hơn, trong đó các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài phục vụ một Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 7
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC cơ sở rộng lớn khách hàng. Bảng 3 trình bày diễn tiến của mỗi loại hình tổ chức tài chính trung gian trong những năm qua. Vì Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 07/2006, Chính phủ cần phải tự do hóa và mở cửa hơn nữa lĩnh vực tài chính và ngân hàng để có sự cạnh tranh trực tiếp nhiều hơn từ nước ngoài. Các ngân hàng sẽ bị ngăn trở hoạt động do không đủ vốn, quy mô hoạt động bị giới hạn và rủi ro tín dụng cao. Việc cho vay nhắm đến ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà nước và phần lớn các khoản vay này được đảm bảo bằng tài sản hoặc đất đai. Lĩnh vực cho thuê tài chính vẫn ở mức thấp và kém phát triển. Lĩnh vực bảo hiểm đã có một sự tăng trưởng nhanh, tuy nhiên vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu so với các nước trong khu vực. Thị trường vốn được thể hiện tiêu biểu bằng một thị trường vốn cổ phần đầu cơ và đồng thời một thị trường trái phiếu kém phát triển. 3.1. Số lượng và loại hình tổ chức tài chính Bảng 3 2003 2004 2005 2006 Số lượng ngân hàng 69 69 71 80 Ngân hàng cổ phần 38 36 35 37 Ngân hàng nước ngoài 26 28 30 31 Ngân hàng thương mại quốc doanh 5 5 5 5 Ngân hàng liên doanh 5 Ngân hàng chính sách và ngân hàng phát triển 1 2 Quỹ tín dụng nhân dân 900 926 Hợp tác xã tín dụng và tài trợ vi mô 40 50 60 70 Nguồn: BTC 3.2. Các ngân hàng thương mại quốc doanh Năm ngân hàng thương mại quốc doanh (trong bảng 6 bên dưới) cùng hoạt động tại hơn 2.600 chi nhánh. Ngoài ra, trong tháng 5/2006, Chính phủ đã chấp thuận việc thành lập hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển dưới hình thức tổ chức tài chính sở hữu nhà nước phi lợi nhuận. Những ngân hàng thương mại quốc doanh này chiếm 60% tổng tài sản của lĩnh vực tài chính và chiếm 63% trong tất cả hoạt động cho vay. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 8
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Về mặt lịch sử, những ngân hàng thương mại quốc doanh đã là một công cụ cho vay theo chính sách, với việc cho vay bị tác động bởi các mục tiêu xã hội hay chính trị hơn là xem xét các mục đích thương mại. Mỗi ngân hàng đã tập trung một cách truyền thống vào một phân đoạn ngành nghề nào đó. Những ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn đóng vai trò là nguồn tài trợ chính cho các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không có năng lực cạnh tranh theo tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù đã phải đối mặt với nhiều rủi ro từ các doanh nghiệp này nhưng các ngân hàng thương mại quốc doanh thường không có giải pháp thay thế nào khác mà vẫn tiếp tục tài trợ. Trong những năm gần đây, tiến trình đổi mới đã dẫn đến một sự gia tăng đa dạng hơn cho vay khu vực tư nhân. Vì các ngân hàng thương mại quốc doanh đang tiếp cận việc cổ phần hóa, họ ngày càng tăng cường tập trung mô hình ngân hàng đa năng cung cấp một dãy đầy đủ các sản phẩm dịch vụ tài chính. Tất cả những ngân hàng thương mại quốc doanh trừ Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long hiện đã có công ty cho thuê tài chính. Việc cổ phần hóa những ngân hàng thương mại quốc doanh trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNN&PTNT) dự trù sẽ hoàn thành trong năm 2007 và chính phủ cũng lên kế hoặch cổ phần hóa NHNN&PTNT vào năm 2008. Nhờ vào mạng lưới chi nhánh rộng lớn và uy tín cao với những người gửi tiền trong nước đã giúp các ngân hàng thương mại quốc doanh có một lợi thế cạnh tranh mạnh hơn so với các định chế tài chính tư nhân. Việc cho vay được bao cấp và có sự hỗ trợ của chính phủ cho phép những ngân hàng thương mại quốc doanh thu hút một lượng lớn khách hàng. Nhưng ngược lại, các ngân hàng này chịu sự can thiệp của chính quyền và dẫn đến tình trạng dôi thừa nhân viên và dường như họ bị điều khiển hơn là được quản lý. Tổng số nhân viên của những ngân hàng thương mại quốc doanh là 57.000 người, phần lớn trong số này làm việc trong NHNN&PTNT. Cũng vì thế, họ thiếu động lực để xây dựng những tầm nhìn dài hạn và thay vào đó là theo đuổi những mục tiêu ngắn hạn. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 9
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Tất cả những ngân hàng thương mại quốc doanh đều có cơ sở vốn tương đối yếu do các món nợ xấu chồng chất cần được trích dự phòng rủi ro và xóa nợ. Hầu hết những ngân hàng thương mại quốc doanh đều không đáp ứng được quy định về hệ số vốn an toàn tối thiểu (CAR) theo tiêu chuẩn quốc tế là 8%. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 3- 4% đối với những ngân hàng thương mại quốc doanh được so sánh một cách bất lợi với mức trung bình của khu vực là 13,1% ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương và 12,3% ở khu vực Đông Nam Á. Những con số này có thể thấp hơn nhiều hoặc thậm chí là âm nếu được tính theo các tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế. 3.3. Ngân hàng cổ phần Các ngân hàng cổ phần (NHCP) có lịch sử hoạt động khá ngắn, với thời gian hoạt động dưới 15 năm. Mặc dù vai trò của các NHCP vẫn còn khiêm tốn trong lĩnh vực ngân hàng nói chung nhưng hoạt động kinh doanh năng động và luôn đổi mới cùng bộ máy quản lý có năng lực cao của các NHCP đã đặt một áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các NHTM Nhà nước và các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua. Dù có những nỗ lực yêu cầu củng cố của Ngân hàng Nhà nước Việt nam 5, số lượng ngân hàng cổ phần vẫn còn cao và thậm chí còn tăng hơn trong năm ngoái, lên đến 37 ngân hàng, một phần là do sự hấp dẫn và việc định giá quá cao của cổ phiếu các ngân hàng trên thị trường chính thức và không chính thức. 37 ngân hàng cổ phần được chia thành 26 ngân hàng cổ phần đô thị và 11 ngân hàng cổ phần nông thôn, phản ánh thị trường kinh doanh chính của các ngân hàng này. Vào cuối năm 2006, các ngân hàng tương đối nhỏ này có cổ đông chính là tư nhân với mức vốn của mỗi ngân hàng cổ phần đô thị thay đổi giữa mức 35 triệu USD tới 125 triệu USD 6. Tầm hoạt động của các ngân hàng cổ phần vẫn còn bị giới hạn, trong phạm vi từ 6 đến 80 chi nhánh /phòng giao dịch, chủ yếu trong khu vực đô thị. Cùng với thị phần hoạt động nhỏ, tình hình mạng lưới hạn chế đặt ra câu hỏi về khả năng cạnh tranh dài hạn của một số NHCP và việc củng cố hơn nữa trong lĩnh vực này là điều được mong đợi. Các ngân hàng cổ phần đang chủ động tăng vốn để đẩy mạnh năng lực cạnh tranh của họ. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 10
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Mặc dù quy mô nhỏ, nhân sự bị giới hạn và mạng lưới chi nhánh chưa đủ tầm khi so sánh với các ngân hàng thương mại quốc doanh nhưng các ngân hàng cổ phần đã thu hút nhiều nhà đầu tư sẵn lòng trả mức chênh lệch giá cổ phiếu rất cao nhờ vào sự tăng trưởng nhanh, khả năng sinh lợi cao và chính sách chia cổ tức rộng rãi. Bảng 4 bên dưới tóm lược các khoản đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào các ngân hàng cổ phần trong thời gian gần đây: Bảng 4 Ngân hàng cổ phần Ngân hàng nước ngoài Tỷ lệ % nắm giữ của ngân hàng nước ngoài tại ngân hàng cổ phần ACB Standard chartered bank 8,56 Sacombank ANZ 10 Techcombank HSBC 10 VP. Bank OCBC 10 Ngân hàng phương Nam United Overseas Bank 10 (UOB) Habubank Deutsche bank 10 Các ngân hàng đứng đầu thị trường trong khối ngân hàng cổ phần gồm: Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), NHTMCP Sài gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Kỹ thương (Techcombank), Ngân hàng TMCP Quốc tế, Ngân hàng TMCP Đông Á. Các ngân hàng tư nhân khác đang nổi lên gồm: Habubank, Sài Gòn Công Thương, Ngân hàng Phương Nam và Ngân hàng Quân Đội. Các ngân hàng cổ phần phấn đấu trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu hoặc ngân hàng đa năng cung cấp mọi sản phẩm ngân hàng cho mọi phân khúc thị trường. Tất cả các ngân hàng này cũng cung cấp dịch vụ ngoại hối với một số giới hạn về phần chênh lệch mà ngân hàng có thể tính căn cứ vào tỷ giá ban hành chính thức. Gần đây, Ngân hàng xuất nhập khẩu VN (Eximbank) đã được phép ấn định tỷ giá mua và bán ngoại tệ của riêng ngân hàng trên cơ sở thử nghiệm, một bước hướng đến tự do hóa thị trường. Nói chung, các ngân hàng cổ phần trong nước đang cạnh tranh gay gắt với nhau và nhiều ngân hàng chọn chiến lược giống nhau để thực hiện. Các nguồn lực được dàn Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 11
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC trải quá mỏng vì họ phải nổ lực cạnh tranh thông qua một dãy các sản phẩm dịch vụ đang cung ứng. Kết quả là lợi nhuận mang lại ít. Ghi chú: (5) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa đưa ra chướng ngại nữa bằng cách xác lập những mức rào cản cao cho bất cứ ngân hàng nào có ý định thành lập mới trước khi được cấp giấy phép. Tất cả ngân hàng cần có vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng (62,8 triệu USD) vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng (187 triệu USD) vào năm 2010. (6) Nguồn : Tạp chí Thời báo Kinh tế Việt nam (VET) Các sản phẩm không được khai thác và quá giống nhau với việc thiết kế sản phẩm còn sơ xài, nếu không nói là kém phát triển (ví dụ tài trợ cầm cố). Tuy nhiên, một vài ngân hàng đã bắt đầu chuyên môn hóa và cải tiến sản phẩm. Ví dụ, ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt nam (Eximbank) và ngân hàng Đông Á đã tập trung vào các giao dịch ngoại hối và tài trợ xuất nhập khẩu bao gồm thư tín dụng. Ngân hàng Sài Gòn Thương tín đã mở một chi nhánh chuyên phục vụ cho giới phụ nữ và ngân hàng ACB đã mở rộng giờ làm việc, hiện giờ làm việc 7 ngày một tuần tại các chi nhánh ở các siêu thị và trung tâm mua sắm. Sacombank, ACB và ngân hàng Kỹ thương cũng bắt đầu cung cấp dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động. Ngân hàng Xuất nhập khẩu và ngân hàng Kỹ thương đã dẫn đầu việc đưa ra các công cụ phái sinh trên thị trường Việt Nam, cung cấp các quyền chọn để giảm thiểu rủi ro trong việc định gía hàng hóa. Sacombank và ACB cũng bắt đầu hoạt động của công ty cho thuê tài chính là công ty con của ngân hàng. Trong khi tất cả các ngân hàng cổ phần và ngân hàng thương mại quốc doanh cung cấp dịch vụ tài trợ thương mại truyền thống thì dịch vụ bao thanh tóan hiện chỉ mới được 11 ngân hàng trong nước cung cấp bao gồm:VCB, ACB, Sacombank, Techcombank và 11 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nhỏ hơn thì phần lớn thuộc quyền sở hữu của các cá nhân, gia đình hoặc các doanh nghiệp. Sự tách biệt giữa Hội Đồng Quản Trị và Tổng Giám đốc thì luôn luôn không rõ ràng và Ban Kiểm soát hoạt động như Phòng Kiểm toán nội bộ thay vì bảo vệ quyền lợi các cổ đông. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 12
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Trong nhiều ngân hàng cổ phần, hệ thống thông tin quản lý (MIS) không được phát triển tốt. Việc tạo ra thông tin cơ bản về khách hàng (số tài khoản từng khách hàng, loại hình dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, v.v) thường không thể thực hiện. Hiện nay chỉ có các ngân hàng cổ phần dẫn đầu mới trang bị hệ thống ngân hàng lõi hiện đại. Mặc dù rất khó để đánh giá và so sánh, các kỹ năng nghiệp vụ có vẻ được phát triển tốt hơn tại các ngân hàng cổ phần, là nơi mà đội ngũ nhân viên thường tập trung vào khách hàng và hướng về thị trường nhiều hơn so với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Đội ngũ nhân viên trong các ngân hàng cổ phần thường được tập huấn tại ngân hàng và tại phòng ban làm việc thông qua việc tiếp xúc với khách hàng. Ngoài ra, họ cũng được động viên bởi các khoản thu nhập trọn gói dựa trên hiệu quả công việc của mình. Cùng với sự tăng trưởng này, các ngân hàng cổ phần đang ngày càng chiếm được lòng tin của công chúng nhiều hơn với mức tăng trưởng doanh số tiền gửi tăng xấp xỉ 40% so với năm 2006. Thị phần của các ngân hàng cổ phần cũng tăng trưởng đến 17,6% ở Hà Nội và 38% ở thành phố Hồ Chí Minh so với thị phần của các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm 59% ở Hà Nội và 35,5% ở Thành Phố Hồ Chí Minh 7. Ghi chú: (7) Nguồn : Thời báo Kinh tế Việt Nam. 3.4. Các ngân hàng nước ngoài Trong năm 2006, các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng liên doanh đã chiếm lĩnh 9,3% hoạt động cho vay trên thị trường tài chính Việt Nam. Tại Việt Nam có 31 ngân hàng nước ngoài đang hoạt động dưới hình thức chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của các ngân hàng quốc tế lớn và việc vốn hóa không phải là một vấn đề. Các ngân hàng nước ngoài chủ yếu cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước lớn và các cá nhân nước ngoài tại Việt Nam. Một số các ngân hàng nước ngoài (Citibank, ANZ, và HSBC) cũng hướng vào đối tượng là khách hàng người Việt Nam giàu có. Họ đã nỗ lực tung ra thị trường Việt Nam các sản phẩm mới như: các dịch vụ cho vay thế chấp (ANZ) và chứng chỉ tiền gửi trung hạn (HSBC). Đồng thời họ đã thâm nhập vào thị trường Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 13
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC bán lẻ qua việc cung cấp dịch vụ cho vay mua xe ô tô, mua nhà và thẻ tín dụng quốc tế. Các ngân hàng nước ngoài như Citibank, ANZ và HSBC cung cấp đầy đủ nhiều loại dịch vụ ngân hàng qua Internet tương phản với chức năng yêu cầu còn hạn chế của các dịch vụ Internet do các ngân hàng thương mại lớn của nhà nước cung cấp. Các ngân hàng như Citibank và HSBC đang phát triển các hoạt động ngân hàng đầu tư một cách nhanh chóng để đáp ứng thị trường chứng khoán quốc gia đang bùng nổ. Tuy nhiên, những hạn chế trong việc huy động tiền gửi Đồng Việt Nam gây cản trở cho một sân chơi bình đẳng và việc mở rộng thị phần của các ngân hàng nước ngoài đã bị chậm lại. Các ngân hàng lớn như HSBC, Citigroup, Deutsche Bank và ANZ đã mở rộng sự hiện diện của mình bằng cách mua cổ phần của các ngân hàng TMCP trong nước. Gần đây Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã tăng giới hạn tỷ lệ mức vốn chủ sở hữu nước ngoài từ 10% lên 15% trên tổng vốn điều lệ tại một ngân hàng Việt Nam. Và chính phủ cũng dự định sẽ tăng mức này lên 20%. Theo các cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kể từ ngày 01/04/2007, bất cứ ngân hàng có vốn sở hữu nước ngoài nào đều được phép hoạt động tại Việt Nam và được quyền cung cấp đầy đủ các loại hình dịch vụ như các ngân hàng trong nước bao gồm cả việc huy động vốn bằng Đồng Việt Nam. Theo NHNNVN, 7 ngân hàng nước ngoài bao gồm Standard Chartered Bank, HSBC, ANZ, vài ngân hàng Đài Loan và Hàn Quốc đang xem xét nộp đơn xin thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. 3.5. Tài chính vi mô Hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam không được thiết lập có căn cơ ổn định như là một phương thức kinh doanh dịch vụ tài chính bền vững với mục tiêu hướng đến là đối tượng nghèo nhất của xã hội. Không có chiến lược cho hoạt động tài chính vi mô và hoạt động này không được hội nhập vững chắc vào lĩnh vực tài chính, phản ánh một thị trường phần nào còn chưa phát triển. Vẫn còn tồn tại một xu hướng phổ biến là xem tài chính vi mô như một công cụ xã hội chống lại sự nghèo khổ và tín dụng vi mô như một công cụ cho vay theo chính sách cần được hỗ trợ bằng các khoản tiền trợ cấp. Điều này tạo ra một số méo mó về chính sách thêm vào đó là một khuôn khổ pháp lý và quản lý theo qui định còn trong thời kỳ quá độ và yếu kém về tổ chức. Lĩnh vực này bao gồm 3 loại thể chế chính thức, bán chính thức và phi chính thức. Khoảng 70-80% người nghèo ở Việt Nam đã tiếp cận với các dịch vụ tài chính vi mô, tối thiểu là tín dụng và tiết kiệm được chủ yếu cung cấp bởi các tổ chức chính thức như: Ngân hàng Nông Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 14
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, và Quỹ tín dụng Nhân dân. Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ và số lượng sản phầm cung ứng chưa thoả mãn yêu cầu. Lĩnh vực bán chính thức bao gồm các tổ chức chính phủ và các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Lĩnh vực bán chính thức và phi chính thức gồm khoảng 57 tổ chức phục vụ cho khoảng 164.000 khách hàng tại 547 xã và chiếm khoảng 7% thị trường tài chính vi mô. Lĩnh vực phi chính thức, bao gồm những người cho vay tiền, ROSCAs, bạn bè và người thân, ước tính đáp ứng khoảng 50% tổng nhu cầu tín dụng của người nghèo và người có thu nhập thấp. 3.6. Công Ty Cho Thuê Tài Chính Hiện nay có 12 công ty cho thuê tài chính hoạt động tại Việt Nam, trong đó 7 công ty là công ty con của các ngân hàng thương mại nhà nước. Tất cả các công ty này đều nằm dưới sự giám sát của NHNNVN (SBV). Ngoài Luật NHNNVN và Luật các tổ chức tín dụng, lĩnh vực cho thuê tài chính còn chịu sự quy định của một số nghị định xác định quyền và nghĩa vụ được qui định trong hợp đồng cho thuê tài chính, việc bán những tài sản này, quyền của người cho thuê trong việc thu hồi tài sản trong trường hợp chấm dứt sớm việc thuê tài sản, và việc cho thuê lại, hoặc bán lại các tài sản này. Việc thiếu một cơ quan hoặc Luật về tín thác có thể tạo ra những vấn đề khó khăn trong việc xác định những nghĩa vụ về việc được ủy thác của người đi thuê sau khi bán các khoản phải thu có truy đòi. Các công ty cho thuê tài chính cũng than phiền về việc thiếu những chỉ dẫn pháp lý về việc lấy lại tài sản cho thuê, qui trình và thủ tục để giải quyết những tranh chấp khi bán những tài sản được lấy lại đó. Cho thuê tài chính 2004 2005 2006 05/2007 Đang cho thuê (tỷ VND) 6.427 7.700 8.700 9.284 Đang cho thuê (triệu USD) 410 487 545 580 (% trong GDP) 0,91 0,93 0,90 0,96 Hoạt động trên thị trường cho thuê tài chính còn bị giới hạn một cách tương đối, với tổng giá trị tài sản đang cho thuê dưới 1% trong GDP, một phần do thiếu nguồn vốn dài hạn bằng đồng Việt Nam với chi phí thấp của các công ty tư nhân cho thuê tài chính. Khả năng thu hút nguồn vốn với chi phí thấp bị kiềm chế do pháp luật hiện hành, điều này giới hạn khả năng huy động vốn trực tiếp từ công chúng của các công ty cho thuê tài chính. Hoạt động bị giới hạn có thể quy cho quan niệm sai lệch về công cụ này của cơ quan giám sát, người cho thuê và người đi thuê, tất cả những người này đều xem việc cho thuê tài chính như một hình thức phụ của dạng cho vay có tài sản đảm bảo thông thường ở Việt Nam. Không có chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế dành cho người đi thuê và cho thuê. Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 15
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Tình hình tăng trưởng chậm trong lĩnh vực cho thuê tài chính có thể một phần là do sự thiếu hiểu biết về công cụ này của công chúng. 3.7. Các Công ty bảo hiểm Việt Nam đã tích cực phát triển ngành bảo hiểm. Luật bảo hiểm được ban hành tháng 4/2001 cho phép các công ty liên doanh nước ngoài và các chi nhánh công ty con của các công ty nước ngoài được hoạt động tại Việt Nam. Kết quả là có 16 công ty cổ phần bảo hiểm trong nước, 5 công ty liên doanh và 15 công ty con 100%vốn nước ngoài được thành lập cùng với 3 công ty bảo hiểm nhà nước. Tất cả các công ty bảo hiểm nhà nước- Bảo Minh, Vinare và Bảo Việt vừa được cổ phần hoá. Bảo Việt, công ty bảo hiểm nhà nước lớn nhất là công ty bảo hiểm nhân thọ đứng thứ 2 sau Prudential về phí bảo hiểm nhân thọ và đứng đầu về số hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực với thị phần tương ứng là 36,5% và 46,9%. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, tổng thị phần của Bảo Việt và Bảo Minh chiếm khoảng 65%. Cho đến cuối năm 2006, Việt Nam có 37 công ty bảo hiểm, bao gồm 21 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 7 công ty bảo hiểm nhân thọ, 1công ty tái bảo hiểm và 8 công ty môi giới bảo hiểm. Lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam gần đây đã có một mức tăng trưởng vững chắc với mức tăng trưởng doanh thu bảo hiểm tăng 25% mỗi năm. Chỉ trong năm 2006, doanh thu bảo hiểm tại Việt Nam là 1,1 tỷ USD, chiếm 1,82% GDP và tăng 14,08% so với năm 2005. Các khoản đầu tư dài hạn chiếm 60% tổng doanh thu mỗi năm. Trong năm 2005, tổng đầu tư dài hạn của các công ty bảo hiểm là 1,5 tỷ USD và trong năm 2006 là 1,87 tỷ USD (trong đó gồm 49% trái phiếu chính phủ, 5% trái phiếu công ty, 44% tiền gửi có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng, 2% bất động sản và đầu tư khác). Mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể nhưng Việt nam có mức tỷ trọng thấp nhất so với Châu Á trong năm 2005 về; (i) tổng phí bảo hiểm trên đầu người là 11 USD so với mức bình quân của Châu Á là 198 USD và (ii) tỷ lệ thâm nhập thị trường (tỷ lệ % tổng phí trong GDP) là 2% so với mức bình quân của Châu Á là 6,8% (còn thấp nhất lần lượt là 11 USD so với mức trung bình của Châu Á là 198 USD và 2% so với mức trung bình của Châu Á là 6,8%.). Chính phủ đang nhắm mục tiêu tăng mức độ thâm nhập thị trường của hoạt động bảo hiểm lên 4,2% đến năm 2010. Tuy nhiên, có một vài trở ngại để đạt đến mục tiêu tham vọng này, bao gồm: + Thiếu những khoản đầu tư nội tệ dài hạn, suất thu lợi cao, chất lượng tốt. Đặc biệt là ngành bảo hiểm nhân thọ chịu ảnh hưởng cụ thể bởi sự phát triển yếu kém của thị trường Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 16
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC vốn quốc gia, tính không ổn định của thị trường trái phiếu và sự trì trệ của thị trường bất động sản. + Tính sẵn có của sản phẩm bị giới hạn vì khả năng tiếp cận sản phẩm của khách hàng chỉ giới hạn trong khu vực thành thị (cả nhân thọ và phi nhân thọ) và khách hàng doanh nghiệp (phi nhân thọ). + Các công ty bảo hiểm trong nước thiếu cả về năng lực bán hàng cứng (bằng cách dùng thật nhiều quảng cáo để tuyên truyền cho sản phẩm) và năng lực bán hàng mềm (bán hàng theo lối kín đáo, gián tiếp ,quảng cáo và khuyến mãi mềm) để có thể cạnh tranh có hiệu quả , do đó dẫn đến kết quả là bỏ lỡ cơ hội cho các sản phẩm bảo hiểm đa dạng đặc biệt là bảo hiểm cho hoạt động xuất nhập khẩu. + Khách hàng / nguời tiêu dùng có sự hiểu biết giới hạn về sản phẩm đặc biệt là sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ. Luật pháp còn quy định cho các công ty bảo hiểm bị giới hạn phần nào trong sự lựa chọn các khoản đầu tư của họ. Chẳng hạn, họ không được mua các khoản phải thu từ việc cho thuê tài chính. Cũng có những giới hạn về các tiêu chuẩn đầu tư cho các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm nhân thọ chỉ có thể đầu tư tối đa 50% vốn nhàn rỗi trong khoản dự trữ kỹ thuật theo điều lệ vào trái phiếu và cổ phiếu công ty không có đảm bảo, và tối đa 40% vào kinh doanh bất động sản, cho vay và các khoản đầu tư uỷ quyền thông qua các tổ chức tài chính tín dụng. Giới hạn này lần lượt là 35% và 20% cho các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. 3.8. Quỹ hưu trí Trái ngược với lĩnh vực bảo hiểm, lĩnh vực quỹ hưu trí tụt hậu với một quỹ hưu trí do nhà nước quản lý (quỹ bảo Hiểm xã hội nhà nước) với số dư đang hoạt động là 2,5 tỷ USD vào cuối năm 2006. Quỹ bảo hiểm xã hội Nhà nước này cho NHNNVN và ngân hàng đầu tư phát triển vay để cho vay chính sách và đầu tư vào trái phiếu, trái phiếu kho bạc , trái phiếu ngân hàng và các khoản tiền gửi ngân hàng. Gần đây chính phủ vừa ra quyết định thực hiện một kế hoạch hưu trí tự nguyện cho những nguời làm việc không có hợp đồng dài hạn, ngoài việc đẩy mạnh kế hoạch hưu trí hiện tại. AON Việt Nam cũng đang chủ động hợp sức với một công ty quản lý quỹ Việt Nam để quản lý quỹ hưu trí cho các công ty Việt Nam. 3.9. Các định chế tài chính phi ngân hàng khác Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 17
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC Bên cạnh các ngân hàng, công ty cho thuê tài chính và công ty bảo hiểm, Việt Nam còn có 6 công ty tài chính và 18 công ty quản lý vốn đang hoạt động trên thị trường. Có tổng cộng 59 công ty chứng khoán và môi giới chứng khoán đăng ký tại Uỷ ban Chứng khoán nhà nước Việt Nam, là cơ quan quản lý hai trung tâm giao dịch chứng khoán tại TPHCM và Hà Nội. Cho đến tháng 8/2006, công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC) đã được thành lập như một công ty tài chính chuyên môn hoá. Đây là công ty nắm giữ mọi tài sản nhà nước, được ủy quyền quản lý và cổ phần hóa các tài sản này. Công ty SCIC có vai trò quan trọng trên thị trường vốn Việt Nam xét về mặt cung cấp các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá cho thị trường chứng khoán. Hoạt động này có thể được xem như việc trực tiếp tham gia cũng như việc đầu tư trên thị trường vốn. Công ty SCIC có mục tiêu lợi nhuận và phải tối đa hoá suất thu lợi trên vốn của nhà nước. 4. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG 4.1. Tài sản Tính đến cuối năm 2006, Tổng tài sản của toàn bộ lĩnh vực ngân hàng là 1. 203. 823 tỷ VND (tương đương 75,43 tỷ USD), trong đó các ngân hàng TM nhà nước nắm phần lớn tài sản trong hệ thống tài chính (67% - xem biểu đồ 1). Do chất lượng các khoản cho vay kém và cho vay theo chỉ đạo của chính phủ nên chất lượng tài sản kém. Quản lý rủi ro nhìn chung kém và việc báo cáo về tình hình quản lý rủi ro ở mức thoả đáng thấp. Thị phần của các ngân hàng TMCP tăng trưởng nhanh chóng và hiện nay tổng tài sản của các NHTMCP đang ở mức xấp xỉ 25% so với toàn hệ thống, mặc dù việc quản lý rủi ro còn không đồng đều nhiều và những con số này có thể đánh giá quá cao thị phần thực tế. Tổng tài sản của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tăng đáng kể (+35%) với tổng dư nợ cho vay chiếm 9% trong toàn hệ thống ngân hàng tại Việt Nam. Chất lượng danh mục cho vay rất tốt và việc quản lý rủi ro không có vấn đề. 4.2. Tài sản Nợ Các ngân hàng TM nhà nước có tổng tài sản nợ chiếm 70% trên thị trường (xem biểu đồ 2). Do mạng lưới chi nhánh hoạt động rộng khắp và uy tín tốt, các ngân hàng TM nhà nước có khả năng thu hút các khoản tiền gửi ngắn hạn và dài hạn trên khắp cả nước. Các ngân hàng TMCP đang tăng nỗ lực của mình để huy động tiền gửi và triển khai nhiều sản phẩm để thu hút tiền gửi tiết kiệm, hướng mục tiêu vào các cá nhân người Việt Nam để đẩy mạnh huy động tiền gửi. Ngân hàng Quân Đội, Eximbank, ACB đã đi tiên phong với sản phẩm tiết kiệm kèm theo các giải thưởng, trong khi VIB và EAB cung cấp sản phẩm tiết kiệm với lãi suất bậc thang và ngân hàng VP đã đưa ra sản phẩm tiết kiệm bằng đồng nội tệ Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 18
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC được đảm bảo theo chỉ số ngoại hối. Trong khi điều này đã dẫn đến thị phần tăng lên, thì thời hạn tiền gửi tiết kiệm vẫn hầu hết là ngắn hạn và tốt nhất là trung hạn. 5. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG Theo dữ liệu của NHNNVN, thành quả hoạt động của lĩnh vực ngân hàng trong năm 2006 đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt nổi bật là các NHTMCP. Tổng nợ vay không sinh lời- NPL của toàn ngành trong năm 2006 ước lượng xấp xỉ 3% theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam và 7% theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Tỷ lệ Lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA) trung bình là 0,9% cho toàn ngành với hầu hết các NHTMCP có tỷ lệ này trên 1%. Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên Vốn tự có (ROE) trung bình là khoảng 15-17% cho toàn ngành trong khi đó của NHTMCP là 20-25%. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiệu (CAR) trung bình của các ngân hàng là ở mức 8% trong khi của một vài ngân hàng là 12-13%. Một sự hiệu chỉnh thị trường cổ phiếu trong tháng 3/2007 đã làm giá cổ phiếu ngân hàng giảm xuống bằng 30-50% giá trị của các cổ phiếu này vào đầu năm nay. Điều này có thể làm cho các ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu theo yêu cầu vào năm 2008. 5.1. Nợ không sinh lời/ không hiệu quả/ không thu hồi được gốc và lãi khi đến hạn/ không thực hiện đúng theo hợp đồng (nợ cho vay ) Mức thực sự về các khoản nợ không sinh lời (không thu hồi được gốc và lãi khi đến hạn/ không thực hiện đúng theo hợp đồng) trong lĩnh vực ngân hàng khó có thể ước tính do việc thiếu minh bạch và các dữ liệu thống kê cũng như các chênh lệch trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) về việc định nghĩa Nợ không sinh lời (NPL) và thiết lập các khoản dự phòng rủi ro về thất thoát vốn. Theo số liệu của NHNNVN, trong số các ngân hàng TMNN, nợ không sinh lời – NPL - đã giảm một cách đều đặn kể từ năm 2000, từ mức cao trong năm 2001 là 13% và năm 2002 là 8% (xem bảng 5): Bảng 5: Nợ quá hạn và chưa thanh toán/ tổng nợ (NPL) Năm NHTMNN Ngân hàng chính sách xã hội và NH TMCP không Tổng cộng MHB thuộc sở hữu Nhà nước 2003 0,00% 0,00% 0,00% 0,00% 2004 2,92% 4,92% 1,91% 2,77% Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 19
- Báo cáo chẩn đoán lĩnh vực tài chính Việt Nam – Tài liệu của IFC 2005 3,81% 3,52% 1,42% 3,17% 2006 3,19% 3,34% 1,29% 2,60% Nguồn: NHNNVN Đối với lĩnh vực tư nhân - các ngân hàng TMCP, tỷ lệ nợ NPL trung bình đã được báo cáo là khoảng 1% tổng dư nợ vào cuối năm 2005. Đối với các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, con số NPL ở mức thấp là 0,06%. Nếu theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế, thì những con số NPL này đối với các ngân hàng TM nhà nước được cho là vào khoảng 15- 20% tổng dư nợ. Hầu hết các khoản NPL là nợ của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khoảng thời gian từ năm 2001-2003, chính phủ đã cấp thêm một khoản tiền hỗ trợ lớn từ ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước để có thể giảm bớt các khoản NPL của các doanh nghiệp. Trong số những khoản NPL đã được các doanh nghiệp nhà nước giải quyết, thì 36% nợ được thanh toán từ nguồn ngân sách nhà nước, 40% là từ nguồn quỹ dự phòng rủi ro và 24% từ nguồn thanh lý tài sản. Theo điều 7 trong Quyết định 493 của NHNNVN năm 2005 yêu cầu các ngân hàng phải thiết lập hệ thống phân loại tín dụng để tính nợ NPL và dự phòng rủi ro nợ xấu tương ứng. Điều này đã làm cho tiêu chuẩn kế toán của Việt Nam phù hợp hơn với tiêu chuẩn đánh giá tài chính quốc tế về những con số nợ quá hạn và chưa được thanh toán. Tuy nhiên, các ngân hàng có thời gian ân hạn là 3 năm để thực hiện theo điều khoản này. Bắt đầu từ năm 2008, tất cả các ngân hàng buộc phải tuân theo qui định này. 5.2. Thành quả Hoạt động của các NHTMNN Theo như bảng 6, trong năm 2006 tình hình tăng trưởng nợ vay tại hầu hết các NHTMNN tăng trưởng chậm chạp hơn so với năm 2005. Các NHTMNN tiếp tục mất thị phần cả về tiền gửi và cho vay. Thị phần tiền gửi đã giảm từ 75% trong năm 2005 xuống còn 68,67% trong năm 2006 và thì phần nợ vay giảm từ 87% trong năm 2005 xuóng còn 80% trong năm 2006. Về lợi nhuận, chỉ riêng Vietcombank là có chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) có thể so sánh với tiêu chuẩn của khu vực (trung bình của các ngân hàng Châu Á là xấp xỉ 1,11% 8). Chỉ tiêu ROE trung bình của các ngân hàng Châu Á là khoảng 11%. Nhìn bề ngoài, chỉ Vietcombank và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam vượt qua mốc chuẩn này . Tuy nhiên, báo cáo Kiểm Toán của hầu hết các NHTMNN thường là đánh giá có bảo lưu điều này có nghĩa là lợi nhuận thực sự hoặc các tỷ số thậm chí có thể xấu hơn . Bản dịch của P. Nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế 20
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn