Chương<br />
<br />
1<br />
<br />
tổng quan phát triển<br />
đô thị việt nam<br />
<br />
TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM<br />
<br />
CHƯƠNG 1<br />
<br />
TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM<br />
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÔ THỊ VIỆT NAM<br />
1.200<br />
<br />
Việt Nam đã có lịch sử phát triển đô<br />
thị từ rất lâu đời. Đến thập kỷ 90, số lượng<br />
<br />
1.000<br />
1.000<br />
774<br />
<br />
800<br />
<br />
đô thị đã lên đến khoảng 500 đô thị. Kể từ<br />
<br />
600<br />
<br />
đó đến nay, số lượng đô thị tiếp tục tăng<br />
<br />
0<br />
<br />
2000<br />
<br />
2003<br />
<br />
795<br />
<br />
12/2014<br />
<br />
10/2015<br />
<br />
12/2016<br />
<br />
200<br />
<br />
2016, cả nước đã có 795 đô thị, với tỷ lệ đô<br />
<br />
788<br />
<br />
656<br />
<br />
400<br />
<br />
lên nhanh chóng. Tính đến tháng 12 năm<br />
<br />
649<br />
<br />
thị hoá đạt 35,2% gồm: 02 đô thị đặc biệt<br />
1,<br />
<br />
500<br />
<br />
1990<br />
<br />
dự báo<br />
2025<br />
<br />
(Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh), 17 đô thị loại<br />
<br />
Biểu đồ 1.1. Số lượng đô thị Việt Nam<br />
<br />
I trong đó có 03 đô thị loại I trực thuộc TW<br />
<br />
từ năm 1990 và dự báo đến năm 2025<br />
<br />
(Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ), 25 đô<br />
<br />
Nguồn: WB; Bộ Xây dựng, 2016<br />
<br />
thị loại II, 41 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV<br />
và 626 đô thị loại V (Phụ lục 1).<br />
Theo đánh giá của WB, Việt Nam<br />
đang đô thị hóa nhanh chóng, từ đó dẫn<br />
tới không gian và dân số tại các đô thị tăng<br />
nhanh. Hai thành phố lớn Hà Nội và Tp. Hồ<br />
Chí Minh đang phát triển nhanh hơn nhiều<br />
so với tất cả các thành phố khác. Trên thực<br />
tế, hai thành phố này chi phối phát triển đô<br />
<br />
của nước ta có đặc điểm là quá trình đô<br />
thị hóa nông thôn thành thành thị, biến đổi<br />
các làng, xã nông nghiệp thành các quận,<br />
phường của đô thị.<br />
Phát triển và tăng trưởng đô thị ở<br />
nước ta nhìn chung là muộn và chậm hơn<br />
so với một số nước trong khu vực. Sự phát<br />
triển đô thị không đồng đều giữa các vùng<br />
<br />
thị của cả quốc gia.<br />
<br />
và chênh lệch nhiều giữa các khu vực khác<br />
<br />
1.1.1. Đặc điểm đô thị hóa và đặc<br />
<br />
khu vực đồng bằng, duyên hải phát triển<br />
<br />
điểm quy hoạch sử dụng đất đô thị<br />
<br />
nhanh hơn vùng núi, vùng cao. Hơn nữa,<br />
<br />
ở nước ta<br />
<br />
việc quản lý hạ tầng kỹ thuật giữa các bộ<br />
<br />
Theo quy luật khách quan, đô thị<br />
hóa phải bắt nguồn từ phát triển nền kinh tế<br />
phi nông nghiệp (công nghiệp, thương mại,<br />
dịch vụ…) dần dần thay thế cho nền kinh tế<br />
nông nghiệp. Tuy nhiên, khác với các quốc<br />
gia trong khu vực và trên thế giới, đô thị hóa<br />
<br />
nhau về đặc điểm địa lý, cụ thể như các<br />
<br />
ngành không nhất quán, đồng bộ dẫn đến<br />
những tác động không nhỏ đến môi trường,<br />
đặc biệt ở các đô thị lớn. Thực trạng chung<br />
hiện nay là các đô thị đều bị quá tải, tăng<br />
sức ép ở tất cả các mặt hạ tầng kỹ thuật và<br />
hạ tầng xã hội.<br />
<br />
1. Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng, 12/2016<br />
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016<br />
<br />
3<br />
<br />
CHƯƠNG 1<br />
<br />
Hiện nay, mạng lưới đô thị cả nước<br />
<br />
lên hầu hết đã có các tuyến đường chính<br />
<br />
được hình thành và phát triển trên cơ sở<br />
<br />
được nhựa hoá và xây dựng đồng bộ với<br />
<br />
các đô thị trung tâm, gồm thành phố trung<br />
<br />
hệ thống thoát nước, vỉa hè, chiếu sáng và<br />
<br />
tâm cấp quốc gia, khu vực và quốc tế như:<br />
<br />
cây xanh, nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật<br />
<br />
Thủ đô Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, các thành<br />
<br />
và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ<br />
<br />
phố Hải Phòng, Đà Nẵng, và Huế; thành<br />
<br />
và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn<br />
<br />
phố trung tâm cấp vùng như: Hạ Long, Việt<br />
<br />
thấp so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng đô thị<br />
<br />
Trì, Thái Nguyên, Hòa Bình, Nam Định,<br />
<br />
yếu kém, quá tải không những không tạo<br />
<br />
Vinh, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma<br />
<br />
điều kiện cho sự phát triển KT - XH đô thị,<br />
<br />
Thuột, Biên Hòa, Vũng Tàu và Cần Thơ;<br />
<br />
mà còn làm nảy sinh nhiều áp lực đối với<br />
<br />
các thành phố, thị xã trung tâm cấp tỉnh,<br />
<br />
môi trường.<br />
<br />
bao gồm 5 thành phố trung tâm quốc gia,<br />
<br />
Để phát triển đô thị hóa bền vững,<br />
<br />
khu vực và quốc tế, 12 đô thị là trung tâm<br />
<br />
chúng ta cần tiến hành xây dựng các hệ<br />
<br />
cấp vùng đã kể trên và các thành phố, thị xã<br />
<br />
thống hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng kỹ<br />
<br />
tỉnh lỵ khác; các đô thị trung tâm cấp huyện,<br />
<br />
thuật BVMT phải đi trước một bước. Trên<br />
<br />
bao gồm các thị trấn huyện lỵ và các thị xã<br />
<br />
thực tế, đô thị hóa ở nước ta nhiều nơi,<br />
<br />
là vùng trung tâm chuyên ngành của tỉnh và<br />
các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng, bao gồm<br />
các thị trấn là trung tâm các cụm khu dân<br />
cư nông thôn hoặc là các đô thị vệ tinh, đô<br />
thị đối trọng trong các vùng ảnh hưởng của<br />
đô thị lớn, cực lớn2. Tuy nhiên, quá trình đô<br />
thị hóa diễn ra không đồng đều, chủ yếu<br />
ở 3 vùng trọng điểm phát triển KT - XH, ở<br />
<br />
nhiều lúc còn mang tính chủ quan; muốn<br />
nhanh chóng tăng dân số đô thị để được<br />
nâng cấp đô thị (như nâng cấp đô thị loại V<br />
thành loại IV, loại IV thành loại III…) nên đã<br />
mở rộng đô thị bằng cách ghép các làng xã<br />
có 100% sản xuất nông nghiệp vào đô thị để<br />
tạo thành các phường mới. Việc này đã tạo<br />
ra tình trạng có nhiều làng xã nông nghiệp<br />
tồn tại lâu dài trong đô thị và phát sinh các<br />
<br />
vùng duyên hải, và một số đảo lớn như Phú<br />
<br />
vấn đề rất nan giải đối với xây dựng và phát<br />
<br />
Quốc, Côn Đảo, Vân Đồn, Cát Bà...<br />
<br />
triển hệ thống kỹ thuật BVMT đô thị.<br />
<br />
Hệ thống đô thị nước ta đang phát<br />
triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng<br />
<br />
Đất hạ tầng giao thông<br />
Các đô thị nước ta tồn tại phổ biến<br />
<br />
đô thị còn thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng<br />
<br />
tình trạng thiếu quỹ đất dành cho giao<br />
<br />
giao thông đô thị trong những năm qua tuy<br />
<br />
thông, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa<br />
<br />
đã được cải thiện và nâng cấp, thể hiện qua<br />
<br />
đảm bảo theo yêu cầu. Theo số liệu thống<br />
<br />
các mặt, như: nhiều tuyến đường, cây cầu<br />
<br />
kê, tại các đô thị lớn, các chỉ tiêu về hạ tầng<br />
<br />
được xây dựng; chất lượng đường đô thị<br />
<br />
giao thông chỉ đáp ứng được khoảng 35 -<br />
<br />
dần được cải thiện; các đô thị loại III trở<br />
<br />
40% so với nhu cầu cần thiết, như: tại Hà<br />
<br />
2. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07 tháng 04 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch<br />
tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.<br />
<br />
4<br />
<br />
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016<br />
<br />
TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ VIỆT NAM<br />
Nội, diện tích đất giao thông khoảng<br />
<br />
35<br />
<br />
9,05%, mật độ đường đạt 3,89km/km ;<br />
<br />
30<br />
<br />
tại Tp. Hồ Chí Minh diện tích đất giao<br />
<br />
25<br />
<br />
thông khoảng 7,5%, mật độ đường đạt<br />
<br />
20<br />
<br />
3,88km/km (Biểu đồ 1.2).<br />
<br />
15<br />
<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
Các thành phố lớn trực thuộc<br />
<br />
0<br />
<br />
9,05<br />
<br />
5<br />
<br />
thị được triển khai, như: cải tạo, nâng<br />
<br />
13,5<br />
<br />
10<br />
<br />
TW có nhiều dự án về giao thông đô<br />
<br />
31,9<br />
<br />
cấp và xây mới các trục giao thông đối<br />
ngoại, cửa ô, trục giao thông hướng<br />
<br />
7,5<br />
<br />
Tp.HCM<br />
<br />
Hà Nội<br />
<br />
diễn ra rất phổ biến.<br />
Giao thông tĩnh luôn luôn là vấn<br />
đề nan giải đối với các thành phố lớn.<br />
Theo các chuyên gia, quy hoạch đất<br />
sử dụng cho giao thông phải bao gồm<br />
đất cho các bãi đỗ xe (tối thiểu 1% diện<br />
tích đất đô thị, 10% đất khu trung tâm);<br />
trong khi đó hiện nay, đất cho giao<br />
thông tĩnh chưa đạt 1% (tiêu chuẩn của<br />
thế giới, các nước nói chung phải từ 3 -<br />
<br />
New York<br />
<br />
Seoul<br />
<br />
ở một số thành phố<br />
Nguồn: Đánh giá Đô thị hóa ở Việt Nam, WB, 2011<br />
<br />
các đường vành đai, tuyến tránh, cầu<br />
ách tắc và tai nạn giao thông vẫn còn<br />
<br />
Bangkok<br />
<br />
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông<br />
<br />
tâm, các nút giao đồng mức, khác mức,<br />
vượt trong đô thị... Tuy nhiên, tình trạng<br />
<br />
7,88<br />
<br />
Khung 1.1. Vỉa hè Hà Nội và các nguy cơ bị<br />
chiếm dụng làm bãi đỗ xe<br />
Hầu hết các tuyến đường huyết mạch đều có vỉa<br />
hè, cây xanh đường phố và đèn đường. Ở các quận<br />
nội thành cũ (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và<br />
Đống Đa), tỷ lệ vỉa hè cao - chiếm 80% hoặc cao<br />
hơn (Bảng 1.2). Hầu hết vỉa hè rộng từ 4m trở lên,<br />
rất ít đoạn đường không có vỉa hè. Tuy nhiên, ở các<br />
quận nội thành mới (Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy,<br />
Hoàng Mai, Long Biên và huyện Từ Liêm), diện tích<br />
vỉa hè nhìn chung còn thấp. Chất lượng công trình<br />
vỉa hè chưa đảm bảo. Vỉa hè thường bị nứt, gãy, mặt<br />
vỉa hè không bằng phẳng. Nhiều khu vực có vỉa hè<br />
nhỏ hẹp và không bó vỉa. Do thiếu công trình bãi đỗ<br />
phù hợp, vỉa hè thường được chiếm dụng làm bãi<br />
đỗ xe.<br />
<br />
3,5%). Ngay cả các đô thị nhỏ, tỷ lệ đất<br />
<br />
Nguồn: Nghiên cứu Thống kê đường và hè phố Hà Nội,<br />
JICA, 2011<br />
<br />
dành cho giao thông tĩnh cũng nhỏ hơn<br />
nhiều so với yêu cầu cần thiết. Nguyên<br />
nhân một phần là do chi phí giải tỏa bồi<br />
<br />
Bảng 1.1. Hiện trạng vỉa hè ở Hà Nội<br />
<br />
thường quá cao nên diện tích đất cho<br />
bãi đỗ xe ít được quan tâm, một số nhà<br />
đầu tư lợi dụng đất bãi đỗ xe chuyển<br />
sang làm thương mại dịch vụ.<br />
Không gian bãi đỗ tại các đô thị<br />
hiện nay chủ yếu vẫn là tận dụng vỉa<br />
hè và lòng đường trong khi các công<br />
trình bãi đỗ riêng hiện vẫn còn hạn chế<br />
và có công suất nhỏ. Thực tế cho thấy,<br />
<br />
Chiều dài<br />
đường (km)<br />
<br />
Chiều dài<br />
vỉa hè (km)<br />
<br />
Tỷ lệ vỉa<br />
hè so với<br />
đường (%)<br />
<br />
Ba Đình<br />
<br />
59<br />
<br />
48<br />
<br />
81<br />
<br />
Hoàn Kiếm<br />
<br />
68<br />
<br />
58<br />
<br />
85<br />
<br />
Hai Bà Trưng<br />
<br />
62<br />
<br />
53<br />
<br />
85<br />
<br />
Đống Đa<br />
<br />
51<br />
<br />
41<br />
<br />
80<br />
<br />
Tây Hồ<br />
<br />
34<br />
<br />
15<br />
<br />
44<br />
<br />
Thanh Xuân<br />
<br />
28<br />
<br />
20<br />
<br />
71<br />
<br />
Cầu Giấy<br />
<br />
47<br />
<br />
26<br />
<br />
55<br />
<br />
Quận<br />
<br />
Nguồn: Nghiên cứu Thống kê đường và hè phố Hà Nội, JICA, 2011<br />
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016<br />
<br />
5<br />
<br />