intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo: "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Một số đánh giá bước đầu "

Chia sẻ: Trần Đăng Dũng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

207
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN từ đầu những năm 1990 đã có nhiều khởi sắc và đang gia tăng rất nhanh trong 10 năm trở lại đây. Điều này dường như phù hợp với mong muốn của cả hai bên trước những biến đổi nhanh chóng cũng như diễn biến mới của kinh tế thế giới - đặc biệt là cuộc Khủng hoảng toàn cầu vừa diễn ra, giúp Trung Quốc và ASEAN thực hiện mục tiêu đa dạng hóa các đối tác, giảm bớt sự phụ thuộc của cả hai bên vào các quan hệ kinh tế...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo: "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Một số đánh giá bước đầu "

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Một số đánh giá bước đầu PGS.TS. Phạm Thái Quốc * Khoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 9 năm 2010 Tóm tắt. Thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN từ đầu những năm 1990 đã có nhiều khởi sắc và đang gia tăng rất nhanh trong 10 năm trở lại đây. Điều này dường như phù hợp với mong muốn của cả hai bên trước những biến đổi nhanh chóng cũng như diễn biến mới của kinh tế thế giới - đặc biệt là cuộc Khủng hoảng toàn cầu vừa diễn ra, giúp Trung Quốc và ASEAN thực hiện mục tiêu đa dạng hóa các đối tác, giảm bớt sự phụ thuộc của cả hai bên vào các quan hệ kinh tế truyền thống với các trung tâm kinh tế thế giới là Tây Âu và Hoa Kỳ. Bài viết này phân tích quan hệ thương mại Trung Quốc - ASEAN chủ yếu từ đầu những năm 2000 trở lại đây, đánh giá những kết quả và hạn chế, đồng thời đưa ra một số kiến nghị cho Việt Nam trong giải quyết một số tồn tại nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc tiến triển mạnh mẽ hơn, bền vững hơn trong những năm tới. 1. Tình hình quan hệ thương mại ASEAN - mạ i và đầu tư đều có động lực thúc đẩy rất Trung Quốc* mạ nh, đặc biệt từ nửa cuối những nă m 1980, sau khi Trung Quốc thực hiện chiến lược mở cửa 3 ven: ven biển, ven sông và ven biên giới. 1.1. Các giai đoạn phát triển Mối quan hệ buôn bán giữa cư dân Trung Quốc Tương ứng với những thay đổi trong quan và ASEAN ở các vùng biên giới hai bên phát hệ chính trị, quan hệ thương mạ i Trung Quốc - triển nhanh và sớm hơn, thậ m chí còn đi trước ASEAN trải qua ba giai đoạn trong phát triển. cả những cải thiện chính trị của hai bên. Nă m Giai đoạn thứ nhất (từ 1967-1991): Trong giai 1997, cả hai bên Trung Quốc và ASEAN đều ra đoạn này, quan hệ hai bên chưa phát triển do chưa thông cáo chung về xây dựng đối tác láng giềng tin tưởng vào nhau, còn nghi kỵ lẫn nhau. thân thiện hướng tới thế kỷ XXI. Cho đến nă m 2001, quan hệ Trung Quốc - ASEAN đã phát triển Giai đoạn thứ 2 (từ 1992-2002): Cho đến thành những đối tác đối thoại đầy đủ của nhau. nă m 1992, Trung Quốc đã thành lập hoặc đã khôi phục quan hệ ngoại giao với tất cả các Giai đoạ n thứ 3 (từ 2002 đến nay): Mở ra nước ASEAN, đặt nền móng cho một thời kỳ một giai đoạn mới trong quan hệ đối tác chiến đối thoại và hợp tác giữa hai bên. Về chính trị, lược giữa Trung Quốc và ASEAN. Nă m 2002, cả hai đều bắt đầu có hàng loạt cuộc đối thoại cả hai đã ký kết một Hiệp định khung về Hợp của các quan chức cấp cao. Hoạt động thương tác toàn diện ASEAN - Trung Quốc, chuẩn bị cho việc hình thành Khu vực mậu dịch tự do ______ ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) từ nă m 2010. * ĐT: 84-4-37547506 Năm 2003, Trung Quốc gia nhập Hiệp ước Hữu E-mail: pthquoc@yahoo.com.uk 207
  2. 208 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 ASEAN trở thành đối tác thương mạ i lớn thứ 4 nghị và Hợp tác ở Đông Nam Á và trở thành của Trung Quốc và Trung Quốc đã trở thành thị nước ngoài ASEAN đầu tiên tham gia Hiệp trường xuất khẩu lớn thứ 3 của ASEAN(2). Phần ước. Năm 2004, tất cả các nước thành viên buôn bán của Trung Quốc với ASEAN trong ASEAN đều thừa nhận Trung Quốc là một nền tổng thương mạ i của Trung Quốc tăng từ 6% kinh tế thị trường đầy đủ và cùng ký Hiệp định nă m 1990 lên 9,3% nă m 2007 và 14% nă m Thương mại Hàng hóa trong Hiệp định khung 2008. Trong khi phầ n của thương mại với về Hợp tác kinh tế toàn diện với Trung Quốc. Trung Quốc trong tổng thương mại của ASEAN Tháng 1/2004, Chương trình thu hoạch sớ m tăng từ 2,4% năm 1990 lên 9,8% nă m 2006, (EHP) có hiệu lực. Nă m 2007, cả hai bên đã ký 11,3% nă m 2008. Chính vì mức tăng nhanh nên hiệp định về thương mạ i dịch vụ. Từ đó đến hiện nay cả ASEAN và Trung Quốc đều là bạn nay, cả Trung Quốc và ASEAN đều duy trì, hàng lớn của nhau. Năm 2008, Trung Quốc là theo đuổi và cùng phát triển quan hệ đối tác đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN, chỉ kinh tế thân mật, chặt chẽ với nhau. sau Nhật Bản và Liên minh Châu Âu (EU). Số liệu nă m 2009 của Hải quan Trung Quốc 1.2. Tình hình quan hệ thương mại hai bên cho thấ y: EU, Mỹ và Nhật Bản là 3 đối tác hàng Theo số liệu của Hải quan Trung Quốc, đầu trong quan hệ thương mại với Trung Quốc. nă m 1978, tổng thương mạ i hai chiều Trung Năm 2009, trong tổng thương mạ i của Trung Quốc - ASEAN chỉ đạt 859 triệu USD. Tuy Quốc với thế giới là 2,206 nghìn tỷ USD thì nhiên, thương mại Trung Quốc - ASEAN tăng thương mạ i Trung Quốc - EU chiếm 16,5%; rất mạnh trong thời kỳ từ nă m 1990 đến nay. thương mại Trung Quốc - Mỹ chiếm 13,5%; Mức buôn bán hai chiều từ rất thấp, chỉ đạt 7 tỷ thương mạ i Trung Quốc - Nhật Bản chiếm USD nă m 1990 và 7,96 tỷ USD nă m 1991, đã 10,3%. Riêng 3 đối tác này chiếm tới hơn 40% tăng nhanh, đạt mức 54,7 tỷ USD nă m 2002 và tổng thương mại của Trung Quốc với thế giới. 100 tỷ USD nă m 2004(1), 130,4 tỷ USD nă m Còn thương mại Trung Quốc - ASEAN đứng 2005 và 202,6 tỷ USD nă m 2007, về đích trước thứ 4, chỉ chiếm 9,6% tổng thương mại của 3 nă m so với dự kiến (mức 200 tỷ USD theo kế Trung Quốc với thế giới. Tuy nhiên, thương hoạch đặt ra vào nă m 2010). Năm 2008, kim mạ i Trung Quốc - ASEAN lại tăng rất mạnh kể ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN từ nă m 2003 (một nă m sau khi có ACFTA), với đạt tới 231,12 tỷ US. Còn theo số liệu thống kê mức tăng bình quân 24%/nă m, điều này khiến của ASEAN, con số này là 192,5 tỷ USD và nă m tổng thương mạ i Trung Quốc - ASEAN tăng 3 2009 - do tác động của Khủng hoảng toàn cầu, lần, từ 78 tỷ USD nă m 2003 lên mức đỉnh cao tổng thương mại hai chiều chỉ đạt 212,4 tỷ USD. 231 tỷ USD năm 2008. Mức tăng thương mại ASEAN - Trung Trong giai đoạn 1997-2005, ASEAN là đối Quốc trong giai đoạn 2004-2007 là 21,9%/ năm tác có mức tăng thương mạ i với Trung Quốc - cao hơn mức tăng trưởng thương mại của cao nhất trong số các đối tác thương mại của Trung Quốc 18,8% trong cùng thời kỳ. Năm Trung Quốc. Từ năm 1997 đến nă m 2005, 2006, kim ngạch thương mại hai chiều ASEAN thương mại ASEAN - Trung Quốc tăng bình - Trung Quốc đạt khoảng 140 tỷ USD, đưa quân 22,9%/nă m - thuộc loại cao nhất trong ______ thương mạ i của Trung Quốc với các đối tác cũng như mức tăng thương mại trung bình của (1) Asean-China Trade Relations: 15 Years of Development Trung Quốc với thế giới (20,3%). Tuy nhiên, and Prospects, The Gioi Publishers, 2008 Recent Development of China-ASEAN Trade and Economic ______ Relations: From Regional Perspective, By Zhao Jianglin, (2) Đẩy mạnh triển khai các hoạt động hợp tác giữa ASEAN Institute of Asia-Pacific Studies, CASS, International và các nước Đối thoại, http://vietbao.vn/Xa-hoi/ASEAN- Conference on ASEAN-China Trade Relations: 15 Years Development and Prospects, Hanoi, Dec. 6-8, 2007, Trung-Quoc-ky-Hiep-dinh-thuong-mai-dich- http://iaps.cass.cn/English/articles/showcontent.asp?id=1131 vu/45223746/157/
  3. 209 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 bước sang giai đoạn 2006-2008, mức tăng đoạn 1993-1998 hầu như không lớn. Trong nă m thương mại Trung Quốc - ASEAN chỉ đạt 1999, ASEAN có được thặng dư thương mạ i 19,9% - thấp hơn so với mức tăng thương mạ i với Trung Quốc hơn 7 tỷ USD. Điều này có thể Trung Quốc - EU (23,2%), nhưng vẫ n cao hơn lý giải là do sau Khủng hoả ng tài chính châu Á nhiều so với mức tăng thương mại của Trung 1997-1999, đồng tiền của nhiều nước ASEAN Quốc với Mỹ (12,7%), Trung Quốc với Nhật mất giá, do vậy tạo thuận lợi cho ASEAN tăng Bản (13,4%), Trung Quốc với Đài Loan (9,4%), xuất khẩu vào Trung Quốc. Đặc biệt, từ nă m Trung Quốc với Hàn Quốc (17,7%). Năm 2009, 2004, khi chương trình EHP bắt đầu có hiệu lực do tác động của Khủng hoảng toàn cầu, thương thì thâm hụt thương mạ i của ASEAN với Trung mạ i của Trung Quốc với hầu hết các đối tác lớn Quốc bắt đầu tăng mạ nh, từ mức hơn 1 tỷ USD đều giả m. Thương mại của Trung Quốc với thế nă m 2003 lên hơn 6 tỷ USD nă m 2004 và đạt hơn 21 tỷ USD nă m 2008. giới giả m 13,8%, trong đó thương mại Trung Quốc - ASEAN giả m 8%, chỉ còn 212 tỷ USD. Trong điều kiện Khủng hoảng toàn cầu, sự suy 1.3. Trung Quốc và ASEAN: Ai có lợi hơn trong giả m mức tăng thương mạ i Trung Quốc - ACFTA? ASEAN không mạ nh so với thương mại của Thương mạ i tự do đem lại lợi ích cho cả hai Trung Quốc với một số đối tác lớn khác như: bên, điều này đã được minh chứng từ lâu dựa thương mại Trung Quốc - Đài Loan (giả m trên cả lý luận và thực tiễn, tuy nhiên cũng 17,8%), thương mại Trung Quốc - Hàn Quốc không có nghĩa là lợi ích chia đều hai phầ n (giả m 16,3%), thương mạ i Trung Quốc - EU bằng nhau. (giả m 14,5%), thương mạ i Trung Quốc - Nhật Trước đây có nhiều đánh giá cho rằng Bản (giả m 14,6%). ASEAN sẽ được lợi từ ACFTA. Chẳng hạn Yu- Trước hết có thể thấy sự khác biệt về số liệu shek Cheng (2004: 269), cho rằng ACFTA sẽ thống kê của Trung Quốc với số liệu thống kê giúp tăng xuất khẩu của Trung Quốc sang của ASEAN về thương mại hai chiều Trung ASEAN 10,6 tỷ USD/nă m, trong khi mức nhập Quốc - ASEAN. Theo số liệu của ASEAN (xem khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tương ứng sẽ bảng dưới), kể từ 1993 đến nay, khu vực này là 13 tỷ USD/nă m. Hay Glosserman và Brailey hầu như thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Fritschi (2002) cho rằng ACFTA sẽ giúp Nhưng theo số liệu Trung Quốc thì ngược lại, ASEAN và Trung Quốc thêm vào mức tăng hầu như Trung Quốc thâm hụt thương mạ i với GDP hàng nă m tương ứng là 1% và 0,3%. Còn ASEAN trong nhiều nă m qua. theo Cai (2003: 401), về ngắn hạ n, ACFTA có Sự khác biệt này, theo chúng tôi có hai lý thể làm tăng cạnh tranh giữa Trung Quốc và do. Một là do cách tính khác nhau. Số liệu do ASEAN trong điều kiện cả hai cùng có lợi thế Trung Quốc đưa ra thường cao hơn so với số về những sản phẩ m sử dụng lao động tập trung liệu của ASEAN. Thứ hai, trong số liệu do và cùng có nhiều ngành có giá trị gia tăng thấp. Trung Quốc đưa ra, hầu hết các nă m ASEAN Nhưng về dài hạn, cạnh tranh sẽ giúp cả hai bên đều xuất siêu với Trung Quốc, liệu điều này xuất trong tái cơ cấu kinh tế nhằ m đạt được hiệu quả phát từ việc Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng cao hơn. ASEAN có lợi trong quan hệ thương mại với Trong một bài viết đăng trên Asia Times Trung Quốc? Nếu vậy đây là yếu tố không khách ngày 12/04/2010, tác giả Walden Bello cho quan. Chính vì vậy, trong những phân tích dưới rằng, nhìn thoáng qua thì dường như mối quan đây, chúng tôi đều dựa vào số liệu của ASEAN. hệ Trung Quốc-ASEAN đem lại lợi ích cho cả Theo số liệu trình bày ở Bảng 1, ASEAN đôi bên. Nhu cầu bên trong của kinh tế Trung thường xuyên và liên tục thâm hụt thương mạ i Quốc đang đi lên ở một mức độ nhanh chóng với Trung Quốc. Thâm hụt mỗi nă m trong giai được xem là một yếu tố quan trọng trong sự
  4. 210 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 tăng trưởng ở Đông Nam Á, bắt đầu vào nă m khẩu chính của trái cây Việt Nam, chiếm 50- 2003 - khi ASEAN lầ n đầu tiên xuất khẩu gầ n 60% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây của Việt 30 tỷ USD sang Trung Quốc, sau một gian đoạ n Nam(3). Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu trái tăng trưởng chậ m vì ảnh hưởng của Khủng cây từ Trung Quốc những nă m trở lại đây tăng hoảng tài chính châu Á. Trong bản phúc trình nhanh, trong khi trái cây xuất khẩu của Việt của Liên Hiệp Quốc khái quát về châu Á trong Nam sang Trung Quốc đang có dấu hiệu sụt các nă m 2003, 2004, viết: “Trung Quốc là một giả m. Chỉ trong 7 tháng đầu năm 2009, nhập động cơ tăng trưởng quan trọng cho hầu hết các khẩu trái cây từ Trung Quốc lên tới 44 triệu nền kinh tế trong vùng. Trung Quốc nhập khẩu USD, biến Trung Quốc trở thành nhà cung cấp nhiều hơn xuất khẩu với phầ n lớn các nước trái cây nhập khẩu chính cho Việt Nam. Theo châu Á còn lại”. Dường như các nước ASEAN Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam ra khỏi cơn cùng cực trong cuộc Khủng hoảng (Vinafruit) - ông Nguyễn Văn Kỳ, so với tình châu Á một phần là nhờ vào Trung Quốc. hình đầu những nă m 2000, khi các thương nhân Trung Quốc còn ùn ùn sang Việt Nam mua trái Thực tế không hoàn toàn như vậy. Ngay từ cây thì hiện tượng trái cây Trung Quốc tràn vào năm 1994, sau khi Trung Quốc phá giá mạnh Việt nam là “nước chảy ngược”, bởi Việt Nam đồng Nhân dân tệ (NDT), ASEAN đã bị tác động là quốc gia có tới nửa triệu héc ta trồng trái cây mạnh bởi dòng vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu và sản lượng mỗi nă m hàng triệu tấn. Cũng theo chuyển từ khu vực này sang Trung Quốc. Về ông Kỳ, “Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu trái thương mại, tác động không mong muốn từ Trung cây cứ ngỡ Chương trình Thu hoạch sớm có Quốc được đánh giá là lớn hơn nhiều. Điều này nhiều lợi thế cho Việt Nam nhưng giờ đây thì được thấy rõ hơn ở những khía cạnh sau đây. họ lại ngỡ ngàng thấy mình chẳng thu hoạch - Cả ASEAN và Trung Quốc đều đang tìm được gì, mà còn thất thu”. Điều làm các doanh kiếm các lợi ích dài hạn mà không hề cân nhắc, nghiệp xuất khẩu trái cây trong nước bức xúc ở xem xét đến các vấn đề có thể xuất hiện, nả y chỗ việc cắt giả m thuế giữa hai nước mà Trung từ sinh Quốc thực hiện nhanh và mạ nh hơn cho nông Ngay từ năm 1994, sau khi ACFTA hay từ sản Việt Nam, không có ý nghĩa nhiều bởi mãi Trung Quốc phá giá mạnh EHP. Trên tới đầu nă m 2008, hai nước Trung - Việt mới ký đồng NDT, ASEAN đã bị thực tế, một số Hiệp định kiểm dịch động thực vật, trong khi tác động mạnh bởi dòng nước ASEAN Trung Quốc đã ký hiệp định này với Thái Lan vốn đầu tư nước ngoài bắt nhận thấy, vào nă m 2006. Nhờ đó trái cây Thái Lan dù đầu chuyển từ khu vực này khác với tình không tiện đường vận chuyển hơn so với Việt sang Trung Quốc. Về những Nam nhưng vẫn có khả năng cạ nh tranh quyết hình thương mại, tác động nă m 2000 về liệt với trái cây Việt Nam trên thị trường Trung không mong muốn từ trước, khả năng Quốc. Thực tế này cho thấy, hàng nông sản Trung Quốc được đánh giá cạnh tranh của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức khi là lớn hơn nhiều. Quốc tham gia ACFTA. Trung ngày càng lớn - EHP cũng tác động tiêu cực nhiều đến mạnh hơn và cạnh tranh với ASEAN ngày càng Thái Lan kể từ khi bắt đầu thực hiện EHP ngày gay gắt hơn. Chính Bộ trưởng Thương mại 1/10/2003. Một nghiên cứu(4) đã chỉ ra rằng Singgapore đã nhận định rằng các nền kinh tế nhập khẩu hàng Trung Quốc vào Thái tăng Đông Bắc Á chiếm tới 80-90% tổng lực kinh tế ______ châu Á - vì vậy Trung Quốc sớm muộn sẽ thống (3) Hồng Văn, Chương trình thu hoạch sớm... bị thất thu - trị quá trình tiến triển của ACFTA. 07/01/2010, http://mobile.thesaigontimes.vn/ArticleDetail.aspx?id=280 - Đối với Việt Nam, trước khi có EHP, 17 Trung Quốc là một trong những thị trường xuất (4) Thai’s FTA Watch 2005.
  5. 211 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 180%, kết quả là làm 30-50% hoa quả và rau được đưa vào số liệu thống kê. Tuy nhiên, nếu chỉ của Thái Lan bị giả m giá, gây thiệt hại lớn cho dựa vào số liệu chính thức thì tình hình vẫn tốt các nhà sản xuất Thái Lan. Một nghiên cứu đẹp, đúng như mong muốn và tuyên bố của nhiều nguyên thủ đúng đầu Trung Quốc và ASEAN. khác do Narintarakul và Silarak (2005: 83-84) thực hiện đã chứng minh EHP không tạo ra một - Ở Indonesia, trong vài nă m gần đây, dư sự đảm bảo cho các nhà sản xuất rau quả luận phàn nàn về tình trạng mất việc làm đang ASEAN rằng sản phẩ m của họ sẽ được mua bán gia tăng ở nước này do tác động của ACFTA. tự do ở Trung Quốc. Theo EHP, Thái Lan và Một số nghiên cứu đã chỉ ra, có khoảng 1,8 đến Trung Quốc đồng ý bãi bỏ ngay mọi thuế quan 2,5 triệu việc làm bị mất ở Indonesia do các cho trên 200 mặt hàng trái cây và rau. Thái Lan cam kết thương mạ i tự do với Trung Quốc. Các sẽ xuất khẩu trái cây nhiệt đới sang Trung ngành bị mất việc làm chủ yếu là ngành da, Quốc, trong khi Trung Quốc xuất khẩu trái cây quần áo, dệt và thép. Có thể có hàng trăm công xứ lạnh (mùa đông) sang Thái Lan và hai bên ty nhỏ và sử dụng lao động tập trung đứng đều cùng hưởng chế độ miễn thuế khi hàng bên trước nguy cơ phải đóng cửa. Tuy nhiên, một này nhập vào thị trường bên kia. Tuy nhiên, hy quan chức của Hiệp hội tuyển dụng việc làm vọng hai bên cùng hưởng lợi chung bị tan biến Indonesia lại đưa ra con số 7,5 triệu lao động sau vài tháng. Có ý kiến cho rằng do các nhà nước này có nguy cơ mất việc làm, rất nhiều trồng rau và trái cây oán hận, trách cứ thỏa nhà máy có thể phải đóng cửa do không thể thuận Thu hoạch sớm giữa Thái Lan và Trung cạnh tranh nổi với hàng rẻ hơn từ Trung Quốc. Quốc, họ đã thất vọng và dồn nỗi tức giận vào Chính vì vậy, đến cuối nă m 2009, Indonesia đã Chương trình tự do thương mạ i rộng lớn của yêu cầu ASEAN tạ m dừng hoặc lùi thời gian dỡ Chính phủ Thaksin, điều này là một trong số bỏ 228 hạng mục thuế đối với 8 ngành hàng nhiều căn nguyên đưa đến kết cục của cuộc đảo trong các lĩnh vực mà nước này cho rằng có thể chính lật đổ chính phủ của ông Thaksin vào bị tổn thương lớn do hàng nhập khẩu Trung tháng 9 nă m 2006(5). Quốc, như hàng dệt, hàng điện tử, đồ dùng gia - Hàng Trung Quốc nhập lậu vào ASEAN đình, giày dép, mỹ phẩ m và thảo dược…(6). với quy mô lớn đã và đang gây khó khăn cho Trong một cuộc trao đổi gần đây với Wall hoạt động sản xuất ở nhiều nền kinh tế ASEAN, Street Journal, phát ngôn viên Bộ Công nghiệp đặc biệt là các nước ASEAN lục địa. Ở Việt Indonesia cho biết, chính phủ Indonesia đã Nam, theo ước tính có khoả ng 70-80% các cửa chính thức gửi kiến nghị xin phép ASEAN đ ể hàng giày dép bán hàng nhập lậu từ Trung cho nước này hoãn một nă m thực hiện Hiệp ước Quốc, do vậy ngành sản xuất xuất giày dép ở Tự do Thương mạ i với Trung Quốc (cho tới tháng 1/2011 mới thực hiện). Việt Nam bị thiệt hại rất nặng nề. Ở Philippines, theo một số thành viên của Hội Tự Theo Yanuar Rizky - Chủ tịch Hiệp hội do Thương mại của nước này (Joseph Francia Công nhân Indonesia (Indonesia Workers và Errol Ramos), ngành sản xuất xuất giày dép Association), nước này khó cạnh tranh với hàng của Philippines cũng khốn đốn vì hàng nhập lậu rẻ Trung Quốc do ở Indonesia chi phí cao gắ n đến từ Trung Quốc. Tình hình tương tự cũng liền với tình trạng máy móc cũ kỹ, bộ máy hành xảy ra đối với một số mặt hàng khác như: sản chính quan liêu, cộng thêm các khoản vay dùng phẩ m hóa học từ dầu, nhựa, gạch lát nền, thép, cho vốn lưu động chịu lãi suất cao. Theo ông giấy và xi măng không phải chỉ ở Việt Nam và Rizky: “ACFTA cho chúng tôi thấy rằng sức Philippines mà còn ở nhiều nước ASEAN khác. cạnh tranh của chúng tôi còn rất thấp so với các Nhiều hàng nhập lậu với khối lượng lớn không ______ ______ (6) China Trade Deal to Cost Indonesia 'Millions of Jobs’, (5) Walden Bello, Asia Times, 12/042010; Walden Bello, http://www.thejakartaglobe.com/business/china-trade- China lassoes its neighbors, China Business, Mar 12, 2010 deal-to-cost-indonesia-millions-of-jobs/351950)
  6. 212 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 nước khác trong khu vực, và Chính phủ nước ACFTA lại do chúng tôi vẫn chưa sẵn sàng.” chúng tôi còn chưa hiểu rõ về sự phát triển của Chính vì vậy, thương mạ i Trung Quốc - ngành chế tạo của Indonesia. Nguy cơ mất Indonesia sau khi đạt mức đáng kinh ngạc là nhiều việc làm ở Indonesia là có thật trừ khi 31,5 tỷ USD năm 2008 thì trong nửa đầu năm 2009 giả m 20%, chỉ đạt 11,7 tỷ USD. chính phủ quyết định đóng cánh cửa của Bảng 1: Thương mại ASEAN-Trung Quốc theo từng nước, 2004-2008 (triệu USD) Tên nước 2004 2005 2006 2007 2008 Xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc Brunei 243 234 174 201 - Campuchia 12 15 13 11 13 Indonesia 4,605 6,662 8,344 8,897 11,637 Lào 1 4 1 35 15 Malaysia 8,634 9,465 11,391 15,443 18,422 Myanmar 75 119 133 475 499 Philippines 2,653 4,077 4,628 5,750 5,467 Singapore 15,321 19,770 26,472 28,925 29,082 Thái Lan 7,098 9,083 10,840 14,873 15,931 Việt Nam 2,711 2,828 3,015 3,336 4,491 Tổng xuất khẩu của ASEAN 41,352 52,258 65,010 77,945 85,558 Nhập khẩu của ASEAN từ Trung Quốc Brunei 87 94 120 157 171 Campuchia 337 430 516 653 933 Indonesia 4,101 5,843 6,637 8,616 15,247 Lào 89 185 23 43 131 Malaysia 11,353 14,361 15,543 18,897 18,646 Myanmar 351 286 397 564 671 Philippines 2,659 2,973 3,647 4,001 4,250 Singapore 16,137 20,527 27,185 31,908 31,583 Thái Lan 8,183 11,116 13,578 16,184 19,936 Việt Nam 4,416 5,322 7,306 12,148 15,545 Tổng nhập khẩu của ASEAN 47,714 61,136 74,951 93,173 107,114 Nguồn: ASEAN Trade Statistics Database (July 2009). gh Trung Quốc - trong quan hệ với ASEAN, đã trở Theo Walden Bello(7), Trung Quốc có rất thành người thu mua lớn về các loại nguyên vật nhiều sản phẩ m công nghiệp, nông nghiệp siêu liệu, hàng nông nghiệp, máy công nghiệp và rẻ, từ sản phẩ m của các vụ mùa miền ôn đới các linh kiện điện tử... từ ASEAN. Theo một số cho đến rau quả của miền bán nhiệt đới, cũng nhà phân tích, nhu cầu nhập khẩu của Trung như nhiều nông sản phẩ m đã qua chế biến. Quốc có phầ n chậ m lại, trong khi nhu cầu xuất Trong khi ASEAN chỉ có một số nước như Việt khẩu tăng mạ nh. Nă m 2005, xuất khẩu của Nam (gạo, cà phê), Thái Lan (gạo), Philippines Trung Quốc sang ASEAN tăng 50%, cao hơn (dừa và sản phẩ m của dừa), Malaysia (dầu cọ, mức tăng nhập khẩu từ ASEAN. cao su, thiếc) có một số ít sản phẩ m có ưu thế. Với bối cả nh trong nước thiếu nhiều nguyên vật Thực tế những gì đã diễn ra ở Việt Nam, liệu cho phát triển công nghiệp và xuất khẩu, Thái Lan và Indonesia như đã mô tả ở trên đã tạo ra tâm lý lo sợ rằng ASEAN đã và sẽ trở ______ thành thị trường tiêu thụ cho hàng hóa đến từ (7) China Business, Mar 12, 201
  7. 213 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 Trung Quốc theo cả hai con đường hợp pháp và ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở phi pháp. ASEAN không thể vì sợ phật ý với Singapore, thì Maylaysia - hiện vẫn xuất khẩu dầu Trung Quốc mà cứ điềm nhiên trước những tổn cọ, cao su và khí đốt sang Trung Quốc - là nước hại lớn của nhiều công ty và địa phương ở các có thể được lợi nhiều nhất từ việc dỡ bỏ mức thuế nước thành viên. quan. Trong khi một số nước như Việt Nam - vốn vẫn tập trung vào sản xuất nhiều sản phẩm tiêu Cái được xem là thiện chí của Trung Quốc dùng giá rẻ - là một trong số những nước bị tổn khi đưa ra những cam kết tự do hóa đơn phương thương nhiều, do vậy cần tìm kiếm các mặt hàng trong EHP chưa hẳn đã là như vậy. Có ý kiến cho xuất khẩu mới với ưu thế của mình(8). rằng Trung Quốc làm thế là để đối phó với chủ nghĩa hoài nghi ở Đông Nam Á về khả năng mở Xét về từng khía cạnh xuất/ nhập khẩu: rộng của thị trường Trung Quốc ở ASEAN. Giới Trong giai đoạn 1997-2005, xuất khẩu của lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ rằng sớm hay muộn ASEAN sang Trung Quốc tăng bình quân thị trường Đông Nam Á sẽ bị tràn ngập bởi hàng 20,2%/ năm, thấp hơn so với mức tăng nhập Trung Quốc, cho nên họ làm vậy để thực hiện khẩu của ASEAN từ Trung Quốc (25,3%/nă m). mục tiêu chính trị dài hạn - nuôi dưỡng sự gần gũi Như vậy có thể thấ y từ sau khi ACFTA đi vào hơn trong hợp tác kinh tế với ASEAN. Đúng như thực tế, dường như Trung Quốc là người có lợi nhận định của Hund (2003: 403), ACFTA sẽ là cơ vì xuất khẩu được nhiều hơn sang ASEAN. Tuy hội tốt cho Trung Quốc, vì nó làm tăng sức cạnh nhiên, trong giai đoạn 2006-2008, mức tăng tranh của hàng Trung Quốc ở ASEAN. Những xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc điều kiện thuận lợi như: chi phí lao động và giá (26,5%) lại cao hơn mức tăng nhập khẩu của thành sản xuất thấp, dòng FDI vào Trung Quốc ASEAN từ Trung Quốc (14,3%). lớn... sẽ giúp Trung Quốc tiếp tục phát triển mạnh Về cơ cấu thương mại: Hàng xuất khẩu của mẽ hơn trong xuất khẩu, tạo ra mức thặng dư Trung Quốc sang ASEAN đa dạng hơn, trong thương mại với các thành viên ASEAN. đó đáng kể là máy móc, điện máy, tàu và Nhìn lại một cách tổng quát, đối với Trung thuyền, khoáng sản và nhiên liệu, dụng cụ y tế Quốc, những lợi ích đem lại trong ACFTA là và quang học, ô tô, sắt thép, hàng dệt may, rau quá rõ Trong ASEAN, nước thành viên quả và giày dép. Một điều rất rõ ràng là xuất ràng, còn nào được lợi nhất từ ACFTA? khẩu hàng máy móc và điện máy từ Trung đối với Theo Rodolfo C. Severino, Tổng Quốc sang ASEAN tăng đáng kể, từ mức 28% các nước thư ký ASEAN giai đoạn 1988- tổng xuất khẩu của Trung Quốc nă m 1997 đã 2002, hiện nay là người đứng thành viên tăng lên 45% nă m 2008 (nă m 2009 chiếm gầ n đầu Trung tâm Nghiên cứu Đông 42% với 44,5 tỷ USD trong tổng số 106,3 tỷ ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Nam Á, Đông Nam Á ở Singapore, thì USD). Chủng loại hàng nhập khẩu của Trung những lợi Maylaysia - hiện vẫn xuất khẩu Quốc từ ASEAN kém đa dạ ng hơn, chủ yếu là ích đem dầu cọ, cao su và khí đốt sang nhập theo khối lượng lớn các loại: máy móc và lại Trung Quốc - là nước có thể còn hàng điện máy, khoáng sản và nhiên liệu, nhựa, chưa rõ được lợi nhiều nhất từ việc dỡ chất béo và dầu, cao su và chất hóa hữu cơ. bỏ mức thuế quan. ràng, Trong những nă m trước Khủng hoả ng tài chính những ảnh châu Á 1997-1998, những hàng xuất khẩu hàng hưởng lớn đầu của ASEAN sang Trung Quốc là nhiên liệu về sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp cho và dầu, chất béo, máy móc và hàng điện máy. thấy dường như ASEAN đang phải trả một giá đắt cho thỏa thuận của họ trong ACFTA. ______ Trong ASEAN, nước thành viên nào được (8) lợi nhất từ ACFTA? Theo Rodolfo C. Severino, Asia Free-Trade Zone Raises Hopes, and Some Fears About China, Tổng thư ký ASEAN giai đoạn 1988-2002, hiện http://www.nytimes.com/2010/01/01/business/global/01tra nay là người đứng đầu Trung tâm Nghiên cứu de.html By LIZ GOOCH, December 31, 2009
  8. 214 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 Từ năm 2000 trở đi, ASEAN ngày càng nhập từ sang giai đoạn 2006-2008, mức này chỉ còn Trung Quốc nhiều máy móc và hàng điện máy 22,2%. Trong khi nhập khẩu hàng máy móc và hơn. Trong nă m 2008, hơn 60% nhập khẩu của điện máy của Trung Quốc từ ASEAN tăng ASEAN từ Trung Quốc là máy móc và hàng 39,5%/năm trong giai đoạn 1997-2005 và sang điện máy, tỷ lệ này cao gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 2006-2008, mức này chỉ còn 9,9%. mức 26% của năm 1997(9). Năm 2009, Trung Quốc xuất khẩu sang ASEAN 44,5 tỷ USD máy móc và hàng điện Trong giai đoạn 1997-2005, xuất khẩu hàng máy, trong khi nhập khẩu từ ASEAN 56,4 tỷ máy móc và hàng điện máy của Trung Quốc USD hàng cùng loại. sang ASEAN tăng bình quân 25,3%. Tuy nhiên, Bảng 2: Hàng xuất khẩu chính của Trung Quốc sang ASEAN và hàng nhập khẩu chính của Trung Quốc từ ASEAN 2009 Giá trị (tỷ USD) Tăng giảm so năm trước (%) Tổng thương mại, trong đó: 212,5 -8,0 Tổng xuất khẩu 106,3 -6,9 Hàng điện máy (HS 85) 23,2 -11,7 Hàng máy móc (HS 84) 21,.2 -1,1 HS 84 + HS 85 44,5 -6,9 Tổng nhập khẩu 106,2 -9,2 Hàng điện máy (HS 85) 38,2 -16,2 Hàng máy móc (HS 84) 18,2 -7,9 HS 84 + HS 85 56,4 -13,7 Nguồn: China-ASEAN Free Trade Area (CAFTA) - Implications for Hong Kong’s Merchandise Exports 2. Kiến nghị về định hướng phát triển quan đạo địa phương, đặc biệt là ở các tỉnh, địa phương hệ thương mại Việt - Trung có các vùng biển đảo tranh chấp chủ động giải quyết những bất đồng theo hướng đối thoại, bình Quan hệ kinh tế luôn chịu tác động mạ nh tĩnh, kiềm chế, tránh va chạm, xung đột.(9) Trong quan hệ kinh tế thương mạ i Việt - Hiện nay, quan hệ chính trị Trung Quốc với các Trung, có nhiều thuận lợi để thúc đẩy mối quan nước Đông Nam Á và Việt Nam là tương đối tốt, hệ này. Cơ sở hạ tầng ở Nam Trung Quốc cũng song quan hệ cư dân đôi lúc vẫn còn bất đồng. như ở Bắc Việt Nam phát triển cùng những tiến Khi xảy ra những bất đồng với một bộ phận cư triển của việc triển khai hợp tác “Hai hành lang, dân Trung Quốc, chúng ta cần tuyên truyền để một vành đai” giữa Việt Nam và Trung Quốc các cấp lãnh đạo địa phương, đặc biệt là ở các khiến cho hợp tác về thương mạ i, đầu tư giữa tỉnh, địa phương có các vùng biển đảo tranh Trung Quốc và Việt Nam tiếp tục phát triển chấp chủ động giải quyết những bất đồng theo mạ nh mẽ hơn. Các nhà đầu tư Trung Quốc sẽ hướng đối thoại, bình tĩnh, kiềm chế, tránh va đến Việt Nam đầu tư nhiều hơn. Các nhà đầu tư chạm, xung đột. và kinh doanh quốc tế sẽ thông qua hành lang Hải Phòng - Hà Nội - Côn Minh tiến vào miền mẽ của quan hệ chính trị. Hiện nay, quan hệ Tây Trung Quốc mạnh hơn. Với chức nă ng cầu chính trị Trung Quốc với các nước Đông Nam nối ASEAN và Trung Quốc, chắc chắc quan hệ Á và Việt Nam là tương đối tốt, song quan hệ cư dân đôi lúc vẫ n còn bất đồng. Khi xảy ra ______ những bất đồng với một bộ phận cư dân Trung (9) China-ASEAN Free Trade Area (CAFTA) - Quốc, chúng ta cần tuyên truyền để các cấp lãnh Implications for Hong Kong’s Merchandise Exports, 8 March 2010)
  9. 215 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 thương mại Việt Trung sẽ có thêm nhiều thuận 1. Việt Nam cần quan tâm hơn đến việc xây lợi để phát triển. dựng một cơ cấu hàng xuất khẩu phù hợp với thị trường Trung Quốc, trước mắt cần thực hiện Tuy nhiên, cũng có không ít nhân tố khó các nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra khăn trong phát triển quan hệ kinh tế hai nước. các mặt hàng mới để tăng kim ngạch xuất khẩu Trung Quốc là một nước lớn, tăng trưởng nhanh vào thị trường này. Các doanh nghiệp Việt Nam nhưng chứa trong mình nhiều vấn đề tiềm ẩn, cần thực hiện việc tiếp thị mạnh mẽ vào các đầu đem lại nguy cơ cho các nước láng giềng, trong mối cung cấp, chế biến lớn, quan tâm đến hệ đó có Việt Nam, trên các phương diện chính trị, thống hoặc mạ ng lưới phân phối các sản phẩ m kinh tế và xã hội. Nền kinh tế lớn này lại ở sát Việt Nam, mỗi nă m xuất khẩu hơn 1 nghìn tỷ nông sản, thủy hải sản của Trung Quốc. Cần USD, gây áp lực cạnh tranh đối với sản xuất chủ động thiết lập mạ ng lưới tiêu thụ hàng ổn trong nước, đối với xuất khẩu hàng hóa của định, lâu dài tại các thành phố lớn của Trung Việt Nam ở các thị trường thứ ba rất lớn hoặc Quốc, cần tính tới việc thành lập nhiều hơn các một khi có những biến động thị trường bên cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩ m của Việt trong, thị trường bên ngoài Trung Quốc, thậ m Nam tại các thành phố Trung Quốc, đặc biệt là chí biến động tỷ giá đồng NDT đều dễ dàng tác Nam Ninh, Côn Minh, Quảng Châu, Quý động gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường Dương (Quý Châu), Thành Đô (Tứ Xuyên), nước ta. Bắc Kinh và Thượng Hải. Hiện nay, quan hệ thương mại giữa Việt 2. Để giả m thâm hụt thương mạ i, về ngắn Nam và Trung Quốc đang tồn tại một số vấ n hạn cố gắng đưa hàng Việt Nam vào sâu trong đề: Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc nội địa Trung Quốc. Hiện nay hàng Việt Nam tăng chậ m hơn so với mức tăng xuất khẩu của xâm nhập thị trường Trung Quốc chủ yếu ở hai Trung Quốc vào Việt Nam. Điều này dẫn tới tỉnh biên giới là Quảng Tây và Vân Nam. Để tình trạng gia tăng thâm hụt thương mạ i của tăng xuất khẩu vào Trung Quốc, chúng ta cần Việt Nam. Trong cơ cấu hàng hóa trao đổi thực hiện nỗ lực xây dựng các kho bảo quản, thương mại hai bên, Việt Nam xuất khẩu sang các trạm trung chuyển ở hai tỉnh này để có thể Trung Quốc chủ yếu là tài nguyên, nguyên vật đưa hàng Việt Nam xâm nhập sâu hơn vào các liệu, hàng sơ chế; trong khi nhập khẩu từ Trung tỉnh trong nội địa như Tứ Xuyên, Quý Châu, Quốc chủ yếu là hàng chế tạo. Quan hệ trao đổi Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông... Cần tổ mang tính Bắc - Nam này khiến Việt Nam ở chức các hội thảo bàn về cách xâm nhập thị vào thế bất lợi. Khi khối lượng trao đổi gia tăng trường Trung Quốc. Kinh nghiệm thành công càng làm tăng thêm thâm hụt thương mạ i của xâm nhập thị trường Trung Quốc của một số Việt Nam. Thêm vào đó, tình trạng nhập lậu công ty bánh kẹo, dép Bitis... của Viêt Nam rất hàng Trung Quốc vào Việt Nam hầu như vẫ n đáng được nhân rộng để các công ty khác tham không kiểm soát được. Đồng NDT tăng giá tạo khảo. Không ít du khách Trung Quốc đến Việt thuận lợi cho việc tăng xuất khẩu của Việt Nam Nam than phiền rằng họ đã dùng cà phê Việt sang Trung Quốc nhưng cũng làm tăng chi phí Nam, biết chất lượng cà phê Việt Nam, tuy sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam vốn nhiên ở Bắc Kinh, Thượng Hải... và nhiều thành vẫn phải nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ Trung phố khác của Trung Quốc muốn mua cà phê Quốc. Có thể nhậ n thấy, từ khi có ACFTA đến Việt Nam thì không biết tìm ở đâu. Đây chỉ là nay, những lợi ích đem lại đối với Việt Nam từ một ví dụ gợi mở vấn đề, phải chăng công tác quan hệ thương mạ i với Trung Quốc dường như quảng cáo, tiếp thị nhiều mặt hàng của nước ta đang bị tổn thương. Chênh lệch giữa lượng xuất làm chưa tốt. khẩu của nước ta sang Trung Quốc và lượng nhập khẩu từ Trung Quốc sang nước ta ngày 3. Song song với việc xây dựng và hoàn càng lớn. Để khắc phục những vấ n đề này, xin thiện cơ sở hạ tầng ở các khu vực biên giới bao đưa ra một số kiến nghị như sau: gồm cả các trung tâm thương mạ i, chợ biên
  10. 216 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 ngày càng thấp. Phần lợi sẽ bị đối tác đem đi, giới, đường tuần tra biên giới, chợ cửa khẩu… thua lỗ, thiệt thòi ở lại. cần tăng cường lực lượng làm công tác chống buôn lậu. Bản thân lực lượng này cũng cần được đào tạo có phẩm chất tốt, thường xuyên được luân Tài liệu tham khảo chuyển để làm tốt hơn nhiệm vụ của mình. 4. Về dài hạn, cần tăng đầu tư bên trong và [1] Ảnh hưởng của tuyến Hành lang kinh tế Côn Minh thu hút đầu tư từ bên ngoài, kể cả đầu tư từ Răng Gun tới sự phát triển Hành lang kinh tế Côn Trung Quốc để sả n xuất nhiều sản phẩ m sử Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng (2007), Đề tài NCKH Cấp Bộ năm 2006, do Chủ nhiệm đề tài: dụng ưu thế địa phương về tài nguyên, lao ông Nguyễn Tiến Hiệp, Ban Dự báo, Viện Chiến động, khí hậu... có chất lượng cao, xuất khẩu lược và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện sang Trung Quốc, từng bước thay đổi cơ cấu (2007). hàng xuất khẩu sang Trung Quốc. Đặc biệt, cần [2] Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng Khu sử dụng thị trường Trung Quốc để đưa Việt kinh tế mở Lào Cai, Nhiệm vụ cấp Bộ đặc biệt, Nam tham gia ngày càng mạnh vào mạ ng sản Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, do TS. Nguyễn xuất khu vực và toàn cầu. Trong các dự án đầu Xuân Thắng làm chủ nhiệm (2008). tư nước ngoài ở Việt Nam, cần tăng cường hợp [3] Kỷ yếu hội thảo khoa học: Định hướng phát triển tác 3 bên hoặc nhiều bên (trong đó có Trung quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc trong bối cảnh mới, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Quốc, Việt Nam) để sản xuất hàng ở Việt Nam KX.01/06-10, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ đưa đi tiêu thụ ở các thị trường Trung Quốc và Thương mại, 2007. nước ngoài. [4] Kỷ yếu hội thảo: Phát triển Hai hành lang, một vành 5. Đối với ACFTA, Việt Nam cần đúc rút đai kinh tế Việt Nam - Trung Quốc trong khuôn khổ kinh nghiệm của các nước ASEAN 6, thậ n hợp tác ASEAN - Trung Quốc, Hải Phòng, trọng đánh giá những tác động (có thể qua từng 12/2006. nă m - từ nay đến năm 2015), kết hợp phân tích, [5] Hội thảo khoa học: Việt Nam - Trung Quốc tăng cường hợp tác, cùng nhau phát triển, hướng tới đánh giá thực tiễn thương mại Việt Nam - tương lai, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Trung Quốc, chủ động đề xuất các biện pháp tại Hà Nội, 1/2005. đối phó, điều chỉnh. Để công tác đánh giá được [6] Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực hành đầy đủ, phản ánh đúng và chính xác diễn biến lang kinh tế Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh trong thương mại Việt Nam - Trung Quốc, nên thành bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do lập một nhóm cán bộ, trong đó có thành viên ASEAN - Trung Quốc, Đề tài NCKH cấp Bộ do của Ủy ban quốc gia về hội nhập quốc tế, kết TS. Nguyễn Văn Lịch làm chủ nhiệm, Viện Nghiên hợp với Hải quan các cửa khẩu Lạng Sơn, cửa cứu Thương mại, Bộ Thương mại, 2004. khẩu Lào Cai, đại diện Bộ Công thương cùng [7] Nguyễn Minh Hằng (2001), Buôn bán qua biên giới Việt - Trung, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. chuyên gia của Viện Khoa học Xã hội. Nhóm này định kỳ gặp nhau để bàn bạc trao đổi, thống [8] Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, Đề tài nhất đưa ra các đề xuất, kiến nghị. Cuối mỗi NCKH cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thương mại nă m đều có báo cáo tổng kết, đánh giá, nêu vấ n (2005), do ThS. Đỗ Kim Chi làm chủ nhiệm. đề và kiến nghị biện pháp giải quyết. Trong hợp [9] Hội thảo: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 60 năm tác quốc tế, cơ hội và thách thức luôn đan xen xây dựng và phát triển, Viện Nghiên cứu Trung với nhau, nếu không tổng kết, đánh giá, chấ n Quốc tổ chức tại Hà Nội, 9/2009. chỉnh kịp thời, cơ hội có thể bị bỏ lỡ, vấn đ ề [10] Hội thảo quốc tế: ASEAN - China trade relations: thách thức không được giải quyết ngày càng 15 years development and prospects, Ha Noi Dec nhiều hơn. Kết cục tất yếu là hiệu quả đem lại 2007.
  11. 217 P.T. Quốc / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 207-217 ASEAN - China free trade area: Several initial assessments Prof.Dr. Pham Thai Quoc Faculty of International Economics, University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: Trade relations between China and ASEAN from early 1990 to now had progressed and increased fast. This tendency seems going in accordance with the dramatic changes in the world economy - expecially during the recent global econmic crisis. It has helped both sides in obtaining the target of diversifying its economic partners, reducing their dependence on economic relations with EU and US. This article analyzed the trade relations between China and ASEAN mainly from early 2000 up to now, suggested assessements to find out both results and challenges then drew out some policy recommendations to promote the trade between Vietnam and China in coming years.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2