BÁO CÁO LOẠT CA: U SỢI VỎ BÀO BUỒNG TRỨNG<br />
Ngô Thị Kim Phụng*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: u sợi vỏ bào buồng trứng là u thuộc nhóm u mô đệm – dây giới bào hiếm gặp.<br />
Loạt trường hợp: 5 trường hợp nữ đến khám vì u hạ vị, kích thước từ 5 -20cm, không ascites, CA125 bình<br />
thường, có hình ảnh trên siêu âm là u dạng đặc với phản âm kém đồng nhất. Hai trường hợp được chẩn đoán<br />
trước mổ là u xơ tử cung dưới thanh mạc có hoặc không có cuống. Chẩn đoán sau mổ là u buồng trứng, 60% ở<br />
bên phải, màu trắng xám. Giải phẫu bệnh lý là u sợi vỏ bào buồng trứng.<br />
Kết luận: U sợi vỏ bào buồng trứng rất khó phân biệt về lâm sàng với u xơ tử cung dưới thanh mạc có<br />
cuống. Cần lưu ý đến số lượng phân bào trên vi thể.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
CASE SERIES: FIBROTHECOMA OF THE OVARY<br />
Ngo Thi Kim Phung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 62 - 65<br />
Background: fibrothecoma of the ovary arises from the ovarian stroma, a group of the sexcord – stromal<br />
tumors of the ovary, is rarely.<br />
Case: Five case-series of patients admitted to the hospital because of the pelvic mass, in which the tumors<br />
measure from 5 to 20cm in diameter. CA125 are normal; ultrsonographic findings are of solid masses,<br />
heterogenous echo. Two cases had the preoperative diagnosis of a pedunculated uterine fibroid tumor. Postoperative diagnoses are gray – white ovarian tumor with 60% in the right ovaries. Histopathologic spectrum is of<br />
fibrothecoma of the ovary.<br />
Conclusion: Fibrothecoma of the ovary is different distinguishable with the pedunculated uterine fibroid<br />
tumor clinically. Specifically, microscopic focusing on the number of cellular mitoses<br />
tiết nội tiết(1).<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
U mô đệm – dây giới bào (sex cord – stomal<br />
tumors) của buồng trứng hiếm gặp chiếm tỷ lệ<br />
khoảng 5 – 8% của ung thư buồng trứng. Trong<br />
nhóm u này có u tế bào hạt, u tế bào Sertoli, u tế<br />
bào tiết steroids, u sợi vỏ bào và u dây giới bào<br />
hỗn hợp. Trong đó u có nguồn gốc từ mô đệm<br />
của buồng trứng mà thành phần là nguyên bào<br />
sợi chiếm ưu thế (u sợi – fibroma) hoặc những<br />
đám tròn các tế bào hình thoi có xen lẫn những<br />
giọt mỡ dạng mưa rơi (vỏ bào – thecoma) chiếm<br />
ưu thế. Tuy nhiên phần lớn các u chứa hỗn hợp<br />
hai loại tế bào này nên được gọi là u sợi vỏ bào<br />
(fibro-thecoma). U vỏ bào đơn thuần hiếm gặp<br />
và đây là loại u chế tiết nội tiết. Nếu u có tỷ lệ<br />
thành phần sợi nhiều hơn thì thường không chế<br />
<br />
Với mục đích nhìn lại và rút kinh nghiệm<br />
lâm sàng về u sợi vỏ bào, một loại u hiếm xuất<br />
phát từ mô đệm của buồng trứng, chúng tôi báo<br />
cáo loạt 5 trường hợp u sợi vỏ bào đến khám và<br />
điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược từ tháng<br />
04/2008 đến tháng 09/2008.<br />
<br />
BÁO CÁO LOẠT TRƯỜNG HỢP<br />
2/5 trường hợp (40%) đến khám vì u hạ vị to,<br />
các trường hợp còn lại phát hiện u tình cờ qua<br />
khám phụ khoa và đư ợc siêu âm. Tuổi trung<br />
bình của bệnh nhân là 42, nhỏ nhất là 22 và lớn<br />
nhất là 64. Chỉ có một trường hợp chưa lập gia<br />
đình, ngoài ra đều đã sanh từ 1 đến 3 lần. 2<br />
trường hợp đã mãn kinh, 3 trường hợp còn lại<br />
<br />
* Bộ môn Sản, Đại học Y Dược Tp. HCM<br />
<br />
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
tuy còn trong tuổi sanh đẻ nhưng không hề có<br />
rối loạn về kinh nguyệt. Không ghi nhận bất<br />
thường gì về tiền căn sản phụ khoa cũng như<br />
bệnh lý nội ngoại khoa. Trên lâm sàng tất cả<br />
bệnh nhân có tổng trạng tốt, không có trường<br />
hợp nào có ascites dù cho u có kích thước to. 2<br />
trường hợp u có kích thước to 15 – 20cm chiếm<br />
cả vùng hạ vị, khó phân biệt ranh giới của tử<br />
cung và buồng trứng trên khám thực thể. Các<br />
trường hợp còn lại u có kích thước từ 5-8cm. Tuy<br />
nhiên tất cả các trường hợp đều được ghi nhân u<br />
có mật độ chắc, giới hạn tương đối rõ, di động<br />
(ngoại trừ 2 trường hợp u to vì chiếm cả vùng hạ<br />
vị), không đau. U chỉ ở một bên, 60% trường hợp<br />
u bên phải. Siêu âm đều ghi nhận phản âm kém,<br />
không đồng nhất trong 4 trường hợp (hình 1 và<br />
hình 2) và chỉ có 1 trường hợp có phản âm trống<br />
(hình 3). Tuy nhiên 2/4 trường hợp hình ảnh siêu<br />
âm cho kết luận là u xơ tử cung đa nhân, u xơ tử<br />
cung dưới thanh mạc. Các chất đánh dấu khối u<br />
như CA125, alpha FP, beta-HCG đều trong giới<br />
hạn bình thường.<br />
<br />
Hình 2: Cấu trúc phản âm kém, không phản âm, kém<br />
đồng nhất<br />
<br />
Hình 3: Nang phản âm trống, thành mỏng.<br />
Tất cả bệnh nhân đều được cắt phần phụ có<br />
u và thám sát các cơ quan như gan, dạ dày, mạc<br />
nối lớn, tìm tế bào lạ trong dịch rửa ổ bụng, sinh<br />
thiết buồng trứng còn lại. Ngoài trường hợp<br />
nang phản âm trống trên siêu âm khi phẫu thuật<br />
ghi nhận buồng trứng trái có một nang to<br />
khoảng 15cm, trơn láng, nguyên vẹn, không<br />
dính và có vùng vôi hoá # 6cm, tất cả các trường<br />
hợp khác là một u dạng đặc, màu trắng xám đục,<br />
nguyên vẹn, không dính (hình 4). Giải phẫu<br />
bệnh cả 5 trường hợp đều ghi nhận tăng sản sợi<br />
ở mô đệm buồng trứng họp thành bó hình xoáy<br />
lốc kèm tăng sản vỏ bào; có nơi thoái hóa bọc,<br />
hoá canxi (hình 5 và hình 6). Tất cả các trường<br />
hợp đều được xuất viện sau mổ 5 ngày; hiện nay<br />
đều ổn định.<br />
<br />
Hình 1: Cấu trúc nhiều thùy dạng đặc<br />
<br />
Hình 5<br />
<br />
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa<br />
2<br />
<br />
Hình 6<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
U sợi vỏ bào buồng trứng là một loại u hiếm<br />
gặp và được chẩn đoán sau khi có giải phẫu<br />
bệnh lý. Theo y văn 90% trường hợp u ở một bên<br />
buồng trứng và thường chắc, dạng khối cầu, có<br />
vỏ bao, màu trắng xám và có bao thanh mạc<br />
buồng trứng bên ngoài nguyên vẹn(1). Tất cả 5<br />
trường hợp của chúng tôi u chỉ ở một bên buồng<br />
trứng với 60% ở bên phải và đều có dạng đặc,<br />
màu trắng xám vỏ bao nguyên như y văn mô tả;<br />
chỉ có một trường hợp dạng nang nhưng có một<br />
vùng vôi hoá trên u. Kích thước u có thể thay đổi<br />
từ vài cm đến 30cm(5). Các trường hợp trong báo<br />
cáo của chúng tôi có kích thước u từ 5cm – 20cm.<br />
U to nhất là u ở buồng trứng trái, nhiều thuỳ,<br />
dạng đặc, trắng như mô mỡ có kích thước<br />
15x20x15cm. Do u to, dạng đặc trên bệnh nhân<br />
lớn tuổi (64tuổi) đã khiến trên lâm sàng và đại<br />
thể rất nghi ngờ đến trường hợp ác tính dù rằng<br />
không có ascites và các chất đánh dấu khối u<br />
như CA 125 trong giới hạn bình thường. Có hai<br />
trường hợp của chúng tôi được chẩn đoán trước<br />
mổ là u xơ tử cung đa nhân, nhân xơ tử cung<br />
dưới thanh mạc cả về lâm sàng và siêu âm. Điều<br />
này lại càng cho thấy tính chất đặc của u và gợi<br />
lên chú ý cho các nhà lâm sàng trong chẩn đoán<br />
phân biệt giữa u xơ tử cung dưới thanh mạc có<br />
cuống và u sợi vỏ bào buồng trứng. Theo nghiên<br />
cứu của tác giả Paladini và cộng sự(2) trên 63<br />
trường hợp u sợi / u sợi vỏ bào dựa vào chẩn<br />
đoán mô học, 50% trường hợp có ascites, 28% có<br />
CA 125 tăng cao > 35 U/ml. Do chúng tôi chỉ có 5<br />
<br />
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa<br />
<br />
trường hợp, cơ hội ghi nhận ascites của chúng<br />
tôi thấp nên cả 5 ca đều không thấy có ascites và<br />
CA 125 trong giới hạn bình thường. Tác giả<br />
Palidini nhận thấy dấu hiệu ascites và CA 125<br />
tăng cao thường xuất hiện trong cả hai loại u sợi<br />
và u sợi vỏ bào buồng trứng có kích thước ><br />
9cm. Hai trường hợp u to của chúng tôi (15 –<br />
20cm) đều không có ascites và CA 125 cũng<br />
không tăng cao. Hình ảnh siêu âm trong nghiên<br />
cứu của tác giả Palidini ghi nhận 73% trường<br />
hợp là đặc, 24% đặc một hoặc nhiều thùy, có<br />
bóng lưng trong 29% trường hợp. Trên siêu âm<br />
màu Doppler tác giả ghi nhận 79% sang thương<br />
có phân bố mạch máu ít hoặc trung bình (điểm<br />
số màu 2 hoặc 3). Hình ảnh siêu âm trong các<br />
trường hợp của chúng tôi chỉ ghi nhận phản âm<br />
kém, phản âm không đồng nhất và không có<br />
siêu âm Doppler màu nên chúng tôi không ghi<br />
nhận được điểm số màu như tác giả. Như<br />
Raquard(4) báo cáo độ chuẩn xác của siêu âm<br />
trong chẩn đoán phân biệt nang buồng trứng<br />
lành tính và ác tính là 91%. Vai trò của siêu âm<br />
trong chẩn đoán u vùng chậu là 97%. Tuy nhiên<br />
những dấu hiệu tìm thấy trên siêu âm đối với u<br />
đặc buồng trứng không đặc hiệu và không thể<br />
tiên đoán trước được loại mô học của u. Tác giả<br />
Jahanguir(5) có mô tả một trường hợp bệnh nhân<br />
50 tuổi vào viện vì u hạ vị khoảng thai 15-17<br />
tuần và được nghi ngờ là u xơ tử cung. Siêu âm<br />
ghi nhận có bóng lưng ở toàn bộ u. Hình ảnh<br />
bóng lưng này theo tác giả là là do thành phần<br />
sợi chiếm ưu thế trong u gây ra. Những vùng<br />
thoái hoá canci trên bất kỳ u vùng chậu nào<br />
cũng tạo ra bóng lưng. Tuy nhiên nếu không có<br />
canci hoá ở vùng chậu trên phim X quang phối<br />
hợp với siêu âm ghi nhận u buồng trứng có<br />
bóng lưng trên 90% bề mặt u thì có thể nghĩ<br />
nhiều đến u vỏ bào. Nếu như nguồn gốc của u<br />
vùng chậu đó không phải là buồng trứng thì có<br />
thể là nhân xơ tử cung dưới thanh mạc có cuống.<br />
Một trường hợp của chúng tôi cũng đã chẩn<br />
đoán lầm trước mổ trên siêu âm là nhân xơ tử<br />
cung dưới thanh mạc có cuống, tuy nhiên không<br />
thấy ghi nhận hình ảnh bóng lưng như<br />
<br />
3<br />
<br />
Jahanguir đã ghi nhận.<br />
Riêng các nhà giải phẫu bệnh lưu ý rất<br />
nhiều đến số lượng phân bào: từ 1 đến 3 hình<br />
ảnh phân bào trên quang trường 10 được phân<br />
thành u sợi lành tính và trên số lượng phân<br />
bào đã nêu là ác tính(3).<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Đây là một loạt 5 trường hợp u sợi vỏ bào<br />
buồng trứng được khám và điều trị tại Bệnh<br />
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.<br />
Do tính chất đặc của u nên rất khó phân biệt với<br />
nhân xơ tử cung dưới thanh mạc có cuống cả<br />
trên lâm sàng và hình ảnh siêu âm. Tuy hiếm<br />
gặp và là u được ghi nhận là lành tính nhưng<br />
vẫn có thể chẩn đoán nhầm là ác tính. Chẩn<br />
đoán mô học giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán<br />
và tiên lượng cho bệnh nhân u buồng trứng nói<br />
chung và u sợi vỏ bào nói riêng.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
2.<br />
<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
5.<br />
<br />
Kumar: Robbins and Cotran, (2005), “Ovarian tumors” in<br />
Pathologic Basis of disease, Saunders, 7 th edition<br />
Paladini D, Testa A, Valentin L, Van Holsbeke, Timmerman D.,<br />
(2006), Fibroma and fibrothecoma of the ovary – clinical and<br />
ultrasound findings in a multicenter series of 63 cases,<br />
Ultrasound in Obstetrics and Gynecology 28: 412-511.<br />
Prat J, Scully RE., (1981), Cellular fibromas and fibrosarcomas<br />
of the ovary: A comparative Clinicopathologic analysis of<br />
seventeen cases, Cancer 47: 2663, 429 – 432.<br />
Raquard CK, Mettler FA, Wicks JD, (1981), Preoperative<br />
sonography of malignant ovarian neoplasms, AJR 137: 79.<br />
Yaghoobian J, Pinck RL., (1983), Ultrasound findings in<br />
Thecoma of the ovary, J Clin Ultrasound 11: 91 -93.<br />
<br />
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa<br />
4<br />
<br />
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa<br />
<br />
5<br />
<br />