intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " QUYỀN LỰC TỪ BÊN DƯỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI THẾ GIỚI ĐƯỢC KHÔNG? "

Chia sẻ: Phạm Huy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

61
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các quan điểm phổ biến hiện nay về quyền lực không thể giải thích được vì sao các phong trào phản kháng chính trị từ bên dưới đôi khi lại dẫn đến những cải cách thể hiện yêu cầu bất bình của người biểu tình. Tôi đề xuất một lý thuyết mới về “quyền lực phụ thuộc” để cung cấp một cách giải thích cho điều nói trên. Tôi lập luận rằng khác với cách nhìn thông thường, toàn cầu hóa trong thực tế làm tăng tiềm năng của kiểu quyền lực nhân dân này....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " QUYỀN LỰC TỪ BÊN DƯỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI THẾ GIỚI ĐƯỢC KHÔNG? "

  1. QUYỀN LỰC TỪ BÊN DƯỚI CÓ THỂ THAY ĐỔI THẾ GIỚI ĐƯỢC KHÔNG? _______________________________________________________ Diễn văn của Chủ tịch tại Hội nghị thường niên Hội Xã hội học Mỹ năm 2007. In trong: Tạp chí xã hội học Mỹ, Vol. 73 (February) 2008, trang 1-14. Frances Fox Piven Trung tâm đào tạo sau đại học Đại học Thành phố New York Người dịch: Bùi Thế Cường Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ Việt Nam. Email: cuongbuithe@yahoo.com Các quan điểm phổ biến hiện nay về quyền lực không thể giải thích được vì sao các phong trào phản kháng chính trị từ bên dưới đôi khi lại dẫn đến những cải cách thể hiện yêu cầu bất bình của người biểu tình. Tôi đề xuất một lý thuyết mới về “quyền lực phụ thuộc” để cung cấp một cách giải thích cho điều nói trên. Tôi lập luận rằng khác với cách nhìn thông thường, toàn cầu hóa trong thực tế làm tăng tiềm năng của kiểu quyền lực nhân dân này. Phần lớn công việc học thuật của tôi là về vai trò của các phong trào phản kháng trong việc tạo ra những cuộc cải cách cải thiện hoàn cảnh của dân chúng lớp dưới trong xã hội Mỹ. Và phần lớn công việc của tôi với tư cách là một người tích cực chính trị - niềm vui thực sự trong đời tôi – là cộng tác với những phong trào ấy. Trong bài phát biểu này, dựa trên kinh nghiệm tham gia chính trị của mình tôi xem xét về mặt lý thuyết loại quyền lực xuất hiện khi các phong trào, ở Mỹ cũng như ở mọi nơi, trở thành động lực của thay đổi. Tôi nghĩ rằng câu hỏi tầng lớp dưới có thể nỗ lực sử dụng quyền lực như thế nào chưa bao giờ quan trọng hơn như ngày hôm nay. Xét đến cùng, nó sẽ quyết định việc một thế giới khác là có thể hay không. Mặc dù đây không phải là cách mà người ta thường kể câu chuyện về sự phát triển của nền chính trị Mỹ, các phong trào phản kháng đã đóng vai trò lớn trong lịch sử Mỹ. Điều này đặc biệt đúng đối với những phong trào cải cách vĩ đại đã nhân văn hóa xã hội chúng ta, 1
  2. từ phong trào thành lập nền cộng hòa, giải phóng nô lệ, đến Chính sách Mới (New Deal) và Xã hội Vĩ đại, quyền dân sự trong thập niên 1960, v.v. Trong những năm dẫn đến cuộc Chiến tranh Cách mạng, dưới ách thống trị của Anh, giới tinh hoa Mỹ đã liên tục nỗ lực liên minh với “người dân thường” (people-out-of-doors), với dân chúng. Không có sự ủng hộ của họ, cuộc chiến chống lại nước Anh đã không thể thắng lợi. 1 Nhưng cái giá của sự liên minh là giới tinh hoa phải nhượng bộ trước tư tưởng dân chủ cấp tiến về quyền tự quản của nhân dân. Hơn thế nữa, sức mạnh đe dọa của đám đông và niềm tin dân chủ cấp tiến vững chắc của họ đã in dấu ấn vào các điều khoản hiến pháp bang mới, và sau đó ở mức độ ít hơn vào các điều khoản của hiến pháp liên bang mới, nó tuyên bố quyền và tính đại diện của nhân dân. Đó là những điều khoản mà người ta phải chấp nhận để có được sự ủng hộ của dân chúng đối với chính phủ quốc gia mới. Chắc chắn, quá trình là phức tạp. Đám đông thì đầy quyền lực trong thời kỳ cách mạng, vì quyền lực nhà nước bị suy yếu do xung đột sâu sắc giữa giới tinh hoa ở thuộc địa, Hoàng gia Anh, và lợi ích của giới thương gia Anh những người rất có ảnh hưởng đối với Hoàng gia Anh. Quyền lực Nhà nước còn bị suy yếu do khoảng cách quá xa chia tách thuộc địa khỏi bộ máy cai trị và quân đội của mẫu quốc, và do sự manh mún của các cơ quan cai trị thuộc địa. Thêm nữa, những thành tố tạo nên nền dân chủ bầu cử đại diện, thành quả của cách mạng, đã sớm được bảo trợ trong nền chính trị dựa vào khách hàng và bộ lạc do các đảng chính trị thế kỷ XIX phát triển nên. Còn nữa, ngay cả một nền dân chủ bầu cử hạn chế đôi khi cũng giúp cho việc giảm bớt quyền lực của đồng tiền và lực lượng vũ trang, ít nhất khi những đợt sóng phản kháng dâng trào khiến cho những người lãnh đạo dân cử phải ứng phó theo cách hòa giải. Hãy kể đến trường hợp những người bãi bỏ (abolitionist) xa lạ và cuồng tín. Sự táo bạo và kiên tâm của họ trong việc theo đuổi sự nghiệp giải phóng ngay lập tức đã đập vỡ mọi thỏa hiệp cục bộ khiến cho việc thống nhất quốc gia đã trở nên có thể vào năm 1789. Những nhà hoạt động phong trào tích cực có lien hệ cội rễ sâu trong các nhà thờ của một đất nước rộng lớn theo đạo Tin Lành. Tài hùng biện khích động của họ đập vỡ các giáo phái chủ yếu, chuẩn bị cách thức để phân hóa các liên phái của hệ thống đảng thứ ba và rút cục lèo lái các bang miền Nam tức giận đi đến ly khai. Thành quả của phong 2
  3. trào là không thể chối cãi. Chính phủ quốc gia đã tiến hành một cuộc chiến nhằm duy trì sự thống nhất, điều sẽ dẫn đến việc giải phóng nô lệ, và rồi, do các đại diện phía Nam ly khai, nên Thượng Viện đã đưa các khoản tu chính 13, 14 và 15 vào Hiến pháp. Hãy kể đến thời kỳ phong trào lao động thực hiện các cuộc bãi công những năm 1930, những cuộc bãi công đã tạo nên khuôn khổ cơ bản cho một hệ thống quan hệ lao động, hệ thống này đem lại, ít nhất cũng được một thời gian, cơ hội cho nhiều công nhân đạt tới cái được gọi là giai cấp trung lưu, đem lại sự kính trọng và tự tin, cho đến lúc bấy giờ vẫn bị từ chối, cho những người công nhân giờ đây đã liên hiệp lại trong các ngành ô tô, thép, cao su, và khai thác than (Metzgar 2000). Hãy kể đến phong trào tự do da đen, sự gan dạ vô biên của họ trong cuộc chiến đấu chống chế độ apartheid miền Nam đã khiến Chính phủ liên bang sau rất nhiều trì hoãn rốt cuộc đã thông qua các điều luật thực hiện những hứa hẹn của Thời kỳ Kiến thiết. Hãy kể đến phong trào chống nghèo khổ của thập niên 1960 dẫn tới việc mở rộng các chương trình xã hội đến mức khiến nước Mỹ trông giống như một nước dân chủ xã hội. Hãy kể đến phong trào chống chiến tranh ở Việt Nam, đặc biệt là bộ phận G.I. của phong trào, rốt cuộc đã khiến cuộc chiến ở Đông Nam Á đi đến hồi kết, và để lại sau sự khuấy động của mình cái vẫn được gọi là “hội chứng Việt Nam”, cản trở việc khai triển quân đội Mỹ trên thế giới ít nhất cũng trong một thời gian. Hãy kể đến phong trào phụ nữ, phong trào giải phóng người đồng tính với thành công của họ trong việc giành được quyền hợp pháp, làm biến đổi đời sống xã hội và nền văn hóa Mỹ. Không cần phải nói rằng những người phản kháng chưa bao giờ giành được thắng lợi một cách dễ dàng. Yêu sách của họ không tránh khỏi bị biến điệu và mài giũa để thích ứng với những dàn xếp định chế hiện tồn và với những lợi ích đầy quyền lực bám chắc trong những định chế ấy. Thêm nữa, một khi phong trào bị lắng lại, ngay cả các thành quả hạn chế của nó cũng bị rút tỉa mất (đây lại là bằng chứng nữa, trong khi nó chưa bao giờ được thừa nhận, của tầm quan trọng của phong trào trong việc thúc đẩy các cuộc cải cách). Dù vậy, bất kể những bước lùi ấy, các phong trào phản kháng vẫn để lại dấu ấn của mình trong các cuộc cải cách. Một hệ thống đại diện bầu cử được củng cố, chế độ nô lệ không thể phục hồi, hệ thống apartheid miền Nam bị xói mòn, và trong khi lao động đang bị đánh 3
  4. bại thì vẫn còn đó các công đoàn và họ có thể làm nên chuyện trong nền chính trị Mỹ. Vậy thì, vì sao lại có những chiến thắng đó? Các phong trào phản kháng đã làm gì để buộc phải có những phản ứng giải hòa? Cả những nghiên cứu về phong trào xã hội lẫn những nghiên cứu về sự phát triển của nền chính trị Mỹ đều chưa đưa ra được câu trả lời thoả đáng cho vấn đề này. Khi thảo luận về phong trào, người ta thường nói đến tính chất gây rối, điều có nghĩa là ồn ào, mất trật tự, thậm chí bạo lực. Dĩ nhiên, các phong trào phản kháng thì ồn ào vì họ muốn truyền đi yêu sách của mình, với những băng rôn biểu ngữ, trò biểu diễn, tụ tập, diễu hành. Những hành động ấy làm cho phong trào có tiếng nói, và nếu điều kiện cho phép thì đem lại tác động bầu cử. Có lẽ quan trọng hơn, những đám đông tụ tập, hô khẩu hiệu, ký hiệu, khích lệ đạo đức của những người tham gia phong trào. Nhưng các phong trào phản kháng làm nên lịch sử Hoa Kỳ đã phải đương đầu với những chống đối ghê gớm mà chỉ có tiếng nói thôi thì khó có thể vượt qua. Trong khi đôi lúc phải sử dụng bạo lực để tự vệ, nói chung những cuộc phản kháng Mỹ đều tránh xa bạo lực và những rủi ro chiến lược do bạo lực tạo ra. Mặc dù tôi cũng có viết rằng phong trào là có tính chất gây rối, ở đây tôi sẽ sử dụng thuật ngữ quyền lực “phụ thuộc lẫn nhau” không phải bởi vì tôi muốn độc giả bớt nghi ngờ, mà bởi vì cái từ ấy gợi ý đến một cơ sở xã hội học của động lực gây rối. Tôi muốn chỉ ra tầm quan trọng của kiểu quyền lực này đối với việc phân tích phong trào và ảnh hưởng của nó đến chính trị, bằng cách đó tôi muốn ngụ ý đến sự phản kháng liên tục diễn ra đối với sự phân bổ ích lợi vật chất và văn hóa do hành động của chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tôi cũng gợi ý rằng quyền lực phụ thuộc lẫn nhau là có ý nghĩa trong các vùng định chế khác, thể hiện rõ nhất là trong kinh tế, nhưng chẳng hạn cũng thể hiện rõ trong gia đình, nhà thờ, và cộng đồng địa phương. Do đó, những khuôn mẫu thống trị – đôi khi được gọi là “kiểm soát xã hội” – mà chúng phổ biến trong các lĩnh vực khác rất dễ có hậu quả đối với phản kháng quyền lực mà ta thừa nhận như là chính trị. Cuối cùng, tôi xem xét triển vọng của việc nổi lên quyền lực phụ thuộc lẫn nhau với tính cách là một chủ thể mang tính thay đổi trong nền chính trị đương đại, ở Mỹ cũng như trên thế giới. Tôi tin rằng, tiềm năng của quyền lực từ bên dưới sẽ là chỉ lệnh cho nhà xã hội học nghiên cứu. Nhưng truyền thống tri thức và định chế của 4
  5. chúng ta có phù hợp cho việc tiến hành những nghiên cứu ấy hay không? MỘT LÝ THUYẾT MỞ RỘNG VỀ QUYỀN LỰC 2 Các nhà xã hội học đã bận tâm nhiều về khái niệm quyền lực. Tôi muốn đặt sang một bên nhiều cuộc tranh luận thú vị về định nghĩa quyền lực ủng hộ cách hiểu gần với quan niệm của Weber. Tôi xem quyền lực như là khả năng của một chủ thể tác động đến hành động của một hay các chủ thể khác, kể cả để chống lại sự phản kháng. Đôi khi điều này được gọi là giả định tổng bằng zero (zero-sum assumption): cái mà chủ thể này đạt được là giá phải trả của chủ thể kia. Theo ngôn ngữ của Anthony Giddens (1976), quyền lực là sự thống trị (domination), và là một đặc tính của tương tác xã hội 3 . Cách lý giải này rất có ảnh hưởng trong số các nhà xã hội học bắt đầu quan tâm đến xung đột khi khung mẫu (paradigm) Parsons trở nên phai nhạt trong thập niên 1960. Câu hỏi làm bận tâm các nhà lý thuyết theo quan điểm này là ai có quyền lực, và vì sao? Và câu trả lời nói chung được hiểu là phụ thuộc vào nguồn quyền lực, hoặc những cơ sở khiến cho một chủ thể có khả năng khuất phục ý chí của chủ thể khác. Weber lẩn tránh câu hỏi bằng cách lập luận rằng không thể khái quát hóa các nguồn quyền lực, mà chúng phụ thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể. Vì quan điểm này từ chối khả năng phân tích sự phân bố quyền lực mang tính khuôn mẫu trong đời sống xã hội, nên nó khiến nhiều nhà phân tích không hài lòng. Thay vào đó, các nhà lý thuyết xung đột xây dựng một danh mục các sự vật và thuộc tính tạo khả năng cho một chủ thể có thể tác động đến các chủ thể khác. Giờ thì quyền lực được xem là cái gì đó dựa trên kỹ năng cá nhân, tri thức kỹ thuật, tiền hay sự kiểm soát cơ hội kiếm tiền, uy tín hay sự tiếp cận đến uy tín, đến số đông hay khả năng huy động đông người. Randall Collins (1975:60-61) khái quát quan điểm này như sau: “Hãy nhìn vào các sự vật vật chất mà chúng tác động vào tương tác: các địa điểm vật thể, phương thức truyền thông, vũ khí, phương tiện dàn dựng để gây ấn tượng cho một người trước công luận, công cụ, vật phẩm. Hãy đánh giá những nguồn lực tương đối mà cá nhân có thể sử dụng: khả năng gây ra bạo lực thể chất, khả năng tiếp cận đến những người có thể thương thảo, sự hấp dẫn tình dục, kho công 5
  6. cụ văn hóa để gợi lên cảm xúc, cũng như là những sắp xếp vật chất như đã đề cập…Các nguồn lực cho xung đột là đa dạng”. Cái catalog của Collins rất quen thuộc và không khác nhiều với cái danh mục thông thường (common sense) của Dahl (1961:226), đó là cái danh mục “của bất cứ thứ gì mà có thể được sử dụng để tác động đến những lựa chọn hay chiến lược đặc thù của cá nhân khác”. 4 Mills (1956:9, 23) có một bổ sung quan trọng rằng người thực sự có quyền lực là “những người chiếm giữ các vị trí ra lệnh” trong những định chế chủ chốt, vì những định chế đó là cơ sở cho việc tập trung các nguồn lực. 5 Mọi người tỏ ra nhất trí rằng một kiểu nguồn lực này có thể sử dụng để kiếm được một kiểu nguồn lực khác, bởi vì nguồn lực là có thể “chuyển hóa, tập hợp, tái phân bổ, trao đổi” và đầu tư. 6 Tổng hợp lại, nguồn lực quyền lực là những thuộc tính hay sự vật mà một chủ thể có thể sử dụng để ép buộc hay thuyết phục chủ thể khác. 7 Tôi sẽ gọi quan điểm này đơn giản là quan điểm nguồn lực quyền lực. Cái danh mục các nguồn lực quyền lực, từ tiền đến sự nổi tiếng đến số đông đến thời gian rỗi, đôi khi là căn cứ cho lập luận về tính không quyết định luận trong các khuôn mẫu quyền lực. 8 Tất cả mọi người đều có cái gì đó, như nhà đa nguyên luận nói, và kể cả những người gần như không có gì thì ít nhất cũng có số đông của họ. Tuy nhiên, một cách điển hình, các loại vật phẩm và đặc tính mà các nhà phân tích đã liệt kê như là những nguồn lực then chốt thì không hề được phân bố rộng rãi, đúng hơn chúng tập trung ở phần trên của tháp tôn ti xã hội. Theo đó quyền lực cũng tập trung ở phía trên. Luận lý cứ thế mà tiến: của cải, uy tín, những công cụ bạo lực vật lý, tất cả là những cơ sở đáng tin cậy để thống trị kẻ khác. Bởi vì những đặc tính và vật phẩm này, như tất cả mọi người đều đồng ý, được phân bố theo phẩm trật xã hội, nên tất yếu người ở cấp bậc xã hội cao hơn thì có nhiều quyền lực hơn, người ở cấp bậc thấp hơn thì có ít quyền lực hơn. Nói cách khác, vì các nguồn lực là cơ sở cho việc hành xử quyền lực và nó bị phân tầng, nên quyền lực cũng bị phân tầng, và ai tích lũy được nhiều nguồn lực hơn thì cũng có nhiều quyền lực hơn. Cách hiểu ai có quyền lực và vì sao, như trên đã mô tả, rõ ràng đã phục vụ tốt trong một thời gian dài. Người giàu và người có vị trí cao, bao gồm cả những người kiểm soát quân đội và công an, thường đánh bại những người chẳng có gì như thế trong bất kỳ một cuộc 6
  7. phản kháng nào – nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Đôi khi người dân chẳng có vật dụng hay vị thế hay của cải gì lại thành công trong việc gây sức ép thay đổi định chế, nó phản ánh, thường chỉ là lờ mờ, các nhu cầu và khát vọng của người dân bên dưới trong trật tự xã hội. Những đám đông bạo loạn bao vây các thành phố thời cuối Trung cổ đã khiến người ta phải tạo ra các hệ thống cứu trợ đầu tiên (De Swaan 1988; Hill 1952; Jutte 1994; Lis and Soly 1979; Piven and Cloward 1971). Khi châu Âu và Mỹ công nghiệp hóa, những người công nhân bãi công đã dẫn đến việc xây dựng các hệ thống bảo vệ lao động. Những người tham gia phong trào tự do da đen đã thách thức đám đông da trắng và giới chính khách bảo hoàng và đã giành thắng lợi trong việc thay đổi luật và thực tế làm xói mòn chế độ apartheid. Những đám đông thường dân đã đánh bại lực lượng bảo vệ có vũ trang và phá đổ theo nghĩa văn chương bức tường Berlin huyền thoại. Và chỉ mới gần đây thôi, những người thất nghiệp phong tỏa đường phố trong phong trào piquetero ở Argentina đã buộc chính phủ phải thiết lập chế độ trợ cấp thất nghiệp đầu tiên trong lịch sử châu Mỹ latin. Điều này góp phần thúc đẩy một cuộc nổi dậy rộng lớn hơn lật đổ các tổng thống (Auyero 2005; Sitrin 2006:8- 16). Thổ dân da đỏ cao nguyên Aymaric ở Bolivia đã đánh đổ hai chính phủ và chính phủ hiện thời đã phải có những bước đi theo hướng ít nhất cũng quốc hữu hóa một phần ngành hơi đốt và dầu lửa. Vậy thì, vì sao luôn có tình trạng người dân không có bất cứ cái gì mà ta gọi là nguồn lực quyền lực lại có khả năng giành thắng lợi?9 QUYỀN LỰC PHỤ THUỘC LẪN NHAU Tôi cho rằng có một kiểu quyền lực khác không dựa trên nguồn lực, sự vật, hoặc các thuộc tính, mà dựa trên các quan hệ xã hội và cộng tác trong đó con người được móc xích vào với nhau trong một ưu thế của đời sống nhóm. Hãy hình dung các xã hội như là hợp thành từ các mạng lưới các quan hệ cộng tác, ít nhiều được định chế hóa, qua đó việc kết bạn và tái sản xuất được tổ chức, hay sản xuất và phân phối, xã hội hóa thế hệ trẻ, hoặc phân bố và củng cố quyền hạn nhà nước. 10 Đời sống xã hội là đời sống cộng tác, và về nguyên tắc tất cả mọi người mà có đóng góp vào hệ thống cộng tác này đều có quyền lực tiềm tàng đối với người khác, những người phụ thuộc vào họ. Kiểu quyền lực phụ thuộc lẫn nhau này không tập trung ở phía trên mà về mặt tiềm tàng nó lan tỏa rộng rãi. Ngay cả những người không có tài sản hay những thuộc tính mà ta vẫn gắn với quyền lực, 7
  8. vẫn có thể làm những việc mà khiến người khác phải phụ thuộc vào đó. 11 Họ cọ rửa toilet hay đào than hay chăm sóc trẻ sơ sinh. Kể cả khi họ thất nghiệp và vô dụng, những người khác cũng bị phụ thuộc vào họ để tuân thủ các chuẩn mực của đời sống dân sự. Các mạng lưới cộng tác ổn định tất yếu dẫn đến tình trạng chịu sự điều hành của các quy tắc và ý tưởng mà ta gọi là các định chế. Và các định chế cũng trở thành trường tranh đấu và nơi vận hành của quyền lực phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng điều này sẽ không phải là hiển nhiên nếu chúng ta nhìn đời sống xã hội một cách quá quyết định luận một chiều. Các định chế mang khuôn mặt của thần Janus: chúng giúp cho việc định hình các bản sắc và dự định của con người, và chúng xã hội hóa mọi người tuân thủ các quy tắc của định chế mà đời sống hàng ngày dựa vào đó. Tuy nhiên, như Dennis Wrong đã lập luận cách đây ít lâu (1979), con người tiếp tục theo đuổi những mục tiêu khác hơn là những mục tiêu mà các chế độ của đời sống định chế khích lệ, cho dù đó là do họ trốn chạy khỏi xã hội hóa do bị khêu gợi bởi vô số khát khao của con người, hay cho dù bởi các môi trường định chế đa dạng cho phép sinh sôi nảy nở những mục tiêu khác bày ra trước mắt họ.12 Tôi nghĩ rằng tất cả những điều nói trên là không thể tranh cãi. Tuy nhiên, giả định căn bản của tôi là: bởi vì con người có những mục tiêu đa dạng (và mâu thuẫn nhau), và bởi vì đồng thời họ là kẻ sáng tạo mang tính xã hội và cộng tác, cho nên điều không tránh khỏi là họ sẽ cố gắng sử dụng các quan hệ của họ với người khác để theo đuổi những mục tiêu ấy, ngay cả khi phải chống lại sự phản kháng. Phải nhấn mạnh thêm nữa, đời sống định chế xã hội hóa mọi người để tuân thủ, trong khi đồng thời các định chế cũng sản sinh ra cho những người tham gia vào các hoạt động xã hội và cộng tác cái quyền lực để theo đuổi các ý định đa dạng và xung đột nhau, ngay cả khi phải thách thức với các quy tắc (tác giả nhấn mạnh). Thành thử, trong khi các nhà lý thuyết xung đột nhấn mạnh rằng nhà tư bản có quyền lực đối với công nhân vì nhà tư bản kiểm soát vốn và cơ hội việc làm mà đầu tư đã tạo ra (và nhà tư bản có thể viện đến kẻ đâm thuê chém mướn, quân đội cảnh sát, báo chí, tòa án), thì quan điểm quyền lực phụ thuộc lẫn nhau sẽ cho ta nhìn thấy rằng công nhân cũng có quyền lực tiềm tàng đối với nhà tư bản vì họ vận hành toàn bộ cái dây chuyền mà sự sản xuất phụ thuộc vào đó. Cũng theo cách đó, địa chủ có quyền lực đối với tá điền vì địa chủ sở hữu 8
  9. đất mà tá điền canh tác, nhưng tá điền cũng có quyền lực đối với địa chủ vì ruộng đất chỉ là đồ vô dụng nếu không có lao động của tá điền. Giới chức nhà nước có thể viện đến quyền hạn của luật pháp và sức mạnh của quân đội cảnh sát, nhưng họ cũng phụ thuộc vào công luận cử tri. Vợ và chồng, thầy tu và con chiên, chủ nô và nô lệ, tất cả đều đối diện với cái động lực học nói trên. Cả hai phía của các mối quan hệ trên đều có tiềm năng để thực hiện quyền lực phụ thuộc lẫn nhau, và ít nhất là trên nguyên tắc, đều có khả năng thực thi quyền lực đối với người khác bằng cách rút bỏ hay đe dọa rút bỏ khỏi sự cộng tác xã hội. Trong thực tế, quyền lực phụ thuộc lẫn nhau hàm ý (ẩn ngầm) nhiều nhất trong cái ta vẫn thường nói là quyền lực từ bên dưới. Ngày nay, nói chung ta thường dựa trên hai lý thuyết có tiềm năng để giải thích về hiện tượng thể hiện quyền lực nhân dân mang tính chu kỳ, cả hai lý thuyết này thường được giới trí thức sử dụng để lập luận với những phiên bản khác nhau, và cả hai lý thuyết cũng in dấu ấn sâu sắc trong niềm tin của dân chúng. Lý thuyết thứ nhất được gọi đơn giản là lý thuyết dân chủ chính trị, phát triển từ thế kỷ XVII. Người dân thường có quyền lực đối với giới quan chức tinh hoa thông qua các định chế đại diện bầu cử, các định chế này làm trung giới giữa công dân và nhà nước. Nhân dân, hay ít nhất cũng là nhiều người trong đó, có lá phiếu, và các cuộc bầu cử định kỳ, ở đó sẽ đếm các lá phiếu, sẽ làm cho các chính trị gia phải phụ thuộc vào đa số nhân dân để duy trì các vị trí quyền hạn nhà nước. Như vậy, bầu cử buộc neo các nhà lãnh đạo nhà nước vào với cử tri những người mà họ phải dựa vào để duy trì vị trí trong chính phủ. Cử tri có nghĩa là người dân có quyền lực, đôi chút quyền lực, vì giới tinh hoa chính trị phụ thuộc vào họ. Một lý thuyết lớn khác, thể hiện cả trong phiên bản trí thức lẫn dân gian, là lý thuyết về quyền lực lao động (labor power) được lập luận một cách thuyết phục nhất trong Tuyên ngôn Cộng sản của Mác và Engels. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, lập luận nói rằng, làm nảy sinh nền công nghiệp sản xuất hàng loạt và vô số công nhân công xưởng mà nền công nghiệp ấy phải dựa vào quyền lực lao động của họ. Vì sản xuất công xưởng phụ thuộc vào họ, nên công nhân có thể gây ảnh hưởng bằng bãi công, bằng cách “tắt máy” (shutting it down). Thêm nữa, sự lớn mạnh của công nghiệp sản xuất hàng loạt luôn làm tăng số lượng công nhân, những người có kiểu 9
  10. quyền lực này. Tăng trưởng tạo ra đoàn kết trong công nhân, ngay cả khi trải nghiệm về nền sản xuất hàng loạt tạo ra sự phân hóa ngày càng sâu sắc giữa tư bản và lao động, nó đẩy tư bản ra thành đối tượng của sự giận dữ của công nhân. Quyền lực lao động cũng có một biểu hiện được định chế hóa trong việc thành lập các công đoàn và một bộ giáp các quyền lao động được đưa vào luật và quy chế. 13 TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUYỀN LỰC PHỤ THUỘC LẪN NHAU TỪ ĐÓ VÀ HIỆN NAY Lịch sử rời rạc và phức tạp của việc mở rộng quyền chính trị và lao động ở châu Âu, Mỹ, Mỹ latinh và các nơi khác, có thể được kể ra như là lịch sử của những phản ứng của nhà nước đối với sự huy động của cả quyền lực quần chúng nảy sinh từ sự phát triển của các định chế bầu cử đại diện lẫn của quyền lực nảy sinh từ nơi làm việc công nghiệp. Kiểu quyền lực này có thể ảnh hưởng đến kiểu quyền lực kia. Những cuộc bãi công nơi làm việc có thể dễ được giải quyết bằng một sự hòa giải, nếu giới tinh hoa nhà nước kiềm chế sử dụng lực lượng đàn áp người bãi công vì họ lo ngại về hậu quả bầu cử trong những khu vực cử tri có cảm tình. Chiều tác động ngược lại cũng đúng như thế. Nếu giới tinh hoa cảm thấy tự do trong việc huy động các đơn vị cảnh sát, thì các cuộc bãi công sẽ rất khó thành công, như lịch sử các cuộc bãi công thất bại ở Mỹ trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã cho thấy (Piven and Cloward 1977). Không chỉ có sự độc quyền của nhà nước đối với việc sử dụng hợp pháp bạo lực làm cho quyền lực lao động trở nên có điều kiện đối với quyền lực bầu cử. Những cuộc bãi công lan rộng trong thập niên 1930 đã dẫn đến sự nhượng bộ đối với lao động có tổ chức thể hiện trong Luật Wagner, và trong các thập niên tiếp theo, ảnh hưởng của lao động có tổ chức đối với nền chính trị bầu cử đã góp phần bảo vệ ít nhất là một số trong những thành quả đó. Những sự vận động mạnh mẽ trong bầu cử và lobby do các công đoàn Mỹ tiến hành gần đây hiển nhiên là một nỗ lực để giành lại ảnh hưởng của quyền lực bầu cử trong một thời đại mà quyền lực lao động đã giảm sút. Tương tự, lịch sử của nhà nước phúc lợi có thể được kể như là lịch sử của những nhượng bộ kế tiếp nhau không tránh khỏi do những cuộc bùng nổ của cả quyền lực lao động và quyền lực bầu cử. Trong thực tế, tôi nghĩ câu chuyện không đơn giản khi nhiều cuộc phản 10
  11. kháng của quyền lực nhân dân bị cô lập. Tuy nhiên, có một chân lý trong cái bức tranh lớn cho thấy an toàn kinh tế mà người lao động và người nghèo được hưởng từ những trợ giúp thu nhập công cộng và từ những chương trình dịch vụ là cái giá mà giới tinh hoa chính trị và kinh tế phải trả cho sự hội nhập và cộng tác của đông đảo dân cư, một cái giá tất yếu phải trả bởi những cuộc bùng phát thường kỳ của quyền lực dân chủ và quyền lực lao động. Toàn cầu hóa Bạn vẫn có thể nói rằng đó là chuyện của quá khứ, cuộc chơi đã thay đổi rồi. Thế giới của chúng ta đã biến đổi bởi những sự phát triển mà ta gọi là toàn cầu hóa. Trước khi có toàn cầu hóa, ở đây tôi muốn nói là toàn cầu hóa tân tự do, ít nhất chúng ta cũng có đôi chút tự tin nói rằng chính phủ của chúng ta có thể thực hiện các cải cách nếu sự tương tác qua lại giữa quyền lực lao động và nền chính trị bầu cử gây được áp lực đủ mạnh. Ta cũng có thể tự tin đôi chút rằng người lao động và công đoàn của họ có thể thúc ép các chính sách. Giờ đây khả năng của các chính phủ kiểm soát các tác viên thị trường, bao gồm những công ty đa quốc gia và các nhà tài chính quốc tế, đã yếu đi đáng kể do sự di động tư bản, đồng thời thương mại ngày càng thúc đẩy cạnh tranh toàn thế giới để có lao động ngày càng rẻ hơn. Không còn ảnh hưởng của quyền lực dân chủ và quyền lực lao động, phải chăng chúng ta sẽ bất hạnh đi tới một tương lai do các nhà kinh doanh và chính khách tham lam vô độ kiểm soát, và hậu quả là cơn lốc xoáy bất bình đẳng và xuống cấp môi trường? Tôi không nghĩ như vậy. Thực tế, tôi là một người đôi chút lạc quan về tương lai của chúng ta. Đó là bởi vì tôi nghĩ các nguồn quyền lực đã tạo nên các cuộc cải cách trong quá khứ không hề bị toàn cầu hóa xói mòn. Về nguyên tắc, quyền lực phụ thuộc lẫn nhau tăng lên cùng với tập trung hóa và chuyên biệt hóa – bởi cái lý do hiển nhiên là khi phân công lao động tiến bộ hơn, thì mạng lưới cộng tác rộng hơn và phức tạp hơn, và sự cộng tác sẽ lôi kéo sự đóng góp nhiều hơn và đa dạng hơn với số người đông hơn và đa dạng hơn.14 Toàn cầu hóa, cho dù là tân tự do hay không, chỉ có nghĩa là thế này: khi tăng chuyên môn hóa và hội nhập trong các hệ thống phức tạp và quy mô, thì tiềm tàng kèm theo đó là quyền lực nhân dân cũng sẽ trở nên rộng lớn hơn và tiếp cận tới nhiều người hơn. Bằng chứng cho thấy 11
  12. rằng tiềm năng của quyền lực nhân dân đã mở rộng vượt quá cả những địa chỉ định chế đặc thù mà ta nghĩ về quyền lực dân chủ và quyền lực lao động. Tồn tại qua suốt phần lớn lịch sử thế giới, những làng quê hẻo lánh đã ảnh hưởng rất ít đến các trung tâm đế chế xa xôi. Ngày nay, thổ dân cao nguyên có thể thường xuyên phong tỏa những con đường tới La Paz, lật đổ được các chính phủ ở Bolivia, và các công ty năng lượng đa quốc gia, và thế giới, phải chú ý. Tương tự, khi những toán vũ trang của tộc người Ogoni và Ijaw ở vùng đồng bằng Nigeria giầu tài nguyên phản kháng chống lại sự tàn phá hủy diệt của các công ty dầu lửa quốc tế - bắt công nhân dầu làm con tin, làm nổ tung các cơ sở dầu và hơi đốt – thì hậu quả là mức sản xuất dầu giảm mạnh và giá dầu tăng cao (Mouawad 2007a, 2007b). Thế giới phải chú ý và bài học tỏ ra lan khắp các khu vực nhiều dầu lửa khác. Ở Nigeria, Ecuador, Bolivia, và Venezuela, phản kháng liên quan đến dầu lửa; ở Peru và Chile là kim loại đồng. Vì thế, khi thợ khai thác đồng ở Peru bãi công đầu tháng 5/2007 thì giá đồng ở New York nhảy lên mức cao nhất trong 11 tháng (Munshi 2007). Trong khi hành động của các nhà đầu tư và đầu cơ tiền đa quốc gia luôn gây ra tiếng vang rộng lớn chấn động trong nhận thức của công luận, thì nhiều người dân bình thường cũng đóng một phần quan trọng trong những trao đổi phức tạp và mỏng manh tạo nên toàn cầu hóa – và bởi vì họ hành động nên họ có quyền lực tiềm tàng. Những quan sát trên gợi nên một quan điểm rất khác với lý lẽ thông thường về toàn cầu hóa tân tự do và về sự sút giảm của quyền lực dân chủ và quyền lực lao động. Chắc chắn rằng toàn cầu hóa đã mở ra cho nhà đầu tư cơ hội lớn trong việc chạy thoát khỏi quan hệ với bất kỳ một nhóm người lao động cụ thể nào. Chỉ với một cái nhấp chuột, vốn tư bản có thể chạy đến những khu vực lương thấp và chi phí thấp trên thế giới. Nhưng chính những dàn xếp ấy cũng tạo ra những sự phụ thuộc lẫn nhau mới, mỏng manh hơn. Chuyển việc làm ra bên ngoài là có tính hai mặt. Một mặt, nó giảm nhẹ sự phụ thuộc của giới chủ vào công nhân trong nước.Mặt khác, nó cột giới chủ vào nhiều công nhân khác trong cái chuỗi sản xuất xa xôi và dài rộng. Những cái chuỗi này, đến lượt mình, lại phụ thuộc vào các hệ thống truyền thông điện tử và vận tải phức tạp, bản thân chúng rất dễ bị tổn thương. Theo một nghĩa nào đó, người ta dễ dàng thừa nhận một ý tưởng cũ xưa rằng người công nhân làm công việc logistic ở 12
  13. những mắt lưới then chốt của các hệ thống sản xuất công nghiệp có quyền lực lao động tiềm tàng rất lớn. Nhiều công nhân, bao gồm những người vận hành các hệ thống vận tải đường dài, những người làm trong tất cả các mắt xích trong cái chuỗi sản xuất vô cùng rộng lớn, và những người làm trong các hệ thống sản xuất just-in-time có sự hỗ trợ của internet, tất cả những người này có thể có quyền lực phụ thuộc lẫn nhau đầy tiềm năng. Và không chỉ có công nhân mà thôi. Trong một kịch bản rất quen thuộc ở Trung Quốc và Ấn Độ, người nông dân từ chối bán đất của họ để làm đường cho một khu hóa dầu ở một Đặc khu Kinh tế phía nam Calcuta. Họ buộc nhà chức trách Ấn Độ phải ngưng dự án dự định lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài, ít nhất cũng là trong một thời gian. Mười bốn nông dân đã bị bắn chết trong cuộc xung đột. Tuy nhiên, thủ lĩnh nhóm Hồi giáo lãnh đạo cuộc phản kháng hân hoan loan báo, “Chúng tôi đã dạy cho chính phủ một bài học mà họ sẽ không bao giờ quên được” (Page 2007). Hàng chục ngàn cuộc phản kháng tương tự của nông dân Trung Quốc, với hậu quả đẫm máu đã khiến chính phủ trung ương phải mở tới 90.000 cuộc điều tra và buộc phải “trừng phạt hành chính” một số quan chức địa phương đã dùng quyền lực xua đuổi nông dân ra khỏi nơi sinh sống của mình để thỏa mãn lòng tham lam với đầu tư mới (Cheng 2007). Trung Quốc có kế hoạch phạt tiền nặng hơn đối với những phát triển bất hợp pháp. Tổng cộng, người ta đã thừa nhận chính thức một con số tới 74.000 cuộc phản kháng quần chúng trong năm 2004 ở Trung Quốc, gây ra một mối lo ngại mới trong giới cầm quyền về bất bình đẳng xã hội, cũng như dẫn đến một số chương trình mới để giảm nhẹ bất bình đẳng.15 Tiếng vang lan rộng của các cuộc phản kháng địa phương có thể là đáng kể. Khi người dân thị trấn Gualeguaychu ở Argentina phong tỏa cây cầu quốc tế nối Uruguay với Argentina, họ chống đối việc xây một nhà máy giấy mà họ cho rằng sẽ gây ô nhiễm môi trường và gây hại cho ngành du lịch và thủy sản dọc sông Uruguay. Dự án này do một công ty Đan Mạch xây với tín dụng của Ngân hàng Thế giới. Những người phản kháng không chỉ đe dọa dự án mà cả nền kinh tế Uruguay, vạch ra sự rạn nứt trong liên minh thương mại Mercosur, kích hoạt các NGO quốc tế, khiến cho bản thân vua Tây Ban Nha phải vào cuộc làm trung gian hòa giải. 16 13
  14. Vấn đề chiến lược Dĩ nhiên, việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau không hề dễ dàng. Tôi lập luận rằng kiểu quyền lực này có thể đã tăng lên, nhưng nó luôn luôn tồn tại và luôn luôn phân tán rộng rãi. Điều tốt mà quyền lực phụ thuộc lẫn nhau có thể dẫn đến thì không tán phát rộng rãi vì nó thường là ẩn (latent). Việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau đòi hỏi người dân phải bẻ gãy những quy tắc đang điều hành các định chế mà họ ở trong đó, vì những quy tắc này được thiết kế để thống trị quyền lực phụ thuộc lẫn nhau. Nhân dân cũng phải ý thức được rằng họ có quyền lực, rằng giới tinh hoa cũng phụ thuộc vào quần chúng. Người dân phải được tổ chức lại, nghĩ ra những cách thức hành động phối hợp, ít nhất trong chừng mực những hành động phối hợp cần thiết để làm cho quyền lực của họ trở nên hiệu quả. Trở ngại của các quan hệ khác, với gia đình, nhà thờ, hay đảng phái, cần phải được kiềm chế hay khắc phục. Nhóm phản kháng phải có năng lực kiên nhẫn chịu đựng sự gián đoạn các quan hệ cộng tác mà họ phụ thuộc vào. Để hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau trong điều kiện mới, phải phát triển các chiến lược có thể quản lý được tất cả những trở ngại đó.17 Qua thời gian, một tập hợp các chiến lược có thể trở nên quen thuộc và có sẵn để sử dụng – giống như những kịch bản có thể phác họa nên theo những thách thức kế tiếp nhau. Nhưng khi các dàn xếp định chế thay đổi, như chúng đã thay đổi trong thời đại chúng ta, thì đòi hỏi phải có những chiến lược mới. Việc hiện thực hóa quyền lực tiềm tàng phải đợi cho đến khi phát minh ra những chiến lược mới. Quá trình này khó khăn hơn nhiều vì các kịch bản chiến lược giải quyết các vấn đề trong quá khứ vẫn còn tồn tại đầy quyền lực. Sự kháng cự của các kịch bản là do chúng hằn sâu trong ký ức và thói quen, do chúng có sức mạnh của những thắng lợi trong quá khứ, do sự lặp lại của những tổ chức và nhà lãnh đạo được đề cao trong những cuộc xung đột quá khứ. 18 Tổng kết lại, toàn cầu hóa không có nghĩa là quyền lực nhân dân bị tiêu tan (tức là không phải các nhóm thống trị không cần đòi hỏi sự đóng góp của các nhóm bị trị nữa). Mà đúng hơn là cần phải khéo léo tạo ra những chiến lược mới để huy động và khai triển việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau từ bên dưới. Và có bằng chứng thực sự cho thấy điều này đang diễn ra. 14
  15. Thứ nhất, bẻ gãy các quy tắc. Tôi đã nói rằng các định chế tạo ra tiềm năng của quyền lực phụ thuộc lẫn nhau cũng đồng thời tạo ra các quy tắc, ý tưởng và tập quán gây trở ngại cho việc hiện thực hóa quyền lực ấy. Chắc chắn rằng các quy tắc là tiên đề cơ bản của đời sống tập thể, chúng bảo vệ con người trước những gì không chờ đợi, chưng cất tri thức tập thể, và tạo ra khả năng cho những hình thái hợp tác phức thể mà xã hội dựa vào đó. Nhưng các quy tắc cũng là công cụ của quyền lực, và thiết lập quy tắc là một chiến lược mà các nhóm cầm quyền, dựa trên vô vàn nguồn lực quyền lực mà mình có, để cản trở các nhóm bị trị sử dụng quyền lực đặc thù chứa đựng trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Những quy tắc này tạo phạm vi rộng lớn cho các nhóm thống trị nhưng hạn chế cái mà các nhóm bị trị có thể làm trong các quan hệ cộng tác. Hãy nghĩ đến lịch sử dài lâu của các bộ luật gắn chặt người lao động vào chủ của họ - các bộ luật phong kiến quy định nghĩa vụ của kẻ chư hầu đối với quý tộc, bộ Luật Địa vị của Lao động năm 1349, các bộ luật cấm người lang thang và ăn xin, vô số bộ luật liên quan đến ăn trộm và lừa đảo, và các bộ luật ngăn cản công nhân tổ chức công đoàn và bãi công (ngày nay vẫn còn tồn tại trong hình thức các hợp đồng công đoàn, những nghĩa vụ hay các bộ luật ngăn cản bãi công trong khu vực công). Trong tất cả những khía cạnh trên, việc hoạch định các quy tắc nhằm tạo ra sự ổn định quyền lực bằng cách áp bức quyền lực phụ thuộc lẫn nhau từ bên dưới. Tất nhiên, bản thân các quy tắc cũng có thể trở thành tâm điểm tranh cãi, sự thay đổi quy tắc không chỉ là kết quả của việc triển khai các nguồn lực quyền lực mà còn là kết quả của phản ứng đối với những huy động từ bên dưới. Một số quy tắc có thể thực sự phản ánh một kiểu nhượng bộ nào đó, vừa hạn chế vừa hợp pháp hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau từ bên dưới (chẳng hạn các bộ luật quy định những điều kiện cho việc bãi công hợp pháp). Tuy nhiên, ngay cả về mặt này, vì các quy tắc phản ánh sự bất bình đẳng đang thống trị nên việc hiện thực hóa quyền lực phụ thuộc lẫn nhau thường phải có điều kiện là khả năng của quần chúng thách thức các quy tắc và bất chấp những cách diễn giải thịnh hành nhằm biện minh cho những quy tắc ấy. Cùng với thời gian, các quy tắc trở nên song hành với những diễn giải sâu về đời sống xã hội biện minh cho việc tuân phục, cho dù mọi sự bất lợi về quyền lực do tính tuân phục này. Sức ép của cách diễn 15
  16. giải đồng hành với toàn cầu hóa mang tính thị trường dù vậy cũng dễ bị suy yếu bởi chính cái tính chất mới mẻ của những dàn xếp ấy, và bởi cái thực tế rằng những diễn giải ấy được thể hiện dưới dạng của những dàn xếp xã hội truyền thống và những tư tưởng truyền thống chúng hợp pháp hóa cho những diễn giải ấy. Nói cách khác, cuộc giao tranh với truyền thống đem lại cho người dân những lựa chọn khác. Hãy xem các phong trào xã hội đã phải thường xuyên tranh đấu như thế nào trong việc cáo buộc rằng các hành động hay chính sách mà họ đang phản kháng là sai lầm bởi vì chúng vi phạm các quy tắc mà luật pháp hay tập quán đã xác quyết. 19 Thứ hai, hãy tính đến vấn đề công nhận thực tế của sự phụ thuộc lẫn nhau – tiềm năng cho quyền lực từ bên dưới – đương đầu với những định nghĩa của giai cấp thống trị chúng nhấn mạnh những đóng góp đặc biệt của các nhóm cai trị đối với đời sống xã hội và có thể xóa bỏ sự đóng góp của các nhóm vị thế thấp. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và chính trị là thực tế theo cái nghĩa là nó có những chi nhánh thực tế trong cơ sở vật chất của đời sống xã hội và trong việc thực thi lực lượng bạo lực. Nhưng chúng cũng là những kiến tạo văn hóa. Sự đóng góp bằng tiền của người chồng vào gia đình luôn luôn được nhấn mạnh hơn là công việc nội trợ của người vợ; sự đóng góp của tư bản kinh doanh luôn luôn có trọng lượng hơn lao động sản xuất của công nhân; và v.v. Trước khi người dân muốn rút bỏ sự đóng góp của mình với tính cách là một chiến lược thực thi quyền lực, họ cần biết thừa nhận những đóng góp này trong các quan hệ bạn đời, kinh tế, chính trị, hay tôn giáo. Bước đi này trong việc huy động quyền lực phụ thuộc lẫn nhau phụ thuộc vào việc người dân hiểu như thế nào về những mối quan hệ mà họ ở trong đó. Sự phát triển của phong trào công nhân công nghiệp ở châu Âu và Mỹ chỉ có được khi xuất hiện nền tiểu văn hóa của công nhân chính xác tạo nên cái điểm then chốt này – tức là công nhân là tâm điểm cho sự tăng trưởng kinh tế. “Chúng ta là những người cày cấy ruộng đồng, dựng xây thành phố nơi họ buôn bán, đào than và xây xưởng máy, làm những con đường sắt dài vạn dặm”, lời của một bài hát công nhân ngày xưa đã nói như vậy. Học thuyết tân tự do (neo-laissez faire) biện minh cho toàn cầu hóa định hướng thị trường có thể xem như là sự phục hồi một kiểu luật tự nhiên xóa bỏ quyền lực công nhân bằng cách thu hẹp nó vào trao đổi 16
  17. thị trường. Giống học thuyết tự do thế kỷ XIX, nó khẳng định tính ưu việt tất yếu của tính toán thị trường, và nó cảnh báo hậu quả nguy hại tiềm tàng của việc can thiệp vào sự năng động của thị trường hay vào “quy luật” thị trường. Tuy nhiên, mặt khác, việc các công ty đa quốc gia khai thác kiệt quệ các nguồn tài nguyên đã dấy lên sự phản kháng trên suốt phần phía Nam bán cầu, có lẽ vì những lập luận trừu tượng về thị trường và quy luật thị trường đã mất hết trọng lượng bởi các thực tế rành rành về luật tục sử dụng đất và những biện minh văn hóa truyền thống. Thứ ba, những đóng góp vào các hoạt động kinh tế và chính trị thường là của nhiều người, và những đóng góp đa dạng đó phải được phối hợp để huy động hiệu quả các quyền lực rời rạc. Công nhân, dân làng, dân xứ đạo hay người tiêu dùng phải hành động phối hợp với nhau trước khi việc rút ra khỏi các đóng góp của họ tạo ra một hiệu ứng náo loạn tác động đến công xưởng, nhà thờ hay cơ sở thương mại. Đây là vấn đề xưa cũ về việc tạo ra sự đoàn kết, phối hợp hành động chung mà công nhân, cử tri, và cư dân cộng đồng phải đối mặt khi họ cố gắng triển khai tác động của mình đến những người mà họ phụ thuộc đối với lao động của mình, lá phiếu của mình, hay sự chấp thuận không phản đối của mình trong những khuôn mẫu chuẩn mực của đời sống dân sự. (Một trong những ưu thế mà nhà tư bản luôn luôn chiếm thế thượng phong đối với công nhân đơn giản là nhà tư bản không phải lo tổ chức để triển khai quyền lực phụ thuộc lẫn nhau của họ). Như vẫn thường được chỉ ra, các quan hệ xã hội được tạo ra trong một bối cảnh định chế ổn định có thể đi rất xa trong việc giải quyết vấn đề phối hợp. Phân tích marxist kinh điển lập luận rằng sự đoàn kết công nhân sẽ được tạo ra trong những hầm mỏ và công xưởng của chủ nghĩa tư bản công nghiệp, nó tập hợp mọi người vào chung một nơi ở đó họ có thể tạo ra sự bất bình chung và những người phản kháng chung. Tuy nhiên, giờ đây, ít nhất cũng là trong những nước mẹ đẻ của chủ nghĩa tư bản công nghiệp nơi truyền cảm hứng cho lập luận trên, số lượng thợ mỏ và công nhân công nghiệp đang giảm mạnh, cùng với quyền lực huyền thoại của mình, khi các công ty dịch chuyển sản xuất đến những nước có mức lương thấp ở Nam bán cầu. Các nhà chiến lược của các công đoàn kiểu cũ đang tìm kiếm cách thức để khắc phục điểm yếu này bằng cách phối hợp hành động của lao động xuyên biên giới. Mặc dù điều này mới chỉ ở trạng 17
  18. thái tuyên ngôn và mong muốn, đã có một vài hình mẫu liên minh phôi thai nhưng có thể hứa hẹn vững chắc hơn. 20 Những hình thái phong trào mới đang nổi lên được địa phương hóa hơn là các công đoàn công nghiệp kiểu cũ, và chúng tỏ ra có nhiều điểm chung hơn với các tổ chức xã hội nông thôn mà Barrington Moore (1965:470-74) đã lập luận rằng những tổ chức này tạo ra sự đoàn kết khiến cho người dân có khả năng phản kháng lại những khó khăn liên quan đến chế độ cũ (ancient regime). Các nhóm địa phương mới có thể có những lợi thế không thấy có ở nơi dân làng châu Âu sống qua sự quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản thương nghiệp. Các nhóm mới liên kết với nhau, cũng như là với công luận thế giới, trong những mạng lưới dựa trên internet. Các chiến dịch của dân quân Ijaw và Ogoni ở vùng châu thổ Nigeria dựa trên các máy điện thoại trị giá 2-3 US$, và Jomo Gbomo, người phát ngôn chính thức của Phong trào Giải phóng vùng châu thổ Niger, liên lạc với phóng viên nước ngoài qua email (Junger 2007). Những người phản kháng Zapatista ở Chiapas, khởi đầu năm 1992, cũng sử dụng rộng rãi internet và tạo ra tiếng vang trong các tộc người bản địa trên toàn cầu. Shefner (2007) kết luận rằng trong khi ảnh hưởng trực tiếp của những cuộc phản kháng này là hạn chế, thì chúng lại góp phần xúc tác cho một phong trào dân chủ hóa rộng rãi ở Mexico. Cũng có những hình thái tổ chức mới đang nảy nở có tính đến lao động phi chính quy rất phổ biến ở phía Nam bán cầu. Những nhóm này tránh việc tổ chức chống lại giới chủ nhỏ, để nhằm vào các chính phủ và đòi hỏi các quy định của chính phủ ở nơi làm việc (Agarwala 2006). Đây chính là một nỗ lực để tránh làm tiêu tan những cố gắng tổ chức trong khu vực phi chính quy. Như một loạt ví dụ trên cho thấy, có lẽ quá ư là quan trọng đối với những đoàn kết được tạo ra bởi tổ chức xã hội nền tảng và đã có trước, và đối với bản thân việc “tổ chức” phong trào. Như tôi đã viết cùng với Richard Cloward (Piven and Cloward 1992), “Những cuộc nổi dậy đòi hỏi nhiều hơn một chút về cách tổ chức hơn là về số đông, sự gần gũi, và đôi chút truyền thông. Khuôn mẫu chính của sự cư trú của con người … đặt ra yêu cầu cấu trúc như thế”.21 Những đám đông náo loạn đường phố có thể hình thành ngay lập tức, có lợi thế tập hợp hơn so với chợ búa, buổi hành hình, hoặc đơn giản là đám đông, và những người tham gia có thể không quen biết nhau, 18
  19. mặc dù họ dễ dàng nhận biết ký hiệu nói lên bản sắc của nhóm, giai cấp, khu dân cư mà đám đông đang thể hiện. Nhiều cuộc phản kháng chống toàn cầu hóa tân tự do có cái đặc trưng này của việc hình thành cố hữu các đám đông hay đám náo loạn. Adolfo Gilly mới đây nhận xét về điều này khi nói về các cuộc phản kháng ở Mỹ Latin: “Những phong trào này hình thành từ thanh niên, nhiều người trong số họ từ khu vực phi chính quy. Họ không có công đoàn như thời cha mình, họ sống trong các khu ổ chuột thay vì ở làng quê hay ở khu xóm công nhân. Họ phải tổ chức nhau theo một cách thức khác. Và họ tự do hơn chúng ta đã từng!”. 22 Về phản kháng ở Argentina, Marina Sitrin (2006:31) viết “Đó là một cuộc nổi dậy mà không có lãnh đạo, từ các đảng chính thức hay từ giới tinh hoa mới nổi lên…Mọi người không biết họ đang diễu hành đi đâu, hay vì sao họ diễu hành, đơn giản là họ đã chán ngấy cái hệ thống tân tự do điển hình này mà Menem đang thực thi”. Các thành viên của tổ chức “Những sinh viên vì một Xã hội Dân chủ” mới nổi lên gần đây ở Hoa Kỳ thể hiện một điều tương tự (Phelps 2007). Nhóm này chủ tâm chống quan liêu, chống phân đẳng cấp, họ không có lãnh đạo toàn quốc, và việc tự do không có sự kiểm soát từ một trung tâm lại chính là một phần hấp dẫn của nó. Nói chung hơn, phong trào công lý toàn cầu dứt khoát từ chối các hình thức tổ chức của phong trào lao động thay vào đó chọn cách hành động trực tiếp tự phát hơn, đôi khi được gọi là khuynh hướng theo chiều ngang, hoặc là chọn các phương pháp lỏng lẻo về truyền thông và phối hợp hành động tập thể theo kiểu “phát ngôn và bánh xe quay” hơn là chọn kiểu kim tự tháp tổ chức. Thứ tư, khi người dân cố gắng thực thi quyền lực gây rối hay quyền lực phụ thuộc lẫn nhau, họ phải tìm ra những cách thức chịu đựng được việc ngưng các quan hệ cộng tác mà họ phụ thuộc vào đó, và trụ vững trước mọi sự trả đũa có thể xảy đến. Ít có bằng chứng đối với những người tham gia vào các hành động như đám đông khích động và gây rối, ở đó các hành động thường là ngắn ngủi và người tham gia dễ ẩn danh tính. Nhưng nếu bãi công, công nhân cần phải nuôi sống gia đình và trả tiền nhà; người tẩy chay tiêu dùng phải trụ qua được một thời gian không có những vật phẩm và dịch vụ mà họ từ chối. Người dân cũng có thể phải đối diện với sự đe dọa rút bỏ, vốn là điều hay được đem ra khiêu khích. Đối diện với người vợ đang nổi dậy người chồng có thể đe dọa sẽ bỏ đi, đối diện với công 19
  20. nhân bãi công người chủ có thể đe dọa di chuyển nhà máy hay thay thế công nhân khác, và v.v. Những người nổi dậy cũng gặp rủi ro khi đối tác của họ trong các quan hệ cộng tác rút lui, đây là điều diễn ra khi những cơ sở kinh doanh nhỏ rút chạy khỏi các khu ổ chuột trong thời kỳ nổi dậy của những khu ghetto Mỹ những năm 1960. Những cuộc chiến tài nguyên ở Mỹ Latin và châu Phi do những người phản kháng địa phương phát động tỏ ra ít bị những hậu quả nói trên. Chắc chắn là những khoản thanh toán nước ngoài sẽ không có nữa, nhưng vì nỗi bất bình chính của những người phản kháng là họ không nhận được lợi ích từ những khoản thanh toán ấy, nên người dân địa phương chẳng mất gì do bị ngưng thanh toán. Và nếu đầu tư nước ngoài vào khai thác tài nguyên đồng hành với việc xuất khẩu làm khuynh đảo nền công nghiệp tại chỗ thì việc giảm sự can dự của nước ngoài có thể là một thắng lợi ròng. 23 Trong mọi trường hợp, chỉ ít nhiều lâu hơn đôi chút, rồi sẽ lại có những nhà thầu khác cho các nguồn tài nguyên này, và ở châu Phi và Nam Mỹ, trong thực tế các nhà thầu khoán Trung Quốc đã nhanh chóng xuất hiện. 24 Thứ năm, như đã nhận xét ở trên, đời sống xã hội là phức tạp và hành động chính trị diễn ra trong một ma trận các quan hệ xã hội. Những người cố gắng huy động quyền lực gây rối phải khắc phục những trở ngại hàm chứa trong các quan hệ đa cấp của họ với người khác, như khi người nông dân nổi dậy bị nhà thờ đe dọa rút phép thông công, khi công nhân bãi công bị những trở ngại do trách nhiệm của mình với gia đình. Các giáo sĩ Tin Lành Methodist Anh khích động con chiên của họ khi vẽ ra nỗi kinh sợ đối với sự trừng phạt vĩnh hằng dưới địa ngục sẽ đổ lên đầu những kẻ nổi dậy Luddite đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong một số hoàn cảnh, những mối dây đa dạng có thể xúc tác cho quyền lực gây rối. 25 Nhà thờ, vốn thường thuyết giảng cho sự tuân phục nhà chức trách thế giới, đôi khi có thể, đơn giản có lẽ chỉ là để ủng hộ con chiên đang thất vọng, khích lệ những cuộc nổi dậy như trong phong trào Đoàn kết ở Ba Lan, phong trào quyền dân sự ở Mỹ, và ở Chiapas khi Giám mục Samuel Ruiz và giáo khu của ông ủng hộ các cuộc nổi dậy của dân địa phương. KẾT LUẬN Mọi điều đã nói, tôi phải nói ngay rằng tôi không tiên đoán bình minh của nền dân chủ toàn cầu hay của chủ nghĩa xã hội toàn cầu. Cái mà 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2