intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo thủy sản "Kỹ thuật nuôi tôm tại Nam Ô – Đà Nẵng"

Chia sẻ: Pham Viet Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

228
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trang trại nuôi tôm anh Hậu tại Nam Ô – Đà Nẵng, trang trại nằm gần sát biển để thuận tiện cho quá trình lấy nước vào bể nuôi. Các đối tượng nuôi: Chủ yếu ở trang trại này là nuôi tôm thẻ chân trắng. Một trại giống bao giờ cũng phải có hệ thống bể lọc nước, bề rộng của bể 1m X 1m hoặc 2m X 2m, độ sâu 1,2m – 1,5m. Dưới đáy bể lọc người ta thường bỏ một lớp đá cuội, cát, sỏi để lọc các cặn bẩn khi bơm nước biển vào và tạo khe hở cho nước đi xuống....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo thủy sản "Kỹ thuật nuôi tôm tại Nam Ô – Đà Nẵng"

  1. PHẦN 1. Kỹ thuật nuôi tôm tại Nam Ô – Đà Nẵng I.Tìm hiểu về cơ sở thực tập 1. Vị trí địa lý Trang trại nuôi tôm anh Hậu tại Nam Ô – Đà Nẵng, trang trại nằm gần sát biển để thuận tiện cho quá trình lấy nước vào bể nuôi 2. Các đối tượng nuôi Chủ yếu ở trang trại này là nuôi tôm thẻ chân trắng II. Kỹ thuật nuôi 1. Hệ thống bể xử lý nước. Hình 1.1. Bể nuôi tôm giống - Một trại giống bao giờ cũng phải có hệ thống bể lọc nước, bề rộng của bể 1m X 1m hoặc 2m X 2m, độ sâu 1,2m – 1,5m. Dưới đáy bể lọc người ta thường bỏ một lớp đá cuội, cát, sỏi để lọc các cặn bẩn khi bơm nước biển vào và tạo khe hở cho nước đi xuống. Thiết kế bể lọc theo dạng 2 bể, bể trên chảy xuống bể dưới, mục đích lọc như vậy là hạn chế tối đa chất bẩn, tạp chất có trong nước. Hệ thống bể xử lý nước củng như bể lọc bên trong ta thường quyét sơn mục đích ngăn nước thấm, rạn nứt thành bể, nếu như xẩy ra mầm bệnh củng dễ xử lý hơn bể không sơn, vì khi bể không sơn mầm bệnh sẽ thẩm thấu vào trong tường khi đó xử lý thì rất khó. 2. Hệ thống bể nuôi tôm giống  Hệ thống bể nuôi bao gồm hệ thống ống dẫn khí, hệ thống cấp nước vào bể, hệ thống ống dẫn nước thải ra biển… Nước lọc sau khi lọc được đưa vào bể nuôi qua một túi lọc ( túi cát mịn) rồi được đưa vào bể nuôi, sau đó sử dụng hóa chất để diệt khuẩn, nấm vì trong nước biển tập đoàn nấm nhiều, khử trùng nước bằng Chlorin, EDTA, thuốc tím (KMnO4) và thuốc lắng để trung hòa môi trường nuôi…
  2. Độ mặn thích hợp để nuôi tôm giống khoảng 27 – 300/00 , nhiệt độ 27-300 C, nhiệt độ thấp hoặc cao quá cũng ảnh hưởng đến tôm giống như nhiệt độ thấp thì tôm bắt mồi kém. Độ mặn và nhiệt độ ta sử dụng thiết bị đo. Đặc thù con tôm là không cần ánh sáng nhiều, trên mỗi bể nuôi ta thường phủ bạt, khi ta muốn quan sát thì sử dụng đèn soi để kiểm tra. Hệ thống bể nuôi còn có một cái van ở dưới đáy, khi muốn tháo nước vệ sinh bể nuôi ta chỉ cần tháo van là được.  Ngoài hệ thống bể nuôi còn có thêm hệ thống ấp actemin, có thể cho ấp trong xô, sục khí, nó củng có đường vào và đường ra, khi muốn thu actemin cho tôm ăn thì ta tắt hệ thống sục khí, vỏ actemin nổi lên và mình tiến hành tháo van xả nước, đưa vợt vào hứng phần con, còn phần vỏ đã nổi lên trên. Hình 1.2. Hệ thống ấp actemin  Kích thước bể nuôi phụ thuộc vào từng trại, kích thước bể khoảng 2,4- 2,5m, độ sâu khoảng 1,5m đối với tôm con, và 80cm đối với tôm bố mẹ. Tôm bố mẹ được bắt trong tự nhiên, mỗi con có giá từ 2-10 triệu/con, tùy vào thời vụ trong năm. Trọng lượng tôm mẹ sinh sản tốt nhất từ 1- 1,5g/con, tôm to quá cũng không tốt vì khi đó tôm đã già, sức sinh sản kém. Chọn tôm bố mẹ có màu sắc vỏ sáng, mỏng và quan trọng là bộ phận sinh dục phải tốt nghĩa là nó đã hình thành túi tinh, túi tinh phải cao, đồng đều, mềm và không bị thoái hóa. Nên chọn xa thời gian lột xác, đặc tính của con tôm là sau khi lột xác đồng nghĩa với túi tinh
  3. củng mất luôn, để khắc phục đặc tính đó ta tiến hành thêm một động tác nữa là ghép tinh cho con cái.  Sau khi đưa tôm bố mẹ về nuôi ta tiến hành cắt mắt, dụng cụ cắt mắt thường sử dụng là sợi chỉ, kéo… mục đích cắt một mắt là trong hốc mắt của con tôm mẹ có tuyến kích dục tố, khi ta cắt mắt kích thích tôm lên trứng nhanh, hiệu quả cao, nếu không cắt mắt thì hiệu số lên trứng thấp. Trong quá trình nuôi tôm mẹ đẻ được khoảng 5-6 lần, nhưng cho trứng cao nhất là từ 2- 3, mỗi lần đẻ cho ra 70- 1 triệu con tôm sú giống và tôm thẻ chân trắng cho từ 20- 25 vạn con tôm giống. Khi tôm lột xác sau 1-2h (nuôi ghép 1con cái với 1 con đực) nó bắt đầu tự giao vị với nhau, sau đó thì chúng không thể giao vị được nữa vì khi đó vỏ cứng, khả năng vận động lớn nên con đực không giao vị được.  Thức ăn của con tôm mẹ là ốc ma, thịt bò, mực tươi xay, nghiền nhỏ, cắt sợi cho ăn. Những thức ăn này giàu đạm tôm rất thích ăn. Quá trình cho ăn được chia làm nhiều lần, bình quân cứ 3 tiếng cho ăn một lần, tránh cho ăn nhiều quá sẽ gây ra dư thừa thức ăn, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển.  Tôm chuẩn bị đẻ ta chuyển sang bể đẻ, cho tôm đẻ, cứ 3 tiếng đảo trứng một lần, khi tôm đẻ ta tắt thiết bị sục khí để tránh trứng bị dập và trứng đẻ không cần oxy, mục đích của đảo trứng là tránh hiện tượng trứng chồng lên nhau, khả năng nở rất kém. Quan sát tôm đẻ sử dụng đèn soi. Tôm không đạt chất lượng là tôm mang buồng trứng có hiện tượng đứt quảng không liền nhau, tôm đẻ ra cũng không được nhiều, lợi nhuận cũng không cao. Đặc điểm của tôm là đẻ vào ban đêm từ 8- 12h. Khoảng 5- 7h tối thì mình dùng đèn đi kiểm tra con nào thấy chuẩn bị đẻ (thấy trứng đậm hơn, sà xuống 2 cánh) ta chuyển sang bể đẻ, còn con chưa đẻ thì vẩn để lại cho ăn bình thường. Vì chỉ có hồ nuôi mới có thức ăn, còn hồ đẻ không có thức ăn, con tôm sau khi đẻ xong thì quay về bể nuôi ăn, bể đẻ luôn đảm bảo sạch. Tôm đẻ là nó bơi quanh bể, phun trứng ra ngoài trong vòng một phút là kết thú quá trình đẻ.
  4. Điều kiện nhiệt độ tốt thì khoảng 18h sau trứng tôm sẽ nở ra con Nauplius, trong giai đoạn con Nauplius thì chưa phải cho ăn. Sau 12- 18h thì chuyển con Nauplius về bể ươm, tùy thuộc vào nhiệt độ.  Theo dõi khả năng lên trứng của con tôm, nếu thấy khả năng lên trứng giảm dần, tiến hành loại bỏ bán thịt.  Một bể nuôi có thể thả được khoảng 70- 1,5 triệu con Nauplius thẻ chân trắng và 700 nghìn con Nauplius tôm sú. Trong bể nuôi ta thường sử dụng vợt để vớt phân, thức ăn thừa, làm sạch môi trường nuôi.  Giai đoạn Nauplius: Dinh dưỡng bằng noãn hoàn nên không cần cho ăn mà duy trì sục khí nhẹ. Đậy bạt để tránh ánh sáng vì giai đoạn Nauplius có tính hướng quang.  Người ta có thể bán ở giai đoạn này, nhưng thường là nuôi đến giai đoạn Postlarvace.  Thu Nauplius: dùng đèn, tắt sục khí, ấu trùng sẽ tập về phía ánh sáng, dùng vợt vớt sang bể ươm nuôi. 3. Kỹ thuật cho ăn Các loại thức ăn trong sản xuất tôm bột: - Giai đoạn cuối Nauplius 6 cho ăn gối tảo tươi - Thức ăn sống được sử dụng cho giai đoạn Zoea, Mysis, Post. - Thức ăn chế biến và thức ăn tổng hợp, tảo khô bổ sung chung cho giai đoạn con nhỏ và cho ăn ở giai đoạn con lớn Post. Thức ăn chính hiện nay đang dùng là tảo khô, Artemia, thức ăn tổng hợp. 4. Cách cho ăn: - Chà thức ăn với kích cỡ phù hợp cho từng giai đoạn ấu trùng. - Tạt đều thức ăn vào bể, tạt nhiều vào tâm sục khí. - Các dụng cụ khi cho ăn xong phải rửa sạch và khử trùng bằng formol, nước ngọt.
  5. Hình 1.3. Thức ăn của tôm Khẩu phần ăn: - Nauplius đến Zoea 1: 0,2g/m3 cứ 3h cho ăn một lần. - Zoea 2: 0,25g/m3 sau đó tăng giần lên 0,25 ÷ 1 g/m3 tùy theo mật độ trong Nauplius khoảng 120 ÷ 150 Nauplius /L. - Mysis: 0,5 ÷ 1 g/m3/ lần. - Post: 1 ÷ 2 g/m3/ lần. Ngoài ra còn dựa vào đường phân ngắn hay dài có đều không để điều chỉnh khẩu phần ăn phù hợp. 5. Chăm sóc và quản lý 5.1. Thay nước định kỳ: Cần hạn chế thay nước thường xuyên. Giai đoạn Zoea thay 20%; giai đoạn Mysis thay 10- 20%; giai đoạn Post thay 20%.  Rút nước: Từ Zoea 3 có thể dùng vợt cỡ lưới lớn hút nước bẩn và vỏ Artemina ra ngoài.  Vệ sinh bể: Dùng dẻ sạch tẩm qua nước ngọt + formol 5000 ppm lau dây sục khí và xung quanh thành bể.  Cấp nước: Chú ý đến các điều kiện môi trường và chú ý cho nước chảy nhẹ, tránh giao động mạnh.  Si phon đáy: Sử dụng ống si phon vừa chà đáy vừa hún cặn thải, chỉ si phon ở giai đoạn Zoea 3. Thường xuyên theo dõi các yếu tố môt trường hàng ngày 2-3 lần, nếu nhiệt độ giảm ( mùa đông) cần tăng nhiệt độ bằng dụng cụ: Mayso, Usater… 5.2. Sục khí: Giai đoạn trứng ta nên sục trứng nhẹ hoặc không cần sục.
  6. Nauplius sục nhẹ vừa Zoea sục vừa Mysis sục mạnh để nâng đở cơ thể, vì giai đoạn này chúng di chuyển bằng cách búm người. Giai đoạn post cũng cần sục khí mạnh, vì giai đoạn này hô hấp mạnh. 6. Phương pháp thu tôm giống. Khi tôm đạt kích cỡ: post khoảng 12-15mm có thể xuất bể, tôm có đường sắc tố màu đen, màu tro thẫm, thon dài, cân đối. - Phương pháp thu:  Si phon đáy  Rút bớt nước  Dùng vợt vớt con Post vào bể, xô thau.  Dùng túi nylon cỡ 2/3 lít khoảng 1000post/l hoặc 1400 – 1600post/ L, sau đó bơm O2, thêm ít Nauplius của Artemina vào đề phòng quá trình vẫn chuyển chúng ăn nhau hoặc hạ nhiệt độ xuống nhằm mục đích gây tê. - Phương pháp thu đếm mẩu: Dùng phương pháp so màu là chính. Người ta thương dùng gáo múc ra 10 bát sau đó đếm 1 bát ra bao nhiêu rồi nhân 10 lên. Yêu cầu bát nào cũng phải đồng đều. 7. Phương pháp phòng trị bệnh Hình 1.4. Các loại thuốc dùng cho tôm
  7. Trong sản xuất tôm giống phòng bệnh là phương pháp quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, còn chữa bệnh là phương pháp đối phó cuối cùng, ít hiệu quả a.Phòng bệnh: Phòng bệnh cho tôm phải hiểu theo hai nghĩa sau: - Quản lý chất lượng nước nuôi tốt, nuôi tôm bố mẹ tốt, sản xuất Nauplius khỏe mạnh, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, không thể xảy ra hiện tượng sốc trong quá trình nuôi, tôm sẽ phát triển nhanh khỏe mạnh lấn át bệnh tật. - Phòng bệnh chủ yếu và có hiệu quả là phòng nấm và protozoae bằng hóa chất, việc phòng bệnh bằng hóa chất và thuốc đối với virus và vi khuẩn còn ít hiệu quả. Trong sản xuất giống có hai loại nấm thường gặp, có thể gây chết 100%, có ấu trùng tôm trong 1-2 ngày sau khi nhiễm, đó là nấm Lagenidium callinectes và Sirolpidium. Thực hiện phòng 2 loại nấm này theo bảng sau: Giai đoạn Nồng độ(ppm) Lần cho/ngày Nauplius 0,01 1 Zoae 0,03 2 Mysis 0,06 2 PL1 PL4 0,08 2 PL5 0,1 2 Ghi chú: Cách pha dung dịch Treflan - Treflan thương phẩm là loại Triflurali Elanco 44% - Lấy 10ml Treflan vào 1000ml nước cất ta có dung dịch A - Để Treflan 0.01 ppm, ta lấy 1ml dung dịch A cho vào 1m3 nước bể nuôi ấu trùng.
  8. b.Trị bệnh: Phải thường xuyên quan sát ấu trùng qua kính hiển vi, khi thấy xuất hiện dấu hiệu gây bệnh, phải trị ngay mới mang lại hiệu quả. Bệnh vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria) Bệnh này thường gặp ở giai đoạn Postlarvae, các sợi nấm bám đầy các phần phụ của tôm, làm cho Postlarvae khó bơi, ăn yếu và sẽ xuất hiện các bệnh khác kèm theo như hoại tử (necrosis), nếu phát hiện sớm có thể trị bệnh có hiệu quả. Trị bệnh bằng Sunfat đồng (CuSO4) với nồng độ 0,15 - 0,25ppm trong 24h. Bệnh hoại tử (necrosis) Bệnh hoại tử có 2 dạng: Vi khuẩn ăn mòn các phần phụ hoặc các phần phụ bị chết (chẳng hạn như hoại tử các nhánh chân bụng). Trong 2 dạng nhiễm bệnh trên, dạng thứ 2 khó trị hơn. Nếu phát hiện sớm có thể điều trị có hiệu quả bằng cách sử dụng, hay Oxytetracylin 5 - 10ppm, hay Furazon 2-3ppm, trị liên tiếp 3 ngày sẽ khỏi. Nếu phát hiện chậm, tỷ lệ sống PL5 sẽ thấp. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do môi trường không thuận lợi. Bệnh lột xác dính vỏ (Exuvia Entrapment) Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn Postlarvae, khi lột xác một phần vỏ dính lại trên các phần phụ như chân ngực, chân bụng làm cho tôm khó hoạt động. Nguyên nhân gây bệnh là do NH4 trong bể ao 9 từ 0,01ppm trở lên. Wickins (1972) cho rằng khi sử dụng thức ăn là trứng bào xác Artemia Utah dễ bị gây bệnh này, không thấy xảy ra ở Artemia hiệu San Francisco Bay trong sản xuất giống tôm càng, Bowser và cộng sự (1981) cho rằng tăng thêm Lexitin (Photpholipit) trong thức ăn, hạn chế được bệnh này.
  9. Bệnh phát sáng (Luminescent vibriosis) Bệnh phát sáng trên tôm, thường xảy ra trong tất cả các giai đoạn. Cần phân biệt rõ sự phát triển trên tôm. Nếu trong bể tôm có các đốm sáng lớn trên những con tôm chết, đó là do các tập đoàn Coccobacilli tấn công vào các con gây chết phát sáng, thì hiện tượng lâm sàng này không quan trọng. Khi nước biển xử lý không tốt sẽ thường gặp hiện tượng này. Nếu phát sáng trên các con sống, đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ thịt của tôm thì đó là bệnh Vibrio harveyi và Vibrio splendidus gây nên. Chen (1989) phần được trong gan tụy tạng tôm sú có 18 loài Vibri trong đó có Vibrio harveyi chiếm 26,9% và V. splendidus chiếm khoảng 0,5%. Hai loại này thường làm tôm bị chết nhiều, có lúc tới 100%, chúng có thể kháng lại 24 loại thuốc kháng sinh (theo Baticados và cộng sự 1991). Chỉ có một loại kháng sinh kiềm chế bợt sự phát triển của hai loại Vibrio này. Đối với loại bệnh này chỉ phòng bệnh mới có hiệu quả. Do bản thân các loại Vibrio này có nguồn gốc từ nước biển nên việc phòng bệnh sẽ thông qua việc xử lý thật kỹ nguồn nước nuôi. Bệnh do nguyên sinh động vật (Protozoea) - Bệnh này do một số loài nguyên sinh động vật như Zoothammium, Rpistylis, Vorticella, Acineta... chúng tấn công vào mắt mang các phần phụ của tôm, làm cho tôm yếu kém, kén ăn và di chuyển khó khăn rồi chết. - Nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu do chăm sóc kém, làm cho môi trường nuôi bị xấu, hàm lượng các chất hữu cơ trong bể cao, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên sinh động vật phát triển.
  10. - Điều trị bằng Chloroquin disphosphate 1.1ppm liên tục trong 2 ngày, hay tắm Formaline 25 - 30 ppm trong 15 - 20 phút. Để phòng trừ bệnh này phương pháp chủ yếu vẫn là biện pháp quản lý môi trường nuôi tốt. Phần 2 Kỹ thuật sản xuất giống tạo một số đối tượng cá nước ngọt tại trại gống Phú Ninh –Quảng Nam 1.Tìm hiểu về cơ sở thực tập 1.1:Vị trí địa lý: - Cơ sở sản xuất giống và nuôi cá nước ngọt nằm tại thôn Trung Đàn ,xã Tam Đại huyện Phú Ninh thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam . - Cơ sở được xây dựng vào năm 1979 với quy mô không lớn và được xây dựng và tu bổ vào năm 2004. - Cơ sở được xây dựng ở điều kiện thuận lợi gần hồ chứa nước Phú Ninh , đây là nguồn cung cấp nước lý tưởng cho các ao nuôi, và trên một diện tích đất rất rộng lớn. 1.2 Các đối tượng nuôi và cung cấp giống: - Cá rô phi đơn tính - Cá mè - Cá trắm cỏ - Cá điêu hồng 2.Kỹ thuật sản xuất giống cá: 2.1 Chon cá bố mẹ: - Cá bố mẹ được sử dụng cho đẻ là cá từ các ao nuôi vỗ của trung tâm , khi kiểm tra cá ở các ao nuôi vỗ kiểm tra thấy cá thành thục, chọn những con cá khỏe mạnh có kích thước lớn cho vào bể đẻ. 2.2: Kỹ thuật cho đẻ và ấp trứng: 2.2.1: Cho đẻ và ấp trứng cá chép,mè - Khi cho cá vào bể đẻ ta tiến hành theo dõi. ở đây cá đẻ tự nhiên, trứng cá trôi nổi và đẻ với số lượng trứng lớn . - Giá thể được sử dụng là bèo. - Khi cá đẻ xong , ta vớt giá thể ra ngoài, hứng giai ở cống thoát , xả nước , trứng cá mắc lại trên giai và đem trứng chuyển sang bể ấp trứng. - Bể ấp trứng có dạng hình tròn ,1 bể từ 3-5 triệu trứng. - Quan sát và theo giõi thường xuyên, khi cá nở hết và không còn dinh dưỡng bằng noãn hoàn thì cung cấp thức ăn, thức ăn ở đây sử dụng la lòng đỏ trứng gà được bóp nhỏ. - Sau khi cá hết noãn hoàn từ 3-4 ngày là có thể chuyển ra ao ương nuôi. 2.2.2: Kỹ thuật cho đẻ và ấp trứng cá rô phi:
  11. - Cá bố mẹ được chọn từ ao nuôi vỗ, Thời gian nuôi vỗ 15-20 ngày. Trong thời gian nuôi vỗ. Ngày cho cá ăn 1-2 lần. Lượng thức ăn trong ngày bằng 1-2% khối lượng cá nuôi. - Nếu ở nhiệt độ thích hợp 24-320C, sau 10-15 ngày kể từ khi thả cá bố mẹ vào ao, cá sẽ đẻ. Sau khi cá đẻ 15-17 ngày tiến hành thu cá bột. - Cá bột được thu theo cách như sau: Dùng lưới mắt thưa 2a= 10-12 cm kéo dồn cá bố mẹ vào một góc, Dùng vợt vớt cá bột, để lại cá bố mẹ ở ao cho đẻ tiếp lứa sau. Ấp trứng cá rô phi có 2 cách: +ấp trong khay. +ấp trong bình 2.3. Kỹ thuật ương nuôi: - Cá được ương trong các giai đoạn,vì trong các giai sẻ tiện cho việc chăm sóc, quản lý và thuận tiện khi xuất cá giống để bán , - Lưu ý đối với cá rô phi, trong quá trinh ương nuôi, thức ăn có bổ sung thức ăn chuyển đổi giới tính( chuyển từ giới cái sang đực) - Chuyển đổi giới tính nhằm mục đích nâng can năng suất. vì cá được có kich thước và trọng lượng lớn hơn cá cái , và khi chuyển đổi giới tính dinh dưỡng chủ yếu cung cấp cho quá trình tăng trọng lượng cho cơ thể chứ không giành cho việc phát triển giới tính. 3. Chăm sóc và quản lý: 3.1: Ao nuôi cá: - Ao nuôi được xây băng xi măng xung quanh. - Diện tích ao nuôi: nhiều diện tích khác nhau; +1000 m2 +2000 m2 +3-4000 m2
  12. Nhằm phù hợp với mụch đích và từng loại cá nuôi 3.2: Thức ăn: Thức ăn cho cá chủ yếu là thức ăn tổng hợp đươc chế biến sẵn, không cần pha trộn với hàm lượng đạm 25-30%. 3.3: Nước trong ao nuôi: - Nước trong các ao nuôi cá được lấy từ hồ chứa nước Phú Ninh , không qua xử lý , - Mức nước trong ao nuôi khoảng từ 1.4-1.8 m - Trong quá trình nuôi nước trong ao được cho vào liên tục và cho ra liên tuc. - Nước sau khi ra không được xử lý hay sử dụng trở lại mà thải trực tiếp ra môi trường. 3.4: Bệnh thường gặp: Bệnh xuất huyết Tác nhân gây bênh: cầu khuẩn Streptococcus iniae, gram dương. Dấu hiệu bệnh lý: Ðầu tiên cá yếu bơi lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn, hậu môn, gốc vây chuyển màu đỏ; mắt, mang, cơ quan nội tạng và cơ xuất huyết; máu loãng; thận, gan, lá lách dịch hóa (mềm nhũn). Cá bệnh nặng bơi quay tròn không định hướng, mắt đục và lồi ra, bụng trương to Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn gặp ở nhiều loài cá nước ngọt, cá rô phi khi nuôi năng suất cao trong hệ tuần hoàn khép kín, dễ phát bệnh. Bệnh xuất huyết do cầu khuẩn có thể lây cho người khi chế biến cá không vệ sinh an toàn. Phòng trị bệnh Cải thiện môi trường nuôi ổn định, bón vôi (CaO hoặc CaCO3 hoặc CaMg(CO3)2) tùy theo pH của môi trường, liều lượng 1-2kg/100m3, mỗi tháng bón từ 2-4 lần. Bệnh viêm ruột Tác nhân gây bệnh: vi khuẩn: Aeromonas hydrophila, gram âm Dấu hiệu bệnh lý: Tương tự như bệnh xuất huyết do cầu khuẩn Steptococcus iniae. Bệnh tích điển hình ruột trương to, chứa đầy hơi nên gọi là bệnh viêm ruột Bệnh viêm ruột thường gặp ở cá rô phi nuôi thương phẩm và cá bố mẹ nuôi sinh sản khi môi trường nuôi bị ô nhiễm đặc biệt là thức ăn không đảm bảo chất lượng, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp. Phòng trị bệnh Cải thiện môi trường nuôi tốt, không để cá nuôi bị sốc do các yếu tố môi trường như bệnh xuất huyết. Bệnh sán lá đơn chủ Tác nhân gây bệnh: Sán lá đơn chủ Cichlidogyrus tilapiae, C. sclerosus, Gyrodactylus niloticus Dấu hiệu bệnh lý: Cichlidogyrus, Gyrodactylus ký sinh trên da và mang của cá. Lúc ký sinh chúng dùng móc của đĩa bám sau bám vào tổ chức tuyến đầu tiết ra men hialuronidaza phá hoại tế bào tổ chức mang và da cá làm cho mang và da cá tiết ra nhiều dịch nhờn ảnh hưởng đến hô hấp
  13. cá. Tổ chức da và mang bị Cichlidogyru, Gyrodactylus ký sinh viêm loét tạo điều kiện cho vi khuẩn, nấm và một số sinh vật xâm nhập gây bệnh. Phân bố và lan truyền bệnh: Sán lá đơn chủ ký sinh ở cá rô phi nuôi ở Việt Nam gặp có 3 loài, chúng có thể gây thành bệnh khi nuôi mật độ dày ở giai đoạn ương cá giống và có thể gây chết hàng loạt cá ương trong các giai hoặc các bể. Bệnh phát vào mùa xuân, mùa thu, mùa đông. Phòng trị bệnh: - Dùng nước muối NaCl 2-3% tắm cho cá 5-15 phút - Dùng KMnO4 nồng độ 20 ppm (20g/m3) tắm cho cá trong thời gian 15 - 30 phút - Dùng Formalin tắm với nồng độ 200-250 ppm (200-250 ml/m3) thời gian 30-60 phút hoặc phun xuống ao nồng độ 20-25 ppm(20-25 ml/m3) . Phần 3: kết luận Qua chuyến đi thực tế lần này đã cho em học hỏi thêm được kinh nghiệm về kỹ thuật nuôi tôm, cá và qua đây cũng cho em hiểu thêm về tâm quan trọng của nghành thủy sản ở nước ta.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0