Bảo đảm “quyền im lặng” của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
lượt xem 5
download
Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích khái niệm, thực trạng bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Tòa án Việt Nam hiện nay và đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền im lặng của bị cáo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bảo đảm “quyền im lặng” của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
- NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM “QUYỀN IM LẶNG” CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Võ Quốc Tuấn* *TS. Chánh án Tòa án nhân dân TP. Nha Trang, Khánh Hòa. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khoá: Quyền im lặng, bảo đảm Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quyền im lặng, bị cáo. gián tiếp ghi nhận quyền im lặng của người bị buộc tội trong tố Lịch sử bài viết: tụng hình sự. Vậy, cần phải bảo đảm thực hiện quyền này của bị Nhận bài : 20/5/2020 cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án Biên tập : 04/6/2020 như thế nào? Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích khái niệm, thực trạng bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong Duyệt bài : 10/6/2020 hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Tòa án Việt Nam hiện nay và đề xuất một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền im lặng của bị cáo. Article Infomation: Abstract: Keywords: Right to silence; assurance The Constitution of 2013 and the Criminal Procedure Code of of the right to silence; the accused 2015 both indirectly recognized the right of the accused persons person to silence in criminal proceedings. It is necessary to ensure exercising this right of the defendant in the first instance trial of Article History: criminal cases of the court. Within the scope of this article, the Received : 20 May. 2020 author presents, analyzes the concept and the current situation to Edited : 04 Jun. 2020 ensure the right to silence of the defendant in the first instance Approved : 10 Jun. 2020 trial of criminal cases in the current Vietnamese Court and proposes a number of recommendations to ensure the right of the defendant to silence. 1. Khái niệm bảo đảm quyền im lặng của thức pháp luật, thể chất, tinh thần; họ cần bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các thời gian để bình tĩnh suy nghĩ cân nhắc, cần vụ án hình sự có người trợ giúp về mặt pháp lý để tránh Trong tố tụng hình sự (TTHS) ở nhiều tình trạng tự đưa mình vào tình thế bất lợi, nước, quyền im lặng được coi “là sự phòng tự buộc tội chính mình”2. Theo đó, người bị vệ rất tự nhiên”1 của người bị buộc tội trước buộc tội “có quyền nói hoặc giữ im lặng sự cáo buộc của cơ quan công quyền. Pháp trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử. luật cho phép khi người bị buộc tội “tự thấy Sự “im lặng” này không được coi là một lý chưa đủ điều kiện về nhiều mặt như kiến do để xác định có tội hay vô tội”3. Như vậy, 1 Võ Văn Tài, Trịnh Tuấn Anh (2015), Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng trong TTHS, Tạp chí phát triển KH&CN, tập 19, quyển 3, 2016, tr.90. 2 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm. 3 Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm (2017), Quyền im lặng trên thế giới và gợi mở cho việc bảo đảm quyền con người trong TTHS theo Hiến pháp năm 2013, trong Sách “Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.307. NGHIÊN CỨU Số 13 (413) - T7/2020 LẬP PHÁP 19
- NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT quyền im lặng của bị cáo là một yếu tố quan lặng tính từ thời điểm Tòa án quyết định đưa trọng bảo đảm phiên tòa hình sự được diễn vụ án hình sự ra xét xử, cho đến khi Tòa án ra công bằng, tiến bộ và là một trong những thực hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét yếu tố nhằm giảm án oan sai, tránh bức hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tuy cung, nhục hình trong hoạt động tố tụng. nhiên, trong quá trình đó, không nên hiểu Ở Việt Nam, quyền im lặng của người quyền im lặng của bị cáo một cách tuyệt đối, bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng, tuy cứng nhắc là bị cáo có quyền không giao chưa được ghi nhận trực tiếp và trở thành tiếp, quyền không trả lời câu hỏi của người một điều luật độc lập, nhưng xét về mặt nội tiến hành tố tụng mà bị cáo thực hiện quyền dung, quyền im lặng được gián tiếp ghi nhận im lặng có thể với một hoặc nhiều chủ thể trong Hiến pháp năm 2013, các văn bản luật bằng việc từ chối trả lời, từ chối đưa ra lời như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm khai nếu lời khai có chứa đựng thông tin 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình năm 2014, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ có tội. Ngược lại, đối với các câu hỏi khác luật TTHS năm 2015 và các văn bản dưới không chứa đựng thông tin chống lại hoặc luật khác. Theo đó, quyền im lặng của bị cáo buộc bị cáo phải nhận mình có tội thì bị cáo được thể hiện thông qua các quy định về không cần thực hiện quyền im lặng. Điều đó nguyên tắc hoạt động, chức năng, nhiệm vụ có nghĩa là quyền im lặng không mâu thuẫn của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố với quyền khai báo hay loại trừ quyền khai tụng. Điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật TTHS báo mà tại phiên tòa bị cáo có quyền khai năm 2015 quy định: bị cáo có quyền trình báo. Pháp luật quy định việc nhận tội của bị bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ phải đưa ra lời khai chống lại chính mình trong quyết định hình phạt đối với bị cáo. Do hoặc buộc phải nhận mình có tội; khoản 3 vậy, không nên hiểu một cách máy móc, Điều 309 quy định: nếu bị cáo không trả lời cứng nhắc rằng, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các câu hỏi thì Hội đồng xét xử (HĐXX), vụ án hình sự bị cáo thực hiện quyền im lặng Kiểm sát viên (KSV), người bào chữa, người là không khai báo, bất hợp tác mà quyền im bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, lặng rộng hơn việc không khai báo. đương sự tiếp tục hỏi những người khác và Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến năm 2015 quy định, Tòa án có nhiệm vụ bảo vụ án. Xét về nội hàm, quy định bị cáo có vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền quyền không đưa ra lời khai chống lại chính công dân. Do vậy, một khi quyền im lặng mình, “đồng nghĩa với việc người bị buộc tội được pháp luật ghi nhận thì các cơ quan tố có quyền không khai những điều chứa đựng tụng nói chung và Tòa án phải bảo đảm thực thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy hiện quyền đó cho bị cáo. Cụ thể, tại phiên định này có thể hiểu tương đương với quyền tòa, trong khi bị cáo thực hiện quyền im lặng, im lặng”4. Như vậy, bị cáo có toàn quyền và người tiến hành tố tụng phải xem xét tất cả độc lập ý chí, tự chủ trong việc khai báo, các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn trình bày lời khai mà không phải là nghĩa vụ điều tra cùng với các chứng cứ mới được thu bắt buộc, và cơ quan, người tiến hành tố thập một cách công khai, khách quan, toàn tụng, các chủ thể khác không được ép buộc diện, đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định bị cáo phải khai báo. có tội và chứng cứ xác định vô tội; những tình Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình đoạn bắt buộc của quá trình tố tụng trong sự của bị cáo. Từ đó, Tòa án ra bản án và các giải quyết vụ án hình sự. Bị cáo có quyền im quyết định theo quy định của pháp luật xác 4 http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207231. NGHIÊN CỨU 20 LẬP PHÁP Số 13 (413) - T7/2020
- NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT định là tội phạm và quyết định hình phạt đối nhiệm vụ của mình, thể hiện được vị trí, vai với người đã có hành vi phạm tội. trò trung tâm trong hoạt động tranh luận tại Sự ghi nhận bằng pháp luật đối với phiên tòa, không có những biểu hiện hạn chế quyền im lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử thời gian tranh luận, hay định hướng việc sơ thẩm vụ án hình sự chỉ mới là điều kiện tranh luận giữa các bên theo đề cương xét xử cần. Điều kiện đủ ở đây là cần phải tổ chức đã chuẩn bị trước. HĐXX đã xác định lời thực hiện, áp dụng các quy định của pháp khai của bị cáo tại tòa không phải căn cứ duy luật đó vào thực tế và bảo đảm cho bị cáo sử nhất để định tội mà phải xem xét thấu đáo, dụng quyền đó. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm khách quan, toàn diện tại phiên tòa các các vụ án hình sự, mặc dù có nhiều chủ thể chứng cứ, tài liệu buộc tội, gỡ tội trên tham gia việc bảo đảm quyền im lặng của bị nguyên tắc tôn trọng sự thật khách quan; cáo, tuy nhiên, các chủ thể chính là Chủ tọa tranh tụng; suy đoán vô tội; độc lập trong xét phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xử. Bản án của Tòa án tuyên đều dựa trên (HTND), Kiểm sát viên (KSV), người bào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Ở nhiều chữa. Những người này có nghĩa vụ thực phiên tòa, bị cáo sử dụng quyền im lặng hiện hay không thực hiện những công việc bằng cách không khai báo, không trả lời câu do luật quy định và phải chịu trách nhiệm hỏi của HĐXX, KSV “nhưng các cơ quan trước pháp luật về những hành vi và quyết tiến hành tố tụng vẫn xác định được sự thật định của mình. vụ án để buộc tội các bị cáo một cách “tâm Từ những phân tích trên, có thể hiểu, phục khẩu phục”5. bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự được, việc bảo đảm quyền im lặng của bị cáo của Tòa án là việc ghi nhận bằng pháp luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án quyền im lặng của bị cáo; trách nhiệm các hình sự của Tòa án còn tồn tại những bất cập chủ thể tham gia phiên tòa tạo điều kiện cần sau: thiết để bị cáo sử dụng quyền im lặng theo Pháp luật hiện hành chưa có điều khoản quy định của pháp luật. cụ thể, độc lập để quy định về quyền im lặng 2. Thực tiễn bảo đảm quyền im lặng của bị cáo. Các quy định hiện hành đều gián của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm tiếp đề cập đến các khía cạnh của quyền im các vụ án hình sự hiện nay lặng. Bên cạnh đó, “vẫn chưa có văn bản Thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm các hướng dẫn về cách thức, trình tự, thủ tục vụ án hình sự những năm gần đây cho thấy, thực hiện; từ đó dẫn đến nhiều khó khăn, HĐXX đã tạo điều kiện để bị cáo thực hiện lúng túng cho các cơ quan và người tiến quyền im lặng của mình tại phiên tòa. Tình hành tố tụng khi giải quyết các vụ án6. Do trạng mớm cung, ép cung, bức cung được vậy, việc áp dụng pháp luật bảo vệ quyền im hạn chế ở mức thấp nhất. Văn hóa xét xử của lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm Thẩm phán, Hội thẩm được cải thiện rõ rệt. vụ án hình sự “còn gây tranh cãi và chưa Những vụ án lớn, nghiêm trọng được dư được bảo vệ hiệu quả ở nước ta, nhất là khi luận xã hội quan tâm đều được đưa ra xét xử quyền tiếp cận luật sư của người bị tạm giữ, kịp thời, đúng pháp luật. Phần lớn ở các bị can, bị cáo còn nhiều hạn chế”7 hoặc “do phiên tòa, HĐXX đã thực hiện đúng đắn kỹ thuật lập pháp không quy định trực tiếp 5 https://nld.com.vn/phap-luat/quyen-im-lang-hieu-sao-cho-dung-20170623231637035.htm. 6 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su- 50450.html. 7 Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm (2017), Quyền im lặng trên thế giới và gợi mở cho việc bảo đảm quyền con người trong TTHS theo Hiến pháp năm 2013, trong Sách “Thực hiện các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.312. NGHIÊN CỨU Số 13 (413) - T7/2020 LẬP PHÁP 21
- NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT quyền không trình bày lời khai mà chỉ có thể Ở nhiều phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hiểu gián tiếp nên thực tế những quy định hình sự gần đây, khi bị cáo sử dụng quyền im trên không được chấp hành nghiêm”8. lặng thì HĐXX, KSV lúng túng, bị động, Quy định của pháp luật hiện hành vẫn thiếu sự phối hợp bởi Bộ luật TTHS năm coi trọng địa vị pháp lý của những người tiến 2015 và các văn bản hướng dẫn thực hiện hành tố tụng trong khi địa vị của người bào “chưa có quy định cụ thể hoặc hướng dẫn; chữa chưa hoàn toàn được độc lập với các hơn nữa chưa có tài liệu nghiệp vụ nào quy chủ thể khác. Điều này dẫn đến tâm lý của định về cách thức, trình tự, thủ tục để các cơ người tiến hành tố tụng như thẩm phán, KSV quan và người tiến hành tố tụng thực hiện khi tự cho mình quyền năng cao hơn, đứng trên bị can, bị cáo thực hiện quyền im lặng”10. các chủ thể khác trong phiên tòa. Bên cạnh Trong trường hợp này, Tòa án thường trả hồ đó, phiên tòa xét xử hình sự vẫn còn nặng về sơ cho Viện kiểm sát để tiến hành điều tra bổ “xét hỏi”, làm cho cơ quan buộc tội không sung hoặc hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung. chủ động tranh luận, trong khi Tòa án không Người bào chữa chưa tích cực phát huy phát huy vai trò “trọng tài” chứng kiến, xem hết trách nhiệm của mình trong việc tranh xét cuộc tranh luận và vẫn coi là một bên của luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình tranh luận thì quyền bào chữa của bị cáo sẽ sự nên họ có xu hướng “cổ súy, nhiệt tình không được thực hiện trên thực tế. Như vậy, ủng hộ các thân chủ của mình thực hiện “quyền im lặng” ở các giai đoạn tố tụng, mặc dù pháp luật đã trao cho bị cáo quyền nhất là khi vụ án được đưa ra xét xử”11. chủ động, tích cực tham gia phiên tòa, sử dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho mình Một số KSV làm nhiệm vụ thực hành nhưng trước thực trạng trên, một số bị cáo quyền công tố tại phiên tòa chưa quán triệt nguyên tắc suy đoán vô tội; vẫn còn tư duy sử dụng quyền im lặng của mình một cách coi bị cáo là người có tội theo bản cáo trạng thụ động như thực hiện quyền “không khai đã chuẩn bị sẵn, khi luận tội chỉ chú ý mục báo” khi HĐXX xét hỏi. tiêu bảo vệ các quan điểm của VKS trong Trong mô hình tố tụng ở nước ta hiện bản cáo trạng mà không xuất phát và căn cứ nay, trong chừng mực nhất định, Tòa án còn vào kết quả điều tra công khai và tranh tụng có vai trò “chi phối”, “định hướng” đến hoạt tại phiên tòa. Do vậy, khi tranh luận, KSV động tranh luận tại phiên tòa. Trên thực tế, chỉ chú ý đến bị cáo có tội hay không mà trong nhiều vụ án xét xử sơ thẩm hình sự, chưa chú ý đến những điều kiện và nguyên HĐXX chưa vô tư, công bằng trong việc tìm nhân phạm tội của bị cáo, những tình tiết kiếm sự thật khách quan của vụ án, trong khi giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Một số KSV đó bị cáo không thực hiện quyền trình bày chưa thật sự tích cực trong việc đi tìm sự thật lời khai bị đánh giá là “thiếu thành khẩn”, khách quan của vụ án mà “giữ nguyên quan “không hợp tác với cơ quan tố tụng”; nghi điểm như cáo trạng”, cá biệt có KSV từ chối can tự bào chữa bị coi là “quanh co, chối tội tham gia phiên tòa mà không có lý do chính hòng trốn tránh trách nhiệm”... tất cả những đáng12. Do đó, việc bị cáo sử dụng quyền im tình tiết này đều bị tòa án dùng làm căn cứ lặng của mình tại phiên tòa xét xử sơ thẩm để quyết định mức án nặng hơn9. vụ án hình sự như là “vũ khí phòng vệ”. 8 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm. 9 https://dantri.com.vn/xa-hoi/thuc-hien-quyen-im-lang-de-giam-toi-da-oan-sai-1435200544.htm. 10 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su- 50450.html. 11 https://kiemsat.vn/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-sat-vien-tai-phien-toa-hinh-su- 50450.html. 12 http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/33. NGHIÊN CỨU 22 LẬP PHÁP Số 13 (413) - T7/2020
- NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Ở một số phiên tòa, chủ tọa chưa chú ý lặng của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm các vụ đến thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai án hình sự. minh bạch, chưa đề cao tranh tụng mà còn Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi nặng về xét hỏi; không bảo đảm quyền được dưỡng nghiệp vụ cho KSV; Nâng cao nhận thể hiện ý kiến, quan điểm của người bào thức, kỹ năng và trách nhiệm của KSV trong chữa đối với bị cáo. Chủ tọa vẫn dành quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt hỏi nhiều hơn so với KSV và luật sư. Một số động xét xử để góp phần bảo đảm quyền im chủ tọa phiên tòa không chỉ hỏi mà còn đưa lặng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm ra quan điểm nhận xét, bình luận các ý kiến vụ án hình sự. KSV phải nắm chắc toàn bộ và đánh giá về lời khai, giáo dục bị cáo. Do tiến trình điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ hồ vậy, bị cáo có tâm lý không hợp tác và họ sử sơ vụ án (bao gồm những chứng cứ buộc tội dụng quyền im lặng. Khi bị cáo sử dụng và chứng cứ gỡ tội cho bị cáo), chuẩn bị tốt quyền im lặng, những người tiến hành tố cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Khi bị cáo tụng cho rằng, bị cáo không thành khẩn, sử dụng quyền im lặng, KSV chỉ công bố các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều không hợp tác, thậm chí coi đây là tình tiết tra, truy tố kết hợp với xét hỏi các bị cáo tăng nặng. khác, bị hại, người làm chứng… tại phiên 3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm tòa. Khi có những tình tiết mới phát sinh quyền im lặng của bị cáo trong hoạt động chưa được kiểm tra làm rõ thì KSV đề nghị xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ngay với Chủ tọa cho dừng phiên tòa, trả hồ Để bảo đảm quyền im lặng của bị cáo sơ để điều tra bổ sung. trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi hình sự, chúng tôi cho rằng, cần thực hiện dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao năng lực một số giải pháp sau: cho đội ngũ luật sư bảo vệ bị cáo. Để nắm Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao, Viện được các tình tiết của vụ án, bảo vệ tốt các Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an cần quyền của bị cáo, luật sư phải theo dõi mọi phối hợp ban hành văn bản liên tịch giải diễn biến tại phiên toà, lắng nghe các câu hỏi thích nội hàm quyền im lặng của người bị của HĐXX, KSV, người bão chữa và các câu buộc tội, hướng trình tự, thủ tục và trách trả lời của những người bị hỏi. Khi được hỏi, nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn tụng trong việc bảo đảm quyền im lặng của gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ của vụ án nhưng chưa được làm sáng tỏ và án hình sự của Tòa án. có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Luật sư không nên cổ súy, hướng dẫn bị cáo sử Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, dụng quyền im lặng một cách thụ động mà bồi dưỡng nghiệp vụ cho thẩm phán, hội gây khó khăn cho các chủ thể khác. thẩm nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về Thứ năm, tăng cường tuyên truyền, giáo ý nghĩa, vai trò của việc bảo đảm thực hiện dục pháp luật về quyền im lặng cho bị cáo quyền im lặng của bị cáo: im lặng là quyền tại phiên tòa hình sự để họ hiểu và sử đụng của bị cáo, những lời khai của bị cáo tại tòa đúng quyền của mình. Tại phiên tòa, chủ tọa không phải là chứng cứ duy nhất để buộc tội cần giải thích rõ quyền không buộc phải đưa bị cáo; bảo đảm quyền im lặng phải được ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc thực hiện đồng thời với thực hiện nguyên tắc phải nhận mình có tội cho bị cáo. Chủ tọa “trách nhiệm chứng minh”, “suy đoán vô phải giải thích để bị cáo hiểu rõ khi nào nên tội”, “đảm bảo quyền bào chữa”... Tổ chức sử dụng quyền im lặng và sử dụng như thế tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho nào giúp bị cáo ăn năn hối cải mà thành thật thẩm phán, hội thẩm nhân dân khi có hướng khai báo để hưởng sự giảm nhẹ, khoan hồng dẫn về trình tự, thủ tục bảo đảm quyền im của pháp luật n NGHIÊN CỨU Số 13 (413) - T7/2020 LẬP PHÁP 23
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bảo đảm quyền con người trong một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015
16 p | 41 | 12
-
Quyền im lặng của người bị buộc tội và các đảm bảo pháp lý trong tố tụng hình sự
5 p | 81 | 10
-
Quyền im lặng của người bị buộc tội trong Tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức và kinh nghiệm cho Việt Nam
11 p | 11 | 5
-
Cảnh báo Miranda: Bảo đảm pháp lý cho người bị buộc tội thực hiện quyền im lặng trong giai đoạn điều tra
7 p | 36 | 3
-
Một số vấn đề về quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
10 p | 13 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn