Lời mở đầu

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với

người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời sống cho người lao

động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng

lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. Chính sách BHXH ở nước ta

được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước, 60 năm qua, trong

quá trình tổ chức thực hiện, chính sách BHXH ngày càng được hoàn thiện và

không ngừng đổi mới, bổ xung cho phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước.

Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI của Đảng (12/1986), chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng

có nhiều đổi mới tích cực.

Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH thực sự là

một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.

BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao động mà còn

khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, xây dựng đất

nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không ngừng phát triển cả về chất

lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng tăng lên, mở rộng cho các đối

tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính sách BHXH tiến tới thực hiện đủ

các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế

quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN

đảm bảo đã chuyển sang cơ chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc

cân bằng thu chi. Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho

NSNN mà còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người

lao động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua

BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến địa

phương.

Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều tồn tại cần

sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí hoạt động. Đây là

những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần hoàn thiện chính sách và

tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam. Trong đó quản lí tài chính BHXH

Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có

vững thì các chế độ trợ cấp mới được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến

tình trạng thâm hụt NSNN. Chính vì vậy với ngành học được đào tạo, sau khi về

thực tập tại BHXH Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Công tác quản lí tài chính

BHXH Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu công tác quản lí tài

chính BHXH Việt Nam, với mục đích là rút ra những kết quả đạt được để phát

huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra những đóng

góp, góp phần hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam, phát huy tối đa chức năng

của BHXH trong thời đại mới.

Kết cấu của đề tài gồm ba chương:

Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH.

Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam hiện nay.

Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam

trong thời kì tới.

Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH

I. Những vấn đề cơ bản về BHXH.

1. Tính tất yếu khách quan của BHXH.

Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn từ

yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại

những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ

lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường

là trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống.

Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự

phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó

là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi

đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng

thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau

trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này

đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.

Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông

dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng

nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì

lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ

sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất

việc làm, ốm đau, tai nạn lao động ... đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình

đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các

nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá

trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước

khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động

phải chu cấp cho người lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai

nạn lao động, mất việc... Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với

những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính

trị của mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan

tâm đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều

kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được quy định thành

các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.

Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các

địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro.

Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham

gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới.

BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức

Lao động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952.

BHXH ở nước ta đa manh nha hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau

cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành

sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao

động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt

Nam như hiện nay.

2. Khái niệm BHXH.

Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ

mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì

chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp.

BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:

“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao

động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động

hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một

quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà

nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia

đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”

Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:

- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến

động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như

đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia

đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi

quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện

kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng

cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.

- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao

động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng

BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm,

trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài

ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.

- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để

gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và

đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một

cách hiệu quả nhất.

Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO)

cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:

“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một

loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để

chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu

nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa,

BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia

đình khi cần thiết.”

Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển

của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối

với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó.

3. Bản chất và chức năng của BHXH.

3.1. Bản chất của BHXH.

Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi

gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc tuổi

già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản thân

người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã hội

lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về

bản chất bao gồm những nội dung sau đây:

BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế.

Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan

hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do vậy

trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện

của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống

BHXH của mỗi nước.

BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ

của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động

(bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ

quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người

lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo

những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.

Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể là

những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp...), cũng có thể là các

rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ...). Đồng thời các biến cố

này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của

người lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp

từ nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có

thêm sự hỗ trợ của NSNN.

3.2. Chức năng của BHXH.

Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người lao

động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất

việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì

mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định

nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.

Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và

cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động

khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân

phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh

với người lao động ốm đau, già yếu..., giữa những người có thu nhập cao phải

đóng nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng

này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu

quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.

Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc,

nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động x• hội,

tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu

trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển,

việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự

bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc

đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội.

Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn

nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã gắn bó

lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau

hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao động thì

được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái,

tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu

quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao động và góp

phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.

4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.

Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:

Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của

người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên

tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số

ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao

động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong

BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà

còn có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,...

Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng

phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc

quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước,

song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi

nước trong mỗi thời kì khác nhau.

Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách

BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước

(NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự

là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham

gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này

có thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ

bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau.

5. Các chế độ của BHXH.

Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên

BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được

xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và

phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống

chính sách BHXH. Trong Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có

quy định những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:

- Chăm sóc y tế.

- Trợ cấp ốm đau.

- Trợ cấp thất nghiệp.

- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

- Trợ cấp tuổi già.

- Trợ cấp thai sản.

Trợ cấp tàn tật. -

Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. -

Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói

trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:

Trợ cấp tuổi già. -

Trợ cấp thất nghiệp. -

Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. -

Trợ cấp tàn tật. -

Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình. -

Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện

kinh tế, thu nhập, tiền lương, ... Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến

các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, ... để quy định các

mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế

độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.

+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.

+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên

tham gia BHXH.

+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.

+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.

+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.

+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có

hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.

+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay

đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.

6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.

6.1. Quỹ BHXH.

Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một

bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài

chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau

đây:

- Người sử dụng lao động đóng góp,

- Người lao động đóng góp,

- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,

- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt

động đầu tư quỹ nhàn rỗi).

Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả

người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này

không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần quỹ

của người sử dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh

tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà

mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối

quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể

hiện sự tự gánh chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc

nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.

Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu

trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia

BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp

BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan

điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ

lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào

mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền

kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước

lại có những quy định khác nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động

phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và

trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động

cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy

định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí BHXH ....

Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là chi

trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho chi

phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là

quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được

quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối

với từng chế độ. Tại những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được

quy định khác nhau.

6.2. Phân loại quỹ BHXH:

Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà

quỹ BHXH được phân loại khác nhau:

- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao

động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.

- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các

chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động

tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất.

- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước,

quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho các

đối tượng còn lại.

Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình trạng

phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ trợ lẫn

nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến việc

chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên

các cách tổ chức thực hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác

nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ

thống BHXH đó.

II. Quản lí tài chính BHXH.

1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH.

Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động

nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một

đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con

người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí

ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài

chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia.

Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính

nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó

đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí

tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội

của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục

tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi

ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên

tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính

ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí

tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ

yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện

một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là

những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi

trường sống, môi trường kinh tế ..., những biến động tác động trực tiếp đến đời

sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư

tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa

chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách

hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện

mục tiêu của Nhà nước đặt ra.

Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau:

- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân

đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế

độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên

nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây

cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính

đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy

có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh

nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất.

- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành

Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng

có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn

và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH

phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu

tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau:

+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH

cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo

an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về

danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan

trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực

để giảm thiểu rủi ro.

+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc

này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không

chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần

cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.

+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của

nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải

đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt

tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình thức

đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước.

+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội,

do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân,

phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình

thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt

động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục

tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ

thống An sinh xã hội của mỗi nước.

2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.

Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:

- Quản lí thu BHXH.

- Quản lí chi BHXH.

Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. -

- Quản lí cân đối quỹ BHXH.

2.1. Quản lí thu BHXH.

Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình

thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi

trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm

hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn

nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các

quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ

bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức

BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà

công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao

động và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối

tượng chính sau đây:

Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH

khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các

văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động

trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham

gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối

tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau:

+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.

+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.

+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp,

ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin

khác.

Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp: Theo những quy định hiện hành như

ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của

doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở

để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có

thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng

BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện

thu và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí

nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung.

Quản lí tiền thu BHXH: Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua

tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm

bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ

thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình

hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho

công tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu

BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất,

dân chủ, công khai trong toàn hệ thống.

2.2. Quản lí chi BHXH.

Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi

khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế

độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách

BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau:

Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ: Mục tiêu của hoạt động quản lí chi

không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để

tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí

lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo

chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp

lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí

hoạt động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các

chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao

động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp

là những người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm

mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các

điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp,

loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng

góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật,...và chính biến cố mà người lao động gặp phải.

BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp

lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường

hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh

tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được

phân loại và phân cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện.

Quản lí chi hoạt động bộ máy: Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ

hai cần được quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức

là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và

những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức BHXH. Mức chi này có

thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN.

Khoản chi này cần được quản lí tránh những lang phí không cần thiết. Một số

nước khoản chi này được NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo.

Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp tránh những lãng phí không

cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt động

quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên

của ngành BHXH phải cân bằng với các ngành khác.

2.3. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.

Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của

những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu

trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội

cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển

quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có

thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu

tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ

để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư

thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn,

tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội.

2.4. Quản lí hoạt động cân đối quỹ.

BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm thương mại,

BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn nhất là ổn định

cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn

của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế

thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì quỹ phải tìm cho mình những

nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã

được trình bày ở trên. Quản lí cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm

phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục

kịp thời.

3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH.

Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH nói riêng thì

việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động của đối tượng quản

lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể mang đến những thách thức

cũng như những cơ hội cho chính bản thân các hoạt động tài chính của BHXH.

Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra những quyết

định hợp lí và có lợi nhất cho đối tượng quản lí. Các tác động của môi trường

thường được chia làm hai loại là tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác

động từ môi trường trong hệ thống.

Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường

kinh tế- chính trị- xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh

hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới

giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) đã quy

định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không

chỉ là thể hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử

dụng lao động lớn nhất trong xã hội. Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác

động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như GDP, thu nhập bình

quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức

sống tối thiểu, các dịch vụ công cộng... . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân

đối quỹ BHXH sao cho phù hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.

Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, truyền thống, trình độ nhận

thức,... nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân

trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá

rách ít đùm lá rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được

mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể trên tác động tới nội dung

của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam.

Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của

các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu

tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị

phục vụ công tác,....cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí tài chính

BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại

thì công tác quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả.

III. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH.

Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH,

trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là

nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có

khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là tuỳ thuộc vào điều

kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung

hiện nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử

phát triển của ngành BHXH trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như

vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước.

1. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức.

So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát

triển được coi như sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ

những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau:

+ Bảo hiểm thất nghiệp.

+ Bảo hiểm y tế.

+ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật.

+ Bảo hiểm ốm đau.

+ Bảo hiểm tai nạn lao động.

+ Bảo hiểm hưu trí.

Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ cột chính là:

- Hệ thống BHXH bắt buộc.

- Hệ thống BHXH tư nhân.

- Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp.

Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự quản, bảo đảm

tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH tư nhân và hệ thống

BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động của Liên bang. Tự chịu là

hình thức quản lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo của cơ quan quản lí Nhà nước

cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ

quan quản lí cao nhất là một Hội đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ

Ban điều hành sẽ điều hành mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong

năm của Quỹ hưu trí viên chức Liên bang diễn ra như sau:

Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ chức BHXH,

Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới theo phương pháp

ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên cơ sở này xác định tỉ lệ

thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ

thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của

bộ máy quản lí và còn một khoản để dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định

của nền kinh tế mà khoản dự trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng

do quỹ đảm bảo trong một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng. Cách

này có những ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường kinh tế,

dễ dàng cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho

NSNN,... .

Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng một lúc

nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm thu, chi cho một

loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những công chức Nhà nước

( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà nước) không phải đóng BHXH,

nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi lao động. Khoản chi này được lấy từ

nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức cùng tham gia thực hiện các chế độ

BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự

cạnh tranh giúp cho hoạt động ngày càng hiệu quả.

2. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc.

Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng một

hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội,

trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò quan trọng nhất. Đến năm

1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật Lao động, trong đó chương

IX có những quy định cải cách hệ thống BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp

dụng ở các khu vực thành thị và trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở

Trung Quốc đã cụ thể hoá các chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp

đã được xây dựng thành Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm

thời song có hiệu lực khá cao.

Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai khoản: Một

khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao động đóng. Riêng

quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao động đóng. NSNN sẽ hỗ

trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất khả kháng, còn các trường hợp

khác tự người lao động và người sử dụng lao động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung

được chia làm hai phần: Phần thứ nhất được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn

bộ số tiền do người lao động đóng và một phần do chủ sử dụng lao động đóng;

Phần thứ hai được đưa vào quỹ chi chung trong trường hợp cần thiết là phần đóng

góp còn lại của chủ sử dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá

nhiều nước quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính

mở dễ thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động.

Đặc biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm

bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều chỉnh

tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân định được rõ

trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa các quỹ, sử dụng sai

mục đích hay thất thoát.

Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam

I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam.

1. Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của BHXH Việt Nam

1.1. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995.

Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và phải giải

quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta vẫn luôn dành sự

quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên Chính phủ cách mạng đã

áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức

đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách

mạng tháng Tám thành công do còn khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được

thực hiện đến năm 1949.

Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế

công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế công nhân.

Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những quyền lợi về chế độ

hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng ta có thể nhận thấy các

chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi dành được độc lập tuy hoàn

cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt khác các chính sách triển khai thực

hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp

thấp nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà

nước. Nguồc chi 100% lấy từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên.

Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về các chế độ

BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP. Tiếp theo đó là

Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH tạm thời đối với

quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở rộng, và áp dụng cho

6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất, ốm đau, thai sản, tai nạn lao

động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế độ của BHXH Việt Nam được triển

khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài chính thời kì này bắt đầu quy định có sự

đóng góp một phần của các xí nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN cấp. Đến năm

1985 cùng với cải cách tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định

236/HĐBT có những sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các

đơn vị sản suất kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau,

chủ yếu là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp

không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp là

chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro nhiều Bộ

ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi,

Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam). Song chịu trách

nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi và Tổng Liên đoàn

lao động Việt Nam.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn

diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp

với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự đổi

mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có những chuyển biến. Nội dung

cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế bao cấp trong quản lí, mở ra loại

hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban

hành Nghị định 43/CP về những quy định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có

quy định tăng mức đóng BHXH và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ

chế hoạt động của BHXH được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động

do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong

Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây

ngành BHXH Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình.

1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995.

Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi mới thực sự

từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được hưởng BHXH sang

hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ rủi ro. Về quản lí hoạt

động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác nhau đảm nhận, nay tập

chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt Nam. Trên cơ sở quy định đóng

BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ chế hình thành và sử dụng quỹ

BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách

nhiệm đối với người lao động từ năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho

những đối tượng nghỉ làm việc trước năm 1995.

BHXH Việt Nam mở rộng đối tượng tham gia, bao gồm thêm các doanh nghiệp

kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên ( hiện nay là bắt buộc đối với mọi doanh

nghiệp có sử dụng lao động); cán bộ xã phường, thị trấn; các lao động làm việc

trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hoá và Thể thao ngoài công lập. BHXH cũng

quy định lại hiện nay chỉ còn 5 chế độ trợ cấp : ốm đau; tai nạn lao động và bệnh

nghề nghiệp; thai sản; hưu trí và tử tuất (bỏ chế độ nghỉ mất sức lao động). Điều lệ

BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP là những quy định pháp lí được thực

hiện đến nay và chỉ có những sửa đổi nhỏ.

Với mục đích:

+Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình mới trong

chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010.

+Phục vụ và đáp ứng yêu cầu tốt hơn cho người tham gia BHXH, BHYT và tạo

điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức sủ dụng người lao động đóng

bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

+Phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả hệ thống BHXH và

BHYT.

Ngày 24/1/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/ QĐ- TTg

về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam.

Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP quy định chức năng,

nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Trong đó khẳng

định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, có chức năng thực

hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là BHXH) và quản lí Quỹ

BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng 1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp

tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg ban hành về quy chế quản lí tài chính đối

với BHXH Việt Nam. Kèm theo đó là Quy chế quản lí tài chính đối với BHXH

Việt Nam bao gồm những quy định chung áp dụng trong quản lí tài chính.

2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay.

Nghị định số 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 của chính phủ ban hành Điều lệ

BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và mọi người lao

động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước. Các

chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp

thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí,

chế độ trợ cấp tử tuất. Những người làm việc ở những đơn vị, tổ chức sau đây là

những đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc: các doanh nghiệp Nhà nước, các

doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao

động trở lên, người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài, các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh

doanh dịch vụ, doanh nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng đoàn

thể, lực lượng vũ trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức

chính trị, chính trị- xã hội.

Ngày 15/7/1995 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 45/CP về Điều lệ BHXH

đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân,

công an nhân dân. Các chế độ BHXH này gồm có: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ

trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí,

chế độ tử tuất.

Nghị định số 09/ 1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ xung

một số điều củ Nghị định 50/CP ngày 26/7/2995 của Chính phủ về chế độ sinh

hoạt phí đối cới cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã tham gia đóng BHXH

và hưởng chế độ hưu trí và mai táng là những cán bộ làm công tác Đảng, chính

quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận, Hội trưởng hội phụ nữ, Hội

trưởng hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến binh, Bí thư đoàn THCS Hồ Chí

Minh và các cán bộ chưc danh chuyên môn là Văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, địa

chính, tư pháp, tài chính- kế toán.

Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo

dục, y tế, văn hoá, thể thao được quy định trong Nghị định số 73/ 1999/ NĐ- CP

ngày 19/8/1999. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở ngoài công lập dưới

các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực giáo

dục, y tế, văn hoá, thể thao nhưng phải phù hợp với quy hoạch của Nhà nước,

không theo mục đích thương mại và đúng theo quy định của của pháp luật. Người

lao động làm việc trong các cơ sở ngoài công lập được tham gia và hưởng mọi

quyền lợi về BHXH như người lao động trong các đơi vị công lập.

Đối với người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước

ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ BHXH hưu trí và

tử tuất. Điều này được quy định trong Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ban hành

ngày 20/9/1999.

Ngày 15/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2000/NĐ- CP về việc điều

chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp, và sinh hoạt phí đối với các các đối

tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí. Trong đó có quy định tăng

mức tiền lương tối thiểu từ 180 000 đồng lên 210 000 đồng/ tháng. Cùng năm đó

Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 71/2000/ NĐ-CP quy định việc kéo dài

thời gian công tác của cán bộ công chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Tức là cán bộ công

chức đến tuổi nghỉ hưu được xem xét kéo dài thêm thời gian công tác đối với các

đối tượng làm công tác nghiên cứu, những người có học vị tiến sĩ, chức danh Giáo

sư, Phó giáo sư, những người có tài năng. Thời gian kéo dài có thể từ 1 đến 5 năm

với điều kiện cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng có nhu cầu và cán bộ, công chức đó

tự nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.

Năm 2001 Chính phủ tiếp tục ra hai Nghị định 04/2001/NĐ-CP và 61/2001/NĐ-

CP. Nghị định 04 quy định chi tiết về một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân

dân Việt Nam năm 1999 về chế độ chính sách đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ,

sĩ quan chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp hoặc công chức quốc phòng. Nghị

định 61 quy định về tuổi nghỉ hưu của người lao động khai thác hầm lò. Tuổi nghỉ

hưu là 50, đủ 20 năm đóng BHXH và có ít nhất 15 năm làm công việc nêu trên.

Tuổi nghỉ hưu có thể tăng lên nhưng không quá 55 khi người lao động không đủ

số năm đóng BHXH.

Nghị định 100/ 2002/ NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định về chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Trong đó nêu

rõ các vị trí, chức năng, có 19 điểm quy định quyền hạn và nhiệm vụ của BHXH

Việt Nam.

Ngày 9/9/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP đã sửa đổi, bổ

xung một số điều của Điều lệ BHXH Việt Nam.

3. Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam.

Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc

quản lí Nhà nước về BHXH: xây dựng và trình ban hành pháp luật về BHXH; ban

hành các văn bản pháp quy về BHXH thuộc thẩm quyền; hướng dẫn, kiểm tra,

thanh tra việc thực hiện BHXH. Chính phủ thành lập hệ thống tổ chức BHXH

thống nhất để quản lí quỹ và thực hiện các chế độ, chính sách về BHXH theo quy

định của pháp luật.

Theo điều 3, Nghị định số 100/2002/ NĐ- CP có quy định: BHXH Việt Nam được

tổ chức, quản lí theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương tới địa

phương, gồm có ba cấp:

Cấp Trung ương là BHXH Việt Nam. 1.

2. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương ( gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc BHXH Việt Nam.

3. Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là BHXH huyện, quận,

thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc BHXH

tỉnh.

BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ Trung ương xuống

địa phương. Cơ quan quản lí là Hội đồng quản lí BHXH Việt Nam, chịu trách

nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng Chính phủ về các hoạt động chỉ đạo, điều hành và

quản lí của mình. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của BHXH Việt Nam, do

Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng quản lí. Tổng giám đốc

chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng quản lí về thực hiện

chính sách, chế độ BHXH và quản lí quỹ BHXH theo quy định của pháp luật.

Giúp việc cho tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc và các phòng ban nghiệp

vụ chuyên môn. Bộ máy quản lí giúp việc cho Tổng giám đốc tại BHXH Việt Nam

hiện nay gồm có:

Ban Chế độ chính sách BHXH. 1.

Ban Kế hoạch- Tài chính. 2.

3. Ban thu BHXH.

4. Ban chi BHXH.

5. Ban BHXH tự nguyện.

6. Ban giám định Y tế.

7. Ban tuyên truyền BHXH.

8. Ban Hợp tác quốc tế.

9. Ban Tổ chức cán bộ.

10. Ban kiểm tra.

11. Văn phòng.

12. Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH.

13. Trung tâm Công nghệ thông tin.

14. Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH.

15. Trung tâm lưu trữ.

16. Báo BHXH.

17. Tạp chí BHXH.

Theo điều 9 Nghị định 100/2002/NĐ- CP, tổ chức BHXH tỉnh và BHXH huyện

được tổ chức và hoạt động theo quy định của Tổng giám đốc. BHXH tỉnh, BHXH

huyện cũng có tư cách pháp nhân, có dấu, có tài khoản và trụ sở riêng.

Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lí BHXH Việt Nam

(Theo Nghị định số 100/2002/CP- NĐ ngày 6/12/2002 của Chính Phủ)

II. Thực trạng của công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.

1. Công tác quản lí thu.

Quản lí thu BHXH Việt Nam bao gồm: quản lí đối tượng tham gia, quản lí quỹ

lương của các đơn vị, quản lí tiền thu BHXH.

1.1.Quản lí đối tượng tham gia.

Đối tượng tham gia là những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm đóng góp để tạo lập

quỹ BHXH. Hiện nay BHXH hiện chia các đối tượng này thành hai loại là: đối

tượng tham gia BHXH tự nguyện và đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: là những người lao động và người sử dụng

lao động bắt buộc phải tham gia đóng góp BHXH theo pháp luật BHXH. Hiện nay

đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc gồm:

- Người lao động làm việc theo hợp động lao động có thời hạn đủ ba tháng

trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ

quan, tổ chức sau:

+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước.

+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động thẹo Luật Doanh nghiệp.

+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

+ Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội.

+ Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.

+ Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội,

tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội

khác, lực lượng vũ trang.

+ Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào

tạo, khoa học, thể dục, thể thao và các ngành sự nghiệp khác.

+ Trạm y tế xã, phường, thị trấn.

+Cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp

Điều ước quốc tế mà nước ta kí kết hoặc tham gia có quy định khác.

+ Các tổ chức khác có sử dụng lao động.

- Cán bộ, công chưc, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức.

- Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao

động từ đủ ba tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật

Hợp tác xã.

- Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo các

hợp đồng có thời hạn dưới ba tháng khi hết hợp đồng lao động mà người lao động

tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cơ

quan đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc.

- Người lao động ở trên đi thực tâp, học, công tác, điều dưỡng trong và ngoài

nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện

BHXH bắt buộc.

- Các đối tượng lao động tại các doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm

nghiệp, diêm nghiệp được hưởng tiền công, tiền lương theo hợp đồng lao động từ

đủ ba tháng trở lên.( Đối với các lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông

nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp đã thực hiện giao khoán đất có quy

định riêng).

Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: là người lao động và người sử dụng lao

động không thuộc đối tượng quy định bắt buộc nhưng tự nguyện tham gia BHXH

cho chính họ và người lao động của họ. Họ có những đặc điểm sau:

+ Những người này thường thuộc khu vực lao động phi chính thức.

+ Công việc của họ phần lớn là thất thường và rất lưu động. Thu nhập nhìn chung

là thấp và không ổn định.

+ Vì không có người sử dụng lao động nên việc tham gia BHXH của những đối

tượng này hoàn toàn không có sự đóng góp của ai khác ngoài chính bản thân họ.

Vì vậy những đối tượng này thường khó quản lí và khó thực hiện các công tác thu

nộp cũng như chi trả cho các đối tượng. Việc triển khai thực hiện BHXH đối với

các đối tượng này còn gặp nhiều khó khăn, song với mục tiêu tiến đến thực hiện

BHXH toàn dân, BHXH Việt Nam đang nghiên cứu trển khai và áp dụng những

biện pháp hữu hiệu đối với loại đối tượng này.

BHXH Việt Nam có những biện pháp quản lí các đối tượng tham gia thông qua

việc cấp sổ BHXH. Đây không chỉ là cách quản lí về số lượng mà còn quản lí cả

thời gian công tác, ngành nghề công tác, mức đóng, từ đó làm căn cứ để chi trả

cho các đối tượng. Việc quản lí cấp sổ được thực hiện thống nhất trên phạm vi cả

nước, các thông tin trong sổ mang tính chính xác. Quản lí việc cấp sổ là trách

nhiệm của cả người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Về phía người sử dụng

lao động là việc quản lí danh sách người lao động được cấp sổ cùng với mức

lương làm căn cứ xác định mức đóng BHXH và thực hiện báo cáo định kì về sự

biến động số lượng lao động. Về phía cơ quan BHXH là theo dõi việc cấp phát sổ

BHXH theo phân cấp và thực hiện báo cáo định kì lên cơ quan BHXH cấp trên về

tình hình cấp sổ. Theo quy định của Việt Nam hiện nay quy trình cấp sổ do cơ

quan BHXH cấp tỉnh thực hiện gồm sáu bước, đảm bảo tính thống nhất trong toàn

quốc, tránh những hiện tượng khai man, trường hợp giả giấy tờ để trục lợi từ

BHXH. Cụ thể:

Bước 1: Lập và kiểm tra danh sách người lao động và người sử dụng lao động phải

tham gia theo luật định.

Bước 2: Chuẩn bị sổ cả về số lượng, chất lượng, đóng dấu giáp lai và ghi sổ

BHXH.

Bước 3: Cơ quan BHXH chịu trách nhiệm phổ biến cho người lao động linh hoạt

kê khai một cách thống nhất.

Bước 4: Xét duyệt và ghi sổ ban đầu.

Bước 5: Kí nhận của người lao động.

Bước 6: Kí xác nhận của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH.

Chúng ta có thể tìm hiểu công tác quản lí đối tượng tham gia thông qua bảng số

liệu 1:

Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004.

Qua bảng 1 ta thấy số người tham gia BHXH ngày càng tăng đây cũng là một kết

quả tốt của BHXH Việt Nam. Năm 1995 mới chỉ có 2.275.998 người tham gia đến

nay BHXH Việt Nam đã có 6.344.508 người tham gia (ngày 31/12/2004), như vậy

là chỉ trong 10 năm số người tham gia đã tăng lên gấp gần 3 lần. Đặc biệt là năm

2004 số người tham gia tăng 25,13% so với năm 2003, qua bảng trên ta có thể

nhận thấy số người tham gia BHXH Việt Nam ngày càng tăng. Trong đó số lao

động tham gia BHXH bắt buộc đạt 5,7 triệu người; tăng 406.000 người (tăng 8%)

so với năm 2003. Trong đó có 122.000 người làm việc trong các doanh nghiệp

quốc doanh ( tăng 23%), 115.000 người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoàI (tăng 16%) và 3.723 người làm việc trong các hợp tác xã ( tăng

40%). Số người tham gia BHYT tự nguyện đạt 6,2 triệu, tăng 28% so với năm

2003, trong đó có 5,9 triệu học sinh, sinh viên và 300 ngàn người là thành viên hộ

gia đình, các hội đoàn thể. Như vậy là việc quản lí đối tượng tham gia có hiệu quả,

sau đổi mới người lao động ý thức được tầm quan trọng cũng như những lợi ích

mà họ nhận được. Tuy số người tham gia tăng nhanh song nhìn chung tại các địa

phương thì công tác mở rộng đối tượng tham gia là còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là

các đối tượng lao động trong tổ hợp tác, hộ sản xuất kinh doanh cá thể thuộc đối

tượng tham gia BHXH bắt buộc. Nhưng theo thống kê, hiện nay chỉ có khoảng

300.000 đơn vị tổ hợp tác nhỏ ( chỉ sử dụng bình quân khoảng 3 lao động) trong số

405.562 đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, do vậy quản lí đối tượng tham gia này

gặp rất nhiều khó khăn.

1.2. Quản lí quỹ lương của doanh nghiệp.

Với hai loại đối tượng tham gia BHXH ở nước ta hiện nay, phương thức thu nộp

được chia thành hai loại:

Thứ nhất là thu trực tiếp: Theo phươngthưc này cán bộ chuyên trách thu của cơ

quan BHXH sẽ trực tiếp thu những đóng góp của những người tham gia BHXH.

Hình thức này hay được áp dụng cho đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, không

có chủ sử dụng lao động.

Thứ hai là thu gián tiếp qua đại lí thu: Đây là phương thức thu chủ yếu của BHXH

Việt Nam. Đại lí thu của BHXH chủ yếu là các chủ sử dụng lao động. Trước tiên

chủ sử dụng lao động thu của người lao động sau đó chuyển toàn bộ đóng góp của

cả người lao động và người sử dụng lao động cho cơ quan BHXH. Thực hiện như

vậy là rất thuận tiện cho cơ quan BHXH, vì chính chủ sử dụng lao động quản lí

trực tiếp lao động của mình, thông qua quỹ lương của doanh nghiệp người sử dụng

lao động khấu trừ luôn phần phí đóng BHXH của người lao động theo % mức tiền

lương của họ. Đại lí cũng có thể là cơ quan, tổ chức, hiệp hội, đoàn thể có liên

quan như bưu điện, ngân hàng, ... song các đại lí thu này không phổ biến.

Như vậy quản lí quỹ lương của doanh nghiệp vừa quản lí được đối tượng tham gia

vừa quản lí được số thu của BHXH Việt Nam. Tiền thu sẽ được trích theo % tổng

quỹ lương của doanh nghiệp, sau đó trực tiếp chuyển khoản lên tài khoản của cơ

quan BHXH. Đây cũng là phương thức nộp phổ biến nhất hiện nay. Quy định hiện

nay sau khi chính thức chuyển BHYT về BHXH, tổng mức phí thu hiện nay là

23% tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Trong đó, đóng BHXH là người lao động

5%, người sử dụng lao động 15%; đóng BHYT bắt buộc là người lao động 1%,

người sử dụng lao động 2%.

1.3. Quản lí tiền thu BHXH.

Tại Việt Nam hiện nay hình thức thu nộp chủ yếu là chuyển khoản thông qua ngân

hàng. BHXH Việt Nam hình thành các “tài khoản chuyên thu”, các tài khoản này

được mở tại các NHNN hoặc tại Kho bạc. Tuỳ theo thực tế của từng địa phương

mà cơ quan BHXH sẽ mở tài khoản có thể là ở cấp tỉnh hoặc cả cấp huyện. Về cơ

bản BHXH sẽ không thu nộp bằng tiền mặt, ngân phiếu hay hiện vật, trong trường

hợp đặc biệt người sử dụng lao động nộp bằng tiền mặt hoặc ngân phiếu thì cơ

quan BHXH phải có hướng dẫn cụ thể để người sử dụng lao động nộp trực tiếp

vào tài khoản chuyên thu BHXH. Định kì hàng tháng người sử dụng lao động sau

khi trả lương cho người lao động sẽ nộp tiền BHXH bằng cách chuyển tiền từ tài

khoản của họ ở một ngân hàng hay kho bạc sang tài khoản chuyên thu BHXH. Sau

đó cơ quan BHXH cấp huyện và cấp tỉnh sẽ phải chuyển số thu này lên cơ quan

BHXH cấp trên mà không được sử dụng tiền thu để chi bất cứ việc gì. BHXH

huyện sẽ chuyển khoản vào ngày 10 và 25 hàng tháng, ngày làm việc cuối cùng

của năm phải chuyển toàn bộ số thu lên BHXH tỉnh. BHXH tỉnh định kì chuyển số

thu lên BHXH Việt Nam vào ngày 10, 20 và ngày cuối cùng của tháng. BHXH

Việt Nam định kì chuyển toàn bộ số thu vào quỹ BHXH mở tại kho bạc Nhà nước.

Theo điều 11, chương hai của Quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam có quy

định: “ Quỹ BHXH được quản lí thống nhất trong hệ thống BHXH Việt Nam,

được hạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng quỹ thành phần (quỹ hưu trí và

trợ cấp, quỹ khám chữa bệnh tự nguyên, quỹ khám chữa bệnh bắt buộc).” Số dư

trên tài khoản tiền gửi của quỹ BHXH tại ngân hàng hay kho bạc Nhà nước được

hưởng lãi suất theo quy định của ngân hàng và kho bạc Nhà nước.

Để đảm bảo thu đúng thời hạn BHXH Việt Nam có quy định kể từ ngày hạn nộp

trong vòng 30 ngày người tham gia BHXH phải nộp BHXH. Khoảng thời gian 30

ngày này là khoảng thời gian ân hạn, nếu quá thời gian ân hạn mà chưa chuyển

tiền thì được coi là vi phạm pháp luật BHXH và sẽ bị sử phạt. Hiện nay có những

trường hợp vi phạm sau đây:

- Nợ ( Chậm đóng BHXH): Đây là trường hợp vi phạm mà người tham gia

BHXH tính đến thời điểm quy định vẫn chưa đóng BHXH. Nợ được chia làm ba

loại:

+ Nợ gối đầu: là trường hợp nợ mà số tiền nợ nhỏ hơn số tiền đóng BHXH bình

quân một tháng.

+ Nợ chậm đóng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng BHXH bình

quân một tháng và nhỏ hơn số tiền đóng BHXH bình quân ba tháng.

+ Nợ đọng: là trường hợp mà số tiền nợ lớn hơn số tiền đóng BHXH bình quân ba

tháng.

Hiện nay có một số biện pháp thực hiện nhằm kiểm soát, đôn đốc người tham gia

BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình như sau:

Cơ quan BHXH phải tăng cường xuống tận đơn vị sử dụng lao động để nhắc nhở.

Nhắc nhở bằng văn bản.

Nếu sau một thời gian người tham gia BHXH có biểu hiện chậm nộp thường

xuyên hoặc khi có nợ tồn đọng phát sinh cơ quan BHXH sẽ có biện pháp sử lí

nghiêm khắc hơn và quyết định sử phạt theo luật định.

- Trốn đóng BHXH: đây là trường hợp tương đối phổ biến thường xuất hiện

dưới nhiều hình thức khác nhau như: khai giảm số lượng lao động, khai giảm thu

nhập của người lao động.

Truy thu và sử phạt là hai hình thức được cơ quan BHXH áp dụng nhiều nhất hiện

nay. Truy thu đảm bảo cho pháp luật BHXH được tuân thủ, cụ thể là cơ quan

BHXH được phép yêu cầu kho bạc hoặc ngân hàng trích chuyển từ tài khoản của

người sử dụng lao động sang tài khoản chuyên thu của BHXH bao gồm cả tiền lãi

mà không cần sự chấp thuận thanh toán của người sử dụng lao động. Xử phạt được

BHXH thực hiện và xác định theo tỉ lệ % so với tiền đóng BHXH hàng tháng dựa

trên cơ sở tích luỹ. Nhìn chung các chế tài sử phạt của Việt Nam hiện nay chưa

thực sự nghiêm khắc, mới chỉ mang tính hành chính chưa đủ để ngăn chặn hành vi

vi phạm trên. Kết quả thu BHXH qua mười năm từ năm 1995- 2004 được thực

hiện ở bảng 2.

Như vậy số thu của BHXH những năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể, số

thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Có thể thấy, ngay sau khi đổi mới BHXH

Việt Nam đã đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả. Như trong bảng 2 thì số thu

có tỉ lệ tăng hầu hết trong các năm là hai con số, đặc biệt là năm 2003 có số thu

tăng rất cao do BHYT chính thức sát nhập vào BHXH. Và BHXH thực hiện thu cả

phí BHYT của các lao động tham gia BHXH như vậy thực sự thuận tiện cho cả

bên thu lẫn bên nộp. BHXH Việt Nam sau đổi mới đã chuyển từ đơn vị không có

thu (thu không đáng kể) chuyển sang đơn vị có thu. Trong mười năm thực hiện, số

thu năm 2004 là 13.168.500 triệu đồng so với 788.486 triệu đồng của năm 1995.

Như vậy chỉ trong mười năm mà số thu đã tăng lên gần 20 lần, đây là con số quả

không nhỏ đặc biệt là so với số tăng gần 3 lần của số người tham gia. Việc tốc độ

tăng thu BHXH lớn hơn tốc độ tăng của người tham gia cho chúng ta thấy phần

lớn việc tăng quỹ là do tăng mức đóng góp trên đầu người. Vấn đề tăng thu làm

tăng quỹ, từ đó giảm gánh nặng của NSNN, tăng nguồn quỹ nhàn rỗi để tăng đầu

tư cung cấp cho thị trường vốn thông qua hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Việc

này không những góp phần phát triển quỹ mà còn đóng góp vào sự phát triển của

xã hội.

Bên cạnh đó tình trạng trốn đóng của BHXH Việt Nam không phải là ít. Đặc biệt

là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị kinh tế nhỏ lẻ sử dụng ít lao

động thường xuyên trốn đóng. Tình trạng nợ đọng kéo dại ở một số địa phương,

một số đơn vị sử dụng lao dộng vẫn còn. Theo báo cáo, tính đến ngày 3/9/1999,

tổng số nợ đọng trên cả nước lên tới 418.144 triệu đồng (bình quân số nợ này

tương đương với việc các đơn vị sử dụng lao động trong toàn quốc đóng chậm

BHXH 1,6 tháng). Như vậy tình hình nợ đọng hiện nay là rất lớn. Đến những năm

gần đây tình trạng nợ đọng BHXH trong công tác thu được phần nào cải thiện tình

hình. Hàng năm số đơn vị lao động tiếp tục tham gia BHXH tại các địa phương

ngày càng gia tăng. Năm 2003 trên toàn quốc có 17.437 đơn vị và 474.887 người

tham gia. Đặc biệt trong năm 2003, số nợ của BHXH của các đơn vị đã giảm rõ

rệt. Nếu so với số thu như thời kì trước thì số nợ chậm đóng chỉ bằng 0,49 tháng

bình quân tiền thu BHXH ( tương đương với số thu bình quân trong 15 ngày).

Trong đó số nợ chậm đóng của năm 2002 tương đương với 0,78 tháng bình quân

tiền thu BHXH. Theo các báo cáo thì số nợ chậm đóng của năm 2003 chủ yếu là

của các doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại hoặc doanh nghiệp

bị phá sản hay giải thể.

2. Quản lí chi BHXH.

2.1. Chi các chế độ BHXH.

Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH hiện nay được phân loại theo nhiều tiêu thức

khác nhau, tuy vào các góc độ mà người ta có thể xem xét các vấn đề dưới nhiều

góc độ khác nhau. Có bốn cách phân loại chi trợ cấp BHXH như sau:

- Chi trợ cấp định kì thường xuyên và trợ cấp một lần.

- Phương thức thanh toán trợ cấp bằng tiền hay hiện vật.

- Nguồn chi từ NSNN hay từ quỹ BHXH.

- Chi theo trợ cấp ngắn hạn hay dài hạn.

Hiện nay BHXH Việt Nam đang thực hiện chi cho các chế độ sau:

+ Trợ cấp ốm đau.

+ Trợ cấp thai sản.

+ Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

+ Trợ cấp hưu trí.

+ Trợ cấp tử tuất.

+ Chi dưỡng sức phục hồi sức khoẻ.

Để quản lí chi trợ cấp cho các chế độ của BHXH Việt Nam cần chú ý đến những

nội dung sau đây:

2.1.1. Phân cấp chi trả.

Cũng như quản lí thu, quản lí chi cũng theo phân cấp theo đó cơ quan BHXh cấp

tỉnh, huyện có trách nhiệm thực hiện kịp thời đầy đủ cho các đối tượng hưởng

BHXH kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và đúng chế độ chính sách. Theo quy định

cơ quan BHXH cấp tỉnh chỉ chịu trách nhiệm chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản và

trợ cấp một lần cho các đối tượng hưởng mà đơn vị sử dụng mà cơ quan BHXH

cấp tỉnh đã thu đóng góp. Cơ quan BHXH cấp huyện chi trả trợ cấp ốm đau, thai

sản và các trợ cấp một lần cho các đơn vị sử dụng lao động mà cơ quan BHXH

cấp huyện đã thu đóng góp. BHXH huyện cũng chi trợ cấp định kì liên quan đến

các chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu tuổi già, tử tuất cho các đối

tượng trên địa bàn quản lí và chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường thị trấn đã tham

gia BHXH. Như vậy là đã có sự phân cấp cụ thể cho từng cấp quản lí, ngoài ra để

thực hiện quản lí việc chi trả trợ cấp cơ quan BHXH các cấp còn phải lập các báo

cáo và tổng hợp các khoản chi trợ cấp để nộp lên cơ quan BHXH cấp trên theo

định kì. Dựa vào các báo cáo này mà cơ quan BHXH cấp trên sẽ thực hiện thẩm

định, xét duyệt chi trợ cấp BHXH theo đúng quy định hiện hành.

2.1.2. Phương thức chi trả.

Như chúng ta đã biết việc chi trả trợ cấp hiện nay có hai phương thức chính để chi

trả, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, tuỳ thuộc vào

hoàn cảnh mà chúng ta nên lựa chọn cho phủ hợp. Tại Việt Nam hiện nay phương

thức chi trả gián tiếp thông qua hệ thốnh đại lí chi trả là phổ biến nhất. Hệ thống

đại lí chi trả hầu hết là quan hệ dựa trên hợp đồng lao động và thường là chính

người sử dụng lao động, cán bộ xã phường, bưu điện hoặc ngân hàng. Thường các

đại lí chi trả là người sử dụng lao động được BHXH Việt Nam sử dụng cho việc

chi trả cho các trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp... rất tiện

lợi. Các đại lí còn lại phù hợp hơn với các chế độ dài hạn. Với điều kiện như hiện

nay của Việt Nam thì phương thức chi trả như vậy là hợp lí, chi phí thấp, tiện lợi

đối với người được hưởng trợ cấp.

Cùng với sự phát triển của nước ta như hiện nay BHXH cũng cần nghiên cứu và

xem xét tới các phương thức thanh toán khác như chi trả gián tiếp qua hệ thống tài

khoản ngân hàng. Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng như hiện nay thì tại

các thành phố có thể nghiên cứu và ứng dụng chó phương pháp chi trả hiện đại

này. Ưu điểm lớn nhất của phương thức này là nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.

2.1.3. Quản lí đối tượng được hưởng và số tiền chi trả.

Quản lí chi trả trợ cấp BHXH yêu cầu cơ quan BHXH quản lí đối tượng được

hưởng theo từng loại chế độ, tình hình biến động tăng giảm và kiểm tra xác định

đúng đối tượng hưởng, quản lí số tiền chi trả theo từng kì thanh toán và đảm bảo

an toàn nguồn tiền mặt trong suốt quá trình chi trả.

- Quản lí người phụ thuộc: ngay từ khi thực hiện việc đăng kí tham gia

BHXH và ghi hồ sơ, phải cập nhật các thông tin chính xác về đối tượng phụ thuộc

đủ điều kiện hưởng trợ cấp.

- Lập báo cáo thống kê định kì về đối tưọng hưởng BHXH riêng cho từng

loại trợ cấp định kì hay một lần, chi tiết theo từng loại chế độ và tách riêng theo

từng đối tượng hưởng từ NSNN hay từ quỹ BHXH.

- Thiết kế, cải tiến và sửa đổi thủ tục xét hưởng trợ cấp đảm bảo đơn giảm,

khoa học nhưng vẫn nhanh chóng và chính xác. Kiểm tra kĩ các điều kiện hưởng

BHXH dựa vào các quy định về điều kiện hưởng cán bộ sẽ xem xét tư cách được

hưởng của đối tượng và nhanh chóng ra quyết định từ chối hay chấp nhận trợ cấp.

Để đảm bảo công việc trên được thực hiện nhanh chóng và chính xác yêu cầu cán

bộ xét hưởng phải có trình độ và đạo đức tốt và nhận thức rõ được tầm quan trọng

của công việc.

- Thu hồi số tiền chi sai nếu có căn cứ chính xác, xác định việc giả mạo hồ sơ

giấy tờ để được hưởng trợ cấp BHXH. Khi đó cơ quan BHXH phải ngừng ngay

việc thực hiện chi trợ cấp và nhanh chónh thu hồi số tiền đã chi sai về đồng thời

nhanh chóng có biện pháp xử lí thích đáng.

Kết quả chi BHXH Việt Nam thực hiện sau đổi mới 1995 được thể hiện ở bảng số

liệu 3.

Qua bảng 3 ta có thể nhận thấy BHXH Việt Nam số chi ngày càng tăng đặc biệt là

từ năm 2003 khi chi BHYT được tính vào chi BHXH. Tình hình chi của BHXH

Việt Nam có nhiều phức tạp vì những người về hưu trước năm 1995 còn hưởng

các chế độ do NSNN cấp, quỹ BHXH chỉ chi trợ cấp cho các lao động về hưu sau

1995. Đặc biệt năm 2002 BHYT chính thức chuyển sang BHXH nên chi còn bao

gồm cả mảng BHYT. Tỉ trọng chi từ nguồn ngân sách giảm, chi từ quỹ BHXH

tăng đều, điều này cũng phù hợp với thực tiễn đối tượng chi trả của NSNN theo

thời gian giảm dần, các đối tượng chi trả của quỹ BHXH ngày càng tăng. Theo

tình hình như hiện nay thì chi từ NSNN sẽ giảm và theo dự tính 2050 thì các đối

tượng này sẽ giảm hết và chi từ quỹ BHXH sẽ chiếm 100%, lúc đó NSNN chỉ

đóng vài trò hỗ trợ trong trường hợp cần thiết.

Năm 2004, toàn ngành giải quyết cho 93.289 người hưởng trợ cấp định kì, trong

đó có 70.000 người hưởng chế độ hưu trí và giải quyết cho 159.989 lượt người

hưởng trợ cấp một lần tăng 20.7% so với năm 2003. Khó khăn trong công tác này

là sau khi nghỉ lao động nhiều người đã chuyển đến nơi khác vậy nên việc giải

quyết các trợ cấp một lần là còn nhiều tồn đọng.

2.2. Chi quản lí hoạt động bộ máy.

Theo quy chế tài chính hiện nay có quy định chi quản lí hoạt động của hệ thống

BHXH Việt Nam được chia làm hai phần chính là chi thường xuyên và kinh phí

mua sắm tài sản có định, xây dựng cơ sở vật chất. Chi thường xuyên là khoản chi

bao gồm cả chi phí nghiên cứu khoa học, đào tạo và đào tạo lại. Khoản chi này

được trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ,

mức trích bằng 4% trên số thực thu của BHXH và BHYT được áp dụng đến năm

2005. Chi xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định là khoản chi được

trích từ tiền sinh lời do thực hiện các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ.

Chi phí quản lí của hệ thống BHXH Việt Nam do Hội đồng quản lí quyết định trên

cơ sở định mức, tiêu chuẩn hiện hành của Nhà nước Việt Nam và hoạt động đặc

thu của ngàn, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả. BHXH Việt Nam có trách

nhiệm phân bổ chi phí quản lí cho BHXH các cấp phù hợp với nhiệm vụ được

giao, đảm bảo kinh phí phân bổ cho BHXH các cấp không được vượt quá so với

tổng mức.

Nội dung quản lí chi hoạt động thường xuyên tập chung vào các nội dung cụ thể

sau:

+ Quản lí lao động và quỹ lương đối với các đơn vị, cơ quan BHXH.

+ Quản lí chi cho công tác tuyên truyền về chính sách BHXH.

+ Quản lí chi hoạt động nghiệp vụ: chi cho công tác thu, chi BHXH; chi tiếp

khách.

+ Quản lí kinh phí cấp cho đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên.

+ Quản lí chi cho các chuyến công tác.

+ Ngoài ra BHXH Việt Nam còn thực hiện quản lí chi hỗ trợ đời sống cho cán bộ,

chi hỏi thăm các đối tượng được hưởng các chế độ.

Chi hoạt động được BHXH Việt Nam cân đối góp phần ổn định cuộc sống của đội

ngũ nhân viên trong ngành, cải thiện trang thiết bị làm việc giúp cho việc quản lí

các đối tượng, lưu trữ thông tin, ... tốt hơn. Đặc biệt là việc nâng cấp hệ thống cơ

sở hạ tầng của BHXH như trụ sở BHXH Việt Nam, trụ sở BHXH ở cả các tỉnh và

huyện đã được nâng cấp, xây mới và đang dần hoàn thiện đồng bộ. Các khoản chi

là đúng với quy định của Nhà nước. Sau đây là những số liệu về chi quản lí trong

một vài năm qua:

Bảng 4: Tình hình chi quản lí BHXH Việt Nam giai đoạn 2001-2004.

Năm 2001 2002 2003 2004

Tổng chi (triệu đồng) 238.092

Tốc độ tăng chi (%) ----- 17,28 104,97

(Nguồn BHXH Việt Nam)

Qua bảng 4 ta có thể nhận thấy số chi quản lí của BHXH Việt Nam ngày càng tăng

đặc biệt là số chi của năm 2003 tăng gần gấp đôi số chi của năm 2002. Song số chi

của năm 2004 đã giảm so với năm 2004, như vậy là BHXH đã có những điều

chỉnh kịp thời tránh được tình trạng bội chi quá lớn.

3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.

Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở tại ngân hàng

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc Nhà nước. Theo

quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để đầu tư tăng trưởng

nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là một hoạt động hữu hiệu

để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa đây cũng là một nguồn thu rất

lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo

được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm

1996 hoạt động đầu tư mới chỉ dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định

hưởng lãi suất không kì hạn thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng

trưởng quỹ đã được mở rộng, hiện nay hoạt động này gồm có:

+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân

hàng thương mại của Nhà nước.

+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà

nước, ngân hàng chính sách vay.

+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực hiện ở BHXH

Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước đầu đã đem lại những

hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động này do Ban kế hoạch- tài

chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số tiền lãi đã có những đóng góp

đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng,

phúc lợi ... . Hoạt động đầu tư được tiến hành quản lí để đảm bảo được hoạt động

theo đúng danh mục, quản lí quá trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những

phương án khả thi và có hệu quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt

Nam qua những năm vừa qua được thể hiện ở bảng 5.

Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu tư tăng

trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm hoạt động có số

lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu tư đang tăng dần, đặc

biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302 triệu đồng. Như vậy, đầu tư

chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu BHXH và đặc biệt trong những năm tới

chắc chắn vai trò của hoạt động đầu tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ

tăng trưởng lãi đầu tư của BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ

40%. Riêng có năm 2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong

nước có nhiều biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến

động mạnh. Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì

trường tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi

suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư của

BHXH Việt Nam sẽ cao hơn.

3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH.

Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới chính thức đi vào

hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN. BHXH là một

chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt

động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí

(tthu bù chi). Để quản lí tốt việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt

các hoạt động thu, chi BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí

thuyết là như vậy song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc

trưng của ngành này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định

chính xác ngay khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện

kinh tế xã hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà

chúng ta không thể điều kiển được.

Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên tắc tài chính

PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm sẽ dùng để chi trả

cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài chính BHXH theo cơ

chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các khoản tích luỹ cho các giai đoạn

sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ chế quản lí tài chính này, chu kì thực

hiện được chia làm 3 giai đoạn sau:

- Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp dụng

cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn này chưa

có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số người phụ thuộc ít, tỉ

lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp.

- Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở Việt

Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về hưu tăng, tỉ lệ

phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể dùng hai cách hoặc

giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp.

- Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế độ

PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ lệ phụ

thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên.

Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu chuyển sang

giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm). Dự tính, quỹ BHXH

Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ

tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện nay thì đối tượng tham gia BHXH

đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người, đến năm 2030 là 22,4 triệu người và

năm 2040 là khoảng 31 triệu người. Tương đương với đó, số dư dự kiến của

BHXH Việt Nam vào năm 2022 là khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và

đến năm 2036 dự kiến sẽ âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang

tồn dư lớn, BHXH Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch

định chính sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa.

Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng có nhiều

nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người lao động và

ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở nước ta, chúng ta

có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế quản lí tài chính sang cơ

chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu tư để giảm những hạn chế của

cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc làm rất quan trọng đối với việc cân đối

quỹ BHXH cả hiện nay và trong tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá

trị quỹ và giúp chúng tăng trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm

phát. Chúng ta có thể thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được

thực hiện trong những năm qua:

Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của BHXH Việt

Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng ta đang rất lớn vì

tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn từ NSNN. Qua đó ta

nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ cần

phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên đều đặn, số dư tính đến tháng

12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là con số rất lớn so với năm 1995. Tốc

độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng

cao. Hơn nữa như chúng ta biết BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ

chế PAYGO nên việc số dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là

cần có những biện pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ

quản lí tài chính này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện

nay có lẽ chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức

cao nhất theo dự báo.

III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.

1. Những kết quả đạt được.

1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính BHXH:

Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về BHXH quy

định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động của ngành nói

chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền tảng, là định hướng

quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Hơn nữa trong quá trình

hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam luôn được sửa đổi bổ xung cho

phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam

ngày càng phát triển với số người tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có

2.275.998 người tham gia BHXH thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham

gia đã lên tới 6.344.508 người (tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là

hoàn toàn phù hợp và phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong

kết quả đạt được trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập

đến khía cạnh quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.

1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.

Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không có thu, nguồn

chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay BHXH đã hình thành

nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai đối tượng là người lao

động và người sử dụng lao động với quy định trích nộp theo % lương của người

lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt động thu chi được thực hiện tương

đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo

ba cấp, thu bằng chuyển khoản, thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp

với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực

tế, mức lương tối thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho

người lao động. Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước

trên thế giới thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH

hiện nay luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ

trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát triển

quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành BHXH,

đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.

1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống tài

khoản thu BHXH Việt Nam.

Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ thống

BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp này hoạt

động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc thực hiện thu

chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh nghiệp vào tài khoản

thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa đảm bảo tính an toàn, chính xác

lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số

thu của BHXH Việt Nam năm sau luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ

đóng, trốn đóng, chậm đóng. Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng

kế hoạch quản lí, bảo tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của

quỹ BHXH.

1.4 . Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo tính

chính xác.

Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước đang thực hiện

tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt các hồ sơ hưởng các

loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng, đơn giảm nhưng vẫn hiệu

quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng từ 1/1/2005 theo quy trình xét

duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình

tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực

hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống

đại lí là chủ sử dụng lao động đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với

các chế độ dài hạn. Việc chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động

đảm bảo cuộc sống của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng

cao, dần thay thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT

sang BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản

lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia BHYT.

Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí

BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác.

1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược điểm

của cơ chế quản lí PAYGO.

Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.

Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng không những làm tăng

thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư

chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng

đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số

giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải

quy định lại mức lương tối thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và

tăng trưởng quỹ thì sự bù thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là

không có. Hơn nữa, hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt

kinh tế mà cả về mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều

lao động thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội ... . Việc đầu tư đã được thực hiện

theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng trưởng

quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.

2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.

2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn đóng,

nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.

Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn song số người

tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình trạng trốn tham gia

BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, những

công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa và nhỏ là tương đối cao. Thứ

nhất là tình trạng khai giảm, khai thiếu số lao động trong doanh nghiêp, trường

hợp thứ hai là không tham gia hoàn toàn. Tồn tại tình trạng trên một phần do sự

thiếu tích cực của chủ sử dụng lao động, một phần do sự quản lí chưa chặt của cơ

quan ban ngành có liên quan. Chưa có sự phối kết hợp cần thiết giữa các đơn vị

quản lí, bên cạnh đó các chế tài pháp luật cũng chưa có những biện pháp sử phạt

nghiêm minh đối với tình trạng này.

Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí BHXH vẫn diễn ra tình trạng khai

giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng . Đặc biệt hơn là tình trạng nợ

đọng, nợ chậm đóng còn nhiều. Tình trạng trên còn tồn tại là do cơ quan BHXH

Việt Nam chưa có những biện pháp quản lí hữu hiệu, các quy định về xử phạt là

chưa thực sự nghiêm khắc.

2.2. Trong công tác chi trả BHXH Việt Nam còn nhiều hiện tượng sai sót trong

xét duyệt, tình trạng tồn đọng trong giải quyết chế độ vẫn tồn tại.

Qua việc kiểm tra các hồ sơ xét hưởng BHXH Việt Nam còn phát hiện những

trường hợp xét duyệt sai, như xét duyệt không đúng chế độ, chính sách, tính toán

sai, thiếu giấy tờ,... . Trong những năm qua BHXH Việt Nam thông qua công tác

thẩm định đẫ trả lại không ít hồ sơ để BHXH tỉnh bổ xung, hoàn chỉnh lại. Có tình

trạng này là do công tác đào tạo, hướng dẫn nâng cao nghiệp vụ chưa được quan

tâm đúng mức.

Tình trạng tồn đọng trong giải quyết các chế độ còn phổ biến, tức là các đối tượng

đặc biệt là các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần sau khi nghỉ việc đã chuyển

đến nơi khác gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác chi trả. Đây là những hạn chế

do nguyên nhân khách quan, hiện nay đang được khắc phục bằng cách đưa những

thông tin đó lên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương để đối tượng

được hưởng chế độ được biết.

2.3. Công tác đầu tư bảo tồn và phát triển quỹ tuy đã có thu nhưng còn hạn chế lợi

nhuận từ đầu tư còn rất nhỏ.

Vấn đề ở đây là hiệu quả đồng vốn bỏ ra là chưa cao, lí do chủ yếu các hoạt động

đầu tư còn theo chỉ định của Chính phủ. Các quy định về hạng mục đầu tư còn hạn

hẹp, hình thức đầu tư đơn điệu. Các ngân hàng được phép vay mới chỉ bó hẹp

trong các ngân hàng Nhà nước: NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, NH

Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và Phát triển. Trong quản lí đầu tư

BHXH Việt Nam chưa có sự phân định trách nhiệm rõ ràng, chưa có bộ phận

chuyên môn quản lí nghiệp vụ này mà chỉ mới giao cho Ban Kế hoạch- tài chính

đảm nhiệm.

Hoạt động đầu tư hiện nay vẫn hoàn toàn thụ động, chưa tiếp cận được với những

dự án lớn, lợi nhuận cao. Hiện nay lãi suất trung bình là rất thấp, nếu cứ như hiện

nay thì các biện pháp đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ chưa đủ để khác phục sự

mất cân đối lâu dài của quỹ BHXH trong tương lai. Tình hình tài chính khu vực

mới ổn định trở lại sau khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997, nền kinh tế nước

ta còn kém khả năng hấp thụ vốn đầu tư. Bên cạnh đó thị trường tài chính Việt

Nam chưa thực sự ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối cao. Nhà nước hiện nay

đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi thấp.

Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam

trong thời kì tới

I. Những quan điểm chủ yếu về vấn đề quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong

giai đoạn tới.

1. Quan điểm trong xây dựng chính sách BHXH.

Trong quá trình xây dựng chính sách BHXH phải thực sự quan tâm tới đường lối,

điều kiện kinh tế của đất nước để từ đó đưa ra được những chính sách phù hợp.

Sau đây là những quan điểm chủ yếu trong xây dựng chính sách BHXH Việt Nam:

- Chính sách BHXH phải thể hiện được đường lối đổi mới, phát triển của

Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước.

- Chính sách BHXH phải phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước ta

hiện nay.

- Nhà nước thống nhất quản lí và ban hành chính sách BHXH theo hướng

phát huy quyền của các bên tham gia BHXH.

- Đa dạng hoá các hình thức BHXH.

- Hoàn thiện cơ chế hoạt động và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách

BHXH cho phù hợp với điều kiện của đất nước.

2. Những quan điểm cụ thể trong công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam

trong giai đoạn tới.

- Quỹ BHXH hình thành nên từ những đóng góp của các bên than gia, trong

đó gồm người lao động và cả chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó có sự hỗ trợ của

NSNN, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ và các nguồn thu hợp

pháp khác.

- Quỹ BHXH được quản lí tập trung, thống nhất, dân chủ và công khai trong

toàn hệ thống BHXH Việt Nam; hoạch toán theo quỹ thành phần độc lập với

NSNN và được Nhà nước bảo hộ.

- Quỹ BHXH đảm bảo cho các đối tượng hưởng chế độ sau ngày 1/10/1995

(trước ngày này do NSNN đảm bảo); chi BHYT cho các đối tượng tham gia

BHYT; chi quản lí bộ máy của hệ thống BHXH Việt Nam; chi xây dựng cơ bản và

các khoản chi khác.

BHXH có trách nhiệm dùng quỹ nhàn rỗi để đầu tư an toàn, bảo toàn được -

giá trị quỹ và có hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội.

Quỹ BHXH được hoạch toán riêng và cân đối thu chi theo từng năm. -

II. Giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động quản lí tài chính BHXH

trong gian đoạn tới.

1. Bài học kinh nghiệm từ hệ thống BHXH CHLB Đức và Trung Quốc.

Qua tìm hiểu về tổ chức quản lí và hoạt động tài chính của hai hệ thống BHXH

trên ta nhận thấy một số những ưu điểm như khắc phục được sự ảnh hưởng từ môi

trường kinh tế. Đặc biệt là hệ thống BHXH của CHLB Đức hiện nay đang thực

hiện theo phương thức hàng năm sẽ thống kê ra số chi, trên cơ sở số liệu đó tính

toán số thu hợp lí cho năm đó. Thực hiện như vậy lạm phát không thể ảnh hưởng

tới quỹ BHXH cũng như việc chi trả các chế độ chính sách. Vì vậy, BHXH sẽ chủ

động hơn trong việc quản lí tài chính. Hiện nay dự trữ quỹ BHXH là rất nhỏ chứng

tỏ quỹ BHXH đảm bảo được khả năng chi trả một cách tương đối ổn định. Tuy

vậy việc triển khai thực hiện phương thức này đòi hỏi phải có những điều kiện

nhất định. Thường là ở những nước phát triển, có tiềm năng kinh tế đủ mạnh thì

mới có thể áp dụng được phương pháp này. Việc triển khai phương thức này tại

Việt Nam là tương đối khó khăn, việc thống kê là rất khó chính xác, chi phí lớn.

Hơn nữa điều kiện kinh tế nước ta là nước đang phát triển, điều kiện kinh tế còn

nhiều khó khăn. Tuy vậy BHXH CHLB Đức hiện nay được tổ chức thực hiện

thông qua cả tổ chức BHXH tư nhân, như vậy sẽ có sự cạnh tranh và tất yếu của

cạnh tranh là hiệu quả hoạt động càng cao. Từ hoạt động của BHXH CHLB Đức

có thể đưa việc triển khai việc thực hiện một số chính sách thông qua hệ thống

BHXH tư nhân là khả thi tại BHXH Việt Nam.

Đối với hệ thống BHXH Trung Quốc, đây là hệ thống BHXH được tổ chức như

một hệ thống mở, các chính sách được cụ thể hóa và thực hiện chưa thực sự thống

nhất trong cả nước song tính hiệu lực tương đối cao. Đây cũng là một điểm mạnh

mà BHXH Việt Nam cần xem xét vì hiện nay tính hiệu lực trong các quy định của

nước ta là chưa cao. Các đối tượng bắt buộc tham gia của BHXH Việt Nam thực

hiện chưa đầy đủ, việc trốn đóng hay nợ đọng vẫn là những vấn đề còn tồn tại.

Bên cạnh đó, việc tổ chức quỹ thành hai phần: phần thứ nhất là một phần phí do

người sử dụng lao động nộp để sử dụng chung, phần thứ hai bao gồm phần phí do

người lao động nộp và phần còn lại do người sử dụng nôp. Phần thứ hai này được

tổ chức thành tài khoản cho người lao động, họ có thể chủ động hơn trong các kế

hoạch tài chính của mình.

2. Những giải pháp cụ thể.

2.1. Giải pháp cho công tác quản lí thu BHXH.

Quản lí đối tượng tham gia và đóng góp đầy đủ, chính xác, đúng thời hạn là mục

tiêu của chính sách quản lí thu. Để thực hiện tốt công tác quản lí thu BHXH, cần

thực hiện áp dụng những biện pháp sau:

- Cần tích cực phối kết hợp với các ban ngành quản lí từ Trung ương đến địa

phương, trước tiên là quản lí tốt các đơn vị bắt buộc tham gia BHXH, sau đó ta

mới quản lí đến lao động trong đơn vị đó. Một thực tế hiện nay là còn rất nhiều

đơn vị nhỏ chưa thực hiện tham gia BHXH cho những lao động của đơn vị mình.

Muốn thực hiện tốt công việc này chúng ta có thể thông qua những đơn vị, cơ

quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động như: Sở kế hoạch và

đầu tư, cơ quan quản lí, cục thế,... . Như vậy ngay khi thành lập các đơn vị này

phải tham gia thực hiện ngay từ đầu và trong quá trình hoạt động sau này BHXH

Việt Nam sẽ dễ dàng quản lí hơn.

- Trên cơ sở quản lí các đối tượng tham gia, BHXH Việt Nam có thể thực

hiện phân loại các đơn vị sử dụng lao động để dễ dàng trong công tác kiểm tra

theo dõi việc thực hiện chính sách BHXH. Chúng ta có thể phân loại các đơn vị

như sau: khối hành chính sự nghiệp, khối doanh nghiệp Nhà nước, khối doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các đơn vị

khác (cán bộ xã phường, các tổ chức, ....). Việc phân loại trên giúp cho BHXH

Việt Nam dễ dàng hơn trong việc quản lí các đối tượng, có thể phân công cán bộ

hợp lí hơn.

- Thứ hai là công tác cấp sổ cho người lao động để theo dõi quá trình tham

gia và đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Hiện nay công tác này thực hiện tương

đối tốt, song cần đưa những ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lí hoạt động

này. Công nghệ mới này sẽ thay thế các phương pháp thủ công trong việc cập nhật

những thay đổi về của đối tượng tham gia BHXH. Công việc này có thể giúp giảm

chi phí mà tính chính xác lại cao, đây cũng là lĩnh vực được ưu tiên áp dụng công

nghệ trong quản lí sớm nhất. Cần tích cực hơn nữa trong việc nghiên cứu ứng

dụng công nghệ cho công tác quản lí thu phù hợp với từng loại đối tượng, từng địa

phương. Đây là hướng đi lâu dài, đảm bảo thực hiện nhanh chóng, chính xác và

tiết kiệm được chi phí quản lí.

- Bên cạnh những biện pháp quản lí trên chúng ta cũng cần đẩy mạnh công

tác giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thông qua các phương tiện thông tin

đại chúng. Qua đó họ có thể nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của

việc tham gia BHXH. Có thể từ đó ngay chính người chủ sử dụng cũng nhận thức

được lợi ích của việc tham gia BHXH và họ sẽ tự nguyện thực hiện mà không cần

có những biện pháp cưỡng chế. Đối với nội dung tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ tiếp

thu, gần gũi với đời sống của người lao động, phù hợp với truyền thống dân tộc.

- Trong công tác thu cần đẩy mạnh việc kiểm tra đôn đốc việc thực hiện thu

nộp đối với những đơn vị chậm đóng hay nợ đọng thường xuyên. Đặc biệt là phối

hợp chặt chẽ với các bên như thanh tra, tổ chức chính trị xã hội ( Liên đoàn lao

động, tổ chức Đảng, Đoàn thể,...) để kiểm tra việc kê khai lao động, kê khai quỹ

lương của doanh nghiệp. Ngoài ra cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh

đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay các biện pháp xử phạt của chúng ta chỉ

mang tính chất cảnh cao, chưa đủ nghiêm khắc để điều chỉnh hành vi chốn nộp

hay nợ đọng. Bên cạnh những quy định xử phạt, BHXH cũng nên thường xuyên

thông báo cho các đơn vị số nợ l•nh đạo các đơn vị tham gia BHXH được biết.

- Trong bản thân ngành cũng cần có những biện pháp quản lí tốt đối với cán

bộ thu, tránh tình trạng cán bộ BHXH thông đồng với các đơn vị tham gia BHXH.

Đối với các trường hợp vi phạm cần có những biện pháp xử phạt nghiêm minh.

Bên cạnh đó BHXH cũng cần có những chế độ khen thưởng khuyến khích đối với

các cá nhân đơn vị thực hiện tốt gồm cả các đơn vị tham gia BHXH lẫn các cá

nhân, đơn vị trong ngành.

2.2. Giải pháp cho công tác quản lí chi các chế độ BHXH.

Mục tiêu của công tác quản lí chi chế độ là chi đúng, kịp thời đảm bảo an toàn

tránh thất thoát quỹ BHXH. Chi cho các chế độ được quy định rõ cho từng loại

chế độ với mức hưởng, thời gian hưởng trong các văn bản. Sau đây tôi chỉ xin đưa

ra một số biện pháp để quản lí các khoản chi chế độ mà không đị sâu vào các quy

định hưởng của từng loại chế độ. Để quản lí chi cần thực hiện tốt các giải pháp sau

đây:

- Xây dựng một quy trình xét duyệt hồ sơ đơn giản nhanh chóng nhưng phải

đảm bảo chính xác, đúng chế độ, đúng đối tượng và đúng mức trợ cấp. Quy trình

xét duyệt hồ sơ được thực hiện thông qua ba cấp: đơn vị sử dụng lao động hướng

dẫn người lao động lập hồ sơ, BHXH cấp tỉnh sẽ thực hiện kiểm tra và ra quyết

định mức hưởng cho người lao động, BHXH Việt Nam thẩm định tính chính xác

của quyết định trên. Muốn thực hiện được như vậy trước tiên chúng ta phải có

những cán bộ xét duyệt được đào tạo và có năng lực, trình độ và phải có đạo đức

nghề nghiệp, tránh tình trạng thông đồng. Phải thực hiện việc đào tạo các cán bộ

chuyên trách của đơn vị tham gia BHXH về thủ tục và các giấy tờ cần thiết để họ

hướng dẫn lại cho các đối tượng được hưởng của đơn vị mình, tránh tình trạng

thiếu giấy tờ cần thiết trong hồ sơ. Phải phối hợp với các cơ quan đơn vị khác để

kiểm tra tính hợp pháp của các hồ sơ hưởng như: bên bệnh viện, cảnh sát, toà án,

... .

- Cần tích cực kiểm tra và rà soát lại các hồ sơ đã xét duyệt, nếu phát hiện ra

những vi phạm phải lập tức điều chỉnh hoặc dừng việc trợ cấp lại ngay. Và việc

kiểm tra này phải được thực hiện định kì, nếu có sai sót mà BHXH tỉnh không thu

hồi lại được thì phải có trách nhiệm bội thường cho quỹ. Đặc biệt nếu phát hiện ra

cán bộ BHXH có thông đồng với người được hưởng trợ cấp thì phải xử phạt

nghiêm minh.

- Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi được

thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện nay, đối với

các chế độ ngắn hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối với các chế độ dài

hạn chủ yếu là các cán bộ xã phường là phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.

Tuy vậy cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng hiện nay thì chúng ta có

thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra thông qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là

định hướng tốt bởi nếu thực hiện được thì chi phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí

quản lí lại vừa đảm bảo tính an toàn.

2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí.

Như chúng ta đã biết chi quản lí hiện nay có hai khoản chi lớn đó là chi hoạt động

thường xuyên của bộ máy quản lí và chi đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với khoản

chi thường xuyên của bộ máy quán lí cần áp dụng những biện pháp sau để tiết

kiệm chi phí quản lí mà vẫn đảm bảo được hiệu quả hoạt động của hệ thống

BHXH:

- Thứ nhất là cần phải ngiên cứu xem xét các khoản chi cho hợp lí cân đối

với các ngành khác. Vì hiện nay BHXH vẫn thực hiện quản lí lao động dưới hình

thức biên chế như các đơn vị hành chính khác, mức lương vẫn tính trên cơ sở bảng

lương Nhà nước.

- Cũng giống như các đơn vị hành chính khác BHXH vẫn còn bộ máy quản lí

tương đối cồng kềnh. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sắp xếp lại bộ máy quản

lí, tuyển dụng những lao động được đào tạo chính quy, có năng lực, có trình độ và

đặc biệt có đạo đức. Tránh tình trạng số lao động nhiều song hiệu quả công việc

không cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích lao động phát huy hiệu quả công việc.

Tiếp theo là những biện pháp đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản.

- Trước hết, chúng ta đã biết khoản chi này lấy từ lãi đầu tư để nâng cấp các

trụ sở BHXH tỉnh, huyện hay mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho quản lí. Đối

với các khoản chi này cần lập các dự án và quyết toán để thẩm định xem xét lĩnh

vực này có thực sự cần thiết đối với hoạt động của BHXH. Phải thực hiện đầy đủ,

nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lí đầu tư, thực thi công việc

đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thẩm, định ở tất cả các giai đoạn từ

khâu lập dự án cho đến khâu tổ chức thi công, bàn giao công trình đưa công trình

vào sử dụng. Trong ba khâu đó cần đặc biệt chú trọng đến khâu giám sát thi công,

xem xét công trình phải được xây dựng theo đúng thiết kế dự án, đúng chủng loại

vật tư, đúng giá cả trên thị trường. Kịp thời báo cáo tiến độ của dự án, sau đó đưa

ra những biện pháp khi có những thay đổi.

- Các dự án được thông qua phải là các dự án phù hợp với công tác quản lí

của từng đìa vừa đảm bảo tính hiện đại, không bị lạc hậu ít nhất trong mười năm

tới. Và việc áp dụng các dự án phải thực sự có ích và tiết kiện chi phí tối đa. Cán

bộ quản lí của những hoạt động này cần phải học hỏi, nghiên cứu tài liệu để nâng

cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ về lĩnh vực đầu tư xây dựng và mua sắm trang

thiết bị. Thông qua những kiến thức đó BHXH có thể tự quản lí các khoản chi đầu

tư nâng cấp xây dựng mà không lãng phí vào các công trình không có ích.

2.4. Giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.

Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng trưởng quỹ hiện nay đang là hoạt động cần thiết

giúp cho quỹ BHXH có đủ tiềm lực tài chính đáp ứng được nhu cầu chi trả cho các

đối tượng. Đây là lĩnh vực đáng quan tâm và cần có những giải pháp cụ thể để đẩy

mạnh hoạt động đầu tư một cách có hiệu quả. Với điều kiện kinh tế trong nước

như hiện nay hướng đầu tư tăng trưởng quỹ cần được quan tâm đúng mức và đây

cũng là giải pháp cho tương lai.

- Hiện nay tỉ lệ quỹ nhàn rỗi được đem đi đầu tư là khá cao song thực sự hiệu

quả trên đồng vốn còn thấp. Một số cho rằng nên đầu tư khoảng 80% vốn nhàn rỗi

vào các lĩnh vực an toàn mà chủ yếu là thông qua các tổ chức tài chính và tiền tệ

cuả Nhà nước. Đây cũng chính là những biện pháp bảo tồn quỹ BHXH được quy

định trong quy chế tài chính BHXH ban hành kèm Nghị quyết 2/2003 của Thủ

tướng Chính phủ. Các hoạt động đó bao gồm:

+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và các ngân

hàng thương mại của Nhà nước.

+ Cho NSNN, Quỹ hô trợ đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại của Nhà

nước, ngân hàng chính sách vay.

+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

20% quỹ nhàn rỗi còn lại có thể đem đầu tư vào các hình thức đầu tư khác với tỷ

lệ lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn như đầu tư bất động sản, đầu tư vào thị trường

chứng khoán, đầu tư trực tiếp vào các dự án sản suất kinh doanh khác,....

- Với thời điểm hiện nay nền kinh tế nước ta đang tương đối ổn định, nhu cầu

về vốn đầu tư rất cao, thị trường trong nước hiện nay đang khuyến khích sự tham

gia đầu tư vốn từ nước ngoài. Việc đầu tư thị trường trong nướcc hiện nay là rất

cần thiết, vả lại đầu tư trong nước còn mang lại nhiều lợi ích về mặt xã hội khác.

Do vậy nên mở rộng danh mục đầu tư đối với quỹ nhàn rỗi của BHXH Việt Nam

hiện nay.

- Cùng với việc mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư chúng ta có thể

phân cấp quyết định đầu tư. Đối với các hạng mục đầu tư ít rủi ro để giám đốc

BHXH Việt Nam quyết định, Chính phủ chỉ quyết định đối với các hình thức đầu

tư khác nhiều rủi ro hơn. Như vậy BHXH sẽ chủ động và có trách nhiệm hơn trong

công tác đâu tư của mình, Chính phủ thì không phải bận tâm đến những việc

không thực sự cần thiết.

- Nhà nước cũng cần có những biện pháp khuyến khích hoạt động đầu tư quỹ

BHXH như chính sách miễn giảm thuế, ưu tiên trong những hạng mục đầu tư có

lợi nhuận cao như lĩnh vực dầu khí, điện tử viễn thông,...

- Bản thân BHXH cũng nên lập ra bộ phân chuyên trách thực hiện hoạt động

đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, tránh tình trạng kiêm nhiệm không chuyên sâu vào

lĩnh vực này. Có những cán bộ chuyên trách có trình độ và kinh nghiệm về đầu tư

và phân tích tài chính, chúng ta mới có thể có hiệu quả cao trong đầu tư tăng

trưởng quỹ.

2.5. Giải pháp về quản lí cân đối quỹ.

Hiện nay quỹ BHXH đang được quản lí tập chung thống nhất ở cơ quan cao nhất

đó là BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH được hoạch toán cuối năm theo hình thức cân

đối thu chi, hiện nay quỹ BHXH đang trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện

theo cơ chế PAYGO nên số dư quỹ hàng năm còn tương đối cao. Việc đẩy mạnh

hoạt động thu, đặc biệt là thu từ đầu tư tăng trưởng quỹ và tiết kiệm chi là hợp lí.

Theo các dự báo tài chính thì BHXH Việt Năm đến khoảng 40 năm nữa, thu của

BHXH không đủ chi, quỹ BHXH sẽ bị thâm hụt. Trong những năm tới chúng ta

nên có những biện pháp khắc phục tình trạng đó trong tương lai. Sau đây là một

vài giải pháp đưa ra để khắc phục tình trạng trên:

- Tăng thu BHXH: Đây là biện pháp dễ thực hiện song với mức thu phí

BHXH như hiện nay đã là cao so với đồng lương chi trả cuộc sống của bản thân

người lao động. Nếu thực hiện biện pháp này có lẽ là không phù hợp và chắc chắn

người lao động và chủ sử dụng sẽ không đồng tình cho lắm.

- Biện pháp thứ hai có thể áp dụng là giảm chi: Theo các nghiên cứu cho biết

tỷ lệ hưởng của các chế độ đặc biệt là chế độ hưu chí hiện nay của Việt Nam là

tương đối cao, thời gian hưởng trợ cấp thai sản dài so với các nước khác trên thế

giới. Do vậy giảm tỉ lệ hưởng cũng có thể là một hướng giải quyết cần đưa ra để

nghiên cứu và xem xét.

- Hướng thứ ba là tăng thời gian đóng góp, tức là giảm tuổi nghỉ hưu đối với

các đối tượng. Trong ba hướng trên thì đây có lẽ là hướng hợp lí nhất, tăng thời

gian đóng đồng nghĩa với việc giảm thời gian hưởng. Như vậy vừa làm giảm chi

lại vừa tăng thu. Xu thế này cũng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thế giới hiện

nay. Thứ nhất là tình hình sức khoẻ của người lao động ngày càng tốt, tuổi thọ

trung bình của người dân ngày càng tăng. Thứ hai là xu hướng thế giới hiện nay

đang tăng độ tuổi về hưu của người lao động, đặc biệt là đối với lao động nữ.

Việc quan trọng hiên nay là nếu thực hiện các biện pháp trên thì áp dụng và triển

khai nó như thế nào? Nếu tăng tỉ lệ đóng góp, giảm tỉ lệ hưởng, tăng độ tuổi nghỉ

hưu thì độ tuổi ấy là bao nhiêu? Sau đây tôi xin trình bầy phương pháp triển khai

đối với hướng thứ ba, tức là tăng độ tuổi về hưu. Chúng ta nên áp dụng quy định

tăng tuổi nghỉ hưu đối với các lao động bắt đầu tham gia lao động (và tham gia

BHXH) từ ngày 1/1/2010. Như vậy 35 năm sau là lúc họ khoảng 60 tuổi là tuổi họ

sẽ về hưu, khi đó họ sẽ tiếp tục đóng góp thêm một số năm nhất định tức là BHXH

lức đó sẽ tăng thu từ khoản đóng góp thêm của họ và giảm chi đối với những

khoản chi mà lẽ ra nếu về hưu sớm họ đã được nhận. Phương thức này có thể giải

quyết được tình trạng thâm hụt quỹ BHXH trong 40 năm tới. Vấn đề thứ hai đặt ra

độ tuổi tăng thêm bao nhiêu là hợp lí? Theo tôi trước tiên chúng ta nên tăng độ

tuổi nghỉ hưu của nữ lên 58 và đối với nam là 63 (tức là tăng thêm ba năm) sau đó

trong quá trình thực hiện chúng ta có thể tiếp tục điều chỉnh.

Có những ý kiến cho răng quỹ BHXH nên thực hiện chi trả cho mọi đối tượng tại

thời điểm này vị hiện nay số dư quỹ là rất lớn. NSNN chỉ đóng vai trò hỗ trợ bù

thiếu chứ không phải chi trả cho các đối tượng nghỉ hưu trước 1995 như hiện nay.

Đây cũng là ý kiến đóng góp cần được nghiên cứu và xem xét kĩ lại vì trong điều

kiện như hiện này thì quỹ BHXH đang có số dư rất lớn. Hoạt động đầu tư quỹ

chưa thực sự hiệu quả, điều kiện kinh tế không ổn định lạm phát cao dễ dẫn đến

những thay đổi trong quy định mức hưởng. Như vậy sẽ gây ra gánh nặng lớn cho

quỹ BHXH trong tương lai.

3. Một số kiến nghị.

3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước.

- Sớm hoàn thiện hành lang pháp lí cho việc thực hiện BHXH, tạo điều kiện

cho BHXH được thực hiện rộng rãi, mở rộng đối tượng và tiến tới dần hoàn thiện

các chế độ theo quy định của ILO. Cần thay đổi các quy định về các thủ tục hành

chính sao cho thuận tiện cho cả người lao động và quá trình xét duyệt của cán bộ

BHXH. Đề nghị Chính phủ mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư, mở rộng

hoạt động đầu tư tăng trưởng để tăng thu cho quỹ BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó

Nhà nước cũng nên có các hình thức khuyến khích và ưu đãi cho hoạt động đầu tư

của ngành, các chính sách ưu đãi về thuế.

- Cần đưa ra những quy định sử phạt nghiêm khắc đối với những sai phạm

của đối tượng trốn tham gia, trốn đóng hay nợ đọng. Có những biện pháp xử phạt

nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm làm giả giấy tờ để hưởng các chế độ

BHXH nhằm trục lợi cho bản thân.

- Đưa ra những quy định phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản

lí Nhà nước, cơ quan quản lí sự nghiệp BHXH để phù hợp và tiện trong quá trình

thực hiện các chế độ và các hoạt động khác.

3.2. Kiến nghị về phía BHXH.

- Xây dựng bộ máy quản lí với các cán bộ có năng lực và trình độ chuyên

môn. Phân cấp chức năng quản lí theo các cấp cụ thể đối với mỗi đơn vị cấp quản

lí. Tích cực thức hiện việc đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ trong ngành,

thường xuyên thực hiện việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức của nganh.

- Cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát kịp thời phát hiện những sai trái

để có hình thức sử phạt hoặc báo cáo lên các ban ngành có liên quan. Bên cạnh đó

cần có những hình thức kỉ luật nghiêm khắc đối với cán bộ của ngành có những sai

phạm nghiêm trọng. Nên xây dựng phong trào thi đua, khen thưởng để kịp thời

động viên các cán bộ có những thành tích trong công tác.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cũng như trang bị các máy móc hiện đại

giúp cho công việc vừa nhanh chóng vừa tiết kiệm được chi phí. Thực hiện công

tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải

thể hiện được các chính sách mới, hình thức tuyên truyền phải sâu rộng và dễ hiểu,

phù hợp với các loại đối tượng.

- Cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan đến BHXH để kết

hợp thực hiện công tác có hiệu quả. Đặc biệt với một số ban ngành sau: Liên đoàn

lao động Việt Nam để đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của người lao động;

Ngành thuế để phối hợp kiểm tra quỹ lương của doanh nghiệp cũng như sự tham

gia BHXH cho người lao động của các doanh nghiệp đó; Hệ thống ngân hàng để

truy thu BHXH từ tài khoản của các đơn vị có tài khoản tại các ngân hàng; Với

các trường đại học trong vấn đề đào tạo cán bộ.

- Xây dựng những báo cáo tài chính BHXH hàng năm và các dự toán tài

chính trong những năm tiếp theo. Đồng thời phải dự tính được các thông số thông

qua thống kê về số lượng, cơ cấu, độ tuổi,.... Từ đó phải dự toán được quá trình

hưởng, khoản hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng để triển khai thực hiện điều

chỉnh các mức đóng góp, tỉ lệ hưởng cho từng giai đoạn sao cho phù hợp. Đây

cũng là căn cứ để BHXH đề nghị thay đổi chính sách cho phù hợp với điều kiện

kinh tế xã hội trong thời gian tới.

Kết luận:

Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, BHXH cũng được thực hiện đổi mới từ năm

1995. Với sự đổi mới trong quản lí BHXH cũng lập ra cơ chế tài chính mới với

quỹ BHXH có thu và được quản lí độc lập với NSNN. Quỹ này do chính người lao

động và người sử dụng lao động đóng góp tạo nên dùng chủ yếu để chi trả cho các

chế độ nhằm bù đắp cho những rủi ro mà người lao động gặp phải. Để tạo lập và

quản lí hợp lí quỹ BHXH, đảm bảo khả năng chi trả, BHXH cần có hoạt động

quản lí tài chính của mình sao cho hợp lí. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt

động này tôi đã chọn đề tài:

“ Công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam thực trạng và giải pháp”

Trong chuyên đề thực tập của mình tôi muốn làm rõ vai trò, nội dung chính và

những yếu tố tác động đế công tác quản lí tài chính của nước ta. Nghiên cứu thực

trạng của công tác này đang được thực hiện tại BHXH Việt Nam và những kinh

nghiệm quản tổ chức quản lí tài chính BHXH ở một số nước trên thế giới. Trên cơ

sở phân tích các nội dung chính của hoạt động quản lí tài chính BHXH ở Việt

Nam: hoạt động quản lí thu, chi, đầu tư tăng trưởng quỹ và cân đối quỹ. Với việc

phân tích, tổng hợp đánh giá thông qua các số liệu của BHXH Việt Nam giai đoạn

1995- 2004 để từ đó đưa ra những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục

và rút ra những bài học kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích đó có đưa ra những giải

pháp và một số kiến nghị để khắc phục tình trạng tồn tại của BHXH Việt Nam

trong thời gian tới.

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, những ý kiến

đóng góp từ giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Phạm Thị Định và anh chị thuộc phòng

Hành chính- Tổng hợp của BHXH Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp

đỡ đặc biệt nay.

Cuối cùng mong nhân được sự đóng góp từ các ban độc giả cho đề tài này.

Tài liệu tham khảo

1. Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH- Nhà xuất

bản lao động xã hội, Hà nội 2003.

Giáo trình kinh tế bảo hiểm- Nhà xuất bản thống kê năm 2000. 2.

Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của BHXH Việt Nam (1995- 2000). 3.

Báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003, 2004 của BHXH Việt Nam. 4.

Tạp chí BHXH Việt Nam số 02/ 2004, số 2/2003, số 3/2003, số 9/2002, số 5.

12/2002.

Tạp chí BHYT Việt Nam số 4/2002. 6.

Luận văn K41- Khoa Bảo hiểm - Trường đại học Kinh tế quốc dân. 7.

Đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, Ts Mạc Văn Tiến- Trần 8.

Quang Hùng- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội 1994.

9. Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện

nay, PGS- Ts Đỗ Minh Cương, PGS Mạc Văn Tiến- Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia, Hà nội 1996.