ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ KIM XUYẾN
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP NGHI N CỨU TẠI X NGỌC M , HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI
VÀ X THIỆN KẾ, HUYỆN NH XUY N, V NH PHÖC
LUẬN ÁN TIẾN S X HỘI HỌC
Hà Nội, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ KIM XUYẾN
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP NGHI N CỨU TẠI X NGỌC M , HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI
VÀ X THIỆN KẾ, HUYỆN NH XUY N, V NH PHÖC Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 62 31 30 01 LUẬN ÁN TIẾN S X HỘI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm ích San XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP ĐHQG
Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận án tiến sĩ PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Phạm Bích San
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS Phạm Bích San.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, đảm bảo
tính khách quan, khoa học, dựa vào kết quả khảo sát thực tế. Các tài liệu tham
khảo đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Ký tên
PHẠM THỊ KIM XUYẾN
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 9
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 9
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 13
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................. 13
4. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của luận án ........................................ 14
5. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 15
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích ............................................... 15
7. Phương pháp thu thập thông tin ............................................................... 17
8. Đóng góp mới về khoa học của luận án ................................................... 20
Chƣơng 1. TỔNG QUAN T NH H NH NGHI N CỨU VỀ IẾN ĐỔI CƠ
CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM ...................................................................... 22
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp – Nông thôn ........... 22
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về di dân nông thôn. ................................ 27
1.3. Các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn ...................... 31
1.4. Các nghiên cứu về thực trạng lao động, việc làm nông thôn ở khu vực
nông thôn có thu hồi đất nông nghiệp .......................................................... 39
Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ IẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC
LÀM............................................................................................................... 52
2.1. Các khái niệm cơ bản của luận án ......................................................... 52
2.1.1. Biến đổi xã hội .............................................................................. 52
2.1.2. Chính sách xã hội .......................................................................... 55
2.1.3. Lao động ....................................................................................... 56
1
2.1.4. Việc làm........................................................................................ 58
2.1.5. Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm .............................................. 62
2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án .................................................... 67
2.2.1. Lý thuyết biến đổi xã hội và quá trình chuyển hóa xã hội nông thôn ....... 67
2.2.2. Lý thuyết di động xã hội ............................................................... 75
2.2.3. Lý thuyết thị trường lao động ........................................................ 80
2.3 Khái quát về chính sách đất đai và thu hối đất nông nghiệp ................... 87
2.3.1 Tổng quan hệ thống chính sách pháp luật về thu hồi và chuyển đổi
đất đai tại Việt Nam ................................................................................ 87
2.3.2. Tổng quan thực trạng thu hồi đất nông nghiệp tại Việt Nam trong
thời gian qua ........................................................................................... 92
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG IẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỔI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ................... 97
3.1. Thực trạng thu hồi đất ở xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và
xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội ........................................................ 97
3.2. Biến đổi cơ cấu lao động tại xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế ....................... 104
3.2.1. Theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế ................................... 104
3.2.2. Theo giới tính, nhóm tuổi, học vấn của người dân phân bố vào
ngành kinh tế và thành phần kinh tế ...................................................... 108
3.2.3. Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi ......................................... 114
3.2.4. Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn ............... 116
3.2.5. Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn .................... 117
3.2.6. Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc .......... 119
3.3. Biến đổi cơ cấu việc làm của người dân bị thu hồi đất tại xã Ngọc Mỹ
và Thiện Kế ............................................................................................... 121
3.3.1. Biến đổi cơ cấu việc làm theo độ tuổi ......................................... 124
3.3.2. Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất NN đến việc làm
2
và tính đa việc làm của người dân ......................................................... 130
Chƣơng 4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM
CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ................. 134
4.1. Các yếu tố nhân khẩu - xã hội, chủ quan. ............................................ 134
4.1.1. Yếu tố tuổi của người lao động ................................................... 134
4.1.2. Yếu tố trình độ học vấn của người lao động ................................ 135
4.1.3 Yếu tố giới tính ............................................................................ 137
4.1.4. Tâm thế của hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp .................... 139
4.2. Các yếu tố khách quan ........................................................................ 144
4.2.1. Yếu tố về thị trường .................................................................... 144
4.2.2. Yếu tố nguồn lực trong gia đình .................................................. 153
4.2.3. Yếu tố về sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp và
các tổ chức đoàn thể ............................................................................. 160
4.3. Ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi việc làm đến kinh tế hộ gia đình 173
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 178
DANH MỤC ÀI ÁO CÁO, CÔNG TR NH Đ CÔNG Ố CÓ LI N
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 182
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 183
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ NN&PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CĐ/ĐH: Cao đẳng, đại học
ĐTH: Đô thị hóa
ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐNB: Đông Nam bộ
GPMB: Giải phóng mặt bằng
KCX: Khu công nghiệp
KCN: Khu chế xuất
KĐT: Khu đô thị
THCS: Trung học cơ sở
4
THPT: Trung học phổ thông
DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Diện tích đất thu hồi của hộ (1 sào Bắc Bộ = 360m2) ................... 101
Bảng 3.2: Tỉ lệ đất bị thu hồi trong tổng số diện tích đất của hộ ................... 102
Bảng 3.3: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và số diện tích đất bị thu hồi .. 103
Bảng 3.4: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và Hài lòng về mức đền bù đất
nông nghiệp ............................................................................... 103
Bảng 3.5: Sự biến đổi theo ngành kinh tế của các thành viên trong hộ ......... 105
Bảng 3.6: Sự biến đổi cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế .............. 107
Bảng 3.7: Biến đổi theo giới tính trong các ngành kinh tế ............................ 108
Bảng 3.8: Biến đổi theo giới tính trong các thành phần kinh tế ..................... 109
Bảng 3.9: Biến đổi theo trình độ học vấn trong các ngành kinh tế ................ 110
Bảng 3.10: Biến đổi theo trình độ học vấn trong các thành phần kinh tế ...... 111
Bảng 3.11: Sự chuyển đổi việc làm trong ngành kinh tế theo độ tuổi ........... 113
Bảng 3.12: Việc làm của người dân trước và sau khi thu hồi đất .................. 121
Bảng 3.13: Sự chuyển đổi việc làm theo nhóm tuổi 2015 ............................. 124
Bảng 3.14: Việc làm của của người dân trước khu thu hồi đất (2010) theo
nhóm tuổi .................................................................................. 127
Bảng 3.15: Đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến
việc làm của người dân .............................................................. 130
Bảng 3.16: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và đánh giá về sự ảnh hưởng
đến việc làm .............................................................................. 131
Bảng 4.1: Cơ cấu độ tuổi lao động ............................................................... 134
Bảng 4.2: Mối quan hệ giữa độ tuổi và sự chuyển đổi việc làm .................... 135
Bảng 4.3: Trình độ học vấn của người dân ................................................... 135
Bảng 4.4: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn sự chuyển đổi việc làm .......... 136
Bảng 4.5: Giới tính của người trong độ tuổi lao động được thống kê............ 138
5
Bảng 4.6: Giới tính và và sự chuyển đổi việc làm......................................... 138
Bảng 4.7: Tâm thế của người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..... 139
Bảng 4.8: Mối quan hệ giữa tâm thế của người dân khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và quá trình thay đổi việc làm ................................. 143
Bảng 4.9: Mức độ quan trọng yếu tố thị trường trong quá trình chuyển đổi
việc làm của gia đình .................................................................. 145
Bảng 4.10: Mối quan hệ giữa việc dễ bán sản phẩm và mức độ ảnh hưởng đến
việc làm của của gia đình ........................................................... 147
Bảng 4.11: Mức độ thuận lợi về thị trường trong quá trình chuyển đổi việc
làm của gia đình ........................................................................ 149
Bảng 4.12: Mối liên hệ sự thay đổi của thị trường và Đánh giá về sự thay đổi
việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất .............................. 150
Bảng 4.13: Thuận lợi trong đào tạo nghề và đánh giá về sự thay đổi việc làm
của hộ gia đình sau khi thu hồi đất ............................................. 152
Bảng 4.14: Động lực từ phía gia đình thúc đẩy chuyển đổi việc làm ............ 154
Bảng 4.15: Mối liên hệ giữa đánh giá về làm nông nghiệp không đủ ăn và Đánh
giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất ..... 156
Bảng 4.16: Những thuận lợi về nội lực gia đình trong chuyển đổi việc làm .. 159
Bảng 4.17: Sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương/chủ đầu tư hỗ
trợ cho người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm .............. 160
Bảng 4.18: Thực trạng triển khai hỗ trợ cho người dân của chính quyền/chủ
đầu tư ........................................................................................ 162
Bảng 4.19: Đánh giá của người dân về các chính sách hỗ trợ của chính
quyền/chủ đầu ........................................................................... 163
Bảng 4.20: Sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể xã hội trong quá
trình chuyển đổi việc làm........................................................... 164
Bảng 4.21: Sự quan tâm giúp đỡ của anh em, bạn bè trong quá trình chuyển
6
đổi việc làm ............................................................................... 164
Bảng 4.22: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và người thân ......... 166
Bảng 4.23: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và người thân ......... 167
Bảng 4.24: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và hiệu quả các hoạt động hỗ trợ .. 168
Bảng 4.25: Người dân có thuận lợi từ sự giúp đỡ của chính quyền địa phương .. 169
Bảng 4.26: Mô hình hồi qui các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi việc làm
của hộ gia đình .......................................................................... 171
Bảng 4.27: Đánh giá của người dân về mức sống của hộ gia trước và sau khi
thu hồi đất .................................................................................. 173
Bảng 4.28: Đánh giá của người dân về cuộc sống sau khi thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................ 174
Bảng 4.29: Thu nhập và chênh lệch thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi
thu hồi đất .................................................................................. 174
Bảng 4.30: Tương quan mức độ chuyển đổi nghề nghiệp việc làm với mức độ
chênh lệch.................................................................................. 175
Bảng 4.31: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và cuộc sống gia đình sau khi
7
thu hồi đất nông nghiệp ............................................................. 176
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Sự thay đổi ngành kinh tế của người lao động .......................... 106
Biểu đồ 3.2: Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi (%) ................................ 115
Biểu đồ 3.3: Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn (%) ..... 116
Biểu đồ 3.4: Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn đã qua đào
tạo.............................................................................................. 118
Biểu đồ 3.5: Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc ....... 120
8
Biểu đồ 3.6. Tính đa việc làm của người dân ................................................ 132
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2020 Việt Nam đặt mục tiêu cơ bản trở thành một quốc gia công
nghiệp theo hướng hiện đại tuy nhiên để hoàn thành được mục tiêu nói trên
Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt hàng loạt các chính sách
liên quan tới vấn đề tam nông. Thực tế cho thấy trong 10 năm qua, nông nghiệp
không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng vào
quá trình tăng trưởng ấn tượng của đất nước mà còn là điểm tựa chắc chắn cho
các ngành khác đi qua những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Về mặt chính sách vĩ mô, trong những năm vừa qua, hệ thống chính
sách về nông nghiệp, nông thôn và nông dân gia tăng nhanh chóng cả về số
lượng lẫn nội dung cũng như quy mô tác động của thực tiễn chính sách. Sự
thay đổi quan trọng này có thể cùng lúc cho thấy cả hai chiều cực tích cực và
tiêu cực. Về khía cạnh tích cực có thể nhận thấy sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với các vấn đề tam nông ngày càng lớn hơn trong khi đó ở khía
cạnh tiêu cực cho thấy vẫn đang tồn tại một thực tế có quá nhiều những vấn
đề xung quanh câu chuyện nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Trong khi đó, về mặt định hướng phát triển, cơ cấu kinh tế của một
quốc gia công nghiệp hiện đại sẽ chỉ còn một tỷ lệ nhỏ % nông nghiệp trong
cơ cấu GDP, để tạo ra được sự thay đổi này đương nhiên quá trình chuyển đổi
cơ cấu ngành, cơ cấu lao động việc làm phải được diễn ra một cách liên tục
nhưng theo một lộ trình bền vững đảm bảo giảm thiểu những tác động tiêu
cực, những cú sốc xã hội đối với các nhóm chuyển dịch, đặc biệt là các nhóm
yếu thế. Những ví dụ về quá trình chuyển dịch xã hội gây sốc trong quá trình
phát triển là khá phổ biến không chỉ ở Việt Nam trong đó hầu hết liên quan
tới những chuyển dịch về đất đai, xuất phát từ quá trình thu hồi đất nông
nghiệp cho các mục đích phi nông nghiệp:“Sự chuyển đổi đất nông nghiệp
9
sang cho các mục đích sử dụng phi nông nghiệp, từ công việc đồng áng sang
làm công ăn lương và dòng người từ nông thôn ra thành phố đều là dấu hiệu
của một nền kinh tế đầy năng động với nhiều cơ hội. Nhưng những thay đổi
này cũng là những nguồn tiềm tàng gây tổn thương cho người dân, từ mất đất
đến không có việc làm và mất đi các mối quan hệ xã hội”[ Báo cáo Phát triển
Việt Nam, 2008,Tr.31].
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 2016, dân số khu vực
nông thôn của Việt Nam là 60,7 triệu người (chiếm 65,49%) dân số cả nước.
Rõ ràng với một quốc gia hiện có hơn 2/3 dân số đang sinh sống ở nông thôn
trong đó có khoảng 71,7% người trong độ tuổi lao động, nông nghiệp sẽ vẫn
tiếp tục là sinh kế chủ yếu của hàng triệu gia đình Việt Nam trong những năm
tới[Tổng cục thống kê,2016]. Mặc dù vậy, trong khoảng 10 năm trở lại đây
diện tích đất nông nghiệp đã giảm đi nhanh chóng trên quy mô toàn quốc. Sau
28 năm xây dựng, phát triển, cả nước hiện có 328 khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập, thu hút được hơn 120 tỷ USD vốn FDI, 800,000 tỷ đồng
vốn đầu tư trong nước, và giải quyết việc làm cho hơn 3 triệu lao động. Riêng
trong năm 2017, các khu công nghiệp, khu chế xuất đóng góp hơn 2 tỷ USD
vào ngân sách nhà nước, 110 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, cả
nước có thêm 625 cụm công nghiệp, tổng diện tích đất công nghiệp theo quy
hoạch của các cụm công nghiệp đang hoạt động là 19,000ha, thu hút hơn
10,000 dự án đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 137,000 tỷ đồng, giải
quyết việc làm cho 538,000 lao động [Bộ Kế hoạch đầu tư,2017].
Tốc độ thu hẹp diện tích đất lúa nhanh chóng cộng với những biến
động về giá cả lương thực trên phạm vi toàn cầu đã đặt vấn đề an ninh lương
thực của một quốc gia vốn luôn đứng đầu về xuất khẩu gạo trước những thách
thức về tính bền vững. Do đó, Chính phủ đã ra Nghị quyết về đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia với mục tiêu phải giữ bằng được 3,8 triệu ha đất lúa
[76]. Ở thời điểm hiện tại, giá lương thực trên toàn cầu đang ở ngưỡng “nguy
10
hiểm” và được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu
cực tới sự phát triển kinh tế xã hội cũng như đời sống của người dân tại nhiều
quốc gia trên thế giới.
Một trong những tác nhân lớn nhất dẫn tới sự thu hẹp của diện tích đất
lúa tại Việt Nam trong thời gian qua chính là việc phát triển các KCN, khu
chế xuất. Về mặt định hướng phát triển, mô hình các KCN, các khu chế xuất
là lựa chọn đúng đắn bởi khả năng tạo việc làm, cải thiện cơ sở hạ tầng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, dù đã có lịch sử 20 năm nhưng có ba
vấn đề đặt ra trong phát triển các KCN tại Việt Nam vẫn chưa được giải quyết
triệt để: (i) quy hoạch các KCN, (ii) hiệu quả sử dụng đất tại các KCN và (iii)
khả năng giải quyết việc làm cho lao động địa phương trong quá trình chuyển
đổi. Về vấn đề thứ nhất, đa số các KCN đều lựa chọn những vị trí “đắc địa”
nên việc đặt KCN vào khu vực sản xuất nông nghiệp là hết sức phổ biến. Đối
với vấn đề thứ hai, các KCN thường có diện tích từ vài chục tới vài trăm ha
nhưng tỷ lệ lấp đầy các KCN lại thường ở mức khá khiêm tốn. Đối với vấn đề
thứ ba, cũng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm hơn cả, hiện tại khả năng
giải quyết việc làm cho lao động địa phương từ phát triển các KCN là khá hạn
chế cho dù có những căn cứ pháp lý liên quan tới trách nhiệm của chủ đầu tư
với vấn đề tạo việc làm cho lao động địa phương.
Thất nghiệp, thiếu việc làm là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với nông dân sau
khi bị thu hồi đất, chính vì thế bản thân các cơ quan chức năng trong thời gian
qua dù đã rất cố gắng tìm ra các giải pháp để giải quyết tình trạng này thì vấn
đề lao động, việc làm cho nông dân mất đất vẫn cứ là một bài toán khó. Theo
Nguyễn Sinh Cúc vấn đề mấu chốt liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp nhận đất: “Tỷ lệ lao động mất đất được doanh nghiệp (nhận đất) đào
tạo ở Hà Nội là 0,01%, Hà Tây: 0,02%; Hải Phòng: 0%; Bắc Ninh: 0%.
Trong khi đó, lao động do Nhà nước đào tạo nghề cho nông dân vùng mất đất
cũng không đáng kể: Hà Nội: 0,01%; Hải Phòng: 0%; Bắc Ninh: 1,2%; Hà
11
Tây: 0%. Tỷ lệ lao động do gia đình tự đào tạo có cao hơn nhưng cũng còn xa
so với yêu cầu tạo việc làm mới phi nông nghiệp: Hà Nội: 0,9%, Hải Phòng:
0,01%; Bắc Ninh: 0,3% và Hà Tây: 0,09%” [Nguyễn Sinh Cúc, 2009, tr14].
Có một thực tế ruộng đất gắn bó với nông dân không chỉ với tư cách là
một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng mà ruộng đất còn chứa đựng cả
những giá trị văn hóa, lối sống của người dân nông thôn. Cứ một ha đất nông
nghiệp bị thu hồi sẽ ảnh hưởng tới 10 lao động nông nghiệp.[Phạm Văn Vân,
2014, tr438] Do đó, việc thu hồi đất nông nghiệp không chỉ làm thay đổi sinh
kế của nông dân mà còn dẫn tới nguy cơ biến đổi những giá trị văn hóa, lối
sống của họ và đặc biệt là con cái họ. Sự biến đổi này đáng tiếc lại đang có
quá nhiều yếu tố tiêu cực. Do đó, việc đền bù không chỉ phải tính đến những
giá trị vật chất mà còn phải tính đến cả những giá trị phi vật chất và bản thân
những hỗ trợ cũng không nên chỉ được thực hiện có một lần duy nhất.
Hệ thống các chính sách dạy nghề nói chung và chính sách dạy nghề
cho nông dân mất đất nói riêng của Việt Nam hiện nay là khá đa dạng và đã
có “thâm niên” khá lâu đời. Các chính sách này là một trong những bộ phận
không thể thiếu trong hệ thống tổng thể các chính sách liên quan tới hỗ trợ,
đền bù khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, từ nhiều năm nay việc triển khai công tác
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt sau khi Chính phủ thông qua
Đề án 1956 cũng đã được triển khai sâu rộng và mang lại nhiều hiệu quả tích
cực. Tuy nhiên, công tác dạy nghề, tạo việc làm liên quan tới thu hồi đất cho
nông dân thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế từ cách làm, loại nghề, đối
tượng… cho đến quyết tâm và trách nhiệm của các bên có liên quan, ngay cả
của chính những người nông dân khi họ vừa có trong tay một khoản tiền lớn.
Và hệ quả của vấn đề này thì ai cũng rõ.
Rõ ràng, cả ở cấp vĩ mô và ở cấp địa phương hệ thống chính sách liên
quan tới vấn đề tam nông nói chung và đối với vấn đề lao động việc làm của
nông dân tại các khu vực bị thu hồi đất nói riêng là rất nhiều, rất đầy đủ song
12
vẫn còn có rất nhiều những vấn đề xã hội vẫn đang tồn tại và tiếp tục nảy sinh
đằng sau câu chuyện nông dân mất đất.
Với những vấn đề đặt ra đối với lao động và việc làm ở khu vực thu hồi
đất nông nghiệp biến đổi như thế nào, do đó tôi đã chọn để thực hiện trong
luận án với tên là: "Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu
vực thu hồi đất nông nghiệp" (Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai,
Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội, lý thuyết di động xã hội
và lý thuyết thị trường lao động để lý giải biến đổi cơ cấu lao động, việc
làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp góp phần kiểm chứng lý thuyết
trong thực tiễn.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra Xã hội học sẽ đưa ra những căn
cứ khoa học từ thực tiễn, giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá quá trình biến đổi
cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp một cách đầy đủ,
toàn diện.
- Luận án sẽ là tài liệu bổ ích cho những người quan tâm đến các
chính sách ruộng đất, chuyển đổi đất đai và vấn đề lao động, việc làm của
người dân.
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học giúp cho nhà quản lý nhìn nhận
đầy đủ về cơ cấu lao động, việc làm của người dân sau thu hồi đất và những biến
đổi của nó, từ đó có căn cứ khoa học để đưa ra các quyết sách giải quyết công ăn
việc làm của nông dân- môt lực lượng lao động lớn trong xã hội hiện nay với các
chiến lược phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta.
3. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực thu hồi đất
nông nghiệp (nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã
13
Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Hộ dân
- Lãnh đạo chính quyền
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian thực hiện luận án: từ 2011 đến 2015
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn khoảng 10 năm gần đây.
- Phạm vi không gian: Để thu thập thông tin luận án tiến hành khảo sát
tại 2 địa bàn, đó là xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và xã Ngọc
Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Trong luận án này tôi tập trung chủ yếu
vào mô tả thực trạng cơ cấu lao động, việc làm của người dân trước và sau khi
thu hồi đất nông nghiệp. Một số yếu tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu lao
động việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp.
4. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của luận án
4.1. Mục tiêu chung
- Phân tích làm rõ thực trạng đất nông nghiệp của người dân bị thu hồi
- Phân tích thực trạng biến đổi cơ cấu lao động,việc làm tại các vùng có
thu hồi đất nông nghiệp.
- Tìm hiểu các nhân tố tác động đến biến đổi cơ cấu lao động, việc làm
tại các vùng có thu hồi đất nông nghiệp.
4.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích làm rõ thực trạng cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu
hồi đất nông nghiệp.
- Mô tả quy mô thu hồi đất, mục đích thu hồi đất
- Mổ tả loại đất bị thu hồi: đất ao, đất trồng hoa mầu, đất trồng lúa
- Mức độ đền bù, phục hồi sinh kế của chính quyền/ chủ đầu tư
- Đánh giá của người dân về thực trạng thu hồi đất (phương thức đền
14
bù, thủ tục, quy trình …).
- Đánh giá của người dân về mức độ hỗ trợ, quan tâm, thấu hiểu của
chính quyền/ chủ đầu tư đối với người dân.
- Phân tích và so sánh thay đổi cơ cấu lao động, việc làm trước và sau
khi thu hồi đất nông nghiệp (cơ cấu theo tuổi, giới, trình độ, loại hình nghề
nghiệp, việc làm…).
- Chỉ ra nhân tố tác động đến cơ cấu lao động, việc làm và làm rõ mức
độ của từng yếu tố (di cư…).
- Làm rõ thực trạng thích ứng của người dân sau khi thu hồi đất và chỉ ra
những nhân tố tác động đến sự thích ứng của người dân.
- Dự báo xu hướng dịch chuyển cơ cấu lao động, việc làm.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp
như thế nào?
- Xu hướng biến đổi cơ cấu lao động, việc làm như thế nào?
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của
người dân?
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích
- Cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông
nghiệp biến đổi nhanh, có sự khác nhau trong sự chuyển đổi lao động, việc
làm giữa các nhóm tuổi.
- Người dân bị thu hồi đất nông nghiệp có xu hướng chuyển đổi nghề
nghiệp từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ.
Người dân bị thu hồi đất nông nghiệp làm nhiều loại công việc (nghề nghiệp)
để duy trì cuộc sống. (số lượng nghề nghiệp/ đầu người gia tăng).
- Các yếu tố tác động làm cho quá trình biến đổi cơ cấu lao động, việc
làm của người dân diễn ra đa dạng, linh hoạt và sự thích ứng của các hộ gia
15
đình nông dân.
Khung phân tích
Điều kiện kinh tế xã hội
Chính sách thu hồi đất nông nghiệp
Độ tuổi
Chính quyền
Tâm thế đón nhận
Các tổ chức xã hội
Học vấn
Giới tính
iến đổi cơ cấu lao động, Việc làm
Doanh nghiệp
Việc làm
Nông nghiệp Công nghiệp- Xây dựng Thương mại- Dịch vụ
16
Kinh nghiệm làm việc sẵn có
7. Phƣơng pháp thu thập thông tin
Để có được cơ sở dữ liệu đáng tin cậy cũng như sự phân tích mang tính
hệ thống liên ngành, trong quá trình nghiên cứu, luận án đã sử dụng một số
phương pháp cơ bản dưới đây:
7.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trọng tâm của phương pháp phân tích tài liệu tập trung vào việc phân
tích, đánh giá hệ thống chính sách có liên quan của Trung ương cũng như của
các địa phương đối với vấn đề thu hồi đất đai. Các nghiên cứu, báo cáo có liên
quan trực tiếp và gián tiếp tới vấn đề này của các tổ chức trong và ngoài nước
Hệ thống các tài liệu thống kê, niên giám thống kê liên quan tới vấn đề
phát triển kinh tế xã hội cũng như vấn đề thu hồi đất đai, lao động việc làm.
Báo cáo tình hình kinh tế xã hội và thống kê về thu hồi đất của địa phương
7.2. Phương pháp phỏng vấn cấu trúc
Bảng hỏi là một công cụ quan trọng trong thu thập thông tin. Trong quá
trình xây dựng bảng hỏi tác giả đã phân tách bố cục bảng hỏi theo các chủ đề
chính như sau:
(i) Thực trạng thu hồi đất của các hộ gia đình
(ii) Sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm của các hộ gia đình từ năm
2010 -2015,
(iii) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi lao động việc làm
của hộ gia đình.
Phương pháp chọn mẫu
Trong điều kiện về khả năng và nguồn lực và thời gian nghiên cứu tác
giả chọn mẫu tại 2 tỉnh là Hà Nội và Vĩnh Phúc. Trong quá trình chọn mẫu
tác giả có cân nhắc lựa chọn ở nơi có mức độ phát triển của các tỉnh/thành
phố. Tác giả đã chọn xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội là một xã có
17
quá trình thu hồi đất nông nghiệp từ năm 2005 đến nay tuy nhiên quá trình
thu hồi đất nông nghiệp diễn ra một các mạnh mẽ từ năm 2010, Tổng số hộ
bị thu hồi đất nông nghiệp từ năm 2010-2015 là 780 hộ. Từ tổng thể các hộ
bị thu hồi đất nông nghiệp ở xã Ngọc Mỹ tác giả đưa vào để tính toán số
lượng mẫu được điều tra.
Xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc có 1200 hộ dân bị thu
hồi đất nông nghiệp .
Từ kết quả khảo sát sơ bộ như trên tác giả đã tính toán số lượng mẫu cần
điều tra như sau: Tổng số hộ gia đình trên 2 khu vực điều tra là 1980 hộ gia đình
trong đó Xã Ngọc Mỹ: 780 hộ (chiếm 39,4%); Xã Thiện Kết 1200 hộ (60,6%).
Trên cơ sở đó tác giả sử dụng công thức để tính mẫu nghiên cứu như sau:
Mẫu điều tra được chọn ngẫu nhiên phân tầng với công thức tổng quát
như sau:
Công thức tổng quát được áp dụng cho nghiên cứu là.
Nt2 x pq n = N2 + t2 x pq
Trong luận án tác giả chọn mẫu với các yêu cầu sau:
- Yêu cầu độ tin cậy là 95,0% (hệ số tin cậy t = 95%) tra trong Bảng giá
trị của hệ số tin cậy t được tính sẵn theo hàm t, của Lia pu nốp thì giá trị t=1,96,
- Phạm vi sai số chọn mẫu không vượt 5% ( = 0,05)
- Với giả định tỷ lệ người dân chuyển đổi lao động việc làm là 50% có
chuyển đổi và không chuyển đổi là 50%. Do p+q=1, do đó tích p.q sẽ lớn nhất
khi p=q=0,5 => p.q =0,25 => thay vào công thức trên để xác định cỡ mẫu
=
điều tra (n) Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh,2001, tr156]
18
= 205 hộ gia đình n = 1980 x 1,962 x 0,25 1980 x 0,052 + 1,962 x 0,25 Nt2 x pq N2 + t2 x pq
Như vậy luận án sẽ lấy cỡ mẫu tối thiểu cần có là 205 người để khảo
sát cho toàn bộ 2 khu vực được lựa chọn. Trong quá trình nghiên cứu tác giả
khảo sát 410 hộ gia đình. Số phiếu thu về và làm sạch để đưa vào phân tích
còn lại là 399 phiếu. Từ tổng mẫu và tỉ lệ hộ gia đình của 2 khu vực điều tra
tác giả đã lựa chọn số hộ gia đình ở xã Ngọc Mỹ là 160 hộ (40,1%) và Thiện
Kế là 239 hộ (59,9%)
Trong quá trình phân tích về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm tác giả
sử dụng dữ liệu của 399 hộ gia đình để phân tích. Tác giả cũng sử dụng số
liệu của các nhóm như sau:
- Độ tuổi từ 15- 60 đối với nam
- Độ tuổi từ 15-55 đối với nữ.
Trong đó những người trong độ tuổi từ 15-22 nếu còn đang đi học
THPT/TCCC/CĐ/ĐH thì cũng không được đưa vào phân tích.
Như vậy có 3 nhóm sẽ không được đưa vào phân tích khi tác giả phân
tích về sự biến đổi cơ cấu lao động của các thành viên trong gia đình đó là:
(i) Nhóm quá tuổi lao động > 60 tuổi đối với nam và >55 tuổi đối với nữ
(ii) Nhóm chưa đến tuổi lao động <15 tuổi
(iii) Nhóm trong độ tuổi lao động từ 15-22 tuổi nhưng vẫn đang đi học.
Vì vậy trong quá trình phân tích về số lao động trong gia đình giữa các
năm 2010 và 2015 sẽ có sự biến động về tổng số lao động vì năm 2010 nhóm
còn đang đi học sẽ không được đưa vào phân tích nhưng đến năm 2015 nhóm
này sẽ bước vào thị trường lao động và trở thành một người lao động trong
các ngành kinh tế.
19
Kết quả điều tra và các số liệu được đưa vào phân tích như sau:
Bảng 1: Cơ cấu mẫu phân tích
Năm 2010
Năm 2015
Tiêu chí
Tổng số
Tổng số
Số lượng được đưa vào phân tích
Số lượng được đưa vào phân tích
Số lượng không được đưa vào phân tích
Số lượng không được đưa vào phân tích 0
Số hộ gia đình
399
399
399
0
399
Số hộ có thành
viên chuyển đổi
399
0
399
281
118
399
nghề nghiệp
Số lao động
1003
229
1232
1085
147
1232
Kỹ thuật xử lí thông tin
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
- Toàn bộ số liệu định lượng được nhập xử lí bằng chương trình SPSS 19,0,
7.3 Phỏng vấn sâu
Để có thông tin sâu sắc hơn, bổ sung cho thông tin định lượng luận án
đã thực hiện 10 cuộc phỏng vấn sâu. Trong đó có 6 cuộc PVS người dân, đối
tượng phỏng vấn là chủ hộ hoặc là chủ của những mảnh đất đã bị thu hồi; 2
cuộc PVS cán bộ chính quyền 2 xã Thiện Kế và Ngọc Mỹ; 2 cuộc PVS dành
cho 2 doanh nghiệp gia đình.
- Toàn bộ dữ liệu định tính thu thập được trong quá trình khảo sát được
gỡ ghi âm và định dạng văn bản, trích dẫn trong quá trình phân tích.
8. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trong luận án đã phân tích sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của
người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp, với sự áp dụng các lý thuyết
biến đổi xã hội, lý thuyết di động xã hội, lý thuyết thị trường lao động và
phương pháp điều tra Xã hội học, bước đầu được thể hiện một cách có căn cứ
20
khoa học và tương đối hệ thống.
- Khi thu hồi đất nông nghiệp nhiều hộ gia đình nông dân rơi vào trạng
thái bị động, khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, qua
nghiên cứu luận án phát hiện nhiều hộ gia đình nông dân đã nhanh nhạy, chủ
động, sáng tạo để chuyển đổi nghề nghề và thích nghi với sự hụt hẫng, rủi ro
do tác động của việc thu hồi đất sản xuất.
- Phân tích các yếu tố tác động đến Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm
21
của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
Việc tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì đó là tiền đề cho quá trình thực hiện
luận án, là cơ sở để đánh giá, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn đã
được nghiên cứu, những vấn đề còn để ngỏ, là những gợi mở có tính định
hướng cho những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo, mà luận án cần tập trung
giải quyết.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả thấy rằng, đã có một số công trình
nghiên cứu nổi bật, có liên quan đến một số khía cạnh khác nhau của đề tài
luận án. Các công trình này có thể xếp theo các nhóm nghiên cứu sau đây:
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp – Nông thôn
Chủ đề nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp, nông thôn đã được nghiên
cứu nhiều từ đánh giá về lý luận cho đến các nghiên cứuthực nghiệm.
Tác giả Đặng Kim Sơn (2010) “Một số vấn đề về nông thôn Việt Nam
trong điều kiện mới”. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học -
công nghệ (1997), “Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta” là
những tác phẩm và bài viết đề cập tới những vấn đề phát triển nông nghiệp
trong điều kiện công nghiệp. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề
luôn mới ở Việt Nam, đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Trong gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất
nước vươn lên. Các tác phẩm đã làm rõ thực trạng các vấn đề về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn hiện nay, những thành tựu cũng như những khó khăn,
vướng mắc còn tồn tại. Xuất phát từ thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất những
định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa nông nghiệp, nông dân, nông
22
thôn ngày càng phát triển.
Nguyễn Tiệp (2005) “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá
trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Tác giả mô tả thực trạng thị
trường sức lao động ở nông thôn ngoại thành Hà Nội. Sự phát triển thị trường
sức lao động khu vực ngoại thành Hà Nội đã góp phần vào việc phân bổ
nguồn lực lao động giữa các ngành, các địa phương một cách hợp lý; thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đúng hướng và góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thị trường sức
lao động khu vực ngoại thành Hà Nội cũng luôn phát sinh những vấn đề bất
cập cần giải quyết đó là: Quy mô dân số và nguồn lao động hiện nay ở khu
vực ngoại thành Hà Nội tương đối lớn, chất lượng và cơ cấu lao động mặc dù
có nhiều chuyển biến nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu lao động phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, gây ra tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động
nghiêm trọng. Các dòng di chuyển lao động diễn ra thường xuyên, với quy
mô và tần suất lớn, đặc biệt là di chuyển giữa nông thôn - đô thị và di chuyển
lao động từ khu vực đi ra bên ngoài còn mang tính tự phát, trong khi công tác
quản lý lao động tự do di chuyển còn nhiều bất cập, dẫn tới bất ổn về an ninh
- xã hội; Tốc độ đô thị hoá nhanh dẫn đến nhiều lao động nông nghiệp rơi vào
tình trạng thiếu việc làm hoặc mất việc làm trong khi chưa có kế hoạch đào
tạo, chuyển nghề cho lao động.
Lê Du Phong (2009), “Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân của Hungari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận dụng cho
Việt Nam”. Khái quát nền kinh tế Hungary trước năm 1990 và thực trạng xây
dựng, phát triển nền kinh tế thị trường ở Hungary trong giai đoạn 1990 -
2010, Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và
việc vận dụng những kinh nghiệm của Hungary vào việc xây dựng và phát
23
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới.
Các nghiên cứu về biến đổi xã hội ở nông thôn cũng được tập trung
nghiên cứu như: Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân”; Nguyễn Xuân
Nguyên (1995), “Ảnh hưởng của công nghiệp tới phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn Việt Nam”; Lê Đình Thắng (1998) “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn – những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Lê Quốc Sử (2001),
“Sự chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt
Nam theo hướng CNH – HĐH từ thế kỉ XX đến thế kỉ XXI trong thời đại
kinh tế tri thức”; Nguyễn Đình Quế (2004), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt
Nam trong những năm đầu thế kỉ XXI”; Nguyễn Văn Thu (2006), “ Biến đổi
xã hội ở nông thôn Việt Nam dưới tác động của dô thị hóa, tích tụ ruộng đất
và chính sách dồn điền đổi thửa”. Các tác giả tập trung đề cập đến một số vấn
đề về sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và một số giải pháp
thuộc vĩ mô nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Phân tích
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt nam trong thập nhiên đầu thế kỷ
XXI. Nêu ra những khái niệm, thực trạng và giải pháp và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn: chuyển dịch cơ cấu ngành công
nghiệp; chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ những năm đầu thế kỷ XXI,
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở Việt Nam và phân tích sự phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng. Việt Nam có trên 84 triệu người, trong đó
có 75% dân số sông ở nông thôn. Trong những năm qua, công nghiệp ở thành
thị có sự phát triển nhưng không đủ sức thu hút hết lao động tăng thêm đến từ
nông nghiệp và các vùng nông thôn. Sự dư thừa lao động và sự di dân từ các
vùng nông thôn về các thành phố kiếm việc làm ngày càng tăng nhanh. Hiện
nay, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 42,0% trong cơ
cấu kinh tế và tỷ lệ lao động trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 18% trong
24
tổng số lao động của nền kinh tế.
Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (2009), “Tác động của đô
thị hóa – công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và những biến dổi văn hóa –
xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc”. Tác giả phân tích quá trình đô thị hoá đang diễn ra
và có tác động như thế nào đến cuộc sống của người dân Vĩnh Phúc cũng như
chỉ ra những biến đổi trên “diện mạo” của tỉnh Vĩnh Phúc. Với kết cấu 5
chương, cuốn sách đã dựng lại bức tranh toàn cảnh mọi sự chuyển biến đã và
đang diễn ra trên mảnh đất Vĩnh Phúc gắn liền với quá trình Đổi mới đặc biệt
là về lĩnh vực văn hoá và xã hội. Qua đó những thông tin như: Tác động của
đô thị hoá, công nghiệp hoá đối với dân số, lao động việc làm, sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thiết chế xã hội… đã được trình bày một cách hệ thống và chi
tiết trên cơ sở lý luận khoa học sắc bén với số liệu thống kê cụ thể. Ngoài việc
phân tích rõ sự chuyển biến mọi mặt của đời sống người dân dưới tác động
của quá trình đô thị hoá, công trình còn đề xuất những giải pháp và hướng
phát triển thiết thực cho từng lĩnh vực cụ thể, nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội
cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất để khuyến khích người dân làm kinh tế
tự nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính mình.
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nôn thôn và công nghệp hóa, quá trình
thu hồi đất nông nghiệp được các nhà nghiên cứu quan tâm. Các công trình
nghiên cứu có những đóng góp quan trọng vào việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề
cụ thể: Các nghiên cứu đã chỉ ra sự biến đổi của nông thông trong quá trình
công nghiệp hóa, những nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, những vấn đề trong đổi mới của “tam nông”, vấn đề về quá trình
biến đổi nông thôn, về cơ sở hạ tầng, đời sống người dân, quá trình đồng
thuận/mâu thuẫn trong việc giải phóng mặt bằng cho công nghiệp phát triển,
những vấn đề giải quyết, hướng dẫn người nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa cũng được đặt ra. Những vấn đề về an sinh xã hội, sinh kế cho
25
người nông dân cũng được đặt ra trong những nghiên cứu của các tác giả.
Các nghiên cứu trước đây đã phần nào mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến
di cư lao động nông thôn, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi cơ
cấu lao động việc làm. Tuy nhiên trong nghiên cứu này ngoài yếu tố trực tiếp
nhãn tiền là người dân bị thu hồi đất nông nghiệp không còn tư liệu để sản
xuất thì các yếu tố khác được đi sâu nghiên cứu như tính năng động của các
hộ gia đình (nhận thức về lao động việc làm trong tương lai), kinh nghiệm
sản xuất sẵn có (các hộ gia đình trước khi thu hồi đất nông nghiệp đã có một
nghề nghiệp khác bên cạnh nghề nông nghiệp thì khác gì so với những hộ
thuần nông), các yếu tố về trình độ học vấn, giới, độ tuổi, địa bàn nghiên cứu
cũng được phân tích so sánh. Thông qua các phân tích tác giả sẽ tổng hợp
xây dựng mô hình hồi qui tuyến tính, có khả năng dự báo về sự thay đổi cơ
cấu lao động việc làm trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định. Trong các
nghiên cứu trước đây chưa có nghiên cứu nào phân tích theo mô hình hồi quy
để thấy được sự tác động của các nhân tố từ khách quan đến chủ quan người
lao động trong quá trình biến đổi về cơ cấu lao động việc làm ở khu vực thu
hồi đất nông nghiệp. Qua đó có thể bổ sung vào lý luận, đưa ra các giải pháp
thiết thực giảm thiểu những rủi ro đối với người nông dân xuất phát từ thực
tiễn nghiên cứu.
Các đề tài đã tập trung mô tả những biến chuyển lớn của nông nghiệp,
nông thôn, nông dân trong quá trình phát triển. Những kinh nghiệm xây dựng
nông thôn của các nước để có thể giữ một nông nghiệp bền vững. Các đề tài
cũng dự báo những biến đổi và những mô hình nông thôn mà nước ta có thể
áp dụng. Những biến đổi sâu sắc về nông thôn trong thời kỳ đổi mới đã phần
nào đó nâng cao khả năng, vị thế của người nông dân trong xã hội. Chúng tôi
chia sẻ những thay đổi đó trong lòng xã hội nông thôn nhưng thêm vào đó
trong nghiên cứu của luận án này sẽ phân tích sâu hơn sự “không xác
26
định/chuyển dịch vị thế xã hội” của một số người dân nông thôn khi họ
không còn tư liệu sản xuất trở thành lao động tự do hoặc chuyển hẳn sang
một nghề nghiệp mới.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về di dân nông thôn.
Vấn đề thu hồi đất để xây dựng các khu KĐT, KCN, KCX và các tác
động của nó đến đời sống nông dân là vấn đề kinh tế - xã hội, di dân được
nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Quá trình di dân nông
thôn như một phương thức sinh kế mới của người lao động trong quá trình
công nghiệp hóa.
Một số nhà nghiên cứu di động xã hội trong bối cảnh tiền công
nghiệp H. Kaelble (1977) Historiacal reseach on social mobility (nghiên
cứu lịch sử về di động xã hội). Peter M. Blau và Otis D. Duncan nhìn
chung được xem như một ví dụ kiểm mẫu về nghiên cứu di động xã hội
theo nghĩa xem nó như là quá trình đạt vị thế với tác phẩm The American
Occupational Structure Cấu trúc ngành nghề Mỹ 1967, Mô hình đặt trọng
tâm có thể xếp thứ tự các ngành nghề theo một trật tự khá đồng nhất giữa
và trong lòng xã hội. Một khái niệm hẹp là uy tín nghề nghiệp được đưa ra
hay rộng hơn là vị thế về kinh tế -xã hội.
Ở Việt Nam nhiều tác giả cũng nghiên cứu về di dân từ rất sớm. Lê
Đăng Giang (1996), Vấn đề di chuyển lao động từ nông thôn thông qua phát
triển các cụm công nghiệp làng nghề: nghiên cứu trường hợp các cụm công
nghiệp làng nghề ở Bắc Ninh và Hà Tây, trong Kỷ yếu Hội thảo Việt Nam
học Quốc tế lần thứ 3, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra những luận điểm về quá
trình chuyển dịch lao động ở nông thôn khi phát triển các cụm công nghiệp
làng nghề. Người lao động nông thôn dành nhiều thời gian để làm các công
việc khác nhiều hơn so với nghề nông và thu nhập từ các nghề khác cao hơn
nghề nông. Đặc biệt trong các cụm công nghiệp làng nghề có một số lượng
lao động tự do rất lớn đến làm việc theo “công nhật” (làm ngày nào trả tiền
27
công ngày đó). Quá trình này tạo nên “Chợ lao động” ở làng nghề - một nét
mới trong nông thôn Việt Nam. Tham gia vào chợ lao động chủ yếu là thanh
niên và phụ nữ. Họ từ các vùng lân cận đổ về, đây là những người chưa có
việc làm ổn định. Khác với chợ phiên thông thường ở chỗ: hàng hóa ở đây
chính là "sức lao động" của con người; người lao động đem sức lao động của
mình làm hàng hóa. Đây là một sự kiện xã hội thực đang diễn ra, nó tạo ra
một hiện tượng xã hội mới ở nông thôn - "di cư con lắc trong ngày". Các làng
nghề đã tạo ra không chỉ cơ hội, mà cả việc làm cho một lực lượng lớn lao
động trẻ nông nhàn và góp phần giải phóng sức lao động đó, làm giảm áp lực
“dư thừa lao động trong nông thôn”. Quá trình chuyển dịch lao động từ nông
nghiệp sang công nghiệp đã và đang là một xu thế tất yếu ở nông thôn khi mà
thu nhập từ nông nghiệp thấp hơn so với công nghiệp.
- Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của đô thị hóa đối với lao
động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội”. Trong đó tác giả tập trung
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của quá trình đô thị hóa tới lao
động, việc làm nông thôn nói chung, phân tích và đánh giá thực trạng tác
động của đô thị hóa tới lao động, việc làm nông thôn ngoại thành Hà Nội và
các giải pháp cơ bản cho vấn đề này
- Nguyễn Doãn Khải (2001), “Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước
ta”; Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Những nhân tố ảnh hưởng đến di cư tại các
tỉnh thành Việt Nam”; Tống Văn Chung (2005), “Những nhân tố kinh tế-xã
hội tác động đến sự chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa-hiện đại hóa”. Các tác giả đã khái quát và đưa ra được bức tranh
đa dạng về di chuyển của cư dân dưới những hình thức khác nhau trong giai
đoạn 1986-2010 ở nông thôn Việt Nam, nhằm đóng góp vào việc nhận thức
đúng về động thái chuyển cư ở nông thôn hiện nay. Một số chiều cạnh của đối
28
tượng nghiên cứu mang tính thời sự cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Các nghiên cứu đã hướng đế việc hệ thống
hóa những nhân tố kinh tế-xã hội chính tác động lên sự chuyển cư nông thôn
theo các hướng khác nhau dưới góc nhìn xã hội học trong giai đoạn đổi mới,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án cũng chỉ ra sự gia
tăng di chuyển của cư dân nông thôn dân cư trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội trong thời kỳ Đổi mới.
Nguyễn Thị Hồng Xoan (2012), “Giới và di dân- Tầm nhìn châu Á” là
cuốn sách gồm nhiều bài viết phân tích về mối quan hệ giữa giới và quá trình
di dân trong sự phát triển công nghiệp hóa. Như là một kết quả tất yếu, xu
hướng di dân nông thôn thành thị đang tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng
và đang góp phần quan trọng vào sự gia tăng dân số đô thị hiện nay. Vấn đề
di dân hiện nay đã vượt qua tầm kiểm soát của mỗi quốc gia, và đã trở thành
vấn đề của khu vực khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh
mẽ. Sự xuất hiện mạnh mẽ của các khu công nghiệp nhẹ như may mặc giày
da, của các cơ sở dịch vụ đang cuốn hút nhiều lao động nữ vào các thành phố
lớn ở khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhìn chung ở các
nước đang phát triển ở châu Á, tỉ lệ nữ tham gia vào xu hướng di dân đang
tăng nhanh và vượt qua tỉ lệ nam giới di cư.
Tác phẩm đã phân tích những chiều cạnh từ tổng quan lý thuyết đến
những bức tranh hiện trạng sinh động của lao động trong quá trình chuyển cư.
Với nền móng là các tiếp cận lý thuyết và liên hệ thực tiễn trong di cư, tiếp đó
là một phân tích tổng quan về vấn đề giới và nghiên cứu di dân ở Việt Nam và
Đông Nam Á. Các phân tích về vấn đề luật, chính sách và thực tiễn của phụ
nữ đi lao động ngoài nước nhìn từ góc độ quyền và giới, điều kiện sống và
làm việc của người di cư ở Gurgaon, Ấn Độ, giới tính thứ hai và công dân
hạng hai – nữ công nhân nhập cư niềm Nam Trung Quốc dưới ảnh hưởng của
29
suy thoái kinh tế; tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến phụ nữ nhập
cư thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã mô tả thực trạng vấn đề giới và di
cư ở Châu Á hiện nay.
Như vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu về di cý từ những năm
1980 đã nghiên cứu các dòng di cư để xây dựng kinh tế mới. Sau đó là những
nghiên cứu năm 1990, năm 2000 được đăng tải. Các công trình nghiên cứu đã
tập trung vào phân tích các nguyên nhân và những tác động xã hội từ những
quá trình di dân. Bên cạnh đó các nguyên cứu cũng mô tả cuộc sống, công
việc và các hoạt động. Các công trình nghiên cứu trước đây thường tập trung
vào quá trình di dân nông thôn-đô thị với các nội dung như nguyên nhân của
quá t nh di dân, quá t nh di dân, sự di động theo mùa vụ của quá trình di dân.
Trong các nghiên cứu về di dân nông thôn các tác giả chưa chú trọng đến sức
lao động của người dân nông thôn trong thị trường lao động. Trong nghiên
cứu này sẽ phân tích quá trình di cư trong lao động việc làm khi làm nông
nghiệp không có thu nhập cao như các ngành khác
Tuy nhiên các nghiên cứu chưa chỉ ra di cư như một “chiến lược sống”
của người dân nông thôn khi họ mất đi tư liệu sản xuất, bên cạnh đó trong quá
trình lao động họ có sự dịch chuyển về vị trí, vị thế của mình trong cấu trúc
xã hội.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng khoa học và một số vấn đề
mang tính lý thuyết từ các công trình khoa học đã nghiên cứu. Tác giả sẽ đi
sâu tìm hiểu sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm của người dân nông
thôn sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp mà các đề tài trước còn chưa tìm hiểu
kỹ, những điểm mới trong quá trình biến đổi cơ cấu lao động việc làm. Cụ
thể tác giả tập trung vào những nội dung sau:
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi
đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp là một nhu cầu
30
cần thiết khách quan, điều này đã được các công trình nghiên cứu đề cập.
Tuy nhiên nhìn nhận đất nông nghiệp với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc
thù và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế nhất là đối với
người nông dân. Đất đai đối với người nông dân không đơn thuần chỉ là tài
sản mà nó còn là một giá trị, để xác lập vị thế xã hội của người dân nông
thôn. Khi không còn đất nông nghiệp để canh tác sản xuất thì họ cũng không
còn thực sự thuộc vào giai cấp nông dân mà chuyển dần sang một vị trí, một
vị thế xã hội khác. Sự di động xã hội về vị trí nghề nghiệp và sự di động về
khu vực làm việc của người dân sẽ thay đổi như thế nào sau quá trình thu hồi
đất. Qua đó có thể đưa ra những quan niệm mới, thuật ngữ mới bổ sung vào
hệ khái niệm nghiên cứu. Chính vì vậy đây là một trong những nội dung sẽ
được tiếp tục nghiên cứu trong Luận án.
1.3. Các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Từ rất sớm các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã
được đề cập với các phân tích phong phú, kể cả trong các chính sách phát
triển của Chính phủ.
Quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề
án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Theo đó, mục tiêu
đặt ra là đến năm 2020 sẽ có khoảng 6 triệu lao động nông thôn được đào tạo.
Nguyễn Văn Hưởng, (2015), “Thực trạng công tác đào tạo nghề và giải
pháp hoàn thiện việc tổ chức thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động
nông thôn”. Đã có những phân tích sâu sắc về Kinh nghiệm đào tạo nghề cho
lao động nông thôn ở một số nước trên thế giới như ở các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan và Indonesia. Tất cả đều cho
thấy quá trình đào tạo nghề được phân cấp từ khi học sinh còn đang đi học và
tiếp tục được đào tạo cho người dân khi chưa có trình độ tay nghề để làm
trong các nhà máy xí nghiệp. Tiếp đó tác giả phân tích Tình hình đào tạo nghề
31
và đánh giá công tác tổ chức đào tạo nghề ở Việt Nam. Trong nội dung này
tác giả đi sâu phân tích Quá trình hình thành và phát triển hệ thống đào tạo
đào tạo nghề tại Việt Nam, Quy mô dạy nghề theo các trình độ đào tạo và
điều chỉnh cơ cấu nghề đào tạo, Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề
Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến
năm 2013 Đề án về đào tạo nghề, mạng lưới cơ sở đào tạo nghề nông nghiệp
cho lao động nông thôn cả nước có 1,355 cở sở tham gia công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, trong đó vùng Bắc trung bộ - và Duyên hải
miền Trung là có số lượng đơn vị tham gia lớn nhất với 294 đơn vị, sau là các
vùng như Trung du và Miền núi phía Bắc 287 đơn vị; ĐBSH với 279 đợn vị;
Tây Nam Bộ là 236 đơn vị; các vùng có số lượng đơn vị tham gia đào tạo
nghề thấp nhất là Tây Nguyên với 62 đơn vị và Đông Nam Bộ với 84 đơn vị
tham gia. Một số kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010
đến năm 2013, Theo Tổng cục thống kê, tính đến thời điểm 01/07/2012 cả
nước có 52,581,300 người trong độ 15 tuổi trở lên, trong đó tỷ lệ lao động
trong độ tuổi đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm 17,6%
tương đương với 2,987,573 người, Những điểm hạn chế, yếu kém ảnh hưởng
đến kết quả thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đồn
thời tác giả cũng đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức thực thi chính
sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Phạm Thị Nga (2014) “Quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn
tại trung tâm dạy nghề huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”; Vũ Thị Minh Hòa
(2012), Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề lao động nông
thôn tỉnh Đồng Nai. Các nghiên cứu đã khảo sát thực trạng đào tạo nghề cho
lao động nông thôn tại địa phương để làm cơ sở đề xuất các giải pháp. Căn cứ
các thực trạng đã khảo sát, thống kê, phân tích số liệu tác giả đã đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn Kết quả
32
nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ bỏ học tương đối cao chiếm 21%. Các cơ sở
đào tạo chủ yếu học lý thuyết mà ít được thực hành. Về phía người học gặp
nhiều khó khăn khi đi học trong đó khó khăn về tài chính chiếm tỷ lệ cao nhất
là 37,26%. Trình độ học vấn của lao động nông thôn còn thấp và không đồng
đều gây khó khăn cho giáo viên khi tham gia giảng dạy. Công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh được sự quan tâm của các ban,
ngành, đoàn thể. Tỉnh đã thực hiện công tác dạy nghề cho lao động nông thôn
với các ngành nghề rất đa dạng nhưng chưa thực sự phù hợp với sự định
hướng phát triển của từng huyện. Tuy nhiên, cũng phần nào giúp người lao
động nông thôn giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao tay nghề và thu nhập.
Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu chưa đáp ứng đầy đủ cho hoạt động dạy
nghề, năng lực đào tạo của cơ sở dạy nghề còn hạn chế về đội ngũ giáo
viên…Thời gian đào tạo cho hệ sơ cấp nghề qui định từ 3 tháng đến dưới 1
năm, tuy nhiên ở các nghề đào tạo, tất cả chương trình được xây dựng cho dạy
nghề hệ sơ cấp ở mức thời gian tối thiểu (tức đào tạo 3 tháng) nên kiến thức,
kỹ năng, thái độ của học viên có được sau khi kết thúc khóa học còn hạn chế.
Hiện nay, ở các trung tâm dạy nghề, các xã chưa theo dõi hay nắm bắt số học
viên sau khi tốt có việc làm là bao nhiêu %, thu nhập tăng thêm như thế nào…
Mặc dù kinh phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Đồng Nai trong
các năm qua nhiều, nhưng theo kết quả khảo sát mục đích học để chuyển đổi
nghề còn rất thấp, lao động nông thôn khi tham gia khóa học chưa có ý thức
học để có được một nghề trong tay để ổn định cuộc sống, nhiều người còn có
tâm lý học để biết, đi cho vui khi có thời gian rảnh rỗi và để được nhận tiền
hỗ trợ (tiền ăn, tiền đi lại) khi tham gia học nghề. Nhìn chung hiệu quả đào
tạo trong các năm qua còn thấp.
Kết quả nghiên cứu của Hội đồng Dân tộc (2013), “Kết quả thực hiện
chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm
33
2010 đến 2013”. Kết quả dạy nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu
số: Tổng số lao động nông thôn được học nghề là: 886,621 người, trong đó
lao động dân tộc thiểu số là: 223,792 người, chiếm tỷ lệ 25,24% so với tổng
số lao động được đào tạo. Tỷ lệ lao động dân tộc thiểu số trong độ tuổi được
đào tạo nghề theo Đề án 1956 là: 223,792/7,820,909 người, chiếm tỷ lệ 2,86%
(trong khi tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề của của cả nước là
37,3%). Tổng số lao động nông thôn sau học nghề có việc làm là: 620,028
người, đạt tỷ lệ 73,07% so với tổng số lao động đã học xong nghề.
Tỷ lệ lao động nông thôn, lao động dân tộc thiểu số tự tạo việc làm sau
khi học nghề chiếm tỷ lệ cao 63,1%; đặc biệt lao động học nghề nông nghiệp
tự tạo việc làm chiếm tỷ lệ rất cao (87,74%). Kết quả đào tạo nghề dưới một
năm của 32 tỉnh chỉ chiếm tỷ lệ 4,97% (938,930/18,874,910) so với lao động
trong độ tuổi. Kết quả đào tạo nghề dưới một năm của 26 tỉnh có đông đồng
bào dân tộc thiểu số: số lao động dân tộc thiểu số trong độ tuổi được đào tạo
nghề dưới một năm chỉ chiếm tỷ lệ 5,73% (277,659/4,850,247 người). Kết
quả đào tạo trình độ trung cấp nghề của 21 tỉnh có đông đồng bào dân tộc
thiểu số chỉ chiếm tỷ lệ 0,48% so với tổng số lao động dân tộc thiểu số
(18,641/3,887,043 người). Kết quả đào tạo trình độ cao đẳng nghề của 16 tỉnh
có đông đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm tỷ lệ 0,17% so với tổng số lao
động dân tộc thiểu số (6,016/3,445,927 người).
Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, lao động nông thôn vùng dân tộc
thiểu số được đào tạo chủ yếu là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức sản xuất (dưới
3 tháng). Đặc biệt, thiếu các cơ chế, chính sách ưu tiên đối với người học
nghề là người dân tộc thiểu số. Một số quy định, định mức về hỗ trợ đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, lao động dân tộc thiểu số chưa phù hợp, chưa
đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề tại địa phương. Về chủ quan, có thể thấy sự
thiếu thống nhất trong phối hợp về nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến đào
34
tạo và dạy nghề giữa các Bộ, nhất là mối quan hệ giữa Bộ LĐTB&XH (cơ
quan chủ trì thực hiện Đề án) với các Bộ, ngành. Chưa phát huy tốt vai trò của
các Bộ (như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Bộ
Giáo dục & Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Dân tộc…) tham gia chương
trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề ở vùng nông thôn DTTS (hơn 70% lao
động DTTS làm nông nghiệp). Nhận thức của các cấp, các ngành chưa đầy
đủ; chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho LĐNT, LĐDTTS trong quá trình thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Tư tưởng
trông chờ, ỷ lại sự bao cấp, giúp đỡ của Trung ương còn nặng nề.
Các đề tài nghiên cứu ở quy mô lớn nhỏ khác nhau đã mô tả và phân
tích khá sâu sắc vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những thành
tựu đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá trình đào tạo nghề cho lao
động nông thôn để đề xuất hoàn thiện chính sách.
Tuy nhiên, nhận xét thấy có một điểm chung trong các khảo sát, nghiên
cứu trên tập trung mô tả đào tạo nghề cho lao động nông thôn mà chưa có phân
tích về giới trong đào tạo nghề. Không làm rõ tỷ lệ giới trong đào tạo nghề.
Lại Ngọc Hải (2006), “Về giải quyết việc làm cho nông dân ở những
nơi thu hồi đất”; Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2009), Giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa; Phan Minh (2010),
“Một số giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn hiện nay”; Trần
Thị Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 Phạm
Mạnh Hà (2013) “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Niinh
Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Trình bày một số vấn đề lý luận và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm
của nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực trạng việc
35
làm của nông dân dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn
2000-2007 cũng như một số giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông
dân trong vùng đến năm 2020, Các tác giả đã phân tích số lượng diện tích đất
trồng trọt ở nhiều địa phương tiếp tục bị thu hẹp. Bên cạnh một bộ phận nông
dân chuyển đổi nghề nghiệp, nảy sinh tình trạng một bộ phận nông dân có
diện tích đất bình quân đầu người vốn đã thấp (đặc biệt là đồng bằng sông
Hồng), nay càng thấp hơn. Sau đền bù, giải tỏa, đời sống, việc làm của hàng
triệu nông dân (con số ước tính) thuộc những vùng đất bị thu hồi đang là vấn
đề bức xúc. Cả nước có 36 tỉnh, thành phố có các khu công nghiệp, khu chế
xuất đi vào hoạt động. Quá trình đó đã tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao
động. Tuy nhiên số đó quả còn quá thấp so với số nông dân trong diện thu hồi
đất, đòi hỏi chúng ta cần có các biện pháp giải quyết đồng bộ và khả thi. Cần
coi đây là vấn đề thuộc trách nhiệm của cả xã hội. Trong các phân tích các tác
giả chỉ rõ việc xây dựng những chính sách đồng bộ và trách nhiệm các nhà
đầu tư (các chủ thể kinh tế được cấp hoặc thuê đất) cùng hợp sức giải quyết.
Theo đó, phân rõ trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi chủ thể, có chế tài đủ mạnh,
chỉ đạo tập trung và thống nhất, kiểm tra sâu sát, thật sự dân chủ và công khai
trong quá trình tổ chức thực hiện. Giải quyết tốt việc làm cho người nông dân
vùng bị thu hồi đất canh tác để thực hiện CNH là một trong những mắt xích
quan trọng góp phần làm cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
ở nước ta phát triển vững chắc và toàn diện.
Nguyễn Hữu Dũng (2005), “Thị trường lao động và định hướng nghề
nghiệp cho thanh niên”; Tổng cục Dạy nghề (2007), “Thị trường lao động
việc làm của lao động qua đào tạo nghề”. Các nghiên cứu trình bày hệ thống
một số vấn đề về thị trường lao động và định hướng nghề nói chung và cho
thanh niên nói riêng; làm rõ mối quan hệ giữa thị trường lao động và người
dân được đào tạo nghề cũng như thanh niên; đánh giá thực trạng này đồng
36
thời dự báo cung, cầu lao động đến 2010; khuyến nghị các giải pháp phát
triển thị trường lao động, định hướng nghề nghiệp và việc làm cho thanh niên
thời gian tới.
Ngô Anh Ngà (2003), “Tạo việc làm tại chỗ, hướng khắc phục tình
trạng nông dân bỏ quê lên thành phố kiếm sống”; Phạm Lê Mai (2009), “Tạo
việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình
đô thị hóa ở quận Cầu Giấy”; Nguyễn Văn Đại (2012), “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ Công nghiệp hóa-
Hiện đại hóa.”; Đề án “Một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào
tạo nghề và việc làm cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp”. Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề (2001) “Mô hình dạy nghề
và giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng
đất”. Trên cơ sở số liệu thực tế nghiên cứu tại các vùng nông thôn, các phân
tích đã đánh giá những thành tựu căn bản đạt được ở các khu vực nông nghiệp
nông thôn trong quá trình CNH, HĐH. Khu vực nông thôn hiện có khoảng 24
triệu lao động. Nhưng trên thực tế, người lao động chỉ sử dụng khoảng 80%
thời gian làm việc; 20% thời gian còn lại (tương đương với 4,8 triệu lao động)
nhàn rỗi. Theo dự báo, trong 5 năm tới, số lao động ở khu vực nông thôn tăng
thêm 5 triệu người, cùng với khoảng 2,5 triệu người mất việc do đất nông
nghiệp chuyển đổi mục đích trong quá trình đô thị hóa và CNH, HĐH; cộng
với số lao động quy đổi do chưa sử dụng hết thời gian lao động, cả nước có
tới 12,3 triệu người cần việc làm. Như vậy, giải quyết việc làm cho cư dân
nông thôn vốn là vấn đề xã hội bức xúc, trong 5 năm tới lại trở nên bức xúc
hơn. Vấn đề này nếu không được giải quyết tốt sẽ cản trở đến sự phát triển
KT-XH của đất nước, tác động trực tiếp đến việc giữ gìn an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội. Bởi lẽ hiện nay, lao động nông thôn không chỉ chiếm tỷ
trọng cao, cơ cấu mất cân đối, mà còn hạn chế về tay nghề (có tới 72,5% chưa
37
qua đào tạo). Do kinh tế nông thôn về cơ bản là thuần nông, lao động theo
thời vụ, ngành nghề phát triển chậm, nên sau khi thu hoạch mùa màng, nhiều
người không có việc làm, phần lớn phải đi tìm việc ở các đô thị và khu vực
tập trung công nghiệp (có địa phương chỉ còn 20 - 30%, trong đó chủ yếu là
người già và trẻ em). Các nghiên cứu cũng đi sâu phân tích sâu phương diện
chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng đời sống nông dân. Bài viết cho
rằng để làm tăng thêm hiệu quả của những chủ trương, chính sách, đề án của
Đảng và Nhà nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng cuộc
sống thì dạy nghề cho nông dân là một giải pháp cần phải đặc biệt quan tâm.
Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra một số những khó khăn, thách thức gặp phải
khi thực hiện chủ trương này. Đồng thời cũng tìm ra những hạn chế trong vấn
đề này và đề xuất giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động giải
quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn đến năm 2020,
Như vậy các đề tài nghiên cứu ở quy mô lớn nhỏ khác nhau đã mô tả và
phân tích khá sâu sắc vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những
thành tựu đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá t nh đào tạo nghề
cho lao động nông thôn để đề xuất hoàn thiện chính sách. Các công trình
nghiên cứu đã tập trung phân tích quá trình đào tạo nghề cho nông thôn theo
các chương trình dự án của Nhà nước. Ngoài những kết quả được tổng kết về
công tác đào tạo nghề cho người dân nông thôn thì các các đề tài cũng nêu bật
những mặt còn hạn chế trong quá trình đào tạo. Những bất cập đó là những
quá trình đào tạo còn mang nhiều tính hình thức, chất lượng chưa cao, nghề
nghiệp được đào tạo chưa thực sự gắn với những biến đổi của nền kinh tế thị
trường. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đồng ý với các phân tích của các
đề tài. Thêm vào đó trong đề tài chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn hiệu quả của
quá trình hỗ trợ nông dân đào tạo nghề.
Tuy nhiên các phân tích thể hiện tầm vĩ mô bên cạnh đó mới chỉ đánh
38
giá công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các đề tài chưa thực sự đi
sâu vào phân tích những biến đổi từ quá trình đào tạo nghề. Đặc biệt chưa
phân tích mảng đào tạo nghề cho người dân bị nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Bên cạnh đó tính bền vững của các khóa tập huấn đào tạo nghề, hiệu
quả của các công tác này trong những năm tiếp theo cũng chưa thực sự được
phân tích một cách rõ ràng. Đồng thời thái độ, quan điểm, đánh giá của người
dân trong công tác đào tạo nghề chưa thực sự được phân tích kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, nhận xét thấy có một điểm chung trong các khảo sát, nghiên
cứu trên tập trung mô tả đào tạo nghề cho lao động nông thôn mà chưa có phân
tích về giới trong đào tạo nghề. Không làm rõ tỷ lệ giới trong đào tạo nghề.
1.4. Các nghiên cứu về thực trạng lao động, việc làm nông thôn ở
khu vực nông thôn có thu hồi đất nông nghiệp
Ở đề tài Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn Việt Nam do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tiến hành
trong khuân khổ dự án IAE- MISPA/ hợp đồng nghiên cứu số 2005/IAE/SF/002,
Nghiên cứu tiến hành năm 2006 do nhóm tác giả Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh
Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Lưu Đức Khải.
Phần đầu của đề tài đi vào mô tả sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn ở các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Mông Cổ, Trung Quốc để so
sánh đối chiếu với Việt Nam.
Trong đề tài này nhóm tác giả tập trung phân tích thực trạng chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam và các yếu tố tác động đến quá
trình chuyển dịch đó trong thời gian 15 năm kể từ 1990 đến 2006, Đây là một
tác phẩm quan trọng để Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của các nước.
Trong nước các đề tài rất chú trọng tới lao động việc làm của người dân
nông thôn. Các tác giả đã đi sâu phân tích theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn – thực trạng và giải
39
pháp” Nguyễn Văn Nam (2009), “Việc làm của nông dân sau khi thu hổi đất”;
Trần Quang Tuyến (2014), “Đất đai,việc làm phi nông nghiệp và mức sống
hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô”
Vũ Hào Quang, Trương Ngọc Thắng, Vũ Thùy Dương (2013), “Biến
đổi xã hội nông thôn trong quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô
thị hóa”, trong đề tài này nhóm tác giả đã phân tích quá trình dồn điền đổi
thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa tác động đến làm biến đổi xã hội nông
thôn. Cụ thể, quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa làm
biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, biến đổi quan hệ lao động nông thôn.
Tại chương 4 của đề tài có phân tích vấn đề dư thừa lao động, thất
nghiệp do chuyển đổi đất nông nghiệp thành công nghiệp. Tình trạng thu hồi
đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp đã làm cho nông dân thiếu việc
làm, thất nghiệp và dư thừa lao động.
Nguyễn Hữu Dũng (2006), “Nghiên cứu thực trạng thu nhập, đời sống
và việc làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp,
khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu cộng đồng và lợi
ích quốc gia”. Trong nghiên cứu tác giả đã trình bày một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, thực trạng, quan điểm và giải pháp về thu nhập, đời sống, việc làm
của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia
Các luận án nghiên cứu về quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của
người dân nông thôn sau khi thu hồi đất như: Nguyễn Văn Nhường (2011),
“Chính sách An sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển các khu công nghiệp”. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của
đô thị hóa đối với lao động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội” Trần
Thị Lan (2013), “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để
xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”; Phạm Thị
40
Hương (2013), “Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng Bằng Sông Hồng
trong quá t nh CNH- HDH nông nghiệp, nông thôn”; Khúc Thị Thanh Vân
(2102) “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ ở nông thôn đồng
bằng Sông Hồng hiện nay”. Các luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
về thu hồi đất nông nghiệp. Đặc biệt là tác động của nó đến các nhóm lợi ích
có liên quan. Đánh giá đúng thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và tác động
của nó đến các nhóm lợi ích ở các địa bàn được nghiên cứu. Rút ra những
thành tựu, những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Đề xuất định hướng thu hồi đất
nông nghiệp và các giải pháp giải quyết các xung đột lợi ích trong quá trình
chuyển đổi đó. Luận án đã đi sâu nghiên cứu các cơ sở khoa học của sự
chuyển đổi, làm rõ các vấn đề kinh tế xã hội nả y sinh, cơ sở của sự thay đổi
lợi ích và lợi ích nhóm; chỉ rõ các can thiệp vĩ mô để đảm bảo hài hòa về lợi
ích giữa các nhóm liên quan đến quá trình chuyển đổi.
Quá trình thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra những
thách thức đối với người dân nông thôn trong quá trình sinh kế. Người dân
không còn tư liệu sản xuất bắt buộc họ phải tìm kế sinh nhai mới. Quá trình
này gần như là một quá trình bị động khiến người dân khó có thể chuẩn bị kịp
về cả tâm thế thái độ cũng như những kỹ năng cần thiết để có thể thích ứng
với điều kiện mới.
Nguyễn Bình Giang (2012),“Tác động xã hội vùng các khu công
nghiệp ở Việt Nam”. Cuốn sách đã khái quát sự phát triển các KCN tại Việt
Nam, đến năm 2010 cả nước đã có 173 KCN đi vào hoạt động, trung bình
mỗi KCN xấp xỉ 253 ha, vùng Đông Nam Bộ có diện tích KCN lớn nhất cả
nước 33,290 ha. Các KCN đã đem đến nhiều tác động tích cực như khoản đền
bù đất cao hơn khi sử dụng đất nông nghiệp, nếu sản xuất đất nông nghiệp ở
Vĩnh Phúc mỗi năm nông dân thu được 900 nghìn đồng/sào, nông dân nhận
tiền đền bù đất 30 triệu, bằng 50 vụ lúa, 25 năm canh tác của người nông dân,
41
hoặc nông dân có điều kiện về việc làm trực tiếp và gián tiếp từ KCN, đem lại
thu nhập cao, cải biến đời sống, ví dụ sau thu hồi đất, số nhà mái bằng tăng
31,1%, nhà hai tầng 5,7%, các tiện nghi tăng 2-3 lần so với trước thu hồi.
Nhưng mặt tiêu cực của việc xây dựng các KCN cũng không nhỏ, tác động
đến thu nhập, việc làm và môi trường sống, môi trường xã hội, vì vậy cần giải
quyết vấn đề đó. Cuốn sách mở hướng nhìn rộng hơn khi tìm hiểu các kinh
nghiệm ở các nước Đông Á. Các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị: Cần
chuyển mục đích sử dụng đất; giúp nông dân chuyển đổi nghề; phát triển công
nghiệp xanh và cung cấp hàng công cộng.
Công trình khoa học cấp Nhà nước KX.01 – 2005 của trường Đại học
Kinh tế Quốc dân về “Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong
quá trình CNH, HĐH và ĐTH”. Theo số liệu điều tra của Đại học Kinh tế
quốc dân tốc độ thu hồi đất để xây dựng KCN và đô thị tăng nhanh, ví dụ đến
năm 2003 tổng diện tích đất thu hồi là 18,240 ha, riêng giai đoạn 2001 – 2003
là 6,500 ha, dự kiến sẽ tăng khi những năm tới các tỉnh thành trong cả nước
vẫn tiếp tục kiến nghị đưa vào quy hoạch xây dựng KCN, khoảng 35,000 ha.
Tác phẩm trên đã chỉ ra những bất cập khi nông dân không còn đất canh tác,
do không được đào tạo nên phần lớn không có việc làm và thu nhập. Cần phải
giải quyết vấn đề đó, bằng các chính sách như: chính sách đền bù, hỗ trợ, tái
định cư và chính sách tạo việc làm cũng như trách nhiệm của các doanh
nghiệp trong thu hồi đất.
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010, của Học viện Chính trị - Hành chính
khu vực I, do Trần Thị Minh Ngọc làm chủ nhiệm, “Nghiên cứu về giải quyết
việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội”. Các tác giả đã
chỉ rõ tác động của nó đến việc phát triển của thị trường lao động. Lao động
làm công ăn lương có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động, thì 80% tập
trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn và KCN). Tuy nhiên,
42
thu hồi đất xây dựng KCN, KĐT đã làm cho 2,5 triệu nông dân không có việc
làm. Khu vực ngoại thành Hà Nội đến năm 2009 đã thu hồi 24,400 ha đất, số
lao động mất việc từ đó khoảng 40,000 người; Nhà nước cần có chính sách
tạo điều kiện để nông dân bị thu hồi đất có việc làm lâu dài, tạo việc làm tại
chỗ cho lao động trên 35 tuổi.
Đề tài khoa học cấp cơ sở, của Viện nghiên cứu quyền con người, do
Đặng Dũng Chí chủ trì, “Nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các hộ
nông dân bị thu hồi ở đồng bằng Sông Hồng”. Qua tìm hiểu thực trạng việc
làm cho nông dân mất đất và những khó khăn trong mưu sinh của những
người nông dân không còn đất canh tác, tại các vùng đồng bằng sông Hồng,
đề tài đã đưa ra những luận cứ về bảo vệ quyền lao động của nông dân bị thu
hồi đất. Lao động là quyền cơ bản nhất của con người, Nhà nước ta, trong quá
trình thu hồi đất phải có những chính sách cụ thể đảm bảo quyền lao động của
nông dân không còn đất.
Công trình của Chu Văn Cấp về “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác
động của chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH,
HĐH”, đã đề cập vấn đề nông dân không có việc làm khi mất đất, sử dụng đất
đai sai mục đích và ô nhiễm môi trường. Tác giả nêu lên thực trạng: có 37,7%
số người bị mất đất có thu nhập thấp hơn khi còn đất, thất nghiệp tăng từ
5,22% lên 9,1%, được nhận vào làm ở KCN chỉ có 2,79%. Hơn nữa quản lí
đất đai chưa chặt chẽ, đã có hàng trăm ha đất không sử dụng đúng mục đích,
làm cho các khiếu kiện về đất đai chiếm 85% trong số đơn kiện trình Quốc
hội, vi phạm về bảo vệ Môi trường lên tới 12,000 cơ sở trong cả nước… Qua
đó cần có giải pháp như: tăng cường đầu tư nông nghiệp, dạy nghề cho nông
dân và hoàn thiện chính sách thu hồi đất.
Nhóm tác giả Lê Viết Thuận, Phan Thị Ngọc đã nghiên cứu về: Tác
động của chính sách thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng
43
đất đai tới việc làm và quan hệ xã hội (qua trường hợp thôn Gia Trung, xã
Quang Minh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Công trình đã phân tích những
biến động trong đời sống xã hội của một địa phương nhỏ vào thời kì đầu thu
hồi đất ở huyện Mê Linh 2001 – 2004, Năm 2001, tại thôn Gia Trung, đã thu
hồi 90% diện tích đất nông nghiệp để xây dựng KCN và KĐT, làm 50% tổng
số lao động không có việc làm, các quan hệ xã hội bị thay đổi không như
mong muốn. Phương pháp phân tích tài liệu được các tác giả thu thập, phân
tích, xử lý từ nhiều nguồn khác nhau: (i) Các quy định trong văn bản pháp
luật của Nhà nước; (ii) Các Nghị quyết, văn kiện của Đảng; (iii) Từ kết quả
khảo sát, điều tra xã hội học; (iv) Từ tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về
bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất; (v) Từ các công
trình, bài viết của các tác giả trong nước; (vi) Từ các trang website; (vii) Từ
các tài liệu nước ngoài,… cho thấy những công trình nghiên cứu của các tác
giả đi trước cũng đã đề cập bức tranh khá toàn diện và "đa màu sắc" về bồi
thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi. Các phương pháp phỏng vấn,
phương pháp thảo luận, phương pháp chuyên gia, khảo cứu điền dã được sử
dụng để thu thập các thông tin thực tễ. Các tác giả đã sử dụng các phương
pháp điều tra của xã hội học nhưng những cách tiếp cận thực chứng để mô tả
đúng về cuộc sống, việc làm, thái độ, hành vi, sự biến đổi trong lòng xã hội
trong quá trình người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập ảnh hưởng của việc thu hồi
đất đến đời sống của nông dân, trên nhiều mặt như: việc làm, thu nhập, về
định giá đền bù, hỗ trợ nông dân mất đất… Luận văn này kế thừa các kết quả
nghiên cứu ấy nhưng nhấn mạnh sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực
của quá trình thu hồi đất cho CNH, HĐH và ĐTH đối với đời sống nông dân,
để tìm những giải pháp thích hợp cho việc phát huy mặt tích cực và hạn chế
tiêu cực của quá trình này tại huyện Mê Linh.
44
- Tác giả Phạm Thu Thủy (2011), (2012), (2013), (, (2014), với một loại
các bài viết và công trình nghiên cứu về bồi thường trong thu hồi đất nông
nghiệp đối với người dân nông thôn. Trong đó tác giả đã phân tích Tác động
tích cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân. Một mặt thu hồi đất nông
nghiệp tạo cơ hội để tăng thêm việc làm cho người lao động. Việc thu hồi đất
hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị sẽ tạo ra nhu cầu về việc làm tăng,
nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết công ăn việc làm cho
nông dân sau thu hồi đất nói riêng và cho lao động xã hội nói chung. Mặt
khác, đô thị xuất hiện, các nhà máy phát triển cũng làm cho "cầu" về nguyên
vật liệu, "cầu" về nông sản phẩm (lương thực thực phẩm) tăng, Sự phát triển
của các khu công nghiệp và đô thị một mặt sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm
cho lao động tại đây, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động
nông nhàn góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này Thúc đẩy
nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động Tác động tích cực tới
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do đó tới cơ cấu lao động. Tuy nhiên Tác động
tiêu cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân Đất đai canh tác nông
nghiệp bị thu hẹp tạo ra sức ép việc làm đối với người lao động. Thu hồi đất
nông nghiệp làm nguy cơ thất nghiệp của nhóm người lao động ở độ tuổi trên
35 là rất lớn. Ở hầu hết các địa phương, số lượng lao động trên 35 tuổi chiếm
tỷ lệ lớn (35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lượng có kinh nghiệm,
song khi bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn
nhất vì tuổi cao nên khả năng được tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó
thích nghi với những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động
chưa qua đào tạo rất nhiều và việc tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề đối
với họ cũng không dễ dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế
rất khó để tìm được việc làm mới. Do không có việc làm ở nông thôn sau khi
bị thu hồi đất, dòng người đi vào thành phố kiếm việc làm ngày một tăng gây
45
ra nhiều hiện tượng tiêu cực, tiềm ẩn sự bất ổn trong xã hội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), "Báo cáo về tình
hình thu hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2008), “ Báo cáo về thực trạng thu
hồi đất nông nghiệp”; Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo tổng
kết thi hành Luật Đất đai và định hướng sửa đổi Luật Đất đai, Bộ Tài
nguyên và Môi trường (2012), “ Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và
pháp luật đất đai.”; Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), “ Báo cáo về tình
hình sử dụng đất nông nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới
và đời sống của người dân có đất bị thu hồi”. Báo cáo phân tích và đánh giá
chủ trương, chính sách về thu hồi đất nông nghiệp xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị mới; thực trạng sử dụng đất nông nghiệp xây dựng các khu
công nghiệp, khu đô thị mới và sự tác động của quá trình thu hồi đất nông
nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới đối với đời sống của
người dân có đất bị thu hồi. Các báo cáo này đã đưa ra những số liệu rất cơ
bản về tình hình thu hồi đất của nông dân thời gian qua, chỉ ra những kết quả
đạt được cũng như những tồn tại bất cập cần khắc phục, trong đó cũng đề cập
vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân sau thu hồi đất. Theo số liệu điều tra
của Bộ NN & PTNT năm 2010 tại 16 tỉnh trọng điểm về thu hồi đất, diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89% và diện tích đất thổ cư chiếm
11%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích đất bị thu hồi lớn nhất,
chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước, tỷ lệ này ở Đông
Nam Bộ là 2,1%, ở nhiều vùng khác là dưới 0,5%. Những địa phương có diện
tích đất thu hồi lớn là Tiền Giang (20,308ha), Đồng Nai (19,752ha), Bình
Dương (16,627ha), Quảng Nam (11,812ha), Cà Mau (13,242ha), Hà Nội
(7,776ha), Hà Tĩnh (6,391ha), Vĩnh Phúc (5,573ha). [38, Tr.436]
Các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thế Nhã (1998), "Thực trạng
46
sản xuất và đời sống của hộ nông dân không đất và thiếu đất ở Đồng bằng
sông Cửu Long”; Nguyễn Đình Hương (1999), “Sản xuất và đời sống của
các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long -
Thực trạng và giải pháp”; Nguyễn Sinh Cúc (2008), “Phát triển khu công
nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”.
Các nghiên cứu đã chỉ ra quá trình sản xuất của các hộ nông dân gặp nhiều
khó khăn trong sản xuất. Những hộ thiếu đất hoặc không có đất thường sẽ
phải thuê/mướn đất để sản xuất. Trong quá trình phát triển các khu công
nghiệp thì các khu công nghiệp tập trung đã đóng góp rất quan trọng vào sự
phát triển chung, vào nguồn ngân sách trung ương và địa phương. Tuy
nhiên, bên cạnh mặt tích cực cũng nảy sinh các vấn đề xã hội bức xúc: do
thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, hàng chục nghìn hộ nông dân
mất đất sản xuất, thiếu việc làm nên thu nhập thấp và giảm dần; các tệ nạn
xã hội phát triển; môi trường sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng; có sự
phân hóa về thu nhập và đời sống trong nội bộ dân cư nông thôn. Khi các
khu công nghiệp mọc lên, đất nông nghiệp giảm xuống.
Hồ Khánh Thiện (2006), “Nông dân đối mặt với thất nghiệp”, Đào
Thế Tuấn (2006), "Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước ta
hiện nay", Nguyễn Lân Dũng (2009), “Bất cập trong sử dụng đất nông
nghiệp”; Tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của quá trình công nghiệp
hóa đô thị hóa trên những “bờ xôi ruộng mật”. Những ruộng nhất đẳng
điền, toàn những bờ xôi ruộng mật bị lấy đi để xây dựng các khu công
nghiệp, khu chế xuất, sân golf hoặc xây các khu nhà để kinh doanh. Việc
làm và thu nhập của các hộ sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, là
đối tượng bị tác động lớn nhất sau khi thu hồi đất và gặp nhiều khó khăn
trong tìm kiếm việc làm mới. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ tái định
cư, nhiều nơi lại thiên về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư mà chưa cân đối
47
quyền lợi với người dân bị thu hồi đất.
Đỗ Đức Quân (2010), “ Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ - Trong quá trình xây dựng, phát triển các
khu công nghiệp”. Giới thiệu các vấn đề lý luận về phát triển bền vững nông
thôn trong quá trình xây dựng, phát triển khu công nghiệp. Trình bày về thực
trạng, phương hướng và một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn
đồng bằng Bắc Bộ trong qua trình xây dựng, phát triển khu công nghiệp.
Lưu Song Hà (Chủ biên) (2009), “Điều tra điểm tâm lý nông dân bị
thu hồi đất làm khu công nghiệp” Đây là một Khảo sát thực tiễn về một số
vấn đề tâm lí của người nông dân có đất bị thu hồi để xây dựng khu công
nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và các kết quả khảo sát đề xuất một số
kiến nghị nhằm tạo điều kiện để người nông dân bị thu hồi đất thích ứng
nhanh chóng và hiệu quả với những thay đổi nảy sinh từ việc xây dựng khu
công nghiệp tại địa phương.
Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (Đồng chủ biên) (2009), “Hậu
giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - Vấn đề và giải pháp”,. Giới thiệu công tác tư
tưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng trong giải phóng mặt
bằng. Thực trạng công tác tư tưởng trong giải phóng mặt bằng ở Hà Nội (từ
2000-2006). Phương hướng và giải pháp chủ yếu trong giải phóng mặt bằng ở
thủ đô trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Thuận An (2012), “Nghiên cứu tổng quan các chính sách,
quy định pháp lý về bồi thường, hỗ trợ,tái định cư của Nhà nước ta từ khi có
Luật đất đai 2003 đến nay”. Thu thập tài liệu, số liệu về công tác bồi thường,
GPMB dự án xây dựng khu đô thị mới tại quận Hải An. Đánh giá, phân tích
thực trạng công tác thu hồi đất, GPMB, và những ảnh hưởng của nó đến
người dân bị thu hồi đất. Rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp
cho công tác thu hồi đất, GPMB ở thành phố Hải Phòng hiện nay.
48
Đỗ Đức Quân (2010), “Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông
thôn vùng đồng bằng Bắc bộ - Trong quá trình xây dựng, phát triển các khu
công nghiệp” Qua khảo sát một số vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ - một
trong những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, tác giả cuốn sách đã góp
phần nhận diện thực trạng của tình hình thiếu việc làm, giảm sút chất lượng
môi trường sống ở những vùng nông thôn bị thu hồi đất làm khu công nghiệp,
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tìm ra hướng giải quyết
phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
Các nghiên cứu đã chỉ ra thực trang việc làm của người nông dân trong
những thời gian qua. Mô tả những công việc mà người dân nông thôn đã làm
để sinh kế. Người dân nông thôn phải đối mặt với những tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm, việc làm bấp bênh. Họ bị đẩy ra trong quá trình công
nghiệp hóa. Quá trình công nghiệp hóa nông thôn đã và đang là một quá trình
biến đổi mà trong đó đó người dân nông thôn đã từng là người quan trong
trọng quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nhưng hiện nay khi quá
trình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra họ đang bị đẩy ra khỏi nông thôn, vị trí
và vai trò của họ dần mờ nhạt. Chính vì vậy cần có phân tích sâu sắc hơn
không chỉ là mô tả một cách đơn thuần lao động việc làm của người dân nông
thôn mà thêm vào đó là những vị trí, vị thế xã hội kèm theo của người dân lao
động nông thôn hiện nay. Dù cách tiếp cận vấn đề có thể khác nhau, những
phân tích và nhận định vấn đề có thể ở những góc nhìn khác nhau song đa số
các công trình nghiên cứu về vấn đề lí luận bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất đã đề cập ở trên, mới chỉ chú trọng đến việc đưa ra khái
niệm. Chưa đi sâu vào những bất cập trong công tác đền bù. Hiện nay công
tác đền bù thu hồi đất đa phần được “qui đổi” thành tiền. Mặc dù quá trình
đền bù có nhiều qui định về các khoản đền bù khác nhau cũng như những
cách thức đền bù khác nhau nhưng các đề tài chưa thực sự đi sâu vào phân
49
tích. Bên cạnh đó quá trình công khai, minh bạch, về các chính sách, về qui
trình còn chưa được phản ánh một cách kỹ càng. Dẫn đến người dân chưa có
một tâm thế tốt cho quá trình tiếp theo. Các đề tài chưa phân tích rõ về những
bất hợp lý trong công tác đền bù đất cho người dân.
Các công trình nghiên cứu về thực trạng cơ cấu lao động việc làm đã
phác họa việc làm của người dân nông thôn. Sự mô tả về nghề nghiệp của
người dân lao động nông thôn được các đề tài đề cập tương đối đa dạng.
Đồng thời các công trình nghiên cứu cũng mô tả các nguyên nhân như sự
chuyển đổi đất nông nghiệp, quá trình đô thị hóa vùng ven đô, do làm nông
nghiệp thuần túy mang lại thu nhập không cao. Trong đề tài này tác giả tập
trung tìm hiểu biến đổi cơ cấu lao động việc làm dưới ảnh hưởng của quá
trình thu hồi đất nông nghiệp. Quá trình người nông dân mất đi tư liệu sản
xuất vừa tạo ra cơ hội để người dân nông thôn thay đổi nghề nghiệp của mình
nhưng cũng tạo nên thách thức đưa đẩy người dân nông thôn thành người thất
nghiệp vì họ khó/không có khả năng kiến tạo việc làm mới. Với những quan
điểm lý thuyết về lao động, thị trường lao động, tiền lương gắn với quan điểm
biến đổi các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất sẽ làm biến đổi xã hội sẽ được
tác giả vận dụng để chứng minh cũng như có thể làm sáng tỏ hơn sau quá
trình nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu tập trung phân tích sự biến đổi
lao động, việc làm nói chung, ít có phân tích sâu khía cạnh tác động về giới
trong quá trình biến đổi. Khả năng thích ứng, chuyển đổi việc làm, xu hướng
dịch chuyển lĩnh vực lao động còn chịu tác động của quá trình phân công lao
động theo giới trong gia đình.
Các công trình trước hầu hết chỉ nói đến hiện trạng nghề nghiệp, mục
đích sử dụng tiền đền bù, thực trạng đời sống kinh tế của các hộ gia đình sau
thu hồi đất tuy nhiên chưa có công trình nào nói đến tâm thế đón nhận sự
thay đổi về việc sẽ không còn tư liệu sản xuất. Quá trình thu hồi đất tạo ra
50
sức ảnh hưởng lớn đến nhận thức thái độ và tâm trạng xã hội của người nông
dân. Một mặt người dân phấn khởi vì có một khoản tiền rất lớn từ đền bù đất
nông nghiệp và những tài sản/hoa màu gắn liền với đất, các thế hệ sau sẽ
không phải vất vả làm nông nghiệp như cha ông, sẽ có nhiều khu công
nghiệp được xây dựng và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế xã hội địa phương
nói chung. Nhưng mặt khác sau đó là những lo lắng về việc làm, tiền đền bù
tiêu cũng hết, về cơ bản các sản vật lương thực đều phải mua, các tệ nạn xã
hội nảy sinh...Nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích tìm hiểu những tâm thế mà các
hộ gia đình chuẩn bị trước những thay đổi của xã hội.
Khi người dân nông thôn không còn đất canh tác quá trình chuyển biến
về cấu trúc lao động việc làm là một quá trình tất yếu không thể tránh khỏi.
Luận án sẽ đi sâu tìm hiểu những thay đổi trong cấu trúc việc làm của người
dân ở khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp. Sự khác nhau giữa các hộ bị thu
hồi số đất nhiều và số đất ít về lao động việc làm. Xem xét sự biến đổi từ
ngành kinh tế Nông nghiệp-Công nghiệp, hay Nông nghiệp – Dịch vụ hoặc
hỗn hợp giữa Nông nghiệp – Công nghiệp- Dịch vụ. Từ đó khái quát thành
xu hướng biến đổi về cơ cấu lao động nghề nghiệp việc làm của người dân ở
khu vực thu hồi đất nông nghiệp. Thêm vào đó xem xét tính đa nghề của
người dân nông thôn hiện nay để phân tích các chiến lực sinh kế khác nhau
giữa các hộ gia đình.
Tiểu kết chƣơng 1: Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đang có những thay đổi liên
tục và nhanh chóng thì các kết quả nghiên cứu về nông nghiệp – nông dân –
nông thôn đạt được trong lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu,
bổ sung và hoàn thiện. Vì vậy rất cần có một công trình nghiên cứu độc lập,
chuyên sâu và có hệ thống về sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm của người
dân nông thôn ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, đây là nhiệm
51
vụ mà luận án sẽ thực hiện.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU
LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
2.1. Các khái niệm cơ bản của luận án
2.1.1. Biến đổi xã hội
Theo từ điển Triết học do M.Rozental’ chủ biên, ”Biến đổi là hình thức
tồn tại phổ biến nhất của tất cả các sự vật và hiện tượng. Biến đổi bao hàm
mọi sự vận động và tác động qua lại, sự chuyển hóa từ trạng thái này sang
trạng thái khác” Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà, 2015,Tr.25]. Cùng với sự
vận động của tự nhiên và tư duy, xã hội cũng không ngừng biến đổi.
Vào giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học cố gắng thực hiện những phân
tích đầu tiên về biến đổi xã hội nhằm giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang
diễn ra trên khắp châu Âu: quá trình công nghiệp hóa và sự mở rộng nên dân
chủ. Từ đó đến nay, biến đổi xã hội luôn được coi là chủ đề trung tâm của xã
hội học. Trong cuốn sách “Những vấn đề lâu bền trong xã hội học” của 2 tác
giả Lynn Barteck và Kenren Mullin Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà, 2015,
Tr.27], biến đổi xã hội được khẳng định là một vấn đề lâu bền của xã hội học.
Nhà xã hội học tiền bối A.Comte đã từng khẳng định rằng xã hội không
ngừng vận động và biến đổi, và chắc chắn biến đổi xã hội sẽ xảy ra, nó theo
một con đường phát triển và những tiến bộ tất nhiên hướng tới một xã hội tốt
hơn. Cùng quan điểm với A.Comte, H.Spencer và K.Marx dựa trên quan điểm
của thuyết tiến hóa cho rằng quá trình biến đổi xã hội phát triển qua các giai
đoạn từ đơn giản đến phức tạp hơn, càng ngày càng thăng tiến hơn. Chính vì
thế, xã hội càng ở giai đoạn phát triển cao thì xã hội càng ưu việt hơn. Tuy
nhiên, hiện nay quan điểm đồng nhất biến đổi với tiến bộ không còn được
chấp nhận. Biến đổi xã hội có thể diễn ra theo hướng tiến bộ xã hội hoặc là
52
theo hướng ngược lại. Biến đổi xã hội theo hướng tiến bộ chính là sự phát
triển của xã hội. Phát triển xã hội chính là sự biến đổi xã hội theo định hướng
giá trị đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Biến đổi cũng có thể là thoái bộ, là phá
hoại hoặc đảo lộn trật tự. Theo A.Gidden, các bậc tiền bối của xã hội học hiện
đại đã định hướng cho việc tìm hiểu những biến đổi đầy kịch tính làm tan vỡ
thế giới truyền thống và khuyến khích việc sáng tạo ra những hình thức mới
của trật tự xã hội. A.Gidden (1997) cho rằng, biến đổi xã hội là một hiện
tượng bình thường trong đời sống xã hội, tuy nhiên nó đang trở nên rất mãnh
liệt trong thời đại ngày nay. Biến đổi xã hội chính là sự thay đổi trong các cấu
trúc cơ bản của một nhóm xã hội hoặc của một xã hội. [Oxford, 2012, Tr.376]
Theo Bruce.J.Conhen và Terri.L.Orbuch (1994), khi nói đến biến đổi
xã hội là đề cập đến sự biến đổi về cấu trúc xã hội hay tổ chức xã hội của một
xã hội. Sự thay đổi đó ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các cá nhân trong một
xã hội. Những biến đổi chỉ ảnh hưởng đến một số ít cá nhân thường không
được các nhà xã hội học nghiên cứu. Percy Cohen, 1968, Tr.108]
Trong từ điển xã hội học của G.Endruweit và G.Trommsdorff , Biến đổi
xã hội được định nghĩa là một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu
của một hệ thống xã hội. Những thay đổi trong biến đổi xã hội có ý nghĩa về cơ
cấu xã hội (đó là hành động và tương tác xã hội), kể cả hậu quả và biểu thị của
những cơ cấu biểu hiện ở các chuẩn mực (nguyên tắc ứng xử), giá trị và các sản
phẩm và tượng trưng văn hóa”. Những thay đổi xảy ra thường xuyên nhưng
không gây hậu quả cho đặc trưng cơ cấu xã hội (chẳng hạn như sinh tử của các
thành viên xã hội) không thuộc biến đổi xã hội. G.Endruweit và G.
Trommsdorff, 2001, tr.27]
Nguyễn Khắc Viện (1994) trong từ điển xã hội học dùng khái niệm
“thay đổi xã hội” nhằm chỉ trạng thái vận động khác nhau: tiến bộ hoặc thoái
bộ, tiến hóa hoặc cách mạng, bộ phận hoặc toàn bộ,… Những thay đổi xã hội
53
thường gắn với những điều kiện khách quan của tồn tại xã hội và những điều
kiện chủ quan của ý thức xã hội, hoặc với sự kết hợp của hai loại điều kiện
đó. Những thay đổi xã hội thường diễn ra khi những trật tự xã hội cũ tỏ ra lỗi
thời và trong lòng xã hội xuất hiện những nhân tố mới đến một mức nào đó.
Theo tác giả Lê Ngọc Hùng (2008), mặc dù “biến đổi” và “thay đổi”
khi dịch sang tiếng anh đều là “change” nhưng không phải bất kỳ một thay
đổi nào hay một sự khác biệt nào của cấu trúc xã hội cũng đều được coi là
biến đổi xã hội. Một sự thay đổi phải đạt tới ngưỡng phân sai, tức là đạt tới
ngưỡng nhận biết được sự khác biệt, sự phân hóa giữa trạng thái trước và
trạng thái sau của sự vật, hiện tượng thì mới có thể gọi đó là sự biến đổi. Sự
biến đổi xã hội là sự thay đổi, sự khác biệt của xã hội quan sát được trong một
khoảng thời gian nhất định nào đó. Sự biến đổi xã hội ở đây là sự biến đổi của
toàn thể xã hội chứ không phải chỉ là sự biến đổi ở khía cạnh xã hội, lĩnh vực
xã hội. Đó là sự khác biệt xã hội, sự phân hóa xã hội có thể quan sát được
của xã hội trong khoảng thời gian xác định. Chính vì thế, khi nghiên cứu sự
biến đổi xã hội đòi hỏi phải đo lường và đánh giá được các trạng thái của xã
hội tại những thời điểm nhất định. Lê Ngọc Hùng, 2008, Tr.267]
Có thể thấy, có nhiều quan niệm khác nhau về sự biến đổi xã hội.
Trong thế giới hiện đại, xã hội không bao giờ là tĩnh tại. Những biến đổi về
chính trị, xã hội và văn hóa diễn ra thường xuyên và có lúc, có nơi rất mạnh
mẽ. Các nhà xã hội học cố gắng tiến hành nghiên cứu về biến đổi xã hội thông
qua sự phân tích quá trình đó. Biến đổi xã hội dưới góc nhìn xã hội học bao
gồm nhiều phương diện, từ biến đổi ngắn đến biến đổi dài hạn, những biến
đổi quy mô lớn đến biến đổi quy mô nhỏ. Nhìn chung, biến đổi xã hội đề cập
đến sự biến đổi về cấu trúc của xã hội (hay tổ chức xã hội của xã hội đó) mà
sự biến đổi nảy ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên của xã hội..
Hiểu theo nghĩa rộng nhất, biến đổi xã hội là một sự thay đổi so sánh với một
54
těnh trạng xă hội hoặc một nếp sống có trước. Có thể hiểu, biến đổi xã hội là
một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ
xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi
qua thời gian. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2010, Tr.35]
2.1.2. Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một khái niệm không mang tính hệ thống mà
mang tính lịch sử. Nhìn chung, trong quá trình lịch sử, trong sự chuyển đổi
của các quan hệ về kinh tế và đời sống các quan điểm về mục đích và nhiệm
vụ của “chính sách xã hội” được thay đổi khác nhau. Mục đích của “chính
sách xã hội” là nhằm để cải cách xã hội trong những thời điểm nhất định, cho
một dân tộc nhất định trước những vấn đề nghiệt ngã hoặc nghiêm trọng của
xã hội. Đại học KTQD và Đại học quốc gia Mokpo Hà Quốc, 2012, tr.112]
Chính sách xã hội được hiểu là tất cả các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự
xuất hiện những rủi ro xã hội, điều tiết cân bằng những rủi ro xã hội, bảo vệ
và cải thiện mức thu nhập, mức trợ cấp và mức sống của từng cá nhân riêng
biệt hoặc từng nhóm người trong xã hội. Người ta cũng có thể hiểu:”Chính
sách xã hội” theo đuổi các mục tiêu làm hạn chế các rủi ro xă hội, ngăn ngừa
việc xẩy ra những hậu quả xấu cũng như ổn định và cải thiện cơ sở thu nhập,
các khoản trợ cấp cũng như đời sống của các thành viên trong xă hội. Những
biện pháp của “chính sách xã hội” sẽ được vận động dựa trên cơ sở các chính
sách kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đại học KTQD và Đại học quốc gia
Mokpo Hà Quốc, 2012, tr.157]
Chính sách xã hội của doanh nghiệp: ở các nước công nghiệp phát
triển, người ta cũng rất coi trọng chính sách xã hội của từng doanh nghiệp,
nhất là những doanh nghiệp truyền thống lâu đời. Ở các doanh nghiệp này,
bên cạnh việc thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội quốc gia cần bổ sung
thêm nhiều quyền lợi cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp của mình
55
như: trợ cấp đào tạo và tuyển dụng con em họ sau này tiếp tục vào làm việc
tại doanh nghiệp, tăng thêm tiền trợ cấp thôi việc, tăng thêm tiền hưu trí… từ
quỹ phúc lợi của doanh nghiệp.
2.1.3. Lao động
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn lao động là trình độ lành
nghề, kiến thức và năng lượng của toàn bộ cuộc sống của con người hiện có
thực tế hoặc dưới dạng tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng
đồng. [World Bank.2000, Tr.35]
Theo các nhà kinh tế học” Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nick Moore, 1980]
Trong quản trị nhân lực: coi nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả
năng lao động, không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề,
lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội Nguyễn
Tiệp, 2008]
Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động,
làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động. Theo đó, nguồn lao động là toàn bộ những
người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động
có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ
trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc
tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước tuổi theo quy
định của Bộ luật lao động). Bộ luật Lao động, 2015]
Như vậy theo đề tài có thể rút ra kết luận lực lượng lao động là những
người từ 15 – 60 tuổi đối với nam và 15-55 đối với nữ. Có đủ năng lực về thể
chất và tinh thần có khả năng tham gia vào quá trình lao động, đang lao
56
động hoặc đang tìm kiếm việc làm.
Lao động là hoạt động tất yếu không thể thiếu của con người. Theo
Marx, cái làm loài người khác biệt với các loài khác là khả năng kiểm soát tự
nhiên bằng hoạt động sáng tạo, đó chính là lao động. Quan niệm xã hội học
Mác xít cho rằng lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người
và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con
người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên.
Lao động là sự thể hiện trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người, trừ phi nó
bị tha hóa do bị tập trung chỉ vào sống sót hay bị tổ chức về mặt xã hội theo
cách mà lao động bị chối bỏ và trở thành gán thành. Marx cho rằng khái niệm
lao động mang nội dung và ý nghĩa của hiện tượng xã hội. Con người lao
động để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của sự phát triển cá nhân và
xã hội. Lao động phụ thuộc vào tổ chức xã hội, vào cấu trúc giai cấp xã hội
Lê Ngọc Hùng, 2009, Tr.73].
Trong từ điển Xã hội học Oxford (2012),những nỗ lực về thể lực, trí
lực và cảm xúc để tạo ra hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân hay tiêu
dùng của người khác cũng được định nghĩa là lao động. [Oxford, 2012,
Tr.254]
Theo Luật Lao động (2012), lao động là hoạt động quan trọng nhất
của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao
động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định đến sự
phát triển của đất nước. Định nghĩa này cho thấy không chỉ lao động phụ
thuộc và xã hội mà sự phát triển của xã hội cũng phụ thuộc vào lao động.
Trong kinh tế học, lao động được xem xét với tính cách là một hiện
tượng kinh tế. Lao động được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra
và là một dịch vụ hay hàng hóa. Trong đó, người có nhu cầu về hàng hóa này
57
là người sản xuất còn người cung cấp hàng hóa này là người lao động.
Xã hội học lao động xem xét lao động không chỉ bó hẹp trong hoạt
động kinh tế mà trước hết lao động được nhìn nhận với tư cách là hiện tượng
xã hội chịu ảnh hưởng của các yếu tố, điều kiện xã hội. Lao động được hiểu
là lao động của con người, lao động xã hội để tạo ra của cải vật chất, tinh
thần đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và xã hội. Như vậy, lao động là
sự nỗ lực về mặt thể lực, tinh thần và tình cảm định hướng vào việc sản xuất
ra sản phẩm nhằm thỏa mãi nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội, đồng
thời đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực người của mỗi cá nhân Lê Ngọc
Hùng, 2009, Tr.81]. Có thể nói, lao động là hiện tượng xã hội nảy sinh, biến
đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Bối cảnh xã hội tác động trực tiếp đến
hoạt động lao động, đồng thời hoạt động lao động cũng tác động ngược trở lại
và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội.
2.1.4. Việc làm
Việc làm là vấn đề thu hút sự quan tâm của các quốc gia, lãnh thổ, các
nhà nghiên cứu và của mỗi người dân. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như
điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp,… ở mỗi quốc gia khác nhau lại có
những quan niệm khác nhau về việc làm. Chính vì thế, thật khó để có thể đưa
ra một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. Ở Việt Nam, Luật Lao động
(2012) quy định Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị
pháp luật cấm.
Như vậy, không phải mọi hoạt động lao động đều được coi là việc làm.
Để một hoạt động lao động được coi là việc làm thì hoạt động lao động đó
cần phải thỏa mãn hai điều kiện: một là hoạt động lao động đó phải có ích và
phải tạo ra thu nhập cho người lao động. Tiêu chuẩn này cho thấy tính hữu ích
và nhấn mạnh đến tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Hai là việc làm đó
58
không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hoạt động
có ích không giới hạn về phạm vi và ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự
phát triển của thị trường lao động ở việt nam trong quá trình phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Từ đó có thể thấy, nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu
nhập nhưng vi phạm pháp luật thì không thể được công nhận là việc làm.Mặt
khác, một hoạt động dù là hợp pháp, và có ích nhưng không tạo ra thu nhập
cũng không được thừa nhận là việc làm. Theo định nghĩa này, những công
việc nhà như chăm sóc người ốm, chăm sóc con cái, đi chợ, nấu cơm, rửa bát,
dọn dẹp nhà cửa, giặt đồ,… do một người phụnữ làm cho chính gia đình mình
sẽ không được coi là việc làm vì những công việc đó không tạo ra thu nhập.
Nhưng nếu những người phụ nữ đó đi làm giúp việc và thực hiện những công
việc nhà tương tự cho gia đình người khác để nhận thù lao thì hoạt động của họ
lại được thừa nhận là việc làm vì được trả thù lao. Đây là một hạn chế trong
quan niệm về việc làm hiện nay ở Việt Nam khiến cho việc làm được trả lương
có điều kiện làm việc và địa vị kinh tế xã hội tốt hơn những việc làm không
được trả công mặc dù những công việc này trên thực tế có thể là một.
Theo từ điển Xã hội học Oxford (2012), việc làm khác với lao động gia
đình không trả công bởi “tiêu chí người thứ ba”. Hoạt động có thể được người
nào đó tiến hành mà không làm giảm tính thiết thực của nó. Trên có sở đó,
việc học tập, tham gia tập thể thao, nấu ăn, hay làm vườn để giải trí không
được là làm việc mặc dù những công việc đó có thể làm cho người ta mệt
nhọc. Công việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ đơn thuần cho tiêu dùng gia
đình không được coi là việc làm. Dịch vụ cộng đồng tự nguyện bao gồm lao
động sinh lợi cho phát triển cộng đồng, hay cung ứng dịch vụ cho người khác,
nhưng thường không được trả công, do đó cũng được coi là một phạm trù
khác với việc làm. [Oxford, 2012, Tr.257]
Cũng theo định nghĩa của luật Lao động thì việc làm có thể được cụ thể
hóa thành ba loại hoạt động, đó là: thứ nhất, việc làm là các hoạt động mà
59
người lao động thực hiện để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
bằng hiện vật do công việc đó mang lại. Thứ hai, việc làm là làm các công
việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Thứ ba, việc làm là làm công việc cho hộ
gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền
công cho công việc đó. Luật Lao động, 2012]
Trong Báo cáo Lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê được
thực hiện hàng năm, việc làm được hiểu là mọi hoạt động lao động từ 1 giờ
trở lên tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm.Theo cách hiểu này,
việc làm được chia làm hai loại là việc làm được trả công và việc tự làm.
Trong đó, việc làm được trả công tức là những công việc mà người lao động
phải hoàn thành trong một thời gian nhất định với những yêu cầu cụ thể về số
lượng và chất lượng công việc do người hoặc nơi trả lương, trả công quy
định, không phân biệt người đó, hoặc nói đó là cá thể hay cơ quan, doanh
nghiệp. Việc tự làm là các công việc mà thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào lợi
nhuận thu được từ hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Việc tự làm gồm
các công việc tự làm của bản thân để tạo thu nhập hoặc làm cho kinh tế hộ
của gia đình mình không hưởng tiền lương, tiền công Trần Thị Thu,
2003].Có thể thấy, cách định nghĩa của Tổng cục Thống kê chính là sự cụ thể
hóa và chi tiết hóa định nghĩa việc làm trong luật Lao động. Để một hoạt động
lao động được coi là việc làm thì hoạt động lao động đó vẫn phải thỏa mãn
hai điều kiện là tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm.
Tác giả Trần Thị Thu (2003) khi nghiên cứu về việc làm cho lao động
nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho rằng, việc làm là phạm
trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết
(vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó [109, Tr.15].
Trong định nghĩa này, tác giả nhấn mạnh đến việc sử dụng được sức lao động
một cách hợp lý nhất bởi lẽ khi con người biết sử dụng sức lao động một cách
60
hợp lý sẽ mang lại những lợi ích tốt nhất.
Xã hội học kinh tế xem xét việc làm với tư cách là vị trí và tương ứng
với nó là vị thế, vai trò trong cấu trúc lao động xã hội [Trần Thị Thu, 2003,
Tr.85]. Bản thân cá nhân mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm
những vị trí nhất định. Mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống
sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá
trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm. Người lao động được coi là
có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã
hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao
động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Khi nói đến việc làm, người ta thường nhắc đến khái niệm lực lượng
lao động. Tại Việt Nam, Tổng cục Thống kê, (2014) lực lượng lao động chính
là dân số hoạt động kinh tế hiện tại bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có
việc làm (đang làm việc) và những người thất nghiệp trong thời gian tham
chiếu (7 ngày trước thời điểm quan sát).
Tuỳ từng cách phân loại mà ta có các hình thức việc làm ở đây ta chỉ
Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời
tiếp cận hai hình thức sau:
Việc làm phụ:là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian
gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.
nhất sau công việc chính.
Với việc nghiên cứu đặc điểm, khái niệm và phân loại việc làm giúp
cho ta hiểu rõ hơn về việc làm từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá một cách
sâu hơn nhằm xác định được các mục tiêu và giải pháp trong việc lập kế
hoạch việc làm.
Như vậy việc làm trong nghiên cứu chính là những hoạt động lao động
tạo ra thu nhập và hoạt động sản xuất ra của cải vật chất có ích cho xã hội (tự
61
làm việc nuôi sống chính bản thân) không bị pháp luật cấm
2.1.5. Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm
Cơ cấu và cấu trúc là hai khái niệm tương đương nhau về mặt ngữ
nghĩa (do cách dịch khác nhau từ một thuật ngữ trong tiếng Anh là Structure).
Theo tác giả Lê Ngọc Hùng (2009), cơ cấu xã hội là kiểu mối quan hệ giữa
con người và xã hội đã trở nên bền vững và ổn định, có khả năng định hướng,
điều chỉnh và kiểm soát hành vi, hoạt động của các cá nhân, nhóm và tổ chức
xã hội. Lê Ngọc Hùng, 2009].
Theo Nguyễn Đình Tấn (2015), cơ cấu xã hội là một “mô hình cấu
trúc”, một chỉnh thể thống nhất, “động”, tương đối ổn định giữa các quan hệ
xã hội và cac nhóm xã hội cơ bản (giai cấp, nghề nghiệp, nhân khẩu, lãnh thổ,
dân tộc, tôn giáo), đan kết vào nhau, và được sắp xếp theo cả cấu trúc ngang
và cấu trúc dọc tạo ra bộ khung cho sự vận động và phát triển của xã hội.
Những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội là nhóm, vị thế, vai trò, mạng lưới
và các thể chế.
Theo các nhà xã hội học, cấu trúc của các quan hệ kinh tế như là yếu tố
quan trọng và cơ bản nhất trong xã hội nói chung. Để xem xét tiến trình phát
triển lao động có thể căn cứ vào lịch sử phát triển xã hội, vào cách tổ chức xã
hội và trình độ công nghệ kỹ thuật Oxford, 2012, Tr 91]. Chính vì thế, khi
xem xét cơ cấu lao động chính là xem xét cơ cấu xã hội của lao động. Cơ cấu
xã hội của lao động là phức hệ các mối liên hệ giữa người với người trong
lao động. Cụ thể đó là quan hệ giữa chủ và thợ, giữa các đồng nghiệp, các
bạn hàng, giữa người cung cấp hàng hóa và khách hàng.
Theo Đại từ điển kinh tế thị trượng: Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ
cũng như xu hướng vận động, phát triển của các loại lao động có ngành nghề
khác nhau. Cũng như cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu lao động theo ngành, nghề
62
là kết quả của sự phát triển phân công lao động theo ngành, nghề.
Nếu phân chia theo ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu lao động sẽ bao
gồm: Lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp, xây dựng, lao động dịch
vụ và lao động ngành nghề khác.
Trong nội bộ ngành, lao động lại được chia thành những ngành hẹp hơn
như: Trong nông nghiệp có lao động trồng trọt, lao động chăn nuôi; trong
công nghiệp - xây dựng có lao động tiểu thủ công nghiệp, lao động công
nghiệp chế biến, lao động cơ khí …
Từ các ngành hẹp, lao động lại tiếp tục được phân chia thành các
ngành nghề với chuyên môn hẹp hơn nữa …Kết quả cuối cùng sẽ tạo nên
một cơ cấu lao động ngành nghề đa dạng với chuyên môn sâu, thậm chí rất
sâu ở từng vùng. Đây chính là điều kiện cơ bản để phát triển kỹ năng nghề
nghiệp và nâng cao năng suất lao động của các ngành, nghề. Nguyễn Hữu
Huỳnh, 1998, 346]
Theo Tổng cục Thống kê, (2014) còn có một số cách chia như, Trong
cơ cấu lao động có việc làm, có thể chia theo một số các đặc trưng: Cơ cấu
lao động có việc làm theo trình độ học vấn, cơ cấu lao động có việc làm theo
nghề nghiệp, cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế, cơ cấu lao động
có việc làm theo loại hình kinh tế, cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế xã
hội, cơ cấu lao động có việc làm theo giới tính, cơ cấu lao động theo nhóm
tuổi,…
- CCLĐ theo giới tính và độ tuổi. Theo tiêu thức này, nguồn lao động
sẽ được chia thành:
+ Lao động nam và nữ.
+ Lao động trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động.
Riêng đối với lao động ngoài độ tuổi lại có thể chia thành lao động lao
động trên và dưới độ tuổi, có khả năng và thực tế có tham gia lao động đã
được qui đổi thành lao động tiêu chuẩn.
63
- CCLĐ theo vùng lãnh thổ
Là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của nguồn
lao động giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ. Đây là kết quả của sự
phân công lao động theo vùng và nội bộ vùng, ưu thế cơ bản của sự phân
công này là tạo điều kiện để phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng.
K.Marx đã khẳng định “Sự phân công lao động theo vùng, làm cho một số
ngành sản xuất nhất định bị buộc chặt vào một số vùng nhất định trong nước”.
Tuy nhiên, cũng cần thấy giữa cơ cấu lao động theo vùng và cơ cấu lao động
theo ngành, nghề trong thực tế không hoàn toàn độc lập với nhau trái lại
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ không có một cơ sở ngành
nghề nào ở nông thôn lại không được triển khai trên một vùng lãnh thổ nhất
định; ngược lại, CCLĐ theo vùng lại chính là sự thể hiện của cơ cấu lao động
theo ngành nghề theo vùng lãnh thổ đó.
- CCLĐ theo thành phần kinh tế
Là quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của lực lượng
lao động giữa các thành phần kinh tế ở nông thôn. Hiện nay ở nông thôn nước
ta, tương ứng với 6 thành phần kinh tế, lực lượng lao động cũng được chia
thành 6 loại như sau:
Lao động làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, lao động làm việc trong
kinh tế hợp tác, lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư bản Nhà nước, lao
động làm việc trong thành phần kinh tế cá thể và lao động làm việc trong
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, lao động làm việc trong thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Về mặt pháp lý các lao động này bình đẳng trước
pháp luật và cũng có quyền và nghĩa vụ riêng của nh.
- CCLĐ theo yếu tố sử dụng nguồn. Nguồn lao động: Là bộ phận dân
số trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật có khả năng lao động, có
nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên
độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc doanh. Đây là
64
cơ cấu hình thành trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia lao động của các bộ
phận hợp thành nguồn lao động nông thôn. Theo đó việc phân loại CCLĐ
theo yếu tố sử dụng nguồn có 2 loại:
+ Dân số hoạt động ở nông thôn: Là những người từ 15 tuổi trở lên
đang hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực
lượng lao động nông thôn, bộ phận này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn lao động hiện có ở thời điểm báo cáo.
+ Dân số không hoạt động kinh tế
Là những người từ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và
không có việc làm vì những lý do như: Đang đi học; già cả, ốm đau, tàn tật
mất sức lao động và đang ở các tình trạng khác.
- CCLĐ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Là quan hệ tỷ lệ cũng như
xu hướng biến động giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật
khác nhau trong khu vực nông thôn. Tiêu thức này cho biết tương quan trình
độ phát triển về chất của nguồn lao động nông thôn, được coi là chỉ tiêu chất
lượng để đánh giá trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoạt động trong lao
động nông nghiệp, nông thôn … Theo đó, lao động nông thôn theo trình độ
chuyên môn kỹ thuật bao gồm cơ cấu sau:
+ Cơ cấu theo trình độ văn hoá, bao gồm các loại như: Lao động đã tốt
nghiệp phổ thông trung học; lao động đã tốt nghiệp cấp II; lao động có trình
độ văn hoá hết cấp I; lao động chưa biết đọc, biết viết .
+ Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động lại được chia
thành: Lao động không có chuyên môn kỹ thuật và lao động có chuyên môn
kỹ thuật.
Riêng với lao động có chuyên môn kỹ thuật lại có thể được phân chia
thành các loại như sau: Lao động có trình độ công nhân kỹ thuật; lao động có
trình độ sơ cấp; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp; lao động có
65
trình độ cao đẳng và đại học; lao động có trình độ trên đại học. Trong mỗi loại
trình độ nói trên, tuỳ theo mức độ lành nghề khác nhau lao động lại tiếp tục
được chia thành các nhóm trình độ chuyên môn cao, trung bình và thấp.
- CCLĐ theo thời gian làm việc thực tế, là các quan hệ tỷ lệ và xu
hướng thay đổi về thời gian lao động thực tế giữa các ngành, nghề khác nhau
trong tổng quỹ thời gian lao động thực tế đã sử dụng ở nông thôn. Tổng cục
Thống kê, 2014, 30]
Theo Bộ lao động thương binh và xã hội: Cơ cấu lao động có thể hiểu
là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện tỷ lệ của từng bộ phận lao động
nào đó chiếm trong tổng số, hoặc thể hiện sự so sánh của bộ phận lao động
này so với bộ phận lao động khác. Cơ cấu lao động thường được dùng phổ
biến là: Cơ cấu lao động phân theo thành thị, nông thôn; Cơ cấu lao động chia
theo giới tính, độ tuổi; Cơ cấu lao động chia theo vùng kinh tế; Cơ cấu lao
động chia theo ngành kinh tế; Cơ cấu lao động chia theo trình độ văn hoá,
chuyên môn kỹ thuật; Cơ cấu lao động chia theo trình độ có việc làm, thất
nghiệp ở thành thị; Cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế. Cũng có thể
hiểu chuyển dịch cơ cấu lao động: là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ phận
trong tổng số lao động, theo một không gian và khoảng thời gian nào đó. Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội , 2001, Tr.45]
Tóm lại, có thể hiểu cơ cấu lao động là tổng thể các mối quan hệ tương
tác giữa các bộ phận lao động trong tổng nguồn lao động xã hội và được biểu
hiện thông qua những tỷ lệ nhất định. Cơ cấu lao động chính là tỷ lệ lực
lượng lao động chiếm lĩnh các lĩnh vực hoạt động trong xã hội. Cấu trúc lao
động xã hội vừa phản ánh trình độ, đặc điểm và tính chất của cấu trúc kinh tế,
vừa là nhân tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Trong nghiên cứu sẽ phân tích cơ câu lao động theo ngành kinh tế, khu
66
vực kinh tế, theo trình độ học vấn, theo độ tuổi, theo tính chất nghề nghiệp.
2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án
2.2.1. Lý thuyết biến đổi xã hội và quá trình chuyển hóa xã hội nông thôn
Biến đổi xã hội là chủ đề chính yếu trong nghiên cứu xã hội học. Các
tác gia luôn muốn giải thích được sự biến đổi xã hội và tìm ra quy luât vận
động của xã hội theo đường hướng nào. Lịch sử của thuyết biến đổi xã hội
gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học nổi tiếng như Auguste Comte,
Herbert Spencer, Emile Durkheim, T.Parsons, Vilfredo Pareto, Robert
Merton, Peter Blau, A.Giddens... và nhiều người khác Bùi Quang Dũng,
2004; G.Endruweit và G. Trommsdorff, 2001; Hermann Korte,1996]. Mọi xã
hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ
là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ở bên trong
bản thân nó. Các quan niệm về “biến đổi xã hội” đã được đưa ra.
Trong quá trinh biến đổi thì thời gian và thời điểm là một nhân tố quan
trọng. Thời gian tự bản thân nó không tạo ra sự biến đổi. Nhưng thời gian cần
thiết cho sự biến đổi mới, thay thế cái đã lạc hậu bằng cái tiến bộ. Biến đổi xã
hội khác biệt về thời gian và hậu quả. Có những biến đổi chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn và không có ảnh hưởng lâu dài. Nhưng cũng có những biến đổi
diễn ra và ảnh hưởng trong những thời kỳ dài, có khi hàng nghìn năm hay vài
thế hệ.
Sự phân loại biến đổi xã hội có thể phân chia như sau:
Căn cứ vào nội dung của biến đổi xã hội có thể chia ra: Biến đổi cơ cấu
xã hội và Biến đổi văn hoá xã hội. Cơ sở biến đổi cơ cấu xã hội là biến đổi
của phương thức sản xuất của cải vật chất. Sự biến đổi cơ cấu gồm biến
đổi giai cấp và biến đổi nghề nghiệp, từ đó, ảnh hưởng quan trọng nhất
đến biến đổi cơ cấu xã hội. Sự biến đổi cơ cấu xã hội thường đi theo sự
biến đổi các thiết chế xã hội. Sự biến đổi cơ cấu xã hội và biến đổi các
67
thiết chế xã hội là tiền đề của sự biến đổi văn hoá xã hội và sự biến đổi văn hoá
xã hội lại tác động trở lại đối với sự biến đổi các thiết chế xã hội và cơ cấu xã
hội. Moore, Wilbert E., 1964, Tr. 374].
Căn cứ vào khả năng kiểm soát của sự biến đổi có thể chia ra: Biến
đổi có hoạch định và Biến đổi không hoạch định. Biến đổi có hoạch định là
những biến đổi được dự báo, được điều khiển, có định hướng, có thể do
nguyên nhân khách quan, có thể do những nhà cải tạo ra các điều kiện thực
hiện những dự án có ý nghĩa toàn xã hội. Biến đổi không hoạch định là những
biến đổi không dự báo trước, bất ngờ, xã hội chưa nhận thức được.
Căn cứ vào tốc độ biến đổi có thể chia ra: Biến đổi chậm, Biến đổi
nhanh, Biến đổi tuần tự, Biến đổi nhảy vọt. Trong lịch sử phát triển của nhân
loại, nhiểu thời kỳ lịch sử phát triển, sự biến đổi của xã hội diễn ra nhanh
chậm khác nhau. Trong đó, biến đổi chậm, tuần tự thường diễn ra một cách tự
phát theo qui luật khách quan, con người chỉ tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho khả năng khách quan được thực hiện. Biến đổi nhanh, nhảy vọt diễn ra
trong trường hợp nhờ nhận thức và hoạt động tự giác.
Căn cứ vào phạm vi ảnh hƣởng của biến đổi xã hội, người ta chia nó
ra thành những biến đổi vĩ mô và những biến đổi vi mô. Những biến đổi vĩ
mô: Đó là những biến đổi diễn ra và xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn.
Diễn ra trong những thời kỳ dài. Một ví dụ điển hình về sự biến đổi vĩ mô là
sự hiện đại hóa, đó là một quá trình qua đó các xã hội trở nên khác nhau bên
trong nhiều hơn, như sự thay đổi các thiết chế xã hội giản đơn bằng những
thiết chế xã hội phức tạp. Biến đổi vi mô: liên quan đến những biến đổi nhỏ,
nhanh được tạo nên những quyết định không thấy hết được, như sự tương tác
trong quan hệ của con người trong đời sống hằng ngày. Reeler, 2007]
Trong quá trình biến đổi xã hội có các lý thuyết chủ yếu để giải thích sự
biến đổi xã hội như: Lý thuyết chu kỳ của Arnold Toynbee, P.Sorokin cho
rằng văn minh hóa được dao động trong ba kiểu của “những trạng thái tâm lý”
68
hoặc rộng hơn: những kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng. Sự
hiểu biết về chu kỳ của sự biến đổi xã hội đã thống trị ý nghĩ của con người.
Những sự lặp lại của các hiện tượng tự nhiên đã dẫn dắt đời sống hằng ngày
của con người và ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận thức của họ
về sự biến đổi xã hội.Với họ, lịch sử được lặp lại mãi trong những chu kỳ
không kết thúc.
Lý thuyết biến đổi về kinh tế có thể kể đến các tác giả phân tích sự biến
đổi kinh tế ở các nước nông nghiệp và từ dó xây dựng mô hình kinh tế như
Fisher, Lewis, Keynes, và Harry T.Oshima, Timmer. Các nhà kinh tế học
phân tích các giai đoạn phát triển kinh tế của một nước, các quá trình vận
động của nền kinh tế khi trưởng thành từ một nước nông nghiệp sang một
nước công nghiệp.
Lý thuyết về xung đột có thể kể đến các tác giả như K. Marx, Simmel,
Max Weber, Ralf Dahrendorf (1959), Percy S. Cohen (1968) “trong các xã
hội, nơi có những chia rẽ sâu sắc giữa các nhóm khu vực, dân tộc hay chủng
tộc, có thể có ít khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế, chính sách phúc lợi xã
hội; do vậy việc thay đổi "cải hóa" đòi hỏi một mức độ đồng thuận Puja
Mondal, 2012, Tr.312]. Các tác gia về thuyết xung đột cho rằng xung đột có
thể do giá trị, quyền lợi và có những xung đột có thể tốt cho biến đổi nhưng
có những xung đột gay ra loạn chức năng trong xã hội.
iến đổi xã hội nông thôn qua các mô hình phát triển nông thôn
Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, vấn đề tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực
nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp ngày càng thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà kinh tế học. Trước đây các chủ nghĩa trọng nông đã nhường
chỗ cho chủ nghĩa trọng thương trong xã hội Trần Bình Trọng, 2002]. Trong
quá trình phát triển công nghiệp, thương nghiệp các nhà kinh tế học đã nghiên
69
cứu và đưa ra một vài mô hình tăng trưởng gắn với chuyển dịch cơ cấu lao
động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó phải kể
đến mô hình của Fisher, Lewis, Keynes, và Harry T.Oshima, Timmer.
[Todaro M.P, 1982, Tr.436]
Đầu tiên là mô hình của Fisher, trong tác phẩm “Các quan hệ kinh tế
của tiến bộ kỹ thuật”, nhà kinh tế học A.Fisher đã phân nền kinh tế thành 3
khu vực, gồm: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ông cho rằng với tác
động của khoa học kỹ thuật tất yếu sẽ kéo theo quá t nh chuyển lao động từ
khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quá trình này sẽ
thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
khối ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ
giảm dần. Như vậy, theo Fisher, chuyển dịch lao động từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Khi đánh giá kết quả và tính bền vững của chuyển dịch lao động cần
phải đánh giá tác động của nó đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
[Fisher A.G.B., 1935]
Bên cạnh đó mô hình tăng trưởng kinh tế của nhà kinh tế học W.Arthur
Lewis trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh tế” ông đưa ra “Mô hình
hai khu vực” lập luận về mối quan hệ giữa khu vực nông nghiệp và khu vực
công nghiệp trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời đưa ra lý
thuyết về chuyển dịch lao động giữa hai khu vực trên cơ sở lý luận về tiền công
lao động ở góc độ thu nhập. Quá trình chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp là do thu nhập ở khu vực công nghiệp cao hơn.
Mô hình Lewis giải thích tăng trưởng diễn ra do sự thay đổi cơ cấu
kinh tế. Một nền kinh tế ban đầu chỉ bao gồm 1 khu vực nông nghiệp được
chuyển thành nền kinh tế bao gồm 2 khu vực nông nghiệp và công nghiệp,
trong đó khu vực công nghiệp đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mô hình Lewis cho thấy, tiền công lao động hay thu nhập là yếu tố rất
70
quan trọng thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực phi nông nghiệp. Khi đánh giá mức độ bền vững của quá trình chuyển
dịch lao động, cần phải xem xét kết quả về thu nhập mà nó đem lại cho người
lao động. Nếu chuyển dịch lao động không đi kèm với mức thu nhập đảm bảo
đời sống cho người lao động thì hiệu quả xã hội của nó còn thấp và thiếu tính
bền vững.
Bên cạnh đó, mô hình Lewis còn có những hạn chế khi cho rằng, tăng
trưởng của khu vực công nghiệp dựa chủ yếu vào thu hút lao động từ nông
thôn ra thành thị với mức tiền công giá rẻ, chỉ cần cao hơn so với thu nhập ở
khu vực nông nghiệp. Điều này làm mô hình Lewis không giải thích được tại
sao công nhân vẫn đình công ở các nhà máy trong khi tiền lương cao hơn so
với khu vực nông nghiệp hay dòng dịch chuyển lao động từ khu vực nông
thôn ra khu vực đô thị vẫn không ngừng tiếp diễn trong khi vẫn tồn tại thất
nghiệp ở khu vực đô thị. 174, W. Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D.
Irwin 1955, tr.453]
Một mô hình được nhắc tới khá nhiều trong phát triển kinh tế là của tác
giả John Maynard Keynes trong công trình: “Lý thuyết tổng quát về thu nhập
và việc làm” đưa ra mô hình việc làm trong nền kinh tế tăng cùng với GDP.
Thất nghiệp phát sinh do tổng cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và
chính phủ đối với hàng hóa và dịch vụ tăng không đủ để GDP đạt mức tạo đủ
việc làm. Có thể xem lập luận của Keynes là cần tăng tổng cầu hay GDP của
khu vực phi nông nghiệp để tạo việc làm, thu hút lao động từ khu vực nông
nghiệp. Nói cách khác, khi lựa chọn mô hình chuyển dịch lao động cần xem
xét quan hệ giữa tăng trưởng GDP và gia tăng quy mô lao động trong nền
kinh tế.
Mô hình của Keynes có hạn chế là chưa đề cập cụ thể đến cơ cấu kinh
tế, năng suất lao động là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản xuất
71
cần được xem xét đi kèm với tăng trưởng và tạo việc làm. Thực tế ở nhiều
nước cho thấy, tăng trưởng GDP không đi kèm với tăng lao động mà ngược
lại. John Maynard Keynes, 1994, Tr.41]
Đối với các nước ở châu Á với những điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và
con người khác với các nước phương tây do đó có những đặc điểm riêng trong
quá trình phát triển xã hội. Mô hình của Harry T.Oshima nhà kinh tế học người
Nhật Bản trong tác phẩm “Tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á gió mùa”
đưa ra lý thuyết về tăng trưởng và tạo việc làm ở các nước châu Á với mô hình
phát triển 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp theo 3 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu: tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp để tạo việc làm cho lao động thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp,
cải thiện đời sống nông dân đồng thời để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực
phẩm cho dân số tăng lên và xuất khẩu nông sản để có ngoại tệ nhập khẩu
máy móc cho phát triển công nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi sản xuất
nông nghiệp hàng hóa phát triển trên quy mô lớn, đặt ra yêu cầu phát triển
mạnh công nghiệp và dịch vụ, trước hết là các ngành công nghiệp, dịch vụ
phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống ở nông thôn như công nghiệp phân
bón, công nghiệp chế biến, các dịch vụ ở nông thôn. Xét theo quá trình CNH
– HĐH phát triển một nền kinh tế, giai đoạn này có thể coi là giai đoạn nền
kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp hay nền kinh tế nông nghiệp
với tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động còn khá cao.
- Giai đoạn hai: đẩy mạnh phát triển đồng thời cả 2 khu vực gồm phi
nông nghiệp và nông nghiệp để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở cả hai khu
vực. Theo Harry T.Oshima, để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở khu vực
nông nghiệp và lao động ở khu vực phi nông nghiệp, nói cách khác để chuyển
dịch nhanh cơ cấu lao động trong giai đoạn này, cần phát triển các ngành
công nghiệp, dịch vụ theo chiều rộng, sử dụng nhiều lao động để tạo đủ việc
72
làm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi tốc độ gia
tăng việc làm lớn hơn tốc độ tăng lao động, nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu
thiếu lao động, tiền lương thực tế tăng nhanh. Đây có thể coi là giai đoạn “cất
cánh” của nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp.
- Giai đoạn ba: phát triển cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông
nghiệp theo chiều sâu, mở rộng áp dụng KH&CN vào sản xuất nhằm nâng
cao năng suất lao động, qua đó giảm cầu lao động và tăng sức cạnh tranh của
các ngành kinh tế. Khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay
thế sản phẩm nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu đi kèm với chuyển dịch cơ
cấu các ngành công nghiệp theo hướng nâng cao hàm lượng công nghệ của
sản phẩm. Khu vực dịch vụ phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng với
hàm lượng GTGT của sản phẩm không ngừng được nâng lên. Giai đoạn này
có thể coi là giai đoạn nền kinh tế phát triển cơ bản dựa vào công nghiệp và
dịchvụ, giai đoạn nền kinh tế công nghiệp và tiếp tục phát triển trở thành nền
kinh tế tri thức.
Một trong những mô hình cần quan tâm là quan điểm của Timmer về
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Tác giả Timmer chia quá trình phát
triển thành 4 giai đoạn
Giai đoạn 1: Bắt đầu phát triển: Trong giai đoạn này nông nghiệp chiếm
một tỷ trọng lớn trong tổng sản phâm trong nước [Mosher, 1966]. Vì thế nguồn
tích lỹ quốc gia phải rút chủ yếu từ nông nghiệp. Nguồn thu nhâp của nhà nước
chủ yếu lấy từ thuế nông nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Giai đoạn 2: Nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu vào tăng trưởng.
Một phần nguồn lợi thu được từ nông nghiệp được đầu tư trở lại cho nông
nghiệp (chủ yếu cho nghiên cứu nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng). Sản
lượng nông nghiệp tăng lên đã đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Giai đoạn 3: Lao động nông nghiệp bắt đầu giảm
Trong giai đoạn này, giữa nông nghiệp và công nghiệp có một sự mất
73
cân đối, nhất là trong năng suất lao động và trong mức thu nhập. Để khắc
phục nhược điểm này cần phải thu hẹp khoảng cách giữa nông nghiệp và công
nghiệp bằng cách đưa nông nghiệp liên kết với toàn bộ nền kinh tế quốc dân
thông qua phát triển thị trường lao động và tín dụng, liên kết kinh tế nông
thôn với thành thị. Tuy nhiên càng liên kết với nền kinh tế chung thì kinh tế
nông nghiệp càng mất tính ổn định và bị phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường
Giai đoạn 4, Lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 20% tổng số lao động
Ở giai đoạn này chi tiêu cho ăn uống trong ngân sách hộ gia đình thành
phố giảm xuống còn 30%. Thu nhập của nông dân bị giảm bớt vì phải áp
dụng kỹ thuật mới trong khi giá nông sản thấp. Trong điều kiện này, xã hội
cần phải trợ cấp cho nông nghiệp để giữ chân một số nông dân ở lại nông
thôn đảm bảo an toàn lương thực. Trong giai đoạn 4 cần có chính sách đối với
nông nghiệp để đảm bảo khả năng thích ứng của nó và giải quyết những mâu
thuẫn chủ yếu cho phát triển.
Theo tác giả Mellor (1995) tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu do việc
tăng diện tích, đa dạng hóa sản phẩm, và thay đổi kỹ thuật để tăng năng suất, đó
là những nhân tố quyết định. Việc đa dạng hóa lao động do thị trường xuất khẩu
và tăng thu nhập trên đầu người có tác động mạnh đến nông nghiệp. R. Barker,
C.P. Timmer, V.B.J. Tolentino,2003, Tr.164].
Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội trong luận án này nhằm giải thích sự
biến cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp
là một dạng biến đổi có hoạch định, từ chủ trương biến đổi cơ cấu nền kinh tế
của Chính phủ là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp
do đó dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp, dịch vụ mà dẫn
đến người nông dân phải chuyển đổi việc làm. Do tính chất của sự biến đổi liên
quan chặt chẽ đến miếng cơm manh áo, sinh kế và những nhu cầu cấp báchcủa
người dân nên mức độ biến đổi là rất nhanh, kết quả của sự biến đổi cho thấy
74
hiển hiện trong đời sống hàng ngày mà ta có thể đo đạc được.
Việc thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra biến đổi vĩ mô đó là biến đổi cơ
cấu xã hội song vừa biến đổi vi ở chỗ đã tác động đến hành vi, tâm thế của từng
cá nhân, từng hộ gia đình, từng độ tuổi, từng giới tính.
Do đó, vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội cho phép luận án luận giải được
một số khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.
2.2.2. Lý thuyết di động xã hội
Lý thuyết di động xã hội không chỉ quan tâm đến sự di động một cách
cơ học mà sâu xa hơn là đặt trọng tâm nghiên cứu sự dịch chuyển đị vị, vị thế
xã hội của mỗi cá nhân trongcơ cấu xã hội, hệ thống phân tầng xã hội. Đã có
nhiều nhà xã hội học nghiên cứu về di động xã hội: giữa thế kỷ XIX có
K.Marx, M.Weber, T.Parsons, J.H.Fichte, J.Mill, đầu thế kỷ XX có M.Pareto,
H.Kaelbel, A.Beteille và nhiều người khác. Thuyết di động xã hội phân tích
sự dịch chuyển về vị trí, vị thế, địa vị xã hội của mỗi cá nhân trong hệ thống
xã hội. Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội,
là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia
đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng
2010, Tr.78]
Trong mỗi hệ thống xã hội bao giờ các nhân cũng có những vị trí xã hội
xác định. Vị trí xã hội hội (social position) của các cá nhân là vị trí tương đối
của cá nhân trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các quan hệ xã hội nhất định.
Mỗi cá nhân tham gia và các mối quan hệ xã hội khác nhau, và trong các mối
quan hệ xã hội đó, cá nhân xác định được các vị trí xã hội của mình. Như vị
trí xã hội của cá nhân trong gia đình, nhà trương, cơ quan, đơn vị....Vị trí xã
hội của cá nhân được xác định trong sự đối chiếu, so sánh với các vị trí xã hội
khác. Những vị trí xã hội bao giờ cũng đi cùng với cùng với những quyền lợi
và nghĩa vụ tương ứng với các vị trí xã hội đó. Các quyền và nghĩa vụ này
75
thường tương ứng với nhau, và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ
quan của các xã hội, các nền văn hóa thậm chí của các nhóm xã hội nhỏ
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr89]. Do vậy vị thế xã hội của một
người nào đó chính là địa vị hay thứ bậc mà những người sồng cùng thời dành
cho trong bối cảnh anh ta sinh sống, lao động và phát triển Phan trọng Ngọ,
1997, Tr.55]. Tất cả mọi người đều có vị thế xã hội, từ lúc lọt lòng con người
đã có vị thế xã hội của mình, nghĩa là vị thế không liên quan đến ý kiến chủ
quan của mỗi người về bản thân mình mà vị thế xã hội của mỗi người là chỗ
đứng, là thứ bậc mà xã hội dành cho một cách khách quan, hay là những gì
mà những người trong xã hội nghĩ về cá nhân. Từ những quyền lợi, khả năng
làm việc, khả năng ảnh hưởng và sự tôn trọng của xã hội đối với một vị thế xã
hội dẫn đến địa vị xă hội của một các nhân trong đời sống xã hội. Mỗi một cá
nhân tham gia vào nhiều cơ cấu xã hội khác nhau, nhiều hệ thống xã hội khác
nhau. Do đó có thể có nhiều vị trí, vị thế, và địa vị xã hội khác nhau. Tuy
nhiên khi nói đến địa vị xã hội của một chủ thể hành động ta luôn hướng tới
một đánh giá chung về địa vị xã hội của các nhân trong lòng xã hội dựa trên
địa vị xã hội trọng yếu mà các nhân đó có được (tùy thuộc vào văn hóa, thể
chế, ý thức xã hội). Địa vị xã hội như vậy được xác định như là sự xác định vị
trí của cá nhân trong cơ cấu xã hội, Tống Văn Chung 2005, Tr.33] nó mang
tính chất ổn định, gắn liền với sự mong đợi đặc thù, những quyền và trách
nhiệm của chủ thể hành động Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.298].
Các địa vị xã hội nằm trong một hệ thống xã hội xác định. Hệ thống xã hội
như là một hệ thống các cá nhân tương tác với nhau trong một hoàn cảnh mà
ít nhất cần có yếu tố vật chất hoặc môi trường, những chủ thể hành động
(actors) được khuyến khích theo xu hướng thỏa mãn. Mối quan hệ giữa họ với
hoàn cảnh của họ được xác định trong một hệ thống các biểu trưng được cấu
trúc và cùng chia sẻ về mặt văn hóa” Tống Văn Chung 2005, tr.34]. Và sự di
động xã hội được thể hiện qua sự thay đổi về địa vị xã hội. Những “địa vị xã
76
hội gán cho” ít có khả năng thay đổi mà những “địa vị xã hội đạt được” sẽ
làm cho các các nhân có thể di động, “đổi vai” trong hệ thống xã hội. Như
vậy đối với mỗi một các nhân cần xác định những vị trí, vị thế xã hội trong
cấu trúc xã hội xem sét sự thay đổi về địa vị xã hội sẽ thấy quá trình di động
xã hội, vị thế và vai trò của các nhân trong hệ thống xã hội.
Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội, là
khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia
đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Do vậy, di động xã hội liên quan đến
sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã hội khác
trong hệ thống phân tầng xã hội. Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị trí
trong hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các
cá nhân giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới, sự
biến đổi cơ cấu xã hội.
Người ta có thể phân biệt di động xã hội theo hai khía cạnh khác nhau.
Một là di động giữa các thế hệ. Thế hệ con cái có địa vị cao hơn hoặc thấp
hơn so với địa vị của thế hệ cha mẹ của họ. Đây là một trong những hình thức
di động quan trọng trong xã hội. Hai là di động trong thế hệ. Trong trường
hợp này, một người thay đổi vị trí nghề nghiệp, nơi cư trú trong cuộc đời làm
việc của mình, có thể thấp hơn hoặc kém hơn so với người cùng thế hệ mình.
Di động xã hội được xác định như là sự vận động của các cá nhân hay
một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị này sang vị trí, địa vị khác. Vì vậy, khi
nghiên cứu di động xã hội, các nhà xã hội học còn chú ý tới các hình thức di
động khác: di động theo chiều ngang và di động theo chiều dọc.
Di động theo chiều ngang: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các
nhóm xă hội, giai cấp xă hội tới vị trí ngang bằng về mặt xă hội. Theo
A.Giddens, trong các xă hội hiện đại, di động theo chiều ngang cũng rất phổ
biến, nó liên quan đến sự di chuyển địa lý giữa các khu vực, các thị trấn,
77
thành phố hoặc các vùng Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.263].
Di động theo chiều dọc: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các
nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc
thấp hơn. Biểu hiện cảu hình thức này di động là sự thăng tiến, đề bạt (di
động lên) và miễn nhiệm, rút lui, lùi xuống, thất bại (di động xuống) Phạm
Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.263].
Cần chú ý là, di động xã hội chủ yếu nói tới dạng địa vị đạt được (giành
được),chứ không phải địa vị gắn cho (có sẵn). Ví như, để phân biệt điều này,
Getard O’Donnell, (1994) phân biệt hai loại di động sau:
- Di động được sự bảo trợ: đạt được địa vị cao bởi nguyên nhân hoàn
cảnh gia đình hoặc yếu tố khác không trực tiếp liên quan đến khả năng hoạc
sự nỗ lực, cố gắng.
- Di động do tranh tài: Đạt được địa vị cao trên cơ sở của sự nỗ lực và
tài năng.
Ngoài các dạng di động nêu trên có thể nêu hai loại nữa. Thứ nhất là di
động cơ cấu. Đây là sự di động xã hội với tư cách là kết quả của sự thay đổi
trong quá trình phân phối các địa vị trong xã hội. Di động cơ cấu diễn ra bất
chấp quy tắc thống trị của địa vị. Thứ hai là di động trao đổi. Trong dạng di
động này một số người thăng tiến (di động lên) thay vào vị trí của một số
người khác di động xuống, kết quả tạo nên sự cân bằng cơ cấu xã hội.
Di động xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau.
Theo cách nói của nhà xă hội học P.Sorokin trong cuốn sách “di động xã hội”
(1927), những nhân tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội là các “kênh dẫn” và
các “cơ chế sàng lọc” liên quan tới hoàn cảnh kinh tế - xã hội chung và đặc
thù mỗi vùng, miền và các đặc điểm của cá nhân như hoàn cảnh gia đình,
trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, v.v.. Về di động dọc, ông xem xét trong
ba khía cạnh, tương ứng với ba hình thức của phân tầng xã hội (social
strafication) (chính trị, kinh tế và nghề nghiệp): sự di chuyển trong nội bộ
78
nghề nghiệp, giữa các nghề, sự quay vòng (circulation) chính trị và sự di động
theo các “thang bậc” kinh tế. Khi đó Sorokin đã phân biệt di động trong
những giai đoạn bình thường, “chuẩn” (normal) về sự ổn định xã hội nhất
định với sự di động trong những giai đoạn xã hội bị suy thoái về cấu trúc
(disorganization) (chiến tranh, thời kì cách mạng, nạn đói, mất mùa…). Nếu
trong những giai đoạn bình thường di động xã hội là quá trình đều đều, được
điều tiết bởi những quy luật cứng nhắc và định rõ ràng, thì trong những thời
điểm hiểm nghèo, khó khăn nhất tính trật tự, tính tuần tự, và tính chất bị kiểm
soát một cách chặt chẽ của di động xã hội thực tế bị phá vỡ, hay nói cách khác
những đặc trưng hỗn loạn biểu hiện ra. Pitirim Sorokin,1928]
Có thể dẫn ra một số yếu tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội sau
đây: Căn cứ vào dòng dõi xuất thân; Giới tính và lứa tuổi; Dân tộc, tôn
giáo Học vấn, tài năng, năng khiếu; Tài sản, của cải của bản thân và gia
đình; Nghề nghiệp.
Bên cạnh đó Glass khi nghiên cứu về di động xã hội của xã hội phương
Tây hiện đại. Khi nghiên cứu những xu hướng di động xã hội trước những
năm 1950 Glass thấy rằng, mặc dầu có nhiều người đàn ông kinh qua sự di
chuyển, phần lớn những di động này có tầm ngắn và đi ngang qua những mức
giữa của tổ chức thứ bậc “khu đệm” (trung gian), và ông thấy rằng sự phân
chia giai cấp không bị sự vận động này phá vỡ. Nhữngg người ở đây hiếm khi
di chuyển lên trên, và gần một nửa những người con trai của giai cấp trung
lưu, vẫn ở lại địa vị của cha mẹ. Glass Social,1950]
Vận dụng lý thuyết di động xã hội trong luận án này tác giả nhằm đến
mục đích lý giải sự tác động của thu hồi đất nông nghiệp làm biến đổi cấu trúc
lao động, việc làm của người dân thì tác động như thế nào đến mức độ cơ động,
dịch chuyển của các cá nhân hay một nhóm lao động cả về địa lý cũng như vị
trí xã hội của họ. Nhân tố tác động đến di động xã hội theo Sorokin thì đó
79
chính là ruộng đất thu hẹp lại hoặc không còn nữa, tạo nên sự di động xã hội.
2.2.3. Lý thuyết thị trường lao động
Đặc điểm, cấu trúc của thị trƣờng lao động
Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của thị trường các yếu tố
sản xuất. Thị trường lao động chỉ có thể hoạt động có hiệu quả chỉ khi các
quyền tự do mua bán sức lao động được đảm bảo bằng luật pháp và hệ thống
các chính sách đi kèm liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia
thị trường. Thị trường lao động chỉ có thể hình thành khi hội tụ đủ các yếu tố
như: (i) Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường, (ii) có định
chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động: trong đó người chủ sử
dụng lao động có quyền tự do mua sức lao động; còn người lao động có
quyền tự do bán sức lao động của mình, (iii) Người lao động không sở hữu tư
liệu sản xuất đủ đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của bản thân và của gia
đình.[K.W.H. van Beek,1993]
Thị trường lao động là một loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị
trường. Đây là loại thị trường của một loại hàng hóa đặc biệt vì nó liên quan
trực tiếp đến con người. Nghiên cứu lý luận về thị trường lao động được bắt
đầu từ những khái niệm, bao gồm những định nghĩa và lý giải về bản chất
hiện tượng, sự vật và những biểu hiện của nó trong những bối cảnh khác
nhau, đặc biệt nhấn mạnh đối tượng thị trường lao động.
Có rất nhiều quan niệm về thị trường sức lao động, mỗi quan niệm nhấn
mạnh một phương diện nào đó của thị trường.
- Theo A.Smith: “Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng
hoá sức lao động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên là người mua sức lao
động và người bán sức lao động” Nguyễn Tiệp 2007, Tr.11-12] khái niệm
này nhấn mạnh đối tượng trao đổi trên thị trường lao động là sức lao động
chứ không phải người lao động, ở đây người lao động là chủ sở hữu sức lao
động của mình, họ chỉ đem bán sức lao động mà không phải bán bản thân
80
người lao động.
- Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO đưa ra định nghĩa: “Thị trường lao
động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một
quá trình thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như
mức độ tiền công” Nguyễn Tiệp, 2007, Tr.11-12]. Khái niệm này nhấn mạnh
đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm và tiền công.
- Theo các nhà khoa học Mỹ thì: “Thị trường mà đảm bảo việc làm cho
người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm được gọi là thị
trường lao động Tổng cục Dạy nghề, 2007, Tr.21]. Định nghĩa này nhấn
mạnh đến quan hệ điều tiết giải quyết việc làm.
- Theo các nhà khoa học kinh tế Nga thì: "Thị trường lao động được hiểu
như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó
có cả luật pháp), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động"
Tổng cục Dạy nghề, 2007, Tr.21]. Quan niệm này cũng nhấn mạnh quan hệ
giải quyết việc làm cho lao động làm thuê.
- Theo Đại từ điển kinh tế thị trường: "Thị trường lao động là nơi mua bán
sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử dụng
lao động (cầu lao động)” Nguyễn Hữu Dũng, 2005, Tr.10]. Quan niệm này
nhấn mạnh mối quan hệ trên thị trường lao động là quan hệ giữa cung và cầu
lao động.
- Theo các nhà kinh tế Việt Nam cho rằng:
Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất
như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội,
tranh chấp lao động …), ở đó diễn ra sự trao đổi, thỏa thuận giữa một bên là
người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động. Tổng cục Dạy
nghề, 2007, tr 21]
"Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có
81
sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số
lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng”
Tổng cục Dạy nghề, 2007, 25], "thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa
sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là những
người cần thuê sức lao động đó” 101, Phạm Đức Thành, 1998, Tr.73]. Các
quan niệm này chỉ rõ có sự thống nhất trao đổi mua bán sức lao động giữa
người thuê lao động và lao động làm thuê.
Sự vận động của thị trường sức lao động tuân thủ các quy luật của nền
kinh tế thị trường. Hàng hoá trên thị trường lao động chính là sức lao động có
tiềm năng về thể lực, trí lực của người lao động, quan hệ cung cầu lao động
trên thị trường lao động là quan hệ thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao
động (về việc làm, nghỉ ngơi, tiền công, và các điều kiện làm việc khác).
Khác với các hàng hoá thông thường, thị trường sức lao động luôn gắn
với chủ thể mang nó, do đó thị trường sức lao động chỉ có thể thực hiện được
trong điều kiện người lao động làm chủ khả năng của mình. Thông qua thị
trường sức lao động, sức lao động được bán, được mua trong một thời hạn xác
định. Con người là chủ thể hàng hoá sức lao động, vì vậy, việc cung ứng lao
động phụ thuộc vào những đặc điểm tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động.
Qua các khái niệm trên cho thấy tính phức tạp trong nhận thức về thị
trường sức lao động, đôi khi dùng thuật ngữ "thị trường lao động”, lúc dùng
"thị trường sức lao động”. Mặc dù còn có những điểm khác biệt, song về cơ
bản các quan niệm trên đều thống nhất với nhau về nội dung các điều kiện
hình thành thị trường sức lao động, đó là: người bán sức lao động, người mua
sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về những
nội dung này. Từ đó có thể hiểu:
Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong
đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên
82
là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên
cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc,
bảo hiểm xã hội… thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng
miệng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 1999, Tr.39]
Quan niệm này càng khẳng định rõ hơn về thị trường sức lao động "thị
trường sức lao động là một hợp phần của kinh tế thị trường. Cũng như bất kỳ
một hình thái thị trường nào, các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động bao
gồm: người mua, người bán và hàng hoá” Nguyễn Hữu Dũng, 2005, Tr.76],
nó đòi hỏi phải giải quyết tốt quan hệ giữa người và người, chủ thể của xã hội.
Tuy nhiên, thị trường sức lao động được hình thành và phát triển cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do đó, khi tiếp cận và nghiên cứu thuật
ngữ sử dụng có sự khác nhau "thị trường lao động”, "thị trường sức lao động".
Theo Mác, dùng thuật ngữ "sức lao động” để phân tích, vạch rõ bản
chất bên trong của phương thức sản xuất tư bản và khẳng định người công
nhân bán sức lao động chứ không phải bán lao động. K.Marx cho rằng, sức
lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực, trí lực của con người, nó nói
lên khả năng có thể lao động, là hoạt động có mục đích của con người, là tiêu
dùng sức lao động trong quá trình lao động.
Khi K. Marx nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá tư
bản chủ nghĩa, K.Marx sử dụng thuật ngữ "thị trường sức lao động" để
phân tích biểu hiện bề ngoài khi quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra "tại
sao người lao động tự do ấy đứng đối diện với người chủ tiền trong lĩnh
vực lưu thông, vấn đề ấy không làm bận tâm người chủ tiền là người đã tìm
thấy thị trường lao động với tính cách là một chi nhánh đặc biệt của thị
trường hàng hoá" K.Marx và Engels, 1993, Tr.253].
Vì vậy "thị trường lao động” (Labour Market) là cách gọi khác nhưng
thực chất là thị trường sức lao động, hơn nữa nếu xem xét đối tượng mua và
83
bán trên thị trường sức lao động là "sức lao động”, nên chính xác thì phải
được gọi là "thị trường sức lao động". Nhưng thực tế, trong các văn bản chính
thống của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cũng như ở nhiều nước phát triển
và ở Việt Nam thường dùng tên gọi "thị trường lao động". Cho nên trong luận
văn việc sử dụng khái niệm thị trường lao động và thị trường sức lao động là
đồng nhất với nhau.
Khi phân tích về thị trường lao động chúng ta cần tìm hiểu các yếu tố
hàn hóa sức lao động, cung lao đông, cầu lao động, giá cả sức lao động, cân
bằng và cạnh tranh trên thị trường lao động. Trong đó cung và cầu lao động là
hai yếu tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến giá cả sức lao động, cân
bằng và cạnh tranh trên thị trường lao động.
Quá trình lao động sản xuất là sự kết hợp của ba yếu tố: sức lao động,
đối tượng lao động và tư liệu lao động, mỗi yếu tố đóng vai trò nhất định
trong quá trình sản xuất, trong đó sức lao động là yếu tố quyết định. Lao động
chính là quá trình đang vận dụng sức lao động. Theo K.Marx: "Sức lao động
hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể thể chất và tinh thần tồn
tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống,và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". K.Marx và Engels,
1993, Tr.251]
Từ khái niệm của Marx về sức lao động có thể hiểu sức lao động bao gồm
toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và
được người đó vận dụng vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó. Thể
lực chính là phần xương thịt của mỗi con người được thể hiện ở ngoại hình:
chiều cao, cân nặng và khả năng hoạt động của mỗi con người. Trí lực là phần
tinh thần, sự thoải mái của con người, sở thích và năng lực chuyên môn. Các
bộ phận này thống nhất với nhau trong một cơ thể sống, sức lao động là yếu
tố tiềm năng của mỗi con người, nó được biểu hiện ra bên ngoài thông qua
84
quá trình con người tiến hành lao động sản xuất. Sức lao động của mỗi con
người đang sống chỉ được người khác nhận biết khi nó tham gia sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó.
Quá trình lao động chỉ con người mới có, con người không chỉ làm biến
đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp; trong những cái đó, con người
cũng đồng thời thực hiện cái mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết
định phương thức hành động của họ giống như một quy luật và bắt ý chí của
họ phải phục tùng nó.
Sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong người lao động,
còn lao động là một quá trình họat động nhằm một mục đích nhất định, là sự
kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của quá
trình sản xuất. Nhưng nó chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện sau đây:
Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể được pháp
luật bảo vệ. nghĩa là người có sức lao động có quyền sở hữu khả năng lao
động của mình, có thể mang ra thị trường bán như một hàng hoá đặc biệt.
[K.Marx và Engels, 1993, tr252]
Hai là, người có sức lao động không còn tài sản nào để bán anh ta buộc
phải đem bán chính ngay cái sức lao động đang tồn tại ở trong cơ thể của cá
nhân.[ K.Marx và Engels, 1993,Tr.253]
Như vậy, sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ cả hai điều kiện
chủ yếu trên vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu
sản xuất trong tay thì họ sẽ tự tiến hành sản xuất ra hàng hóa để bán chứ
không bán sức lao động của mình.
- Phân loại thị trƣờng sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường sức lao động hình thành, phát
triển và hoạt động rất đa dạng với nhiều phân lớp khác nhau. Trong thực tế thị
85
trường sức lao động được phân chia thành các loại sau đây:
+ Phân theo khu vực chia ra thị trường nông thôn và thị trường thành thị.
+ Phân chia theo trình độ quản lý có thị trường sức lao động chính thức
và phi chính thức.
+ Phân chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có thị trường sức lao
động giản đơn và thị trường sức lao động qua đào tạo, trong đó có thị trường
sức lao động trình độ cao. Rafael Lopes de Melo,2008, tr172]
Qua phân tích các đặc điểm và tính chất của thị trường lao động ở xã
hội công nghiệp nhà nghiên cứu Richard Edwards đưa ra lý thuyết thị trường
kép lao động. theo lý thuyết này bất kỳ một thị trường lao động nào cũng
đồng thời tồn tại hai khu vực trung tâm và ngoại vi, hay thị trường hạng nhất
và hạng hai đi liền với nhau.
Thị trường khu vực trung tâm, gồm những công việc được trả lương
cao và có uy tín xã hội. Những lao động nghề nghiệp cổ trắng tức là những
lao động có trình độ chuyên môn cao như bác sỹ, kỹ sư, luật sư thuộc thị
trường lao động này.
Thị trường lao động ngoại vi gồm những loại công việc làm nặng nhọc
và tiền công thấp, chế độ bảo hiểm và phúc lợi kém, uy tín xã hội không cao.
Những lao động cổ cồn xanh và lao động phổ thông thuộc thị trường này.
Thị trường kép lao động chủ yếu nhấn mạnh sự phân cấp về chất của
lao động trên thị trường lao động tức là sự phân chia lao động theo chiều dọc,
trong khi đó lý thuyết thị trường lao động nhánh hay ngách về lao động nói
tới sự phân chia thị trường lao động theo chiều ngang tức là phân chia theo
loại lao động.
Căn cứ vào đặc điểm và tính chất của cấu trúc thị trường lao động xã
hội có thể phát hiện được xu hướng phân hóa và chuyên môn hóa lao động xã
86
hội hiện đại. Một số tác giả dự báo rằng khoảng cách giữa hai thị trường lao
động được trả công ngày càng cao được nhiều người hâm mộ, coi trọng trong
khi số khác bị coi nhẹ và trả công thấp. [Chris Tilly, 2004, Tr.267-268].
Vận dụng lý thuyết Thị Trường lao động trong luận án này tác giả
nhằm hướng đến phân tích khi diện tích đất nông nghiệp thu hồi, người dân
buộc phải tìm công việc khác để làm ăn kiếm sống tất yếu tạo nên một thị
trường sức lao động mới, nhóm lao động trên 40 tuổi và nhóm lao động trẻ
bắt đầu bước chân vào thị trường lao động sẽ phân hóa, nhóm lao động có
trình độ học vấn khác nhau, giới tính… cơ hội cho các nhóm lao động là khác
nhau. Bên cạnh đó, luận án còn vận dụng lý thuyết thị trường lao động để
phân tích về sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực
thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn khảo sát làm nảy sinh quan hệ lao động
mới, chủ- thợ, chủ - người làm thuê.
2.3 Khái quát về chính sách đất đai và thu hối đất nông nghiệp
2.3.1 Tổng quan hệ thống chính sách pháp luật về thu hồi và chuyển
đổi đất đai tại Việt Nam
Đất đai là một trong những tư liệu sản xuất quan trọng không chỉ với
những quốc gia nông nghiệp mà còn với cả những quốc gia công nghiệp hiện
đại. Thực tế cho thấy quá trình phát triển công nghiệp có xuất phát điểm và
dựa rất nhiều vào các nguồn lực được cung cấp từ nông nghiệp, trong đó có
đất đai và lao động. Ở khía cạnh chính sách, việc quản lý về đất đai là một
trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu của Nhà nước và chính sách của
các quốc gia trên thế giới trong quản lý đất đai cũng thường xuyên có sự thay
đổi cho phù hợp với thực tiễn phát triển. Tại Việt Nam trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường đang phát triển sôi động các chính sách quản lư về đất đai
cũng có sự điều chỉnh liên tục trong đó chủ yếu xoay quanh mối quan hệ giữa
87
đất đai với các bên có liên quan: Nhà nước, người dân và nhà đầu tư.
Vấn đề về sở hữu đất đai đã và đều được quy định trong Hiến pháp của
Việt Nam kể từ hiến pháp đầu tiên (năm 1946) tới Hiến pháp thứ tư (năm
1992) bên cạnh đó là các bộ Luật có liên quan, đáng kể nhất là Luật đất đai.
Tính đến nay Việt Nam cũng đã có 3 bộ luật về đất đai cũ nhất là Luật đất đai
năm 1987 (trước đó là Luật cải cách ruộng đất năm 1953) và mới nhất là Luật
đất đai năm 2003, sắp tới có thể Luật sửa đổi, bổ sung cho Luật đất đai sẽ
được thông qua. Một trong những thay đổi đáng kể của Luật đất đai qua thời
gian chính là việc xác lập thị trường đất đai đồng thời cơ chế thu hồi đất đai
cũng đã có sự thay đổi. Trước khi có Luật đất đai năm 2003 cơ chế thu hồi đất
đai chỉ thực hiện theo hình thức bắt buộc và cơ chế chuyển đổi đất đai tự
nguyện chỉ ra đời sau khi có Luật này. Cơ chế chuyển đổi đất đai tự nguyện
được áp dụng cho các dự án đầu tư kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận có vốn đầu
tư trong nước hoặc liên doanh với nước ngoài với tổng mức vốn đầu tư thuộc
nhóm dưới nhóm A. Đặng Hùng Võ, 2009]
Hiện nay chưa có một thống kê chính xác về số lượng các văn bản, chính
sách có liên quan tới vấn đề quản lý đất đai tại Việt Nam bởi số lượng văn bản là
quá nhiều, trong đó chỉ xét riêng các chính sách về thu hồi đất nông nghiệp cho
các mục đích phi nông nghiệp số lượng chính sách có liên quan cũng rất lớn.
Tuy đã có rất nhiều những điều chỉnh ở khía cạnh chính sách về đất đai song
thực tế cho thấy các vấn đề về đất đai luôn gây ra nhiều các tranh chấp, khiếu
kiện. Giai đoạn 2003-2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được khoảng
30,000 đơn thư liên quan. Số lượng khiếu kiện tăng đều đặn qua các năm cả ở
nhóm người bị ảnh hưởng cũng như của các nhà đầu tư. Trong khi đó theo thống
kê của Thanh tra Chính phủ tính đến hết quý III năm 2010 cả nước có khoảng
112 nghìn vụ khiếu kiện, tố cáo và có tới 70% liên quan tới đất đai. Đối với các
vấn đề liên quan tới đất đai các nội dung khiếu nại chủ yếu xoay quanh việc thực
88
thi không đúng các chính sách về bồi thường và tái định cư. Trong đó những ý
kiến về việc định giá đất nông nghiệp quá thấp nổi bật hơn cả. Các kết quả này
cho thấy chính sách quản lý đất đai nói chung và xét riêng với các chính sách về
thu hồi và chuyển đổi đất đai tại Việt Nam cần phải tiếp tục được hoàn thiện,
trong đó hướng tới việc đưa ra những quy định chi tiết, rành mạch về quyền và
nghĩa vụ của các bên có liên quan. Quá trình này cũng là một giải pháp để hạn
chế, giảm thiểu những tiêu cực trong quản lý đất đai vốn được nhận diện là một
trong những mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.
Luật đất đai đầu tiên năm 1987 tuy đã đảm bảo quyền sử dụng đất của
cá nhân, hộ gia đình song thị trường đất đai lại không được công nhận, do đó
đất thực tế không có giá trị. Đến năm 1993, Luật đất đai xác định sở hữu toàn
dân về đất đai, đồng thời Nhà nước có quy định về giá đất, nói các khác đất
đai đã có giá và cá nhân, hộ gia đình có quyền thực hiện các hoạt động có liên
quan như chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê...Quy định về việc thu hồi đất chỉ
áp dụng theo cơ chế Nhà nước thu hồi. Các tổ chức kinh tế chỉ có thể tiếp cận
với đất đai thông qua hình thức thuê của Nhà nước. Các quy định quan trọng
này đã có sự thay đổi đáng kể sau khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực.
Theo đó, đất đai thuộc sở hữu toàn dân đồng thời công nhận giá đất trên thị
trường. Đặc biệt hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện đã được áp dụng và
hạn chế các biện pháp thu hồi mang tính bắt buộc. Các vấn đề về đền bù và tái
định cư cũng được quy định cụ thể. Các tổ chức kinh tế trong nước có thể lựa
chọn hình thức Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất. Cùng với những thay
đổi nói trên các cơ chế quản lý, giám sát cũng được nâng cao và đi kèm với
đó là những quy định mới về giải quyết các tranh chấp, khiếu nại có liên quan
tới đất đai.
Thực tế cho thấy cả hai mô hình chuyển đổi đất đai bắt buộc và tự
nguyện đều có những ưu, nhược điểm nhất định, trong đó mặc dù Nhà nước
89
khuyến khích áp dụng hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện song các quy
định này còn nhiều bất cập khiến việc thực hiện chính sách có nhiều vướng
mắc chỉ sau một thời gian ngắn thực hiện. Đáng kể hơn cả chính là việc thiếu
các quy định xử lý trong các trường hợp người sử dụng đất cố tình không bàn
giao đất cho chủ đầu tư hoặc đưa ra một mức giá quá cao. Chính vì thế sau
một thời gian thực hiện các chủ đầu tư lại mong muốn chỉ áp dụng hình thức
chuyển đổi đất đai bắt buộc. So với hình thức chuyển đổi đất đai bắt buộc,
hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện nếu đạt được sự đồng thuận cao giữa
các bên có liên quan (người sử dụng đất và nhà đầu tư) thì thời gian thực hiện
việc chuyển đổi thường ngắn, quyền lợi của người dân, chủ đầu tư cũng như
lợi ích của Nhà nước được đảm bảo Đặng Hùng Võ, 2009]. Bên cạnh đó, nếu
áp dụng theo cơ chế này sự tham gia của bộ máy hành chính vào các hoạt
động nói trên cũng giảm thiểu đáng kể, từ đó giảm đi những nguy cơ quan
liêu, tham nhũng từ các hoạt động này. Mặt khác, điểm mạnh đáng kể của
hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện có thể giúp loại bỏ đi các nhà đầu tư
không có năng lực, chủ yếu lập dự án để nhằm chiếm đất và chuyển nhượng...
điều mà cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc chưa thể làm được. Với những
điểm mạnh nói trên, mô hình này đã được nhiều địa phương áp dụng và mang
lại nhiều hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, như đã nói khi đã trao quyền tự thỏa
thuận giữa doanh nghiệp và người dân lại xuất hiện tình trạng một bộ phận
người dân không hợp tác với nhà đầu tư bằng cách đưa ra mức giá quá cao so
với phần còn lại. Trong khi đó các quy định pháp luật có liên quan lại chưa có
các chế tài xử lư trong trường hợp này, do đó mô hình chuyển đổi đất đai tự
nguyện dù rất tốt, dù được Nhà nước khuyến khích song lại không được áp
dụng rộng rãi trong thực tế.
Đối với hình thức thu hồi đất bắt buộc hiện nay vấn đề bồi thường,
chuyển đổi nghề nghiệp và tái định cư cho người dân là những vấn đề phức
90
tạp nhất. Pháp luật về đất đai quy định việc đền bù phải tính theo giá thị
trường, tuy nhiên lại không có quy định về quy trình định giá thị trường do đó
giá vẫn do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. Bên cạnh đó việc
định giá đối với đất nông nghiệp cũng còn rất nhiều vấn đề, thông thường đất
nông nghiệp được định giá rất thấp do pháp luật quy định giá đất nông nghiệp
được định giá dựa trên lợi nhuận thu được từ sản xuất nông nghiệp mà từ
trước tới nay giá trị của nông sản luôn rất thấp. Mặt khác việc chuyển đổi
nghề nghiệp cho nhóm nông dân mất đất thường rất khó khăn do trình độ học
vấn hạn chế, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc không có do vậy hiệu
quả của các chính sách đào tạo nghề cho nông dân mất đất nói chung còn
nhiều hạn chế. Một số các địa phương khi thực hiện thu hồi đất đã áp dụng
hình thức đổi đất thu hồi lấy đất dịch vụ để góp phần tạo ra chuyển đổi nghề
nghiệp, việc làm cho hộ gia đình. Tuy nhiên, hình thức này không phải địa
phương nào cũng áp dụng và không phải địa phương nào áp dụng cũng đạt
hiệu quả do có rất nhiều dự án “treo”. Hiện nay các doanh nghiệp khi tiếp cận
với đất đai của người dân đều có cam kết hoặc hứa hẹn về việc sử dụng lao
động địa phương trong KCN/doanh nghiệp, tuy nhiên rất ít những doanh
nghiệp đã thực hiện tốt điều này kể cả trong những trường hợp có cam kết.
Đồng thời sự tham gia, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp tại các khu
vực bị thu hồi đất cũng còn nhiều hạn chế.
Bối cảnh nền kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn cũng là lúc nhiều vấn
đề trong chính sách thu hút đầu tư đã được bộc lộ rõ ràng. Phong trào nhà nhà
làm các khu/cụm công nghiệp đã và đang gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới
phát triển kinh tế xã hội và môi trường. Tình trạng doanh nghiệp lợi dụng
chính sách thu hút đầu tư để chiếm đất nhưng không/hoặc sản xuất kinh
doanh cầm chừng, thậm chí sang nhượng đất đai...diễn ra ở hầu hết các địa
phương trên cả nước...trong khi đó người dân nhiều nơi lại thiếu đất sản xuất
và những cú sốc xã hội từ quá trình thu hồi đất là điều mà không nhiều các địa
91
phương bị thu hồi tránh được. Rõ ràng, chính sách pháp luật về đất đai nói
chung và vấn thu hồi, chuyển nhượng đất đai, nhất là đất nông nghiệp cho các
mục đích phi nông nghiệp cần phải sớm được Nhà nước xem xét điều chỉnh.
Với sự liên quan mật thiết với hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất trong thực
tiễn việc điều chỉnh các chính sách quản lý về đất đai cần được tính đến mọi
yếu tố có liên quan từ chính sách thu hút đầu tư, chính sách lao động, việc
làm, chính sách di cư, cũng như xem xét hài hòa mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Trong 10 năm qua Việt
Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng 10 năm qua cũng chứng
kiến quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp
lớn chưa từng có tại Việt Nam.
2.3.2. Tổng quan thực trạng thu hồi đất nông nghiệp tại Việt Nam
trong thời gian qua
“Tuy nền nông nghiệp rất rộng lớn, đa dạng và thay đổi nhanh chóng
nhưng với các chính sách đúng đắn và đầu tư hỗ trợ cấp địa phương, quốc
gia và toàn cầu, nông nghiệp vẫn đang tạo ra các cơ hội mới cho hàng trăm
triệu người nghèo nông thôn thoát nghèo. Những con đường thoát nghèo
thông qua nông nghiệp bao gồm canh tác hộ gia đình, chăn nuôi, tham gia
vào “nông nghiệp mới” với các sản phẩm giá trị cao, kinh doanh và các việc
làm trong nền kinh tế phi nông nghiệp đang hình thành ở nông thôn”. Ngân
hàng Thế giới, 2008]
Việt Nam đặt mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020, tuy nhiên để hiện thực hóa được mục tiêu này
Việt Nam vẫn sẽ cần phải dựa vào các nguồn lực quan trọng của khu vực
nông nghiệp, nông thôn nhất là trong bối cảnh kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó
khăn như hiện nay. Thực tế trong suốt giai đoạn 2001-2010, cả khi nền kinh tế
tăng trưởng mạnh mẽ cũng như những lúc khủng hoảng, nông nghiệp vẫn là
92
ngành duy trì được sự phát triển ổn định. Các mục tiêu tăng trưởng GDP hàng
năm luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên sau rất nhiều năm, năng suất
lao động của khu vực nông thôn nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp ở
Việt Nam nói riêng hiện nay vẫn còn rất thấp: “Tốc độ tăng năng suất lao
động hiện nay là khá thấp. Trong giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng năng suất
lao động bình quân theo ngành của ngành nông nghiệp chỉ đạt 2,57%, thấp
hơn nhiều so với tốc độ tăng năng suất của ngành công nghiệp (8,26%). Đến
giai đoạn 2001-2007, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân của ngành
nông nghiệp đã được cải thiện đáng kể, đạt 4,16% nhưng nhìn chung vẫn còn
thấp” UNDP, 2010]. Năng suất thấp cũng là một trong những lý do quan
trọng khiến nông nghiệp cần thay đổi theo cả hai hướng: (i) nhường đất cho
phát triển phi nông nghiệp và (ii) công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Cho đến nay cả hai hướng phát triển này đều đang diễn ra mạnh mẽ nhưng
vẫn đang chủ yếu ở khía cạnh bề rộng, chiều sâu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp còn hạn chế một phần vì đầu tư cho nông
nghiệp còn thấp trong khi quá trình nhường đất cho phát triển phi nông
nghiệp dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế nhưng
cũng làm nảy sinh vô vàn những bất cập xét ở cả 3 khía cạnh kinh tế, xã hội
và môi trường.
Đất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là một dạng tư liệu sản xuất quan
trọng mà còn gắn liền với những giá trị văn hóa của cộng đồng, gia đình,
thậm chí với cả một nền văn minh. Do đó, quá trình thu hồi đất không đơn
thuần tạo ra những thay đổi về sinh kế mà còn gây ra những ảnh hưởng khác,
đôi khi không thể nhìn thấy hoặc không chỉ diễn ra ở xung quanh thời điểm
thu hồi đất. Để có được khung sinh kế bền vững con người cần đến 5 loại
vốn: vốn vật chất, vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn tài chính và vốn con người.
Trong đó với người nông dân nếu không có đất nông nghiệp cũng có nghĩa
93
khung sinh kế bền vững của họ sẽ bị ảnh hưởng.
Báo cáo từ Bộ NN&PTNT cho thấy giai đoạn 2001-2005 bình quân
mỗi năm cả nước có khoảng 73,3 ngàn ha đất nông nghiệp bị thu hồi, chủ yếu
tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ (ĐNB), Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH)
và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). So với giai đoạn trước, giai đoạn
2006-2010 tốc độ thu hồi đất nông nghiệp đã chậm lại nhưng bình quân mỗi
năm cũng lên tới 37 ngàn ha. Tính chung cả giai đoạn 2001-2010 đã có gần 1
triệu ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp
đồng thời hơn 5 triệu ha đất bỏ hoang cũng đã được chuyển đổi cho nhiều
mục đích khác nhau WB, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển,
2011]. Cũng theo Bộ NN&PTNT trung bình mỗi ha đất nông nghiệp bị thu
hồi sẽ gây ảnh hưởng tới vấn đề việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp.
Như vậy trung bình trong vòng 10 năm qua mỗi năm có 1 triệu lao động nông
nghiệp bị ảnh hưởng từ quá trình thu hồi đất nông nghiệp. Các nghiên cứu về
vấn đề này cũng chỉ ra sau khi bị thu hồi đất tỷ lệ lao động tại các địa phương
không có việc làm hoặc việc làm không ổn định cũng gia tăng, chiếm khoảng
gần 30%, đồng thời di cư lao động từ nông thôn ra thành thị cũng tăng nhanh.
Quá trình thu hồi đất cũng đồng thời là quá trình thu hẹp diện tích đất
trồng lúa khi mà điểm đến của nhiều nhà đầu tư luôn là các khu vực trồng lúa.
Trong vòng 10 năm, diện tích đất lúa đã giảm gần 370 nghìn ha, xu hướng
này diễn ra ở hầu khắp các địa phương, trong đó riêng khu vực ĐBSCL mỗi
năm giảm khoảng 21 nghìn ha. Tốc độ “thu hẹp” diện tích đất trồng lúa đã lên
tới mức báo động và Chính phủ phải ra Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23 tháng
12 năm 2009 để đảm bảo an ninh lương thực thông qua mục tiêu giữ bằng
được 3,8 triệu ha đất lúa. Theo tính toán, nếu không có các giải pháp giữ đất
lúa cũng như nâng cao năng suất, sản lượng lúa có thể đến năm 2020 nguy cơ
Việt Nam không còn lúa gạo để xuất khẩu có thể trở thành sự thật. Báo Lao
94
động, 2010]
Phần lớn diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đều được sử dụng để phát
triển các khu, cụm công nghiệp. Tính từ năm 1991 khi khu chế xuất Tân
Thuận được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh tới nay cả nước đã có 260
KCN với diện tích đất tự nhiên là trên 71 nghìn ha trong đó mới có 173 KCN
đi vào hoạt động, phân bố ở hầu khắp các địa phương trong cả nước. Hoạt
động của các KCN đã giải quyết được công việc trực tiếp cho hơn 1,5 triệu
lao động, thu hút khoảng 8,500 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng 70 tỷ
USD và đóng góp hơn 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc W.
Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D. Irwin, 1955]. Rất nhiều các địa
phương đã thay da đổi thịt nhờ phát triển mô hình KCN và hiện nay hầu như
địa phương nào cũng muốn mở thêm, mở rộng các KCN nhằm thu hút đầu tư.
Tuy nhiên điều đáng nói ở chỗ hầu hết các KCN đều chọn các vị trí đắc địa
(với phần nhiều diện tích đất nông nghiệp có giá trị, đặc biệt là đất 2 lúa)
trong khi đó cho đến nay tỷ lệ lấp đầy các KCN ở Việt Nam còn rất thấp (chỉ
khoảng 50%). Hơn nữa, tình trạng quy hoạch treo lại diễn ra rất phổ biến và ở
hầu hết các địa phương không chỉ gây ra sự lãng phí to lớn đề đất đai mà còn
ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, việc làm của rất nhiều các hộ gia đình.
Ngoài vấn đề quy hoạch treo, liên quan tới việc chuyển đổi đất nông nghiệp
cho các mục đích phi nông nghiệp các Nhà quản lý và người dân cũng rất ái
ngại các hình thức dự án treo hay giải tỏa treo. Đặng Hùng Võ, 2009]
Tạo việc làm sau thu hồi đất cho lao động nông nghiệp là một bài toán
đã được đặt ra rất sớm cùng với quá trình thu hồi đất trong phát triển phi nông
nghiệp. Tuy nhiên dù các chính sách về hỗ trợ học nghề và tạo việc làm là
không ít (cả ở cấp TW và địa phương) song hiệu quả của các chính sách này
nhìn chung còn hạn chế. Lao động mất đất vì nhiều lý do khách quan và chủ
quan khác nhau hoặc không chuyển đổi được nghề nghiệp hoặc di chuyển
95
ngang từ khu vực có năng suất lao động thấp (nông nghiệp) sang khu vực có
năng suất lao động thấp khác (khu vực công nghiệp, dịch vụ kỹ năng thấp
hoặc không có kỹ năng). Đặc trưng của lao động nông nghiệp tại Việt Nam
hiện nay là kỹ năng thấp và độ tuổi cao. Chính vì thế rất ít người có thể đảm
bảo được các yêu cầu tuyển dụng “khắt khe” của các doanh nghiệp ngay
chính trên mảnh đất đã từng là của họ. Những lao động nông nghiệp có sức
khỏe, trình độ và dưới 35 tuổi hầu như rất ít do vậy ngay kể cả khi các doanh
nghiệp thực hiện đúng lời hứa tuyển dụng lao động địa phương thì cũng
không có nhiều người đủ các tiêu chuẩn nói trên. Việc chuyển đổi sang các
mô hình tiểu thủ công nghiệp cũng được nhiều địa phương tính đến, trong đó
cũng đã có nhiều địa phương thành công. Tuy nhiên, đầu ra của các sản phẩm
tiểu thủ công nghiệp thường bấp bênh, tính chất sản xuất chủ yếu lại mang
tính gia công nên thu nhập của người dân thấp và không ổn định. Nhiều mô
hình sau khi ra đời, thậm chí đã thành công nhưng rồi lại thất bại nhanh
chóng. Cũng vì những lý do nói trên nên dòng di cư nông thôn đô thị tiếp tục
gia tăng và nhiều vùng nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ con.
Những ảnh hưởng này sẽ giảm bớt đáng kể nếu các dự án thu hồi đất thực
hiện đúng về tiến độ, các doanh nghiệp tại các KCN thực hiện đúng các cam
kết. Mặc dù vậy, đây lại là một câu chuyện khác.
Tiểu kết chƣơng 2: Nội dung chương 2 tác giả trình bày về cơ sở lý
luận về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất
nông nghiệp. Cụ thể đó là trình bày 5 khái niệm cơ bản trong luận án và thao
tác hóa các khái niệm đó để xác định các chỉ báo nghiên cứu; từ các chỉ báo
xây dựng thành các thang đo và cụ thể hóa thành bộ công cụ thu thập thông
tin. Luận án trình bày 3 lý thuyết được lựa chọn vận dụng và tổng lược về
chính sách đất đai ở Việt Nam và chính sách thu hồi đất nông nghiệp để làm
96
cơ sở lý luận cho việc phân tích thực tiễn cụ thể ở chương 3,4.
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM
CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỔI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
3.1. Thực trạng thu hồi đất ở xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên,
Vĩnh Phúc và xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội
Chủ trương, đường lối và chính sách phát triển đất nước của Đảng và
Nhà nước ta là đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại
hóa được nêu rõ trong văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.
Từ đó các tỉnh, thành, địa phương trong cả nước cũng bắt tay vào xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của địa phương mình theo hướng
thúc đẩy nhanh và mạnh mẽ công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Để làm được điều
này các địa phương đã có nghiên cứu và quy hoạch lại đất đai phục vụ cho
phát triển theo hướng thu hẹp sản xuất nông nghiệp và mở rộng sản xuất công
nghiệp, dịch vụ.
Quốc Oai là một huyện thuộc Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội 30km về
phía Tây. Trong khoảng hơn thập kỷ qua Quốc Oai đã đạt được những thành
tích vượt trội về tăng trưởng kinh tế. Huyện Quốc Oai có 20 xã và 1 thị trấn.
Phía Đông giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức; phía Tây giáp tỉnh Hòa
Bình; phía Nam giáp huyện Chương Mỹ và phía Bắc giáp huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ. Với diện tích là 147,01 km2, Dân số là 174,100 người.
Quốc Oai là huyện nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng
bằng, có hai tuyến giao thông trọng yếu chạy qua là đường Láng – Hòa Lạc
và đường Hồ Chí Minh nên có nhiều lợi thế phát triển đô thị và công nghiệp.
Xã Ngọc Mỹ nằm cách trung tâm huyện Quốc Oai 1,5 km về phía Tây.
Phía Bắc giáp huyện Thạch Thất; phía Nam giáp xã Cấn Hữu; phía Tây Bắc
giáp xã Ngọc Liệp; phía Tây Nam giáp xã Liệp Tuyết và Nghĩa Hương; phía
97
Đông Bắc giáp Thị trấn Quốc Oai; phía Đông Nam giáp xã Thạch Thán.
Số dân là 11,767 người với 2,846 hộ phân bố trên hai thôn là Ngọc
Than và Phú Mỹ.
Về đất đai xã Ngọc Mỹ: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 546,04
ha, trong đó:
+ Đất nông nghiệp là 340,19 ha, chiếm 62,30% tổng diện tích.
- Đất trồng lúa nước: 337,60 ha,
- Đất nuôi trồng thủy sản: 2,59 ha.
+ Đất phi nông nghiệp: 203,36 ha, chiếm 37,24%tổng diện tích.
+ Đất chưa sử dụng 2,49 ha, chiếm 0,46% tổng diện tích.
Toàn xã có 6,240 lao động chiếm 53,03% dân số. Lao động theo ngành nghề:
+ Nông nghiệp 3,410 lao động chiếm 54,65 %.
+ Công nghiệp, TTCN: 2,000 lao động chiếm 32,05%.
Thương mại, dịch vụ, ngành nghề khác: 830 lao động chiếm 13,3%
Về đời sống kinh tế- xã hội của xã Ngọc Mỹ hiện nay:Bình quân thu
nhập đầu người năm 2014 đạt 25 triệu đồng/người/năm. Bình quân lương
thực 340 kg/người/năm. Năm 2014: số hộ nghèo là 154 hộ, chiếm 4,9% tổng
số hộ dân.
Xã Ngọc Mỹ có vị trí thuận lợi và là một xã vùng ven đô của Thành
phố Hà Nội, về cơ sở hạ tầng được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, có các tuyến
đường chạy qua như: Đại Lộ Thăng Long, đường huyện lộ Quốc Oai – Hòa
Thạch và tuyến đường tỉnh lộ 421B, về giao thông đối nội các tuyến đường
liên thôn, trục xóm chính có mặt đường tương đối rộng và cơ bản đã được
cứng hóa giúp cho việc giao thương với bên ngoài được thuận tiện, thúc đẩy
hàng hóa được lưu thông.
Xã Ngọc Mỹ có ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhưng
98
thế mạnh của xã là cả 2 thôn trên địa bàn xã được công nhận là làng nghề
truyền thống, thôn Ngọc Than có nghề làm mộc, gỗ mỹ nghệ; thôn Phú Mỹ có
nghề làm nón lá nổi tiếng từ xa xưa. Do đó, nguồn thu nhập từ tiểu thủ công
nghiệp hàng năm khá lớn, ngoài ra còn một số ngành sản xuất khác như đang
phát triển như sản xuất cơ khí, dịch vụ thương mại.
Xã Ngọc Mỹ nằm trong vùng quy hoạch phát triển đô thị sinh thái
Quốc Oai với diện tích 401/546,04 ha, dự án ôtô Trung Thượng, dự án đô thị
Tây Quốc Oai, dự án đường trục kinh tế Bắc Nam. Đó là nền tảng tạo động
lực thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương và tạo việc làm và thu nhập cho
người dân trong xã.
Về sản xuất nông nghiệp xã Ngọc Mỹ là vùng đồng bằng có tiềm năng
phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các khu trang trại tập trung, khu
vực phát triển VAC theo hướng bền vững.Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ, sản xuất và kinh doanh đồ mộc cao cấp là một thế mạnh
của. Sản xuất và kinh doanh đồ mộc dân dụng và cao cấp, nón lá và một số
ngành nghề dịch vụ khác đã đem lại thu nhập cao cho người dân nơi này.
Năm 2005 thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ dự án xây dựng công ty
cổ phần sửa chữa ô tô Trung Thượng là 5,78 ha.
Năm 2010Trạm thu phí 5000m2,
Năm 2013 thu hồi đất nông nghiệp phục vụ dự án đô thị Tây Quốc Oai
là 26,64 ha.
Với một số dự án phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa qua các thời
kỳ nên diện tích đất nông nghiệp của bà con nông dân dần thu hẹp lại. Là
nguyên nhân tác động đến biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân
nơi đây. Ngọc Mỹ, Báo cáo tổng kết năm 2015]
Cùng nằm trong mẫu chọn khảo sát của luận án là Xã Thiện Kế, huyện
99
Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bình Xuyên là một huyện có cả ba địa hình là: đồng bằng, trung du và
miền núi, có vị trí nằm gần trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, tổng diện tích tự nhiên
là 14,847,31ha. cách thành phố Vĩnh Yên 7 km dọc theo quốc lộ 2, cách Thủ
đô Hà Nội khoảng 50km theo hướng Tây – Tây Bắc. Phía Bắc giáp huyện
Tam Đảo và tỉnh Thái Nguyên; phía Nam giáp huyện Yên Lạc; phía Đông
giáp thị xã Phúc Yên và huyện Mê Linh (thuộc Thủ đô Hà Nội); phía Tây
giáp huyện Tam Dương, Yên Lạc và TP Vĩnh Yên.
Bình Xuyên có 10 xã, 3 thị trấn: Thị trấn Hương Canh (huyện lỵ), thị
trấn Thanh Lãng, Gia Khánh và các xã: Đạo Đức, Tam Hợp, Hương Sơn,
Trung Mỹ, Sơn Lôi, Quất Lưu, Phú Xuân, Bá Hiến, Tân Phong, Thiện Kế.
Dân số xã Thiện Kế hiện nay 7780 người trên 2256 hộ.
Tỷ lệ hộ nghèo hiện nay chỉ còn 1,7%, so với năm 2014 là giảm được 0,6%.
Đời sống kinh tế xã hội của xã Thiện Kế hiện nay: Bình quân lương thực
đạt 403kg/ người/ năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 27,8 triệu đồng/
người/ năm. Trong thời gian vừa qua trên địa bàn xã cũng đã có 6 công ty
trách nhiệm hữu hạn được thành lập.
Xã Thiện Kế có thuận lợi về giao thông, nằm cạnh quốc lộ 2 (Nội Bài-
Lào Cai) được lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc cũng như lãnh đạo huyện Bình Xuyên
lưa chọn để quy hoạch khu công nghiệp Bá Thiện. Đo đó, trong thời gianqua
xã đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Khu công nghiệp Bá Thiện
được đặt tại xã Thiện Kế đã thu hút đầu tư chủ yếu là các nhà đầu tư đến từ
Nhật Bản, Hàn Quốc … đã có rất nhiều nhà máy được xây dựng tại khu công
nghiệp Bá Thiện đã và đang đi vào hoạt động sản xuất. Chính vì vậy mà để có
đất cho phát triển công nghiệp thời gian qua xã Thiện Kế đã thu hồi đất nông
nghiệp của bà con nông dân với diện tích là 206,88 ha bao gồm đất ở và
100
đất vườn, đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất khác và đất tái định
cư và hiện nay (2015) đang chuẩn bị thu hồi 400 ha đất nông nghiệp để
bàn giao cho khu công nghiệp. Đây là nguyên nhân tác động đến sự
biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của bà con nông dân nơi đây Thiện
Kế, Báo cáo tổng kết năm 2015].
Trên đây là tình hình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra tại hai xã
trong mẫu chọn của luận án qua số liệu báo cáo của chính quyền xã sở tại.
Kết hợp với thông tin thu thập được từ phỏng vấn hộ nông dân thuộc diện
thu hồi đất, luận án đã bước đầu tìm hiểu tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp
thu hồi của từng hộ theo các khoảng dưới 1 sào, từ 1- 5 sào, từ 5- 10 sào
và trên 10 sào cho thấy:
ảng 3.1: Diện tích đất thu hồi của hộ 1 sào ắc ộ = 360m2)
Trung bình số Diện tích đất Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % diện tích đất thu thu hồi cộng dồn hồi (sào)
<1 sào 69 17,3 17,3
1-5 sào 212 53,1 70,4
5-10 sào 73 18,3 88,7 4,36
>10 sào 45 11,3 100,0
Tổng 399 100
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Số liệu trên cho thấy trung bình diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là
4,36 sào. Trong đó, có 70,4% các hộ gia đình bị thu hồi đất từ 1-5 sào, thu hồi
trên 10 sào là11,3%. Với diện tích thu hồi tương đối lớn điều đó chắc chắn sẽ
ảnh hưởng nhiều đến quá trình sản xuất của người dân nông thôn. Trung bình
mỗi hộ gia đình bị thu hồi khoảng 4,36 sào/hộ gia đình. Đặc điểm phân bố đất
101
nông nghiệp ở đồng bằng bắc bộ đó là tình trạng đất manh mún, một hộ gia
đình có nhiều miếng đất ở nhiều khu vực khác nhau cho nên nếu có dự án nào
được phê duyệt qui hoạch và sẽ thu hồi đất nông nghiệp thì sẽ có rất nhiều hộ
gia đình ở khu vực đó mất đất. Theo khảo sát cho thấy trung bình diện tích đất
nông nghiệp của người dân là 1,5 sào/1 người. Do vậy nếu như hộ gia đình
mất trung bình 4,36 sào/hộ thì tương đương có 3 người trong gia đình sẽ
không còn đất nông nghiệp để canh tác.
Không có đất nông nghiệp là họ không còn kế mưu sinh. Từ con số
tuyệt đối về diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi tác giả đã tính toán để ra
tỉ lệ % diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi/tổng số diện tích gia đình có:
ảng 3.2: Tỉ lệ đất bị thu hồi trong tổng số diện tích đất của hộ
Trung bình đất Diện tích đất Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % thu hồi của thu hồi % cộng dồn các hộ %
<30 133 33,3 33,3
30-60 104 26,1 59,4
60-90 61 15,3 74,7 53,99
90-100 101 25,3 100
Tổng 399 100
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Như vậy kết quả phân tích thể hiện có 33,3% hộ bị thu hồi <30%
diện tích đất nông nghiệp và 70% hộ bị thu hồi > 30% diện tích đất nông
nghiệp. Có một số lượng tương đối 25,3% số hộ gia đình là bị thu hồi
100% diện tích đất nông nghiệp. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi 53,99% tổng
102
số diện tích đất nông nghiệp của gia đình.
ảng 3.3: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và số diện tích đất bị thu hồi
Tỉ lệ diện tích bị thu hồi Địa điểm phỏng Tổng vấn <1 sào 1-5 sào 5-10 sào > 10 sào
Thiện Kế N 5 119 70 45 239
% 2,1 49,8 29,3 18,8 100,0
Ngọc Mỹ N 64 93 3 0 160
% 40,0 58,1 1,9 0,0 100,0
Tổng N 69 212 73 45 399
% 17,3 53,1 18,3 11,3 100,0
p=0,000, Tau-b=-0,565
Kết quả phân tích địa điểm phỏng vấn và số diện tích đất bị thu hồi
theo từng nhóm thể hiện ở Ngọc Mỹ cơ bản số hộ có diện tích bị thu hồi
có diện tích <5 sào chiếm 98% số người được hỏi. Tuy nhiên ở Thiện Kế
các hộ có diện tích bị thu hồi rơi vào từ 1-10 sào, tức là diện tích đất bị
thu hồi nhiều hơn so với Ngọc Mỹ. Như vậy thông qua khảo sát chúng ta
thấy rõ số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở 2 khu vực nghiên cứu rất
khác xa nhau.
ảng 3.4: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và Hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp
Hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp
Tổng Địa điểm phỏng vấn Ít phù hợp Rất phù hợp Hoàn toàn chƣa phù hợp Tạm chấp nhận đƣợc Khá phù hợp
Vĩnh N 63 54 75 37 10 239
Phúc % 26,4 22,6 31,4 15,5 4,2 100,0
Hà Nội N 71 42 22 25 0 160
% 44,4 26,2 13,8 15,6 0,0 100,0
Tổng N 134 96 97 62 10 399
% 33,6 24,1 24,3 15,5 2, 100,0
103
p=0,000, Tau-b=-0,187
Kết quả khảo sát thể hiện có sực khác biệt về mức độ hài lòng giữa hai
khu vực về mức đền bù đất nông nghiệp. Số liệu khảo sát thể hiện khu vực
Vĩnh Phúc hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp cao hơn khu vực Hà Nội.
Cụ thể với mức độ đánh giá mức đền bù hoàn toàn chưa phù hợp Hà Nội có tỉ
lệ là 44,4% trong khi đó với Vĩnh Phúc là 26,4%; với mức độ tạm chấp nhận
được thì Hà Nội là 13,8% trong khi đó ở Vĩnh Phúc là 31,4%. Như vậy sự hài
lòng về mức độ đền bù ở khu vực Vĩnh Phúc cao hơn Hà Nội mặc dù giá đền
của Vĩnh Phúc thấp hơn. Sự hài lòng này còn căn cứ dựa trên điều kiện kinh
tế xã hội địa phương và hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
sau quá trình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hóa.
Qua phân tích về hiện trạng các hộ gia đình đã thu hồi đất nông nghiệp
để phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội thể hiện. Số diện tích đất đã thu
hồi của hộ gia đình tương đối lớn chiếm khoảng >50% số diện tích đất canh
tác của các hộ gia đình. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp không tập trung
vào 1 vài gia đình mà có liên quan đến hầu hết các hộ gia đình trong
thôn/xóm vì đặc điểm phân bố đất nông nghiệp/ hộ gia đình là manh mún,
diện tích nhỏ. Từ quá trình thu hồi đất nông nghiệp làm cho người dân không
thu được hoa lợi từ sản xuất nông nghiệp nên dấn đến quá trình biến đổi cơ
cấu lao động nghề nghiệp của người dân nông thôn.
3.2. Biến đổi cơ cấu lao động tại xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế
3.2.1. Theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế
Để bắt đầu phân tích một cách sâu sắc sự biến đổi cơ cấu lao động của
người dân tác giả đã chọn cách thống kê tất cả các thành viên trong tuổi lao động
của hộ. Từ mẫu khảo sát là 399 hộ cho cả 2 xã có số người trong độ tuổi lao
động lần lượt là 993 người (năm 2010) và 1051 người (năm 2015). Xuyên suốt
trong luận án tác giả phân tích theo số người trong độ tuổi lao động đã thống kê.
Kết quả khảo sát ở cả 2 xã thể hiện sự chuyển đổi nghề nghiệp của từng
104
thành viên trong hộ.
ảng 3.5: Sự biến đổi theo ngành kinh tế của các thành viên trong hộ
Năm 2010 Năm 2015
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Phân bố của các thành viên trong hộ theo ngành KT
Nông nghiệp 236 185 74,9 52,1 Ngƣời
thứ 1 Dịch vụ 39 12,4 76 21,4
Công nghiệp – Xây dựng 40 12,7 93 26,2
Thất nghiệp 0 0,0 1 ,3
218 172 Nông nghiệp 74,9 53,4 Ngƣời
thứ 2 Dịch vụ 38 13,1 74 23,0
Công nghiệp – Xây dựng 32 11,0 75 23,3
Thất nghiệp 3 1,0 1 ,3
Nông nghiệp 53 36,6 21 10,0 Ngƣời
thứ 3 Dịch vụ 22 15,2 44 20,9
Công nghiệp – Xây dựng 130 67 46,2 61,6
Thất nghiệp 3 2,1 16 7,6
Nông nghiệp 41 46,1 27 20,9 Ngƣời
thứ 4 Dịch vụ 13 14,6 15 11,6
Công nghiệp – Xây dựng 32 36,0 77 59,7
Thất nghiệp 3 3,4 10 7,8
Nông nghiệp 11 29,7 2 3,5 Ngƣời
thứ 5 Dịch vụ 4 10,8 6 10,5
Công nghiệp – Xây dựng 22 59,5 49 86,0
Nông nghiệp 4 23,5 4 19,0 Ngƣời
thứ 6 Dịch vụ 1 5,9 16 76,2
Công nghiệp – Xây dựng 12 70,6 1 4,8
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Phần diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi tương đối lớn, do đó người
dân phải chuyển đổi công việc của bản thân cũng như tính toán để chuyển đổi
105
cho các thành viên trong gia đình.
Trong mỗi hộ với số lượng thành viên, độ tuổi, giới tính, trình độ học
vấn tay nghề mà có sự tính toán, sắp xếp chuyển đổi lĩnh vực lao động cho
từng thành viên.
Người thứ nhất, thứ hai chủ yếu là chủ hộ và vợ hoặc chồng, tiếp theo
người thứ 2, thứ 3 trở đi là các con, cháu. Ở nhóm con cháu cho thấy dịch
chuyển sang ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ cao hơn so với nhóm bố mẹ.
Tổng hợp lại so sánh từ năm 2010 đến 2015 – giai đoạn thu hồi đất diễn
ra mạnh ở 2 xã khảo sát cho thấy cơ cấu lao động dịch chuyển sang ngành
công nghiệp, dịch vụ cao hơn (biểu 3,1)
iểu đồ 3.1: Sự thay đổi ngành kinh tế của ngƣời lao động
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Sự chuyển dịch trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2010 là 63,1% đến
năm 2015 giảm xuống là 37,0%, ngành dịch vụ tăng từ 13,5% năm 2010 lên
21,2% trong năm 2015 đồng thời ngành công nghiệp tăng tương đối cao năm
2010 là 23,4% lên 41,8%, bên cạnh đó tỉ lệ thất nghiệp lại tăng lên. Kết quả
phân tích thể hiện trong ngành nông nghiệp tỉ lệ người lao động giảm xuống 2
lần trong khi đó ngành công nghiệp xây dựng lại tăng lên 2 lần. Từ kết quả
phân tích thể hiện trong những năm qua có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong
106
ngành nông nghiệp và công nghiệp. Đây là một xu hướng tất yếu của quá
trình phát triển ở một nước đang đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa. Khi có
nhiều khu công nghiệp được xây dựng thì sẽ tạo điều kiện thu hút các lao
động của địa phương vào làm việc bên cạnh đó ở xã Ngọc Mỹ có nghề truyền
thống làm mộc, làm nón.
ảng 3.6: Sự biến đổi cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế1
Năm 2010 Năm 2015 Thành phần kinh tế Tỷ lệ %
Số lượng 61 Số lượng 91 Tỷ lệ % 8,7 6,1
1,1 39 3,7 11
8,2 176 16,7 81
7,6 103 9,8 75
77,0 642 61,1 765
Kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước…) Kinh tế tư bản nhà nước (DN Liên doanh) Kinh tế tập thể (HTX, DN vừa và nhỏ, các hộ SXKD, công ty cổ phần) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Kinh tế cá thể, tiểu chủ (cá nhân, gia đình và có thuê LĐ) Tổng 993 100,0 1051 100,0
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thời gian 5 năm (từ năm 2010 -
năm 2015), lao động dịch chuyển qua các thành phần kinh tế có nhiều biến
chuyển. Tại 2 địa bàn nghiên cứu cho thấy xu hướng dịch chuyển lao động
vào khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước tăng mạnh, tiếp sau là
dịch chuyển vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI); trong khi
đó lao động ở khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ giảm. Điều này cũng phản ánh
rõ nét thực trạng cơ cấu kinh tế ở hai địa bàn nghiên cứu, đó là quá trình giải
phóng mặt bằng đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp Bá Thiện
1 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
107
(Thiện Kế) và khu đô thị Tây Quốc Oai (Ngọc Mỹ).
3.2.2. Theo giới tính, nhóm tuổi, học vấn của người dân phân bố vào
ngành kinh tế và thành phần kinh tế
Để thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khu công
nghiệp, khu đô thị... dẫn đến số người lao động tại địa bàn khảo sát phải
chuyển đổi ngành nghề. Thực tế sự chuyển đổi này có những đặc điểm khác
nhau theo các nhóm giới tính, tuổi và trình độ học vấn.
Phân theo giới tính góp phần nhận diện sự chuyển đổi ngành nghề ở
lao động nam và lao động nữ:
ảng 3.7: iến đổi theo giới tính trong các ngành kinh tế2
Ngành kinh tế Giới tính Nam Nữ Tổng
2010 N
Tỉ lệ % Nông nghiệp 2015 N
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ % Dịch vụ 2015 N
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ % Công nghiệp 2015 N
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ % Tổng 2015 N
Tỉ lệ % 353 73,1 220 42,4 55 11,4 111 21,4 75 15,5 188 36,2 483 100,0 519 100,0 273 53,5 169 31,8 79 15,5 112 21,1 158 31,0 251 47,2 510 100,0 532 100,0 626 63,0 389 37,0 134 13,5 223 21,2 233 23,5 439 41,8 993 100,0 1051 100,0
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Bảng số liệu trên cho thấy cả lao động nam và lao động nữ dịch chuyển
sang ngành công nghiệp và dịch vụ tăng và giảm ở ngành nông nghiệp từ năm
108
2010 đến năm 2015. 2 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
Tỉ lệ nữ ở ngành nông nghiệp giảm mạnh hơn nam từ năm 73,1% năm
2010 xuống 42,4%năm 2015 giảm khoảng 30,9%. Đối với nam giới tỉ lệ này
giảm từ 63,0% xuống còn 37,0% giảm khoảng 26,0%. Các ngành dịch vụ,
nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới 4,1% (năm 2010) nhưng lại thấp hơn nữ
giới 0,8% (năm 2015). Về ngành công nghiệp, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn
nữ giới, lần lượt là 15,1% (năm 2010) và 9,8% (năm 2015).
Xem xét dịch chuyển lao dộng nam và lao động nữ theo thành phần
kinh tế cũng cho thấy có sự khác biệt:
ảng 3.8: iến đổi theo giới tính trong các thành phần kinh tế3
Thành phần kinh tế
Nữ
Giới tính Nam
Tổng
2010 N
Tỉ lệ %
Kinh tế nhà nước (DNNN)
2015 N
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ %
2015 N
Kinh tế tư bản nhà nước (DN lien doanh)
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ %
2015 N
Kinh tế tập thể (HTX, CT cổ phần, DN vừa và nhỏ…)
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ %
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
2015 N
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ %
2015 N
Kinh tế cá thể, tiểu chủ(cá nhân, gia đình, có thuê LĐ)
Tỉ lệ %
2010 N
Tỉ lệ %
Tổng
2015 N
Tỉ lệ %
26 5,4 48 9,2 3 0,6 16 3,1 24 5,0 69 13,3 35 7,2 59 11,4 395 81,8 327 63,0 483 100,0 519 100,0
35 6,9 43 8,1 8 1,6 23 4,3 57 11,2% 107 20,1 40 7,8 44 8,3 370 72,5 315 59,2 510 100,0 532 100,0
61 6,1 91 8,7 11 1,1 39 3,7 81 8,2 176 16,7 75 7,6 103 9,8 765 77,0 642 61,1 993 100,0 1051 100,0 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
3 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
109
Kết quả số liệu tại bảng thể hiện lao động nữ và lao động nam đều dịch
chuyển từ thành phần kinh tế cá thể sang các thành phần kinh tế khác tương
đối mạnh. Cụ thể là gia tăng dịch chuyển vào khu vực kinh tế nhà nước,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) , kinh tế tập thể, liên doanh.
Không có sự khác biệt quá lớn giữa lao động nam và lao động nữ trong dịch
chuyển thành phần kinh tế.
Phân theo trình độ học vấn: Sự thay đổi về cơ cấu lao động theo các
ngành kinh tế theo các trình độ học vấn cũng có sự khác nhau.
ảng 3.9: iến đổi theo trình độ học vấn trong các ngành kinh tế4
Trình độ học vấn
Ngành kinh tế
Tổng
Tiểu học THCS THPT
CĐ/ĐH
Trung cấp
N
169
276
158
7
16
626
2010
Tỉ lệ %
79,7
74,8
57,0
24,1
15,1
63,0
Nông nghiệp
N
139
177
73
0
0
389
2015
Tỉ lệ %
65,9
48,2
24,1
0
0
37,0
N
18
29
37
12
38
134
2010
Tỉ lệ %
8,5
7,9
13,4
41,4
35,8
13,5
Dịch vụ
N
27
57
73
10
56
223
2015
33,3
40,0
21,2
Tỉ lệ %
12,8
15,5
24,1
2010
N
25
64
82
10
52
233
Tỉ lệ %
11,8
17,3
29,6
34,5
49,1
23,5
Công
nghiệp
2015
N
45
133
157
20
84
439
Tỉ lệ %
21,3
36,2
51,8
66,7
60,0
41,8
N
212
369
277
29
106
993
2010
Tỉ lệ %
100,0 100,0 100,0
100,0
100,0 100,0
Tổng
N
211
367
303
30
140
1051
2015
Tỉ lệ %
100,0 100,0 100,0
100,0
100,0 100,0
4 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
110
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Số liệu thể hiện rõ rệt về sự thay đổi ngành kinh tế theo trình độ học
vấn đặc biệt ở nhóm có t nh độ học vấn cao từ trình độ trung cấp, cao đẳng và
đại học. Nếu như trong năm 2010 trong nhóm có trình độ học vấn trung cấp,
cao đẳng, đại học vẫn có người làm nông nghiệp thì đến năm 2015 không có
ai trong nhóm này làm nông nghiệp. Các ngành dịch vụ, công nghiệp, dịch vụ
có sự thay đổi không đáng kể.
Trong ngành dịch vụ, công nghiệp nhóm trung học phổ thông có xu
hướng thay đổi nhiều hơn các nhóm khác. Như vậy nhóm có trình độ học vấn
cao hơn có xu hướng giữ ở mức độ ổn định ở các ngành dịch vụ và công
nghiệp cao hơn các ngành khác. Và nhóm có trình độ THPT có xu hướng thay
đổi sang ngành dịch vụ và công nghiệp lớn hơn các nhóm có trình độ tiểu học
và THCS. Đồng thời có sự thay đổi về thành phần kinh tế giữa các nhóm có
trình độ học vấn khác nhau.
Phân tích mức độ dịch chuyển lao động giữa các thành phần kinh tế ở
các nhóm trình độ học vấn khác nhau tại bảng dưới đây: ảng 3.10: iến đổi theo trình độ học vấn trong các thành phần kinh tế5
Trình độ học vấn
Thành phần kinh tế
Tổng
Tiểu
Trung
THCS THPT
CĐ/ĐH
học
cấp
2010 N
3
9
17
24
61
8
Kinh tế nhà
Tỉ lệ %
1,4
2,4
6,1
27,6
22,6
6,1
nước
2015 N
4
12
29
37
91
9
(DNNN)
Tỉ lệ %
1,9
3,3
9,6
30,0
26,4
8,7
2010 N
2
2
5
2
11
0
Kinh tế tư
bản nhà
Tỉ lệ %
9
5
1,8
1,9
1,1
0
nước (DN
2015 N
3
2
22
10
39
2
5 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
111
Trình độ học vấn
Thành phần kinh tế
Tổng
THCS THPT
CĐ/ĐH
Tiểu học
Trung cấp
lien doanh)
Tỉ lệ %
1,4
.5
7,3
6,7
7,1
3,7
Kinh tế tập
2010 N
5
22
37
3
14
81
thể (HTX,
Tỉ lệ %
2,4
6,0
13,4
10,3
13,2
8,2
CT cổ phần,
2015 N
11
48
68
8
41
176
DN vừa và
Tỉ lệ %
5,2
13,1
22,4
26,7
29,3
16,7
nhỏ…)
2010 N
9
10
7
30
75
19
Kinh tế có
Tỉ lệ %
4,2
2,7
24,1
28,3
7,6
6,9
vốn đầu tư
nước ngoài
2015 N
8
28
5
23
103
39
(FDI)
Tỉ lệ %
3,8
7,6
16,7
16,4
9,8
12,9
Kinh tế cá
2010 N
193
326
11
36
765
199
thể, tiểu chủ
Tỉ lệ %
91,0
88,3
37,9
34,0
77,0
71,8
(cá nhân, gia
2015 N
185
277
6
29
642
145
đình, có thuê
Tỉ lệ %
87,7
75,5
20,0
20,7
61,1
47,9
LĐ)
2010 N
212
369
29
106
993
277
Tỉ lệ %
100
100
100
100
100
100
Tổng
2015 N
211
367
30
140
1051
303
Tỉ lệ %
100
100
100
100
100
100
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Kết quả số liệu thể hiện sự biến đổi cơ cấu lao động trong các thành phần
kinh tế có sự khác biệt rõ rệt. Trong lĩnh vực kinh tế nhà nước (DNNN) , kinh tế
tư bản nhà nước (DN liên doanh), kinh tế tập thể (HTX, công ty cổ phần, DN
vừa và nhỏ…) ít có sự biến động trong các nhóm có trình độ học vấn khác nhau.
112
Trong lĩnh vực này là lĩnh vực nhân sự ít có sự thay đổi vì được tuyển để làm
việc tương đối lâu dài do vậy sẽ tương đối ổn định. Các khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài có xu hướng tăng cao và kinh tế cá thể giảm mạnh.
Điều này được giải thích tại địa bàn nghiên cứu khi các khu công
nghiệp được xây dựng người dân đã rời bỏ các công việc sự sản tự tiêu trong
nông nghiệp sang làm việc trong các nhà máy, công ty.
Phân theo độ tuổi để xem xét sự dịch chuyển lao động theo độ tuổi ảng 3.11: Sự chuyển đổi việc làm trong ngành kinh tế theo độ tuổi6
Ngành kinh tế sau khi thu hồi đất Độ tuổi Nông nghiệp Dịch vụ Công nghiệp Tổng
N 14 26 105 145
Nhóm 15-24
% 9,7 17,9 72,4 100,0
N 211 133 296 640
Nhóm 25-50
% 33,0 20,8 46,3 100,0
N 164 64 38 266
Nhóm 51-60
% 61,7 24,1 14,3 100,0
N 389 223 439 1051
Tổng
% 37,0 21,2 41,8 100,0
*p=0,000; Cramer’V=.282
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Kết quả nghiên cứu tương quan về sự chuyển đổi việc làm trong ngành
kinh tế theo độ tuổi cho thấy, trong ngành nông nghiệp, tỷ lệ người lao động
thuộc nhóm tuổi 50- 60 rất cao (chiếm 61,7%), so với nhóm tuổi 15-25 làm
6 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp
113
trong ngành nông nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (chiếm 9,7%). Bên cạnh đó
nhóm tuổi 15- 25 và 25- 50 dịch chuyển vào ngành kinh tế dịch vụ và công
nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm tuổi 50-60.
Trong quá trình khảo sát người dân cho biết “Bây giờ bọn trẻ thanh
niên chúng nó hầu hết đi làm công ty, không còn mấy đứa thiết làm nông
nghiệp, như con tôi ba đứa không làm nông nghiêp, thằng lớn lấy vợ rồi đi
xây ngoài Hà Nội, đứa con gái lấy chồng xã bên làm giáo viên, thằng út cũng
đi làm công ty còn hai chúng già rồi tôi nuôi vịt ở mảnh vườn kia để bán
trứng và bán vịt”
(Nam, 60 tuổi, nông dân xã Thiện Kế)
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, với Cramer' V = 0,282 cho thấy
mức độ liên kết về sự chuyển đổi theo ngành kinh tế giữa các nhóm tuổi ở
mức liên kết trung bình.
Như vậy, trong ba yếu tố giới tính, trình độ học vấn và độ tuổi có thể
thấy yếu tố tuổi là phân hóa rõ rệt nhất trong quá trình dịch chuyển lao động
theo thành phần kinh tế và ngành kinh tế, tiếp sau là yếu tố trình độ học vấn;
yếu tố giới tính không tạo nên sự khác biệt nhiều, cả lao động nam và lao
động nữ đều có sự dịch chuyển gần như nhau.
3.2.3. Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi
Dân số, lao động, việc làm vừa là động lực của tăng trưởng, vừa là mục
tiêu của tăng trưởng. “Vai trò kép” này được quan tâm đặc biệt trong những
tháng cuối năm nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, đảm bảo các mục tiêu đề ra
trong giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam đang trải qua giai đoạn quan trọng của
quá trình “chuyển hoá dân số” kết quả nghiên cứu về cơ cấu lao động theo độ
114
tuổi cũng không nằm ngoài qui luật trên.
iểu đồ 3.2: iến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi %
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Kết quả nghiên cứu thể hiện cơ cấu lao động có xu hướng già hóa với
nhóm có độ tuổi trẻ <25 tuổi tỉ lệ % của năm 2015 thấp hơn năm 2010 tuy
nhiên nhóm độ tuổi từ 51 trở lên thì năm 2015 cao hơn năm 2010.
Tuy nhiên độ tuổi mà sức lao động có khả năng mạnh mẽ nhất về cả thể
lực và trí lực là độ tuổi từ 25 đến 40 tuổi thì giai đoạn năm 2015 có sự trội
vượt hơn nhiều so với số lượng lao động năm 2010. Điều này thể hiện cơ cấu
dân số tại khu vực điều tra đang rơi vào thời điểm cơ cấu dân số vàng. Cơ cấu
“dân số vàng” thực sự là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe
sinh sản cho thanh niên, vị thành niên, sử dụng nguồn lao động dồi dào cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “dân số vàng” tạo cơ hội cho tích lũy
nguồn lực để tăng đầu tý cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm trong
tương lai. Mặt khác, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục thông qua việc giảm tỷ số giữa học sinh và giáo viên, qua đó
nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho trẻ em, cải thiện chất lượng sức khỏe
115
dân số tương lai. Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng với sự
phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào tạo
nghề. Chi tiêu y tế trong độ tuổi lao động giảm sẽ tiết kiệm được y tế. Lực
lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn lực quan trọng cho
việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải thiện được
năng suất lao động. Cơ cấu “dân số vàng” cũng là cơ hội dịch chuyển lao
động thông qua di cý, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, góp phần xóa đói
giảm nghèo nhanh và bền vững.
3.2.4. Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn
Sự biến đổi cơ cấu lao động về trình độ học vấn là một biến đổi quan
trọng thể hiện sự biến chuyển về chất của nguồn lao động. Học vấn là vấn đề
mấu chốt của sự phát triển. Càng đi dần vào xã hội hiện đại thì trình độ học
vấn càng trở thành yếu tố quan trọng quy định khả năng, lợi thế của mỗi
người trong đời sống xã hội. Học vấn tạo ra cơ hội về việc làm, tác động đến
sự lựa chọn nghề nghiệp, khẳng định vị thế của mỗi người. Trong nghiên cứu
thể hiện có sự biến chuyển tích cực trong cơ cấu dân số về trình độ học vấn
của người dân.
iểu đồ 3.3: iến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn %
116
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Trong biến đổi về trình độ học vấn tác giả cớ bản tập trung phân tích
trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở nên (vì trình độ từ mần non đến
THCS hiện nay đã phổ cập) kết quả thể hiện cơ cấu dân số phân theo trình độ
học vấn có sự chuyển biến tích cực. Nhóm dân số có trình độ học vấn trung
học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học năm 2015 có tỉ lệ
% cao hơn so với năm 2010. Như vậy chúng ta có thể thấy sự biến đổi trong
giáo dục đào tạo đối với nguồn lao động hiện nay. Nguồn nhân lực lao động
không chỉ có một thể trạng sức khỏe tốt mà còn có trí lực tốt. Học vấn chính
là nguồn kiến thức, kinh nghiệm, là những kỹ năng được tích lũy qua một quá
trình học tập và rèn luyện. Nguồn kiến thức quý giá ấy có thể được tiếp thu và
học tập từ trường lớp, từ bạn bè, từ sách báo hoặc cũng có thể từ những điều
nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống xung quanh ta.
“Hiện tại sản xuất nông nghiệp không hiệu quả niên mình phải cho các
con của mình phải đi học để sau này kiếm công việc khác sẽ có hiệu quả hơn.
Làm nông nghiệp bây giờ nghèo lắm.”
(Nữ, 35 tuổi, Làm ruộng)
“Gia đình mình dù nghèo nhưng vấn cố gắng cho con đi học sau này nó
có cái chữ cũng dễ tìm được việc gì đó hơn. Chứ bây giờ đi làm công nhân
cũng phải học cấp 3 họ mới nhận chứ không họ cũng chả nhận”
(Nữ, 40 tuổi, công nhân)
Trình độ học vấn cao là một nền tảng cơ bản để người lao động có thể
tìm kiếm việc làm một cách dễ dàng hơn. Theo các nghiên cứu chỉ ra những
người có trình độ học vấn cao sẽ có nhiều cơ hội nghề nghiệp và cơ hội sống
hơn các nhóm khác.
3.2.5. Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn là một trong những yếu tố quan trọng trong kiến
117
tạo việc làm. Đối với lao động nông thôn quá trình được đào tạo về chuyên
môn hết sức quan trọng trong quá trình biến đổi xã hội cũng như quá trình
kiến tạo nghề nghiệp. Qua quá trình biến đổi tỉ lệ nguồn lao động qua đào tạo
đã tăng lên từ 26,8% năm 2010 lên 39,9% vào năm 2015.
iểu đồ 3.4: iến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn đã qua
đào tạo
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Theo quan niệm của Liên hợp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm
giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Yếu tố con người, vốn con
người đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
“Sau khi thu hồi đất mình không còn làm nông nghiệp nữa, mình xin
vào làm công nhân ở khu công nghiệp. Thấy thu nhập cũng ổn định hơn, mỗi
tháng 5 triệu, vừa làm gần nhà lại có thu nhập ổn định. Trong quá trình làm
công nhân thì mình cũng được họ đào tạo 3 tháng trước khi vào làm chính
thức. Trước giờ chưa làm với máy móc bây giờ cũng làm với máy móc cũng
phải được đào tạo.”
118
(Nam, 30 tuổi, công nhân)
Nhờ có nền tẳng giáo dục-đào tạo, trong đó có đào tạo nghề, người lao
động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ năng nghề của mình, qua đó nâng
cao năng suất lao động, góp phần phát triển kinh tế. Như vậy có thể thấy, giáo
dục đào tạo nghề là một thành tố và là thành tố quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định phát triển nguồn nhân lực. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng
cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao động, song song với các
cơ chế chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải tăng cường
đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói
riêng. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn
tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (i) áp
dụng công nghệ mới, (ii) phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (iii) nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng
trưởng kinh tế bền vững chính là những con người được đào tạo, đặc biệt là
nhân lực có kỹ năng nghề cao.
Tại khu vực nghiên cứu tỉ lệ lao động đã được đào tạo tăng lên qua các
năm chứng tỏ trong quá trình phát triển người lao động đã có sự chuyển đổi
không chỉ về học vấn chuyên môn mà có những người đã học những lớp đào
tạo ngắn hạn như sửa chữa máy móc, lái xe, các lớp học sản xuất thủ công…
3.2.6. Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc
Theo các số liệu thống kê của tổng cục thống kê hàng năm thể hiện tỉ lệ
lao động nông thôn thất nghiệp thấp hơn thành thị nhưng tỉ lệ lao động nông
thôn thiếu việc làm nhiều cao hơn thành thị. Điều đó chứng tỏ người lao động
nông thôn chưa tập trung làm một công việc nhất định mà trong công việc của
119
học rất đa dạng về các loại hình nghề nghiệp.
iểu đồ 3.5: iến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lƣợng công việc
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Kết quả nghiên cứu thể hiện trước và sau quá trình thu hồi đất nông
nghiệp tỉ lệ số người lao động chỉ làm 1 công việc cao hơn với năm 2010 là
60,7% và đến năm 2015 tăng lên 64,2%. Như vậy sau 5 năm tỉ lệ lao động chỉ
làm tập trung 1 công việc tăng lên 3,5%. Thông qua số liệu chúng ta có thể
thấy cơ cấu về đặc thù số lượng công việc của người dân lao động nông thôn
có sự tập trung chuyên môn hóa ngày càng cao. Đây là một dấu hiệu tích cựu
thể hiện sự chuyển biến về cơ cấu lao động việc làm. Trong sản xuất nông
nghiệp người lao động thường làm việc theo mùa vụ do vậy thời gian rảnh
của người lao động tương đối nhiều, người lao động thường tận dụng
những thời gian rảnh rỗi đó làm các công việc khác do vậy số lượng công
việc mà người dân làm tương đối nhiều. Sau khi thu hồi đất nông nghiệp có
nhiều hộ gia đình không còn đất để sản xuất/còn ít đất nông nghiệp do vậy
họ không còn tập trung vào sản xuất nông nghiệp nữa mà chuyển sang làm
các công việc được chuyên môn hóa như làm công nhân, hoặc chuyển sang
120
kinh doanh buôn bán.
3.3. Biến đổi cơ cấu việc làm của ngƣời dân bị thu hồi đất tại xã
Ngọc Mỹ và Thiện Kế
Ở phần trên luận án nhìn nhận biến đổi cơ cấu lao động theo thành
phần kinh tế, ngành kinh tế để có sự đánh giá tổng quát. Trong phần này luận
án đặt vấn đề tìm hiểu cụ thể xem người dân làm công việc gì, nghề gì và
phân bố như thế nào. Trong 18 việc làm được liệt kê cho thấy tỷ lệ phân bố và
sự biến đổi như sau:
ảng 3.12: Việc làm của ngƣời dân trƣớc và sau khi thu hồi đất
STT
Việc làm
Tỉ lệ tăng/giảm việc làm 2015 so với 2010 (%) -24,1 -3,4 0,9
1 2 3 4
Năm 2010 Số lƣợng 495 107 13 16
Tỷ lệ % 49,4 10,7 1,3 1,6
Năm 2015 Số lƣợng 275 79 24 14
Tỷ lệ % 25,3 7,3 2,2 1,3
-0,3
Làm ruộng, làm vườn Chăn nuôi Xay xát thóc, gạo, ngô Các công việc liên quan đến nông nghiệp (hoa màu…) Buôn bán, kinh doanh nhỏ Bán hàng rong Giúp việc Lái xe Sửa chữa vật dụng
+1,3 +0,5 +0,4 +0,8 +0,8 +0,2
5 6 7 8 9 10 Giáo viên 11 Bộ đội, công an, cán bộ
62 4 1 9 3 18 20
6,2 0,4 0,1 0,9 0,3 1,8 2,0
81 10 5 18 12 22 31
7,5 0,9 0,5 1,7 1,1 2,0 2,9
+0,9
+0,4 -0,1 +0,5
chính quyền 12 Bác sĩ, y tá 13 Xuất khẩu lao động 14 Hưu trí 15 Tự mở công ty/nv trong
10 4 2 34
1,0 0,4 0,2 3,4
15 3 8 67
1,4 0,3 0,7 6,2
+2,8
doanh nghiệp
4 134 213 36
-0,6 +5,1 +10,1 +1,6
16 Bốc vác 17 Thợ mộc, thợ xây 18 Công nhân 18 Khác Tổng
.4 12,4 19,6 3,3 1050 100,0
10 73 95 17 993
1,0 7,3 9,5 1,7 100 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
121
Năm 2010, nghề nghiệp nhiều người làm hơn cả các việc khác là làm
ruộng, làm vườn (chiếm 49,9%) và chăn nuôi (chiếm 10,7%), tiếp đến là công
nhân (chiếm 9,5%); còn các ngành nghề khác như: giúp việc (chiếm 0,1%),
hưu trí (chiếm 0,2%), sửa chữa vật dụng (chiếm 0,3%) tuy nhiên sau 5 năm
(2015) kết quả nghiên cứu cho thấy, việc làm ruộng, làm vườn giảm 24%, từ
49,9% xuống còn 25,3%; chăn nuôi cũng có giảm 3,4%, từ 10,7% xuống còn
7,3%; trong khi đó, số lượng lao động làm công nhân tăng đáng kể là 10,1%,
từ 9,5% (năm 2010) lên 19,6% (năm 2015). Các ngành nghề khác về công
nghiệp, dịch vụ cũng có xu hướng tăng lên đáng kể. Tỷ lệ người lao động làm
giúp việc năm 2015 là 0,5%, hưu trí tăng từ 0,2% lên 0,7%, người lao động
sửa chữa vật dụng cũng tăng từ 0,3% (năm 2010) lên 1,1% (năm 2015). Các
ngành nghề khác như: giáo viên, bác sĩ, y tá... cũng tăng lên đáng kể.
Kết quả điều tra đã thể hiện sự biến đổi mạnh mẽ của cơ cấu việc làm
của người dân nông thôn. Theo quy luật phát triển tỷ lệ người làm việc trong
nông nghiệp sẽ giảm và sẽ gia tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp. Sau
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp tạo ra sự thúc đẩy
người dân chuyển đổi việc làm như làm thợ, làm công nhân trong nhà máy,
hay làm các dịch vụ buôn bán nhỏ phục vụ cho những người làm ở các khu
công nghiệp.
“Trong những năm qua, kể từ khi có các nhà máy thì người dân đã xin
vào làm việc trong các công ty. Đặc biệt là những người trẻ tuổi họ không
làm những công việc nông nghiệp trước đây nữa vì làm nông nghiệp vất vả
mà thu nhập không cao cũng không ổn định. Ở đây gần khu công nghiệp họ
xin vào làm ở các nhà máy thu nhập cũng được 4 hay 5 triệu đồng/tháng như
vậy cũng tương đối ổn định”
122
(Nam, PCT xã Thiện Kế)
Như vậy có thể thấy, trong thời gian 5 năm (từ năm 2010 - năm 2015),
cơ cấu việc làm của lao động mất đất nông nghiệp có nhiều biến đổi. Một
mặt, từ chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch
vụ; các hình thức tổ chức sản xuất tạo công ăn việc làm của người dân cũng
trở nên đa dạng. Tại xã Ngọc Mỹ (Quốc Oai) nhiều người trước làm ruộng,
sau khi thu hồi đất nông nghiệp đã sang xã Hữu Bằng (Thạch Thất) học nghề
mộc để có nghề mưu sinh, họ mở xưởng nhỏ để nhận việc về làm tại nhà,
người đi làm thuê cho các xưởng mộc,
“em sinh năm 80, trước cũng làm ruộng của gia đình, sau khi xã lấy
đất nhà em mất hết được đền bù một khoản em sang Hữu Bằng học mộc hơn
2 năm, em nhận việc bên đó mang về nhà làm xong thì chở sang, em còn phải
học thêm nữa chứ 2 năm chưa học hết được nghề mộc, nhiều người làng em
học mộc làm mộc, nhiều nhà mở được xưởng lớn, em thì đấy chị nhìn thì biết
em làm một mình”
(Nam, 35 tuổi, thợ mộc xã Ngọc Mỹ)
Có nhiều việc làm được người dân tạo ra để có thu nhập, từ tiền đền bù
nhiều người xây các dãy nhà trọ cho công nhân tại các công ty của khu công
nghiệp thuê, bán hàng rong ở ngoài cổng nhà máy, công ty…
“ tôi không chia tiền đền bù cho các con, chỉ cho mỗi đứa một ít mua
cái xe máy, nhà tôi mua mảnh đất gần khu công nghiệp, đã có người trả tôi
chênh lệch nhưng tôi không bán, bán làm gì mình có túng thiếu quá đâu,
người sinh ra chứ đất không sinh ra, tôi để đó vì chắc giá sẽ còn lên nữa”
(Nữ, 57 tuổi, xã Thiện Kế)
Bên cạnh việc người dân tự tạo việc làm thì sự hỗ trợ của nhà nước và
các cấp chính quyền, người dân được đào tạo nghề, được hỗ trợ công ăn việc
123
làm ổn định.
“Theo chính sách của nhà nước là dạy nghề cho người thuộc diện mất đất
nông nghiệp, xã đã làm nhiều đợt, trước thì xã tập hợp danh sách người đi học
rồi phải lên huyện lên tỉnh học nghề, hỗ trợ tiền đi lại và 10 kg gạo mỗi tháng,
nhưng không hiệu quả, nhiều người bỏ học, bây giờ thay đổi là huyện, tỉnh cử
người về xă dạy nghề cho người dân, nhưng thực ra chỉ là tập huấn thôi vì thiếu
thốn cơ cở vật chất, mấy năm nay chủ yếu tập huấn cho chị em phụ nữ học nấu
ăn, nhiều người giờ chuyên đi nấu cỗ”
(Nam, PCT xã Thiện Kế)
Như vậy quá thu hồi đất nông nghiệp thúc đẩy người dân tìm kiếm các
việc làm mới. Tỉ lệ người dân thay đổi công việc khá lớn chiếm >70%. Kết
quả khảo sát cũng thể hiện có sự giảm mạnh việc làm ruộng và chăn nuôi thay
vào đó là sự gia tăng việc làm của công nhân, thợ, buôn bán.
3.3.1. Biến đổi cơ cấu việc làm theo độ tuổi
Mỗi nhóm tuổi có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh cũng như các
yếu tố nhân khẩu. Do đó thu hồi đất nông nghiệp đã thúc đẩy sự biến đổi về
việc làm giữa các nhóm tuổi.
ảng 3.13: Sự chuyển đổi việc làm theo nhóm tuổi 2015
Tổng
Việc làm của ngƣời dân sau khu thu hồi đất (2015)
Làm ruộng
Chăn nuôi
Xay xát thóc gạo
Công việc liên qua đến nông nghiệp Buôn bán kinh doanh nhỏ
N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %
Nhóm tuổi 12- 24 10 6,4 1 6 1 6 1 6 6 3,8
Nhóm tuổi Nhóm tuổi 25-50 139 21,2 47 7,2 18 2,7 11 1,7 51 7,8
Nhóm tuổi 51-60 124 45,8 31 11,4 5 1,8 2 7 24 8,9
273 25,2 79 7,3 24 2,2 14 1,3 81 7,5
124
Tổng
Việc làm của ngƣời dân sau khu thu hồi đất (2015)
Bán hàng rong
N Tỉ lệ %
Nhóm tuổi 12- 24 1 6
Nhóm tuổi Nhóm tuổi 25-50 4 6
Nhóm tuổi 51-60 5 1,8
10 9
Giúp việc
Lái xe
Sửa chữa vật dụng
Giáo viên
Bộ đội, công an, cán bộ chính quyển
Bác sĩ, y tá
Xuất khẩu lao động
Hưu trí
N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %
0 0 2 1,3 1 6 3 1,9 4 2,5 3 1,9 0 0 0 0
5 8 15 2,3 8 1,2 15 2,3 16 2,4 11 1,7 3 5 0 0
5 5 18 1,7 12 1,1 22 2,0 31 2,9 15 1,4 3 3 8 7
0 0 1 4 3 1,1 4 1,5 11 4,1 1 4 0 0 8 3,0
N Tỉ lệ %
27 17,2
38 5,8
67 6,2
2 7
Tự mở công ty/ nhân viên hành chính trong doanh nghiệp
Bốc vác
Thợ nói chung
Công nhân
Khác
Tổng
N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %
4 6 86 13,1 149 22,7 20 3,1 655 100,0
0 0 26 9,6 3 1,1 14 5,2 271 100,0
0 0 22 14,0 61 38,9 2 1,3 157 100,0
4 4 134 12,4 213 19,7 36 3,3 933 100,0 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
125
Sự chuyển đổi cơ cấu việc làm theo nhóm tuổi cũng rất đa dạng, tỷ lệ
lao động làm việc ở tất cả các ngành nghề. Số liệu cũng cho thấy, trong cơ
cấu việc làm theo các nhóm tuổi có sự chênh lệch tương đối đáng kể: Trong
việc làm ruộng những người ở nhóm tuổi 51 - 60 chiếm tỷ lệ cao nhất là
45,8%, trong khi đó ở nhóm tuổi 15 - 24 chỉ chiếm 6,4%. Làm công nhân ở
nhóm tuổi 15 - 24 chiếm 38,9%, nhóm tuổi 25 - 50 chiếm 22,7%, và ở nhóm
tuổi 51-60 có tỷ lệ thấp nhất là 1,1%. Thực tế đã lý giải điều này, các công
ty khi tuyển dụng công nhân họ không tuyển dụng người lớn tuổi và thường
ưu tiên nhóm tuổi trẻ, bắt đầu bước vào thị trường lao động có sức khỏe và
có được đào tạo,
“Trong 5 năm qua hầu hết các gia đình đều có người thay đổi công
việc của mình. Nhà nào còn ít ruộng nào thì làm, chủ yếu là người già làm
thôi, người có tuổi rồi họ ngại thay đổi công việc và cũng không biết làm việc
gì làm sao làm được công nhân”.
(Nữ, 50 tuổi, làm nông nghiệp xã Ngọc Mỹ)
Như vậy có thể thấy rằng những người tuổi trẻ làm công việc phi nông
cao hơn so với các thế hệ trước. Các thế hệ ông bà, bố mẹ là những người có
tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế, sự nhanh nhẹn, sức khỏe giảm sút
vì thế rất khó chuyển sang những công việc phức tạp nên họ tự tìm kiếm cho
mình những công việc phù hợp.
Trong sự chuyển đổi việc làm người dân cũng cho biết mối quan tâm
của họ đến tính ổn định của công việc.
Tôi thấy sự thay đổi nghề nghiệp việc làm của người dân chưa thực sự
tốt vì còn một bộ phận người lao động bị thu hồi đất vẫn không có việc làm ổn
định, chủ yếu là làm những công việc tự phát như: thợ hồ, buôn bán hàng
rong, là nghề thủ công.... chưa có công việc một cách ổn định kể cả những
người già và những người trẻ.
126
(Nữ, 45 tuổi, buôn bán nhỏ, xã Thiện Kế)
Quá trình chuyển đổi về cơ cấu lao động được biểu hiện cụ thể thông
qua quá trình thay đổi về cơ cấu việc làm của người dân. Quá trình chuyển đổi
nghề nghệp có sự thay đổi theo các thế hệ.
ảng 3.14: Việc làm của của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất 2010
theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
Tổng
Việc làm của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất (2010)
Nhóm tuổi 15-24 tuổi
Nhóm tuổi 25-50 tuổi
Nhóm tuổi 51-60 tuổi
N
40
269
186
495
Làm ruộng
Tỉ lệ %
39,2
42,6
68,1
49,2
N
10
65
35
110
Chăn nuôi
Tỉ lệ %
9,8
10,3
12,8
10,9
N
0
9
4
13
Xay xát thóc gạo
Tỉ lệ %
0
1,4
1,5
1,3
N
2
13
1
16
Công việc liên qua
đến nông nghiệp
Tỉ lệ %
2,0
2,1
4
1,6
N
10
45
7
62
Buôn bán kinh doanh
nhỏ
Tỉ lệ %
9,8
7,1
2,6
6,2
N
0
0
4
4
Bán hàng rong
Tỉ lệ %
0
0
1,5
4
N
0
1
0
1
Giúp việc
Tỉ lệ %
0
2
0
1
N
1
8
0
9
Lái xe
0
9
Tỉ lệ %
1,0
1,3
N
0
3
0
3
Sửa chữa vật dụng
Tỉ lệ %
0
5
0
3
N
0
14
4
18
Giáo viên
Tỉ lệ %
0
2,2
1,5
1,8
3
9
8
20
Bộ đội, công an, cán
N
127
Nhóm tuổi
Tổng
Việc làm của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất (2010)
Nhóm tuổi 15-24 tuổi
Nhóm tuổi 25-50 tuổi
Nhóm tuổi 51-60 tuổi
bộ chính quyển
Tỉ lệ %
2,9
1,4
2,9
2,0
N
1
8
1
10
Bác sĩ, y tá
Tỉ lệ %
1,0
1,3
4
1,0
N
0
4
0
4
Xuất khẩu lao động
Tỉ lệ %
.0
6
0
4
N
0
1
1
2
Hưu trí
Tỉ lệ %
0
2
4
2
Tự mở công ty/nhân
N
9
25
0
34
viên hành chính
Tỉ lệ %
8,8
4,0
0
3,4
trong doanh nghiệp
N
0
9
1
10
Bốc vác
Tỉ lệ %
0
1,4
4
1,0
N
6
57
10
73
Thợ nói chung
Tỉ lệ %
5,9
9,0
3,7
7,3
N
19
75
1
95
Công nhân
Tỉ lệ %
18,6
11,9
4
9,4
N
0
8
9
17
Khác
Tỉ lệ %
0
1,3
3,3
1,7
Tỉ lệ %
100
623
269
993
Tổng
N
100,0
100,0
100,0
100,0
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Theo kết quả khảo sát năm 2010, cơ cấu việc làm theo thế hệ trong gia
đình của các hộ gia đình cũng rất đa dạng. Các thành viên trong độ tuổi lao
động của hộ gia đình được khảo sát làm việc ở tất cả các việc. Nhưng chủ yếu
là lao động trong ngành nông nghiệp (làm ruộng, chăn nuôi, những việc làm
128
liên quan đến nông nghiệp) và buôn bán, dịch vụ là những việc làm có tỷ lệ
lao động tham gia nhiều nhất trong cơ cấu việc làm của địa phương. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, từ trước năm 2010, các thành viên trong gia đình
làm việc chủ yếu là công việc thuộc nông nghiệp, tỷ lệ các thành viên ở thế
hệ 3 (15 - 25 tuổi) trong gia đình lao động chính là làm ruộng, chăn nuôi,
buôn bán nhỏ là chủ yếu, một số ít làm công nhân, còn các công việc khác
hầu như không có và tỷ lệ lao động chủ yếu là các thành viên trong hộ gia
đình thuộc thế hệ 2 (25 - 50 tuổi). Dù các việc làm tương đối đa dạng,
nhưng vẫn tập trung chủ yếu là làm ruộng, chăn nuôi và công nhân. Trong
cơ cấu việc làm theo thế hệ có sự chênh lệch tương đối đáng kể: Trong làm
ruộng, tỷ lệ lao động làm ruộng là những người ở thế hệ thứ 1(50 - 60 tuổi)
chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,1%, nhiều hơn số lượng lao động trong cùng độ
tuổi năm 2015 là 22,3%, trong khi đó, thế hệ thứ 3 (15 - 25 tuổi) chỉ chiếm
39,2% nhiều hơn năm 2015 là 32,8%. Người lao động làm công nhân ở thế
hệ thứ 1 (15 - 25 tuổi) chiếm 18,6%, thế hệ thứ 2 (25 - 50 tuổi) chiếm tỷ lệ
11,9%, công nhân ở thế hệ thứ 3 chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,4%. Các việc làm
khác cũng có sự chênh lệch giữa các thế hệ. Tuy nhiên, các thành viên
trong gia đình vẫn tập trung nhiều nhất vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt
là làm ruộng chiếm 49,2%.
“...từ khi có các khu công nghiệp về xã tôi thấy xã có nhiều biến
đổi, nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện như cho thuê nhà trọ, các dịch vụ
cắt tóc, gội đầu, bán hàng quán cũng có. Hiện nay trong xã hầu hết thế hệ
trẻ trẻ khoảng <40 tuổi thì đều đi xin làm công ty hoặc là đi làm ăn chứ
không còn làm nông nghiệp nữa. Chỉ có những người có tuổi, sức khỏe
kém, không nhanh được như bọn trẻ thì ở nhà làm thêm các việc. Với cả
bây giờ doanh nghiệp họ không thuê những người già như chúng tôi mà
chỉ thuê bọn trẻ thôi”.
129
(Nam, 53 tuổi, làm ruộng, xã Thiện Kế)
Có thể thấy, cơ cấu việc làm năm 2010 tập trung chủ yếu vào các hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề còn hạn chế
chưa nâng cao tay nghề cho người lao động địa phương, đặc biệt là các hộ gia
đình cách xa trung tâm thì việc đào tạo càng gặp nhiều khó khăn.
3.3.2. Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất NN đến việc
làm và tính đa việc làm của người dân
Thu hồi đất nông nghiệp ở xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế như đã trình bày ở
phần 3.2 cho thấy sự tác động đến mỗi hộ mỗi người là khác nhau về diện
tích, tiền đền bù và việc làm của người dân. Đánh giá được mức độ ảnh
hưởng được thể hiện rõ ở bảng sau:
ảng 3.15: Đánh giá mức độ ảnh hƣởng của việc thu hồi đất nông nghiệp
đến việc làm của ngƣời dân
Mức độ ảnh hƣởng Tỷ lệ % Tỷ lệ % cộng dồn Tần suất
Hoàn toàn không ảnh hưởng 37 9,2 9,2
Ảnh hưởng ít 49 12,3 21,6
Bình thường 83 20,8 42,4
Ảnh hưởng tương đối nhiều 138 34,6 76,9
Ảnh hưởng rất nhiều 92 23,1 100,0
Tổng 399 100,0
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Khi được hỏi mức độ ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến
việc làm của người dân như thế nào kết quả thu được, số người cho rằng quá
trình thu hồi đất không ảnh hưởng đến việc làm của người dân là 9,2% và tỷ
lệ cho rằng bị ảnh hưởng nhiều và rất nhiều cộng dồn lên tới 76,9%. Điều này
chứng tỏ quá trình thu hồi đất có ảnh hưởng rất lớn đối với việc làm của
130
người dân.
Tuy nhiên, khi tách hai địa bàn nghiên cứu ra thì thấy mức độ ảnh
hưởng có khác nhau do các mỗi địa bàn có đặc điểm kinh tế, xã hội khác nhau
ảng 3.16: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và đánh giá về sự ảnh
hƣởng đến việc làm
Mức độ ảnh hƣởng của thu hồi đất đến việc làm của ngƣời dân
Tổng Địa điểm phỏng vấn
ảnh hƣởng ít Bình thƣờng Hoàn toàn không
Thiện Kế N 42 24 Ảnh hƣởng nhiều 86 Ảnh hƣởng rất nhiều 60 27 239
% 17,6 10,0 11,3 36,0 25,1 100,0
Ngọc Mỹ N 7 13 56 52 32 160
% 4,4 8,1 35,0 32,5 20,0 100,0
Tổng N 49 37 83 138 92 399
% 9,3 12,3 20,8 34,6 23,1 100,0
p=0,000, Tau-b=-0,18
Theo số liệu khảo sát các hộ gia đình đánh giá quá trình thu hồi đất
nông nghiệp ảnh hưởng tương đối nhiều đến việc làm của hộ gia đình. Tại hai
địa bàn điều tra có sự khác nhau ở mức ảnh hưởng nhiều và rất nhiều ở Thiện
Kế là 61,1% còn ở Ngọc Mỹ là 52,5%, chênh nhau là 8,6%. Như vậy đánh giá
của người dân về sự ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của
hộ gia đình ở xã Thiện Kế mạnh hơn ở xã Ngọc Mỹ một cách có ý nghĩa
thống kê. Tuy nhiên mức độ gắn bó giữa hai biến tương đối yếu với hệ số gắn
bó Tau-b là 0,18.
Thực tế khảo sát tại hai địa bàn tác giả quan sát thấy một đặc điểm kinh
tế có tác động đến mức độ ảnh hưởng của xã Thiện Kế mạnh hơn xã Ngọc Mỹ
đó là xã Ngọc Mỹ có nghề truyền thống làm mộc và làm nón, do đó khi thu
131
hồi ruộng đất người dân xã Ngọc Mỹ có thể giải quyết được ngay việc làm tại
chỗ, đặc điểm này rất đáng kể mà tác giả nhận ra trong quá trình khảo sát;
trong khi đó xã Thiện Kế không có nghề phụ, nghề truyền thống.
Bên cạnh sự đánh giá mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất đến việc làm
thì người dân 2 xã, để đảm bảo việc làm và cuộc sống người dân phải thích
nghi với điều kiện mới bằng cách chuyển đổi việc làm cũng như đảm bảo cơ
cấu thu nhập cho gia đình nên người dân đã làm nhiều công việc hay gọi là
tính chất đa việc làm. Điều này hoàn toàn đúng với thực tế khi có tới 63,3%
số người được hỏi cho biết ngoài nông nghiệp ra họ còn làm thêm việc khác
nữa. Tỷ lệ người dân làm đến 2, 3 công việc rất cao là 57,5%, thực tế có
người dân là đến 4, 5 loại công việc.
(ĐV tính %)
iểu đồ 3.6. Tính đa việc làm của ngƣời dân
(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)
Tiểu kết chương 3: Như vậy có thể thấy sau quá trình thu hồi đất nông
nghiệp đã làm cho biến đổi cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm của người dân
2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kến theo hướng giảm lao động ở ngành kinh tế nông
nghiệp, tăng mạnh lao động ở ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ. Trong
132
chương 3 luận án cũng đi sâu vào phân tích sự biến đổi cơ cấu lao động, việc
làm phân theo giới tính, trình độ học vấn và độ tuổi để có làm rõ sự khác biệt
của các yếu tố nhân khẩu xã hội.
Thực trạng biến đổi cơ cấu việc làm thể hiện khá rõ khi so sánh từ 2010
đến 2015, người dân làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi giảm mạnh và tăng việc
làm thợ, công nhân, lái xe, giáo viên… Đặc biệt trong đó nghiên cứu thấy có
sự khác biệt lớn về độ tuổi với sự biến đổi cơ cấu việc làm; nhóm tuổi 15-24
làm công việc phi nông nghiệp rất cao, còn nhóm tuổi 51-60 làm việc nông
nghiệp cao. Phản ánh thực tế chuyển đổi việc làm ở nhóm tuổi 51-60 có nhiều
hạn chế, khó khăn.
Đánh giá của người dân 2 xã về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất
nông nghiệp đến việc làm kết quả số liệu cho thấy ở mức ảnh hưởng nhiều và
rất nhiều, cùng với mức độ ảnh hưởng cho thấy có mối quan hệ với tính đa
việc làm nhằm đảm bảo thu nhập, sinh hoạt cuộc sống của người dân. Và
người dân coi cùng một lúc làm nhiều công việc như một chiến lược sống
133
trong thời kỳ mới.
Chƣơng 4
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA
NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
4.1. Các yếu tố nhân khẩu - xã hội, chủ quan.
Các yếu tố nhân khẩu- xã hội như tuổi, giới tính, trình độ học vấn… là
các yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình lựa chọn chuyển đổi việc làm của
người dân khi thu hồi đất nông nghiệp.
4.1.1. Yếu tố tuổi của người lao động
Để làm rõ yếu tố tuổi tác có tác động như thế nào đến sự biến đổi cơ
cấu lao động, việc làm của người dân, từ chọn mẫu 399 hộ và số người trong
độ tuổi lao động trong 399 hộ là 1083 người chia thành 3 nhóm tuổi.
ảng 4.1: Cơ cấu độ tuổi lao động
Cơ cấu độ tuổi lao động Số lƣợng Tỷ lệ %
Nhóm tuổi 15-24 157 14,4
Nhóm tuổi 25-50 655 60,4
Nhóm tuổi 51-60 273 25,2
1085 100,0 Tổng
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Nhóm tuổi từ 25 - 50 chiếm tỷ lệ cao nhất là 60,4%, là nhóm lao động
trẻ, có kinh nghiệm làm việc và tay nghề nhất định. Nhóm tuổi từ 51 – 60 là
25,2%. Số lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 15 – 24 là 14,4%.
Đặc điểm về tuổi có tác động đến sự chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm
134
thể hiện ở bảng dưới đây:
ảng 4.2: Mối quan hệ giữa độ tuổi và sự chuyển đổi việc làm
Chuyển đổi việc làm
Tổng
Không thay đổi việc làm Có thay đổi việc làm
47 110 157
29,90 70,10 100,00
351 304 655
53,60 46,40 100,00
160 113 273
Nhóm tuổi 15-24 Nhóm tuổi 25-50 Nhóm tuổi 51-60 58,60 41,40 100,00
558 527 1085 Tổng N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % 51,40 48,60 100,00
*p<0,05, tau-b=0,23
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Có sự khác biệt trong việc chuyển đổi việc làm giữa những lao động
trong 3 nhóm tuổi khác nhau. Cụ thể độ tuổi 50-60 chuyển đổi việc làm thấp
hơn; trong khi đó chuyển đổi việc làm ở nhóm tuổi từ 15 – 24 tuổi rất cao
chiếm 70,10%. Kết quả này là một trong những bằng chứng cho biết việc
chuyển đổi việc làm bị ảnh hưởng bởi nhóm tuổi.
4.1.2. Yếu tố trình độ học vấn của người lao động
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong
quá trình chuyển đổi việc làm.
ảng 4.3: Trình độ học vấn của ngƣời dân
Trình độ học vấn Số lƣợng Tỷ lệ %
Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung cấp Cao đẳng/ Đại học Tổng 217 376 311 31 150 1085
135
20,0 34,7 28,7 2,9 13,8 100,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Tỷ lệ người lao động có trình độ học vấn bậc tiểu học là 20,0%, tỷ lệ ở
cấp THCS là 34,7%, cộng dồn là 54,7%. Trình độ học vấn THPT là 28,7%.
Trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cộng dồn là 16,7 %. Trong cơ cấu trình
độ học vấn của người dân 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế có ðến quá nửa là trình
độ tiểu học và THCS.
Xem xét yếu tố trình độ học vấn có tác động đến quá trình chuyển đổi
việc làm của người dân thể hiện ở bảng dưới đây:
ảng 4.4: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn sự chuyển đổi việc làm
Chuyển đổi việc làm
Trình độ học vấn Tổng Không thay đổi Có thay đổi
việc làm việc làm
Số lượng 137 80 217 Tiểu học Tỷ lệ % 63,10 36,90 100,00
Số lượng 204 172 376 THCS Tỷ lệ % 54,30 45,70 100,00
Số lượng 137 174 311 THPT Tỷ lệ % 44,10 55,90 100,00
Số lượng 18 13 31 Trung cấp Tỷ lệ % 58,10 41,90 100,00
Số lượng 62 88 150 Cao đẳng, đại học Tỷ lệ % 41,30 58,70 100,00
Số lượng 558 527 1085 Tổng Tỷ lệ % 51,40 48,60 100,00
*p=0,000, Cramer's V=.156
136
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Tỷ lệ người dân có trình độ học vấn cấp tiểu học chuyển đổi việc làm là
36,9%, tỷ lệ ở cấp trung học cơ sở là 45,70%, chiếm một tỷ lệ rất tương đối
lớn. Người dân có trình độ tiểu học, trung học cơ sở trong quá trình chuyển
đổi việc làm thường khó tiếp cận với các loại công việc đòi hỏi có kỹ năng,
tay nghề mà chỉ có thể tiếp cận các loại công việc thiên về lao động đơn giản,
tay chân, thể lực dẫn đến những hạn chế đi cơ hội lựa chọn việc làm của
người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm.
Trình độ học vấn người dân có trình độ THPT có chuyển đổi việc làm
chiếm tỷ lệ cao 55,9%. Nhóm có trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học có tỷ
lệ chuyển đổi việc làm cũng tương đối cao với tỷ lệ lần lượt là 41,9% và
58,7%. Đây là nhóm có nhiều thuận lợi nhất trong quá trình lựa chọn việc làm
, tuy nhiên, những người có bằng cấp càng cao lại thường không làm các công
việc liên quan đến chân tay. Họ thường lựa chọn các công việc ở văn phòng,
công ty từ trước đó. Do vậy, tỷ lệ người lao động chuyển đổi việc làm ở nhóm
trình độ này cũng ở mức độ tương đối cao.
Với Cramer's V=0,156 cho thấy mối liên hệ giữa trình độ học vấn với
quá trình chuyển đổi việc làm chỉ ở mức liên kết yếu. Do vậy, có thể khẳng
định trình độ học vấn không phải là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong quá
trình chuyển đổi việc làm của người dân.
Kết quả phân tích chỉ dựa trên mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên, với p=0,000
cho phép khái quát mối quan hệ giữa trình độ học vấn và chuyển đổi việc làm
cho tổng thể nghiên cứu với mức độ tin cậy cao và đáp ứng độ tin cậy từ 95 –
99% đã xác định cho nghiên cứu này.
4.1.3 Yếu tố giới tính
Trong cơ cấu giới tính mẫu khảo sát tại 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế có
137
tỷ lệ cân bằng cho phép phân tích chính xác hơn.
ảng 4.5: Giới tính của ngƣời trong độ tuổi lao động đƣợc thống kê
Giới tính Số lƣợng Tỷ lệ %
Nữ 530 48,8
Nam 555 51,2
Tổng 1085 100,0
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Như chúng ta đã biết, giới tính là cơ sở sinh học tạo nên đặc điểm và
khác biệt giới. Trong thực tế ở phổ biến nhiều xã hội tồn tại phân công lao
động trên cơ sở giới và định kiến xã hội xác định việc thực hiện vai trò giới
của nam và nữ có nhiều sự khác biệt.
Tại 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế khi đo lường yếu tố giới tính với khả
năng chuyển đổi việc làm cho thấy:
ảng 4.6: Giới tính và và sự chuyển đổi việc làm
Chuyển đổi việc làm Giới tính Tổng
Không chuyển đổi Có chuyển đổi
N 265 530 265 Nữ Tỷ lệ % 50,00 100 50,00
N 293 555 262 Nam Tỷ lệ % 52,80 100 47,20
N 558 1085 527 Tổng Tỷ lệ % 51,4 100 48,6
*p<0,05, Cramer’V=0,23
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Số liệu cho thấy không có sự khác biệt nhiều giữa nam và nữ trong việc
chuyển đổi việc làm. Yếu tố giới tính không phải là yếu tố ảnh hưởng nhiều
138
đến quá trình chuyển đổi việc làm của người dân..
4.1.4. Tâm thế của hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp
Trong quá trình thu hồi đất nông nghệp tâm thế để chuẩn bị cho quá
trình thay đổi là rất quan trọng. Nếu người nông dân được chuẩn bị tốt, họ sẽ
có khả năng thích ứng tốt hơn với những điều kiện mới. Và tâm thế cũng sẽ
thúc đẩy họ hành động. ảng 4.7: Tâm thế của ngƣời dân khi Nhà nƣớc thu hồi đất nông nghiệp7
Mức độ đồng ý
Điểm trung bình
2, Ít đồng ý
3, Đồng ý
4, Khá đồng ý
1, Hoàn toàn không
5, Hoàn toàn đồng ý
10,5
25,1
43,4
7,8
13,3
2,88
10,8
24,8
41,4
9,0
14,0
2,91
12,0
25,8
38,6
9,6
14,5
2,88
13,3
25,1
26,8
18,8
16,0
2,99
16,0
31,6
33,8
11,0
7,5
2,62
30,1
35,8
18,8
8,0
2,27
7,3
35,6
36,1
19,0
4,5
4,8
2,07
Ý kiến của ngƣời dân với các nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra Tôi thấy băn khoăn lo lắng về lương thực cho tương lai Tôi lo lắng cho cuộc sống của mình và gia đình Tôi lo lắng sẽ làm gì trong tương lai khi không còn đất nông nghiệp Tôi thấy băn khoăn về công việc của con cái trong tương lai Tôi băn khoăn tiền đền bù sẽ sử dụng như thế nào cho hiệu quả Tôi sợ rằng con cái sẽ không chịu khó làm ăn vì trông chờ vào tiền đền bù Tôi thấy vui khi có nhiều tiền đền bù
7 Lưu ý rằng Tâm thế của người trả lời là sự hồi cố của họ về tâm lý trong thời kỳ thu hồi đất nông nghiệp.
139
Mức độ đồng ý
Điểm trung bình
2, Ít đồng ý
3, Đồng ý
4, Khá đồng ý
1, Hoàn toàn không
5, Hoàn toàn đồng ý
23,6
33,1
28,6
9,0
5,8
2,40
53,1
28,1
13,0
3,5
2,0
1,73
42,6
33,1
18,5
3,5
2,3
1,90
26,6
26,6
35,1
7,3
4,5
2,37
22,1
28,1
34,8
7,0
8,6
2,51
Ý kiến của ngƣời dân với các nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra Tôi rất phấn khởi sẽ làm được nhiều công việc từ tiền đền bù (xây nhà, chuyển đổi cuộc sống,...) Tôi thấy phấn khởi vì từ bây giờ gia đình tôi không còn phải làm nông nghiệp nữa Tôi thấy vui khi có dự án về tôi/người trong gia đình sẽ có công việc mới mà không phải làm nông nghiệp Tôi thấy vui khi có dự án về xã sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng Tôi nghĩ rằng kinh tế địa phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án
(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)
Đánh giá của các hộ gia đình khi biết sắp có chủ trương thu hồi đất
được thể hiện qua bảng số liệu trên, ở các mức độ khác nhau. Trong đó, đa
phần các hộ gia đình đều cảm thấy lo lắng trước chủ trương thu hồi đất. Trong
hoàn cảnh bị thu hồi phần lớn ruộng đất, tất yếu số lượng người đang làm
nông nghiệp mất việc làm sẽ tăng lên. Theo quy định của Chính phủ Quyết
định số 63/2015/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho người lao động bị thu hồi đất “Đối với hỗ trợ giải quyết việc làm
140
trong nước: Người lao động bị thu hồi đất được tư vấn, định hướng nghề
nghiệp và giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm dịch vụ việc làm;
Vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.
Đối với đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Người lao động bị thu hồi
đất nông nghiệp được hỗ trợ theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP
ngày 9/7/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc
gia về việc làm”.
Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một
số hộ gia đình bị thu hồi đất. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy,mặc dù khu
công nghiệp được thành lập tại địa phương và số người mong muốn được
làm việc lớn, nhưng chỉ có một phần nhỏ người lao động được nhận vào
làm việc.
“Ở đây thu hồi đất nông nghiệp rất nhiều vì mở khu công nghiệp Bá
Thiện kia, như thôn tôi là thôn Gò Cao thì thu hồi 100% đất nông nghiệp, còn
các thôn khác thu hồi tùy theo ít nhiều. Chủ yếu là công ty của Nhật Bản và
Hàn Quốc. Sản xuất về điện tử.
Nhà nước có chính sách tuyển dụng người thuộc diện thu hồi đất vào làm
việc là có nhưng các công ty người ta có tiêu chuẩn của người ta. Anh phải có
tay nghề người ta mới tuyển nên số người được tuyển không phải là nhiều. Với
lại họ chỉ tuyển nữ là nhiều chứ không tuyển nam, tuyển nam rất ít”.
(Nam, 56 tuổi, chủ hộ, xã Thiện Kế
Kết quả thu được từ phỏng vấn sâu cũng cho thấy, đa số người dân gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, và việc khó khăn này là do kiến thức
và kinh nghiệm chưa đủ để đáp ứng với những đòi hỏi của công việc mới nên
số nông dân cảm thấy luôn luôn bận rộn với công việc và công việc của mình
luôn tiến triển tốt không nhiều.
“Ở đây thu hồi đất để phục vụ mở đại lộ Thăng Long, Láng- Hòa Lạc,
đấy là hồi đầu cách đây hơn chục năm, gần đây thì thu hồi 72 ha đất nông
141
nghiệp để phát triển khu đô thị Tây Quốc Oai, sắp tới tiếp tiếp tục thu hồi để
phát triển khu công nghiệp. Dân ở đấy bây giờ còn ít đất ruộng nên cũng tìm
cách làm nghề khác. Nhưng cũng khó khắn lắm. Sang Hữu Bằng – Thạch
Thất học nghề mộc, người thì đi buôn bán, người thì làm nón, có việc gì thì
làm việc đấy phải xoay xở. Nói chung là cũng vậy vậy.”
(Nam, 31 tuổi, thợ mộc, xã Ngọc Mỹ)
Phần lớn người lao động lo lắng về việc làm của con cái mình trong
tương lai, với điểm trung bình 2,99/5 điểm cho thấy mức độ lo lắng về
việc làm của con cái trong tương lai ở mức trên trung bình. Đối với băn
khoăn, lo lắng về cuộc sống, lương thực và công việc của gia đình khi bị
thu hồi đất lần lượt là 2,91, 2,88và 2,88 điểm (thang đo giá trị là 5). Cũng
cho biết mức độ lo lắng tương đối cao, tuy nhiên với độ lệch chuẩn lớn
cho thấy có sự khác biệt về mức độ lo lắng đối với những hộ gia đình có
những đặc điểm khác nhau.
Một số hộ gia đình lại lo lắng, băn khoăn về tiền đền bù của gia đình sẽ
sử dụng như thế nào cho hiệu quả, hoặc lo con cái sẽ không chịu khó làm ăn
vì trông chờ vào tiền đền bù ở mức đồng ý và ít đồng ý với mức điểm trung
bình lần lượt là 2,67 và 2,27 điểm. Tuy nhiên, một số hộ gia đình lại cảm thấy
vui vì khi có nhiều tiền đền bù và họ sẽ làm được nhiều việc từ tiền đền bù
(xây nhà, chuyển đổi cuộc sống) với mức điểm trung bình là 2,07 và 2,40
điểm (thang đo giá trị là 5).
Khi nhận được chủ trương thu hồi đất, các hộ gia đình cảm thấy vui,
tuy nhiên chỉ ở mức độ trung bình từ 1,7 đến 2,57 điểm (thang đo giá trị là 5).
Sau khi thu hồi đất, các hộ gia đình nông thôn nhận được nhiều tiền đền bù,
dẫn đến nhiều hộ gia đình cảm thấy phấn khởi vì bây giờ không còn phải làm
nông nghiệp nữa. Tuy nhiên, nhận định này chỉ được đánh giá ở mức ít đồng
ý với mức điểm trung bình là 1,73 điểm (thang đo giá trị là 5). Một số hộ gia
142
đình cảm thấy vui khi có sự án về gia đình sẽ có công việc mới mà không
phải làm nông nghiệp hay sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng và địa
phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án với mức điểm trung bình lần lượt là
1,90, 2,37 và 2,51 điểm (thang đo giá trị là 5).
Như vậy, có thể thấy, các hộ gia đình khi biết được chủ trương thu hồi
đất cảm thấy lo lắng, băn khoăn về tương lai nhiều hơn, việc làm của người
lao động về tương lai chính là điều mà các hộ gia đình lo lắng nhiều nhất, việc
làm là một phần không nhỏ ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ gia đình
trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả phân tích tương quan tâm thế của
người lao động đối với quá trình chuyển đổi việc làm của người lao động.
ảng 4.8: Mối quan hệ giữa tâm thế của ngƣời dân khi Nhà nƣớc thu hồi
đất nông nghiệp và quá trình thay đổi việc làm
Tâm lý lo lắng khi thu hồi đất
Tâm lý vui mừng khi thu hồi đất
Mức độ chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình
Tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số ngƣời trong gia đình
Hệ số r
Tâm lý lo lắng khi
thu hồi đất
Mức ý nghĩa
Hệ số r
Tâm lý vui mừng
khi thu hồi đất
Mức ý nghĩa
Tỷ lệ % chuyển
.399**
-.158**
1,000
Hệ số r
đổi/tổng số người
.000
.002
Mức ý nghĩa
trong gia đình
.453**
-.211**
.686
1,000
Mức độ ảnh hưởng
Hệ số r
đến công việc của
.000
.000
.000
Mức ý nghĩa
gia đình
**p<0,001 *p<0,05
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
143
Kết quả phân tích tương quan giữa tâm lý của người dân khi thu hồi đất
với tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số người trong gia đình và mức độ ảnh hưởng đến
công việc của gia đình. Trong đó, mức độ mối liên kết giữa các yếu tố mạnh
yếu khác nhau.
Tâm lý lo lắng khi thu hồi đất lại đồng biến với tỷ lệ % chuyển
đổi/ tổng số người trong gia đình, r = 0,399 và mức độ ảnh hưởng đến
công việc của gia đình với hệ số tương quan r= 0,453 với mức ý nghĩa
α<0,05, Ngược lại, tâm lí vui mừng lại thể hiện tính chất nghịch biến
với tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số người trong gia đình và mức độ chuyển
đổi nghề nghiệp của hộ gia đình với r lần lượt là r = - 0,158 và r = -
0,211 với mức ý nghĩa α < 0,01.
Như vậy, có thể thấy, khi tâm lý của người dân càng lo lắng bao nhiêu
thì tỷ lệ % chuyển đổi và mức độ chuyển đổi càng lớn. Tâm thế của người dân
trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp thể hiện rõ những lo lắng của người
dân nông thôn. Tâm lý e ngại trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng như tâm lý
lo lắng mình không biết làm việc gì khác ngoài làm nông nghiệp là một trong
những tâm lý then chốt khiến người dân nông thôn không tự tin để có thể
chuyển đổi nghề nghiệp của mình.
4.2. Các yếu tố khách quan
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của người lao
động, trong đó, tập trung chủ yếu vào ba nhóm yếu tố chính, đó là: yếu tố về
thị trường, yếu tố nguồn lực trong gia đình, yếu tố về sự giúp đỡ của người
dân/chính quyền địa phương.
4.2.1. Yếu tố về thị trường
Thị trường có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến từng hoạt động sản xuất
144
kinh doanh của người dân vì thị trường là mục tiêu của những người kinh
doanh và cũng là môi trường của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Khi
người dân nhận thấy thị trường có nhiều thay đổi để tạo ra lợi nhuận họ sẽ
thay đổi cách thức sản xuất để tọa ra các mặt hàng phù hợp với các lĩnh
vực thị trường cần.
ảng 4.9: Mức độ quan trọng yếu tố thị trƣờng trong quá trình chuyển
đổi việc làm của gia đình
Mức độ
Hoàn toàn Ít Tƣơng Quan Rất quan Mức độ quan trọng không quan quan đối quan Điểm trung bình trọng trọng trọng trọng trọng
Nhu cầu của 11,3 30,1 34,2 11,7 17,8 2,85
người tiêu dùng
địa phương tăng mạnh
Nhu cầu tiêu 28,2 35,7 25,2 7,5 3,4 2,22
dùng ở nơi khác tăng mạnh
Số người buôn 22,2 28,9 34,2 10,9 3,8 2,45
mua hàng hóa tăng mạnh
Dễ bán sản phẩm 20,3 32,7 34,6 8,6 3,8 2,43
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Các yếu tố thị trường (nhu cầu của người tiêu dùng địa phương, nhu
cầu tiêu dùng của người ở nơi khác, số người buôn mua hàng hóa tăng và dễ
bán sản phẩm) là những yếu tố người dân bị thu hồi đất cho rằng có ảnh
hưởng đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của gia đình. Trong đó, các yếu
145
tố về thị trường được đánh giá ở mức độ quan trọng với thang điểm trung
bình từ 2,22 đến 2,85 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, yếu tố nhu cầu
của người tiêu dùng địa phương được đánh giá cao nhất với điểm trung bình
là 2,85 điểm. Trong đó, yếu tố được người dân đánh giá ở mức ít quan trọng
và quan trọng chiếm tỷ lệ cao nhất là 30,1% và 34,2%. Yếu tố nhu cầu tiêu
dùng của người ở nơi khác tăng mạnh lại được đánh giá ở mức thấp nhất, ít
quan trọng với mức điểm trung bình là 2,22 điểm. Trong đó, phần lớn tỷ lệ
người trả lời hoàn toàn không quan trọng hoặc ít quan trọng chiếm tỷ lệ cao
nhất lần lượt là 28,2% và 35,7%.
Như vậy, qua bảng số liệu có thể thấy, trong và sau quá trình thu
hồi đất, người dân địa phương vẫn có mối liên kết chặt chẽ với nhau
nhiều hơn những người ở nơi khác. Bên cạnh đó, yếu tố số lượng người
mua hàng hóa tăng mạnh và dễ bán sản phẩm cũng được đánh giá ở
mức quan trọng với mức điểm trung bình lần luợt là 2,45 và 2,43 điểm.
Hai yếu tố này, được người lao động đánh giá ở mức độ ít quan trọng
và quan trọng chiếm tỷ lệ cao (khoảng 30%). Trong quá trình nghiên
cứu tác giả đã kiểm định mối liên hệ mức độ quan trọng của các yếu tố
trong quá trình chuyển đổi việc làm với đánh giá của chính người dân
nông thôn về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất
kết quả thể hiện có mối liên hệ một cách có ý nghĩa thống kê giữa các
yếu tố được đưa vào phân tích.
Kết quả phân tích tương quan thể hiện mối liên hệ giữa mức độ quan
trọng của các yếu tố thị trường với đánh giá của chính người dân nông thôn về
146
sự thay đổi việc làm của hộ gia đình.
ảng 4.10: Mối quan hệ giữa việc dễ bán sản phẩm và mức độ
ảnh hƣởng đến việc làm của của gia đình
Dễ bán sản phẩm
Nhu cầu tiêu dùng của ngƣời ở nơi khác tăng mạnh
Số ngƣời buôn mua hàng hóa tăng mạnh
Nhu cầu của ngƣời tiêu dùng địa phƣơng tăng mạnh
1
Tổng hợp về yếu tốt thị trƣờng thúc đẩy chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình .438**
Đánh giá về mức độ thu hồi đất nông nghiệp đã ảnh hƣởng đến việc làm của gia đình .033
.109
.026
-.058
r
.077
.676
.345
.000
.592
266
266
266
266
266
266
Mức ý nghĩa N
1
.566**
.340**
.109
.746**
.089
r
.000
.000
.077
.000
.149
266
266
266
266
266
266
Mức ý nghĩa N
1
.591**
.566**
.026
.805**
.119
r
.000
.000
.676
.000
.052
Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh Nhu cầu tiêu dùng của người ở nơi khác tăng mạnh Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh
266
266
Mức ý nghĩa N
266 .591**
1
266 .340**
-.058
266 .682**
266 .167**
r
Dễ bán sản phẩm
.000
.000
.345
.000
.006
266
Mức ý nghĩa N
266 .746**
266 .805**
266 .682**
266 .438**
1
266 .151*
r
.000
.000
.000
.000
.014
266
266
266
266
266
266
Mức ý nghĩa N
.033
.089
.119
.167**
.151*
1
r
.592
.149
.052
.006
.014
266
266
266
266
266
399
Mức ý nghĩa N
Tổng hợp về yếu tốt thị trường thúc đẩy chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nôn nghiệp **p<0,01, *p<0,05
147
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Từ kết quả phân tích có thể thấy, yếu tố về thị trường có ảnh hưởng
tương đối lớn trong quá trình chuyển đổi việc làm của người dân. Kết quả
phân tích cho thấy tầm quan trọng của việc dễ bán sản phầm được các hộ
đánh giá ở mức độ quan trọng. Thực tế, các hộ gia đình kinh tế tư nhân, cá thể
có xu hướng giảm dần, tập trung chủ yếu vào kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Kết quả phân tích thể hiện có mối liên hệ giữa tầm quan
trọng của các yếu tố thị trường đến sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình
sau khi thu hồi đất nông nghiệp. Khi để riêng các yếu tố th yếu tố th yếu tố:
Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh, Nhu cầu tiêu dùng của
người ở nơi khác tăng mạnh, Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh không
có ảnh hưởng nhiều đến sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu
hồi đất. Yếu tố dễ bán sản phẩm có ảnh hưởng mạnh đến quá trình thay đổi
nghề nghiệp của hộ gia đình. Nhưng khi tác giả tổng hợp các yếu tốt thị
trường thúc đẩy chuyển đổi việc làm của hộ gia đình thì nhận thấy có mối
tương quan một các có ý nghĩa thống kê đối với quá trình thay đổi việc làm
của hộ gia đình và hệ số tương quan r =.167 cho thấy đây là một mối tương
quan liên kết yếu. Kết luận từ mẫu nghiên cứu cũng có cơ sở để khái quát cho
tổng thể nghiên cứu với mức độ tin cậy đã xác định.
Như vậy kết quả trên cho thấy, có mối quan hệ giữa việc nhận thức về
về tầm quan trọng của việc dễ bán sản phẩm, nhận thức về nhu cầu thị trường
với mức độ ảnh hưởng đến việc làm. Những người nhận thức thấy nhu cầu thị
trường cao thì càng cho rằng việc làm của hộ gia đình mình thay đổi nhiều
trong những năm qua.
Bên cạnh yếu tố sức mua tăng cao là yếu tố thị trường sản phẩm đa
dạng phong phú cũng là động lực thúc đẩy để các hộ gia đình chuyển đổi cơ
148
cấu việc làm của hộ gia đình.
ảng 4.11: Mức độ thuận lợi về thị trƣờng trong quá trình chuyển đổi
việc làm của gia đình
Mức độ
Thuận lợi về thị trƣờng tiêu thụ
Ít thuận lợi
Thuận lợi
Tƣơng đối thuận lợi
1, Thông tin thị trường
Hoàn toàn không thuận lợi 28,2
36,5
28,6
6,4
Rất thuận lợi 0,4
Điểm trung bình 2,14
29,7
33,5
25,9
9,0
1,9
2,2
2, Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ 3, Môi trường sản xuất
12,4
29,7
48,9
6,0
3,0
2,58
20,3
40,6
35,0
2,6
1,5
2,24
4, Địa bàn cách xa trung tâm
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, môi trường sản xuất là yếu tố thuận lợi
nhất trong quá trình chuyển đổi việc làm gia đình với mức điểm trung bình là
2,58 điểm, Trong đó, tỷ lệ người dân trả lời thuận lợi chiếm 48,9%, nhưng
mức độ tương đối thuận lợi và rất thuận lợi chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm
6,0% và 3,0%. Các yếu tố thông tin thị trường, sự thay đổi của thị trường tiêu
thụ, địa bàn cách xa trung tâm được đánh giá ở mức độ ít thuận lợi, với mức
điểm trung bình lần lượt là 2,14, 2,2 và 2,24 điểm. Như vậy, mặc dù đã nhận
được nhiều sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và nhu cầu tiêu dùng, mua
bán của người dân có tăng lên, song trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp,
các hộ gia đình vẫn gặp phải nhiều khó khăn về yếu tố thị trường. Bởi lẽ,
trong quá trình chuyển đổi ruộng đất, số tiền đền bù cho người dân vẫn chưa
thể đáp ứng được nhu cầu với giá cả của thị trường và khu tái dân cư. Bên
cạnh đó, một số địa phương chạy theo phong trào phát triển các khu công
nghiệp, khu đô thị mà chưa cân nhắc đến hiệu quả; hoặc phát triển công
nghiệp, dịch vụ bằng mọi cách mà chưa chú ý đúng mức đến tác động đối với
người dân. Chính vì vậy, cần phải tăng cường yếu tố thị trường để chuyển đổi
149
việc làm có nhiều thuận lợi.
Trong quá trình thu hồi đất, các hộ gia đình không còn đất canh tác sẽ phải
lựa chọn thay đổi việc làm khác để tạo thu nhập cho gia đình. Trong quá trình
chuyển đổi việc làm, phần lớn các hộ gia đình dựa vào nhu cầu của thị trường. Khi
thành phần kinh tế nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng lên thì các hộ
gia đình cũng chuyển dần sang hoạt động công nghiệp và dịch vụ.
ảng 4.12: Mối liên hệ sự thay đổi của thị trƣờng và Đánh giá về sự thay
đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất
Thông tin thị trƣờng
Môi trƣờng sản xuất
Địa bàn cách xa trung tâm
Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nôn nghiệp
Tổng hợp những thuận lợi đánh giá từ yếu tố thị trƣờng
Sự thay đổi của thị trƣờng tiêu thụ
1
Thông tin thị trường
1
Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ
1
Môi trường sản xuất
1
Địa bàn cách xa trung tâm
1
266 .270** .000 266 .082 .184 266 .809** .000 266
266 .504** .000 266 .268** .000 266 .143* .020 266 .783** .000 266
266 .378** .000 266 .662** .000 266
266 .258** .000 266
r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N
266
1
-.085 .165 266
r Mức ý nghĩa N
-.106 -.160** -.208** .001 .009 .085 266 266 266
-.209** .001 266
399
Tổng hợp những thuận lợi đánh giá từ yếu tố thị trường Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp **.p< 0,01 *. p< 0,05,
150
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả nghiên cứu thể hiện mối tương quan giữa nhận thức về sự thuận
lợi của các yếu tố thị trường trong quá trình chuyển đổi việc làm và đánh giá về
sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp. Các
hệ số tương quan r đều mang dấu âm chứng tỏ 2 biến số có sự tương quan
nghịch với nhau. Càng những người nhận thấy thị trường ít thuận lợi thì càng
nhận thấy các thành viên viên trong gia đình chuyển đổi việc làm nhiều.
Trong quá trình thu hồi đất, các hộ gia đình không còn đất canh tác sẽ
phải lựa chọn thay đổi việc làm khác để tạo thu nhập cho gia đình. Trong quá
trình chuyển đổiviệc làm, phần lớn các hộ gia đình dựa vào nhu cầu của thị
trường. Khi thành phần kinh tế nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ
tăng lên thì các hộ gia đình cũng chuyển dần sang hoạt động công nghiệp và
dịch vụ. Trong quá trình chuyển đổi việc làm, các hộ gia đình cho thấy khi
làm nông nghiệp chỉ đơn giản là làm các công việc theo các thói quen là
chính, những kinh nghiệm được truyền từ đời này qua đời khác do vậy cuộc
sống, việc làm của họ cứ êm đềm trôi theo ngày tháng năm. Tuy nhiên khi
bước vào thị trường cạnh tranh khốc liệt người dân nông thôn sẽ nhận thấy để
có thể làm việc được ở những khu vực công nghiệp xây dựng hay các ngành
nghề dịch vụ họ thấy không đơn giản một chút nào. Mọi việc làm đều phải
cạnh tranh nhau mới có được công việc, sự bươn trải ngoài cuộc sống hết sức
khó khăn. Kết quả phân tích thể hiện do quá trình thu hồi đất nông nghiệp
người dân không còn đất để sản xuất nên họ cũng đánh giá môi trường sản
xuất hiện nay không còn thuận lợi như trước nữa. Những người phải chuyển
đổi việc làm thì càng đánh giá môi trường sản xuất hiện tại không thuận lợi.
Người dân không còn đất để sản xuất nên họ cũng đánh giá môi trường sản
xuất hiện nay không còn thuận lợi như trước nữa. Qua những số liệu phân tích
chúng ta thấy được những “cú sốc” khi người lao động nông thôn thay đổi
151
việc làm của mình.
Quá trình khảo sát cũng thể hiện có mối liên hệ giữa những hộ gia đình
có người được đào tạo nghề thì có khả năng thay đổi việc làm nhiều hơn
những hộ gia đình không có người được đào tạo nghề.
ảng 4.13: Thuận lợi trong đào tạo nghề và đánh giá về sự thay đổi việc
làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất
Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất
Tầm quan trọng
Tổng
Thay đổi ít
Có thay đổi
Thay đổi nhiều
Hoàn toàn thay đổi
Hoàn toàn không thay đổi
5
4
7
48
22
79
N
Tỉ lệ %
5,8
4,7
8,1
55,8
25,6 100,0
Hoàn toàn không thuận lợi
1
16
12
24
22
89
N
1,3
21,3
Ít thuận lợi
Tỉ lệ %
16,0
32,0
29,3 100,0
11
14
9
28
19
69
N
Thuận lợi
Tỉ lệ %
13,6
17,3
11,1
34,6
23,5 100,0
3
1
2
4
3
24
N
Tương đối
7,7
thuận lợi
Tỉ lệ %
23,1
15,4
30,8
23,1 100,0
3
1
2
4
1
5
N
27,3
9,1
18,2
36,4
9,1 100,0
Rất thuận lợi
Tỉ lệ %
23
36
32
108
67
266
Tổng N
8,6
13,5
12,0
40,6
25,2 100,0
Tỉ lệ %
*p=.001; Kendall's tau-b.=-162
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Đào tạo nghề là một công tác quan trọng trong quá trình thúc đầy thay
đổi nghề nghiệp việc làm. Khi hộ gia đình nhận thấy việc đào tạo nghê có
nhiều thuận lợi thì họ sẽ tìm kiếm các công việc phù hợp. Nhưng quá trinh
152
phân tích số liệu không phản ánh điều đó mà cho thấy mặc dù đào tạo nghề
tạo ra việc làm mới nhưng người dân nông thôn thực sự chưa mặn mà với
nghề mới vì nhiều lý do như thu nhập không ổn định, không phù hợp thực tế
đời sống. Đào tạo nghề là một công tác quan trọng trong quá trình thúc đầy
thay đổi việc làm. Khi hộ gia đình nhận thấy việc đào tạo nghề có nhiều thuận
lợi thì họ sẽ tìm kiếm các công việc phù hợp với p= 0,001, Nhưng quá trinh
phân tích số liệu không phản ánh điều đó mà cho thấy mặc dù đào tạo nghề
tạo ra việc làm mới nhưng người dân nông thôn thực sự chưa mặn mà với
nghề mới vì nhiều lý do như thu nhập không ổn định, không phù hợp thực tế
đời sống. Các hộ gia đình thấy đào tạo nghề hoàn toàn không thuận lợi và
thuận lợi ít chiếm tỷ lệ cao và có mức ảnh hưởng nhiều và tương đối nhiều
đến việc làm của hộ gia đình. Các hộ gia đình cho rằng đào tạo nghề không
thuận lợi ảnh hưởng tương đối nhiều và rất nhiều chiếm 81,4%, hoàn toàn
không ảnh hưởng và ảnh hưởng ít chiếm 10,5% đến việc làm của các hộ gia
đình. Việc đào tạo nghề rất thuận lợi cho rằng ảnh hưởng tương đối nhiều và
ảnh hưởng rất nhiều chiếm 45,5%, hoàn toàn không ảnh hưởng và ảnh hưởng
ít chiếm 36,4%. Như vậy, khi các hộ gia đình càng nhận thấy đào tạo nghề có
nhiều thuận lợi thì vấn đề việc làm của hộ gia đình càng dễ dàng.
4.2.2. Yếu tố nguồn lực trong gia đình
Cho đến nay nước ta có 70% dân số làm nghề nông. Vì vậy đất chính là
cơ sở, là nguồn sống của phần lớn dân số Việt Nam. Tuy nhiên, để thực hiện
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã
có chính sách phát triển các khu công nghiệp, mở rộng các khu đô thị. Để đạt
được mục đích trên, Nhà nước đã có chính sách thu hồi đất nông nghiệp để
xây dựng các khu công nghiệp cũng như làm quỹ đất để phát triển các khu đô
153
thị và phát triển cơ sở hạ tầng.
ảng 4.14: Động lực từ phía gia đình thúc đẩy chuyển đổi việc làm
Mức độ
Mức độ quan Điểm
Hoàn toàn Tƣơng Rất trọng của các trung Ít quan Quan không đối quan quan yếu tố bình trọng trọng quan trọng trọng trọng
13,2 17,3 45,5 9,0 15,0 2,95 1, Làm nông
nghiệp không
đủ ăn
23,7 27,8 30,1 8,3 10,2 2,53 2, Có thêm
nhân khẩu
19,9 15,4 46,6 10,5 7,5 2,7 3, Có thêm vốn
đầu tý cho sản
xuất, kinh
doanh, dịch vụ
14,3 15,4 37,6 11,3 21,4 3,1 4, Không còn
đất để canh tác
7,9 24,8 38,3 13,2 15,8 3,04 5, Kinh tế gia
đình khó khăn
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của người lao
động thì yếu tố nguồn lực gia đình được đánh giá quan trọng nhất, với mức
điểm trung bình từ 2,53 đến 3,1 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, yếu tố
ảnh hưởng nhiều nhất chính là yếu tố không còn đất để canh tác chiếm 3,1
điểm, được đánh giá ở mức độ quan trọng. Tỷ lệ người dân đánh giá quan
154
trọng và rất quan trọng lớn chiếm 37,6% và 21,4%. Sau quá trình thu hồi đất,
diện tích đất canh tác của người dân giảm đáng kể, nhiều hộ gia đình không
còn đất canh tác. Bên cạnh đó, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi hầu hết
là vùng đất tốt, có điều kiện thuận lợi cho canh tác, trong khi các diện tích
đất đền bù là đất xấu, cách xa khu dân cư và điều kiện hạ tầng phục vụ sản
xuất còn nhiều khó khăn. Chính những điều trên làm cho kinh tế gia đình
khó khăn hơn, được đánh giá ở mức độ quan trọng với mức điểm trung
bình là 3,04 điểm. Yếu tố kinh tế gia đình được đánh giá ít quan trọng hơn,
tuy nhiên vẫn được coi là đánh giá là một trong hai yếu tố quan trọng nhất
gây nên khó khăn cho các hộ gia đình trong quá trình chuyển đổi nghề
nghiệp. Các yếu tố khác như làm nông nghiệp không đủ ăn, có thêm nhân
khẩu, có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng được
đánh giá ở mức độ quan trọng với mức điểm trung bình lần lượt là 2,95,
2,53 và 2,7 điểm.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu thể hiện có mối liên hệ giữa
những yếu tố nội lực gia đình đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải
155
chuyển đổi việc làm để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
ảng 4.15: Mối liên hệ giữa đánh giá về làm nông nghiệp không đủ ăn và Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất
Yếu tố nội lực gia đình
Làm nông nghiệp không đủ ăn
Có thêm nhân khẩu
Có thêm vốn đầu tƣ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
Không còn đất để canh tác
Kinh tế gia đình khó khăn
Đánh giá sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp
1
Làm nông nghiệp không đủ ăn Có thêm nhân khẩu
1
1
r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa
.413** .000 .120 .050
.284** .000
1
1
1
Có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ Không còn đất để canh tác Kinh tế gia đình khó khăn Yếu tố nội lực gia đình
1
r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa
.362** .000 .425** .000 .667** .000 266 .140* .023
.382** .000 .385** .000 .713** .000 266 .155* .011
.334** .000 .236** .000 .558** .000 266 .004 .947
.576** .000 .776** .000 266 .210** .001
.753** .000 266 .299** .000
266 .234** .000
Đánh giá sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp **p<0,01, *. p<0,05
156
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả phân tích thể hiện một mối liên hệ giữa việc đánh giá về sự khó
khăn trong nội lực gia đình và đánh giá về sự chuyển đổi việc làm trong
những năm vừa qua của gia đình. Những người càng nhận thấy nguồn nội lực
của gia đình mình khó khăn như có thêm nhân khẩu, làm nông nghiệp không
đủ ăn, không còn đất để sản xuất thì càng nhận thấy việc làm của gia đình
mình thay đổi nhiều trong những năm qua.
Khi người dân không còn sinh kết bằng nông nghiệp nữa thì họ sẽ thay
đổi phương thức làm ăn của mình. Hoặc các hộ gia đình nhận thấy làm nông
nghiệp không đủ ăn thì cũng buộc người dân nông thôn thay đổi hình thức sản
xuất kinh doanh việc làm.
Gia đình có thêm nhân khẩu là một trong những điều kiện tất yếu cần
thay đổi về mặt sinh kế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong hộ gia đình trả
lời, đa số đều cho rằng yếu tố “có thêm nguồn nhân lực” ảnh hưởng quan
trọng đến sinh kế của các hộ gia đình nông thôn. Thực tế cho thấy, nước ta
nói chung là một nước có dân số trẻ, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm
tỉ lệ cao. Tuy nhiên, số lượng các nhà máy, các công xưởng trên địa bàn xã
còn ít, còn nhỏ, không thể đáp ứng được nhu cầu làm việc của lao động trẻ tại
địa phương, đa phần lao động trẻ có tay nghề thường làm việc tại các khu
công nghiệp, các nhà máy lớn. Những lao động không qua đào tạo, hoặc gần
hết tuổi lao động thì vẫn sản xuất nông nghiệp và sản xuất các sản phẩm tiểu
thủ công nghiệp khác nhằm nâng cao năng suất lao động. Như vậy, có thể
thấy, yếu tố “có thêm nguồn nhân lực” mặc dù không được đánh giá cao như
hai yếu tố trên, nhưng cũng đã nói lên được tầm quan trọng của yếu tố “có
thêm nhân khẩu” cũng chứng minh được sức ảnh hưởng của nó đến sinh kế
của các hộ gia đình nông thôn sau quá trình thu hồi đất. Khi gia đình có thêm
nhân khẩu thì mức độ chi tiêu trong gia đình cũng sẽ tăng lên điều đó đòi hỏi
157
các thành viên trong gia đình phải năng động hơn, phải tìm kiếm các công
việc có khả năng tạo ra thu nhập nhiều hơn để có thể tạo cho gia đình mình
một cuộc sống tốt hơn. Kết quả kiểm định thể hiện các hộ gia đình càng cho
rằng gia đình có thêm nhân khẩu thì càng thay đổi nghề nghiệp nhiều.
Suy cho đến cùng công việc của mỗi một cá nhân đó chính là tạo ra
kinh tế cho hộ gia đình. Do đó nếu kinh tế gia đình khó khăn thì đây là một
yêu cầu tất yếu đòi hỏi các thành viên trong sẽ phải tìm kiếm các việc làm
mới thay cho các việc làm cũ.
Kinh tế hộ gia đình nói chung sẽ là động lực quan trọng trong quá trình
chuyển đổi việc làm. Do những mưu sinh trong cuộc sống nên họ phải cố
gắng tìm cách để phát triển kinh tế của gia đình.
Có thể thấy, hiện tượng quy hoạch treo, quy hoạch các khu đô thị, khu
công nghiệp tràn lan là khá phổ biến. Quá trình quy hoạch chuyển đổi mục
đích sử dụng cũng như thẩm định các phương án sử dụng đất và xây dựng
phương án bồi thường chưa thực sự khoa học, thiếu sự tham gia đầy đủ của
các ngành, các tổ chức có liên quan hoặc đại diện cho quyền lợi của người
dân. Bên cạnh đó, thời gian triển khai công tác thu hồi đất kéo dài nhiều năm
gây bất lợi đến tâm lý cũng như việc ổn định đời sống và việc làm của các hộ
dân nằm trong diện bị thu hồi đất. Chính những yếu tố trên ảnh hưởng đến
chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động sau quá trình thu hồi đất. Với hệ
số tương qun r~ 0,2 thể hiện mức độ mối quan yếu, với p=0,000 cho biết mối
quan hệ này hoàn toàn có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy cho phép. Hay
nói cách khác, kết quả này có độ tin cậy để khái quát cho tổng thể nghiên cứu.
Như vậy có thể thấy có tồn tại mối quan hệ giữa việc đánh giá tầm quan
trọng của nguồn kinh tế của gia đình và Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ
gia đình sau khi thu hồi đất sau khi bị thi hồi đất. Những người cho rằng nguồn
kinh tế có vai trò quan trọng, đồng thời họ cũng cho rằng nguồn kinh tế càng khó
158
khăn thì ảnh hưởng càng nhiều đến sự thay đổi việc làm của hộ gia đình.
ảng 4.16: Những thuận lợi về nội lực gia đình trong chuyển đổi
việc làm
Mức độ
Thuận lợi trong
chuyển đổi việc làm Thuận lợi Ít thuận lợi Rất thuận lợi Điểm trung bình
35,0 Tƣơng đối thuận lợi 6,0 28,2 3,8 2,31 Hoàn toàn không thuận lợi 27,1 1, Vốn đầu tư
39,5 4,5 29,3 2,6 2,32 3, Nhân lực lao động 24,1
36,5 3,4 30,5 0,4 2,15 10, Thu hồi đất nông 29,3
nghiệp
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Trong quá trình chuyển đổi việc làm, yếu tố nguồn nhân lực được đánh
giá ở mức độ ít thuận lợi. Các yếu tố về nguồn nhân lực đó là thu hồi đất đất
nông nghiệp, vốn đầu tư và nhân lực lao động với mức điểm trung bình lần
lượt là 2,15, 2,31 và 2,32 điểm (thang đo giá trị là 5). Thực tế cho thấy,
người dân sau quá trình thu hồi đất, diện tích đất canh tác nông nghiệp
giảm, nhiều hộ gia đình không còn đất để canh tác, trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn thấp không thể đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Bên cạnh đó, công tác tuyển
dụng lao động tại các địa phương có đất bị thu hồi chưa thực sự hiệu quả.
Chính vì vậy, lao động nông nghiệp nhìn chung không đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp. Hầu hết các lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên
nghề cũ sau khi đất sản xuất bị thu hồi: chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng vài
%) chuyển sang nghề mới và tìm được việc làm ổn định. Như vậy, yếu tố
nguồn lực gia đình được đánh giá cao, đòi hỏi phải có nhiều chính sách hỗ
159
trợ hơn nữa của chính quyền địa phương.
4.2.3. Yếu tố về sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp
và các tổ chức đoàn thể
Thực tế cho thấy, trước khi tiến hành thu hồi đất, người lao động chủ
yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, các hoạt động liên quan đến công
nghiệp và dịch vụ còn ít, bên cạnh đó, trình độ học vấn của người lao động
còn thiếu và thật sự không hiệu quả. Khi diện tích đất bị thu hồi, người lao
động muốn làm việc cần phải qua đào tạo, và cần có những chính sách hỗ trợ
của các cấp chính quyền. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này chỉ đáp ứng một phần nhu
cầu, đòi hỏi của người lao động về hỗ trợ đào tạo nghề, tư vấn nghề, hay nhận
vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất...
ảng 4.17: Sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phƣơng/chủ đầu tƣ
hỗ trợ cho ngƣời dân trong quá trình chuyển đổi việc làm
Tổ chức Số lƣợng Tỷ lệ %
Chính quyền xã 84 31,6
Ban lãnh đạo thôn 74 27,8
Doanh nghiệp 20 7,5
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả phân tích thể hiện sự đón nhận giúp đỡ của người nhân từ
chính quyền địa phương là 31,6%, ban lãnh đạo thôn là 27,8% còn doanh
nghiệp thấp nhất chỉ có 7,5% số người được hỏi nhận được sự giúp đỡ từ
doanh nghiệp. Như vậy từ số liệu điều tra thể hiện số lượng hộ gia đình nhận
được sự giúp đỡ từ các tổ chức chính quyền và doanh nghiệp tương đối thấp.
Trong đó thì sự giúp đỡ này trong thực tế thuộc về trách nhiệm của chính các
cơ quan trên bởi nhiệm vụ của các cơ quan này là chăm lo cho đời sống của
160
nhân dân. Do đó, tỉ lệ như trên có thể xem là không cao.
Trong các chính sách của Đảng và Nhà nước nêu rõ vai trò quan trọng
của tổ chức chính quyền địa phương cũng như những tổ chức doanh nghiệp
đóng trên địa bàn. Chính quyền địa phương phải là tổ chức có vai trò then
chốt trong công tác đẩy mạnh sự thay đổi về cơ cấu lao động. Cần phải truyền
thông về vị trí chiến lược của phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và
vai trò của công tác nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Đồng thời, cung
cấp thông tin cho người lao động để có sự lựa chọn chính xác trong việc tìm
kiếm việc làm phù hợp với tình hình thực tế thị trường lao động. Đồng thời
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với
công tác chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông thôn. Xác định đây là
một trong những chiến lược quan trọng, có tính lâu dài trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Quá trình định hướng
chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu
người nông dân, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và của xã hội.
Đặc biệt quan tâm đến việc dạy nghề cho những đối tượng lao động bị thu hồi
đất ở những địa phương hình thành phát triển các khu, cụm công nghiệp của
tỉnh. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa dạy nghề, giải quyết việc làm. Huy động
các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và nhân dân tích cực tham gia
vào công tác dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Đẩy mạnh các
hoạt động hỗ trợ về vốn, phương tiện sản xuất, thiêu thụ sản phẩm và giới
thiệu việc làm cho lao động nông thôn sau khi học nghề.
Các doanh nghiệp cần thiết phải có trách nhiệm xã hội đối với cộng
đồng địa phương. Cần thiết phải có công tác đào tạo nghề cũng như sử dụng
lao động địa phương trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên trên thực tế các công
161
tác này thực sự chưa tới được với người lao động bị mất đất.
ảng 4.18: Thực trạng triển khai hỗ trợ cho ngƣời dân của chính
quyền/chủ đầu tƣ
Chính sách hỗ trợ Số lƣợng Tỷ lệ %
Hỗ trợ đào tạo nghề 89 22,31
Nhận vào làm việc 84 21,05
Tư vấn học nghề 49 12,28
Tư vấn sử dụng tiền 20 5,01
Hỗ trợ khác 19 4,76
Xuất khẩu lao động 3 0,75
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa phần người lao động không nhận được
sự giúp đỡ từ chính quyền địa phương, chiếm 46,87%, một số người lao động
nhận được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương trong việc đào tạo nghề
(chiếm 22,31%) hoặc được tư vấn học nghề (chiếm 12,28%). Có 21,05%
người lao động được nhận vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất... tại địa phương. Các nguồn hỗ trợ của chính quyền địa phương tuy đã
có nhiều cố gắng, song vẫn còn phân tán, thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp, chưa
hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất; đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu và
thiếu cán bộ khoa học, kỹ thuật; chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu
tư, hỗ trợ của Nhà nước ở một bộ phận người lao động còn nặng nên đã hạn
chế phát huy nội lực và sự nỗ lực vươn lên.
Chính sách hỗ trợ chủ lực là các chính sách liên quan tới đào tạo và tư
vấn học nghề. Chính sách này rõ ràng là chưa có sự phù hợp bởi lẽ tỷ lệ lao
động trung niên và người già của các hộ gia đình bị thu hồi đất chiếm tỷ lệ
162
cao, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp thu nghề mới.
ảng 4.19: Đánh giá của ngƣời dân về các chính sách hỗ trợ của chính
quyền/chủ đầu
Đánh giá về chính sách hỗ trợ Số lƣợng Tỷ lệ %
Rất không hiệu quả 50 12,5
Ít hiệu quả 124 31,8
Hiệu quả 195 48,9
Tương đối hiệu quả 27 6,8
Rất hiệu quả 3 0,8
Tổng 399 100
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay,
việc tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho việc hình thành
và phát triển thị trường lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động, nhất
là chuyển đổi lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp - nơi có năng suất lao
động thấp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn.
Để lao động nông thôn có thể có thể tiếp cận được với trang thiết bị, máy móc
hiện đại, các lớp tập huấn nâng cao tay nghề thì cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ
của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy, chính
sách hỗ trợ của chính quyền địa phương còn ít hiệu quả hoặc chỉ ở mức hiệu
quả, chiếm tỷ lệ lần lượt là 31,8% và 48,9%. Tỉ lệ người được hỏi cho rằng
chính sách hỗ trợ của địa phương tương đối hiệu quả hoặc rất hiệu quả thấp,
chỉ khoảng 7%.
Bên cạnh đó, mặc dù tỉ lệ người lao động tham gia xuất khẩu lao động
tại nước ngoài chỉ chiếm 0,75% nhưng cũng được Đảng, Nhà nước và chính
quyền địa phương quan tâm. Bởi lẽ người lao động ở Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài đã gửi về nước một khoản kiều hối rất đáng kể khoảng (hơn 1,5 tỷ
163
đô la Mỹ mỗi năm), góp phần phục vụ cho chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân, nâng cao mức sống nhân dân và đảm bảo an
sinh xã hội của đất nước.
Bên cạnh tổ chức chính quyền là các tổ chức xã hội luôn đồng hành sát
cánh bên người lao động nông thôn trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc
làm. Các tổ chức đoàn thể xã hội luôn đại diện cho quyền lợi cũng như các hoạt
động gắn chặt với các thành viên của mình tuy nhiên trong đánh giá của người
dân về sự trợ giúp của các tổ chức chính trị xã hội có nhiều hạn chế.
ảng 4.20: Sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể xã hội
trong quá trình chuyển đổi việc làm
Tổ chức N Tỉ lệ %
Đoàn thanh niên 4 1,5
Hội Phụ nữ 39 14,7
Hội Nông dân 29 10,9
Hội Cựu Chiến binh 13 4,9
Tổ chức phi chính phủ 2 0,8
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Số liệu thể hiện người lao động nông thôn nhận được sự giúp đỡ từ các
tổ chức đoàn thể xã hội. Tổ chức được đánh giá có nhiều sự giúp đỡ nhất đối
với người lao động nông thôn đó là hội phụ nữ có 14,7% số người được tiếp
nhận các trợ giúp, tiếp theo là hội nông dân với 10,9%. Các tổ chức khác sự
trợ giúp đối với người nông dân hết sức hạn chế.
ảng 4.21: Sự quan tâm giúp đỡ của anh em, bạn bè trong quá trình
chuyển đổi việc làm
Tổ chức N Tỉ lệ %
Anh em, họ hàng 120 45,1
Bạn bè 72 27,1
164
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Bảng số liệu thống kê về việc người dân có thường nhận được sự
giúp đỡ đến từ các chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội hay đến
từ người thân, bạn bè hay không? Từ số liệu ta thấy, hầu hết người dân
không thường nhận được sự giúp đỡ từ các tổ chức chính trị - xã hội tại
địa phương.
Các nguồn trợ giúp từ anh em, họ hàng và từ bạn bè có tỉ lệ cao nhất
lần lượt là 43,5% và 34,4%. như thực sự tỉ lệ này không cao. Anh em họ hàng
là những người thân thiết đối với mỗi người do vậy trong quá trình chuyển
đổi việc làm người dân sẽ tìm đến những người trong họ hàng, và những
người bạn bè để tìm kiếm những sự giúp đỡ.
Tuy nhiên, sự không thường xuyên giúp đỡ này hoàn toàn dễ hiểu
bởi trước khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì đa số người dân đều làm
các công việc liên quan đến nông nghiệp. Cơ chế phân phối đất đai và các
chính sách về ruộng đất là rất rõ ràng, quá trình thực hiện mùa vụ trong
trồng trọt là hoàn toàn tương đồng nhau về thời gian. Thế nên, các gia đình
đều tập trung cho sản xuất của hộ gia đình mình mà khó có thể giúp đỡ
được người khác. Hơn nữa, việc phân chia đất ruộng theo đầu người nên sẽ
không có nhiều hộ gia đình phải sản xuất trên quá nhiều diện tích, từ đó
công việc cũng không nhiều đến mức phải nhờ tới sự trợ giúp bên ngoài.
Từ đó dẫn tới việc người dân sẽ ít cần thiết phải giao tiếp hoặc tạo các mối
quan hệ bên ngoài xã hội.
Như vậy, nguồn vốn xã hội của họ là tương đối hạn hẹp. Điều này có
thể là một trở ngại đối với họ trong quá trình chuyển đổi việc làm sau khi bị
165
thu hồi đất canh tác.
ảng 4.22: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và ngƣời thân
Các hình thức giúp đỡ Số lƣợng Tỷ lệ %
Cho/ cho vay tiền 100 37,6
Sử dụng lao động của gia đình 51 19,2
Kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh mới 43 16,2
Mở rộng mối quan hệ trong SX, kinh doanh 29 10,9
Truyền thụ kiến thức chuyên môn 42 15,8
Giới thiệu việc làm 75 28,2
Đào tạo nghề mới 40 15,0
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các hộ gia đình nhận được sự giúp đỡ, hỗ
trợ của chính quyền địa phương tương đối lớn, trong đó, các hộ gia đình nhận
được hỗ trợ nhiều nhất về việc mở rộng mối quan hệ trong sản xuất, kinh
doanh (chiếm 89,1%). Các hộ gia đình nông thôn đều có mối quan hệ tốt với
nhau và thường giúp đỡ nhau, không chỉ về tinh thần mà còn hỗ trợ nhau về
vật chất. Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các hộ gia đình, chính quyền địa
phương cũng đào tạo nghề mới, truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh
nghiệm sản xuất, kinh doanh mới với tỉ lệ lần lượt là 85,0%, 84,2% và 83,8%.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng sử dụng lao động của gia đình,
giới thiệu việc làm cho người lao động với tỉ lệ lần lượt là 80,8% và 71,8%.
Đây là tỉ lệ tương đối cao, thể hiện mức độ quan tâm của chính quyền địa
phương với người lao động và các hộ gia đình về tinh thần tương đối lớn. Về
vật chất, chính quyền địa phương cho/cho các hộ gia đình vay tiền, nhưng chỉ
ở mức độ tương đối, chiếm 62,4%. Như vậy, chính quyền địa phương đã và
đang đồng hành cùng người lao động bằng nhiều hành động cụ thể, thiết thực
của mình trong việc hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh
166
tế - xã hội địa phương.
ảng 4.23: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và ngƣời thân
Đánh giá của các hộ gia đình về hiệu quả của Số lƣợng Tỷ lệ % sự hỗ trợ
Rất không hiệu quả 38 14,3
Ít hiệu quả 91 34,2
Hiệu quả 88 33,1
Tương đối hiệu quả 43 16,2
Rất hiệu quả 6 2,3
Tổng 266 100,0
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Mặc dù nhận được sự trợ giúp tương đối lớn về vật chất và tinh
thần, nhưng các hộ gia đình đánh giá về hiệu quả của sự hỗ trợ này chỉ ở
mức trung bình. Các hộ gia đình đánh giá tương đối và rất hiệu quả ở mức
thấp, chiếm tỉ lệ lần lượt là 16,2% và 2,3%; phần lớn các hộ gia đình đánh
giá vế chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương ở mức độ hiệu quả
chiếm 33,1%, các hộ gia đình đánh giá rất không hiệu quả chiếm 14,3%
và ít hiệu quả chiếm 34,2%. Như vậy, có thể thấy, trước bối cảnh người
lao động gặp khó khăn về trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề,
chính quyền địa phương đã có chính sách cho người lao động vay/ cho
vay tiền cũng như đào tạo nghề cho người lao động. Tuy nhiên, cần có sự
đầu tư nhiều hơn nữa để chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương
thật sự đạt hiệu quả cao với người lao động nông thôn trong giai đoạn
167
hiện nay.
ảng 4.24: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và hiệu quả các hoạt động
hỗ trợ
Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ
Tổng Địa điểm phỏng vấn Ít hiệu quả Hiệu quả Tƣơng đối hiệu quả Rất hiệu quả
Rất không hiệu quả 37 60 112 3 239 27 N Vĩnh
Phúc 15,5 25,1 46,9 1,3 100,0 11,3 %
13 64 83 0 160 0 N Hà Nội 8,1 40,0 51,9 0,0 100,0 0,0 %
50 124 195 3 399 27 N Tổng 6,8 12,5 31,1 48,9 0,8 100,0 %
p=0,05, Tau-b=-0,085
Quá trình chuyển đổi việc làm của các hộ gia đình bị thu hồi đất ngoài
những nỗ lực chủ quan từ phía gia đình mà còn có những trợ giúp khách quan
từ các ban ngành đoàn thể, các bạn bè, cồng độ dân cư. Những sự hỗ trợ này
góp phần không nhỏ trong quá trình biến đổi cơ cấu việc làm của các hộ gia
đình. Kết quả điều tra thể hiện các hộ gia đình ở Vĩnh Phúc đánh giá mình
nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả từ bên ngoài tốt hơn những người ở khu vực
Hà Nội. Tại khu vực Hà Nội người dân đánh giá mức độ ít hiệu quả và có
hiệu quả là 40,0% và 51,9% không có ai đánh giá những sự trợ giúp bên ngoài
là tương đối hiệu quả và rất hiệu quả. Tuy nhiên tại khu vực Vĩnh Phúc với
mức độ đánh giá ít hiệu quả tỉ lệ người dân trả lời là 25,1% , có 46,9% số
người dân được hỏi của Vĩnh Phúc trả lởi là có hiệu quả và 11,3% cho rằng là
tương đối hiệu quả và 1,3% cho rằng là rất hiệu quả. Như vậy chúng ta thấy
tại khu vực Vĩnh Phúc vẫn có sự trợ giúp từ cộng đồng xã hội cao hơn Hà Nội
cũng như tính cố kết cộng đồng ở khu vực nông thôn cao hơn ở nông thôn của
168
Hà Nội.
ảng 4.25: Ngƣời dân có thuận lợi từ sự giúp đỡ của chính quyền
địa phƣơng
Mức độ
Thuận lợi
Thuận lợi Hoàn toàn không thuận lợi Ít thuận lợi Rất thuận lợi Điểm trung bình
Giúp đào tạo nghề 32,3 28,2 30,5 Tƣơng đối thuận lợi 4,9 4,1 2,2
Địa bàn cách xa 20,3 40,6 35,0 2,6 1,5 2,24
trung tâm
Chính sách, Quy 22,2 27,1 41,0 7,5 2,3 2,41
định được thực
hiện tại địa
phương
Có khu công 18,7 25,9 38,3 10,2 7,1 2,62
nghiệp đóng ở địa
phương
Sự quan tâm, ủng 9,4 19,5 55,6 13,9 1,5 2,79
hộ, giúp đỡ của
chính quyền địa
phương
Sự quan tâm, ủng 8,3 15,4 56,8 17,3 2,3 2,9
hộ, giúp đỡ của
người dân địa
phương
(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)
Trong quá trình chuyển đổi việc làm của người dân, người dân/chính
169
quyền địa phương cũng có ảnh hưởng lớn sau quá trình thu hồi đất. Tuy
nhiên, chính sách hỗ trợ của địa phương chưa thật sự hiệu quả đến quá trình
chuyển đổi việc làm của người dân. Mức độ đánh giá của người dân về sự
giúp đỡ của người dân/chính quyền địa phương thấp, với mức điểm trung
bình từ 2,2 đến 2,9 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, sự quan tâm ủng hộ,
giúp đỡ của người dân địa phương được đánh giá thuận lợi nhất, mặc dù chỉ
chiếm 2,9 điểm. Tuy nhiên, cũng khẳng định được liên kết xã hội của người
dân địa phương chặt chẽ hơn, và họ giúp đỡ nhau nhanh hơn, hiệu quả hơn sự
giúp đỡ của chính quyền địa phương. Sự giúp đỡ của người dân/chính quyền
địa phương về đào tạo nghề thấp, ít thuận lợi cho người dân trong quá trình
chuyển đổi việc làm. Mặc dù, vấn đề đào tạo nghề tương đối quan trọng để
người dân có thể tiếp cận được công nghệ, trang thiết bị hiện đại khác, tập
trung vào mục tiêu chung của đất nước "giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ" và đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, chính sách cũng như quy định
của địa phương còn cứng nhắc, các khu công nghiệp đóng tại địa phương
cũng chưa tạo được điều kiện để người lao động tiếp cận với công nghiệp,
dịch vụ hiệu quả, mức độ đánh giá của người dân về sự giúp đỡ này chỉ
chiếm 2,41 và 2,62 điểm, ở mức độ ít thuận lợi. Như vậy, có thể thấy, mặc
dù người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm đã nhận được sự giúp đỡ
của người dân/chính quyền địa phương, song, sự giúp đỡ này chưa thật sự
tạo hiệu quả cao.
Từ các phân tích về các yếu tố ảnh hưởng tác giả đã chạy mô hình hồi
qui để phân tích mức độ tác động của các yếu tố đến quá trình biến đổi về cơ
170
cấu việc làm của người dân nông thôn khu vực thu hồi đất nông nghiệp.
ảng 4.26: Mô hình hồi qui các yếu tố ảnh hƣởng đến sự chuyển đổi việc
làm của hộ gia đình
Yếu tố Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4
Tâm lý lo lắng khi bị thu .363*** .325*** .332*** .333***
hồi đất
Tâm lý vui mừng khi -.214*** -.170** -.174** -.147*
nhận được tiền hỗ trợ
Tổng hợp động lực thúc .148** .148** .135*
đẩy từ nhu cầu của thị
trường tăng cao
Thuận lợi trong yếu tố từ -.169** -.164** -.162**
nội lực gia đình (kinh
nghiệm, nguồn nhân lực)
Sử dụng tiền đầu tư vào .123** .103*
kinh doanh
.176**
Độ tuổi R2 điều chỉnh 0,202 0,232 0,244 0,272
F 34,534 20,976 18,123 17,486
***p<0,001, **p<0,05, *p<0,1
Hằng số 2,877 2,931 2,849 2,037
Như vậy từ mô hình phân tích ban đầu và thông qua nhiều lần chạy mô
hình hồi qui các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi việc làm của người dân
khu vực thu hồi đất tác giả đã thu lại được mô hình tốt nhất thể hiện sự tác
động cùng lúc của các yếu tố.
Phương trình hồi quy tổng quát như sau: Y=α+β1X1+ β2X2+β3X3+ε
171
Áp dụng trong mô hình phương trình hồi quy được cụ thể như sau:
Chuyển đổi nghề = 2,037 + Tâm lý lo lắng - Tâm lý vui mừng + Động
lực thị trường - gia đình + Sử dụng tiền đầu tư vào kinh doanh + Độ tuổi + ε
Kết quả phân tích thể hiện tâm thế của người lao động nông thôn có
ảnh hưởng mạnh nhất đến sự chuyển đổi việc làm. Người dân nông thôn
càng lo lắng về việc làm sau khi thu hồi đất thì họ càng có khả năng
chuyển đổi sang việc làm khác, hệ số beta chuẩn hóa của yếu tố này là
0,333 thể hiện sự tác động tương đối mạnh mẽ. Tiếp đó là độ tuổi trung
bình của người lao động nông thôn có hệ số beta chuẩn hóa là 0,176, Hệ số R2 điều chỉnh giải thích được 27,2% sự biến đổi việc làm của người
dân nông thôn.
Kết quả phân tích đã chứng minh được giải thuyết sự biến đổi cơ cấu
lao động việc làm phụ thuộc vào các yếu tố như: Tâm thế của người lao động
nông thôn, các yếu tố từ nhu cầu thị trường, các yếu tố về kinh nghiệm của
những thành viên trong gia đình, yếu tố sử dụng tiền đền bù vào đầu tư sản
xuất, yếu tố tuổi có tác động đến sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm của
người dân nông thôn. Các yếu tố về sự giúp đỡ của chính quyền địa phương,
các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, trình độ học vấn khi tách riêng đứng độc
lập thì có tác động đến sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm nhưng khi cùng
lúc tác động với các yếu tố khác thì các yếu tố này không đảm bảo về mặt ý
nghĩa thống kê hay nói cách khác nó chưa thực sự hiệu quả trong quá trình
giúp cho người dân nông thôn chuyển đổi việc làm. Thêm vào đó ngay từ đầu
yếu tố giới đã không thể hiện được sự khác biệt giữa nhóm nam và nhóm nữa
khi tác động đến sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm người dân nông
thôn. Như vậy người phụ nữ cũng giống như người đàn ông trong gia đình
172
phải tìm kiếm sinh kế mới mà không ở nhà như trước đây.
4.3. Ảnh hƣởng của quá trình chuyển đổi việc làm đến kinh tế hộ
gia đình
Quá trình thu hồi đất đã làm cho các hộ gia đình nông thôn phải thay
đổi sinh kế của mình. Quá trình thay đổi sinh kế đó đã tạo ra thu nhập cho các
hộ gia đình. Theo đánh giá của hộ gia đình mức sống của hộ gia đình có sự
thay đổi giữa trước khi thu hồi đất và sau khi thu hồi đất.
ảng 4.27: Đánh giá của ngƣời dân về mức sống của hộ gia trƣớc và sau
khi thu hồi đất
Mức sống Trƣớc khi thu hồi đất Sau khi thu hồi đất
Nghèo 4,3 4,8
Cận nghèo 7,0 5,5
Trung bình, đủ sống 77,2 78,9
Khá 11,3 10,5
Giàu có .3 .3
Tổng 100,0 100,0
(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)
Kết quả phân tích thể hiện đánh giá của người dân về mức sống của hộ
gia đình trong những năm qua. Kết quả thể hiện mức sống của hộ gia đình so
với mặt bằng chung của người dân ít có sự thay đổi. Tuy nhiên trong quá trình
nghiên cứu do sử dụng phương pháp hồi cố do vậy có thể có những sai số
nhất định về đánh giá mức sống.
Kết quả nghiên cứu thể hiện sự đánh giá về thay đổi của hộ gia đình
173
trong những năm qua kết quả thể hiện như sau:
ảng 4.28: Đánh giá của ngƣời dân về cuộc sống sau khi thu hồi
đất nông nghiệp
Đánh giá về cuộc sống Số lƣợng Tỉ lệ %
Khấm khá lên 149 37,3
Vẫn như trước 47 11,8
Nghèo đi/sa sút về kinh tế 203 50,9
Tổng 399 100,0
(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)
Kết quả nghiên cứu thể hiện có 37,3% đánh giá cuộc sống gia đình khá
giả lên có 11,8% đánh giá vẫn như trước, và đặc biệt là 50,9% đánh giá nghèo
đi. Như vậy kết quả nghiên cứu thể hiện người dân tự đánh giá về cuộc sống
gia đình có nhiều thay đổi. Trong nghiên cứu tác giả đã phân phân tích thu
nhập của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi đất.
ảng 4.29: Thu nhập và chênh lệch thu nhập của hộ gia đình trƣớc và
sau khi thu hồi đất
Sự chênh lệch Trung Độ lệch Thu nhập về thu nhập bình chuẩn (2015-2010)
Tổng thu nhập trung bình của 1 11,1454 7,79956 3,5789
hộ gia đình trong tháng (2015)
Tổng thu nhập trung bình của 1 7,5664 8,90824
hộ gia đình trong tháng (2010)
Thu nhập trung 4,1381 3,25991 1,3926
bình/người/tháng năm 2015
Thu nhập trung 2,7455 3,49686
bình/người/tháng năm 2010
174
(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)
Kết quả nghiên cứu thể hiện tổng thu nhập trung bình của các hộ gia
đình năm 2015 là 11,1454 triệu đồng/1 hộ gia đình, và năm 2010 là 7,5664
triệu đồng/1 hộ gia đình. Bên cạnh đó Thu nhập trung bình/người/tháng năm
2015 là 4,1381 triệu đồng và năm 2010 là 2,7455 triệu đồng. Như vậy số liệu
thể hiện sự tăng lên về thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi đất.
Kết quả phân tích thể hiện sự chênh lệch về thu nhập của các hộ gia
đình thấy tổng thu nhập của hộ gia đình trong tháng tăng lên trên 3,5 triệu và
thu nhập trung bình/người/tháng tăng lên 1,39 triệu đồng/tháng.
Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện mối tương quan giữa mức độ chuyển
đổi nghề nghiệp việc làm với mức độ chênh lệch.
ảng 4.30: Tƣơng quan mức độ chuyển đổi nghề nghiệp việc làm với mức
độ chênh lệch
Mức độ chuyển đổi nghề nghiệp
Chênh lệch tổng thu nhập của hộ gia đình/tháng
Chênh lệch thu nhập/ng/tháng .118**
1
Mức độ chuyển đổi
r
.096*
nghề nghiệp
Mức ý nghĩa
.019
.056
N
399
399
r
Chênh lệch thu
1
399 .926***
nhập/ng/tháng
Mức ý nghĩa
.000
N
399
399
Chênh lệch tổng thu
r
1
nhập của hộ gia
Mức ý nghĩa
đình/tháng
N
399
*p<0,1; **. p<0,05; ***p<0,01
(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)
Kết quả phân tích thể hiện có mối tương quan giữa mức độ chuyển đổi
175
nghề nghiệp và sự chênh lệch về tổng thu nhập của hộ gia đình trong tháng
cũng như thu nhập trung bình/người lao động trong tháng giữa 2 thời điểm
trước khi thu hồi đất và sau khi thu hồi đất. Kết quả thể hiện hộ gia đình nào
càng có mức độ chuyển đổi nghề nghiệp cao thì thu nhập của hộ gia đình càng
tăng lên.
ảng 4.31: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và cuộc sống gia đình sau
khi thu hồi đất nông nghiệp
Cuộc sống gia đình hiện nay và thời điểm trƣớc
khi thu hồi đất nông nghiệp Địa điểm phỏng
vấn Khấm khá Vẫn nhƣ Nghèo đi/sa Tổng lên trƣớc sút đi
Vĩnh Phúc N 109 36 239 94
% 45,6 15,1 100,0 39,3
Hà Nội N 40 11 160 109
% 25,0 6,9 100,0 68,1
Tổng N 149 47 399 203
% 37,3 11,8 100,0 50,9
p=0,012, Tau-b=-0,118
Quá trình biến đổi nghề nghiệp việc làm của các hộ gia đình khu vực bị
thu hồi đất có nhiều thay đổi. Đồng thời cũng có sự khác biệt giữa các khu
vực được điều tra. Từ kết quả khảo sát của đề tài thể hiện những người ở khu
vực Vĩnh Phúc đánh giá rằng kinh tế của gia đình mình có phần tốt hơn, khấm
khá hơn chiếm tỉ lệ là 45,6% trong khi đó ở Hà Nội tỉ lệ hộ gia đình thấy tốt
hơn chỉ là 25,0%. Trong khi đó các hộ gia đình thấy kinh tế gia đình mình
nghèo đi, làm ăn sa sút đi ở Vĩnh Phúc là 39,3% tron khi đó ở khu vực Hà Nội
cao gần gấp đôi là 68,1%. Như vậy từ kết quả điều tra chúng ta có thể thấy
176
quá trình thu hồi đất nông nghiệp ảnh hưởng lớn đến kinh tế, nghề nghiệp của
các hộ gia đình và những gia đình ở khu vực các thành phố lớn với mức chi
tiêu và giá thành các sản phẩm cao thì chịu mức ảnh hưởng cao hơn các khu
vực khác.
Tiểu kết chương 4: Kết quả phân tích đã cho thấy những yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của người dân như các
yếu tố tâm thế xã hội, yếu tố về nhân khẩu- xã hội như giới tính, độ tuổi, trình
độ học vấn cho thấy yếu tố giới, trình độ học vấn tác động không mạnh tạo
nên khác biệt giữa các nhóm lao động, yếu tố tuổi tác động mạnh tạo nên sự
khác việt nhóm tuổi trong sự chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm của người
dân. Thứ hai là các nhân tố khách quan như các nhân tố về thị trường lao
động, thị trường kinh tế, sự thúc đẩy từ trong hoàn cảnh gia đình, sự giúp đỡ
của các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp có ảnh hưởng đến quá trình
chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của người dân. Đồng thời quá trình chuyển
177
đổi cơ cấu nghề nghiệp việc làm cũng làm thay đổi kinh tế hộ gia đình.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CHN- HĐH tất yếu kéo
theo biến đổi cơ cấu lao động và việc làm. Xu hướng biến đổi này làm hoàn
thiện cơ cấu xã hội và có tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế, xã hội.
Quá trình thu hồi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp hóa, đô thị
hóa đã có những tác động tích cực đến việc làm thu nhập và đời sống của
nông dân bị thu hồi đất; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng hiện đại. Xu hướng lao động chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ tăng lên. Việc làm cũng chuyển biến theo xu hướng người dân rời
bỏ các việc làm liên quan đến nông nghiệp như làm ruộng, chăn nuôi, xay sát...
để chuyển sang các việc làm liên quan đến công nghiệp dịch vụ như thợ thủ
công, công nhân, buôn bán... Nhiều người đã thành công trong việc chuyển đổi
việc làm của mình. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp tạo ra nhiều cơ hội việc
làm đa dạng hoá việc làm cho người dân. Từ đó điều kiện sống và sinh hoạt của
người dân đã có những chuyển biến tích cực. Thu nhập và chi tiêu của hộ đều
tăng lên, người dân có điều kiện xây dựng nhà ở khang trang hơn và mua sắm
phương tiện sinh hoạt gia đình, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm…
được đầu tư, nâng cấp ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh những tác động tích cực thu hồi đất để công nghiệp hóa, đô thị
hóa còn có một số ảnh hưởng tiêu cực đến người dân, ở địa bàn xã Ngọc Mỹ
và Thiện Kế cho thấy tuy số lượng này không lớn nhưng có người thất bại
trong chuyển đổi việc làm.
Nhìn chung, quá trình thu hồi đất nông nghiệp tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu lao động, việc làm theo hướng hiện đại và ngày càng hoàn thiện hơn
nhưng vấn đề dạy nghề, đào tạo nghề còn nhiều bất cập, chưa phát huy được
178
hiệu quả dạy nghề để giúp người dân tìm kiếm được việc làm.
Trong nghiên cứu tác giả đã đánh giá cấu trúc việc làm của người dân
thông qua khía cạnh ngành kinh tế, thành phần kinh tế. Quá trình thay đổi về cơ
cấu lao động việc làm diễn ra tương đối nhanh.
Quá trình chuyển đổi việc làm của người dân có chịu tác động từ các yếu tố
nhân khẩu – xã hội. Tuy nhiên, qua số liệu có được để so sánh giữa các nhóm
trình độ học vấn, giới tính thì các yếu tố như giới tính, trình độ học vấn tác động
không mạnh. Mà thể hiện tác động mạnh là yếu tố độ tuổi, độ tuổi càng cao thì
người lao động càng có xu hướng ít chuyển đổi việc làm hơn so với các độ
tuổi trẻ. Đây là một tất yếu vì những người có tuổi để có thể thay đổi đã khó
và muốn họ thay đổi việc làm thì càng khó hơn. Giải pháp của họ là làm nhiều
việc làm thêm trong khi vẫn canh tác trên diện tích đất nông nghiệp còn lại.
Yếu tố giới tính chưa thể hiện được sự thay đổi việc làm có sự khác
biệt giữa nhóm nam và nữ. Như vậy xét trên khía cạnh giới cho thế người phụ
nữ cũng có nhiều cơ hội và điều kiện để thay đổi việc làm như nam giới.
Một yếu tố quan trọng đó là tâm lý của người dân ảnh hưởng đến quá
trình thay đổi việc làm của họ. Trạng thái tâm lý càng lo lắng cho tìm kiếm,
chuyển đổi việc làm thì người dân càng có xu hướng trăn trở, xoay xở thay
đổi việc làm.
Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thị trường hàng hóa thay đổi,
sức mua tăng cao cũng là yếu tố thúc đẩy các hộ gia đình thay đổi làm việc
buôn bán.
Các yếu tố trong nội lực gia đình cũng là yếu tố thôi thúc các thành
viên thay đổi việc làm để có thể có cuộc sống tốt hơn.
Chính vì thế quá trình giải quyết việc làm cho người dân khi thu hồi đất
nông nghiệp phải là quá trình tạo lập môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế xã
hội cần thiết, xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại
nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa và
179
dịch vụ nhằm bảo đảm thu nhập hợp pháp, ổn định cuộc sống lâu dài cho
nông dân sau khi thu hồi đất.
2. Khuyến nghị
Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân cũng như xu hướng phát
triển của việc chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm tại địa bàn xã nghiên
cứu thì tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau:
* Đối với nhà nước và chính quyền địa phương
Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân
lực ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện ở từng địa
phương thu hồi đất nông nghiệp trên diện tích rộng lớn, nhiều hộ mất 100%
diện tích, thời gian thu hồi nhiều giai đoạn gây ra tính chất bấp bênh, mất việc
làm đột ngột. Do đó cần có chính sách đào tạo, dạy nghề song song với quá
trình thu hồi đất chứ không chờ thu hồi đất xong mới dạy nghề, đào tạo nghề.
Chính quyền địa phương cần tích cực sát sao nắm chắc nhu cầu việc
làm của người dân và khả năng lao động của từng nhóm lao động để từ đó xây
dựng kế hoạch, chủ động đề xuất giải pháp phù hợp với địa phương lên các cơ
quan ban ngành quản lý cấp trên, nâng cao tính phản biện chính sách.
Đồng thời cần phải có các chính sách phát triển kinh tế xã hội để giải
quyết việc làm phù hợp với từng khu vực, địa phương nhất định, có tính khả
thi xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với đặc trưng của từng vùng.
* Đối với bản thân người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp:
Thứ nhất người lao động cần phải luôn ý thức được tình hình hiện tại
của thị trường lao động để năng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng
được nhu cầu của công việc và yêu cầu của đơn vị tuyển dụng.
Thứ hai, cần có thái độ tích cực, tìm tòi học hỏi kiến thức và tay nghề
để tạo cơ hội cho chính bản thân có được công việc tốt, phù hợp.
*Giải pháp về kinh tế:
Phát triển kinh tế là một giải pháp mang tính chiến lược và quan trọng
180
nhất trong sự phát triển của một đất nước cũng như một khu vực nhất định.
Phát triển kinh tế nhằm phát triển và mở rộng nghành nghề, phân công lại lao
động để từ đó đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm trên
toàn địa bàn tỉnh nói chung và tại địa bàn nghiên cứu nói riêng.Do vậy để phát
triển tốt thì cần có những giải pháp sau:
Thứ nhất, các tỉnh/Thành phố, huyện cần có những chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các khu công nghiệp luôn đổi mới
thiết bị công nghệ cũng như chuyển giao công nghệ nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hóa tăng sức cạnh tranh trên thị trường, các chính sách ưu đãi các cá
nhân và các doanh nghiệp sử dụng lao động trên địa bàn. Tạo điều kiện cho
người lao động mở mang nhiều ngành nghề phát huy thế mạnh của địa phương.
Cần tăng cường phát huy và mở rộng các ngành nghề truyền thống của
địa phương
Tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như các ưu thế
của thiên nhiên vào phát triển sản xuất như diện tích mặt nước ao, hồ,sông,
suối vào nuôi trồng thủy sản,trồng các loại cây hoa màu cũng như các cây
công nghiệp ngắn ngày có năng suất cao.
Tạo cơ hội, điều kiện cho người dân tự tạo việc làm, góp phần giải
quyết việc làm cho bản thân, gia đình và lực lượng lao động ở địa phương.
* Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
Các cơ quan quản lý và các trung tâm dạy nghề cần nghiên cứu công
tác đào tạo nghề gắn sát với thực tế của từng địa phương và nhất thiết phải đa
dạng hóa hình thức dạy nghề, cách tổ chức dạy nghề và đa dạng hóa loại hình
việc làm, nghề nghiệp cho phù hợp với từng đối tượng đào tạo.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong việc đào tạo nghề, cần tập trung
mở các trường đào tạo nghề trọng điểm các trường đại học cao đẳng trung
cấp. Cần xây dựng một đội ngũ nhân lực chất lượng phù hợp với yêu cầu thị
trường. Trang bị cho người lao động những kiến thức cần thiết cho người lao
181
động có trình độ tay nghề đáp ứng yêu cầu của công việc và thị trường.
DANH MỤC BÀI BÁO CÁO, CÔNG TRÌNH
Đ CÔNG Ố CÓ LI N QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Thị Kim Xuyến (2017), Các yếu tố nhân khẩu xã hội tác động
đến chuyển đổi cơ cấu lao động, việc làm của nông dân khu vực thu
hồi đất nông nghiệp", Tạp chí Lao động và Công đoàn (615), tr.42- 43,
2. Phạm Thị Kim Xuyến (2016), “Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở
khu vực thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Lao động và Công đoàn
(610), tr.42- 43,
3. Phạm Thị Kim Xuyến (2015), “Quán triệt quan điểm của Karl Mark và
Friedrich Engels về chính sách đối với lao động”, Tạp chí Nghiên cứu
182
Khoa học Công đoàn (2), tr.27- 29.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Thuận An (2012), Nghiên cứu tổng quan các chính sách, quy
định pháp lý về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước ta từ khi
có Luật đất đai 2003 đến nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Bình An (2013),“Một số kinh nghiệm của Singapore trong việc quản
lý thị trường bất động sản”, Nội san Kinh tế (12), tr. 31 – 33.
3. Đặng Nguyên Anh (2016), “Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới
kinh tế, xã hội của đất nước”, Tạp chí Xã hội học (2), tr.40-43.
4. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt
Hồng, Lưu Đức Khải, (2006), Các yếu tố tác động đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Viện Nghiên cứu
Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà Nội.
5. UNDP, “Bảo trợ Xã hội”(2008),Báo cáo Phát triển Việt Nam, tr.31.
6. Nguyễn Đức Biền (2011),“Thực trạng, những vướng mắc trong quá trình
Nhà nước thu hồi đất để giao, cho thuê và tự thỏa thuận để có đất thực
hiện dự án”, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học của việc sửa đổi Luật
Đất đai năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12-15.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị
trường lao động ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội( 2001), Thuật ngữ lao động –
thương binh và xã hội, Tập 1, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), Báo cáo về tình hình thu
hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2008), Báo cáo về thực trạng
183
thu hồi đất nông nghiệp.
11. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý
và pháp luật đất đai.
12. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Báo cáo về tình hình sử dụng đất
nông nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và đời
sống của người dân có đất bị thu hồi.
13. Đặng Dũng Chí ( 2011), “Nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các
hộ nông dân bị thu hồi ở đồng bằng Sông Hồng, NXB Lao động, Hà Nội
14. Chu Văn Cấp (2010) “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác động của
chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH,
HĐH”,NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
15. Tống Văn Chung (2005) “Vận dụng lý thuyết di dộng xã hội vào nghiên
cứu chuyển cư”, Tạp chí Xã hội học (1), tr. 89.
16. Hoàng Văn Chức (2004), Di dân tự do đến Hà Nội, thực trạng và giải
pháp quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (JPGE) - Tổng cục Thống kê (2010), “Giới
và tiền chuyển về của lao động di cư”, NXB Trí thức, Hà Nội.
18. Nguyễn Sinh Cúc (2008),“Phát triển khu công nghiệp vùng Đồng bằng
sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng
sản (14), tr. 90.
19. Đặng Ngọc Dinh (2009) “Tác động của CNH – HĐH tới cộng đồng dân
sự nông thôn và chính sách sử dụng đất”, Kỷ yếu Hội thảo Hậu Giải
phóng mặt bằng, Bộ Tài Nguyên- Môi trường, Hà Nội, tr. 23 – 27.
20. Lê Quốc Doanh (2005), Đánh giá thực trạng của quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở nước ta giai đoạn hiện 1996-
2002, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
21. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (2010), Xã hội học, NXB Đại học Quốc
184
gia, Hà Nội.
22. Ngô Văn Dụ, Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn
kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề
nghiệp cho thanh niên, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Hữu Dũng (2006), Nghiên cứu thực trạng thu nhập, đời sống và
việc làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu
cộng đồng và lợi ích quốc gia. NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
25. Nguyễn Lân Dũng (2009), “Bất cập trong sử dụng đất nông nghiệp”, Tạp
chí Kiến trúc Việt Nam (5), tr.42 -45.
26. Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử Xã hội học, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Đại (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng đồng
bằng Sông Hồng trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, Luận
án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
28. Đại học Kinh tế Quốc dân (2005),Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu
hồi đất trong quá trình CNH, HĐH và ĐTH, Công trình khoa học cấp
Nhà nước KX.01 – 2005.
29. Đại học Kinh tế quốc dân, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển (2002),
Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, thực
trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đại học KTQD và Đại học quốc gia Mokpo Hà Quốc (2012), Chính sách xã
hội đối với di dân nông thôn thành thị, NXB Đại học KTQD, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội.
185
32. Nguyễn Văn Định (2013), Di cư và toàn cầu hóa; NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
33. Frank Ellis (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát
triển, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
34. G.Endruweit và G. Trommsdorff (2001), Từ điển Xã hội học, NXB Thế
giới, Hà Nội.
35. Lê Đăng Giang (1996), “Vấn đề di chuyển lao động từ nông thôn thông
qua phát triển các cụm công nghiệp làng nghề: nghiên cứu trường hợp
các cụm công nghiệp làng nghề ở Bắc Ninh và Hà Tây”, Kỷ yếu Hội
thảo Việt Nam học Quốc tế lần thứ 3, NXB Nông nghiệp, Hà Nội,
tr.23- 27.
36. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
37. Lưu Song Hà (Chủ biên) (2009), Điều tra điểm tâmlý nông dân bị thu hồi
đất làm khu công nghiệp, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
38. Tấn Hà –Phương Nam (2006), “Những chuyện lạ đền bù, giải tỏa”, Báo
Pháp luật Việt Nam (67).
39. Lê Thị Hạnh (2009), Nghiên cứu ảnh hưởng của di dân lao động nữ xã
Yên Phương – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc đến nông hộ, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội.
40. Harry T.Oshima (1989), Tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á gió mùa,
Viện Châu Á – Thái Bình Dương, NXB Thế Giới, Hà Nội.
41. Hee Nam Jung (2010), “ Mối liên hệ tam giác trong hệ thống đất đa iở
Hàn Quốc: Quy hoạch phát triển và đền bù sử dụng đất”, Kỷ yếu Hội
thảo Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế nhằm xây dựng hệ thống quản lý đất
đai hiện đại tạiViệt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, NXB Chính
186
trị Quốc Gia, HàNội, tr.34- 37.
42. Hermann Korte (1996), Nhập môn lịch sử xã hội học, Viện Xã hội học,
NXB Tri thức, Hà Nội.
43. Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà (2015), “Biến đổi xã hội: từ xã hội học đại
cương đến xã hội học chuyên biệt”. Kỷ yếu hội thảo Biến đổi xã hội
Việt Nam dưới cách tiếp cận xã hội học, Viện Xã hội học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.27- 33.
44. Hội đồng Dân tộc (2013), “Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề
cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm 2010 đến 2013”.
Đề tài Khoa học cấp Nhà nước.
45. Nguyễn Quốc Hùng (2006), Đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích
sử dụng đất đai trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội.
46. Lê Ngọc Hùng (2008), Xã hội học kinh tế, NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
47. Nguyễn Đình Hương (1999), Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân
không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long-Thực trạng
và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Phạm Thị Hương (2013), Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng
Bằng Sông Hồng trong quá trình CNH- HDH nông nghiệp, nông thôn,
Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
49. Nguyễn Hữu Huỳnh(1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện Nghiên
cứu và phổ biến tri thức Bách Khoa. NXB Bách Khoa
50. KimJaejeong(2011), “Đất đai và quản lý đất đai ở Hàn Quốc”, Kỷ
yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc, Bộ Tài nguyên
và Môi trường, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội, tr. 34- 39.
187
51. K.Marx và Engels (1993), Toàn tập, tập 23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Lê Doãn Khải (2001), Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, Luận
án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
53. Trần Thị Lan (2013), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông
dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội,
Luận án Tiến sĩ kinh tế. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
54. Đặng Đức Long (2009),“Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà
nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất”, Tạp
chí Tài nguyên và Môi trường (5), tr. 57 - 60.
55. Bộ Luật Lao động 2012,
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanba
n?class_id=1&mode=detail&document_id=163542
56. Trịnh Duy Luân (2008), “ Thế nào là Biến đổi Xã hội”, Kỷ yếu Hội thảo
Nông nghiệp -Nông dân - Nông thôn, Trung tâm Phát triển Nông thôn
miền Trung, tr.50- 55.
57. John Maynard Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và
tiền tệ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
58. Phạm Lê Mai (2009), Tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất
nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở quận Cầu Giấy. UBND quận
Cầu Giấy, Hà Nội.
59. MartinRavallion, Dominique vande Walle (2008), Đất đai trong thời kỳ
chuyển đổi- Cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
60. Phan Minh(2010), "Một số giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn
hiện nay", Tạp chí Quản lý nông nghiệp ( 3), tr .110 – 115.
61. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (Đồng chủ biên) (2009), Hậu giải
phóng mặt bằng ở Hà Nội- Vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc
188
gia, Hà Nội.
62. Nguyễn Thị Nga (2014), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất- Thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài khoa
học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
63. Phạm Thị Nga (2014) “Quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại
trung tâm dạy nghề huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”, Luận án Tiến
sĩ Quản lý Giáo dục, Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
64. Ngân hàng Thế giới (2008), Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2008, Tăng
cường Nông nghiệp cho Phát triển,tr. 1 – 5..
65. Nguyễn Xuân Nguyên (1995), “Ảnh hưởng của công nghiệp tới phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế (1), tr.45.
66. Phan Trọng Ngọ (1997), Xã hội học đại cương, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
67. Trần Thị Minh Ngọc (Chủ biên) (2010), Việc làm của nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng
đến năm 2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 về đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia.
69. Nguyễn Thế Nhã (1998), “Thực trạng sản xuất và đời sống của hộ nông
dân không đất và thiếu đất ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế (4), tr.55- 59.
70. Nguyễn Văn Nhường (2011), “Chính sách An sinh xã hội đối với người
nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp -
Nghiên cứu tại Ninh Bình”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
71. OSEC (2010), Báo cáo tư vấn, phản biện dự thảo Chiến lược Phát triển
Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020, Liên hiệp các Hội Khoa học,
189
Kỹ thuật Việt Nam, VUSTA, Hà Nội.
72. ParkHyunYoung (2011), “Mô hình phát triển đất đai của Hàn Quốc”, Kỷ
yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội.
73. Lê Du Phong (2009), Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn,
nông dân của Hungari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận
dụng cho Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Anh Phương (2008),“Một số kiến nghị về công tác thu hồi đất, giải tỏa,
giải phóng mặt bằng đạt hiệu quả”, Tạp chí Cộng Sản (22), tr 42-44 .
75. Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn – thực trạng và giải
pháp, NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
76. Vũ Hào Quang, Trương Ngọc Thắng, Vũ Thùy Dương (2013), Biến đổi
xã hội nông thôn trong quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng
đất và đô thị hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
77. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông
thôn vùng đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng, phát triển
các khu công nghiệp,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Đình Quế (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong
những năm đầu thế kỉ XXI, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
79. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu
xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
80. Quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ( 2008), Đề án
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
81. Quyết định số 971/QĐ-TTg sửa đổi của phó Thủ tướng Chính phủ bổ
sung Quyết định 1956/QĐ-TTg (2009), Đề án Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020.
82. R. Barker, C.P. Timmer, V.B.J. Tolentino ( 2000), Ảnh hưởng của chính
190
sách nông nghiệp: Kinh nghiệm các nước Châu Á và Đông Âu-
những gợi ý đối với Việt Nam, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
83. Trương Thị Minh Sâm (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
vùng nông nghiệp ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
84. Soo Chol (2011),“Quá trình đổi mới chính sách đất đai của Hàn Quốc”,
Kỷ yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc. NXB
Chính trị Quốc Gia, HàNội, tr. 23- 28.
85. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn,
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
86. Đặng Kim Sơn (2010), “Một số vấn đề về nông thôn Việt Nam trong điều
kiện mới”, Báo cáo khoa học đề tài đề cập Nhà nước, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
87. Đặng Kim Sơn (2009), “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn - Kinh
nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc”, Hội thảo Lý luận lần
thứ tư giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
88. Lê Quốc Sử (2001), Sự chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh
tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH – HĐH từ thế kỉ XX đến thế
kỉ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, NXB Thống kê. Hà Nội.
89. Phùng Sướng (2007), “Đường hiện đại phố nhà quê”,
http://www.tienphong.vn, cập nhật tháng 05 năm 2017.
90. Phạm Đức Thành (1998), Giáo trình kinh tế lao động, NXB Giáo dục, Hà Nội.
91. Vũ Phạm Quyết Thắng (1996),“Những giải pháp tích cực nhằm đẩy mạnh
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông
191
Hồng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế(4), tr 44 - 49.
92. Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn – những
vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
93. Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (2009), Tác động của đô thị
hóa – công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và những biến dổi văn
hóa – xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
94. Lê Ngọc Thạnh (2009),“Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ”, Tạp chí Tài nguyên và
Môi trường (1), tr. 43 - 45.
95. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng - đồng chủ biên (2009), Giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Văn Thu (2006), “Biến đổi xă hội ở nông thôn Việt Nam dưới tác
động của dô thị hóa, tích tụ ruộng đất và chính sách dồn điền đổi
thửa”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.
97. Trần Thị Thu ( 2003),Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB Lao động Xã hội.
98. PhạmThị Chung Thủy (2011), “ Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế
định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
của Luật Đất đai 2003”, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học của việc
sửa đổi Luật Đất đai năm 2003, Đại học Luật, Hà Nội, tr. 28- 34.
99. Phạm Thu Thủy (2012),“Áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
và một số giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường
(10), tr.43 - 47.
100. Phạm Thu Thủy (2013),“Trao đổi về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
192
tái định cư”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường(13), tr.45 - 49.
101. Phạm Thu Thủy (2014),“Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp
luật về thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
(264), tr. 42 - 49.
102. Nguyễn Viết Thông (2009), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn -
Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
103. Đào Công Tiến (1996), “Những biện pháp kinh tế, tổ chức và quản lý để
phát triển nông nghiệp hàng hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
thôn Nam Bộ”, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số KX 03.21.
104. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá
trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, NXB Lao động Xã
hội, Hà Nội.
105. Nguyễn Tiệp (2007), Giáo trình thị trường lao động, NXB Lao động Xã
hội, Hà Nội.
106. Tổng cục Dạy nghề (2007), Thị trường lao động việc làm của lao động
qua đào tạo nghề, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
107. Tổng cục thống kê(2004), Một số thuật ngữ thống kê thông dụng, NXB
Thống kêm Hà Nội.
108. Trần Bình Trọng (2002),Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
109. Tổ chức Lương thực-Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), 1991.
110. Đào Thế Tuấn (2006), “Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (10), tr.10 – 17.
111. Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh (2010), “Pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và
193
Trung Quốc- Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp
luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí
Luật học (10), tr. 87- 92.
112. Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền
lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (2), tr.
40- 44.
113. Trần Quang Tuyến, (2014), “Đất đai,việc làm phi nông nghiệp và mức
sống hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô”
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (4), tr 36-43.
114. Trung tâm Luật so sánh (2008), “Đời sống KT – XH của các hộ gia đình
sau tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải
pháp”, Báo tổng hợp đề tài cấp Thành phố, Hà Nội.
115. Ủy ban định giá Hàn Quốc (2011), “ Hệ thống định giá và hệ thống bồi
thường Hàn Quốc”, K ỷ yế u Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai
Hàn Quốc, Bộ Tài nguyên và Môi trường, HàNội, tr. 13- 17.
116. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,
việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
117. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,
việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội. Luận án Tiến sĩ Kinh tế
học, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
118. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế
hộ ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng hiện nay (Nghiên cứu trường
hợp Nam Định và Ninh Bình, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn, Hà Nội.
119. Trần Thị Tường Vân (2008), Kinh tế - Xã hội vùng nông thôn huyện Gia
194
Lâm - Hà Nội trên tiến trình đổi mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
120. Tử Vĩ (2007), “Chuyển dịch sức lao động dư thừa ở nông thôn và vấn đề
việc làm của nông dân Trung Quốc”, Vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân- Kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr396- 405.
121. UNDP (2010), Lao động và tiếp cận việc làm.Thị trường Lao động, việc
làm và Đô thị hóa ở Việt Nam đến 2020- Học hỏi từ kinh nghiệm
Quốc tế, Báo cáo của UNDP Việt Nam.
122. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2005), Di dân tới đô thị ở
Trung Quốc, NXB Tư pháp, Hà Nội.
123. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học - công nghệ (1997),
Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
124. Viện Kinh tế học (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
125. Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (2009), Tác động xã hội vùng của các
KCN ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
126. Bạch Hồng Việt (1996), “Mấy vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí
Nghiên cứu Kinh tế (4), tr.36 -39.
127. Đặng Hùng Võ (2009), Báo cáo đề xuất về hoàn thiện chính sách Nhà
nước thu hồi đất và cơ chế chuyển đổi đất đai tự nguyện ở Việt
Nam, tài liệu công bố của WB, Hà Nội.
128. WB, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển (2011), Nhận diện
và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai
195
ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
129. Nguyễn Thị Hồng Xoan (2012), Giới và di dân- Tầm nhìn châu Á, NXB
Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
131. Appelbaum, Richard P. and William J. Chambliss, (1997), Sociology: A
Brief Introduction, New York: Longman, pp.34- 39.
132. Davi Jary and Julia Jary, Happer Collins(1991), Dictionary of Sociology.
New York, p.98.
133. Clark c., (1940), The conditions of economic progress, London,
Macmillan.
134. C.P. Timmer. – Ithaca (1991), Agriculture and the state: Growth,
employment, and poverty in developing countries New York, Cornell
Univ press.
135. Chris Tilly (2004), “Labor Markets. Essay for Poverty and Social Welfare
in the United States,. New York, An Encyclopedia, pp 46-51.
136. Fisher A.G.B,(1935), The clash of progress and security, London,
Macmillan.
137. George Ritzer (2007), Modern sociogical Theory, SAGE publication,
United Kingdom.
138. Kuznets S., (1971), Economic growth of Nations: Total Output and
Production Structure, Havard University Press, Cambridge.
139. K.W.H. van Beek (1993), Labor markets theory, Amsterdam School of
Economics Research Institute (ASE-RI).
140. Mellor J.W., (1995), Agriculture on the Road to Industrialization,
196
JohnHopkins University Press, Baltimore.W.
141. Michael Reich, David M. Gordon, and Richard C. Edwards (1973), Dual
Labor Markets: A Theory of labor market segmentation, Papers and
Proceedings of the Eighty-fifth Annual Meeting of the American
Economic Association (63), pp 359-365.
142. Nick Moore(1980), Manpower planning in libraries. – London:
Library Association.
143. Leslie A. White, (1949), The Science of Culture: A Study of Man and
Civilization, Fercheron Press, Canada.
144. Moore, Wilbert E. (1964) Social Change, Prentice Hall, New Jersey.
145. Oxford, (2012),Oxford dictionary of sociology, Oxford University Press.
146. Bruce.J.Conhen and Terri.L.Orbuch (1994), Introduction to Sociology
McGraw- Hill’ College. Review.
147. Pitirim Sorokin (1928), Social Mobility, American Journal of Sociology
(34), pp 219-225.
148. Rafael Lopes de Melo (2008), Sorting in the labor market: Theory and
Measurement, Job Market Paper.
149. Todaro M.P.,(1982),Economic development in the third world, Longman,
Newyork- London.
150. W. Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D. Irwin(1955), The Theory
of Economic Growth, p.453.
151. William Fielding Ogburn (1947), How Technology Changes Society. The
ANNALS of the AmericanAcademy of Political and Social Science,
pp. 81-88.
152. WB(2000), World Development Indicators. - London: Oxford.
153. Yoshihisa Kashima, Paul Bain, Nick Haslam, Kim Peters, Simon Laham,
197
Jennifer Whelan, Brock Bastian, Stephen Loughnan, Leah Kaufmann,
Julian Fernando1 (2009), Folk theory of social change, Asian Journal
of Social Psychology (12), pp.227- 246.
Tài liệu mạng Tiếng Việt
154. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Trung ương. Tổng điều tra
Dân số và nhà ở Việt Nam (2009) “Di cư và đô thị hóa ở Việt nam:
Thực trạng, xu hướng và những khác biệt”,
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=1
1120, truycập tháng 11 năm 2015.
155. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (2008), "Tính giá bồi thường theo
thời điểm trả tiền?", Vietbao.vn, truy cập tháng 7 năm 2008.
156. Nguyễn Sinh Cúc(2008), “Phát triển khu công nghiệp vùng Đồng
bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”, Tạp
chí Cộng Sản.
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2008/1519/Phat-trien-khu-cong-nghiep-vung-dong-
bang-song-Hong-va-van.aspx, truy cập tháng 7 năm 2008.
157. Nguyễn Sinh Cúc (2009), “Ổn định đất nông nghiệp để đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia”, Báo Tài nguyên và môi trường I (7/57),
tr.14.http://www.vusta.vn/Temps/Home/template2/default.asp?nid=
8700, truy cập tháng 7 năm 2010.
158. Thế Dũng (2011), “Sử dụng tài nguyên đất nông nghiệp Phải tiết kiệm cho
con cháu và bản thân chúng ta”, Báo Hà Nội Mớí
http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/Kinh-te/528642/yeu-to-song-con-
bao-dam-an-ninh-luong-thuc, truy cập tháng 10 năm 2011.
159. Nguyên Đào (2017),“Những kẽ hở trong chính sách pháp luật về thu hồi,
198
bồi thường đất”, Báo Pháp lý, http://phaply.net.vn/dien-dan-luat-
gia/nhung-ke-ho-trong-chinh-sach-phap-luat-ve-thu-boi-boi-thuong-
dat.html, truy cập tháng 4 năm 2017.
160. Lại Ngọc Hải (2006), “Về giải quyết việc làm cho nông dân ở những nơi
thu hồi đất”, Báo Nhân dân,
http://nhandan.com.vn/chinhtri/item/6746902-.html, truy cập tháng
3 năm 2006.
161. Minh Huệ (2008),“Nông dân trước thềm công nghiệp hóa: Những tiếng
thở dài…”, Tạp chí Kinh tế nông thôn,
http://www.kinhtenongthon.com.vn, truy cập tháng 5 năm 2008.
162. Nguyễn Thành Lợi (2008), “Kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt
động thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản điện tử,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-nghiep-nong-
thon/2008/3455/Kinh-nghiem-cua-Trung-Quoc-trong-hoat-dong-
thu-hoi-dat-nong.aspx, truy cập tháng 11 năm 2008.
163. Lê Phúc (2009), "Cẩn trọng khi thu hồi đất nông nghiệp”, Viện Chính
sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn,
http://agro.gov.vn/vn/tID13385_Can-trong-khi-thu-hoi-dat-nong-
nghiep.html, truy cập tháng 4 năm 2009.
164. Đăng Tuyên (2010), “Sử dụng đất nông nghiệp và vấn đề an ninh lương
thực”, http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-
KH-CN/Thu-hoi-dat-nong-nghiep-va-van-de-an-ninh-luong-thuc-
36680.html, truy cập tháng 12 nă m 20 10.
165. Hồ Khánh Thiện (2006), “Nông dân đối mặt với thất nghiệp”,
http://www.bannhanong.vietnetnam.net/home.php?cat_id=27&id=
2197&kh=, truy cập tháng 2 năm 2006.
166. Ngô Quang Trung (2017), “Tổ chức, quản lý cụm công nghiệp hoạt động
199
hiệu quả, góp phần thúc đẩy công nghiệp của địa phương phát
triển”, Cổng Thông tin điện tử Cục Công nghiệp Địa phương- Bộ
Công thương,
http://arid.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_i
d=233&news_id=3044, truy cập tháng 5 năm 2017.
Tài liệu mạng tiếng nƣớc ngoài
167. AFP,2012, “China to boost land payout law after unrest media”,
http://www.scmp.com/news/china/article/1094569/china-boost-
land-payout-law-after-unrest, access at web on 30 November 2012.
168. Quynh Anh, 2 0 1 2 ,“Equitable Treatment of all land users is crucial for
revised Land Law,
http://www.vn.undp.org/content/vietnam/en/home/presscenter/articles/
2012/11/08/equitable-treatment-of-all-land-users-is-crucial-for-
200
revised-land-law.html, access at web on 8 November 2012.
TRƢỜNG ĐẠI CÔNG ĐOÀN Khoa Xã hội học
CỘNG HÕA X HỘI CHỦ NGH A VIỆT NAM Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
3
ẢNG HỎI
Chúng tôi đang thực hiện cuộc nghiên cứu về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở các khu vực thu hồi đất nông nghiệp. Mong ông(bà) giúp đỡ chúng tôi trả lời những câu hỏi dưới đây. Những thông tin ông bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học . Ông(bà) không phải ghi tên và địa chỉ vào phiếu này.
Xin chân thành cảm ơn ông(bà)!
Thời gian phỏng vấn Địa điểm phỏng vấn Tên người phỏng vấn Giám sát
Ngày tháng 12 năm 2015 Thôn I. THỰC TRẠNG ĐẤT THU HỒI
…………………………nhân khẩu
Câu 1 Số nhân khẩu trong gia đình ông bà
có đất nông nghiệp?
Câu 2 Tiện nghi sinh hoạt gia đình có
hiện có
1. Ô tô 2. Điều hoà nhiệt độ 3. Máy tính (để bàn, xách tay) 4. Điện thoại di động 5. Bình nóng lạnh 6. Tủ lạnh 7. Máy giặt 8. Tiện nghi khác: ………
0. Không
1. Có
Câu 3 Ông bà có biết Khoản 2 – Điều 74 – Luật đất đai quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất” hay không?
.........................................sào
Câu 4 Diện tích đất nông nghiệp trước khi
thu hồi
.........................................sào
Câu 5 Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi Câu 6 Hình thức đền bù mà ông (bà) được
nhận là như thế nào?
1. Nhận tiền đền bù 2. Nhận một mảnh đất khác
3. Khác:………………..
Câu 7 Mức hỗ trợ thu hồi đất nông nghiệp
Số tiền gia đình nhận đƣợc Triệu đồng
Qui định về mức giá Khôngbiết/ Mức giá không quan Triệu tâm (ghi 0) đồng
7.1
7.2
gia đình nhận được như thế nào? Ông bà biết về những qui định về mức giá đền bù nhƣ thế nào? Số tiền đền bù / 1 sào đất nông nghiệp Trong đó: 1. Đất nông nghiệp
/////////////
/////////
201
2. Hoa màu 3. Chuyển đổi nghề nghiệp 4. Hỗ trợ lương thực 5. Khác
............................lần
.....................................Triệu đồng/ sào
Câu 8 Tiền đền bù được trả thành mấy lần Câu 9 Thời điểm trả tiền sau bao nhiêu lâu? …………………………….tháng Câu 10 Theo ông bà giá thị trường (người dân bán đất nông nghiệp cho nhau) tại thời điểm thu hồi đất là bao nhiêu/sào?
Câu 11 Đánh giá về những nguồn thông tin
giúp ông bà biết về quá trình thu hồi đất nông nghiệp
1.Hoàn toàn không nhận đƣợc
2.Nhận đƣợc rất ít thông tin
4.Nhận đƣợc tƣơng đối nhiều thông tin
5.Về cơ bản là nhận đƣợc thông tin từ nguồn này
3.Nhận đƣợc khoảng 50% thông tin từ nguồn này
1. Chính quyền 2. Tivi 3. Loa truyền thanh 4. Hàng xóm 5. Mạng Internet 6. Người thân
Câu 12 Ông bà đánh giá nhƣ thế nào về
các thông tin sau
2.Rất mập mờ
4.Tƣơng đối rõ ràng
1.Hoàn toàn không rõ ràng
5.Rất rõ ràng minh bạch
3.Một số công khai, một số chưa được công khai
1. Thông báo chủ trương, kế hoạch thu hồi đất 2. Mục đích thu hồi đất 3. Tuyên truyền các hộ gia đình chấp hành chủ trương, kế hoạch 4. Thông báo phương án, mức đền bù
Câu 13 Các thông tin về dự án được gửi đến
ngươi dân như thế nào?
1. Qua đài truyền thanh của xã 2. Thông qua họp dân 3. Thông qua tở rơi 4. Pano áp phích 5. Qua chính quyền địa phương 6. Qua thông báo được dán công khai 7. Thông qua các cán bộ tuyên truyền 8. Thông qua người thân
202
....................tháng
Câu 14 Thời gian từ lúc ông bà nhận được thông báo đến lúc giải phóng mặt bằng khoảng bao nhiêu thời gian? Câu 15 Theo ông/bà, việc thu hồi đất nông nghiệp đã ảnh hưởng đến việc làm của gia đình như thế nào?
1. Hoàn toàn không ảnh hưởng 3.Ảnh hưởng ít 2.Bình thường 4.Ảnh hưởng tương đối nhiều 5. Ảnh hưởng rất nhiều
Câu 16 Ông bà đồng ý nhƣ thế nào với các
nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra
Mức độ đồng ý 3.Đồng ý
4.Khá đồng ý
1.Hoàn toàn không
2.Ít đồng ý
5.Hoàn toàn đồng ý
16.1
16.2
16.3
16.4
16.5
16.6
16.7 16.8
16.9
Tôi thấy băn khoăn lo lắng về lương thực cho tương lai Tôi lo lắng cho cuộc sống của mình và gia đình Tôi lo lắng sẽ làm gì trong tương lai khi không còn đất nông nghiệp Tôi thấy băn khoăn về công việc của con cái trong tương lai Tôi băn khoăn tiền đền bù sẽ sử dụng như thế nào cho hiệu quả Tôi sợ rằng con cái sẽ không chụi khó làm ăn vì trông chờ vào tiền đền bù Tôi thấy vui khi có nhiều tiền đền bù Tôi rất phấn khởi sẽ làm được nhiều công việc từ tiền đền bù (xây nhà, chuyển đổi cuộc sống,...) Tôi thấy phấn khởi vì từ bây giờ gia đình tôi không còn phải làm nông nghiệp nữa
16.10 Tôi thấy vui khi có dự án về tôi/người
trong gia đình sẽ có công việc mới mà không phải làm nông nghiệp
16.11 Tôi thấy vui khi có dự án về xã sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng
Số tiền
16.12 Tôi nghĩ rằng kinh tế địa phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án Câu 17 Ông bà sử dụng tiền thu hồi đất như
thế nào?
1. Đầu tư vào kinh doanh, buôn bán 2. Đầu tư vào chăn nuôi 3. Gửi ngân hàng lấy lãi 4. Cho vay 5. Chia cho các thành viên trong gia đình
.......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng
203
6. Mua sắm các tiện nghi trong gia
.......................................triệu đồng
đình
7. Dùng để đầu tư , làm ăn kiếm sống .......................................triệu đồng 8. Dùng tiền tự mình đi học nghề .......................................triệu đồng 9. Dùng tiền đầu tư cho con đi học .......................................triệu đồng
nghề
Câu 18 Ông bà hài lòng như thế nào về mức
đề bù đất nông nghiệp?
1. Hoàn toàng chưa phù hợp 2. Ít phù hợp 3. Tạm chấp nhận được 4. Khá phù hợp 5. Rất phù hợp
Câu 19 Ông ( bà) có biết mục đích của việc thu hồi đất nông nghiệp để làm gì ?
1. Xây dựng khu đô thị mới 2. Xây dựng khu công nghiệp 3. Làm sân gold 4. Xây dựng cơ sở hạ tầng ( điện, đường,
Câu 20 Hoạt động chủ đầu tư triển khai dự án
như thế nào?
trường, trạm) 5. Khác:………………….. 1. Triển khai ngay dự án 2. Một thời gian sau mới triển khai dự án 3. Sau một thời gian triển khai thì dừng
lại, cầm chừng
Câu 21 Sau khi thu hồi đất chính quyền/ chủ
đầu tư đã được hỗ trợ gì cho người dân?
Câu 22 Ông, bà đánh giá thế nào về sự hỗ trợ
trên
4. Bỏ hoang đất 5. Khác:………………… 1. Hỗ trợ đào tạo nghề 2. Tư vấn học nghề 3. XKLD 4. Tư vấn sử dụng tiền 5. Nhận vào làm việc 1. Rất không hài lòng 2. Ít hài lòng 3. Hài lòng 4. Tương đối hài lòng 5. Rất hài lòng
Câu 23 Nếu không thỏa mãn với sự hỗ trợ
………………………………………… …………………………………………
trên thì ông bà cho biết mong muốn của mình
'
204
Câu 24
STT
Tuổi
Giới tính
Học vấn
Tính đa nghề
Khu vực việc làm
Tính đa nghề
Thu nhập triệu đông
Thành phần kinh tế
Địa điểm (cách nhà KM)
Tính chất nghề nghiệp
Nghề nghiệp 2015 tạo ra nhiều tiền nhất
Thu nhập triệu đông
Nghề nghiệp 2010 tạo ra nhiều tiền nhất
Ngành kinh tế
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
(13)
(14)
(15)
Địa điểm (cách nhà KM) (16)
(1) 1 1 1 1 1 1
*HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN VI N 1. Cột Số thứ tự. Hỏi từng thành viên hiện tại trong gia đình.Khoanh tròn vào số 1. 2. Tuổi: ghi số tuổi của từng thành viên: ví dụ 20 , 30, 40 3. Giới tính: 0= Nữ ; 1= Nam 4. Học vấn: Tổng số năm đi học. Có thể qui ước: Hết tiểu học = 5, THCS = 9, THPT=12, Trung cấp = 14, Cao đẳng=15, Đại học=16, Th.s = 18, Ts = 20 5. Mục: Nghề nghiệp tạo ra nhiều tiền nhất so với các nghề khác;Mục 7 Ngành kinh tế, được qui ước:
Mục 8. Thành phần kinh tế: Mã
Thành phần kinh tế
Giải thích
7 Ngành kinh tế (1) Nông nghiệp
1
Kinh tế Nhà nước
-Cơ quan chính quyền Nhà nước
-Cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước
5 Nghề nghiệp 1. Làm ruộng, làm vườn 2. Chăn nuôi 3. Xay xát thóc gạo, ngô.. 4. Các công việc có liên quan đến
Mục 6 Thu nhập Tổng số tiền bình quân từ các loại nghề nghiệp/ tháng Ghi : 0 Nếu không tạo ra thu nhập
nông nghiệp
(Nhà trường, bệnh viện, các tổ chức đoàn thể…)
Kinh tế tư bản nhà nước ( liên doanh)
Công ty cổ phần nhà nước
2
(2) Dịch vụ
Doanh nghiệp tư nhân/ các đơn vị nhà trường, tổ
Kinh tế tập thể ( doanh nghiệp tư nhân)
3
chức tư nhân (có con dấu pháp nhân)
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
4
5. Buôn bán, kinh doanh nhỏ 6. Bán hàng rong 7. Giúp việc 8. Lái xe 9. Sửa chữa vật dụng 10. Giáo viên 11. Bộ đội,Công an, cán bộ chính
Kinh tế tư nhân, tiểu chủ ( hộ gia đình)
( hộ gia đình)
5
quyền
12. Bác sỹ, y tá… 13. Xuất khẩu lao động 14. Hưu trí 15. Tự mở cty/Nhân viên trong doanh
nghiệp
Mục 9.Tính đa nghề : Tổng số lƣợng nghề phụ ngoài nghề chính, có thể 1 người làm 2,3,4 nghề phụ trong thời gian rảnh Mục 10. Địa điểm làm việc (cách nhà số KM). Ghi rõ số km từ nhà đến chỗ làm việc kể cả những ngƣời đi làm ăn xa
(3) Công nghiệp- xây dựng ( nhà máy, XN, Xƣởng…
16. Bốc vác 17. Thợ nói chung 18. Công nhân 19. Khác( ghi rõ):……….............. ..................................................
20. Thất nghiệp 21. HS, SV/người già/tàn tật
Tùy nghề nghiệp để ghi 1/2/3/4/5) (4) (5)
205
Câu 25
Ông/bà thấy sau khi thu hồi đất gia đình ông bà thay đổi việc làm nhƣ thế nào?
1. Vẫn làm công việc như trước trên diện tích cũ 2. Thay đổi cách thức sản xuất trên diện tích đất cũ 3. Làm thêm một công việc khác và vẫn làm công việc cũ 4. Làm thêm nhiều công việc khác và vẫn làm công việc cũ 5. Chuyển hẳn làm công việc khác
Câu 26 Mức độ quan trọng của các yếu tố sau Câu 27
trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của gia đình ông/bà?
Mức độ 3. Quan trọng
2. Ít quan trọng
5. Rất quan trọng
1.Hoàn toàn không quan trọng
4. Tương đối quan trọng
1. Làm nông nghiệp không đủ ăn 2.Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh 3. Có thêm nhân khẩu 4.Nhu cầu tiêu dùng của người ở nơi khác tăng mạnh 5. Có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ 6.Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh 7. Dễ bán sản phẩm 8. Không còn đất để canh tác 9. Kinh tế gia đình khó khăn 10. Ly do khác…………………………
Câu 28 Trong quá trình chuyển đổi nghề
nghiệp gia đình có thuận lợi nhƣ thế nào?
Mức độ 1.Thuậ n lợi
2.Ít thuận lợi
5. Rất thuận lợi
4.Tươn g đối thuận lợi
1. Vốn đầu tư
1.Hoàn toàn không thuận lợi
2. Thông tin thị trường 3. Nhân lực lao động 4. Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ 5. Đào tạo nghề 6. Môi trường sản xuất 7. Sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ của chính quyền địa phương 8. Sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ của người dân địa phương 9. Địa bàn cách xa trung tâm
206
10. Thu hồi đất nông nghiệp 11. Có khu công nghiệp đóng ở địa phương 12. Chính sách, Quy định được thực hiện tại địa phương 13. Khó khăn khác……………………..
Câu 29 Gia đình ông bà thƣờng nhận đƣợc
sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức nào ở địa phƣơng trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp?
Câu 30 Những quan tâm và giúp đỡ đó là gì?
Câu 31 Hiệu quả của sự giúp đỡ hỗ trợ trên đối với gia đình ta như thế nào?
Câu 32 Các doanh nghiệp đóng tại địa bàn có ưu
tiên tuyển lao động địa phương không?
Câu 33 Họ ưu tiên cho thành phần lao động
nào?
Câu 34 Gia đình ông bà ai lao động xa nhà?
Câu 35 Nếu gia đình có người đi làm thuê ở ngoài địa phương ( ít về nhà) thì sự vắng mặt của người này ảnh hưởng đến mặt
1. UBND xã6. Hội Phụ nữ 2. Ban lãnh đạo thôn7. Hội Nông dân 3. Anh em, họ hàng8. Hội Cựu Chiến binh 4. Bạn bè9. Tổ chức phi chính phủ 5.Đoàn thanh niên10. Công ty đóng trên địa bàn xã 11. Cá nhân và tổ chức khác:…………… 1.Cho/ cho vay tiền 2.Sử dụng lao động của gia đình 3. Kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh mới 4. Mở rộng mối quan hệ trong SX, kinh doanh 5. Truyền thụ kiến thức chuyên môn 6. Giới thiệu việc làm 7. Đào tạo nghềmới 8.Khác:…………………………………… 1. Rất không hiệu quả 2. Ít hiệu quả 3. Hiệu quả 4. Tương đốihiệu quả 5. Rất hiệu quả 1. Có 2. Không 3. Tùy doanh nghiệp 4. Không rõ 1. Lao động nam 2. Lao động nữ 3. Lao động có trình độ, tay nghề 4. Không ưu tiên bên nào hơn 5. Không rõ 6. Khác:..... 1. Chồng 2. Vợ 3. Ông, bà 4. Con cái 5. Khác:..................... 6. Không có ai 1. Thiếu lao động gia đình 4. Quan hệ với họ hàng 2. Giáo dục con cái 5. Quan hệ trong gia
207
nào của đời sống của gia đình?
đình 3. Chăm sóc con cái 6. Thu nhập trong gia đình 7. Khác:……………….
Câu 36 Ông bà tự đánh giá về cuộc sống của gia
đình trước khi thu hồi đất nông nghiệp?
Câu 37 Ông (bà) tự đánh giá mức sống của gia đình so với mặt bằng chung của xã hội/ khu vực
Câu 38 So với thời điểm trước khi thu hồi đất nông nghiệp ông ( bà ) thấy cuộc sống của gia đình hiện nay?
1. Nghèo 2. Cận nghèo 3. Trung bình, đủ sống 4. Khá giả 5. Giàu có 1. Nghèo 2. Cận nghèo 3. Trung bình, đủ sống 4. Khá giả 5. Giàu có 1. Khấm khá lên 2. Vẫn như trước 3. Nghèo đi/ sa sút
208