ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ KIM XUYẾN

BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP NGHI N CỨU TẠI X NGỌC M , HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI

VÀ X THIỆN KẾ, HUYỆN NH XUY N, V NH PHÖC

LUẬN ÁN TIẾN S X HỘI HỌC

Hà Nội, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ KIM XUYẾN

BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP NGHI N CỨU TẠI X NGỌC M , HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI

VÀ X THIỆN KẾ, HUYỆN NH XUY N, V NH PHÖC Chuyên ngành: Xã hội học Mã số: 62 31 30 01 LUẬN ÁN TIẾN S X HỘI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm ích San XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CẤP ĐHQG

Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận án tiến sĩ PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa Người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Phạm Bích San

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS. TS Phạm Bích San.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, đảm bảo

tính khách quan, khoa học, dựa vào kết quả khảo sát thực tế. Các tài liệu tham

khảo đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Ký tên

PHẠM THỊ KIM XUYẾN

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 9

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 9

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................. 13

3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................. 13

4. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của luận án ........................................ 14

5. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................. 15

6. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích ............................................... 15

7. Phương pháp thu thập thông tin ............................................................... 17

8. Đóng góp mới về khoa học của luận án ................................................... 20

Chƣơng 1. TỔNG QUAN T NH H NH NGHI N CỨU VỀ IẾN ĐỔI CƠ

CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM ...................................................................... 22

1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp – Nông thôn ........... 22

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về di dân nông thôn. ................................ 27

1.3. Các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn ...................... 31

1.4. Các nghiên cứu về thực trạng lao động, việc làm nông thôn ở khu vực

nông thôn có thu hồi đất nông nghiệp .......................................................... 39

Chƣơng 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ IẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC

LÀM............................................................................................................... 52

2.1. Các khái niệm cơ bản của luận án ......................................................... 52

2.1.1. Biến đổi xã hội .............................................................................. 52

2.1.2. Chính sách xã hội .......................................................................... 55

2.1.3. Lao động ....................................................................................... 56

1

2.1.4. Việc làm........................................................................................ 58

2.1.5. Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm .............................................. 62

2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án .................................................... 67

2.2.1. Lý thuyết biến đổi xã hội và quá trình chuyển hóa xã hội nông thôn ....... 67

2.2.2. Lý thuyết di động xã hội ............................................................... 75

2.2.3. Lý thuyết thị trường lao động ........................................................ 80

2.3 Khái quát về chính sách đất đai và thu hối đất nông nghiệp ................... 87

2.3.1 Tổng quan hệ thống chính sách pháp luật về thu hồi và chuyển đổi

đất đai tại Việt Nam ................................................................................ 87

2.3.2. Tổng quan thực trạng thu hồi đất nông nghiệp tại Việt Nam trong

thời gian qua ........................................................................................... 92

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG IẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỔI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ................... 97

3.1. Thực trạng thu hồi đất ở xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và

xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội ........................................................ 97

3.2. Biến đổi cơ cấu lao động tại xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế ....................... 104

3.2.1. Theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế ................................... 104

3.2.2. Theo giới tính, nhóm tuổi, học vấn của người dân phân bố vào

ngành kinh tế và thành phần kinh tế ...................................................... 108

3.2.3. Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi ......................................... 114

3.2.4. Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn ............... 116

3.2.5. Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn .................... 117

3.2.6. Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc .......... 119

3.3. Biến đổi cơ cấu việc làm của người dân bị thu hồi đất tại xã Ngọc Mỹ

và Thiện Kế ............................................................................................... 121

3.3.1. Biến đổi cơ cấu việc làm theo độ tuổi ......................................... 124

3.3.2. Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất NN đến việc làm

2

và tính đa việc làm của người dân ......................................................... 130

Chƣơng 4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM

CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ................. 134

4.1. Các yếu tố nhân khẩu - xã hội, chủ quan. ............................................ 134

4.1.1. Yếu tố tuổi của người lao động ................................................... 134

4.1.2. Yếu tố trình độ học vấn của người lao động ................................ 135

4.1.3 Yếu tố giới tính ............................................................................ 137

4.1.4. Tâm thế của hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp .................... 139

4.2. Các yếu tố khách quan ........................................................................ 144

4.2.1. Yếu tố về thị trường .................................................................... 144

4.2.2. Yếu tố nguồn lực trong gia đình .................................................. 153

4.2.3. Yếu tố về sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp và

các tổ chức đoàn thể ............................................................................. 160

4.3. Ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi việc làm đến kinh tế hộ gia đình 173

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................. 178

DANH MỤC ÀI ÁO CÁO, CÔNG TR NH Đ CÔNG Ố CÓ LI N

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 182

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 183

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ NN&PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CNH-HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CĐ/ĐH: Cao đẳng, đại học

ĐTH: Đô thị hóa

ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng

ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long

ĐNB: Đông Nam bộ

GPMB: Giải phóng mặt bằng

KCX: Khu công nghiệp

KCN: Khu chế xuất

KĐT: Khu đô thị

THCS: Trung học cơ sở

4

THPT: Trung học phổ thông

DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Diện tích đất thu hồi của hộ (1 sào Bắc Bộ = 360m2) ................... 101

Bảng 3.2: Tỉ lệ đất bị thu hồi trong tổng số diện tích đất của hộ ................... 102

Bảng 3.3: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và số diện tích đất bị thu hồi .. 103

Bảng 3.4: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và Hài lòng về mức đền bù đất

nông nghiệp ............................................................................... 103

Bảng 3.5: Sự biến đổi theo ngành kinh tế của các thành viên trong hộ ......... 105

Bảng 3.6: Sự biến đổi cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế .............. 107

Bảng 3.7: Biến đổi theo giới tính trong các ngành kinh tế ............................ 108

Bảng 3.8: Biến đổi theo giới tính trong các thành phần kinh tế ..................... 109

Bảng 3.9: Biến đổi theo trình độ học vấn trong các ngành kinh tế ................ 110

Bảng 3.10: Biến đổi theo trình độ học vấn trong các thành phần kinh tế ...... 111

Bảng 3.11: Sự chuyển đổi việc làm trong ngành kinh tế theo độ tuổi ........... 113

Bảng 3.12: Việc làm của người dân trước và sau khi thu hồi đất .................. 121

Bảng 3.13: Sự chuyển đổi việc làm theo nhóm tuổi 2015 ............................. 124

Bảng 3.14: Việc làm của của người dân trước khu thu hồi đất (2010) theo

nhóm tuổi .................................................................................. 127

Bảng 3.15: Đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến

việc làm của người dân .............................................................. 130

Bảng 3.16: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và đánh giá về sự ảnh hưởng

đến việc làm .............................................................................. 131

Bảng 4.1: Cơ cấu độ tuổi lao động ............................................................... 134

Bảng 4.2: Mối quan hệ giữa độ tuổi và sự chuyển đổi việc làm .................... 135

Bảng 4.3: Trình độ học vấn của người dân ................................................... 135

Bảng 4.4: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn sự chuyển đổi việc làm .......... 136

Bảng 4.5: Giới tính của người trong độ tuổi lao động được thống kê............ 138

5

Bảng 4.6: Giới tính và và sự chuyển đổi việc làm......................................... 138

Bảng 4.7: Tâm thế của người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..... 139

Bảng 4.8: Mối quan hệ giữa tâm thế của người dân khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp và quá trình thay đổi việc làm ................................. 143

Bảng 4.9: Mức độ quan trọng yếu tố thị trường trong quá trình chuyển đổi

việc làm của gia đình .................................................................. 145

Bảng 4.10: Mối quan hệ giữa việc dễ bán sản phẩm và mức độ ảnh hưởng đến

việc làm của của gia đình ........................................................... 147

Bảng 4.11: Mức độ thuận lợi về thị trường trong quá trình chuyển đổi việc

làm của gia đình ........................................................................ 149

Bảng 4.12: Mối liên hệ sự thay đổi của thị trường và Đánh giá về sự thay đổi

việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất .............................. 150

Bảng 4.13: Thuận lợi trong đào tạo nghề và đánh giá về sự thay đổi việc làm

của hộ gia đình sau khi thu hồi đất ............................................. 152

Bảng 4.14: Động lực từ phía gia đình thúc đẩy chuyển đổi việc làm ............ 154

Bảng 4.15: Mối liên hệ giữa đánh giá về làm nông nghiệp không đủ ăn và Đánh

giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất ..... 156

Bảng 4.16: Những thuận lợi về nội lực gia đình trong chuyển đổi việc làm .. 159

Bảng 4.17: Sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương/chủ đầu tư hỗ

trợ cho người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm .............. 160

Bảng 4.18: Thực trạng triển khai hỗ trợ cho người dân của chính quyền/chủ

đầu tư ........................................................................................ 162

Bảng 4.19: Đánh giá của người dân về các chính sách hỗ trợ của chính

quyền/chủ đầu ........................................................................... 163

Bảng 4.20: Sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể xã hội trong quá

trình chuyển đổi việc làm........................................................... 164

Bảng 4.21: Sự quan tâm giúp đỡ của anh em, bạn bè trong quá trình chuyển

6

đổi việc làm ............................................................................... 164

Bảng 4.22: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và người thân ......... 166

Bảng 4.23: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và người thân ......... 167

Bảng 4.24: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và hiệu quả các hoạt động hỗ trợ .. 168

Bảng 4.25: Người dân có thuận lợi từ sự giúp đỡ của chính quyền địa phương .. 169

Bảng 4.26: Mô hình hồi qui các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi việc làm

của hộ gia đình .......................................................................... 171

Bảng 4.27: Đánh giá của người dân về mức sống của hộ gia trước và sau khi

thu hồi đất .................................................................................. 173

Bảng 4.28: Đánh giá của người dân về cuộc sống sau khi thu hồi đất nông

nghiệp ........................................................................................ 174

Bảng 4.29: Thu nhập và chênh lệch thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi

thu hồi đất .................................................................................. 174

Bảng 4.30: Tương quan mức độ chuyển đổi nghề nghiệp việc làm với mức độ

chênh lệch.................................................................................. 175

Bảng 4.31: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và cuộc sống gia đình sau khi

7

thu hồi đất nông nghiệp ............................................................. 176

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Sự thay đổi ngành kinh tế của người lao động .......................... 106

Biểu đồ 3.2: Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi (%) ................................ 115

Biểu đồ 3.3: Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn (%) ..... 116

Biểu đồ 3.4: Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn đã qua đào

tạo.............................................................................................. 118

Biểu đồ 3.5: Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc ....... 120

8

Biểu đồ 3.6. Tính đa việc làm của người dân ................................................ 132

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Năm 2020 Việt Nam đặt mục tiêu cơ bản trở thành một quốc gia công

nghiệp theo hướng hiện đại tuy nhiên để hoàn thành được mục tiêu nói trên

Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt hàng loạt các chính sách

liên quan tới vấn đề tam nông. Thực tế cho thấy trong 10 năm qua, nông nghiệp

không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng vào

quá trình tăng trưởng ấn tượng của đất nước mà còn là điểm tựa chắc chắn cho

các ngành khác đi qua những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Về mặt chính sách vĩ mô, trong những năm vừa qua, hệ thống chính

sách về nông nghiệp, nông thôn và nông dân gia tăng nhanh chóng cả về số

lượng lẫn nội dung cũng như quy mô tác động của thực tiễn chính sách. Sự

thay đổi quan trọng này có thể cùng lúc cho thấy cả hai chiều cực tích cực và

tiêu cực. Về khía cạnh tích cực có thể nhận thấy sự quan tâm của Đảng và

Nhà nước đối với các vấn đề tam nông ngày càng lớn hơn trong khi đó ở khía

cạnh tiêu cực cho thấy vẫn đang tồn tại một thực tế có quá nhiều những vấn

đề xung quanh câu chuyện nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

Trong khi đó, về mặt định hướng phát triển, cơ cấu kinh tế của một

quốc gia công nghiệp hiện đại sẽ chỉ còn một tỷ lệ nhỏ % nông nghiệp trong

cơ cấu GDP, để tạo ra được sự thay đổi này đương nhiên quá trình chuyển đổi

cơ cấu ngành, cơ cấu lao động việc làm phải được diễn ra một cách liên tục

nhưng theo một lộ trình bền vững đảm bảo giảm thiểu những tác động tiêu

cực, những cú sốc xã hội đối với các nhóm chuyển dịch, đặc biệt là các nhóm

yếu thế. Những ví dụ về quá trình chuyển dịch xã hội gây sốc trong quá trình

phát triển là khá phổ biến không chỉ ở Việt Nam trong đó hầu hết liên quan

tới những chuyển dịch về đất đai, xuất phát từ quá trình thu hồi đất nông

nghiệp cho các mục đích phi nông nghiệp:“Sự chuyển đổi đất nông nghiệp

9

sang cho các mục đích sử dụng phi nông nghiệp, từ công việc đồng áng sang

làm công ăn lương và dòng người từ nông thôn ra thành phố đều là dấu hiệu

của một nền kinh tế đầy năng động với nhiều cơ hội. Nhưng những thay đổi

này cũng là những nguồn tiềm tàng gây tổn thương cho người dân, từ mất đất

đến không có việc làm và mất đi các mối quan hệ xã hội”[ Báo cáo Phát triển

Việt Nam, 2008,Tr.31].

Theo kết quả Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 2016, dân số khu vực

nông thôn của Việt Nam là 60,7 triệu người (chiếm 65,49%) dân số cả nước.

Rõ ràng với một quốc gia hiện có hơn 2/3 dân số đang sinh sống ở nông thôn

trong đó có khoảng 71,7% người trong độ tuổi lao động, nông nghiệp sẽ vẫn

tiếp tục là sinh kế chủ yếu của hàng triệu gia đình Việt Nam trong những năm

tới[Tổng cục thống kê,2016]. Mặc dù vậy, trong khoảng 10 năm trở lại đây

diện tích đất nông nghiệp đã giảm đi nhanh chóng trên quy mô toàn quốc. Sau

28 năm xây dựng, phát triển, cả nước hiện có 328 khu công nghiệp, khu chế

xuất được thành lập, thu hút được hơn 120 tỷ USD vốn FDI, 800,000 tỷ đồng

vốn đầu tư trong nước, và giải quyết việc làm cho hơn 3 triệu lao động. Riêng

trong năm 2017, các khu công nghiệp, khu chế xuất đóng góp hơn 2 tỷ USD

vào ngân sách nhà nước, 110 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, cả

nước có thêm 625 cụm công nghiệp, tổng diện tích đất công nghiệp theo quy

hoạch của các cụm công nghiệp đang hoạt động là 19,000ha, thu hút hơn

10,000 dự án đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 137,000 tỷ đồng, giải

quyết việc làm cho 538,000 lao động [Bộ Kế hoạch đầu tư,2017].

Tốc độ thu hẹp diện tích đất lúa nhanh chóng cộng với những biến

động về giá cả lương thực trên phạm vi toàn cầu đã đặt vấn đề an ninh lương

thực của một quốc gia vốn luôn đứng đầu về xuất khẩu gạo trước những thách

thức về tính bền vững. Do đó, Chính phủ đã ra Nghị quyết về đảm bảo an

ninh lương thực quốc gia với mục tiêu phải giữ bằng được 3,8 triệu ha đất lúa

[76]. Ở thời điểm hiện tại, giá lương thực trên toàn cầu đang ở ngưỡng “nguy

10

hiểm” và được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu

cực tới sự phát triển kinh tế xã hội cũng như đời sống của người dân tại nhiều

quốc gia trên thế giới.

Một trong những tác nhân lớn nhất dẫn tới sự thu hẹp của diện tích đất

lúa tại Việt Nam trong thời gian qua chính là việc phát triển các KCN, khu

chế xuất. Về mặt định hướng phát triển, mô hình các KCN, các khu chế xuất

là lựa chọn đúng đắn bởi khả năng tạo việc làm, cải thiện cơ sở hạ tầng,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, dù đã có lịch sử 20 năm nhưng có ba

vấn đề đặt ra trong phát triển các KCN tại Việt Nam vẫn chưa được giải quyết

triệt để: (i) quy hoạch các KCN, (ii) hiệu quả sử dụng đất tại các KCN và (iii)

khả năng giải quyết việc làm cho lao động địa phương trong quá trình chuyển

đổi. Về vấn đề thứ nhất, đa số các KCN đều lựa chọn những vị trí “đắc địa”

nên việc đặt KCN vào khu vực sản xuất nông nghiệp là hết sức phổ biến. Đối

với vấn đề thứ hai, các KCN thường có diện tích từ vài chục tới vài trăm ha

nhưng tỷ lệ lấp đầy các KCN lại thường ở mức khá khiêm tốn. Đối với vấn đề

thứ ba, cũng là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm hơn cả, hiện tại khả năng

giải quyết việc làm cho lao động địa phương từ phát triển các KCN là khá hạn

chế cho dù có những căn cứ pháp lý liên quan tới trách nhiệm của chủ đầu tư

với vấn đề tạo việc làm cho lao động địa phương.

Thất nghiệp, thiếu việc làm là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với nông dân sau

khi bị thu hồi đất, chính vì thế bản thân các cơ quan chức năng trong thời gian

qua dù đã rất cố gắng tìm ra các giải pháp để giải quyết tình trạng này thì vấn

đề lao động, việc làm cho nông dân mất đất vẫn cứ là một bài toán khó. Theo

Nguyễn Sinh Cúc vấn đề mấu chốt liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh

nghiệp nhận đất: “Tỷ lệ lao động mất đất được doanh nghiệp (nhận đất) đào

tạo ở Hà Nội là 0,01%, Hà Tây: 0,02%; Hải Phòng: 0%; Bắc Ninh: 0%.

Trong khi đó, lao động do Nhà nước đào tạo nghề cho nông dân vùng mất đất

cũng không đáng kể: Hà Nội: 0,01%; Hải Phòng: 0%; Bắc Ninh: 1,2%; Hà

11

Tây: 0%. Tỷ lệ lao động do gia đình tự đào tạo có cao hơn nhưng cũng còn xa

so với yêu cầu tạo việc làm mới phi nông nghiệp: Hà Nội: 0,9%, Hải Phòng:

0,01%; Bắc Ninh: 0,3% và Hà Tây: 0,09%” [Nguyễn Sinh Cúc, 2009, tr14].

Có một thực tế ruộng đất gắn bó với nông dân không chỉ với tư cách là

một tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng mà ruộng đất còn chứa đựng cả

những giá trị văn hóa, lối sống của người dân nông thôn. Cứ một ha đất nông

nghiệp bị thu hồi sẽ ảnh hưởng tới 10 lao động nông nghiệp.[Phạm Văn Vân,

2014, tr438] Do đó, việc thu hồi đất nông nghiệp không chỉ làm thay đổi sinh

kế của nông dân mà còn dẫn tới nguy cơ biến đổi những giá trị văn hóa, lối

sống của họ và đặc biệt là con cái họ. Sự biến đổi này đáng tiếc lại đang có

quá nhiều yếu tố tiêu cực. Do đó, việc đền bù không chỉ phải tính đến những

giá trị vật chất mà còn phải tính đến cả những giá trị phi vật chất và bản thân

những hỗ trợ cũng không nên chỉ được thực hiện có một lần duy nhất.

Hệ thống các chính sách dạy nghề nói chung và chính sách dạy nghề

cho nông dân mất đất nói riêng của Việt Nam hiện nay là khá đa dạng và đã

có “thâm niên” khá lâu đời. Các chính sách này là một trong những bộ phận

không thể thiếu trong hệ thống tổng thể các chính sách liên quan tới hỗ trợ,

đền bù khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, từ nhiều năm nay việc triển khai công tác

đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt sau khi Chính phủ thông qua

Đề án 1956 cũng đã được triển khai sâu rộng và mang lại nhiều hiệu quả tích

cực. Tuy nhiên, công tác dạy nghề, tạo việc làm liên quan tới thu hồi đất cho

nông dân thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế từ cách làm, loại nghề, đối

tượng… cho đến quyết tâm và trách nhiệm của các bên có liên quan, ngay cả

của chính những người nông dân khi họ vừa có trong tay một khoản tiền lớn.

Và hệ quả của vấn đề này thì ai cũng rõ.

Rõ ràng, cả ở cấp vĩ mô và ở cấp địa phương hệ thống chính sách liên

quan tới vấn đề tam nông nói chung và đối với vấn đề lao động việc làm của

nông dân tại các khu vực bị thu hồi đất nói riêng là rất nhiều, rất đầy đủ song

12

vẫn còn có rất nhiều những vấn đề xã hội vẫn đang tồn tại và tiếp tục nảy sinh

đằng sau câu chuyện nông dân mất đất.

Với những vấn đề đặt ra đối với lao động và việc làm ở khu vực thu hồi

đất nông nghiệp biến đổi như thế nào, do đó tôi đã chọn để thực hiện trong

luận án với tên là: "Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu

vực thu hồi đất nông nghiệp" (Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai,

Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Luận án vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội, lý thuyết di động xã hội

và lý thuyết thị trường lao động để lý giải biến đổi cơ cấu lao động, việc

làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp góp phần kiểm chứng lý thuyết

trong thực tiễn.

Luận án sử dụng phương pháp điều tra Xã hội học sẽ đưa ra những căn

cứ khoa học từ thực tiễn, giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá quá trình biến đổi

cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp một cách đầy đủ,

toàn diện.

- Luận án sẽ là tài liệu bổ ích cho những người quan tâm đến các

chính sách ruộng đất, chuyển đổi đất đai và vấn đề lao động, việc làm của

người dân.

- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học giúp cho nhà quản lý nhìn nhận

đầy đủ về cơ cấu lao động, việc làm của người dân sau thu hồi đất và những biến

đổi của nó, từ đó có căn cứ khoa học để đưa ra các quyết sách giải quyết công ăn

việc làm của nông dân- môt lực lượng lao động lớn trong xã hội hiện nay với các

chiến lược phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa của nước ta.

3. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực thu hồi đất

nông nghiệp (nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã

13

Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc).

3.2. Khách thể nghiên cứu

- Hộ dân

- Lãnh đạo chính quyền

3.3. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi thời gian thực hiện luận án: từ 2011 đến 2015

- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn khoảng 10 năm gần đây.

- Phạm vi không gian: Để thu thập thông tin luận án tiến hành khảo sát

tại 2 địa bàn, đó là xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và xã Ngọc

Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội.

- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Trong luận án này tôi tập trung chủ yếu

vào mô tả thực trạng cơ cấu lao động, việc làm của người dân trước và sau khi

thu hồi đất nông nghiệp. Một số yếu tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu lao

động việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp.

4. Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của luận án

4.1. Mục tiêu chung

- Phân tích làm rõ thực trạng đất nông nghiệp của người dân bị thu hồi

- Phân tích thực trạng biến đổi cơ cấu lao động,việc làm tại các vùng có

thu hồi đất nông nghiệp.

- Tìm hiểu các nhân tố tác động đến biến đổi cơ cấu lao động, việc làm

tại các vùng có thu hồi đất nông nghiệp.

4.2. Mục tiêu cụ thể

- Phân tích làm rõ thực trạng cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu

hồi đất nông nghiệp.

- Mô tả quy mô thu hồi đất, mục đích thu hồi đất

- Mổ tả loại đất bị thu hồi: đất ao, đất trồng hoa mầu, đất trồng lúa

- Mức độ đền bù, phục hồi sinh kế của chính quyền/ chủ đầu tư

- Đánh giá của người dân về thực trạng thu hồi đất (phương thức đền

14

bù, thủ tục, quy trình …).

- Đánh giá của người dân về mức độ hỗ trợ, quan tâm, thấu hiểu của

chính quyền/ chủ đầu tư đối với người dân.

- Phân tích và so sánh thay đổi cơ cấu lao động, việc làm trước và sau

khi thu hồi đất nông nghiệp (cơ cấu theo tuổi, giới, trình độ, loại hình nghề

nghiệp, việc làm…).

- Chỉ ra nhân tố tác động đến cơ cấu lao động, việc làm và làm rõ mức

độ của từng yếu tố (di cư…).

- Làm rõ thực trạng thích ứng của người dân sau khi thu hồi đất và chỉ ra

những nhân tố tác động đến sự thích ứng của người dân.

- Dự báo xu hướng dịch chuyển cơ cấu lao động, việc làm.

5. Câu hỏi nghiên cứu

- Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp

như thế nào?

- Xu hướng biến đổi cơ cấu lao động, việc làm như thế nào?

- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của

người dân?

6. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích

- Cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông

nghiệp biến đổi nhanh, có sự khác nhau trong sự chuyển đổi lao động, việc

làm giữa các nhóm tuổi.

- Người dân bị thu hồi đất nông nghiệp có xu hướng chuyển đổi nghề

nghiệp từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ.

Người dân bị thu hồi đất nông nghiệp làm nhiều loại công việc (nghề nghiệp)

để duy trì cuộc sống. (số lượng nghề nghiệp/ đầu người gia tăng).

- Các yếu tố tác động làm cho quá trình biến đổi cơ cấu lao động, việc

làm của người dân diễn ra đa dạng, linh hoạt và sự thích ứng của các hộ gia

15

đình nông dân.

Khung phân tích

Điều kiện kinh tế xã hội

Chính sách thu hồi đất nông nghiệp

Độ tuổi

Chính quyền

Tâm thế đón nhận

Các tổ chức xã hội

Học vấn

Giới tính

iến đổi cơ cấu lao động, Việc làm

Doanh nghiệp

Việc làm

Nông nghiệp Công nghiệp- Xây dựng Thương mại- Dịch vụ

16

Kinh nghiệm làm việc sẵn có

7. Phƣơng pháp thu thập thông tin

Để có được cơ sở dữ liệu đáng tin cậy cũng như sự phân tích mang tính

hệ thống liên ngành, trong quá trình nghiên cứu, luận án đã sử dụng một số

phương pháp cơ bản dưới đây:

7.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Trọng tâm của phương pháp phân tích tài liệu tập trung vào việc phân

tích, đánh giá hệ thống chính sách có liên quan của Trung ương cũng như của

các địa phương đối với vấn đề thu hồi đất đai. Các nghiên cứu, báo cáo có liên

quan trực tiếp và gián tiếp tới vấn đề này của các tổ chức trong và ngoài nước

Hệ thống các tài liệu thống kê, niên giám thống kê liên quan tới vấn đề

phát triển kinh tế xã hội cũng như vấn đề thu hồi đất đai, lao động việc làm.

Báo cáo tình hình kinh tế xã hội và thống kê về thu hồi đất của địa phương

7.2. Phương pháp phỏng vấn cấu trúc

Bảng hỏi là một công cụ quan trọng trong thu thập thông tin. Trong quá

trình xây dựng bảng hỏi tác giả đã phân tách bố cục bảng hỏi theo các chủ đề

chính như sau:

(i) Thực trạng thu hồi đất của các hộ gia đình

(ii) Sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm của các hộ gia đình từ năm

2010 -2015,

(iii) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi lao động việc làm

của hộ gia đình.

Phương pháp chọn mẫu

Trong điều kiện về khả năng và nguồn lực và thời gian nghiên cứu tác

giả chọn mẫu tại 2 tỉnh là Hà Nội và Vĩnh Phúc. Trong quá trình chọn mẫu

tác giả có cân nhắc lựa chọn ở nơi có mức độ phát triển của các tỉnh/thành

phố. Tác giả đã chọn xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội là một xã có

17

quá trình thu hồi đất nông nghiệp từ năm 2005 đến nay tuy nhiên quá trình

thu hồi đất nông nghiệp diễn ra một các mạnh mẽ từ năm 2010, Tổng số hộ

bị thu hồi đất nông nghiệp từ năm 2010-2015 là 780 hộ. Từ tổng thể các hộ

bị thu hồi đất nông nghiệp ở xã Ngọc Mỹ tác giả đưa vào để tính toán số

lượng mẫu được điều tra.

Xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc có 1200 hộ dân bị thu

hồi đất nông nghiệp .

Từ kết quả khảo sát sơ bộ như trên tác giả đã tính toán số lượng mẫu cần

điều tra như sau: Tổng số hộ gia đình trên 2 khu vực điều tra là 1980 hộ gia đình

trong đó Xã Ngọc Mỹ: 780 hộ (chiếm 39,4%); Xã Thiện Kết 1200 hộ (60,6%).

Trên cơ sở đó tác giả sử dụng công thức để tính mẫu nghiên cứu như sau:

Mẫu điều tra được chọn ngẫu nhiên phân tầng với công thức tổng quát

như sau:

Công thức tổng quát được áp dụng cho nghiên cứu là.

Nt2 x pq n = N2 + t2 x pq

Trong luận án tác giả chọn mẫu với các yêu cầu sau:

- Yêu cầu độ tin cậy là 95,0% (hệ số tin cậy t = 95%) tra trong Bảng giá

trị của hệ số tin cậy t được tính sẵn theo hàm t, của Lia pu nốp thì giá trị t=1,96,

- Phạm vi sai số chọn mẫu không vượt 5% ( = 0,05)

- Với giả định tỷ lệ người dân chuyển đổi lao động việc làm là 50% có

chuyển đổi và không chuyển đổi là 50%. Do p+q=1, do đó tích p.q sẽ lớn nhất

khi p=q=0,5 => p.q =0,25 => thay vào công thức trên để xác định cỡ mẫu

=

điều tra (n) Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh,2001, tr156]

18

= 205 hộ gia đình n = 1980 x 1,962 x 0,25 1980 x 0,052 + 1,962 x 0,25 Nt2 x pq N2 + t2 x pq

Như vậy luận án sẽ lấy cỡ mẫu tối thiểu cần có là 205 người để khảo

sát cho toàn bộ 2 khu vực được lựa chọn. Trong quá trình nghiên cứu tác giả

khảo sát 410 hộ gia đình. Số phiếu thu về và làm sạch để đưa vào phân tích

còn lại là 399 phiếu. Từ tổng mẫu và tỉ lệ hộ gia đình của 2 khu vực điều tra

tác giả đã lựa chọn số hộ gia đình ở xã Ngọc Mỹ là 160 hộ (40,1%) và Thiện

Kế là 239 hộ (59,9%)

Trong quá trình phân tích về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm tác giả

sử dụng dữ liệu của 399 hộ gia đình để phân tích. Tác giả cũng sử dụng số

liệu của các nhóm như sau:

- Độ tuổi từ 15- 60 đối với nam

- Độ tuổi từ 15-55 đối với nữ.

Trong đó những người trong độ tuổi từ 15-22 nếu còn đang đi học

THPT/TCCC/CĐ/ĐH thì cũng không được đưa vào phân tích.

Như vậy có 3 nhóm sẽ không được đưa vào phân tích khi tác giả phân

tích về sự biến đổi cơ cấu lao động của các thành viên trong gia đình đó là:

(i) Nhóm quá tuổi lao động > 60 tuổi đối với nam và >55 tuổi đối với nữ

(ii) Nhóm chưa đến tuổi lao động <15 tuổi

(iii) Nhóm trong độ tuổi lao động từ 15-22 tuổi nhưng vẫn đang đi học.

Vì vậy trong quá trình phân tích về số lao động trong gia đình giữa các

năm 2010 và 2015 sẽ có sự biến động về tổng số lao động vì năm 2010 nhóm

còn đang đi học sẽ không được đưa vào phân tích nhưng đến năm 2015 nhóm

này sẽ bước vào thị trường lao động và trở thành một người lao động trong

các ngành kinh tế.

19

Kết quả điều tra và các số liệu được đưa vào phân tích như sau:

Bảng 1: Cơ cấu mẫu phân tích

Năm 2010

Năm 2015

Tiêu chí

Tổng số

Tổng số

Số lượng được đưa vào phân tích

Số lượng được đưa vào phân tích

Số lượng không được đưa vào phân tích

Số lượng không được đưa vào phân tích 0

Số hộ gia đình

399

399

399

0

399

Số hộ có thành

viên chuyển đổi

399

0

399

281

118

399

nghề nghiệp

Số lao động

1003

229

1232

1085

147

1232

Kỹ thuật xử lí thông tin

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

- Toàn bộ số liệu định lượng được nhập xử lí bằng chương trình SPSS 19,0,

7.3 Phỏng vấn sâu

Để có thông tin sâu sắc hơn, bổ sung cho thông tin định lượng luận án

đã thực hiện 10 cuộc phỏng vấn sâu. Trong đó có 6 cuộc PVS người dân, đối

tượng phỏng vấn là chủ hộ hoặc là chủ của những mảnh đất đã bị thu hồi; 2

cuộc PVS cán bộ chính quyền 2 xã Thiện Kế và Ngọc Mỹ; 2 cuộc PVS dành

cho 2 doanh nghiệp gia đình.

- Toàn bộ dữ liệu định tính thu thập được trong quá trình khảo sát được

gỡ ghi âm và định dạng văn bản, trích dẫn trong quá trình phân tích.

8. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Trong luận án đã phân tích sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của

người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp, với sự áp dụng các lý thuyết

biến đổi xã hội, lý thuyết di động xã hội, lý thuyết thị trường lao động và

phương pháp điều tra Xã hội học, bước đầu được thể hiện một cách có căn cứ

20

khoa học và tương đối hệ thống.

- Khi thu hồi đất nông nghiệp nhiều hộ gia đình nông dân rơi vào trạng

thái bị động, khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy nhiên, qua

nghiên cứu luận án phát hiện nhiều hộ gia đình nông dân đã nhanh nhạy, chủ

động, sáng tạo để chuyển đổi nghề nghề và thích nghi với sự hụt hẫng, rủi ro

do tác động của việc thu hồi đất sản xuất.

- Phân tích các yếu tố tác động đến Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm

21

của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp.

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VỀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

Việc tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì đó là tiền đề cho quá trình thực hiện

luận án, là cơ sở để đánh giá, tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực tiễn đã

được nghiên cứu, những vấn đề còn để ngỏ, là những gợi mở có tính định

hướng cho những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo, mà luận án cần tập trung

giải quyết.

Qua tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả thấy rằng, đã có một số công trình

nghiên cứu nổi bật, có liên quan đến một số khía cạnh khác nhau của đề tài

luận án. Các công trình này có thể xếp theo các nhóm nghiên cứu sau đây:

1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp – Nông thôn

Chủ đề nghiên cứu về biến đổi nông nghiệp, nông thôn đã được nghiên

cứu nhiều từ đánh giá về lý luận cho đến các nghiên cứuthực nghiệm.

Tác giả Đặng Kim Sơn (2010) “Một số vấn đề về nông thôn Việt Nam

trong điều kiện mới”. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học -

công nghệ (1997), “Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta” là

những tác phẩm và bài viết đề cập tới những vấn đề phát triển nông nghiệp

trong điều kiện công nghiệp. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề

luôn mới ở Việt Nam, đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây

dựng và phát triển đất nước. Trong gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông dân,

nông thôn đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để đất

nước vươn lên. Các tác phẩm đã làm rõ thực trạng các vấn đề về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn hiện nay, những thành tựu cũng như những khó khăn,

vướng mắc còn tồn tại. Xuất phát từ thực tiễn, nhóm tác giả đã đề xuất những

định hướng và kiến nghị chính sách nhằm đưa nông nghiệp, nông dân, nông

22

thôn ngày càng phát triển.

Nguyễn Tiệp (2005) “Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá

trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Tác giả mô tả thực trạng thị

trường sức lao động ở nông thôn ngoại thành Hà Nội. Sự phát triển thị trường

sức lao động khu vực ngoại thành Hà Nội đã góp phần vào việc phân bổ

nguồn lực lao động giữa các ngành, các địa phương một cách hợp lý; thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đúng hướng và góp phần thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thị trường sức

lao động khu vực ngoại thành Hà Nội cũng luôn phát sinh những vấn đề bất

cập cần giải quyết đó là: Quy mô dân số và nguồn lao động hiện nay ở khu

vực ngoại thành Hà Nội tương đối lớn, chất lượng và cơ cấu lao động mặc dù

có nhiều chuyển biến nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu lao động phục vụ

phát triển kinh tế - xã hội, gây ra tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động

nghiêm trọng. Các dòng di chuyển lao động diễn ra thường xuyên, với quy

mô và tần suất lớn, đặc biệt là di chuyển giữa nông thôn - đô thị và di chuyển

lao động từ khu vực đi ra bên ngoài còn mang tính tự phát, trong khi công tác

quản lý lao động tự do di chuyển còn nhiều bất cập, dẫn tới bất ổn về an ninh

- xã hội; Tốc độ đô thị hoá nhanh dẫn đến nhiều lao động nông nghiệp rơi vào

tình trạng thiếu việc làm hoặc mất việc làm trong khi chưa có kế hoạch đào

tạo, chuyển nghề cho lao động.

Lê Du Phong (2009), “Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn,

nông dân của Hungari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận dụng cho

Việt Nam”. Khái quát nền kinh tế Hungary trước năm 1990 và thực trạng xây

dựng, phát triển nền kinh tế thị trường ở Hungary trong giai đoạn 1990 -

2010, Thực trạng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và

việc vận dụng những kinh nghiệm của Hungary vào việc xây dựng và phát

23

triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới.

Các nghiên cứu về biến đổi xã hội ở nông thôn cũng được tập trung

nghiên cứu như: Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân”; Nguyễn Xuân

Nguyên (1995), “Ảnh hưởng của công nghiệp tới phát triển nông nghiệp và

kinh tế nông thôn Việt Nam”; Lê Đình Thắng (1998) “Chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông thôn – những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Lê Quốc Sử (2001),

“Sự chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt

Nam theo hướng CNH – HĐH từ thế kỉ XX đến thế kỉ XXI trong thời đại

kinh tế tri thức”; Nguyễn Đình Quế (2004), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt

Nam trong những năm đầu thế kỉ XXI”; Nguyễn Văn Thu (2006), “ Biến đổi

xã hội ở nông thôn Việt Nam dưới tác động của dô thị hóa, tích tụ ruộng đất

và chính sách dồn điền đổi thửa”. Các tác giả tập trung đề cập đến một số vấn

đề về sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và một số giải pháp

thuộc vĩ mô nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Phân tích

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt nam trong thập nhiên đầu thế kỷ

XXI. Nêu ra những khái niệm, thực trạng và giải pháp và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn: chuyển dịch cơ cấu ngành công

nghiệp; chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ những năm đầu thế kỷ XXI,

chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ở Việt Nam và phân tích sự phát triển

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng. Việt Nam có trên 84 triệu người, trong đó

có 75% dân số sông ở nông thôn. Trong những năm qua, công nghiệp ở thành

thị có sự phát triển nhưng không đủ sức thu hút hết lao động tăng thêm đến từ

nông nghiệp và các vùng nông thôn. Sự dư thừa lao động và sự di dân từ các

vùng nông thôn về các thành phố kiếm việc làm ngày càng tăng nhanh. Hiện

nay, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 42,0% trong cơ

cấu kinh tế và tỷ lệ lao động trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 18% trong

24

tổng số lao động của nền kinh tế.

Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (2009), “Tác động của đô

thị hóa – công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và những biến dổi văn hóa –

xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc”. Tác giả phân tích quá trình đô thị hoá đang diễn ra

và có tác động như thế nào đến cuộc sống của người dân Vĩnh Phúc cũng như

chỉ ra những biến đổi trên “diện mạo” của tỉnh Vĩnh Phúc. Với kết cấu 5

chương, cuốn sách đã dựng lại bức tranh toàn cảnh mọi sự chuyển biến đã và

đang diễn ra trên mảnh đất Vĩnh Phúc gắn liền với quá trình Đổi mới đặc biệt

là về lĩnh vực văn hoá và xã hội. Qua đó những thông tin như: Tác động của

đô thị hoá, công nghiệp hoá đối với dân số, lao động việc làm, sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, thiết chế xã hội… đã được trình bày một cách hệ thống và chi

tiết trên cơ sở lý luận khoa học sắc bén với số liệu thống kê cụ thể. Ngoài việc

phân tích rõ sự chuyển biến mọi mặt của đời sống người dân dưới tác động

của quá trình đô thị hoá, công trình còn đề xuất những giải pháp và hướng

phát triển thiết thực cho từng lĩnh vực cụ thể, nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội

cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất để khuyến khích người dân làm kinh tế

tự nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chính mình.

Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nôn thôn và công nghệp hóa, quá trình

thu hồi đất nông nghiệp được các nhà nghiên cứu quan tâm. Các công trình

nghiên cứu có những đóng góp quan trọng vào việc làm sáng tỏ nhiều vấn đề

cụ thể: Các nghiên cứu đã chỉ ra sự biến đổi của nông thông trong quá trình

công nghiệp hóa, những nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông dân,

nông thôn, những vấn đề trong đổi mới của “tam nông”, vấn đề về quá trình

biến đổi nông thôn, về cơ sở hạ tầng, đời sống người dân, quá trình đồng

thuận/mâu thuẫn trong việc giải phóng mặt bằng cho công nghiệp phát triển,

những vấn đề giải quyết, hướng dẫn người nông dân trong quá trình công

nghiệp hóa cũng được đặt ra. Những vấn đề về an sinh xã hội, sinh kế cho

25

người nông dân cũng được đặt ra trong những nghiên cứu của các tác giả.

Các nghiên cứu trước đây đã phần nào mô tả các yếu tố ảnh hưởng đến

di cư lao động nông thôn, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi cơ

cấu lao động việc làm. Tuy nhiên trong nghiên cứu này ngoài yếu tố trực tiếp

nhãn tiền là người dân bị thu hồi đất nông nghiệp không còn tư liệu để sản

xuất thì các yếu tố khác được đi sâu nghiên cứu như tính năng động của các

hộ gia đình (nhận thức về lao động việc làm trong tương lai), kinh nghiệm

sản xuất sẵn có (các hộ gia đình trước khi thu hồi đất nông nghiệp đã có một

nghề nghiệp khác bên cạnh nghề nông nghiệp thì khác gì so với những hộ

thuần nông), các yếu tố về trình độ học vấn, giới, độ tuổi, địa bàn nghiên cứu

cũng được phân tích so sánh. Thông qua các phân tích tác giả sẽ tổng hợp

xây dựng mô hình hồi qui tuyến tính, có khả năng dự báo về sự thay đổi cơ

cấu lao động việc làm trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định. Trong các

nghiên cứu trước đây chưa có nghiên cứu nào phân tích theo mô hình hồi quy

để thấy được sự tác động của các nhân tố từ khách quan đến chủ quan người

lao động trong quá trình biến đổi về cơ cấu lao động việc làm ở khu vực thu

hồi đất nông nghiệp. Qua đó có thể bổ sung vào lý luận, đưa ra các giải pháp

thiết thực giảm thiểu những rủi ro đối với người nông dân xuất phát từ thực

tiễn nghiên cứu.

Các đề tài đã tập trung mô tả những biến chuyển lớn của nông nghiệp,

nông thôn, nông dân trong quá trình phát triển. Những kinh nghiệm xây dựng

nông thôn của các nước để có thể giữ một nông nghiệp bền vững. Các đề tài

cũng dự báo những biến đổi và những mô hình nông thôn mà nước ta có thể

áp dụng. Những biến đổi sâu sắc về nông thôn trong thời kỳ đổi mới đã phần

nào đó nâng cao khả năng, vị thế của người nông dân trong xã hội. Chúng tôi

chia sẻ những thay đổi đó trong lòng xã hội nông thôn nhưng thêm vào đó

trong nghiên cứu của luận án này sẽ phân tích sâu hơn sự “không xác

26

định/chuyển dịch vị thế xã hội” của một số người dân nông thôn khi họ

không còn tư liệu sản xuất trở thành lao động tự do hoặc chuyển hẳn sang

một nghề nghiệp mới.

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về di dân nông thôn.

Vấn đề thu hồi đất để xây dựng các khu KĐT, KCN, KCX và các tác

động của nó đến đời sống nông dân là vấn đề kinh tế - xã hội, di dân được

nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Quá trình di dân nông

thôn như một phương thức sinh kế mới của người lao động trong quá trình

công nghiệp hóa.

Một số nhà nghiên cứu di động xã hội trong bối cảnh tiền công

nghiệp H. Kaelble (1977) Historiacal reseach on social mobility (nghiên

cứu lịch sử về di động xã hội). Peter M. Blau và Otis D. Duncan nhìn

chung được xem như một ví dụ kiểm mẫu về nghiên cứu di động xã hội

theo nghĩa xem nó như là quá trình đạt vị thế với tác phẩm The American

Occupational Structure Cấu trúc ngành nghề Mỹ 1967, Mô hình đặt trọng

tâm có thể xếp thứ tự các ngành nghề theo một trật tự khá đồng nhất giữa

và trong lòng xã hội. Một khái niệm hẹp là uy tín nghề nghiệp được đưa ra

hay rộng hơn là vị thế về kinh tế -xã hội.

Ở Việt Nam nhiều tác giả cũng nghiên cứu về di dân từ rất sớm. Lê

Đăng Giang (1996), Vấn đề di chuyển lao động từ nông thôn thông qua phát

triển các cụm công nghiệp làng nghề: nghiên cứu trường hợp các cụm công

nghiệp làng nghề ở Bắc Ninh và Hà Tây, trong Kỷ yếu Hội thảo Việt Nam

học Quốc tế lần thứ 3, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra những luận điểm về quá

trình chuyển dịch lao động ở nông thôn khi phát triển các cụm công nghiệp

làng nghề. Người lao động nông thôn dành nhiều thời gian để làm các công

việc khác nhiều hơn so với nghề nông và thu nhập từ các nghề khác cao hơn

nghề nông. Đặc biệt trong các cụm công nghiệp làng nghề có một số lượng

lao động tự do rất lớn đến làm việc theo “công nhật” (làm ngày nào trả tiền

27

công ngày đó). Quá trình này tạo nên “Chợ lao động” ở làng nghề - một nét

mới trong nông thôn Việt Nam. Tham gia vào chợ lao động chủ yếu là thanh

niên và phụ nữ. Họ từ các vùng lân cận đổ về, đây là những người chưa có

việc làm ổn định. Khác với chợ phiên thông thường ở chỗ: hàng hóa ở đây

chính là "sức lao động" của con người; người lao động đem sức lao động của

mình làm hàng hóa. Đây là một sự kiện xã hội thực đang diễn ra, nó tạo ra

một hiện tượng xã hội mới ở nông thôn - "di cư con lắc trong ngày". Các làng

nghề đã tạo ra không chỉ cơ hội, mà cả việc làm cho một lực lượng lớn lao

động trẻ nông nhàn và góp phần giải phóng sức lao động đó, làm giảm áp lực

“dư thừa lao động trong nông thôn”. Quá trình chuyển dịch lao động từ nông

nghiệp sang công nghiệp đã và đang là một xu thế tất yếu ở nông thôn khi mà

thu nhập từ nông nghiệp thấp hơn so với công nghiệp.

- Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của đô thị hóa đối với lao

động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội”. Trong đó tác giả tập trung

nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của quá trình đô thị hóa tới lao

động, việc làm nông thôn nói chung, phân tích và đánh giá thực trạng tác

động của đô thị hóa tới lao động, việc làm nông thôn ngoại thành Hà Nội và

các giải pháp cơ bản cho vấn đề này

- Nguyễn Doãn Khải (2001), “Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước

ta”; Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Những nhân tố ảnh hưởng đến di cư tại các

tỉnh thành Việt Nam”; Tống Văn Chung (2005), “Những nhân tố kinh tế-xã

hội tác động đến sự chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình công

nghiệp hóa-hiện đại hóa”. Các tác giả đã khái quát và đưa ra được bức tranh

đa dạng về di chuyển của cư dân dưới những hình thức khác nhau trong giai

đoạn 1986-2010 ở nông thôn Việt Nam, nhằm đóng góp vào việc nhận thức

đúng về động thái chuyển cư ở nông thôn hiện nay. Một số chiều cạnh của đối

28

tượng nghiên cứu mang tính thời sự cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Các nghiên cứu đã hướng đế việc hệ thống

hóa những nhân tố kinh tế-xã hội chính tác động lên sự chuyển cư nông thôn

theo các hướng khác nhau dưới góc nhìn xã hội học trong giai đoạn đổi mới,

thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án cũng chỉ ra sự gia

tăng di chuyển của cư dân nông thôn dân cư trong quá trình xây dựng và phát

triển kinh tế xã hội trong thời kỳ Đổi mới.

Nguyễn Thị Hồng Xoan (2012), “Giới và di dân- Tầm nhìn châu Á” là

cuốn sách gồm nhiều bài viết phân tích về mối quan hệ giữa giới và quá trình

di dân trong sự phát triển công nghiệp hóa. Như là một kết quả tất yếu, xu

hướng di dân nông thôn thành thị đang tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng

và đang góp phần quan trọng vào sự gia tăng dân số đô thị hiện nay. Vấn đề

di dân hiện nay đã vượt qua tầm kiểm soát của mỗi quốc gia, và đã trở thành

vấn đề của khu vực khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh

mẽ. Sự xuất hiện mạnh mẽ của các khu công nghiệp nhẹ như may mặc giày

da, của các cơ sở dịch vụ đang cuốn hút nhiều lao động nữ vào các thành phố

lớn ở khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhìn chung ở các

nước đang phát triển ở châu Á, tỉ lệ nữ tham gia vào xu hướng di dân đang

tăng nhanh và vượt qua tỉ lệ nam giới di cư.

Tác phẩm đã phân tích những chiều cạnh từ tổng quan lý thuyết đến

những bức tranh hiện trạng sinh động của lao động trong quá trình chuyển cư.

Với nền móng là các tiếp cận lý thuyết và liên hệ thực tiễn trong di cư, tiếp đó

là một phân tích tổng quan về vấn đề giới và nghiên cứu di dân ở Việt Nam và

Đông Nam Á. Các phân tích về vấn đề luật, chính sách và thực tiễn của phụ

nữ đi lao động ngoài nước nhìn từ góc độ quyền và giới, điều kiện sống và

làm việc của người di cư ở Gurgaon, Ấn Độ, giới tính thứ hai và công dân

hạng hai – nữ công nhân nhập cư niềm Nam Trung Quốc dưới ảnh hưởng của

29

suy thoái kinh tế; tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến phụ nữ nhập

cư thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã mô tả thực trạng vấn đề giới và di

cư ở Châu Á hiện nay.

Như vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu về di cý từ những năm

1980 đã nghiên cứu các dòng di cư để xây dựng kinh tế mới. Sau đó là những

nghiên cứu năm 1990, năm 2000 được đăng tải. Các công trình nghiên cứu đã

tập trung vào phân tích các nguyên nhân và những tác động xã hội từ những

quá trình di dân. Bên cạnh đó các nguyên cứu cũng mô tả cuộc sống, công

việc và các hoạt động. Các công trình nghiên cứu trước đây thường tập trung

vào quá trình di dân nông thôn-đô thị với các nội dung như nguyên nhân của

quá t nh di dân, quá t nh di dân, sự di động theo mùa vụ của quá trình di dân.

Trong các nghiên cứu về di dân nông thôn các tác giả chưa chú trọng đến sức

lao động của người dân nông thôn trong thị trường lao động. Trong nghiên

cứu này sẽ phân tích quá trình di cư trong lao động việc làm khi làm nông

nghiệp không có thu nhập cao như các ngành khác

Tuy nhiên các nghiên cứu chưa chỉ ra di cư như một “chiến lược sống”

của người dân nông thôn khi họ mất đi tư liệu sản xuất, bên cạnh đó trong quá

trình lao động họ có sự dịch chuyển về vị trí, vị thế của mình trong cấu trúc

xã hội.

Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng khoa học và một số vấn đề

mang tính lý thuyết từ các công trình khoa học đã nghiên cứu. Tác giả sẽ đi

sâu tìm hiểu sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm của người dân nông

thôn sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp mà các đề tài trước còn chưa tìm hiểu

kỹ, những điểm mới trong quá trình biến đổi cơ cấu lao động việc làm. Cụ

thể tác giả tập trung vào những nội dung sau:

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thu hồi

đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp là một nhu cầu

30

cần thiết khách quan, điều này đã được các công trình nghiên cứu đề cập.

Tuy nhiên nhìn nhận đất nông nghiệp với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc

thù và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế nhất là đối với

người nông dân. Đất đai đối với người nông dân không đơn thuần chỉ là tài

sản mà nó còn là một giá trị, để xác lập vị thế xã hội của người dân nông

thôn. Khi không còn đất nông nghiệp để canh tác sản xuất thì họ cũng không

còn thực sự thuộc vào giai cấp nông dân mà chuyển dần sang một vị trí, một

vị thế xã hội khác. Sự di động xã hội về vị trí nghề nghiệp và sự di động về

khu vực làm việc của người dân sẽ thay đổi như thế nào sau quá trình thu hồi

đất. Qua đó có thể đưa ra những quan niệm mới, thuật ngữ mới bổ sung vào

hệ khái niệm nghiên cứu. Chính vì vậy đây là một trong những nội dung sẽ

được tiếp tục nghiên cứu trong Luận án.

1.3. Các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn

Từ rất sớm các nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã

được đề cập với các phân tích phong phú, kể cả trong các chính sách phát

triển của Chính phủ.

Quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề

án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Theo đó, mục tiêu

đặt ra là đến năm 2020 sẽ có khoảng 6 triệu lao động nông thôn được đào tạo.

Nguyễn Văn Hưởng, (2015), “Thực trạng công tác đào tạo nghề và giải

pháp hoàn thiện việc tổ chức thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động

nông thôn”. Đã có những phân tích sâu sắc về Kinh nghiệm đào tạo nghề cho

lao động nông thôn ở một số nước trên thế giới như ở các nước Nhật Bản,

Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan và Indonesia. Tất cả đều cho

thấy quá trình đào tạo nghề được phân cấp từ khi học sinh còn đang đi học và

tiếp tục được đào tạo cho người dân khi chưa có trình độ tay nghề để làm

trong các nhà máy xí nghiệp. Tiếp đó tác giả phân tích Tình hình đào tạo nghề

31

và đánh giá công tác tổ chức đào tạo nghề ở Việt Nam. Trong nội dung này

tác giả đi sâu phân tích Quá trình hình thành và phát triển hệ thống đào tạo

đào tạo nghề tại Việt Nam, Quy mô dạy nghề theo các trình độ đào tạo và

điều chỉnh cơ cấu nghề đào tạo, Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề

Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến

năm 2013 Đề án về đào tạo nghề, mạng lưới cơ sở đào tạo nghề nông nghiệp

cho lao động nông thôn cả nước có 1,355 cở sở tham gia công tác đào tạo

nghề cho lao động nông thôn, trong đó vùng Bắc trung bộ - và Duyên hải

miền Trung là có số lượng đơn vị tham gia lớn nhất với 294 đơn vị, sau là các

vùng như Trung du và Miền núi phía Bắc 287 đơn vị; ĐBSH với 279 đợn vị;

Tây Nam Bộ là 236 đơn vị; các vùng có số lượng đơn vị tham gia đào tạo

nghề thấp nhất là Tây Nguyên với 62 đơn vị và Đông Nam Bộ với 84 đơn vị

tham gia. Một số kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010

đến năm 2013, Theo Tổng cục thống kê, tính đến thời điểm 01/07/2012 cả

nước có 52,581,300 người trong độ 15 tuổi trở lên, trong đó tỷ lệ lao động

trong độ tuổi đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm 17,6%

tương đương với 2,987,573 người, Những điểm hạn chế, yếu kém ảnh hưởng

đến kết quả thực thi chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đồn

thời tác giả cũng đưa ra giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức thực thi chính

sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Phạm Thị Nga (2014) “Quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn

tại trung tâm dạy nghề huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”; Vũ Thị Minh Hòa

(2012), Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề lao động nông

thôn tỉnh Đồng Nai. Các nghiên cứu đã khảo sát thực trạng đào tạo nghề cho

lao động nông thôn tại địa phương để làm cơ sở đề xuất các giải pháp. Căn cứ

các thực trạng đã khảo sát, thống kê, phân tích số liệu tác giả đã đề xuất các

giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn Kết quả

32

nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ bỏ học tương đối cao chiếm 21%. Các cơ sở

đào tạo chủ yếu học lý thuyết mà ít được thực hành. Về phía người học gặp

nhiều khó khăn khi đi học trong đó khó khăn về tài chính chiếm tỷ lệ cao nhất

là 37,26%. Trình độ học vấn của lao động nông thôn còn thấp và không đồng

đều gây khó khăn cho giáo viên khi tham gia giảng dạy. Công tác đào tạo

nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh được sự quan tâm của các ban,

ngành, đoàn thể. Tỉnh đã thực hiện công tác dạy nghề cho lao động nông thôn

với các ngành nghề rất đa dạng nhưng chưa thực sự phù hợp với sự định

hướng phát triển của từng huyện. Tuy nhiên, cũng phần nào giúp người lao

động nông thôn giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao tay nghề và thu nhập.

Điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu chưa đáp ứng đầy đủ cho hoạt động dạy

nghề, năng lực đào tạo của cơ sở dạy nghề còn hạn chế về đội ngũ giáo

viên…Thời gian đào tạo cho hệ sơ cấp nghề qui định từ 3 tháng đến dưới 1

năm, tuy nhiên ở các nghề đào tạo, tất cả chương trình được xây dựng cho dạy

nghề hệ sơ cấp ở mức thời gian tối thiểu (tức đào tạo 3 tháng) nên kiến thức,

kỹ năng, thái độ của học viên có được sau khi kết thúc khóa học còn hạn chế.

Hiện nay, ở các trung tâm dạy nghề, các xã chưa theo dõi hay nắm bắt số học

viên sau khi tốt có việc làm là bao nhiêu %, thu nhập tăng thêm như thế nào…

Mặc dù kinh phí đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Đồng Nai trong

các năm qua nhiều, nhưng theo kết quả khảo sát mục đích học để chuyển đổi

nghề còn rất thấp, lao động nông thôn khi tham gia khóa học chưa có ý thức

học để có được một nghề trong tay để ổn định cuộc sống, nhiều người còn có

tâm lý học để biết, đi cho vui khi có thời gian rảnh rỗi và để được nhận tiền

hỗ trợ (tiền ăn, tiền đi lại) khi tham gia học nghề. Nhìn chung hiệu quả đào

tạo trong các năm qua còn thấp.

Kết quả nghiên cứu của Hội đồng Dân tộc (2013), “Kết quả thực hiện

chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm

33

2010 đến 2013”. Kết quả dạy nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu

số: Tổng số lao động nông thôn được học nghề là: 886,621 người, trong đó

lao động dân tộc thiểu số là: 223,792 người, chiếm tỷ lệ 25,24% so với tổng

số lao động được đào tạo. Tỷ lệ lao động dân tộc thiểu số trong độ tuổi được

đào tạo nghề theo Đề án 1956 là: 223,792/7,820,909 người, chiếm tỷ lệ 2,86%

(trong khi tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề của của cả nước là

37,3%). Tổng số lao động nông thôn sau học nghề có việc làm là: 620,028

người, đạt tỷ lệ 73,07% so với tổng số lao động đã học xong nghề.

Tỷ lệ lao động nông thôn, lao động dân tộc thiểu số tự tạo việc làm sau

khi học nghề chiếm tỷ lệ cao 63,1%; đặc biệt lao động học nghề nông nghiệp

tự tạo việc làm chiếm tỷ lệ rất cao (87,74%). Kết quả đào tạo nghề dưới một

năm của 32 tỉnh chỉ chiếm tỷ lệ 4,97% (938,930/18,874,910) so với lao động

trong độ tuổi. Kết quả đào tạo nghề dưới một năm của 26 tỉnh có đông đồng

bào dân tộc thiểu số: số lao động dân tộc thiểu số trong độ tuổi được đào tạo

nghề dưới một năm chỉ chiếm tỷ lệ 5,73% (277,659/4,850,247 người). Kết

quả đào tạo trình độ trung cấp nghề của 21 tỉnh có đông đồng bào dân tộc

thiểu số chỉ chiếm tỷ lệ 0,48% so với tổng số lao động dân tộc thiểu số

(18,641/3,887,043 người). Kết quả đào tạo trình độ cao đẳng nghề của 16 tỉnh

có đông đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm tỷ lệ 0,17% so với tổng số lao

động dân tộc thiểu số (6,016/3,445,927 người).

Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, lao động nông thôn vùng dân tộc

thiểu số được đào tạo chủ yếu là tập huấn, bồi dưỡng kiến thức sản xuất (dưới

3 tháng). Đặc biệt, thiếu các cơ chế, chính sách ưu tiên đối với người học

nghề là người dân tộc thiểu số. Một số quy định, định mức về hỗ trợ đào tạo

nghề cho lao động nông thôn, lao động dân tộc thiểu số chưa phù hợp, chưa

đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề tại địa phương. Về chủ quan, có thể thấy sự

thiếu thống nhất trong phối hợp về nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến đào

34

tạo và dạy nghề giữa các Bộ, nhất là mối quan hệ giữa Bộ LĐTB&XH (cơ

quan chủ trì thực hiện Đề án) với các Bộ, ngành. Chưa phát huy tốt vai trò của

các Bộ (như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Bộ

Giáo dục & Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Ủy ban Dân tộc…) tham gia chương

trình mục tiêu quốc gia về dạy nghề ở vùng nông thôn DTTS (hơn 70% lao

động DTTS làm nông nghiệp). Nhận thức của các cấp, các ngành chưa đầy

đủ; chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực cho LĐNT, LĐDTTS trong quá trình thực hiện các mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới tại địa phương. Tư tưởng

trông chờ, ỷ lại sự bao cấp, giúp đỡ của Trung ương còn nặng nề.

Các đề tài nghiên cứu ở quy mô lớn nhỏ khác nhau đã mô tả và phân

tích khá sâu sắc vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những thành

tựu đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá trình đào tạo nghề cho lao

động nông thôn để đề xuất hoàn thiện chính sách.

Tuy nhiên, nhận xét thấy có một điểm chung trong các khảo sát, nghiên

cứu trên tập trung mô tả đào tạo nghề cho lao động nông thôn mà chưa có phân

tích về giới trong đào tạo nghề. Không làm rõ tỷ lệ giới trong đào tạo nghề.

Lại Ngọc Hải (2006), “Về giải quyết việc làm cho nông dân ở những

nơi thu hồi đất”; Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (2009), Giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa; Phan Minh (2010),

“Một số giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn hiện nay”; Trần

Thị Minh Ngọc (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 Phạm

Mạnh Hà (2013) “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Niinh

Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Trình bày một số vấn đề lý luận và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm

của nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực trạng việc

35

làm của nông dân dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn

2000-2007 cũng như một số giải pháp tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông

dân trong vùng đến năm 2020, Các tác giả đã phân tích số lượng diện tích đất

trồng trọt ở nhiều địa phương tiếp tục bị thu hẹp. Bên cạnh một bộ phận nông

dân chuyển đổi nghề nghiệp, nảy sinh tình trạng một bộ phận nông dân có

diện tích đất bình quân đầu người vốn đã thấp (đặc biệt là đồng bằng sông

Hồng), nay càng thấp hơn. Sau đền bù, giải tỏa, đời sống, việc làm của hàng

triệu nông dân (con số ước tính) thuộc những vùng đất bị thu hồi đang là vấn

đề bức xúc. Cả nước có 36 tỉnh, thành phố có các khu công nghiệp, khu chế

xuất đi vào hoạt động. Quá trình đó đã tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao

động. Tuy nhiên số đó quả còn quá thấp so với số nông dân trong diện thu hồi

đất, đòi hỏi chúng ta cần có các biện pháp giải quyết đồng bộ và khả thi. Cần

coi đây là vấn đề thuộc trách nhiệm của cả xã hội. Trong các phân tích các tác

giả chỉ rõ việc xây dựng những chính sách đồng bộ và trách nhiệm các nhà

đầu tư (các chủ thể kinh tế được cấp hoặc thuê đất) cùng hợp sức giải quyết.

Theo đó, phân rõ trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi chủ thể, có chế tài đủ mạnh,

chỉ đạo tập trung và thống nhất, kiểm tra sâu sát, thật sự dân chủ và công khai

trong quá trình tổ chức thực hiện. Giải quyết tốt việc làm cho người nông dân

vùng bị thu hồi đất canh tác để thực hiện CNH là một trong những mắt xích

quan trọng góp phần làm cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

ở nước ta phát triển vững chắc và toàn diện.

Nguyễn Hữu Dũng (2005), “Thị trường lao động và định hướng nghề

nghiệp cho thanh niên”; Tổng cục Dạy nghề (2007), “Thị trường lao động

việc làm của lao động qua đào tạo nghề”. Các nghiên cứu trình bày hệ thống

một số vấn đề về thị trường lao động và định hướng nghề nói chung và cho

thanh niên nói riêng; làm rõ mối quan hệ giữa thị trường lao động và người

dân được đào tạo nghề cũng như thanh niên; đánh giá thực trạng này đồng

36

thời dự báo cung, cầu lao động đến 2010; khuyến nghị các giải pháp phát

triển thị trường lao động, định hướng nghề nghiệp và việc làm cho thanh niên

thời gian tới.

Ngô Anh Ngà (2003), “Tạo việc làm tại chỗ, hướng khắc phục tình

trạng nông dân bỏ quê lên thành phố kiếm sống”; Phạm Lê Mai (2009), “Tạo

việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình

đô thị hóa ở quận Cầu Giấy”; Nguyễn Văn Đại (2012), “Đào tạo nghề cho lao

động nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ Công nghiệp hóa-

Hiện đại hóa.”; Đề án “Một số giải pháp hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, đào

tạo nghề và việc làm cho các hộ dân vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất

nông nghiệp”. Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề (2001) “Mô hình dạy nghề

và giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng

đất”. Trên cơ sở số liệu thực tế nghiên cứu tại các vùng nông thôn, các phân

tích đã đánh giá những thành tựu căn bản đạt được ở các khu vực nông nghiệp

nông thôn trong quá trình CNH, HĐH. Khu vực nông thôn hiện có khoảng 24

triệu lao động. Nhưng trên thực tế, người lao động chỉ sử dụng khoảng 80%

thời gian làm việc; 20% thời gian còn lại (tương đương với 4,8 triệu lao động)

nhàn rỗi. Theo dự báo, trong 5 năm tới, số lao động ở khu vực nông thôn tăng

thêm 5 triệu người, cùng với khoảng 2,5 triệu người mất việc do đất nông

nghiệp chuyển đổi mục đích trong quá trình đô thị hóa và CNH, HĐH; cộng

với số lao động quy đổi do chưa sử dụng hết thời gian lao động, cả nước có

tới 12,3 triệu người cần việc làm. Như vậy, giải quyết việc làm cho cư dân

nông thôn vốn là vấn đề xã hội bức xúc, trong 5 năm tới lại trở nên bức xúc

hơn. Vấn đề này nếu không được giải quyết tốt sẽ cản trở đến sự phát triển

KT-XH của đất nước, tác động trực tiếp đến việc giữ gìn an ninh chính trị, trật

tự, an toàn xã hội. Bởi lẽ hiện nay, lao động nông thôn không chỉ chiếm tỷ

trọng cao, cơ cấu mất cân đối, mà còn hạn chế về tay nghề (có tới 72,5% chưa

37

qua đào tạo). Do kinh tế nông thôn về cơ bản là thuần nông, lao động theo

thời vụ, ngành nghề phát triển chậm, nên sau khi thu hoạch mùa màng, nhiều

người không có việc làm, phần lớn phải đi tìm việc ở các đô thị và khu vực

tập trung công nghiệp (có địa phương chỉ còn 20 - 30%, trong đó chủ yếu là

người già và trẻ em). Các nghiên cứu cũng đi sâu phân tích sâu phương diện

chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng đời sống nông dân. Bài viết cho

rằng để làm tăng thêm hiệu quả của những chủ trương, chính sách, đề án của

Đảng và Nhà nước về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng cuộc

sống thì dạy nghề cho nông dân là một giải pháp cần phải đặc biệt quan tâm.

Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra một số những khó khăn, thách thức gặp phải

khi thực hiện chủ trương này. Đồng thời cũng tìm ra những hạn chế trong vấn

đề này và đề xuất giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động giải

quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn đến năm 2020,

Như vậy các đề tài nghiên cứu ở quy mô lớn nhỏ khác nhau đã mô tả và

phân tích khá sâu sắc vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Những

thành tựu đạt được và những hạn chế, khó khăn trong quá t nh đào tạo nghề

cho lao động nông thôn để đề xuất hoàn thiện chính sách. Các công trình

nghiên cứu đã tập trung phân tích quá trình đào tạo nghề cho nông thôn theo

các chương trình dự án của Nhà nước. Ngoài những kết quả được tổng kết về

công tác đào tạo nghề cho người dân nông thôn thì các các đề tài cũng nêu bật

những mặt còn hạn chế trong quá trình đào tạo. Những bất cập đó là những

quá trình đào tạo còn mang nhiều tính hình thức, chất lượng chưa cao, nghề

nghiệp được đào tạo chưa thực sự gắn với những biến đổi của nền kinh tế thị

trường. Trong quá trình nghiên cứu tác giả đồng ý với các phân tích của các

đề tài. Thêm vào đó trong đề tài chúng tôi sẽ phân tích sâu hơn hiệu quả của

quá trình hỗ trợ nông dân đào tạo nghề.

Tuy nhiên các phân tích thể hiện tầm vĩ mô bên cạnh đó mới chỉ đánh

38

giá công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các đề tài chưa thực sự đi

sâu vào phân tích những biến đổi từ quá trình đào tạo nghề. Đặc biệt chưa

phân tích mảng đào tạo nghề cho người dân bị nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp. Bên cạnh đó tính bền vững của các khóa tập huấn đào tạo nghề, hiệu

quả của các công tác này trong những năm tiếp theo cũng chưa thực sự được

phân tích một cách rõ ràng. Đồng thời thái độ, quan điểm, đánh giá của người

dân trong công tác đào tạo nghề chưa thực sự được phân tích kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, nhận xét thấy có một điểm chung trong các khảo sát, nghiên

cứu trên tập trung mô tả đào tạo nghề cho lao động nông thôn mà chưa có phân

tích về giới trong đào tạo nghề. Không làm rõ tỷ lệ giới trong đào tạo nghề.

1.4. Các nghiên cứu về thực trạng lao động, việc làm nông thôn ở

khu vực nông thôn có thu hồi đất nông nghiệp

Ở đề tài Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động

nông thôn Việt Nam do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tiến hành

trong khuân khổ dự án IAE- MISPA/ hợp đồng nghiên cứu số 2005/IAE/SF/002,

Nghiên cứu tiến hành năm 2006 do nhóm tác giả Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh

Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Lưu Đức Khải.

Phần đầu của đề tài đi vào mô tả sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông

thôn ở các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Mông Cổ, Trung Quốc để so

sánh đối chiếu với Việt Nam.

Trong đề tài này nhóm tác giả tập trung phân tích thực trạng chuyển

dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam và các yếu tố tác động đến quá

trình chuyển dịch đó trong thời gian 15 năm kể từ 1990 đến 2006, Đây là một

tác phẩm quan trọng để Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của các nước.

Trong nước các đề tài rất chú trọng tới lao động việc làm của người dân

nông thôn. Các tác giả đã đi sâu phân tích theo nhiều khía cạnh khác nhau.

Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn – thực trạng và giải

39

pháp” Nguyễn Văn Nam (2009), “Việc làm của nông dân sau khi thu hổi đất”;

Trần Quang Tuyến (2014), “Đất đai,việc làm phi nông nghiệp và mức sống

hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô”

Vũ Hào Quang, Trương Ngọc Thắng, Vũ Thùy Dương (2013), “Biến

đổi xã hội nông thôn trong quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô

thị hóa”, trong đề tài này nhóm tác giả đã phân tích quá trình dồn điền đổi

thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa tác động đến làm biến đổi xã hội nông

thôn. Cụ thể, quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất và đô thị hóa làm

biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, biến đổi quan hệ lao động nông thôn.

Tại chương 4 của đề tài có phân tích vấn đề dư thừa lao động, thất

nghiệp do chuyển đổi đất nông nghiệp thành công nghiệp. Tình trạng thu hồi

đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp đã làm cho nông dân thiếu việc

làm, thất nghiệp và dư thừa lao động.

Nguyễn Hữu Dũng (2006), “Nghiên cứu thực trạng thu nhập, đời sống

và việc làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp,

khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu cộng đồng và lợi

ích quốc gia”. Trong nghiên cứu tác giả đã trình bày một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, thực trạng, quan điểm và giải pháp về thu nhập, đời sống, việc làm

của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia

Các luận án nghiên cứu về quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của

người dân nông thôn sau khi thu hồi đất như: Nguyễn Văn Nhường (2011),

“Chính sách An sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để

phát triển các khu công nghiệp”. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của

đô thị hóa đối với lao động, việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội” Trần

Thị Lan (2013), “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để

xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”; Phạm Thị

40

Hương (2013), “Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng Bằng Sông Hồng

trong quá t nh CNH- HDH nông nghiệp, nông thôn”; Khúc Thị Thanh Vân

(2102) “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ ở nông thôn đồng

bằng Sông Hồng hiện nay”. Các luận án đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn

về thu hồi đất nông nghiệp. Đặc biệt là tác động của nó đến các nhóm lợi ích

có liên quan. Đánh giá đúng thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và tác động

của nó đến các nhóm lợi ích ở các địa bàn được nghiên cứu. Rút ra những

thành tựu, những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Đề xuất định hướng thu hồi đất

nông nghiệp và các giải pháp giải quyết các xung đột lợi ích trong quá trình

chuyển đổi đó. Luận án đã đi sâu nghiên cứu các cơ sở khoa học của sự

chuyển đổi, làm rõ các vấn đề kinh tế xã hội nả y sinh, cơ sở của sự thay đổi

lợi ích và lợi ích nhóm; chỉ rõ các can thiệp vĩ mô để đảm bảo hài hòa về lợi

ích giữa các nhóm liên quan đến quá trình chuyển đổi.

Quá trình thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra những

thách thức đối với người dân nông thôn trong quá trình sinh kế. Người dân

không còn tư liệu sản xuất bắt buộc họ phải tìm kế sinh nhai mới. Quá trình

này gần như là một quá trình bị động khiến người dân khó có thể chuẩn bị kịp

về cả tâm thế thái độ cũng như những kỹ năng cần thiết để có thể thích ứng

với điều kiện mới.

Nguyễn Bình Giang (2012),“Tác động xã hội vùng các khu công

nghiệp ở Việt Nam”. Cuốn sách đã khái quát sự phát triển các KCN tại Việt

Nam, đến năm 2010 cả nước đã có 173 KCN đi vào hoạt động, trung bình

mỗi KCN xấp xỉ 253 ha, vùng Đông Nam Bộ có diện tích KCN lớn nhất cả

nước 33,290 ha. Các KCN đã đem đến nhiều tác động tích cực như khoản đền

bù đất cao hơn khi sử dụng đất nông nghiệp, nếu sản xuất đất nông nghiệp ở

Vĩnh Phúc mỗi năm nông dân thu được 900 nghìn đồng/sào, nông dân nhận

tiền đền bù đất 30 triệu, bằng 50 vụ lúa, 25 năm canh tác của người nông dân,

41

hoặc nông dân có điều kiện về việc làm trực tiếp và gián tiếp từ KCN, đem lại

thu nhập cao, cải biến đời sống, ví dụ sau thu hồi đất, số nhà mái bằng tăng

31,1%, nhà hai tầng 5,7%, các tiện nghi tăng 2-3 lần so với trước thu hồi.

Nhưng mặt tiêu cực của việc xây dựng các KCN cũng không nhỏ, tác động

đến thu nhập, việc làm và môi trường sống, môi trường xã hội, vì vậy cần giải

quyết vấn đề đó. Cuốn sách mở hướng nhìn rộng hơn khi tìm hiểu các kinh

nghiệm ở các nước Đông Á. Các tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị: Cần

chuyển mục đích sử dụng đất; giúp nông dân chuyển đổi nghề; phát triển công

nghiệp xanh và cung cấp hàng công cộng.

Công trình khoa học cấp Nhà nước KX.01 – 2005 của trường Đại học

Kinh tế Quốc dân về “Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong

quá trình CNH, HĐH và ĐTH”. Theo số liệu điều tra của Đại học Kinh tế

quốc dân tốc độ thu hồi đất để xây dựng KCN và đô thị tăng nhanh, ví dụ đến

năm 2003 tổng diện tích đất thu hồi là 18,240 ha, riêng giai đoạn 2001 – 2003

là 6,500 ha, dự kiến sẽ tăng khi những năm tới các tỉnh thành trong cả nước

vẫn tiếp tục kiến nghị đưa vào quy hoạch xây dựng KCN, khoảng 35,000 ha.

Tác phẩm trên đã chỉ ra những bất cập khi nông dân không còn đất canh tác,

do không được đào tạo nên phần lớn không có việc làm và thu nhập. Cần phải

giải quyết vấn đề đó, bằng các chính sách như: chính sách đền bù, hỗ trợ, tái

định cư và chính sách tạo việc làm cũng như trách nhiệm của các doanh

nghiệp trong thu hồi đất.

Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010, của Học viện Chính trị - Hành chính

khu vực I, do Trần Thị Minh Ngọc làm chủ nhiệm, “Nghiên cứu về giải quyết

việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội”. Các tác giả đã

chỉ rõ tác động của nó đến việc phát triển của thị trường lao động. Lao động

làm công ăn lương có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động, thì 80% tập

trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn và KCN). Tuy nhiên,

42

thu hồi đất xây dựng KCN, KĐT đã làm cho 2,5 triệu nông dân không có việc

làm. Khu vực ngoại thành Hà Nội đến năm 2009 đã thu hồi 24,400 ha đất, số

lao động mất việc từ đó khoảng 40,000 người; Nhà nước cần có chính sách

tạo điều kiện để nông dân bị thu hồi đất có việc làm lâu dài, tạo việc làm tại

chỗ cho lao động trên 35 tuổi.

Đề tài khoa học cấp cơ sở, của Viện nghiên cứu quyền con người, do

Đặng Dũng Chí chủ trì, “Nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các hộ

nông dân bị thu hồi ở đồng bằng Sông Hồng”. Qua tìm hiểu thực trạng việc

làm cho nông dân mất đất và những khó khăn trong mưu sinh của những

người nông dân không còn đất canh tác, tại các vùng đồng bằng sông Hồng,

đề tài đã đưa ra những luận cứ về bảo vệ quyền lao động của nông dân bị thu

hồi đất. Lao động là quyền cơ bản nhất của con người, Nhà nước ta, trong quá

trình thu hồi đất phải có những chính sách cụ thể đảm bảo quyền lao động của

nông dân không còn đất.

Công trình của Chu Văn Cấp về “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác

động của chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH,

HĐH”, đã đề cập vấn đề nông dân không có việc làm khi mất đất, sử dụng đất

đai sai mục đích và ô nhiễm môi trường. Tác giả nêu lên thực trạng: có 37,7%

số người bị mất đất có thu nhập thấp hơn khi còn đất, thất nghiệp tăng từ

5,22% lên 9,1%, được nhận vào làm ở KCN chỉ có 2,79%. Hơn nữa quản lí

đất đai chưa chặt chẽ, đã có hàng trăm ha đất không sử dụng đúng mục đích,

làm cho các khiếu kiện về đất đai chiếm 85% trong số đơn kiện trình Quốc

hội, vi phạm về bảo vệ Môi trường lên tới 12,000 cơ sở trong cả nước… Qua

đó cần có giải pháp như: tăng cường đầu tư nông nghiệp, dạy nghề cho nông

dân và hoàn thiện chính sách thu hồi đất.

Nhóm tác giả Lê Viết Thuận, Phan Thị Ngọc đã nghiên cứu về: Tác

động của chính sách thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng

43

đất đai tới việc làm và quan hệ xã hội (qua trường hợp thôn Gia Trung, xã

Quang Minh, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Công trình đã phân tích những

biến động trong đời sống xã hội của một địa phương nhỏ vào thời kì đầu thu

hồi đất ở huyện Mê Linh 2001 – 2004, Năm 2001, tại thôn Gia Trung, đã thu

hồi 90% diện tích đất nông nghiệp để xây dựng KCN và KĐT, làm 50% tổng

số lao động không có việc làm, các quan hệ xã hội bị thay đổi không như

mong muốn. Phương pháp phân tích tài liệu được các tác giả thu thập, phân

tích, xử lý từ nhiều nguồn khác nhau: (i) Các quy định trong văn bản pháp

luật của Nhà nước; (ii) Các Nghị quyết, văn kiện của Đảng; (iii) Từ kết quả

khảo sát, điều tra xã hội học; (iv) Từ tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về

bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất; (v) Từ các công

trình, bài viết của các tác giả trong nước; (vi) Từ các trang website; (vii) Từ

các tài liệu nước ngoài,… cho thấy những công trình nghiên cứu của các tác

giả đi trước cũng đã đề cập bức tranh khá toàn diện và "đa màu sắc" về bồi

thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi. Các phương pháp phỏng vấn,

phương pháp thảo luận, phương pháp chuyên gia, khảo cứu điền dã được sử

dụng để thu thập các thông tin thực tễ. Các tác giả đã sử dụng các phương

pháp điều tra của xã hội học nhưng những cách tiếp cận thực chứng để mô tả

đúng về cuộc sống, việc làm, thái độ, hành vi, sự biến đổi trong lòng xã hội

trong quá trình người dân bị thu hồi đất nông nghiệp.

Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập ảnh hưởng của việc thu hồi

đất đến đời sống của nông dân, trên nhiều mặt như: việc làm, thu nhập, về

định giá đền bù, hỗ trợ nông dân mất đất… Luận văn này kế thừa các kết quả

nghiên cứu ấy nhưng nhấn mạnh sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực

của quá trình thu hồi đất cho CNH, HĐH và ĐTH đối với đời sống nông dân,

để tìm những giải pháp thích hợp cho việc phát huy mặt tích cực và hạn chế

tiêu cực của quá trình này tại huyện Mê Linh.

44

- Tác giả Phạm Thu Thủy (2011), (2012), (2013), (, (2014), với một loại

các bài viết và công trình nghiên cứu về bồi thường trong thu hồi đất nông

nghiệp đối với người dân nông thôn. Trong đó tác giả đã phân tích Tác động

tích cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân. Một mặt thu hồi đất nông

nghiệp tạo cơ hội để tăng thêm việc làm cho người lao động. Việc thu hồi đất

hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị sẽ tạo ra nhu cầu về việc làm tăng,

nhiều ngành nghề mới ra đời tạo khả năng giải quyết công ăn việc làm cho

nông dân sau thu hồi đất nói riêng và cho lao động xã hội nói chung. Mặt

khác, đô thị xuất hiện, các nhà máy phát triển cũng làm cho "cầu" về nguyên

vật liệu, "cầu" về nông sản phẩm (lương thực thực phẩm) tăng, Sự phát triển

của các khu công nghiệp và đô thị một mặt sẽ tạo ra một lượng lớn việc làm

cho lao động tại đây, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động

nông nhàn góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này Thúc đẩy

nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động Tác động tích cực tới

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do đó tới cơ cấu lao động. Tuy nhiên Tác động

tiêu cực của thu hồi đất đến việc làm của nông dân Đất đai canh tác nông

nghiệp bị thu hẹp tạo ra sức ép việc làm đối với người lao động. Thu hồi đất

nông nghiệp làm nguy cơ thất nghiệp của nhóm người lao động ở độ tuổi trên

35 là rất lớn. Ở hầu hết các địa phương, số lượng lao động trên 35 tuổi chiếm

tỷ lệ lớn (35%). Trong sản xuất nông nghiệp, đây là lực lượng có kinh nghiệm,

song khi bị thu hồi đất thì đây là bộ phận có nguy cơ thất nghiệp kéo dài lớn

nhất vì tuổi cao nên khả năng được tuyển vào các doanh nghiệp rất ít và khó

thích nghi với những công việc mới. Trong khi đó, ở độ tuổi này, số lao động

chưa qua đào tạo rất nhiều và việc tham gia các khoá đào tạo chuyển nghề đối

với họ cũng không dễ dàng như đối với lao động trẻ. Số lao động này thực tế

rất khó để tìm được việc làm mới. Do không có việc làm ở nông thôn sau khi

bị thu hồi đất, dòng người đi vào thành phố kiếm việc làm ngày một tăng gây

45

ra nhiều hiện tượng tiêu cực, tiềm ẩn sự bất ổn trong xã hội.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), "Báo cáo về tình

hình thu hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; Bộ

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2008), “ Báo cáo về thực trạng thu

hồi đất nông nghiệp”; Bộ Tài Nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo tổng

kết thi hành Luật Đất đai và định hướng sửa đổi Luật Đất đai, Bộ Tài

nguyên và Môi trường (2012), “ Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và

pháp luật đất đai.”; Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), “ Báo cáo về tình

hình sử dụng đất nông nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới

và đời sống của người dân có đất bị thu hồi”. Báo cáo phân tích và đánh giá

chủ trương, chính sách về thu hồi đất nông nghiệp xây dựng các khu công

nghiệp, khu đô thị mới; thực trạng sử dụng đất nông nghiệp xây dựng các khu

công nghiệp, khu đô thị mới và sự tác động của quá trình thu hồi đất nông

nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới đối với đời sống của

người dân có đất bị thu hồi. Các báo cáo này đã đưa ra những số liệu rất cơ

bản về tình hình thu hồi đất của nông dân thời gian qua, chỉ ra những kết quả

đạt được cũng như những tồn tại bất cập cần khắc phục, trong đó cũng đề cập

vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân sau thu hồi đất. Theo số liệu điều tra

của Bộ NN & PTNT năm 2010 tại 16 tỉnh trọng điểm về thu hồi đất, diện tích

đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm khoảng 89% và diện tích đất thổ cư chiếm

11%. Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích đất bị thu hồi lớn nhất,

chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước, tỷ lệ này ở Đông

Nam Bộ là 2,1%, ở nhiều vùng khác là dưới 0,5%. Những địa phương có diện

tích đất thu hồi lớn là Tiền Giang (20,308ha), Đồng Nai (19,752ha), Bình

Dương (16,627ha), Quảng Nam (11,812ha), Cà Mau (13,242ha), Hà Nội

(7,776ha), Hà Tĩnh (6,391ha), Vĩnh Phúc (5,573ha). [38, Tr.436]

Các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thế Nhã (1998), "Thực trạng

46

sản xuất và đời sống của hộ nông dân không đất và thiếu đất ở Đồng bằng

sông Cửu Long”; Nguyễn Đình Hương (1999), “Sản xuất và đời sống của

các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long -

Thực trạng và giải pháp”; Nguyễn Sinh Cúc (2008), “Phát triển khu công

nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”.

Các nghiên cứu đã chỉ ra quá trình sản xuất của các hộ nông dân gặp nhiều

khó khăn trong sản xuất. Những hộ thiếu đất hoặc không có đất thường sẽ

phải thuê/mướn đất để sản xuất. Trong quá trình phát triển các khu công

nghiệp thì các khu công nghiệp tập trung đã đóng góp rất quan trọng vào sự

phát triển chung, vào nguồn ngân sách trung ương và địa phương. Tuy

nhiên, bên cạnh mặt tích cực cũng nảy sinh các vấn đề xã hội bức xúc: do

thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, hàng chục nghìn hộ nông dân

mất đất sản xuất, thiếu việc làm nên thu nhập thấp và giảm dần; các tệ nạn

xã hội phát triển; môi trường sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng; có sự

phân hóa về thu nhập và đời sống trong nội bộ dân cư nông thôn. Khi các

khu công nghiệp mọc lên, đất nông nghiệp giảm xuống.

Hồ Khánh Thiện (2006), “Nông dân đối mặt với thất nghiệp”, Đào

Thế Tuấn (2006), "Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước ta

hiện nay", Nguyễn Lân Dũng (2009), “Bất cập trong sử dụng đất nông

nghiệp”; Tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của quá trình công nghiệp

hóa đô thị hóa trên những “bờ xôi ruộng mật”. Những ruộng nhất đẳng

điền, toàn những bờ xôi ruộng mật bị lấy đi để xây dựng các khu công

nghiệp, khu chế xuất, sân golf hoặc xây các khu nhà để kinh doanh. Việc

làm và thu nhập của các hộ sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, là

đối tượng bị tác động lớn nhất sau khi thu hồi đất và gặp nhiều khó khăn

trong tìm kiếm việc làm mới. Trong quá trình bồi thường, hỗ trợ tái định

cư, nhiều nơi lại thiên về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư mà chưa cân đối

47

quyền lợi với người dân bị thu hồi đất.

Đỗ Đức Quân (2010), “ Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững

nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ - Trong quá trình xây dựng, phát triển các

khu công nghiệp”. Giới thiệu các vấn đề lý luận về phát triển bền vững nông

thôn trong quá trình xây dựng, phát triển khu công nghiệp. Trình bày về thực

trạng, phương hướng và một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông thôn

đồng bằng Bắc Bộ trong qua trình xây dựng, phát triển khu công nghiệp.

Lưu Song Hà (Chủ biên) (2009), “Điều tra điểm tâm lý nông dân bị

thu hồi đất làm khu công nghiệp” Đây là một Khảo sát thực tiễn về một số

vấn đề tâm lí của người nông dân có đất bị thu hồi để xây dựng khu công

nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và các kết quả khảo sát đề xuất một số

kiến nghị nhằm tạo điều kiện để người nông dân bị thu hồi đất thích ứng

nhanh chóng và hiệu quả với những thay đổi nảy sinh từ việc xây dựng khu

công nghiệp tại địa phương.

Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (Đồng chủ biên) (2009), “Hậu

giải phóng mặt bằng ở Hà Nội - Vấn đề và giải pháp”,. Giới thiệu công tác tư

tưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng trong giải phóng mặt

bằng. Thực trạng công tác tư tưởng trong giải phóng mặt bằng ở Hà Nội (từ

2000-2006). Phương hướng và giải pháp chủ yếu trong giải phóng mặt bằng ở

thủ đô trong thời gian tới.

Nguyễn Thị Thuận An (2012), “Nghiên cứu tổng quan các chính sách,

quy định pháp lý về bồi thường, hỗ trợ,tái định cư của Nhà nước ta từ khi có

Luật đất đai 2003 đến nay”. Thu thập tài liệu, số liệu về công tác bồi thường,

GPMB dự án xây dựng khu đô thị mới tại quận Hải An. Đánh giá, phân tích

thực trạng công tác thu hồi đất, GPMB, và những ảnh hưởng của nó đến

người dân bị thu hồi đất. Rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp

cho công tác thu hồi đất, GPMB ở thành phố Hải Phòng hiện nay.

48

Đỗ Đức Quân (2010), “Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông

thôn vùng đồng bằng Bắc bộ - Trong quá trình xây dựng, phát triển các khu

công nghiệp” Qua khảo sát một số vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ - một

trong những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, tác giả cuốn sách đã góp

phần nhận diện thực trạng của tình hình thiếu việc làm, giảm sút chất lượng

môi trường sống ở những vùng nông thôn bị thu hồi đất làm khu công nghiệp,

đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tìm ra hướng giải quyết

phát triển bền vững nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ hiện nay.

Các nghiên cứu đã chỉ ra thực trang việc làm của người nông dân trong

những thời gian qua. Mô tả những công việc mà người dân nông thôn đã làm

để sinh kế. Người dân nông thôn phải đối mặt với những tình trạng thất

nghiệp, thiếu việc làm, việc làm bấp bênh. Họ bị đẩy ra trong quá trình công

nghiệp hóa. Quá trình công nghiệp hóa nông thôn đã và đang là một quá trình

biến đổi mà trong đó đó người dân nông thôn đã từng là người quan trong

trọng quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nhưng hiện nay khi quá

trình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra họ đang bị đẩy ra khỏi nông thôn, vị trí

và vai trò của họ dần mờ nhạt. Chính vì vậy cần có phân tích sâu sắc hơn

không chỉ là mô tả một cách đơn thuần lao động việc làm của người dân nông

thôn mà thêm vào đó là những vị trí, vị thế xã hội kèm theo của người dân lao

động nông thôn hiện nay. Dù cách tiếp cận vấn đề có thể khác nhau, những

phân tích và nhận định vấn đề có thể ở những góc nhìn khác nhau song đa số

các công trình nghiên cứu về vấn đề lí luận bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất đã đề cập ở trên, mới chỉ chú trọng đến việc đưa ra khái

niệm. Chưa đi sâu vào những bất cập trong công tác đền bù. Hiện nay công

tác đền bù thu hồi đất đa phần được “qui đổi” thành tiền. Mặc dù quá trình

đền bù có nhiều qui định về các khoản đền bù khác nhau cũng như những

cách thức đền bù khác nhau nhưng các đề tài chưa thực sự đi sâu vào phân

49

tích. Bên cạnh đó quá trình công khai, minh bạch, về các chính sách, về qui

trình còn chưa được phản ánh một cách kỹ càng. Dẫn đến người dân chưa có

một tâm thế tốt cho quá trình tiếp theo. Các đề tài chưa phân tích rõ về những

bất hợp lý trong công tác đền bù đất cho người dân.

Các công trình nghiên cứu về thực trạng cơ cấu lao động việc làm đã

phác họa việc làm của người dân nông thôn. Sự mô tả về nghề nghiệp của

người dân lao động nông thôn được các đề tài đề cập tương đối đa dạng.

Đồng thời các công trình nghiên cứu cũng mô tả các nguyên nhân như sự

chuyển đổi đất nông nghiệp, quá trình đô thị hóa vùng ven đô, do làm nông

nghiệp thuần túy mang lại thu nhập không cao. Trong đề tài này tác giả tập

trung tìm hiểu biến đổi cơ cấu lao động việc làm dưới ảnh hưởng của quá

trình thu hồi đất nông nghiệp. Quá trình người nông dân mất đi tư liệu sản

xuất vừa tạo ra cơ hội để người dân nông thôn thay đổi nghề nghiệp của mình

nhưng cũng tạo nên thách thức đưa đẩy người dân nông thôn thành người thất

nghiệp vì họ khó/không có khả năng kiến tạo việc làm mới. Với những quan

điểm lý thuyết về lao động, thị trường lao động, tiền lương gắn với quan điểm

biến đổi các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất sẽ làm biến đổi xã hội sẽ được

tác giả vận dụng để chứng minh cũng như có thể làm sáng tỏ hơn sau quá

trình nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu tập trung phân tích sự biến đổi

lao động, việc làm nói chung, ít có phân tích sâu khía cạnh tác động về giới

trong quá trình biến đổi. Khả năng thích ứng, chuyển đổi việc làm, xu hướng

dịch chuyển lĩnh vực lao động còn chịu tác động của quá trình phân công lao

động theo giới trong gia đình.

Các công trình trước hầu hết chỉ nói đến hiện trạng nghề nghiệp, mục

đích sử dụng tiền đền bù, thực trạng đời sống kinh tế của các hộ gia đình sau

thu hồi đất tuy nhiên chưa có công trình nào nói đến tâm thế đón nhận sự

thay đổi về việc sẽ không còn tư liệu sản xuất. Quá trình thu hồi đất tạo ra

50

sức ảnh hưởng lớn đến nhận thức thái độ và tâm trạng xã hội của người nông

dân. Một mặt người dân phấn khởi vì có một khoản tiền rất lớn từ đền bù đất

nông nghiệp và những tài sản/hoa màu gắn liền với đất, các thế hệ sau sẽ

không phải vất vả làm nông nghiệp như cha ông, sẽ có nhiều khu công

nghiệp được xây dựng và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế xã hội địa phương

nói chung. Nhưng mặt khác sau đó là những lo lắng về việc làm, tiền đền bù

tiêu cũng hết, về cơ bản các sản vật lương thực đều phải mua, các tệ nạn xã

hội nảy sinh...Nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích tìm hiểu những tâm thế mà các

hộ gia đình chuẩn bị trước những thay đổi của xã hội.

Khi người dân nông thôn không còn đất canh tác quá trình chuyển biến

về cấu trúc lao động việc làm là một quá trình tất yếu không thể tránh khỏi.

Luận án sẽ đi sâu tìm hiểu những thay đổi trong cấu trúc việc làm của người

dân ở khu vực bị thu hồi đất nông nghiệp. Sự khác nhau giữa các hộ bị thu

hồi số đất nhiều và số đất ít về lao động việc làm. Xem xét sự biến đổi từ

ngành kinh tế Nông nghiệp-Công nghiệp, hay Nông nghiệp – Dịch vụ hoặc

hỗn hợp giữa Nông nghiệp – Công nghiệp- Dịch vụ. Từ đó khái quát thành

xu hướng biến đổi về cơ cấu lao động nghề nghiệp việc làm của người dân ở

khu vực thu hồi đất nông nghiệp. Thêm vào đó xem xét tính đa nghề của

người dân nông thôn hiện nay để phân tích các chiến lực sinh kế khác nhau

giữa các hộ gia đình.

Tiểu kết chƣơng 1: Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đang có những thay đổi liên

tục và nhanh chóng thì các kết quả nghiên cứu về nông nghiệp – nông dân –

nông thôn đạt được trong lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói

chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu,

bổ sung và hoàn thiện. Vì vậy rất cần có một công trình nghiên cứu độc lập,

chuyên sâu và có hệ thống về sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm của người

dân nông thôn ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, đây là nhiệm

51

vụ mà luận án sẽ thực hiện.

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU

LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

2.1. Các khái niệm cơ bản của luận án

2.1.1. Biến đổi xã hội

Theo từ điển Triết học do M.Rozental’ chủ biên, ”Biến đổi là hình thức

tồn tại phổ biến nhất của tất cả các sự vật và hiện tượng. Biến đổi bao hàm

mọi sự vận động và tác động qua lại, sự chuyển hóa từ trạng thái này sang

trạng thái khác” Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà, 2015,Tr.25]. Cùng với sự

vận động của tự nhiên và tư duy, xã hội cũng không ngừng biến đổi.

Vào giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học cố gắng thực hiện những phân

tích đầu tiên về biến đổi xã hội nhằm giải thích hai làn sóng biến đổi lớn đang

diễn ra trên khắp châu Âu: quá trình công nghiệp hóa và sự mở rộng nên dân

chủ. Từ đó đến nay, biến đổi xã hội luôn được coi là chủ đề trung tâm của xã

hội học. Trong cuốn sách “Những vấn đề lâu bền trong xã hội học” của 2 tác

giả Lynn Barteck và Kenren Mullin Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà, 2015,

Tr.27], biến đổi xã hội được khẳng định là một vấn đề lâu bền của xã hội học.

Nhà xã hội học tiền bối A.Comte đã từng khẳng định rằng xã hội không

ngừng vận động và biến đổi, và chắc chắn biến đổi xã hội sẽ xảy ra, nó theo

một con đường phát triển và những tiến bộ tất nhiên hướng tới một xã hội tốt

hơn. Cùng quan điểm với A.Comte, H.Spencer và K.Marx dựa trên quan điểm

của thuyết tiến hóa cho rằng quá trình biến đổi xã hội phát triển qua các giai

đoạn từ đơn giản đến phức tạp hơn, càng ngày càng thăng tiến hơn. Chính vì

thế, xã hội càng ở giai đoạn phát triển cao thì xã hội càng ưu việt hơn. Tuy

nhiên, hiện nay quan điểm đồng nhất biến đổi với tiến bộ không còn được

chấp nhận. Biến đổi xã hội có thể diễn ra theo hướng tiến bộ xã hội hoặc là

52

theo hướng ngược lại. Biến đổi xã hội theo hướng tiến bộ chính là sự phát

triển của xã hội. Phát triển xã hội chính là sự biến đổi xã hội theo định hướng

giá trị đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Biến đổi cũng có thể là thoái bộ, là phá

hoại hoặc đảo lộn trật tự. Theo A.Gidden, các bậc tiền bối của xã hội học hiện

đại đã định hướng cho việc tìm hiểu những biến đổi đầy kịch tính làm tan vỡ

thế giới truyền thống và khuyến khích việc sáng tạo ra những hình thức mới

của trật tự xã hội. A.Gidden (1997) cho rằng, biến đổi xã hội là một hiện

tượng bình thường trong đời sống xã hội, tuy nhiên nó đang trở nên rất mãnh

liệt trong thời đại ngày nay. Biến đổi xã hội chính là sự thay đổi trong các cấu

trúc cơ bản của một nhóm xã hội hoặc của một xã hội. [Oxford, 2012, Tr.376]

Theo Bruce.J.Conhen và Terri.L.Orbuch (1994), khi nói đến biến đổi

xã hội là đề cập đến sự biến đổi về cấu trúc xã hội hay tổ chức xã hội của một

xã hội. Sự thay đổi đó ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các cá nhân trong một

xã hội. Những biến đổi chỉ ảnh hưởng đến một số ít cá nhân thường không

được các nhà xã hội học nghiên cứu. Percy Cohen, 1968, Tr.108]

Trong từ điển xã hội học của G.Endruweit và G.Trommsdorff , Biến đổi

xã hội được định nghĩa là một quá trình xã hội về những thay đổi trong cơ cấu

của một hệ thống xã hội. Những thay đổi trong biến đổi xã hội có ý nghĩa về cơ

cấu xã hội (đó là hành động và tương tác xã hội), kể cả hậu quả và biểu thị của

những cơ cấu biểu hiện ở các chuẩn mực (nguyên tắc ứng xử), giá trị và các sản

phẩm và tượng trưng văn hóa”. Những thay đổi xảy ra thường xuyên nhưng

không gây hậu quả cho đặc trưng cơ cấu xã hội (chẳng hạn như sinh tử của các

thành viên xã hội) không thuộc biến đổi xã hội. G.Endruweit và G.

Trommsdorff, 2001, tr.27]

Nguyễn Khắc Viện (1994) trong từ điển xã hội học dùng khái niệm

“thay đổi xã hội” nhằm chỉ trạng thái vận động khác nhau: tiến bộ hoặc thoái

bộ, tiến hóa hoặc cách mạng, bộ phận hoặc toàn bộ,… Những thay đổi xã hội

53

thường gắn với những điều kiện khách quan của tồn tại xã hội và những điều

kiện chủ quan của ý thức xã hội, hoặc với sự kết hợp của hai loại điều kiện

đó. Những thay đổi xã hội thường diễn ra khi những trật tự xã hội cũ tỏ ra lỗi

thời và trong lòng xã hội xuất hiện những nhân tố mới đến một mức nào đó.

Theo tác giả Lê Ngọc Hùng (2008), mặc dù “biến đổi” và “thay đổi”

khi dịch sang tiếng anh đều là “change” nhưng không phải bất kỳ một thay

đổi nào hay một sự khác biệt nào của cấu trúc xã hội cũng đều được coi là

biến đổi xã hội. Một sự thay đổi phải đạt tới ngưỡng phân sai, tức là đạt tới

ngưỡng nhận biết được sự khác biệt, sự phân hóa giữa trạng thái trước và

trạng thái sau của sự vật, hiện tượng thì mới có thể gọi đó là sự biến đổi. Sự

biến đổi xã hội là sự thay đổi, sự khác biệt của xã hội quan sát được trong một

khoảng thời gian nhất định nào đó. Sự biến đổi xã hội ở đây là sự biến đổi của

toàn thể xã hội chứ không phải chỉ là sự biến đổi ở khía cạnh xã hội, lĩnh vực

xã hội. Đó là sự khác biệt xã hội, sự phân hóa xã hội có thể quan sát được

của xã hội trong khoảng thời gian xác định. Chính vì thế, khi nghiên cứu sự

biến đổi xã hội đòi hỏi phải đo lường và đánh giá được các trạng thái của xã

hội tại những thời điểm nhất định. Lê Ngọc Hùng, 2008, Tr.267]

Có thể thấy, có nhiều quan niệm khác nhau về sự biến đổi xã hội.

Trong thế giới hiện đại, xã hội không bao giờ là tĩnh tại. Những biến đổi về

chính trị, xã hội và văn hóa diễn ra thường xuyên và có lúc, có nơi rất mạnh

mẽ. Các nhà xã hội học cố gắng tiến hành nghiên cứu về biến đổi xã hội thông

qua sự phân tích quá trình đó. Biến đổi xã hội dưới góc nhìn xã hội học bao

gồm nhiều phương diện, từ biến đổi ngắn đến biến đổi dài hạn, những biến

đổi quy mô lớn đến biến đổi quy mô nhỏ. Nhìn chung, biến đổi xã hội đề cập

đến sự biến đổi về cấu trúc của xã hội (hay tổ chức xã hội của xã hội đó) mà

sự biến đổi nảy ảnh hưởng sâu sắc đến phần lớn các thành viên của xã hội..

Hiểu theo nghĩa rộng nhất, biến đổi xã hội là một sự thay đổi so sánh với một

54

těnh trạng xă hội hoặc một nếp sống có trước. Có thể hiểu, biến đổi xã hội là

một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ

xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi

qua thời gian. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2010, Tr.35]

2.1.2. Chính sách xã hội

Chính sách xã hội là một khái niệm không mang tính hệ thống mà

mang tính lịch sử. Nhìn chung, trong quá trình lịch sử, trong sự chuyển đổi

của các quan hệ về kinh tế và đời sống các quan điểm về mục đích và nhiệm

vụ của “chính sách xã hội” được thay đổi khác nhau. Mục đích của “chính

sách xã hội” là nhằm để cải cách xã hội trong những thời điểm nhất định, cho

một dân tộc nhất định trước những vấn đề nghiệt ngã hoặc nghiêm trọng của

xã hội. Đại học KTQD và Đại học quốc gia Mokpo Hà Quốc, 2012, tr.112]

Chính sách xã hội được hiểu là tất cả các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự

xuất hiện những rủi ro xã hội, điều tiết cân bằng những rủi ro xã hội, bảo vệ

và cải thiện mức thu nhập, mức trợ cấp và mức sống của từng cá nhân riêng

biệt hoặc từng nhóm người trong xã hội. Người ta cũng có thể hiểu:”Chính

sách xã hội” theo đuổi các mục tiêu làm hạn chế các rủi ro xă hội, ngăn ngừa

việc xẩy ra những hậu quả xấu cũng như ổn định và cải thiện cơ sở thu nhập,

các khoản trợ cấp cũng như đời sống của các thành viên trong xă hội. Những

biện pháp của “chính sách xã hội” sẽ được vận động dựa trên cơ sở các chính

sách kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đại học KTQD và Đại học quốc gia

Mokpo Hà Quốc, 2012, tr.157]

Chính sách xã hội của doanh nghiệp: ở các nước công nghiệp phát

triển, người ta cũng rất coi trọng chính sách xã hội của từng doanh nghiệp,

nhất là những doanh nghiệp truyền thống lâu đời. Ở các doanh nghiệp này,

bên cạnh việc thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội quốc gia cần bổ sung

thêm nhiều quyền lợi cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp của mình

55

như: trợ cấp đào tạo và tuyển dụng con em họ sau này tiếp tục vào làm việc

tại doanh nghiệp, tăng thêm tiền trợ cấp thôi việc, tăng thêm tiền hưu trí… từ

quỹ phúc lợi của doanh nghiệp.

2.1.3. Lao động

Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn lao động là trình độ lành

nghề, kiến thức và năng lượng của toàn bộ cuộc sống của con người hiện có

thực tế hoặc dưới dạng tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng

đồng. [World Bank.2000, Tr.35]

Theo các nhà kinh tế học” Nguồn nhân lực cần được hiểu là số dân và

chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,

năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nick Moore, 1980]

Trong quản trị nhân lực: coi nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả

năng lao động, không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề,

lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội Nguyễn

Tiệp, 2008]

Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động,

làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều

hành của người sử dụng lao động. Theo đó, nguồn lao động là toàn bộ những

người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động

có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ

trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc

tình trạng khác (những người nghỉ việc hoặc nghỉ hưu trước tuổi theo quy

định của Bộ luật lao động). Bộ luật Lao động, 2015]

Như vậy theo đề tài có thể rút ra kết luận lực lượng lao động là những

người từ 15 – 60 tuổi đối với nam và 15-55 đối với nữ. Có đủ năng lực về thể

chất và tinh thần có khả năng tham gia vào quá trình lao động, đang lao

56

động hoặc đang tìm kiếm việc làm.

Lao động là hoạt động tất yếu không thể thiếu của con người. Theo

Marx, cái làm loài người khác biệt với các loài khác là khả năng kiểm soát tự

nhiên bằng hoạt động sáng tạo, đó chính là lao động. Quan niệm xã hội học

Mác xít cho rằng lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người

và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con

người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên.

Lao động là sự thể hiện trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người, trừ phi nó

bị tha hóa do bị tập trung chỉ vào sống sót hay bị tổ chức về mặt xã hội theo

cách mà lao động bị chối bỏ và trở thành gán thành. Marx cho rằng khái niệm

lao động mang nội dung và ý nghĩa của hiện tượng xã hội. Con người lao

động để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của sự phát triển cá nhân và

xã hội. Lao động phụ thuộc vào tổ chức xã hội, vào cấu trúc giai cấp xã hội

Lê Ngọc Hùng, 2009, Tr.73].

Trong từ điển Xã hội học Oxford (2012),những nỗ lực về thể lực, trí

lực và cảm xúc để tạo ra hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân hay tiêu

dùng của người khác cũng được định nghĩa là lao động. [Oxford, 2012,

Tr.254]

Theo Luật Lao động (2012), lao động là hoạt động quan trọng nhất

của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao

động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định đến sự

phát triển của đất nước. Định nghĩa này cho thấy không chỉ lao động phụ

thuộc và xã hội mà sự phát triển của xã hội cũng phụ thuộc vào lao động.

Trong kinh tế học, lao động được xem xét với tính cách là một hiện

tượng kinh tế. Lao động được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra

và là một dịch vụ hay hàng hóa. Trong đó, người có nhu cầu về hàng hóa này

57

là người sản xuất còn người cung cấp hàng hóa này là người lao động.

Xã hội học lao động xem xét lao động không chỉ bó hẹp trong hoạt

động kinh tế mà trước hết lao động được nhìn nhận với tư cách là hiện tượng

xã hội chịu ảnh hưởng của các yếu tố, điều kiện xã hội. Lao động được hiểu

là lao động của con người, lao động xã hội để tạo ra của cải vật chất, tinh

thần đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và xã hội. Như vậy, lao động là

sự nỗ lực về mặt thể lực, tinh thần và tình cảm định hướng vào việc sản xuất

ra sản phẩm nhằm thỏa mãi nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội, đồng

thời đáp ứng nhu cầu phát triển năng lực người của mỗi cá nhân Lê Ngọc

Hùng, 2009, Tr.81]. Có thể nói, lao động là hiện tượng xã hội nảy sinh, biến

đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Bối cảnh xã hội tác động trực tiếp đến

hoạt động lao động, đồng thời hoạt động lao động cũng tác động ngược trở lại

và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội.

2.1.4. Việc làm

Việc làm là vấn đề thu hút sự quan tâm của các quốc gia, lãnh thổ, các

nhà nghiên cứu và của mỗi người dân. Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như

điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp,… ở mỗi quốc gia khác nhau lại có

những quan niệm khác nhau về việc làm. Chính vì thế, thật khó để có thể đưa

ra một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.

Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao

động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. Ở Việt Nam, Luật Lao động

(2012) quy định Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị

pháp luật cấm.

Như vậy, không phải mọi hoạt động lao động đều được coi là việc làm.

Để một hoạt động lao động được coi là việc làm thì hoạt động lao động đó

cần phải thỏa mãn hai điều kiện: một là hoạt động lao động đó phải có ích và

phải tạo ra thu nhập cho người lao động. Tiêu chuẩn này cho thấy tính hữu ích

và nhấn mạnh đến tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Hai là việc làm đó

58

không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hoạt động

có ích không giới hạn về phạm vi và ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự

phát triển của thị trường lao động ở việt nam trong quá trình phát triển nền

kinh tế nhiều thành phần. Từ đó có thể thấy, nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu

nhập nhưng vi phạm pháp luật thì không thể được công nhận là việc làm.Mặt

khác, một hoạt động dù là hợp pháp, và có ích nhưng không tạo ra thu nhập

cũng không được thừa nhận là việc làm. Theo định nghĩa này, những công

việc nhà như chăm sóc người ốm, chăm sóc con cái, đi chợ, nấu cơm, rửa bát,

dọn dẹp nhà cửa, giặt đồ,… do một người phụnữ làm cho chính gia đình mình

sẽ không được coi là việc làm vì những công việc đó không tạo ra thu nhập.

Nhưng nếu những người phụ nữ đó đi làm giúp việc và thực hiện những công

việc nhà tương tự cho gia đình người khác để nhận thù lao thì hoạt động của họ

lại được thừa nhận là việc làm vì được trả thù lao. Đây là một hạn chế trong

quan niệm về việc làm hiện nay ở Việt Nam khiến cho việc làm được trả lương

có điều kiện làm việc và địa vị kinh tế xã hội tốt hơn những việc làm không

được trả công mặc dù những công việc này trên thực tế có thể là một.

Theo từ điển Xã hội học Oxford (2012), việc làm khác với lao động gia

đình không trả công bởi “tiêu chí người thứ ba”. Hoạt động có thể được người

nào đó tiến hành mà không làm giảm tính thiết thực của nó. Trên có sở đó,

việc học tập, tham gia tập thể thao, nấu ăn, hay làm vườn để giải trí không

được là làm việc mặc dù những công việc đó có thể làm cho người ta mệt

nhọc. Công việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ đơn thuần cho tiêu dùng gia

đình không được coi là việc làm. Dịch vụ cộng đồng tự nguyện bao gồm lao

động sinh lợi cho phát triển cộng đồng, hay cung ứng dịch vụ cho người khác,

nhưng thường không được trả công, do đó cũng được coi là một phạm trù

khác với việc làm. [Oxford, 2012, Tr.257]

Cũng theo định nghĩa của luật Lao động thì việc làm có thể được cụ thể

hóa thành ba loại hoạt động, đó là: thứ nhất, việc làm là các hoạt động mà

59

người lao động thực hiện để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc

bằng hiện vật do công việc đó mang lại. Thứ hai, việc làm là làm các công

việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Thứ ba, việc làm là làm công việc cho hộ

gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền

công cho công việc đó. Luật Lao động, 2012]

Trong Báo cáo Lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê được

thực hiện hàng năm, việc làm được hiểu là mọi hoạt động lao động từ 1 giờ

trở lên tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm.Theo cách hiểu này,

việc làm được chia làm hai loại là việc làm được trả công và việc tự làm.

Trong đó, việc làm được trả công tức là những công việc mà người lao động

phải hoàn thành trong một thời gian nhất định với những yêu cầu cụ thể về số

lượng và chất lượng công việc do người hoặc nơi trả lương, trả công quy

định, không phân biệt người đó, hoặc nói đó là cá thể hay cơ quan, doanh

nghiệp. Việc tự làm là các công việc mà thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào lợi

nhuận thu được từ hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Việc tự làm gồm

các công việc tự làm của bản thân để tạo thu nhập hoặc làm cho kinh tế hộ

của gia đình mình không hưởng tiền lương, tiền công Trần Thị Thu,

2003].Có thể thấy, cách định nghĩa của Tổng cục Thống kê chính là sự cụ thể

hóa và chi tiết hóa định nghĩa việc làm trong luật Lao động. Để một hoạt động

lao động được coi là việc làm thì hoạt động lao động đó vẫn phải thỏa mãn

hai điều kiện là tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm.

Tác giả Trần Thị Thu (2003) khi nghiên cứu về việc làm cho lao động

nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho rằng, việc làm là phạm

trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết

(vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó [109, Tr.15].

Trong định nghĩa này, tác giả nhấn mạnh đến việc sử dụng được sức lao động

một cách hợp lý nhất bởi lẽ khi con người biết sử dụng sức lao động một cách

60

hợp lý sẽ mang lại những lợi ích tốt nhất.

Xã hội học kinh tế xem xét việc làm với tư cách là vị trí và tương ứng

với nó là vị thế, vai trò trong cấu trúc lao động xã hội [Trần Thị Thu, 2003,

Tr.85]. Bản thân cá nhân mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm

những vị trí nhất định. Mỗi vị trí mà người lao động chiếm giữ trong hệ thống

sản xuất xã hội với tư cách là một sự kết hợp của các yếu tố khác trong quá

trình sản xuất được gọi là chỗ làm hay việc làm. Người lao động được coi là

có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã

hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao

động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.

Khi nói đến việc làm, người ta thường nhắc đến khái niệm lực lượng

lao động. Tại Việt Nam, Tổng cục Thống kê, (2014) lực lượng lao động chính

là dân số hoạt động kinh tế hiện tại bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên có

việc làm (đang làm việc) và những người thất nghiệp trong thời gian tham

chiếu (7 ngày trước thời điểm quan sát).

Tuỳ từng cách phân loại mà ta có các hình thức việc làm ở đây ta chỉ

 Việc làm chính: là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời

tiếp cận hai hình thức sau:

 Việc làm phụ:là công việc mà người thực hiện giành nhiều thời gian

gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác.

nhất sau công việc chính.

Với việc nghiên cứu đặc điểm, khái niệm và phân loại việc làm giúp

cho ta hiểu rõ hơn về việc làm từ đó đưa ra những tiêu chí đánh giá một cách

sâu hơn nhằm xác định được các mục tiêu và giải pháp trong việc lập kế

hoạch việc làm.

Như vậy việc làm trong nghiên cứu chính là những hoạt động lao động

tạo ra thu nhập và hoạt động sản xuất ra của cải vật chất có ích cho xã hội (tự

61

làm việc nuôi sống chính bản thân) không bị pháp luật cấm

2.1.5. Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm

Cơ cấu và cấu trúc là hai khái niệm tương đương nhau về mặt ngữ

nghĩa (do cách dịch khác nhau từ một thuật ngữ trong tiếng Anh là Structure).

Theo tác giả Lê Ngọc Hùng (2009), cơ cấu xã hội là kiểu mối quan hệ giữa

con người và xã hội đã trở nên bền vững và ổn định, có khả năng định hướng,

điều chỉnh và kiểm soát hành vi, hoạt động của các cá nhân, nhóm và tổ chức

xã hội. Lê Ngọc Hùng, 2009].

Theo Nguyễn Đình Tấn (2015), cơ cấu xã hội là một “mô hình cấu

trúc”, một chỉnh thể thống nhất, “động”, tương đối ổn định giữa các quan hệ

xã hội và cac nhóm xã hội cơ bản (giai cấp, nghề nghiệp, nhân khẩu, lãnh thổ,

dân tộc, tôn giáo), đan kết vào nhau, và được sắp xếp theo cả cấu trúc ngang

và cấu trúc dọc tạo ra bộ khung cho sự vận động và phát triển của xã hội.

Những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội là nhóm, vị thế, vai trò, mạng lưới

và các thể chế.

Theo các nhà xã hội học, cấu trúc của các quan hệ kinh tế như là yếu tố

quan trọng và cơ bản nhất trong xã hội nói chung. Để xem xét tiến trình phát

triển lao động có thể căn cứ vào lịch sử phát triển xã hội, vào cách tổ chức xã

hội và trình độ công nghệ kỹ thuật Oxford, 2012, Tr 91]. Chính vì thế, khi

xem xét cơ cấu lao động chính là xem xét cơ cấu xã hội của lao động. Cơ cấu

xã hội của lao động là phức hệ các mối liên hệ giữa người với người trong

lao động. Cụ thể đó là quan hệ giữa chủ và thợ, giữa các đồng nghiệp, các

bạn hàng, giữa người cung cấp hàng hóa và khách hàng.

Theo Đại từ điển kinh tế thị trượng: Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ

cũng như xu hướng vận động, phát triển của các loại lao động có ngành nghề

khác nhau. Cũng như cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu lao động theo ngành, nghề

62

là kết quả của sự phát triển phân công lao động theo ngành, nghề.

Nếu phân chia theo ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu lao động sẽ bao

gồm: Lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp, xây dựng, lao động dịch

vụ và lao động ngành nghề khác.

Trong nội bộ ngành, lao động lại được chia thành những ngành hẹp hơn

như: Trong nông nghiệp có lao động trồng trọt, lao động chăn nuôi; trong

công nghiệp - xây dựng có lao động tiểu thủ công nghiệp, lao động công

nghiệp chế biến, lao động cơ khí …

Từ các ngành hẹp, lao động lại tiếp tục được phân chia thành các

ngành nghề với chuyên môn hẹp hơn nữa …Kết quả cuối cùng sẽ tạo nên

một cơ cấu lao động ngành nghề đa dạng với chuyên môn sâu, thậm chí rất

sâu ở từng vùng. Đây chính là điều kiện cơ bản để phát triển kỹ năng nghề

nghiệp và nâng cao năng suất lao động của các ngành, nghề. Nguyễn Hữu

Huỳnh, 1998, 346]

Theo Tổng cục Thống kê, (2014) còn có một số cách chia như, Trong

cơ cấu lao động có việc làm, có thể chia theo một số các đặc trưng: Cơ cấu

lao động có việc làm theo trình độ học vấn, cơ cấu lao động có việc làm theo

nghề nghiệp, cơ cấu lao động có việc làm theo ngành kinh tế, cơ cấu lao động

có việc làm theo loại hình kinh tế, cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế xã

hội, cơ cấu lao động có việc làm theo giới tính, cơ cấu lao động theo nhóm

tuổi,…

- CCLĐ theo giới tính và độ tuổi. Theo tiêu thức này, nguồn lao động

sẽ được chia thành:

+ Lao động nam và nữ.

+ Lao động trong độ tuổi lao động và ngoài độ tuổi lao động.

Riêng đối với lao động ngoài độ tuổi lại có thể chia thành lao động lao

động trên và dưới độ tuổi, có khả năng và thực tế có tham gia lao động đã

được qui đổi thành lao động tiêu chuẩn.

63

- CCLĐ theo vùng lãnh thổ

Là các quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của nguồn

lao động giữa các vùng và trong nội bộ vùng lãnh thổ. Đây là kết quả của sự

phân công lao động theo vùng và nội bộ vùng, ưu thế cơ bản của sự phân

công này là tạo điều kiện để phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng.

K.Marx đã khẳng định “Sự phân công lao động theo vùng, làm cho một số

ngành sản xuất nhất định bị buộc chặt vào một số vùng nhất định trong nước”.

Tuy nhiên, cũng cần thấy giữa cơ cấu lao động theo vùng và cơ cấu lao động

theo ngành, nghề trong thực tế không hoàn toàn độc lập với nhau trái lại

chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ không có một cơ sở ngành

nghề nào ở nông thôn lại không được triển khai trên một vùng lãnh thổ nhất

định; ngược lại, CCLĐ theo vùng lại chính là sự thể hiện của cơ cấu lao động

theo ngành nghề theo vùng lãnh thổ đó.

- CCLĐ theo thành phần kinh tế

Là quan hệ tỷ lệ cũng như xu hướng vận động, phát triển của lực lượng

lao động giữa các thành phần kinh tế ở nông thôn. Hiện nay ở nông thôn nước

ta, tương ứng với 6 thành phần kinh tế, lực lượng lao động cũng được chia

thành 6 loại như sau:

Lao động làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, lao động làm việc trong

kinh tế hợp tác, lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư bản Nhà nước, lao

động làm việc trong thành phần kinh tế cá thể và lao động làm việc trong

thành phần kinh tế tư bản tư nhân, lao động làm việc trong thành phần kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài. Về mặt pháp lý các lao động này bình đẳng trước

pháp luật và cũng có quyền và nghĩa vụ riêng của nh.

- CCLĐ theo yếu tố sử dụng nguồn. Nguồn lao động: Là bộ phận dân

số trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật có khả năng lao động, có

nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên

độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc doanh. Đây là

64

cơ cấu hình thành trên cơ sở căn cứ vào mức độ tham gia lao động của các bộ

phận hợp thành nguồn lao động nông thôn. Theo đó việc phân loại CCLĐ

theo yếu tố sử dụng nguồn có 2 loại:

+ Dân số hoạt động ở nông thôn: Là những người từ 15 tuổi trở lên

đang hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực

lượng lao động nông thôn, bộ phận này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

nguồn lao động hiện có ở thời điểm báo cáo.

+ Dân số không hoạt động kinh tế

Là những người từ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và

không có việc làm vì những lý do như: Đang đi học; già cả, ốm đau, tàn tật

mất sức lao động và đang ở các tình trạng khác.

- CCLĐ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: Là quan hệ tỷ lệ cũng như

xu hướng biến động giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật

khác nhau trong khu vực nông thôn. Tiêu thức này cho biết tương quan trình

độ phát triển về chất của nguồn lao động nông thôn, được coi là chỉ tiêu chất

lượng để đánh giá trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hoạt động trong lao

động nông nghiệp, nông thôn … Theo đó, lao động nông thôn theo trình độ

chuyên môn kỹ thuật bao gồm cơ cấu sau:

+ Cơ cấu theo trình độ văn hoá, bao gồm các loại như: Lao động đã tốt

nghiệp phổ thông trung học; lao động đã tốt nghiệp cấp II; lao động có trình

độ văn hoá hết cấp I; lao động chưa biết đọc, biết viết .

+ Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động lại được chia

thành: Lao động không có chuyên môn kỹ thuật và lao động có chuyên môn

kỹ thuật.

Riêng với lao động có chuyên môn kỹ thuật lại có thể được phân chia

thành các loại như sau: Lao động có trình độ công nhân kỹ thuật; lao động có

trình độ sơ cấp; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp; lao động có

65

trình độ cao đẳng và đại học; lao động có trình độ trên đại học. Trong mỗi loại

trình độ nói trên, tuỳ theo mức độ lành nghề khác nhau lao động lại tiếp tục

được chia thành các nhóm trình độ chuyên môn cao, trung bình và thấp.

- CCLĐ theo thời gian làm việc thực tế, là các quan hệ tỷ lệ và xu

hướng thay đổi về thời gian lao động thực tế giữa các ngành, nghề khác nhau

trong tổng quỹ thời gian lao động thực tế đã sử dụng ở nông thôn. Tổng cục

Thống kê, 2014, 30]

Theo Bộ lao động thương binh và xã hội: Cơ cấu lao động có thể hiểu

là một phạm trù kinh tế tổng hợp, thể hiện tỷ lệ của từng bộ phận lao động

nào đó chiếm trong tổng số, hoặc thể hiện sự so sánh của bộ phận lao động

này so với bộ phận lao động khác. Cơ cấu lao động thường được dùng phổ

biến là: Cơ cấu lao động phân theo thành thị, nông thôn; Cơ cấu lao động chia

theo giới tính, độ tuổi; Cơ cấu lao động chia theo vùng kinh tế; Cơ cấu lao

động chia theo ngành kinh tế; Cơ cấu lao động chia theo trình độ văn hoá,

chuyên môn kỹ thuật; Cơ cấu lao động chia theo trình độ có việc làm, thất

nghiệp ở thành thị; Cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế. Cũng có thể

hiểu chuyển dịch cơ cấu lao động: là sự thay đổi tăng, giảm của từng bộ phận

trong tổng số lao động, theo một không gian và khoảng thời gian nào đó. Bộ

Lao động Thương binh và Xã hội , 2001, Tr.45]

Tóm lại, có thể hiểu cơ cấu lao động là tổng thể các mối quan hệ tương

tác giữa các bộ phận lao động trong tổng nguồn lao động xã hội và được biểu

hiện thông qua những tỷ lệ nhất định. Cơ cấu lao động chính là tỷ lệ lực

lượng lao động chiếm lĩnh các lĩnh vực hoạt động trong xã hội. Cấu trúc lao

động xã hội vừa phản ánh trình độ, đặc điểm và tính chất của cấu trúc kinh tế,

vừa là nhân tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Trong nghiên cứu sẽ phân tích cơ câu lao động theo ngành kinh tế, khu

66

vực kinh tế, theo trình độ học vấn, theo độ tuổi, theo tính chất nghề nghiệp.

2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án

2.2.1. Lý thuyết biến đổi xã hội và quá trình chuyển hóa xã hội nông thôn

Biến đổi xã hội là chủ đề chính yếu trong nghiên cứu xã hội học. Các

tác gia luôn muốn giải thích được sự biến đổi xã hội và tìm ra quy luât vận

động của xã hội theo đường hướng nào. Lịch sử của thuyết biến đổi xã hội

gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học nổi tiếng như Auguste Comte,

Herbert Spencer, Emile Durkheim, T.Parsons, Vilfredo Pareto, Robert

Merton, Peter Blau, A.Giddens... và nhiều người khác Bùi Quang Dũng,

2004; G.Endruweit và G. Trommsdorff, 2001; Hermann Korte,1996]. Mọi xã

hội cũng giống như tự nhiên, không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ

là sự ổn định bề ngoài. Thực tế, nó không ngừng thay đổi ngay ở bên trong

bản thân nó. Các quan niệm về “biến đổi xã hội” đã được đưa ra.

Trong quá trinh biến đổi thì thời gian và thời điểm là một nhân tố quan

trọng. Thời gian tự bản thân nó không tạo ra sự biến đổi. Nhưng thời gian cần

thiết cho sự biến đổi mới, thay thế cái đã lạc hậu bằng cái tiến bộ. Biến đổi xã

hội khác biệt về thời gian và hậu quả. Có những biến đổi chỉ diễn ra trong một

thời gian ngắn và không có ảnh hưởng lâu dài. Nhưng cũng có những biến đổi

diễn ra và ảnh hưởng trong những thời kỳ dài, có khi hàng nghìn năm hay vài

thế hệ.

Sự phân loại biến đổi xã hội có thể phân chia như sau:

Căn cứ vào nội dung của biến đổi xã hội có thể chia ra: Biến đổi cơ cấu

xã hội và Biến đổi văn hoá xã hội. Cơ sở biến đổi cơ cấu xã hội là biến đổi

của phương thức sản xuất của cải vật chất. Sự biến đổi cơ cấu gồm biến

đổi giai cấp và biến đổi nghề nghiệp, từ đó, ảnh hưởng quan trọng nhất

đến biến đổi cơ cấu xã hội. Sự biến đổi cơ cấu xã hội thường đi theo sự

biến đổi các thiết chế xã hội. Sự biến đổi cơ cấu xã hội và biến đổi các

67

thiết chế xã hội là tiền đề của sự biến đổi văn hoá xã hội và sự biến đổi văn hoá

xã hội lại tác động trở lại đối với sự biến đổi các thiết chế xã hội và cơ cấu xã

hội. Moore, Wilbert E., 1964, Tr. 374].

Căn cứ vào khả năng kiểm soát của sự biến đổi có thể chia ra: Biến

đổi có hoạch định và Biến đổi không hoạch định. Biến đổi có hoạch định là

những biến đổi được dự báo, được điều khiển, có định hướng, có thể do

nguyên nhân khách quan, có thể do những nhà cải tạo ra các điều kiện thực

hiện những dự án có ý nghĩa toàn xã hội. Biến đổi không hoạch định là những

biến đổi không dự báo trước, bất ngờ, xã hội chưa nhận thức được.

Căn cứ vào tốc độ biến đổi có thể chia ra: Biến đổi chậm, Biến đổi

nhanh, Biến đổi tuần tự, Biến đổi nhảy vọt. Trong lịch sử phát triển của nhân

loại, nhiểu thời kỳ lịch sử phát triển, sự biến đổi của xã hội diễn ra nhanh

chậm khác nhau. Trong đó, biến đổi chậm, tuần tự thường diễn ra một cách tự

phát theo qui luật khách quan, con người chỉ tạo ra những điều kiện thuận lợi

cho khả năng khách quan được thực hiện. Biến đổi nhanh, nhảy vọt diễn ra

trong trường hợp nhờ nhận thức và hoạt động tự giác.

Căn cứ vào phạm vi ảnh hƣởng của biến đổi xã hội, người ta chia nó

ra thành những biến đổi vĩ mô và những biến đổi vi mô. Những biến đổi vĩ

mô: Đó là những biến đổi diễn ra và xuất hiện trên một phạm vi rộng lớn.

Diễn ra trong những thời kỳ dài. Một ví dụ điển hình về sự biến đổi vĩ mô là

sự hiện đại hóa, đó là một quá trình qua đó các xã hội trở nên khác nhau bên

trong nhiều hơn, như sự thay đổi các thiết chế xã hội giản đơn bằng những

thiết chế xã hội phức tạp. Biến đổi vi mô: liên quan đến những biến đổi nhỏ,

nhanh được tạo nên những quyết định không thấy hết được, như sự tương tác

trong quan hệ của con người trong đời sống hằng ngày. Reeler, 2007]

Trong quá trình biến đổi xã hội có các lý thuyết chủ yếu để giải thích sự

biến đổi xã hội như: Lý thuyết chu kỳ của Arnold Toynbee, P.Sorokin cho

rằng văn minh hóa được dao động trong ba kiểu của “những trạng thái tâm lý”

68

hoặc rộng hơn: những kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng. Sự

hiểu biết về chu kỳ của sự biến đổi xã hội đã thống trị ý nghĩ của con người.

Những sự lặp lại của các hiện tượng tự nhiên đã dẫn dắt đời sống hằng ngày

của con người và ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận thức của họ

về sự biến đổi xã hội.Với họ, lịch sử được lặp lại mãi trong những chu kỳ

không kết thúc.

Lý thuyết biến đổi về kinh tế có thể kể đến các tác giả phân tích sự biến

đổi kinh tế ở các nước nông nghiệp và từ dó xây dựng mô hình kinh tế như

Fisher, Lewis, Keynes, và Harry T.Oshima, Timmer. Các nhà kinh tế học

phân tích các giai đoạn phát triển kinh tế của một nước, các quá trình vận

động của nền kinh tế khi trưởng thành từ một nước nông nghiệp sang một

nước công nghiệp.

Lý thuyết về xung đột có thể kể đến các tác giả như K. Marx, Simmel,

Max Weber, Ralf Dahrendorf (1959), Percy S. Cohen (1968) “trong các xã

hội, nơi có những chia rẽ sâu sắc giữa các nhóm khu vực, dân tộc hay chủng

tộc, có thể có ít khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế, chính sách phúc lợi xã

hội; do vậy việc thay đổi "cải hóa" đòi hỏi một mức độ đồng thuận Puja

Mondal, 2012, Tr.312]. Các tác gia về thuyết xung đột cho rằng xung đột có

thể do giá trị, quyền lợi và có những xung đột có thể tốt cho biến đổi nhưng

có những xung đột gay ra loạn chức năng trong xã hội.

iến đổi xã hội nông thôn qua các mô hình phát triển nông thôn

Bước vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, vấn đề tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực

nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp ngày càng thu hút sự quan tâm

của nhiều nhà kinh tế học. Trước đây các chủ nghĩa trọng nông đã nhường

chỗ cho chủ nghĩa trọng thương trong xã hội Trần Bình Trọng, 2002]. Trong

quá trình phát triển công nghiệp, thương nghiệp các nhà kinh tế học đã nghiên

69

cứu và đưa ra một vài mô hình tăng trưởng gắn với chuyển dịch cơ cấu lao

động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó phải kể

đến mô hình của Fisher, Lewis, Keynes, và Harry T.Oshima, Timmer.

[Todaro M.P, 1982, Tr.436]

Đầu tiên là mô hình của Fisher, trong tác phẩm “Các quan hệ kinh tế

của tiến bộ kỹ thuật”, nhà kinh tế học A.Fisher đã phân nền kinh tế thành 3

khu vực, gồm: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ông cho rằng với tác

động của khoa học kỹ thuật tất yếu sẽ kéo theo quá t nh chuyển lao động từ

khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quá trình này sẽ

thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng

khối ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ

giảm dần. Như vậy, theo Fisher, chuyển dịch lao động từ khu vực nông

nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế. Khi đánh giá kết quả và tính bền vững của chuyển dịch lao động cần

phải đánh giá tác động của nó đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

[Fisher A.G.B., 1935]

Bên cạnh đó mô hình tăng trưởng kinh tế của nhà kinh tế học W.Arthur

Lewis trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh tế” ông đưa ra “Mô hình

hai khu vực” lập luận về mối quan hệ giữa khu vực nông nghiệp và khu vực

công nghiệp trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời đưa ra lý

thuyết về chuyển dịch lao động giữa hai khu vực trên cơ sở lý luận về tiền công

lao động ở góc độ thu nhập. Quá trình chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp

sang khu vực công nghiệp là do thu nhập ở khu vực công nghiệp cao hơn.

Mô hình Lewis giải thích tăng trưởng diễn ra do sự thay đổi cơ cấu

kinh tế. Một nền kinh tế ban đầu chỉ bao gồm 1 khu vực nông nghiệp được

chuyển thành nền kinh tế bao gồm 2 khu vực nông nghiệp và công nghiệp,

trong đó khu vực công nghiệp đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Mô hình Lewis cho thấy, tiền công lao động hay thu nhập là yếu tố rất

70

quan trọng thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu

vực phi nông nghiệp. Khi đánh giá mức độ bền vững của quá trình chuyển

dịch lao động, cần phải xem xét kết quả về thu nhập mà nó đem lại cho người

lao động. Nếu chuyển dịch lao động không đi kèm với mức thu nhập đảm bảo

đời sống cho người lao động thì hiệu quả xã hội của nó còn thấp và thiếu tính

bền vững.

Bên cạnh đó, mô hình Lewis còn có những hạn chế khi cho rằng, tăng

trưởng của khu vực công nghiệp dựa chủ yếu vào thu hút lao động từ nông

thôn ra thành thị với mức tiền công giá rẻ, chỉ cần cao hơn so với thu nhập ở

khu vực nông nghiệp. Điều này làm mô hình Lewis không giải thích được tại

sao công nhân vẫn đình công ở các nhà máy trong khi tiền lương cao hơn so

với khu vực nông nghiệp hay dòng dịch chuyển lao động từ khu vực nông

thôn ra khu vực đô thị vẫn không ngừng tiếp diễn trong khi vẫn tồn tại thất

nghiệp ở khu vực đô thị. 174, W. Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D.

Irwin 1955, tr.453]

Một mô hình được nhắc tới khá nhiều trong phát triển kinh tế là của tác

giả John Maynard Keynes trong công trình: “Lý thuyết tổng quát về thu nhập

và việc làm” đưa ra mô hình việc làm trong nền kinh tế tăng cùng với GDP.

Thất nghiệp phát sinh do tổng cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và

chính phủ đối với hàng hóa và dịch vụ tăng không đủ để GDP đạt mức tạo đủ

việc làm. Có thể xem lập luận của Keynes là cần tăng tổng cầu hay GDP của

khu vực phi nông nghiệp để tạo việc làm, thu hút lao động từ khu vực nông

nghiệp. Nói cách khác, khi lựa chọn mô hình chuyển dịch lao động cần xem

xét quan hệ giữa tăng trưởng GDP và gia tăng quy mô lao động trong nền

kinh tế.

Mô hình của Keynes có hạn chế là chưa đề cập cụ thể đến cơ cấu kinh

tế, năng suất lao động là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản xuất

71

cần được xem xét đi kèm với tăng trưởng và tạo việc làm. Thực tế ở nhiều

nước cho thấy, tăng trưởng GDP không đi kèm với tăng lao động mà ngược

lại. John Maynard Keynes, 1994, Tr.41]

Đối với các nước ở châu Á với những điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và

con người khác với các nước phương tây do đó có những đặc điểm riêng trong

quá trình phát triển xã hội. Mô hình của Harry T.Oshima nhà kinh tế học người

Nhật Bản trong tác phẩm “Tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á gió mùa”

đưa ra lý thuyết về tăng trưởng và tạo việc làm ở các nước châu Á với mô hình

phát triển 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp theo 3 giai đoạn.

- Giai đoạn đầu: tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nông

nghiệp để tạo việc làm cho lao động thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp,

cải thiện đời sống nông dân đồng thời để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực

phẩm cho dân số tăng lên và xuất khẩu nông sản để có ngoại tệ nhập khẩu

máy móc cho phát triển công nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi sản xuất

nông nghiệp hàng hóa phát triển trên quy mô lớn, đặt ra yêu cầu phát triển

mạnh công nghiệp và dịch vụ, trước hết là các ngành công nghiệp, dịch vụ

phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống ở nông thôn như công nghiệp phân

bón, công nghiệp chế biến, các dịch vụ ở nông thôn. Xét theo quá trình CNH

– HĐH phát triển một nền kinh tế, giai đoạn này có thể coi là giai đoạn nền

kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp hay nền kinh tế nông nghiệp

với tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động còn khá cao.

- Giai đoạn hai: đẩy mạnh phát triển đồng thời cả 2 khu vực gồm phi

nông nghiệp và nông nghiệp để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở cả hai khu

vực. Theo Harry T.Oshima, để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở khu vực

nông nghiệp và lao động ở khu vực phi nông nghiệp, nói cách khác để chuyển

dịch nhanh cơ cấu lao động trong giai đoạn này, cần phát triển các ngành

công nghiệp, dịch vụ theo chiều rộng, sử dụng nhiều lao động để tạo đủ việc

72

làm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi tốc độ gia

tăng việc làm lớn hơn tốc độ tăng lao động, nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu

thiếu lao động, tiền lương thực tế tăng nhanh. Đây có thể coi là giai đoạn “cất

cánh” của nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp.

- Giai đoạn ba: phát triển cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông

nghiệp theo chiều sâu, mở rộng áp dụng KH&CN vào sản xuất nhằm nâng

cao năng suất lao động, qua đó giảm cầu lao động và tăng sức cạnh tranh của

các ngành kinh tế. Khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay

thế sản phẩm nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu đi kèm với chuyển dịch cơ

cấu các ngành công nghiệp theo hướng nâng cao hàm lượng công nghệ của

sản phẩm. Khu vực dịch vụ phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng với

hàm lượng GTGT của sản phẩm không ngừng được nâng lên. Giai đoạn này

có thể coi là giai đoạn nền kinh tế phát triển cơ bản dựa vào công nghiệp và

dịchvụ, giai đoạn nền kinh tế công nghiệp và tiếp tục phát triển trở thành nền

kinh tế tri thức.

Một trong những mô hình cần quan tâm là quan điểm của Timmer về

chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Tác giả Timmer chia quá trình phát

triển thành 4 giai đoạn

Giai đoạn 1: Bắt đầu phát triển: Trong giai đoạn này nông nghiệp chiếm

một tỷ trọng lớn trong tổng sản phâm trong nước [Mosher, 1966]. Vì thế nguồn

tích lỹ quốc gia phải rút chủ yếu từ nông nghiệp. Nguồn thu nhâp của nhà nước

chủ yếu lấy từ thuế nông nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Giai đoạn 2: Nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu vào tăng trưởng.

Một phần nguồn lợi thu được từ nông nghiệp được đầu tư trở lại cho nông

nghiệp (chủ yếu cho nghiên cứu nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng). Sản

lượng nông nghiệp tăng lên đã đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế quốc gia.

Giai đoạn 3: Lao động nông nghiệp bắt đầu giảm

Trong giai đoạn này, giữa nông nghiệp và công nghiệp có một sự mất

73

cân đối, nhất là trong năng suất lao động và trong mức thu nhập. Để khắc

phục nhược điểm này cần phải thu hẹp khoảng cách giữa nông nghiệp và công

nghiệp bằng cách đưa nông nghiệp liên kết với toàn bộ nền kinh tế quốc dân

thông qua phát triển thị trường lao động và tín dụng, liên kết kinh tế nông

thôn với thành thị. Tuy nhiên càng liên kết với nền kinh tế chung thì kinh tế

nông nghiệp càng mất tính ổn định và bị phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường

Giai đoạn 4, Lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 20% tổng số lao động

Ở giai đoạn này chi tiêu cho ăn uống trong ngân sách hộ gia đình thành

phố giảm xuống còn 30%. Thu nhập của nông dân bị giảm bớt vì phải áp

dụng kỹ thuật mới trong khi giá nông sản thấp. Trong điều kiện này, xã hội

cần phải trợ cấp cho nông nghiệp để giữ chân một số nông dân ở lại nông

thôn đảm bảo an toàn lương thực. Trong giai đoạn 4 cần có chính sách đối với

nông nghiệp để đảm bảo khả năng thích ứng của nó và giải quyết những mâu

thuẫn chủ yếu cho phát triển.

Theo tác giả Mellor (1995) tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu do việc

tăng diện tích, đa dạng hóa sản phẩm, và thay đổi kỹ thuật để tăng năng suất, đó

là những nhân tố quyết định. Việc đa dạng hóa lao động do thị trường xuất khẩu

và tăng thu nhập trên đầu người có tác động mạnh đến nông nghiệp. R. Barker,

C.P. Timmer, V.B.J. Tolentino,2003, Tr.164].

Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội trong luận án này nhằm giải thích sự

biến cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp

là một dạng biến đổi có hoạch định, từ chủ trương biến đổi cơ cấu nền kinh tế

của Chính phủ là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp

do đó dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp, dịch vụ mà dẫn

đến người nông dân phải chuyển đổi việc làm. Do tính chất của sự biến đổi liên

quan chặt chẽ đến miếng cơm manh áo, sinh kế và những nhu cầu cấp báchcủa

người dân nên mức độ biến đổi là rất nhanh, kết quả của sự biến đổi cho thấy

74

hiển hiện trong đời sống hàng ngày mà ta có thể đo đạc được.

Việc thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra biến đổi vĩ mô đó là biến đổi cơ

cấu xã hội song vừa biến đổi vi ở chỗ đã tác động đến hành vi, tâm thế của từng

cá nhân, từng hộ gia đình, từng độ tuổi, từng giới tính.

Do đó, vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội cho phép luận án luận giải được

một số khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.

2.2.2. Lý thuyết di động xã hội

Lý thuyết di động xã hội không chỉ quan tâm đến sự di động một cách

cơ học mà sâu xa hơn là đặt trọng tâm nghiên cứu sự dịch chuyển đị vị, vị thế

xã hội của mỗi cá nhân trongcơ cấu xã hội, hệ thống phân tầng xã hội. Đã có

nhiều nhà xã hội học nghiên cứu về di động xã hội: giữa thế kỷ XIX có

K.Marx, M.Weber, T.Parsons, J.H.Fichte, J.Mill, đầu thế kỷ XX có M.Pareto,

H.Kaelbel, A.Beteille và nhiều người khác. Thuyết di động xã hội phân tích

sự dịch chuyển về vị trí, vị thế, địa vị xã hội của mỗi cá nhân trong hệ thống

xã hội. Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội,

là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia

đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng

2010, Tr.78]

Trong mỗi hệ thống xã hội bao giờ các nhân cũng có những vị trí xã hội

xác định. Vị trí xã hội hội (social position) của các cá nhân là vị trí tương đối

của cá nhân trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các quan hệ xã hội nhất định.

Mỗi cá nhân tham gia và các mối quan hệ xã hội khác nhau, và trong các mối

quan hệ xã hội đó, cá nhân xác định được các vị trí xã hội của mình. Như vị

trí xã hội của cá nhân trong gia đình, nhà trương, cơ quan, đơn vị....Vị trí xã

hội của cá nhân được xác định trong sự đối chiếu, so sánh với các vị trí xã hội

khác. Những vị trí xã hội bao giờ cũng đi cùng với cùng với những quyền lợi

và nghĩa vụ tương ứng với các vị trí xã hội đó. Các quyền và nghĩa vụ này

75

thường tương ứng với nhau, và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ

quan của các xã hội, các nền văn hóa thậm chí của các nhóm xã hội nhỏ

Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr89]. Do vậy vị thế xã hội của một

người nào đó chính là địa vị hay thứ bậc mà những người sồng cùng thời dành

cho trong bối cảnh anh ta sinh sống, lao động và phát triển Phan trọng Ngọ,

1997, Tr.55]. Tất cả mọi người đều có vị thế xã hội, từ lúc lọt lòng con người

đã có vị thế xã hội của mình, nghĩa là vị thế không liên quan đến ý kiến chủ

quan của mỗi người về bản thân mình mà vị thế xã hội của mỗi người là chỗ

đứng, là thứ bậc mà xã hội dành cho một cách khách quan, hay là những gì

mà những người trong xã hội nghĩ về cá nhân. Từ những quyền lợi, khả năng

làm việc, khả năng ảnh hưởng và sự tôn trọng của xã hội đối với một vị thế xã

hội dẫn đến địa vị xă hội của một các nhân trong đời sống xã hội. Mỗi một cá

nhân tham gia vào nhiều cơ cấu xã hội khác nhau, nhiều hệ thống xã hội khác

nhau. Do đó có thể có nhiều vị trí, vị thế, và địa vị xã hội khác nhau. Tuy

nhiên khi nói đến địa vị xã hội của một chủ thể hành động ta luôn hướng tới

một đánh giá chung về địa vị xã hội của các nhân trong lòng xã hội dựa trên

địa vị xã hội trọng yếu mà các nhân đó có được (tùy thuộc vào văn hóa, thể

chế, ý thức xã hội). Địa vị xã hội như vậy được xác định như là sự xác định vị

trí của cá nhân trong cơ cấu xã hội, Tống Văn Chung 2005, Tr.33] nó mang

tính chất ổn định, gắn liền với sự mong đợi đặc thù, những quyền và trách

nhiệm của chủ thể hành động Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.298].

Các địa vị xã hội nằm trong một hệ thống xã hội xác định. Hệ thống xã hội

như là một hệ thống các cá nhân tương tác với nhau trong một hoàn cảnh mà

ít nhất cần có yếu tố vật chất hoặc môi trường, những chủ thể hành động

(actors) được khuyến khích theo xu hướng thỏa mãn. Mối quan hệ giữa họ với

hoàn cảnh của họ được xác định trong một hệ thống các biểu trưng được cấu

trúc và cùng chia sẻ về mặt văn hóa” Tống Văn Chung 2005, tr.34]. Và sự di

động xã hội được thể hiện qua sự thay đổi về địa vị xã hội. Những “địa vị xã

76

hội gán cho” ít có khả năng thay đổi mà những “địa vị xã hội đạt được” sẽ

làm cho các các nhân có thể di động, “đổi vai” trong hệ thống xã hội. Như

vậy đối với mỗi một các nhân cần xác định những vị trí, vị thế xã hội trong

cấu trúc xã hội xem sét sự thay đổi về địa vị xã hội sẽ thấy quá trình di động

xã hội, vị thế và vai trò của các nhân trong hệ thống xã hội.

Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội, là

khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia

đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Do vậy, di động xã hội liên quan đến

sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã hội khác

trong hệ thống phân tầng xã hội. Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị trí

trong hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các

cá nhân giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới, sự

biến đổi cơ cấu xã hội.

Người ta có thể phân biệt di động xã hội theo hai khía cạnh khác nhau.

Một là di động giữa các thế hệ. Thế hệ con cái có địa vị cao hơn hoặc thấp

hơn so với địa vị của thế hệ cha mẹ của họ. Đây là một trong những hình thức

di động quan trọng trong xã hội. Hai là di động trong thế hệ. Trong trường

hợp này, một người thay đổi vị trí nghề nghiệp, nơi cư trú trong cuộc đời làm

việc của mình, có thể thấp hơn hoặc kém hơn so với người cùng thế hệ mình.

Di động xã hội được xác định như là sự vận động của các cá nhân hay

một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị này sang vị trí, địa vị khác. Vì vậy, khi

nghiên cứu di động xã hội, các nhà xã hội học còn chú ý tới các hình thức di

động khác: di động theo chiều ngang và di động theo chiều dọc.

Di động theo chiều ngang: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các

nhóm xă hội, giai cấp xă hội tới vị trí ngang bằng về mặt xă hội. Theo

A.Giddens, trong các xă hội hiện đại, di động theo chiều ngang cũng rất phổ

biến, nó liên quan đến sự di chuyển địa lý giữa các khu vực, các thị trấn,

77

thành phố hoặc các vùng Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.263].

Di động theo chiều dọc: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các

nhóm xã hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc

thấp hơn. Biểu hiện cảu hình thức này di động là sự thăng tiến, đề bạt (di

động lên) và miễn nhiệm, rút lui, lùi xuống, thất bại (di động xuống) Phạm

Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.263].

Cần chú ý là, di động xã hội chủ yếu nói tới dạng địa vị đạt được (giành

được),chứ không phải địa vị gắn cho (có sẵn). Ví như, để phân biệt điều này,

Getard O’Donnell, (1994) phân biệt hai loại di động sau:

- Di động được sự bảo trợ: đạt được địa vị cao bởi nguyên nhân hoàn

cảnh gia đình hoặc yếu tố khác không trực tiếp liên quan đến khả năng hoạc

sự nỗ lực, cố gắng.

- Di động do tranh tài: Đạt được địa vị cao trên cơ sở của sự nỗ lực và

tài năng.

Ngoài các dạng di động nêu trên có thể nêu hai loại nữa. Thứ nhất là di

động cơ cấu. Đây là sự di động xã hội với tư cách là kết quả của sự thay đổi

trong quá trình phân phối các địa vị trong xã hội. Di động cơ cấu diễn ra bất

chấp quy tắc thống trị của địa vị. Thứ hai là di động trao đổi. Trong dạng di

động này một số người thăng tiến (di động lên) thay vào vị trí của một số

người khác di động xuống, kết quả tạo nên sự cân bằng cơ cấu xã hội.

Di động xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau.

Theo cách nói của nhà xă hội học P.Sorokin trong cuốn sách “di động xã hội”

(1927), những nhân tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội là các “kênh dẫn” và

các “cơ chế sàng lọc” liên quan tới hoàn cảnh kinh tế - xã hội chung và đặc

thù mỗi vùng, miền và các đặc điểm của cá nhân như hoàn cảnh gia đình,

trình độ học vấn, lứa tuổi, giới tính, v.v.. Về di động dọc, ông xem xét trong

ba khía cạnh, tương ứng với ba hình thức của phân tầng xã hội (social

strafication) (chính trị, kinh tế và nghề nghiệp): sự di chuyển trong nội bộ

78

nghề nghiệp, giữa các nghề, sự quay vòng (circulation) chính trị và sự di động

theo các “thang bậc” kinh tế. Khi đó Sorokin đã phân biệt di động trong

những giai đoạn bình thường, “chuẩn” (normal) về sự ổn định xã hội nhất

định với sự di động trong những giai đoạn xã hội bị suy thoái về cấu trúc

(disorganization) (chiến tranh, thời kì cách mạng, nạn đói, mất mùa…). Nếu

trong những giai đoạn bình thường di động xã hội là quá trình đều đều, được

điều tiết bởi những quy luật cứng nhắc và định rõ ràng, thì trong những thời

điểm hiểm nghèo, khó khăn nhất tính trật tự, tính tuần tự, và tính chất bị kiểm

soát một cách chặt chẽ của di động xã hội thực tế bị phá vỡ, hay nói cách khác

những đặc trưng hỗn loạn biểu hiện ra. Pitirim Sorokin,1928]

Có thể dẫn ra một số yếu tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội sau

đây: Căn cứ vào dòng dõi xuất thân; Giới tính và lứa tuổi; Dân tộc, tôn

giáo Học vấn, tài năng, năng khiếu; Tài sản, của cải của bản thân và gia

đình; Nghề nghiệp.

Bên cạnh đó Glass khi nghiên cứu về di động xã hội của xã hội phương

Tây hiện đại. Khi nghiên cứu những xu hướng di động xã hội trước những

năm 1950 Glass thấy rằng, mặc dầu có nhiều người đàn ông kinh qua sự di

chuyển, phần lớn những di động này có tầm ngắn và đi ngang qua những mức

giữa của tổ chức thứ bậc “khu đệm” (trung gian), và ông thấy rằng sự phân

chia giai cấp không bị sự vận động này phá vỡ. Nhữngg người ở đây hiếm khi

di chuyển lên trên, và gần một nửa những người con trai của giai cấp trung

lưu, vẫn ở lại địa vị của cha mẹ. Glass Social,1950]

Vận dụng lý thuyết di động xã hội trong luận án này tác giả nhằm đến

mục đích lý giải sự tác động của thu hồi đất nông nghiệp làm biến đổi cấu trúc

lao động, việc làm của người dân thì tác động như thế nào đến mức độ cơ động,

dịch chuyển của các cá nhân hay một nhóm lao động cả về địa lý cũng như vị

trí xã hội của họ. Nhân tố tác động đến di động xã hội theo Sorokin thì đó

79

chính là ruộng đất thu hẹp lại hoặc không còn nữa, tạo nên sự di động xã hội.

2.2.3. Lý thuyết thị trường lao động

Đặc điểm, cấu trúc của thị trƣờng lao động

Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của thị trường các yếu tố

sản xuất. Thị trường lao động chỉ có thể hoạt động có hiệu quả chỉ khi các

quyền tự do mua bán sức lao động được đảm bảo bằng luật pháp và hệ thống

các chính sách đi kèm liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia

thị trường. Thị trường lao động chỉ có thể hình thành khi hội tụ đủ các yếu tố

như: (i) Có nền kinh tế hàng hoá phát triển theo cơ chế thị trường, (ii) có định

chế pháp luật cho phép tồn tại thị trường lao động: trong đó người chủ sử

dụng lao động có quyền tự do mua sức lao động; còn người lao động có

quyền tự do bán sức lao động của mình, (iii) Người lao động không sở hữu tư

liệu sản xuất đủ đảm bảo các nhu cầu tối thiểu của bản thân và của gia

đình.[K.W.H. van Beek,1993]

Thị trường lao động là một loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị

trường. Đây là loại thị trường của một loại hàng hóa đặc biệt vì nó liên quan

trực tiếp đến con người. Nghiên cứu lý luận về thị trường lao động được bắt

đầu từ những khái niệm, bao gồm những định nghĩa và lý giải về bản chất

hiện tượng, sự vật và những biểu hiện của nó trong những bối cảnh khác

nhau, đặc biệt nhấn mạnh đối tượng thị trường lao động.

Có rất nhiều quan niệm về thị trường sức lao động, mỗi quan niệm nhấn

mạnh một phương diện nào đó của thị trường.

- Theo A.Smith: “Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng

hoá sức lao động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên là người mua sức lao

động và người bán sức lao động” Nguyễn Tiệp 2007, Tr.11-12] khái niệm

này nhấn mạnh đối tượng trao đổi trên thị trường lao động là sức lao động

chứ không phải người lao động, ở đây người lao động là chủ sở hữu sức lao

động của mình, họ chỉ đem bán sức lao động mà không phải bán bản thân

80

người lao động.

- Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO đưa ra định nghĩa: “Thị trường lao

động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một

quá trình thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như

mức độ tiền công” Nguyễn Tiệp, 2007, Tr.11-12]. Khái niệm này nhấn mạnh

đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm và tiền công.

- Theo các nhà khoa học Mỹ thì: “Thị trường mà đảm bảo việc làm cho

người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm được gọi là thị

trường lao động Tổng cục Dạy nghề, 2007, Tr.21]. Định nghĩa này nhấn

mạnh đến quan hệ điều tiết giải quyết việc làm.

- Theo các nhà khoa học kinh tế Nga thì: "Thị trường lao động được hiểu

như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó

có cả luật pháp), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động"

Tổng cục Dạy nghề, 2007, Tr.21]. Quan niệm này cũng nhấn mạnh quan hệ

giải quyết việc làm cho lao động làm thuê.

- Theo Đại từ điển kinh tế thị trường: "Thị trường lao động là nơi mua bán

sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử dụng

lao động (cầu lao động)” Nguyễn Hữu Dũng, 2005, Tr.10]. Quan niệm này

nhấn mạnh mối quan hệ trên thị trường lao động là quan hệ giữa cung và cầu

lao động.

- Theo các nhà kinh tế Việt Nam cho rằng:

Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong

lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất

như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội,

tranh chấp lao động …), ở đó diễn ra sự trao đổi, thỏa thuận giữa một bên là

người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động. Tổng cục Dạy

nghề, 2007, tr 21]

"Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có

81

sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số

lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng”

Tổng cục Dạy nghề, 2007, 25], "thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa

sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là những

người cần thuê sức lao động đó” 101, Phạm Đức Thành, 1998, Tr.73]. Các

quan niệm này chỉ rõ có sự thống nhất trao đổi mua bán sức lao động giữa

người thuê lao động và lao động làm thuê.

Sự vận động của thị trường sức lao động tuân thủ các quy luật của nền

kinh tế thị trường. Hàng hoá trên thị trường lao động chính là sức lao động có

tiềm năng về thể lực, trí lực của người lao động, quan hệ cung cầu lao động

trên thị trường lao động là quan hệ thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao

động (về việc làm, nghỉ ngơi, tiền công, và các điều kiện làm việc khác).

Khác với các hàng hoá thông thường, thị trường sức lao động luôn gắn

với chủ thể mang nó, do đó thị trường sức lao động chỉ có thể thực hiện được

trong điều kiện người lao động làm chủ khả năng của mình. Thông qua thị

trường sức lao động, sức lao động được bán, được mua trong một thời hạn xác

định. Con người là chủ thể hàng hoá sức lao động, vì vậy, việc cung ứng lao

động phụ thuộc vào những đặc điểm tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao động.

Qua các khái niệm trên cho thấy tính phức tạp trong nhận thức về thị

trường sức lao động, đôi khi dùng thuật ngữ "thị trường lao động”, lúc dùng

"thị trường sức lao động”. Mặc dù còn có những điểm khác biệt, song về cơ

bản các quan niệm trên đều thống nhất với nhau về nội dung các điều kiện

hình thành thị trường sức lao động, đó là: người bán sức lao động, người mua

sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về những

nội dung này. Từ đó có thể hiểu:

Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong

đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên

82

là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên

cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc,

bảo hiểm xã hội… thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng

miệng. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 1999, Tr.39]

Quan niệm này càng khẳng định rõ hơn về thị trường sức lao động "thị

trường sức lao động là một hợp phần của kinh tế thị trường. Cũng như bất kỳ

một hình thái thị trường nào, các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động bao

gồm: người mua, người bán và hàng hoá” Nguyễn Hữu Dũng, 2005, Tr.76],

nó đòi hỏi phải giải quyết tốt quan hệ giữa người và người, chủ thể của xã hội.

Tuy nhiên, thị trường sức lao động được hình thành và phát triển cùng với

sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do đó, khi tiếp cận và nghiên cứu thuật

ngữ sử dụng có sự khác nhau "thị trường lao động”, "thị trường sức lao động".

Theo Mác, dùng thuật ngữ "sức lao động” để phân tích, vạch rõ bản

chất bên trong của phương thức sản xuất tư bản và khẳng định người công

nhân bán sức lao động chứ không phải bán lao động. K.Marx cho rằng, sức

lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể lực, trí lực của con người, nó nói

lên khả năng có thể lao động, là hoạt động có mục đích của con người, là tiêu

dùng sức lao động trong quá trình lao động.

Khi K. Marx nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá tư

bản chủ nghĩa, K.Marx sử dụng thuật ngữ "thị trường sức lao động" để

phân tích biểu hiện bề ngoài khi quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra "tại

sao người lao động tự do ấy đứng đối diện với người chủ tiền trong lĩnh

vực lưu thông, vấn đề ấy không làm bận tâm người chủ tiền là người đã tìm

thấy thị trường lao động với tính cách là một chi nhánh đặc biệt của thị

trường hàng hoá" K.Marx và Engels, 1993, Tr.253].

Vì vậy "thị trường lao động” (Labour Market) là cách gọi khác nhưng

thực chất là thị trường sức lao động, hơn nữa nếu xem xét đối tượng mua và

83

bán trên thị trường sức lao động là "sức lao động”, nên chính xác thì phải

được gọi là "thị trường sức lao động". Nhưng thực tế, trong các văn bản chính

thống của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cũng như ở nhiều nước phát triển

và ở Việt Nam thường dùng tên gọi "thị trường lao động". Cho nên trong luận

văn việc sử dụng khái niệm thị trường lao động và thị trường sức lao động là

đồng nhất với nhau.

Khi phân tích về thị trường lao động chúng ta cần tìm hiểu các yếu tố

hàn hóa sức lao động, cung lao đông, cầu lao động, giá cả sức lao động, cân

bằng và cạnh tranh trên thị trường lao động. Trong đó cung và cầu lao động là

hai yếu tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến giá cả sức lao động, cân

bằng và cạnh tranh trên thị trường lao động.

Quá trình lao động sản xuất là sự kết hợp của ba yếu tố: sức lao động,

đối tượng lao động và tư liệu lao động, mỗi yếu tố đóng vai trò nhất định

trong quá trình sản xuất, trong đó sức lao động là yếu tố quyết định. Lao động

chính là quá trình đang vận dụng sức lao động. Theo K.Marx: "Sức lao động

hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể thể chất và tinh thần tồn

tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống,và được người đó đem ra

vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". K.Marx và Engels,

1993, Tr.251]

Từ khái niệm của Marx về sức lao động có thể hiểu sức lao động bao gồm

toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và

được người đó vận dụng vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó. Thể

lực chính là phần xương thịt của mỗi con người được thể hiện ở ngoại hình:

chiều cao, cân nặng và khả năng hoạt động của mỗi con người. Trí lực là phần

tinh thần, sự thoải mái của con người, sở thích và năng lực chuyên môn. Các

bộ phận này thống nhất với nhau trong một cơ thể sống, sức lao động là yếu

tố tiềm năng của mỗi con người, nó được biểu hiện ra bên ngoài thông qua

84

quá trình con người tiến hành lao động sản xuất. Sức lao động của mỗi con

người đang sống chỉ được người khác nhận biết khi nó tham gia sản xuất ra

một giá trị sử dụng nào đó.

Quá trình lao động chỉ con người mới có, con người không chỉ làm biến

đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp; trong những cái đó, con người

cũng đồng thời thực hiện cái mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết

định phương thức hành động của họ giống như một quy luật và bắt ý chí của

họ phải phục tùng nó.

Sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong người lao động,

còn lao động là một quá trình họat động nhằm một mục đích nhất định, là sự

kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.

Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của quá

trình sản xuất. Nhưng nó chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện sau đây:

Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể được pháp

luật bảo vệ. nghĩa là người có sức lao động có quyền sở hữu khả năng lao

động của mình, có thể mang ra thị trường bán như một hàng hoá đặc biệt.

[K.Marx và Engels, 1993, tr252]

Hai là, người có sức lao động không còn tài sản nào để bán anh ta buộc

phải đem bán chính ngay cái sức lao động đang tồn tại ở trong cơ thể của cá

nhân.[ K.Marx và Engels, 1993,Tr.253]

Như vậy, sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ cả hai điều kiện

chủ yếu trên vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu

sản xuất trong tay thì họ sẽ tự tiến hành sản xuất ra hàng hóa để bán chứ

không bán sức lao động của mình.

- Phân loại thị trƣờng sức lao động

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường sức lao động hình thành, phát

triển và hoạt động rất đa dạng với nhiều phân lớp khác nhau. Trong thực tế thị

85

trường sức lao động được phân chia thành các loại sau đây:

+ Phân theo khu vực chia ra thị trường nông thôn và thị trường thành thị.

+ Phân chia theo trình độ quản lý có thị trường sức lao động chính thức

và phi chính thức.

+ Phân chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có thị trường sức lao

động giản đơn và thị trường sức lao động qua đào tạo, trong đó có thị trường

sức lao động trình độ cao. Rafael Lopes de Melo,2008, tr172]

Qua phân tích các đặc điểm và tính chất của thị trường lao động ở xã

hội công nghiệp nhà nghiên cứu Richard Edwards đưa ra lý thuyết thị trường

kép lao động. theo lý thuyết này bất kỳ một thị trường lao động nào cũng

đồng thời tồn tại hai khu vực trung tâm và ngoại vi, hay thị trường hạng nhất

và hạng hai đi liền với nhau.

Thị trường khu vực trung tâm, gồm những công việc được trả lương

cao và có uy tín xã hội. Những lao động nghề nghiệp cổ trắng tức là những

lao động có trình độ chuyên môn cao như bác sỹ, kỹ sư, luật sư thuộc thị

trường lao động này.

Thị trường lao động ngoại vi gồm những loại công việc làm nặng nhọc

và tiền công thấp, chế độ bảo hiểm và phúc lợi kém, uy tín xã hội không cao.

Những lao động cổ cồn xanh và lao động phổ thông thuộc thị trường này.

Thị trường kép lao động chủ yếu nhấn mạnh sự phân cấp về chất của

lao động trên thị trường lao động tức là sự phân chia lao động theo chiều dọc,

trong khi đó lý thuyết thị trường lao động nhánh hay ngách về lao động nói

tới sự phân chia thị trường lao động theo chiều ngang tức là phân chia theo

loại lao động.

Căn cứ vào đặc điểm và tính chất của cấu trúc thị trường lao động xã

hội có thể phát hiện được xu hướng phân hóa và chuyên môn hóa lao động xã

86

hội hiện đại. Một số tác giả dự báo rằng khoảng cách giữa hai thị trường lao

động được trả công ngày càng cao được nhiều người hâm mộ, coi trọng trong

khi số khác bị coi nhẹ và trả công thấp. [Chris Tilly, 2004, Tr.267-268].

Vận dụng lý thuyết Thị Trường lao động trong luận án này tác giả

nhằm hướng đến phân tích khi diện tích đất nông nghiệp thu hồi, người dân

buộc phải tìm công việc khác để làm ăn kiếm sống tất yếu tạo nên một thị

trường sức lao động mới, nhóm lao động trên 40 tuổi và nhóm lao động trẻ

bắt đầu bước chân vào thị trường lao động sẽ phân hóa, nhóm lao động có

trình độ học vấn khác nhau, giới tính… cơ hội cho các nhóm lao động là khác

nhau. Bên cạnh đó, luận án còn vận dụng lý thuyết thị trường lao động để

phân tích về sự biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực

thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn khảo sát làm nảy sinh quan hệ lao động

mới, chủ- thợ, chủ - người làm thuê.

2.3 Khái quát về chính sách đất đai và thu hối đất nông nghiệp

2.3.1 Tổng quan hệ thống chính sách pháp luật về thu hồi và chuyển

đổi đất đai tại Việt Nam

Đất đai là một trong những tư liệu sản xuất quan trọng không chỉ với

những quốc gia nông nghiệp mà còn với cả những quốc gia công nghiệp hiện

đại. Thực tế cho thấy quá trình phát triển công nghiệp có xuất phát điểm và

dựa rất nhiều vào các nguồn lực được cung cấp từ nông nghiệp, trong đó có

đất đai và lao động. Ở khía cạnh chính sách, việc quản lý về đất đai là một

trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu của Nhà nước và chính sách của

các quốc gia trên thế giới trong quản lý đất đai cũng thường xuyên có sự thay

đổi cho phù hợp với thực tiễn phát triển. Tại Việt Nam trong bối cảnh nền

kinh tế thị trường đang phát triển sôi động các chính sách quản lư về đất đai

cũng có sự điều chỉnh liên tục trong đó chủ yếu xoay quanh mối quan hệ giữa

87

đất đai với các bên có liên quan: Nhà nước, người dân và nhà đầu tư.

Vấn đề về sở hữu đất đai đã và đều được quy định trong Hiến pháp của

Việt Nam kể từ hiến pháp đầu tiên (năm 1946) tới Hiến pháp thứ tư (năm

1992) bên cạnh đó là các bộ Luật có liên quan, đáng kể nhất là Luật đất đai.

Tính đến nay Việt Nam cũng đã có 3 bộ luật về đất đai cũ nhất là Luật đất đai

năm 1987 (trước đó là Luật cải cách ruộng đất năm 1953) và mới nhất là Luật

đất đai năm 2003, sắp tới có thể Luật sửa đổi, bổ sung cho Luật đất đai sẽ

được thông qua. Một trong những thay đổi đáng kể của Luật đất đai qua thời

gian chính là việc xác lập thị trường đất đai đồng thời cơ chế thu hồi đất đai

cũng đã có sự thay đổi. Trước khi có Luật đất đai năm 2003 cơ chế thu hồi đất

đai chỉ thực hiện theo hình thức bắt buộc và cơ chế chuyển đổi đất đai tự

nguyện chỉ ra đời sau khi có Luật này. Cơ chế chuyển đổi đất đai tự nguyện

được áp dụng cho các dự án đầu tư kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận có vốn đầu

tư trong nước hoặc liên doanh với nước ngoài với tổng mức vốn đầu tư thuộc

nhóm dưới nhóm A. Đặng Hùng Võ, 2009]

Hiện nay chưa có một thống kê chính xác về số lượng các văn bản, chính

sách có liên quan tới vấn đề quản lý đất đai tại Việt Nam bởi số lượng văn bản là

quá nhiều, trong đó chỉ xét riêng các chính sách về thu hồi đất nông nghiệp cho

các mục đích phi nông nghiệp số lượng chính sách có liên quan cũng rất lớn.

Tuy đã có rất nhiều những điều chỉnh ở khía cạnh chính sách về đất đai song

thực tế cho thấy các vấn đề về đất đai luôn gây ra nhiều các tranh chấp, khiếu

kiện. Giai đoạn 2003-2006, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được khoảng

30,000 đơn thư liên quan. Số lượng khiếu kiện tăng đều đặn qua các năm cả ở

nhóm người bị ảnh hưởng cũng như của các nhà đầu tư. Trong khi đó theo thống

kê của Thanh tra Chính phủ tính đến hết quý III năm 2010 cả nước có khoảng

112 nghìn vụ khiếu kiện, tố cáo và có tới 70% liên quan tới đất đai. Đối với các

vấn đề liên quan tới đất đai các nội dung khiếu nại chủ yếu xoay quanh việc thực

88

thi không đúng các chính sách về bồi thường và tái định cư. Trong đó những ý

kiến về việc định giá đất nông nghiệp quá thấp nổi bật hơn cả. Các kết quả này

cho thấy chính sách quản lý đất đai nói chung và xét riêng với các chính sách về

thu hồi và chuyển đổi đất đai tại Việt Nam cần phải tiếp tục được hoàn thiện,

trong đó hướng tới việc đưa ra những quy định chi tiết, rành mạch về quyền và

nghĩa vụ của các bên có liên quan. Quá trình này cũng là một giải pháp để hạn

chế, giảm thiểu những tiêu cực trong quản lý đất đai vốn được nhận diện là một

trong những mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.

Luật đất đai đầu tiên năm 1987 tuy đã đảm bảo quyền sử dụng đất của

cá nhân, hộ gia đình song thị trường đất đai lại không được công nhận, do đó

đất thực tế không có giá trị. Đến năm 1993, Luật đất đai xác định sở hữu toàn

dân về đất đai, đồng thời Nhà nước có quy định về giá đất, nói các khác đất

đai đã có giá và cá nhân, hộ gia đình có quyền thực hiện các hoạt động có liên

quan như chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê...Quy định về việc thu hồi đất chỉ

áp dụng theo cơ chế Nhà nước thu hồi. Các tổ chức kinh tế chỉ có thể tiếp cận

với đất đai thông qua hình thức thuê của Nhà nước. Các quy định quan trọng

này đã có sự thay đổi đáng kể sau khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực.

Theo đó, đất đai thuộc sở hữu toàn dân đồng thời công nhận giá đất trên thị

trường. Đặc biệt hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện đã được áp dụng và

hạn chế các biện pháp thu hồi mang tính bắt buộc. Các vấn đề về đền bù và tái

định cư cũng được quy định cụ thể. Các tổ chức kinh tế trong nước có thể lựa

chọn hình thức Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất. Cùng với những thay

đổi nói trên các cơ chế quản lý, giám sát cũng được nâng cao và đi kèm với

đó là những quy định mới về giải quyết các tranh chấp, khiếu nại có liên quan

tới đất đai.

Thực tế cho thấy cả hai mô hình chuyển đổi đất đai bắt buộc và tự

nguyện đều có những ưu, nhược điểm nhất định, trong đó mặc dù Nhà nước

89

khuyến khích áp dụng hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện song các quy

định này còn nhiều bất cập khiến việc thực hiện chính sách có nhiều vướng

mắc chỉ sau một thời gian ngắn thực hiện. Đáng kể hơn cả chính là việc thiếu

các quy định xử lý trong các trường hợp người sử dụng đất cố tình không bàn

giao đất cho chủ đầu tư hoặc đưa ra một mức giá quá cao. Chính vì thế sau

một thời gian thực hiện các chủ đầu tư lại mong muốn chỉ áp dụng hình thức

chuyển đổi đất đai bắt buộc. So với hình thức chuyển đổi đất đai bắt buộc,

hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện nếu đạt được sự đồng thuận cao giữa

các bên có liên quan (người sử dụng đất và nhà đầu tư) thì thời gian thực hiện

việc chuyển đổi thường ngắn, quyền lợi của người dân, chủ đầu tư cũng như

lợi ích của Nhà nước được đảm bảo Đặng Hùng Võ, 2009]. Bên cạnh đó, nếu

áp dụng theo cơ chế này sự tham gia của bộ máy hành chính vào các hoạt

động nói trên cũng giảm thiểu đáng kể, từ đó giảm đi những nguy cơ quan

liêu, tham nhũng từ các hoạt động này. Mặt khác, điểm mạnh đáng kể của

hình thức chuyển đổi đất đai tự nguyện có thể giúp loại bỏ đi các nhà đầu tư

không có năng lực, chủ yếu lập dự án để nhằm chiếm đất và chuyển nhượng...

điều mà cơ chế chuyển đổi đất đai bắt buộc chưa thể làm được. Với những

điểm mạnh nói trên, mô hình này đã được nhiều địa phương áp dụng và mang

lại nhiều hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, như đã nói khi đã trao quyền tự thỏa

thuận giữa doanh nghiệp và người dân lại xuất hiện tình trạng một bộ phận

người dân không hợp tác với nhà đầu tư bằng cách đưa ra mức giá quá cao so

với phần còn lại. Trong khi đó các quy định pháp luật có liên quan lại chưa có

các chế tài xử lư trong trường hợp này, do đó mô hình chuyển đổi đất đai tự

nguyện dù rất tốt, dù được Nhà nước khuyến khích song lại không được áp

dụng rộng rãi trong thực tế.

Đối với hình thức thu hồi đất bắt buộc hiện nay vấn đề bồi thường,

chuyển đổi nghề nghiệp và tái định cư cho người dân là những vấn đề phức

90

tạp nhất. Pháp luật về đất đai quy định việc đền bù phải tính theo giá thị

trường, tuy nhiên lại không có quy định về quy trình định giá thị trường do đó

giá vẫn do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. Bên cạnh đó việc

định giá đối với đất nông nghiệp cũng còn rất nhiều vấn đề, thông thường đất

nông nghiệp được định giá rất thấp do pháp luật quy định giá đất nông nghiệp

được định giá dựa trên lợi nhuận thu được từ sản xuất nông nghiệp mà từ

trước tới nay giá trị của nông sản luôn rất thấp. Mặt khác việc chuyển đổi

nghề nghiệp cho nhóm nông dân mất đất thường rất khó khăn do trình độ học

vấn hạn chế, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc không có do vậy hiệu

quả của các chính sách đào tạo nghề cho nông dân mất đất nói chung còn

nhiều hạn chế. Một số các địa phương khi thực hiện thu hồi đất đã áp dụng

hình thức đổi đất thu hồi lấy đất dịch vụ để góp phần tạo ra chuyển đổi nghề

nghiệp, việc làm cho hộ gia đình. Tuy nhiên, hình thức này không phải địa

phương nào cũng áp dụng và không phải địa phương nào áp dụng cũng đạt

hiệu quả do có rất nhiều dự án “treo”. Hiện nay các doanh nghiệp khi tiếp cận

với đất đai của người dân đều có cam kết hoặc hứa hẹn về việc sử dụng lao

động địa phương trong KCN/doanh nghiệp, tuy nhiên rất ít những doanh

nghiệp đã thực hiện tốt điều này kể cả trong những trường hợp có cam kết.

Đồng thời sự tham gia, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp tại các khu

vực bị thu hồi đất cũng còn nhiều hạn chế.

Bối cảnh nền kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó khăn cũng là lúc nhiều vấn

đề trong chính sách thu hút đầu tư đã được bộc lộ rõ ràng. Phong trào nhà nhà

làm các khu/cụm công nghiệp đã và đang gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới

phát triển kinh tế xã hội và môi trường. Tình trạng doanh nghiệp lợi dụng

chính sách thu hút đầu tư để chiếm đất nhưng không/hoặc sản xuất kinh

doanh cầm chừng, thậm chí sang nhượng đất đai...diễn ra ở hầu hết các địa

phương trên cả nước...trong khi đó người dân nhiều nơi lại thiếu đất sản xuất

và những cú sốc xã hội từ quá trình thu hồi đất là điều mà không nhiều các địa

91

phương bị thu hồi tránh được. Rõ ràng, chính sách pháp luật về đất đai nói

chung và vấn thu hồi, chuyển nhượng đất đai, nhất là đất nông nghiệp cho các

mục đích phi nông nghiệp cần phải sớm được Nhà nước xem xét điều chỉnh.

Với sự liên quan mật thiết với hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất trong thực

tiễn việc điều chỉnh các chính sách quản lý về đất đai cần được tính đến mọi

yếu tố có liên quan từ chính sách thu hút đầu tư, chính sách lao động, việc

làm, chính sách di cư, cũng như xem xét hài hòa mối quan hệ giữa phát triển

kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Trong 10 năm qua Việt

Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng 10 năm qua cũng chứng

kiến quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp

lớn chưa từng có tại Việt Nam.

2.3.2. Tổng quan thực trạng thu hồi đất nông nghiệp tại Việt Nam

trong thời gian qua

“Tuy nền nông nghiệp rất rộng lớn, đa dạng và thay đổi nhanh chóng

nhưng với các chính sách đúng đắn và đầu tư hỗ trợ cấp địa phương, quốc

gia và toàn cầu, nông nghiệp vẫn đang tạo ra các cơ hội mới cho hàng trăm

triệu người nghèo nông thôn thoát nghèo. Những con đường thoát nghèo

thông qua nông nghiệp bao gồm canh tác hộ gia đình, chăn nuôi, tham gia

vào “nông nghiệp mới” với các sản phẩm giá trị cao, kinh doanh và các việc

làm trong nền kinh tế phi nông nghiệp đang hình thành ở nông thôn”. Ngân

hàng Thế giới, 2008]

Việt Nam đặt mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại vào năm 2020, tuy nhiên để hiện thực hóa được mục tiêu này

Việt Nam vẫn sẽ cần phải dựa vào các nguồn lực quan trọng của khu vực

nông nghiệp, nông thôn nhất là trong bối cảnh kinh tế vĩ mô gặp nhiều khó

khăn như hiện nay. Thực tế trong suốt giai đoạn 2001-2010, cả khi nền kinh tế

tăng trưởng mạnh mẽ cũng như những lúc khủng hoảng, nông nghiệp vẫn là

92

ngành duy trì được sự phát triển ổn định. Các mục tiêu tăng trưởng GDP hàng

năm luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên sau rất nhiều năm, năng suất

lao động của khu vực nông thôn nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp ở

Việt Nam nói riêng hiện nay vẫn còn rất thấp: “Tốc độ tăng năng suất lao

động hiện nay là khá thấp. Trong giai đoạn 1991-2000, tốc độ tăng năng suất

lao động bình quân theo ngành của ngành nông nghiệp chỉ đạt 2,57%, thấp

hơn nhiều so với tốc độ tăng năng suất của ngành công nghiệp (8,26%). Đến

giai đoạn 2001-2007, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân của ngành

nông nghiệp đã được cải thiện đáng kể, đạt 4,16% nhưng nhìn chung vẫn còn

thấp” UNDP, 2010]. Năng suất thấp cũng là một trong những lý do quan

trọng khiến nông nghiệp cần thay đổi theo cả hai hướng: (i) nhường đất cho

phát triển phi nông nghiệp và (ii) công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.

Cho đến nay cả hai hướng phát triển này đều đang diễn ra mạnh mẽ nhưng

vẫn đang chủ yếu ở khía cạnh bề rộng, chiều sâu của quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp còn hạn chế một phần vì đầu tư cho nông

nghiệp còn thấp trong khi quá trình nhường đất cho phát triển phi nông

nghiệp dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế nhưng

cũng làm nảy sinh vô vàn những bất cập xét ở cả 3 khía cạnh kinh tế, xã hội

và môi trường.

Đất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là một dạng tư liệu sản xuất quan

trọng mà còn gắn liền với những giá trị văn hóa của cộng đồng, gia đình,

thậm chí với cả một nền văn minh. Do đó, quá trình thu hồi đất không đơn

thuần tạo ra những thay đổi về sinh kế mà còn gây ra những ảnh hưởng khác,

đôi khi không thể nhìn thấy hoặc không chỉ diễn ra ở xung quanh thời điểm

thu hồi đất. Để có được khung sinh kế bền vững con người cần đến 5 loại

vốn: vốn vật chất, vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn tài chính và vốn con người.

Trong đó với người nông dân nếu không có đất nông nghiệp cũng có nghĩa

93

khung sinh kế bền vững của họ sẽ bị ảnh hưởng.

Báo cáo từ Bộ NN&PTNT cho thấy giai đoạn 2001-2005 bình quân

mỗi năm cả nước có khoảng 73,3 ngàn ha đất nông nghiệp bị thu hồi, chủ yếu

tập trung ở khu vực Đông Nam Bộ (ĐNB), Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH)

và Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). So với giai đoạn trước, giai đoạn

2006-2010 tốc độ thu hồi đất nông nghiệp đã chậm lại nhưng bình quân mỗi

năm cũng lên tới 37 ngàn ha. Tính chung cả giai đoạn 2001-2010 đã có gần 1

triệu ha đất nông nghiệp được chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp

đồng thời hơn 5 triệu ha đất bỏ hoang cũng đã được chuyển đổi cho nhiều

mục đích khác nhau WB, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển,

2011]. Cũng theo Bộ NN&PTNT trung bình mỗi ha đất nông nghiệp bị thu

hồi sẽ gây ảnh hưởng tới vấn đề việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp.

Như vậy trung bình trong vòng 10 năm qua mỗi năm có 1 triệu lao động nông

nghiệp bị ảnh hưởng từ quá trình thu hồi đất nông nghiệp. Các nghiên cứu về

vấn đề này cũng chỉ ra sau khi bị thu hồi đất tỷ lệ lao động tại các địa phương

không có việc làm hoặc việc làm không ổn định cũng gia tăng, chiếm khoảng

gần 30%, đồng thời di cư lao động từ nông thôn ra thành thị cũng tăng nhanh.

Quá trình thu hồi đất cũng đồng thời là quá trình thu hẹp diện tích đất

trồng lúa khi mà điểm đến của nhiều nhà đầu tư luôn là các khu vực trồng lúa.

Trong vòng 10 năm, diện tích đất lúa đã giảm gần 370 nghìn ha, xu hướng

này diễn ra ở hầu khắp các địa phương, trong đó riêng khu vực ĐBSCL mỗi

năm giảm khoảng 21 nghìn ha. Tốc độ “thu hẹp” diện tích đất trồng lúa đã lên

tới mức báo động và Chính phủ phải ra Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23 tháng

12 năm 2009 để đảm bảo an ninh lương thực thông qua mục tiêu giữ bằng

được 3,8 triệu ha đất lúa. Theo tính toán, nếu không có các giải pháp giữ đất

lúa cũng như nâng cao năng suất, sản lượng lúa có thể đến năm 2020 nguy cơ

Việt Nam không còn lúa gạo để xuất khẩu có thể trở thành sự thật. Báo Lao

94

động, 2010]

Phần lớn diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đều được sử dụng để phát

triển các khu, cụm công nghiệp. Tính từ năm 1991 khi khu chế xuất Tân

Thuận được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh tới nay cả nước đã có 260

KCN với diện tích đất tự nhiên là trên 71 nghìn ha trong đó mới có 173 KCN

đi vào hoạt động, phân bố ở hầu khắp các địa phương trong cả nước. Hoạt

động của các KCN đã giải quyết được công việc trực tiếp cho hơn 1,5 triệu

lao động, thu hút khoảng 8,500 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng 70 tỷ

USD và đóng góp hơn 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc W.

Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D. Irwin, 1955]. Rất nhiều các địa

phương đã thay da đổi thịt nhờ phát triển mô hình KCN và hiện nay hầu như

địa phương nào cũng muốn mở thêm, mở rộng các KCN nhằm thu hút đầu tư.

Tuy nhiên điều đáng nói ở chỗ hầu hết các KCN đều chọn các vị trí đắc địa

(với phần nhiều diện tích đất nông nghiệp có giá trị, đặc biệt là đất 2 lúa)

trong khi đó cho đến nay tỷ lệ lấp đầy các KCN ở Việt Nam còn rất thấp (chỉ

khoảng 50%). Hơn nữa, tình trạng quy hoạch treo lại diễn ra rất phổ biến và ở

hầu hết các địa phương không chỉ gây ra sự lãng phí to lớn đề đất đai mà còn

ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, việc làm của rất nhiều các hộ gia đình.

Ngoài vấn đề quy hoạch treo, liên quan tới việc chuyển đổi đất nông nghiệp

cho các mục đích phi nông nghiệp các Nhà quản lý và người dân cũng rất ái

ngại các hình thức dự án treo hay giải tỏa treo. Đặng Hùng Võ, 2009]

Tạo việc làm sau thu hồi đất cho lao động nông nghiệp là một bài toán

đã được đặt ra rất sớm cùng với quá trình thu hồi đất trong phát triển phi nông

nghiệp. Tuy nhiên dù các chính sách về hỗ trợ học nghề và tạo việc làm là

không ít (cả ở cấp TW và địa phương) song hiệu quả của các chính sách này

nhìn chung còn hạn chế. Lao động mất đất vì nhiều lý do khách quan và chủ

quan khác nhau hoặc không chuyển đổi được nghề nghiệp hoặc di chuyển

95

ngang từ khu vực có năng suất lao động thấp (nông nghiệp) sang khu vực có

năng suất lao động thấp khác (khu vực công nghiệp, dịch vụ kỹ năng thấp

hoặc không có kỹ năng). Đặc trưng của lao động nông nghiệp tại Việt Nam

hiện nay là kỹ năng thấp và độ tuổi cao. Chính vì thế rất ít người có thể đảm

bảo được các yêu cầu tuyển dụng “khắt khe” của các doanh nghiệp ngay

chính trên mảnh đất đã từng là của họ. Những lao động nông nghiệp có sức

khỏe, trình độ và dưới 35 tuổi hầu như rất ít do vậy ngay kể cả khi các doanh

nghiệp thực hiện đúng lời hứa tuyển dụng lao động địa phương thì cũng

không có nhiều người đủ các tiêu chuẩn nói trên. Việc chuyển đổi sang các

mô hình tiểu thủ công nghiệp cũng được nhiều địa phương tính đến, trong đó

cũng đã có nhiều địa phương thành công. Tuy nhiên, đầu ra của các sản phẩm

tiểu thủ công nghiệp thường bấp bênh, tính chất sản xuất chủ yếu lại mang

tính gia công nên thu nhập của người dân thấp và không ổn định. Nhiều mô

hình sau khi ra đời, thậm chí đã thành công nhưng rồi lại thất bại nhanh

chóng. Cũng vì những lý do nói trên nên dòng di cư nông thôn đô thị tiếp tục

gia tăng và nhiều vùng nông thôn hiện nay chỉ còn người già và trẻ con.

Những ảnh hưởng này sẽ giảm bớt đáng kể nếu các dự án thu hồi đất thực

hiện đúng về tiến độ, các doanh nghiệp tại các KCN thực hiện đúng các cam

kết. Mặc dù vậy, đây lại là một câu chuyện khác.

Tiểu kết chƣơng 2: Nội dung chương 2 tác giả trình bày về cơ sở lý

luận về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất

nông nghiệp. Cụ thể đó là trình bày 5 khái niệm cơ bản trong luận án và thao

tác hóa các khái niệm đó để xác định các chỉ báo nghiên cứu; từ các chỉ báo

xây dựng thành các thang đo và cụ thể hóa thành bộ công cụ thu thập thông

tin. Luận án trình bày 3 lý thuyết được lựa chọn vận dụng và tổng lược về

chính sách đất đai ở Việt Nam và chính sách thu hồi đất nông nghiệp để làm

96

cơ sở lý luận cho việc phân tích thực tiễn cụ thể ở chương 3,4.

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

CỦA NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỔI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

3.1. Thực trạng thu hồi đất ở xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên,

Vĩnh Phúc và xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội

Chủ trương, đường lối và chính sách phát triển đất nước của Đảng và

Nhà nước ta là đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại

hóa được nêu rõ trong văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.

Từ đó các tỉnh, thành, địa phương trong cả nước cũng bắt tay vào xây

dựng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của địa phương mình theo hướng

thúc đẩy nhanh và mạnh mẽ công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Để làm được điều

này các địa phương đã có nghiên cứu và quy hoạch lại đất đai phục vụ cho

phát triển theo hướng thu hẹp sản xuất nông nghiệp và mở rộng sản xuất công

nghiệp, dịch vụ.

Quốc Oai là một huyện thuộc Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội 30km về

phía Tây. Trong khoảng hơn thập kỷ qua Quốc Oai đã đạt được những thành

tích vượt trội về tăng trưởng kinh tế. Huyện Quốc Oai có 20 xã và 1 thị trấn.

Phía Đông giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức; phía Tây giáp tỉnh Hòa

Bình; phía Nam giáp huyện Chương Mỹ và phía Bắc giáp huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ. Với diện tích là 147,01 km2, Dân số là 174,100 người.

Quốc Oai là huyện nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng

bằng, có hai tuyến giao thông trọng yếu chạy qua là đường Láng – Hòa Lạc

và đường Hồ Chí Minh nên có nhiều lợi thế phát triển đô thị và công nghiệp.

Xã Ngọc Mỹ nằm cách trung tâm huyện Quốc Oai 1,5 km về phía Tây.

Phía Bắc giáp huyện Thạch Thất; phía Nam giáp xã Cấn Hữu; phía Tây Bắc

giáp xã Ngọc Liệp; phía Tây Nam giáp xã Liệp Tuyết và Nghĩa Hương; phía

97

Đông Bắc giáp Thị trấn Quốc Oai; phía Đông Nam giáp xã Thạch Thán.

Số dân là 11,767 người với 2,846 hộ phân bố trên hai thôn là Ngọc

Than và Phú Mỹ.

Về đất đai xã Ngọc Mỹ: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn xã là 546,04

ha, trong đó:

+ Đất nông nghiệp là 340,19 ha, chiếm 62,30% tổng diện tích.

- Đất trồng lúa nước: 337,60 ha,

- Đất nuôi trồng thủy sản: 2,59 ha.

+ Đất phi nông nghiệp: 203,36 ha, chiếm 37,24%tổng diện tích.

+ Đất chưa sử dụng 2,49 ha, chiếm 0,46% tổng diện tích.

Toàn xã có 6,240 lao động chiếm 53,03% dân số. Lao động theo ngành nghề:

+ Nông nghiệp 3,410 lao động chiếm 54,65 %.

+ Công nghiệp, TTCN: 2,000 lao động chiếm 32,05%.

Thương mại, dịch vụ, ngành nghề khác: 830 lao động chiếm 13,3%

Về đời sống kinh tế- xã hội của xã Ngọc Mỹ hiện nay:Bình quân thu

nhập đầu người năm 2014 đạt 25 triệu đồng/người/năm. Bình quân lương

thực 340 kg/người/năm. Năm 2014: số hộ nghèo là 154 hộ, chiếm 4,9% tổng

số hộ dân.

Xã Ngọc Mỹ có vị trí thuận lợi và là một xã vùng ven đô của Thành

phố Hà Nội, về cơ sở hạ tầng được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, có các tuyến

đường chạy qua như: Đại Lộ Thăng Long, đường huyện lộ Quốc Oai – Hòa

Thạch và tuyến đường tỉnh lộ 421B, về giao thông đối nội các tuyến đường

liên thôn, trục xóm chính có mặt đường tương đối rộng và cơ bản đã được

cứng hóa giúp cho việc giao thương với bên ngoài được thuận tiện, thúc đẩy

hàng hóa được lưu thông.

Xã Ngọc Mỹ có ngành nghề chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nhưng

98

thế mạnh của xã là cả 2 thôn trên địa bàn xã được công nhận là làng nghề

truyền thống, thôn Ngọc Than có nghề làm mộc, gỗ mỹ nghệ; thôn Phú Mỹ có

nghề làm nón lá nổi tiếng từ xa xưa. Do đó, nguồn thu nhập từ tiểu thủ công

nghiệp hàng năm khá lớn, ngoài ra còn một số ngành sản xuất khác như đang

phát triển như sản xuất cơ khí, dịch vụ thương mại.

Xã Ngọc Mỹ nằm trong vùng quy hoạch phát triển đô thị sinh thái

Quốc Oai với diện tích 401/546,04 ha, dự án ôtô Trung Thượng, dự án đô thị

Tây Quốc Oai, dự án đường trục kinh tế Bắc Nam. Đó là nền tảng tạo động

lực thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương và tạo việc làm và thu nhập cho

người dân trong xã.

Về sản xuất nông nghiệp xã Ngọc Mỹ là vùng đồng bằng có tiềm năng

phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các khu trang trại tập trung, khu

vực phát triển VAC theo hướng bền vững.Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, dịch vụ, sản xuất và kinh doanh đồ mộc cao cấp là một thế mạnh

của. Sản xuất và kinh doanh đồ mộc dân dụng và cao cấp, nón lá và một số

ngành nghề dịch vụ khác đã đem lại thu nhập cao cho người dân nơi này.

Năm 2005 thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ dự án xây dựng công ty

cổ phần sửa chữa ô tô Trung Thượng là 5,78 ha.

Năm 2010Trạm thu phí 5000m2,

Năm 2013 thu hồi đất nông nghiệp phục vụ dự án đô thị Tây Quốc Oai

là 26,64 ha.

Với một số dự án phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa qua các thời

kỳ nên diện tích đất nông nghiệp của bà con nông dân dần thu hẹp lại. Là

nguyên nhân tác động đến biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân

nơi đây. Ngọc Mỹ, Báo cáo tổng kết năm 2015]

Cùng nằm trong mẫu chọn khảo sát của luận án là Xã Thiện Kế, huyện

99

Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bình Xuyên là một huyện có cả ba địa hình là: đồng bằng, trung du và

miền núi, có vị trí nằm gần trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, tổng diện tích tự nhiên

là 14,847,31ha. cách thành phố Vĩnh Yên 7 km dọc theo quốc lộ 2, cách Thủ

đô Hà Nội khoảng 50km theo hướng Tây – Tây Bắc. Phía Bắc giáp huyện

Tam Đảo và tỉnh Thái Nguyên; phía Nam giáp huyện Yên Lạc; phía Đông

giáp thị xã Phúc Yên và huyện Mê Linh (thuộc Thủ đô Hà Nội); phía Tây

giáp huyện Tam Dương, Yên Lạc và TP Vĩnh Yên.

Bình Xuyên có 10 xã, 3 thị trấn: Thị trấn Hương Canh (huyện lỵ), thị

trấn Thanh Lãng, Gia Khánh và các xã: Đạo Đức, Tam Hợp, Hương Sơn,

Trung Mỹ, Sơn Lôi, Quất Lưu, Phú Xuân, Bá Hiến, Tân Phong, Thiện Kế.

Dân số xã Thiện Kế hiện nay 7780 người trên 2256 hộ.

Tỷ lệ hộ nghèo hiện nay chỉ còn 1,7%, so với năm 2014 là giảm được 0,6%.

Đời sống kinh tế xã hội của xã Thiện Kế hiện nay: Bình quân lương thực

đạt 403kg/ người/ năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 27,8 triệu đồng/

người/ năm. Trong thời gian vừa qua trên địa bàn xã cũng đã có 6 công ty

trách nhiệm hữu hạn được thành lập.

Xã Thiện Kế có thuận lợi về giao thông, nằm cạnh quốc lộ 2 (Nội Bài-

Lào Cai) được lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc cũng như lãnh đạo huyện Bình Xuyên

lưa chọn để quy hoạch khu công nghiệp Bá Thiện. Đo đó, trong thời gianqua

xã đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Khu công nghiệp Bá Thiện

được đặt tại xã Thiện Kế đã thu hút đầu tư chủ yếu là các nhà đầu tư đến từ

Nhật Bản, Hàn Quốc … đã có rất nhiều nhà máy được xây dựng tại khu công

nghiệp Bá Thiện đã và đang đi vào hoạt động sản xuất. Chính vì vậy mà để có

đất cho phát triển công nghiệp thời gian qua xã Thiện Kế đã thu hồi đất nông

nghiệp của bà con nông dân với diện tích là 206,88 ha bao gồm đất ở và

100

đất vườn, đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất khác và đất tái định

cư và hiện nay (2015) đang chuẩn bị thu hồi 400 ha đất nông nghiệp để

bàn giao cho khu công nghiệp. Đây là nguyên nhân tác động đến sự

biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của bà con nông dân nơi đây Thiện

Kế, Báo cáo tổng kết năm 2015].

Trên đây là tình hình thu hồi đất nông nghiệp diễn ra tại hai xã

trong mẫu chọn của luận án qua số liệu báo cáo của chính quyền xã sở tại.

Kết hợp với thông tin thu thập được từ phỏng vấn hộ nông dân thuộc diện

thu hồi đất, luận án đã bước đầu tìm hiểu tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp

thu hồi của từng hộ theo các khoảng dưới 1 sào, từ 1- 5 sào, từ 5- 10 sào

và trên 10 sào cho thấy:

ảng 3.1: Diện tích đất thu hồi của hộ 1 sào ắc ộ = 360m2)

Trung bình số Diện tích đất Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % diện tích đất thu thu hồi cộng dồn hồi (sào)

<1 sào 69 17,3 17,3

1-5 sào 212 53,1 70,4

5-10 sào 73 18,3 88,7 4,36

>10 sào 45 11,3 100,0

Tổng 399 100

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Số liệu trên cho thấy trung bình diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là

4,36 sào. Trong đó, có 70,4% các hộ gia đình bị thu hồi đất từ 1-5 sào, thu hồi

trên 10 sào là11,3%. Với diện tích thu hồi tương đối lớn điều đó chắc chắn sẽ

ảnh hưởng nhiều đến quá trình sản xuất của người dân nông thôn. Trung bình

mỗi hộ gia đình bị thu hồi khoảng 4,36 sào/hộ gia đình. Đặc điểm phân bố đất

101

nông nghiệp ở đồng bằng bắc bộ đó là tình trạng đất manh mún, một hộ gia

đình có nhiều miếng đất ở nhiều khu vực khác nhau cho nên nếu có dự án nào

được phê duyệt qui hoạch và sẽ thu hồi đất nông nghiệp thì sẽ có rất nhiều hộ

gia đình ở khu vực đó mất đất. Theo khảo sát cho thấy trung bình diện tích đất

nông nghiệp của người dân là 1,5 sào/1 người. Do vậy nếu như hộ gia đình

mất trung bình 4,36 sào/hộ thì tương đương có 3 người trong gia đình sẽ

không còn đất nông nghiệp để canh tác.

Không có đất nông nghiệp là họ không còn kế mưu sinh. Từ con số

tuyệt đối về diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi tác giả đã tính toán để ra

tỉ lệ % diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi/tổng số diện tích gia đình có:

ảng 3.2: Tỉ lệ đất bị thu hồi trong tổng số diện tích đất của hộ

Trung bình đất Diện tích đất Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ % thu hồi của thu hồi % cộng dồn các hộ %

<30 133 33,3 33,3

30-60 104 26,1 59,4

60-90 61 15,3 74,7 53,99

90-100 101 25,3 100

Tổng 399 100

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Như vậy kết quả phân tích thể hiện có 33,3% hộ bị thu hồi <30%

diện tích đất nông nghiệp và 70% hộ bị thu hồi > 30% diện tích đất nông

nghiệp. Có một số lượng tương đối 25,3% số hộ gia đình là bị thu hồi

100% diện tích đất nông nghiệp. Trung bình mỗi hộ bị thu hồi 53,99% tổng

102

số diện tích đất nông nghiệp của gia đình.

ảng 3.3: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và số diện tích đất bị thu hồi

Tỉ lệ diện tích bị thu hồi Địa điểm phỏng Tổng vấn <1 sào 1-5 sào 5-10 sào > 10 sào

Thiện Kế N 5 119 70 45 239

% 2,1 49,8 29,3 18,8 100,0

Ngọc Mỹ N 64 93 3 0 160

% 40,0 58,1 1,9 0,0 100,0

Tổng N 69 212 73 45 399

% 17,3 53,1 18,3 11,3 100,0

p=0,000, Tau-b=-0,565

Kết quả phân tích địa điểm phỏng vấn và số diện tích đất bị thu hồi

theo từng nhóm thể hiện ở Ngọc Mỹ cơ bản số hộ có diện tích bị thu hồi

có diện tích <5 sào chiếm 98% số người được hỏi. Tuy nhiên ở Thiện Kế

các hộ có diện tích bị thu hồi rơi vào từ 1-10 sào, tức là diện tích đất bị

thu hồi nhiều hơn so với Ngọc Mỹ. Như vậy thông qua khảo sát chúng ta

thấy rõ số diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ở 2 khu vực nghiên cứu rất

khác xa nhau.

ảng 3.4: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và Hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp

Hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp

Tổng Địa điểm phỏng vấn Ít phù hợp Rất phù hợp Hoàn toàn chƣa phù hợp Tạm chấp nhận đƣợc Khá phù hợp

Vĩnh N 63 54 75 37 10 239

Phúc % 26,4 22,6 31,4 15,5 4,2 100,0

Hà Nội N 71 42 22 25 0 160

% 44,4 26,2 13,8 15,6 0,0 100,0

Tổng N 134 96 97 62 10 399

% 33,6 24,1 24,3 15,5 2, 100,0

103

p=0,000, Tau-b=-0,187

Kết quả khảo sát thể hiện có sực khác biệt về mức độ hài lòng giữa hai

khu vực về mức đền bù đất nông nghiệp. Số liệu khảo sát thể hiện khu vực

Vĩnh Phúc hài lòng về mức đền bù đất nông nghiệp cao hơn khu vực Hà Nội.

Cụ thể với mức độ đánh giá mức đền bù hoàn toàn chưa phù hợp Hà Nội có tỉ

lệ là 44,4% trong khi đó với Vĩnh Phúc là 26,4%; với mức độ tạm chấp nhận

được thì Hà Nội là 13,8% trong khi đó ở Vĩnh Phúc là 31,4%. Như vậy sự hài

lòng về mức độ đền bù ở khu vực Vĩnh Phúc cao hơn Hà Nội mặc dù giá đền

của Vĩnh Phúc thấp hơn. Sự hài lòng này còn căn cứ dựa trên điều kiện kinh

tế xã hội địa phương và hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra

sau quá trình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hóa.

Qua phân tích về hiện trạng các hộ gia đình đã thu hồi đất nông nghiệp

để phục vụ quá trình phát triển kinh tế xã hội thể hiện. Số diện tích đất đã thu

hồi của hộ gia đình tương đối lớn chiếm khoảng >50% số diện tích đất canh

tác của các hộ gia đình. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp không tập trung

vào 1 vài gia đình mà có liên quan đến hầu hết các hộ gia đình trong

thôn/xóm vì đặc điểm phân bố đất nông nghiệp/ hộ gia đình là manh mún,

diện tích nhỏ. Từ quá trình thu hồi đất nông nghiệp làm cho người dân không

thu được hoa lợi từ sản xuất nông nghiệp nên dấn đến quá trình biến đổi cơ

cấu lao động nghề nghiệp của người dân nông thôn.

3.2. Biến đổi cơ cấu lao động tại xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế

3.2.1. Theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế

Để bắt đầu phân tích một cách sâu sắc sự biến đổi cơ cấu lao động của

người dân tác giả đã chọn cách thống kê tất cả các thành viên trong tuổi lao động

của hộ. Từ mẫu khảo sát là 399 hộ cho cả 2 xã có số người trong độ tuổi lao

động lần lượt là 993 người (năm 2010) và 1051 người (năm 2015). Xuyên suốt

trong luận án tác giả phân tích theo số người trong độ tuổi lao động đã thống kê.

Kết quả khảo sát ở cả 2 xã thể hiện sự chuyển đổi nghề nghiệp của từng

104

thành viên trong hộ.

ảng 3.5: Sự biến đổi theo ngành kinh tế của các thành viên trong hộ

Năm 2010 Năm 2015

Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Phân bố của các thành viên trong hộ theo ngành KT

Nông nghiệp 236 185 74,9 52,1 Ngƣời

thứ 1 Dịch vụ 39 12,4 76 21,4

Công nghiệp – Xây dựng 40 12,7 93 26,2

Thất nghiệp 0 0,0 1 ,3

218 172 Nông nghiệp 74,9 53,4 Ngƣời

thứ 2 Dịch vụ 38 13,1 74 23,0

Công nghiệp – Xây dựng 32 11,0 75 23,3

Thất nghiệp 3 1,0 1 ,3

Nông nghiệp 53 36,6 21 10,0 Ngƣời

thứ 3 Dịch vụ 22 15,2 44 20,9

Công nghiệp – Xây dựng 130 67 46,2 61,6

Thất nghiệp 3 2,1 16 7,6

Nông nghiệp 41 46,1 27 20,9 Ngƣời

thứ 4 Dịch vụ 13 14,6 15 11,6

Công nghiệp – Xây dựng 32 36,0 77 59,7

Thất nghiệp 3 3,4 10 7,8

Nông nghiệp 11 29,7 2 3,5 Ngƣời

thứ 5 Dịch vụ 4 10,8 6 10,5

Công nghiệp – Xây dựng 22 59,5 49 86,0

Nông nghiệp 4 23,5 4 19,0 Ngƣời

thứ 6 Dịch vụ 1 5,9 16 76,2

Công nghiệp – Xây dựng 12 70,6 1 4,8

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Phần diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi tương đối lớn, do đó người

dân phải chuyển đổi công việc của bản thân cũng như tính toán để chuyển đổi

105

cho các thành viên trong gia đình.

Trong mỗi hộ với số lượng thành viên, độ tuổi, giới tính, trình độ học

vấn tay nghề mà có sự tính toán, sắp xếp chuyển đổi lĩnh vực lao động cho

từng thành viên.

Người thứ nhất, thứ hai chủ yếu là chủ hộ và vợ hoặc chồng, tiếp theo

người thứ 2, thứ 3 trở đi là các con, cháu. Ở nhóm con cháu cho thấy dịch

chuyển sang ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ cao hơn so với nhóm bố mẹ.

Tổng hợp lại so sánh từ năm 2010 đến 2015 – giai đoạn thu hồi đất diễn

ra mạnh ở 2 xã khảo sát cho thấy cơ cấu lao động dịch chuyển sang ngành

công nghiệp, dịch vụ cao hơn (biểu 3,1)

iểu đồ 3.1: Sự thay đổi ngành kinh tế của ngƣời lao động

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Sự chuyển dịch trong lĩnh vực nông nghiệp năm 2010 là 63,1% đến

năm 2015 giảm xuống là 37,0%, ngành dịch vụ tăng từ 13,5% năm 2010 lên

21,2% trong năm 2015 đồng thời ngành công nghiệp tăng tương đối cao năm

2010 là 23,4% lên 41,8%, bên cạnh đó tỉ lệ thất nghiệp lại tăng lên. Kết quả

phân tích thể hiện trong ngành nông nghiệp tỉ lệ người lao động giảm xuống 2

lần trong khi đó ngành công nghiệp xây dựng lại tăng lên 2 lần. Từ kết quả

phân tích thể hiện trong những năm qua có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong

106

ngành nông nghiệp và công nghiệp. Đây là một xu hướng tất yếu của quá

trình phát triển ở một nước đang đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa. Khi có

nhiều khu công nghiệp được xây dựng thì sẽ tạo điều kiện thu hút các lao

động của địa phương vào làm việc bên cạnh đó ở xã Ngọc Mỹ có nghề truyền

thống làm mộc, làm nón.

ảng 3.6: Sự biến đổi cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế1

Năm 2010 Năm 2015 Thành phần kinh tế Tỷ lệ %

Số lượng 61 Số lượng 91 Tỷ lệ % 8,7 6,1

1,1 39 3,7 11

8,2 176 16,7 81

7,6 103 9,8 75

77,0 642 61,1 765

Kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước…) Kinh tế tư bản nhà nước (DN Liên doanh) Kinh tế tập thể (HTX, DN vừa và nhỏ, các hộ SXKD, công ty cổ phần) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) Kinh tế cá thể, tiểu chủ (cá nhân, gia đình và có thuê LĐ) Tổng 993 100,0 1051 100,0

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thời gian 5 năm (từ năm 2010 -

năm 2015), lao động dịch chuyển qua các thành phần kinh tế có nhiều biến

chuyển. Tại 2 địa bàn nghiên cứu cho thấy xu hướng dịch chuyển lao động

vào khu vực kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước tăng mạnh, tiếp sau là

dịch chuyển vào khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI); trong khi

đó lao động ở khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ giảm. Điều này cũng phản ánh

rõ nét thực trạng cơ cấu kinh tế ở hai địa bàn nghiên cứu, đó là quá trình giải

phóng mặt bằng đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp Bá Thiện

1 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

107

(Thiện Kế) và khu đô thị Tây Quốc Oai (Ngọc Mỹ).

3.2.2. Theo giới tính, nhóm tuổi, học vấn của người dân phân bố vào

ngành kinh tế và thành phần kinh tế

Để thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khu công

nghiệp, khu đô thị... dẫn đến số người lao động tại địa bàn khảo sát phải

chuyển đổi ngành nghề. Thực tế sự chuyển đổi này có những đặc điểm khác

nhau theo các nhóm giới tính, tuổi và trình độ học vấn.

Phân theo giới tính góp phần nhận diện sự chuyển đổi ngành nghề ở

lao động nam và lao động nữ:

ảng 3.7: iến đổi theo giới tính trong các ngành kinh tế2

Ngành kinh tế Giới tính Nam Nữ Tổng

2010 N

Tỉ lệ % Nông nghiệp 2015 N

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ % Dịch vụ 2015 N

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ % Công nghiệp 2015 N

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ % Tổng 2015 N

Tỉ lệ % 353 73,1 220 42,4 55 11,4 111 21,4 75 15,5 188 36,2 483 100,0 519 100,0 273 53,5 169 31,8 79 15,5 112 21,1 158 31,0 251 47,2 510 100,0 532 100,0 626 63,0 389 37,0 134 13,5 223 21,2 233 23,5 439 41,8 993 100,0 1051 100,0

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Bảng số liệu trên cho thấy cả lao động nam và lao động nữ dịch chuyển

sang ngành công nghiệp và dịch vụ tăng và giảm ở ngành nông nghiệp từ năm

108

2010 đến năm 2015. 2 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

Tỉ lệ nữ ở ngành nông nghiệp giảm mạnh hơn nam từ năm 73,1% năm

2010 xuống 42,4%năm 2015 giảm khoảng 30,9%. Đối với nam giới tỉ lệ này

giảm từ 63,0% xuống còn 37,0% giảm khoảng 26,0%. Các ngành dịch vụ,

nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới 4,1% (năm 2010) nhưng lại thấp hơn nữ

giới 0,8% (năm 2015). Về ngành công nghiệp, nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn

nữ giới, lần lượt là 15,1% (năm 2010) và 9,8% (năm 2015).

Xem xét dịch chuyển lao dộng nam và lao động nữ theo thành phần

kinh tế cũng cho thấy có sự khác biệt:

ảng 3.8: iến đổi theo giới tính trong các thành phần kinh tế3

Thành phần kinh tế

Nữ

Giới tính Nam

Tổng

2010 N

Tỉ lệ %

Kinh tế nhà nước (DNNN)

2015 N

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ %

2015 N

Kinh tế tư bản nhà nước (DN lien doanh)

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ %

2015 N

Kinh tế tập thể (HTX, CT cổ phần, DN vừa và nhỏ…)

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ %

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

2015 N

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ %

2015 N

Kinh tế cá thể, tiểu chủ(cá nhân, gia đình, có thuê LĐ)

Tỉ lệ %

2010 N

Tỉ lệ %

Tổng

2015 N

Tỉ lệ %

26 5,4 48 9,2 3 0,6 16 3,1 24 5,0 69 13,3 35 7,2 59 11,4 395 81,8 327 63,0 483 100,0 519 100,0

35 6,9 43 8,1 8 1,6 23 4,3 57 11,2% 107 20,1 40 7,8 44 8,3 370 72,5 315 59,2 510 100,0 532 100,0

61 6,1 91 8,7 11 1,1 39 3,7 81 8,2 176 16,7 75 7,6 103 9,8 765 77,0 642 61,1 993 100,0 1051 100,0 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

3 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

109

Kết quả số liệu tại bảng thể hiện lao động nữ và lao động nam đều dịch

chuyển từ thành phần kinh tế cá thể sang các thành phần kinh tế khác tương

đối mạnh. Cụ thể là gia tăng dịch chuyển vào khu vực kinh tế nhà nước,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) , kinh tế tập thể, liên doanh.

Không có sự khác biệt quá lớn giữa lao động nam và lao động nữ trong dịch

chuyển thành phần kinh tế.

Phân theo trình độ học vấn: Sự thay đổi về cơ cấu lao động theo các

ngành kinh tế theo các trình độ học vấn cũng có sự khác nhau.

ảng 3.9: iến đổi theo trình độ học vấn trong các ngành kinh tế4

Trình độ học vấn

Ngành kinh tế

Tổng

Tiểu học THCS THPT

CĐ/ĐH

Trung cấp

N

169

276

158

7

16

626

2010

Tỉ lệ %

79,7

74,8

57,0

24,1

15,1

63,0

Nông nghiệp

N

139

177

73

0

0

389

2015

Tỉ lệ %

65,9

48,2

24,1

0

0

37,0

N

18

29

37

12

38

134

2010

Tỉ lệ %

8,5

7,9

13,4

41,4

35,8

13,5

Dịch vụ

N

27

57

73

10

56

223

2015

33,3

40,0

21,2

Tỉ lệ %

12,8

15,5

24,1

2010

N

25

64

82

10

52

233

Tỉ lệ %

11,8

17,3

29,6

34,5

49,1

23,5

Công

nghiệp

2015

N

45

133

157

20

84

439

Tỉ lệ %

21,3

36,2

51,8

66,7

60,0

41,8

N

212

369

277

29

106

993

2010

Tỉ lệ %

100,0 100,0 100,0

100,0

100,0 100,0

Tổng

N

211

367

303

30

140

1051

2015

Tỉ lệ %

100,0 100,0 100,0

100,0

100,0 100,0

4 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

110

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Số liệu thể hiện rõ rệt về sự thay đổi ngành kinh tế theo trình độ học

vấn đặc biệt ở nhóm có t nh độ học vấn cao từ trình độ trung cấp, cao đẳng và

đại học. Nếu như trong năm 2010 trong nhóm có trình độ học vấn trung cấp,

cao đẳng, đại học vẫn có người làm nông nghiệp thì đến năm 2015 không có

ai trong nhóm này làm nông nghiệp. Các ngành dịch vụ, công nghiệp, dịch vụ

có sự thay đổi không đáng kể.

Trong ngành dịch vụ, công nghiệp nhóm trung học phổ thông có xu

hướng thay đổi nhiều hơn các nhóm khác. Như vậy nhóm có trình độ học vấn

cao hơn có xu hướng giữ ở mức độ ổn định ở các ngành dịch vụ và công

nghiệp cao hơn các ngành khác. Và nhóm có trình độ THPT có xu hướng thay

đổi sang ngành dịch vụ và công nghiệp lớn hơn các nhóm có trình độ tiểu học

và THCS. Đồng thời có sự thay đổi về thành phần kinh tế giữa các nhóm có

trình độ học vấn khác nhau.

Phân tích mức độ dịch chuyển lao động giữa các thành phần kinh tế ở

các nhóm trình độ học vấn khác nhau tại bảng dưới đây: ảng 3.10: iến đổi theo trình độ học vấn trong các thành phần kinh tế5

Trình độ học vấn

Thành phần kinh tế

Tổng

Tiểu

Trung

THCS THPT

CĐ/ĐH

học

cấp

2010 N

3

9

17

24

61

8

Kinh tế nhà

Tỉ lệ %

1,4

2,4

6,1

27,6

22,6

6,1

nước

2015 N

4

12

29

37

91

9

(DNNN)

Tỉ lệ %

1,9

3,3

9,6

30,0

26,4

8,7

2010 N

2

2

5

2

11

0

Kinh tế tư

bản nhà

Tỉ lệ %

9

5

1,8

1,9

1,1

0

nước (DN

2015 N

3

2

22

10

39

2

5 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

111

Trình độ học vấn

Thành phần kinh tế

Tổng

THCS THPT

CĐ/ĐH

Tiểu học

Trung cấp

lien doanh)

Tỉ lệ %

1,4

.5

7,3

6,7

7,1

3,7

Kinh tế tập

2010 N

5

22

37

3

14

81

thể (HTX,

Tỉ lệ %

2,4

6,0

13,4

10,3

13,2

8,2

CT cổ phần,

2015 N

11

48

68

8

41

176

DN vừa và

Tỉ lệ %

5,2

13,1

22,4

26,7

29,3

16,7

nhỏ…)

2010 N

9

10

7

30

75

19

Kinh tế có

Tỉ lệ %

4,2

2,7

24,1

28,3

7,6

6,9

vốn đầu tư

nước ngoài

2015 N

8

28

5

23

103

39

(FDI)

Tỉ lệ %

3,8

7,6

16,7

16,4

9,8

12,9

Kinh tế cá

2010 N

193

326

11

36

765

199

thể, tiểu chủ

Tỉ lệ %

91,0

88,3

37,9

34,0

77,0

71,8

(cá nhân, gia

2015 N

185

277

6

29

642

145

đình, có thuê

Tỉ lệ %

87,7

75,5

20,0

20,7

61,1

47,9

LĐ)

2010 N

212

369

29

106

993

277

Tỉ lệ %

100

100

100

100

100

100

Tổng

2015 N

211

367

30

140

1051

303

Tỉ lệ %

100

100

100

100

100

100

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Kết quả số liệu thể hiện sự biến đổi cơ cấu lao động trong các thành phần

kinh tế có sự khác biệt rõ rệt. Trong lĩnh vực kinh tế nhà nước (DNNN) , kinh tế

tư bản nhà nước (DN liên doanh), kinh tế tập thể (HTX, công ty cổ phần, DN

vừa và nhỏ…) ít có sự biến động trong các nhóm có trình độ học vấn khác nhau.

112

Trong lĩnh vực này là lĩnh vực nhân sự ít có sự thay đổi vì được tuyển để làm

việc tương đối lâu dài do vậy sẽ tương đối ổn định. Các khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài có xu hướng tăng cao và kinh tế cá thể giảm mạnh.

Điều này được giải thích tại địa bàn nghiên cứu khi các khu công

nghiệp được xây dựng người dân đã rời bỏ các công việc sự sản tự tiêu trong

nông nghiệp sang làm việc trong các nhà máy, công ty.

Phân theo độ tuổi để xem xét sự dịch chuyển lao động theo độ tuổi ảng 3.11: Sự chuyển đổi việc làm trong ngành kinh tế theo độ tuổi6

Ngành kinh tế sau khi thu hồi đất Độ tuổi Nông nghiệp Dịch vụ Công nghiệp Tổng

N 14 26 105 145

Nhóm 15-24

% 9,7 17,9 72,4 100,0

N 211 133 296 640

Nhóm 25-50

% 33,0 20,8 46,3 100,0

N 164 64 38 266

Nhóm 51-60

% 61,7 24,1 14,3 100,0

N 389 223 439 1051

Tổng

% 37,0 21,2 41,8 100,0

*p=0,000; Cramer’V=.282

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Kết quả nghiên cứu tương quan về sự chuyển đổi việc làm trong ngành

kinh tế theo độ tuổi cho thấy, trong ngành nông nghiệp, tỷ lệ người lao động

thuộc nhóm tuổi 50- 60 rất cao (chiếm 61,7%), so với nhóm tuổi 15-25 làm

6 Số liệu loại bỏ những người là người già/học sinh/sinh viên và thất nghiệp

113

trong ngành nông nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (chiếm 9,7%). Bên cạnh đó

nhóm tuổi 15- 25 và 25- 50 dịch chuyển vào ngành kinh tế dịch vụ và công

nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm tuổi 50-60.

Trong quá trình khảo sát người dân cho biết “Bây giờ bọn trẻ thanh

niên chúng nó hầu hết đi làm công ty, không còn mấy đứa thiết làm nông

nghiệp, như con tôi ba đứa không làm nông nghiêp, thằng lớn lấy vợ rồi đi

xây ngoài Hà Nội, đứa con gái lấy chồng xã bên làm giáo viên, thằng út cũng

đi làm công ty còn hai chúng già rồi tôi nuôi vịt ở mảnh vườn kia để bán

trứng và bán vịt”

(Nam, 60 tuổi, nông dân xã Thiện Kế)

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, với Cramer' V = 0,282 cho thấy

mức độ liên kết về sự chuyển đổi theo ngành kinh tế giữa các nhóm tuổi ở

mức liên kết trung bình.

Như vậy, trong ba yếu tố giới tính, trình độ học vấn và độ tuổi có thể

thấy yếu tố tuổi là phân hóa rõ rệt nhất trong quá trình dịch chuyển lao động

theo thành phần kinh tế và ngành kinh tế, tiếp sau là yếu tố trình độ học vấn;

yếu tố giới tính không tạo nên sự khác biệt nhiều, cả lao động nam và lao

động nữ đều có sự dịch chuyển gần như nhau.

3.2.3. Biến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi

Dân số, lao động, việc làm vừa là động lực của tăng trưởng, vừa là mục

tiêu của tăng trưởng. “Vai trò kép” này được quan tâm đặc biệt trong những

tháng cuối năm nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, đảm bảo các mục tiêu đề ra

trong giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam đang trải qua giai đoạn quan trọng của

quá trình “chuyển hoá dân số” kết quả nghiên cứu về cơ cấu lao động theo độ

114

tuổi cũng không nằm ngoài qui luật trên.

iểu đồ 3.2: iến đổi cơ cấu lao động theo độ tuổi %

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Kết quả nghiên cứu thể hiện cơ cấu lao động có xu hướng già hóa với

nhóm có độ tuổi trẻ <25 tuổi tỉ lệ % của năm 2015 thấp hơn năm 2010 tuy

nhiên nhóm độ tuổi từ 51 trở lên thì năm 2015 cao hơn năm 2010.

Tuy nhiên độ tuổi mà sức lao động có khả năng mạnh mẽ nhất về cả thể

lực và trí lực là độ tuổi từ 25 đến 40 tuổi thì giai đoạn năm 2015 có sự trội

vượt hơn nhiều so với số lượng lao động năm 2010. Điều này thể hiện cơ cấu

dân số tại khu vực điều tra đang rơi vào thời điểm cơ cấu dân số vàng. Cơ cấu

“dân số vàng” thực sự là cơ hội để cải thiện sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe

sinh sản cho thanh niên, vị thành niên, sử dụng nguồn lao động dồi dào cho

tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “dân số vàng” tạo cơ hội cho tích lũy

nguồn lực để tăng đầu tý cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm trong

tương lai. Mặt khác, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục thông qua việc giảm tỷ số giữa học sinh và giáo viên, qua đó

nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho trẻ em, cải thiện chất lượng sức khỏe

115

dân số tương lai. Đồng thời, dân số trong độ tuổi lao động lớn, cùng với sự

phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhu cầu lớn về đào tạo

nghề. Chi tiêu y tế trong độ tuổi lao động giảm sẽ tiết kiệm được y tế. Lực

lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn lực quan trọng cho

việc phát triển kinh tế trong điều kiện đảm bảo việc làm và cải thiện được

năng suất lao động. Cơ cấu “dân số vàng” cũng là cơ hội dịch chuyển lao

động thông qua di cý, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, góp phần xóa đói

giảm nghèo nhanh và bền vững.

3.2.4. Biến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn

Sự biến đổi cơ cấu lao động về trình độ học vấn là một biến đổi quan

trọng thể hiện sự biến chuyển về chất của nguồn lao động. Học vấn là vấn đề

mấu chốt của sự phát triển. Càng đi dần vào xã hội hiện đại thì trình độ học

vấn càng trở thành yếu tố quan trọng quy định khả năng, lợi thế của mỗi

người trong đời sống xã hội. Học vấn tạo ra cơ hội về việc làm, tác động đến

sự lựa chọn nghề nghiệp, khẳng định vị thế của mỗi người. Trong nghiên cứu

thể hiện có sự biến chuyển tích cực trong cơ cấu dân số về trình độ học vấn

của người dân.

iểu đồ 3.3: iến đổi cơ cấu lao động trên tiêu chí trình độ học vấn %

116

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Trong biến đổi về trình độ học vấn tác giả cớ bản tập trung phân tích

trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở nên (vì trình độ từ mần non đến

THCS hiện nay đã phổ cập) kết quả thể hiện cơ cấu dân số phân theo trình độ

học vấn có sự chuyển biến tích cực. Nhóm dân số có trình độ học vấn trung

học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học năm 2015 có tỉ lệ

% cao hơn so với năm 2010. Như vậy chúng ta có thể thấy sự biến đổi trong

giáo dục đào tạo đối với nguồn lao động hiện nay. Nguồn nhân lực lao động

không chỉ có một thể trạng sức khỏe tốt mà còn có trí lực tốt. Học vấn chính

là nguồn kiến thức, kinh nghiệm, là những kỹ năng được tích lũy qua một quá

trình học tập và rèn luyện. Nguồn kiến thức quý giá ấy có thể được tiếp thu và

học tập từ trường lớp, từ bạn bè, từ sách báo hoặc cũng có thể từ những điều

nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống xung quanh ta.

“Hiện tại sản xuất nông nghiệp không hiệu quả niên mình phải cho các

con của mình phải đi học để sau này kiếm công việc khác sẽ có hiệu quả hơn.

Làm nông nghiệp bây giờ nghèo lắm.”

(Nữ, 35 tuổi, Làm ruộng)

“Gia đình mình dù nghèo nhưng vấn cố gắng cho con đi học sau này nó

có cái chữ cũng dễ tìm được việc gì đó hơn. Chứ bây giờ đi làm công nhân

cũng phải học cấp 3 họ mới nhận chứ không họ cũng chả nhận”

(Nữ, 40 tuổi, công nhân)

Trình độ học vấn cao là một nền tảng cơ bản để người lao động có thể

tìm kiếm việc làm một cách dễ dàng hơn. Theo các nghiên cứu chỉ ra những

người có trình độ học vấn cao sẽ có nhiều cơ hội nghề nghiệp và cơ hội sống

hơn các nhóm khác.

3.2.5. Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn

Trình độ chuyên môn là một trong những yếu tố quan trọng trong kiến

117

tạo việc làm. Đối với lao động nông thôn quá trình được đào tạo về chuyên

môn hết sức quan trọng trong quá trình biến đổi xã hội cũng như quá trình

kiến tạo nghề nghiệp. Qua quá trình biến đổi tỉ lệ nguồn lao động qua đào tạo

đã tăng lên từ 26,8% năm 2010 lên 39,9% vào năm 2015.

iểu đồ 3.4: iến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn đã qua

đào tạo

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Theo quan niệm của Liên hợp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm

giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Yếu tố con người, vốn con

người đã trở thành một yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.

“Sau khi thu hồi đất mình không còn làm nông nghiệp nữa, mình xin

vào làm công nhân ở khu công nghiệp. Thấy thu nhập cũng ổn định hơn, mỗi

tháng 5 triệu, vừa làm gần nhà lại có thu nhập ổn định. Trong quá trình làm

công nhân thì mình cũng được họ đào tạo 3 tháng trước khi vào làm chính

thức. Trước giờ chưa làm với máy móc bây giờ cũng làm với máy móc cũng

phải được đào tạo.”

118

(Nam, 30 tuổi, công nhân)

Nhờ có nền tẳng giáo dục-đào tạo, trong đó có đào tạo nghề, người lao

động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ năng nghề của mình, qua đó nâng

cao năng suất lao động, góp phần phát triển kinh tế. Như vậy có thể thấy, giáo

dục đào tạo nghề là một thành tố và là thành tố quan trọng nhất, có ý nghĩa

quyết định phát triển nguồn nhân lực. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng

cao, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường lao động, song song với các

cơ chế chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải tăng cường

đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói

riêng. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn

tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: (i) áp

dụng công nghệ mới, (ii) phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và (iii) nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng

trưởng kinh tế bền vững chính là những con người được đào tạo, đặc biệt là

nhân lực có kỹ năng nghề cao.

Tại khu vực nghiên cứu tỉ lệ lao động đã được đào tạo tăng lên qua các

năm chứng tỏ trong quá trình phát triển người lao động đã có sự chuyển đổi

không chỉ về học vấn chuyên môn mà có những người đã học những lớp đào

tạo ngắn hạn như sửa chữa máy móc, lái xe, các lớp học sản xuất thủ công…

3.2.6. Biến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lượng công việc

Theo các số liệu thống kê của tổng cục thống kê hàng năm thể hiện tỉ lệ

lao động nông thôn thất nghiệp thấp hơn thành thị nhưng tỉ lệ lao động nông

thôn thiếu việc làm nhiều cao hơn thành thị. Điều đó chứng tỏ người lao động

nông thôn chưa tập trung làm một công việc nhất định mà trong công việc của

119

học rất đa dạng về các loại hình nghề nghiệp.

iểu đồ 3.5: iến đổi cơ cấu lao động theo đặc thù số lƣợng công việc

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Kết quả nghiên cứu thể hiện trước và sau quá trình thu hồi đất nông

nghiệp tỉ lệ số người lao động chỉ làm 1 công việc cao hơn với năm 2010 là

60,7% và đến năm 2015 tăng lên 64,2%. Như vậy sau 5 năm tỉ lệ lao động chỉ

làm tập trung 1 công việc tăng lên 3,5%. Thông qua số liệu chúng ta có thể

thấy cơ cấu về đặc thù số lượng công việc của người dân lao động nông thôn

có sự tập trung chuyên môn hóa ngày càng cao. Đây là một dấu hiệu tích cựu

thể hiện sự chuyển biến về cơ cấu lao động việc làm. Trong sản xuất nông

nghiệp người lao động thường làm việc theo mùa vụ do vậy thời gian rảnh

của người lao động tương đối nhiều, người lao động thường tận dụng

những thời gian rảnh rỗi đó làm các công việc khác do vậy số lượng công

việc mà người dân làm tương đối nhiều. Sau khi thu hồi đất nông nghiệp có

nhiều hộ gia đình không còn đất để sản xuất/còn ít đất nông nghiệp do vậy

họ không còn tập trung vào sản xuất nông nghiệp nữa mà chuyển sang làm

các công việc được chuyên môn hóa như làm công nhân, hoặc chuyển sang

120

kinh doanh buôn bán.

3.3. Biến đổi cơ cấu việc làm của ngƣời dân bị thu hồi đất tại xã

Ngọc Mỹ và Thiện Kế

Ở phần trên luận án nhìn nhận biến đổi cơ cấu lao động theo thành

phần kinh tế, ngành kinh tế để có sự đánh giá tổng quát. Trong phần này luận

án đặt vấn đề tìm hiểu cụ thể xem người dân làm công việc gì, nghề gì và

phân bố như thế nào. Trong 18 việc làm được liệt kê cho thấy tỷ lệ phân bố và

sự biến đổi như sau:

ảng 3.12: Việc làm của ngƣời dân trƣớc và sau khi thu hồi đất

STT

Việc làm

Tỉ lệ tăng/giảm việc làm 2015 so với 2010 (%) -24,1 -3,4 0,9

1 2 3 4

Năm 2010 Số lƣợng 495 107 13 16

Tỷ lệ % 49,4 10,7 1,3 1,6

Năm 2015 Số lƣợng 275 79 24 14

Tỷ lệ % 25,3 7,3 2,2 1,3

-0,3

Làm ruộng, làm vườn Chăn nuôi Xay xát thóc, gạo, ngô Các công việc liên quan đến nông nghiệp (hoa màu…) Buôn bán, kinh doanh nhỏ Bán hàng rong Giúp việc Lái xe Sửa chữa vật dụng

+1,3 +0,5 +0,4 +0,8 +0,8 +0,2

5 6 7 8 9 10 Giáo viên 11 Bộ đội, công an, cán bộ

62 4 1 9 3 18 20

6,2 0,4 0,1 0,9 0,3 1,8 2,0

81 10 5 18 12 22 31

7,5 0,9 0,5 1,7 1,1 2,0 2,9

+0,9

+0,4 -0,1 +0,5

chính quyền 12 Bác sĩ, y tá 13 Xuất khẩu lao động 14 Hưu trí 15 Tự mở công ty/nv trong

10 4 2 34

1,0 0,4 0,2 3,4

15 3 8 67

1,4 0,3 0,7 6,2

+2,8

doanh nghiệp

4 134 213 36

-0,6 +5,1 +10,1 +1,6

16 Bốc vác 17 Thợ mộc, thợ xây 18 Công nhân 18 Khác Tổng

.4 12,4 19,6 3,3 1050 100,0

10 73 95 17 993

1,0 7,3 9,5 1,7 100 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

121

Năm 2010, nghề nghiệp nhiều người làm hơn cả các việc khác là làm

ruộng, làm vườn (chiếm 49,9%) và chăn nuôi (chiếm 10,7%), tiếp đến là công

nhân (chiếm 9,5%); còn các ngành nghề khác như: giúp việc (chiếm 0,1%),

hưu trí (chiếm 0,2%), sửa chữa vật dụng (chiếm 0,3%) tuy nhiên sau 5 năm

(2015) kết quả nghiên cứu cho thấy, việc làm ruộng, làm vườn giảm 24%, từ

49,9% xuống còn 25,3%; chăn nuôi cũng có giảm 3,4%, từ 10,7% xuống còn

7,3%; trong khi đó, số lượng lao động làm công nhân tăng đáng kể là 10,1%,

từ 9,5% (năm 2010) lên 19,6% (năm 2015). Các ngành nghề khác về công

nghiệp, dịch vụ cũng có xu hướng tăng lên đáng kể. Tỷ lệ người lao động làm

giúp việc năm 2015 là 0,5%, hưu trí tăng từ 0,2% lên 0,7%, người lao động

sửa chữa vật dụng cũng tăng từ 0,3% (năm 2010) lên 1,1% (năm 2015). Các

ngành nghề khác như: giáo viên, bác sĩ, y tá... cũng tăng lên đáng kể.

Kết quả điều tra đã thể hiện sự biến đổi mạnh mẽ của cơ cấu việc làm

của người dân nông thôn. Theo quy luật phát triển tỷ lệ người làm việc trong

nông nghiệp sẽ giảm và sẽ gia tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp. Sau

thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp tạo ra sự thúc đẩy

người dân chuyển đổi việc làm như làm thợ, làm công nhân trong nhà máy,

hay làm các dịch vụ buôn bán nhỏ phục vụ cho những người làm ở các khu

công nghiệp.

“Trong những năm qua, kể từ khi có các nhà máy thì người dân đã xin

vào làm việc trong các công ty. Đặc biệt là những người trẻ tuổi họ không

làm những công việc nông nghiệp trước đây nữa vì làm nông nghiệp vất vả

mà thu nhập không cao cũng không ổn định. Ở đây gần khu công nghiệp họ

xin vào làm ở các nhà máy thu nhập cũng được 4 hay 5 triệu đồng/tháng như

vậy cũng tương đối ổn định”

122

(Nam, PCT xã Thiện Kế)

Như vậy có thể thấy, trong thời gian 5 năm (từ năm 2010 - năm 2015),

cơ cấu việc làm của lao động mất đất nông nghiệp có nhiều biến đổi. Một

mặt, từ chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch

vụ; các hình thức tổ chức sản xuất tạo công ăn việc làm của người dân cũng

trở nên đa dạng. Tại xã Ngọc Mỹ (Quốc Oai) nhiều người trước làm ruộng,

sau khi thu hồi đất nông nghiệp đã sang xã Hữu Bằng (Thạch Thất) học nghề

mộc để có nghề mưu sinh, họ mở xưởng nhỏ để nhận việc về làm tại nhà,

người đi làm thuê cho các xưởng mộc,

“em sinh năm 80, trước cũng làm ruộng của gia đình, sau khi xã lấy

đất nhà em mất hết được đền bù một khoản em sang Hữu Bằng học mộc hơn

2 năm, em nhận việc bên đó mang về nhà làm xong thì chở sang, em còn phải

học thêm nữa chứ 2 năm chưa học hết được nghề mộc, nhiều người làng em

học mộc làm mộc, nhiều nhà mở được xưởng lớn, em thì đấy chị nhìn thì biết

em làm một mình”

(Nam, 35 tuổi, thợ mộc xã Ngọc Mỹ)

Có nhiều việc làm được người dân tạo ra để có thu nhập, từ tiền đền bù

nhiều người xây các dãy nhà trọ cho công nhân tại các công ty của khu công

nghiệp thuê, bán hàng rong ở ngoài cổng nhà máy, công ty…

“ tôi không chia tiền đền bù cho các con, chỉ cho mỗi đứa một ít mua

cái xe máy, nhà tôi mua mảnh đất gần khu công nghiệp, đã có người trả tôi

chênh lệch nhưng tôi không bán, bán làm gì mình có túng thiếu quá đâu,

người sinh ra chứ đất không sinh ra, tôi để đó vì chắc giá sẽ còn lên nữa”

(Nữ, 57 tuổi, xã Thiện Kế)

Bên cạnh việc người dân tự tạo việc làm thì sự hỗ trợ của nhà nước và

các cấp chính quyền, người dân được đào tạo nghề, được hỗ trợ công ăn việc

123

làm ổn định.

“Theo chính sách của nhà nước là dạy nghề cho người thuộc diện mất đất

nông nghiệp, xã đã làm nhiều đợt, trước thì xã tập hợp danh sách người đi học

rồi phải lên huyện lên tỉnh học nghề, hỗ trợ tiền đi lại và 10 kg gạo mỗi tháng,

nhưng không hiệu quả, nhiều người bỏ học, bây giờ thay đổi là huyện, tỉnh cử

người về xă dạy nghề cho người dân, nhưng thực ra chỉ là tập huấn thôi vì thiếu

thốn cơ cở vật chất, mấy năm nay chủ yếu tập huấn cho chị em phụ nữ học nấu

ăn, nhiều người giờ chuyên đi nấu cỗ”

(Nam, PCT xã Thiện Kế)

Như vậy quá thu hồi đất nông nghiệp thúc đẩy người dân tìm kiếm các

việc làm mới. Tỉ lệ người dân thay đổi công việc khá lớn chiếm >70%. Kết

quả khảo sát cũng thể hiện có sự giảm mạnh việc làm ruộng và chăn nuôi thay

vào đó là sự gia tăng việc làm của công nhân, thợ, buôn bán.

3.3.1. Biến đổi cơ cấu việc làm theo độ tuổi

Mỗi nhóm tuổi có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh cũng như các

yếu tố nhân khẩu. Do đó thu hồi đất nông nghiệp đã thúc đẩy sự biến đổi về

việc làm giữa các nhóm tuổi.

ảng 3.13: Sự chuyển đổi việc làm theo nhóm tuổi 2015

Tổng

Việc làm của ngƣời dân sau khu thu hồi đất (2015)

Làm ruộng

Chăn nuôi

Xay xát thóc gạo

Công việc liên qua đến nông nghiệp Buôn bán kinh doanh nhỏ

N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %

Nhóm tuổi 12- 24 10 6,4 1 6 1 6 1 6 6 3,8

Nhóm tuổi Nhóm tuổi 25-50 139 21,2 47 7,2 18 2,7 11 1,7 51 7,8

Nhóm tuổi 51-60 124 45,8 31 11,4 5 1,8 2 7 24 8,9

273 25,2 79 7,3 24 2,2 14 1,3 81 7,5

124

Tổng

Việc làm của ngƣời dân sau khu thu hồi đất (2015)

Bán hàng rong

N Tỉ lệ %

Nhóm tuổi 12- 24 1 6

Nhóm tuổi Nhóm tuổi 25-50 4 6

Nhóm tuổi 51-60 5 1,8

10 9

Giúp việc

Lái xe

Sửa chữa vật dụng

Giáo viên

Bộ đội, công an, cán bộ chính quyển

Bác sĩ, y tá

Xuất khẩu lao động

Hưu trí

N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %

0 0 2 1,3 1 6 3 1,9 4 2,5 3 1,9 0 0 0 0

5 8 15 2,3 8 1,2 15 2,3 16 2,4 11 1,7 3 5 0 0

5 5 18 1,7 12 1,1 22 2,0 31 2,9 15 1,4 3 3 8 7

0 0 1 4 3 1,1 4 1,5 11 4,1 1 4 0 0 8 3,0

N Tỉ lệ %

27 17,2

38 5,8

67 6,2

2 7

Tự mở công ty/ nhân viên hành chính trong doanh nghiệp

Bốc vác

Thợ nói chung

Công nhân

Khác

Tổng

N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ % N Tỉ lệ %

4 6 86 13,1 149 22,7 20 3,1 655 100,0

0 0 26 9,6 3 1,1 14 5,2 271 100,0

0 0 22 14,0 61 38,9 2 1,3 157 100,0

4 4 134 12,4 213 19,7 36 3,3 933 100,0 (Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

125

Sự chuyển đổi cơ cấu việc làm theo nhóm tuổi cũng rất đa dạng, tỷ lệ

lao động làm việc ở tất cả các ngành nghề. Số liệu cũng cho thấy, trong cơ

cấu việc làm theo các nhóm tuổi có sự chênh lệch tương đối đáng kể: Trong

việc làm ruộng những người ở nhóm tuổi 51 - 60 chiếm tỷ lệ cao nhất là

45,8%, trong khi đó ở nhóm tuổi 15 - 24 chỉ chiếm 6,4%. Làm công nhân ở

nhóm tuổi 15 - 24 chiếm 38,9%, nhóm tuổi 25 - 50 chiếm 22,7%, và ở nhóm

tuổi 51-60 có tỷ lệ thấp nhất là 1,1%. Thực tế đã lý giải điều này, các công

ty khi tuyển dụng công nhân họ không tuyển dụng người lớn tuổi và thường

ưu tiên nhóm tuổi trẻ, bắt đầu bước vào thị trường lao động có sức khỏe và

có được đào tạo,

“Trong 5 năm qua hầu hết các gia đình đều có người thay đổi công

việc của mình. Nhà nào còn ít ruộng nào thì làm, chủ yếu là người già làm

thôi, người có tuổi rồi họ ngại thay đổi công việc và cũng không biết làm việc

gì làm sao làm được công nhân”.

(Nữ, 50 tuổi, làm nông nghiệp xã Ngọc Mỹ)

Như vậy có thể thấy rằng những người tuổi trẻ làm công việc phi nông

cao hơn so với các thế hệ trước. Các thế hệ ông bà, bố mẹ là những người có

tuổi, trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế, sự nhanh nhẹn, sức khỏe giảm sút

vì thế rất khó chuyển sang những công việc phức tạp nên họ tự tìm kiếm cho

mình những công việc phù hợp.

Trong sự chuyển đổi việc làm người dân cũng cho biết mối quan tâm

của họ đến tính ổn định của công việc.

Tôi thấy sự thay đổi nghề nghiệp việc làm của người dân chưa thực sự

tốt vì còn một bộ phận người lao động bị thu hồi đất vẫn không có việc làm ổn

định, chủ yếu là làm những công việc tự phát như: thợ hồ, buôn bán hàng

rong, là nghề thủ công.... chưa có công việc một cách ổn định kể cả những

người già và những người trẻ.

126

(Nữ, 45 tuổi, buôn bán nhỏ, xã Thiện Kế)

Quá trình chuyển đổi về cơ cấu lao động được biểu hiện cụ thể thông

qua quá trình thay đổi về cơ cấu việc làm của người dân. Quá trình chuyển đổi

nghề nghệp có sự thay đổi theo các thế hệ.

ảng 3.14: Việc làm của của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất 2010

theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi

Tổng

Việc làm của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất (2010)

Nhóm tuổi 15-24 tuổi

Nhóm tuổi 25-50 tuổi

Nhóm tuổi 51-60 tuổi

N

40

269

186

495

Làm ruộng

Tỉ lệ %

39,2

42,6

68,1

49,2

N

10

65

35

110

Chăn nuôi

Tỉ lệ %

9,8

10,3

12,8

10,9

N

0

9

4

13

Xay xát thóc gạo

Tỉ lệ %

0

1,4

1,5

1,3

N

2

13

1

16

Công việc liên qua

đến nông nghiệp

Tỉ lệ %

2,0

2,1

4

1,6

N

10

45

7

62

Buôn bán kinh doanh

nhỏ

Tỉ lệ %

9,8

7,1

2,6

6,2

N

0

0

4

4

Bán hàng rong

Tỉ lệ %

0

0

1,5

4

N

0

1

0

1

Giúp việc

Tỉ lệ %

0

2

0

1

N

1

8

0

9

Lái xe

0

9

Tỉ lệ %

1,0

1,3

N

0

3

0

3

Sửa chữa vật dụng

Tỉ lệ %

0

5

0

3

N

0

14

4

18

Giáo viên

Tỉ lệ %

0

2,2

1,5

1,8

3

9

8

20

Bộ đội, công an, cán

N

127

Nhóm tuổi

Tổng

Việc làm của ngƣời dân trƣớc khu thu hồi đất (2010)

Nhóm tuổi 15-24 tuổi

Nhóm tuổi 25-50 tuổi

Nhóm tuổi 51-60 tuổi

bộ chính quyển

Tỉ lệ %

2,9

1,4

2,9

2,0

N

1

8

1

10

Bác sĩ, y tá

Tỉ lệ %

1,0

1,3

4

1,0

N

0

4

0

4

Xuất khẩu lao động

Tỉ lệ %

.0

6

0

4

N

0

1

1

2

Hưu trí

Tỉ lệ %

0

2

4

2

Tự mở công ty/nhân

N

9

25

0

34

viên hành chính

Tỉ lệ %

8,8

4,0

0

3,4

trong doanh nghiệp

N

0

9

1

10

Bốc vác

Tỉ lệ %

0

1,4

4

1,0

N

6

57

10

73

Thợ nói chung

Tỉ lệ %

5,9

9,0

3,7

7,3

N

19

75

1

95

Công nhân

Tỉ lệ %

18,6

11,9

4

9,4

N

0

8

9

17

Khác

Tỉ lệ %

0

1,3

3,3

1,7

Tỉ lệ %

100

623

269

993

Tổng

N

100,0

100,0

100,0

100,0

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Theo kết quả khảo sát năm 2010, cơ cấu việc làm theo thế hệ trong gia

đình của các hộ gia đình cũng rất đa dạng. Các thành viên trong độ tuổi lao

động của hộ gia đình được khảo sát làm việc ở tất cả các việc. Nhưng chủ yếu

là lao động trong ngành nông nghiệp (làm ruộng, chăn nuôi, những việc làm

128

liên quan đến nông nghiệp) và buôn bán, dịch vụ là những việc làm có tỷ lệ

lao động tham gia nhiều nhất trong cơ cấu việc làm của địa phương. Kết

quả nghiên cứu cho thấy, từ trước năm 2010, các thành viên trong gia đình

làm việc chủ yếu là công việc thuộc nông nghiệp, tỷ lệ các thành viên ở thế

hệ 3 (15 - 25 tuổi) trong gia đình lao động chính là làm ruộng, chăn nuôi,

buôn bán nhỏ là chủ yếu, một số ít làm công nhân, còn các công việc khác

hầu như không có và tỷ lệ lao động chủ yếu là các thành viên trong hộ gia

đình thuộc thế hệ 2 (25 - 50 tuổi). Dù các việc làm tương đối đa dạng,

nhưng vẫn tập trung chủ yếu là làm ruộng, chăn nuôi và công nhân. Trong

cơ cấu việc làm theo thế hệ có sự chênh lệch tương đối đáng kể: Trong làm

ruộng, tỷ lệ lao động làm ruộng là những người ở thế hệ thứ 1(50 - 60 tuổi)

chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,1%, nhiều hơn số lượng lao động trong cùng độ

tuổi năm 2015 là 22,3%, trong khi đó, thế hệ thứ 3 (15 - 25 tuổi) chỉ chiếm

39,2% nhiều hơn năm 2015 là 32,8%. Người lao động làm công nhân ở thế

hệ thứ 1 (15 - 25 tuổi) chiếm 18,6%, thế hệ thứ 2 (25 - 50 tuổi) chiếm tỷ lệ

11,9%, công nhân ở thế hệ thứ 3 chiếm tỷ lệ thấp nhất 0,4%. Các việc làm

khác cũng có sự chênh lệch giữa các thế hệ. Tuy nhiên, các thành viên

trong gia đình vẫn tập trung nhiều nhất vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt

là làm ruộng chiếm 49,2%.

“...từ khi có các khu công nghiệp về xã tôi thấy xã có nhiều biến

đổi, nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện như cho thuê nhà trọ, các dịch vụ

cắt tóc, gội đầu, bán hàng quán cũng có. Hiện nay trong xã hầu hết thế hệ

trẻ trẻ khoảng <40 tuổi thì đều đi xin làm công ty hoặc là đi làm ăn chứ

không còn làm nông nghiệp nữa. Chỉ có những người có tuổi, sức khỏe

kém, không nhanh được như bọn trẻ thì ở nhà làm thêm các việc. Với cả

bây giờ doanh nghiệp họ không thuê những người già như chúng tôi mà

chỉ thuê bọn trẻ thôi”.

129

(Nam, 53 tuổi, làm ruộng, xã Thiện Kế)

Có thể thấy, cơ cấu việc làm năm 2010 tập trung chủ yếu vào các hoạt

động sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, công tác đào tạo nghề còn hạn chế

chưa nâng cao tay nghề cho người lao động địa phương, đặc biệt là các hộ gia

đình cách xa trung tâm thì việc đào tạo càng gặp nhiều khó khăn.

3.3.2. Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất NN đến việc

làm và tính đa việc làm của người dân

Thu hồi đất nông nghiệp ở xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế như đã trình bày ở

phần 3.2 cho thấy sự tác động đến mỗi hộ mỗi người là khác nhau về diện

tích, tiền đền bù và việc làm của người dân. Đánh giá được mức độ ảnh

hưởng được thể hiện rõ ở bảng sau:

ảng 3.15: Đánh giá mức độ ảnh hƣởng của việc thu hồi đất nông nghiệp

đến việc làm của ngƣời dân

Mức độ ảnh hƣởng Tỷ lệ % Tỷ lệ % cộng dồn Tần suất

Hoàn toàn không ảnh hưởng 37 9,2 9,2

Ảnh hưởng ít 49 12,3 21,6

Bình thường 83 20,8 42,4

Ảnh hưởng tương đối nhiều 138 34,6 76,9

Ảnh hưởng rất nhiều 92 23,1 100,0

Tổng 399 100,0

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Khi được hỏi mức độ ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến

việc làm của người dân như thế nào kết quả thu được, số người cho rằng quá

trình thu hồi đất không ảnh hưởng đến việc làm của người dân là 9,2% và tỷ

lệ cho rằng bị ảnh hưởng nhiều và rất nhiều cộng dồn lên tới 76,9%. Điều này

chứng tỏ quá trình thu hồi đất có ảnh hưởng rất lớn đối với việc làm của

130

người dân.

Tuy nhiên, khi tách hai địa bàn nghiên cứu ra thì thấy mức độ ảnh

hưởng có khác nhau do các mỗi địa bàn có đặc điểm kinh tế, xã hội khác nhau

ảng 3.16: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và đánh giá về sự ảnh

hƣởng đến việc làm

Mức độ ảnh hƣởng của thu hồi đất đến việc làm của ngƣời dân

Tổng Địa điểm phỏng vấn

ảnh hƣởng ít Bình thƣờng Hoàn toàn không

Thiện Kế N 42 24 Ảnh hƣởng nhiều 86 Ảnh hƣởng rất nhiều 60 27 239

% 17,6 10,0 11,3 36,0 25,1 100,0

Ngọc Mỹ N 7 13 56 52 32 160

% 4,4 8,1 35,0 32,5 20,0 100,0

Tổng N 49 37 83 138 92 399

% 9,3 12,3 20,8 34,6 23,1 100,0

p=0,000, Tau-b=-0,18

Theo số liệu khảo sát các hộ gia đình đánh giá quá trình thu hồi đất

nông nghiệp ảnh hưởng tương đối nhiều đến việc làm của hộ gia đình. Tại hai

địa bàn điều tra có sự khác nhau ở mức ảnh hưởng nhiều và rất nhiều ở Thiện

Kế là 61,1% còn ở Ngọc Mỹ là 52,5%, chênh nhau là 8,6%. Như vậy đánh giá

của người dân về sự ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến việc làm của

hộ gia đình ở xã Thiện Kế mạnh hơn ở xã Ngọc Mỹ một cách có ý nghĩa

thống kê. Tuy nhiên mức độ gắn bó giữa hai biến tương đối yếu với hệ số gắn

bó Tau-b là 0,18.

Thực tế khảo sát tại hai địa bàn tác giả quan sát thấy một đặc điểm kinh

tế có tác động đến mức độ ảnh hưởng của xã Thiện Kế mạnh hơn xã Ngọc Mỹ

đó là xã Ngọc Mỹ có nghề truyền thống làm mộc và làm nón, do đó khi thu

131

hồi ruộng đất người dân xã Ngọc Mỹ có thể giải quyết được ngay việc làm tại

chỗ, đặc điểm này rất đáng kể mà tác giả nhận ra trong quá trình khảo sát;

trong khi đó xã Thiện Kế không có nghề phụ, nghề truyền thống.

Bên cạnh sự đánh giá mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất đến việc làm

thì người dân 2 xã, để đảm bảo việc làm và cuộc sống người dân phải thích

nghi với điều kiện mới bằng cách chuyển đổi việc làm cũng như đảm bảo cơ

cấu thu nhập cho gia đình nên người dân đã làm nhiều công việc hay gọi là

tính chất đa việc làm. Điều này hoàn toàn đúng với thực tế khi có tới 63,3%

số người được hỏi cho biết ngoài nông nghiệp ra họ còn làm thêm việc khác

nữa. Tỷ lệ người dân làm đến 2, 3 công việc rất cao là 57,5%, thực tế có

người dân là đến 4, 5 loại công việc.

(ĐV tính %)

iểu đồ 3.6. Tính đa việc làm của ngƣời dân

(Nguồn: Số liệu điều tra của luận án)

Tiểu kết chương 3: Như vậy có thể thấy sau quá trình thu hồi đất nông

nghiệp đã làm cho biến đổi cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm của người dân

2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kến theo hướng giảm lao động ở ngành kinh tế nông

nghiệp, tăng mạnh lao động ở ngành kinh tế công nghiệp, dịch vụ. Trong

132

chương 3 luận án cũng đi sâu vào phân tích sự biến đổi cơ cấu lao động, việc

làm phân theo giới tính, trình độ học vấn và độ tuổi để có làm rõ sự khác biệt

của các yếu tố nhân khẩu xã hội.

Thực trạng biến đổi cơ cấu việc làm thể hiện khá rõ khi so sánh từ 2010

đến 2015, người dân làm ruộng, làm vườn, chăn nuôi giảm mạnh và tăng việc

làm thợ, công nhân, lái xe, giáo viên… Đặc biệt trong đó nghiên cứu thấy có

sự khác biệt lớn về độ tuổi với sự biến đổi cơ cấu việc làm; nhóm tuổi 15-24

làm công việc phi nông nghiệp rất cao, còn nhóm tuổi 51-60 làm việc nông

nghiệp cao. Phản ánh thực tế chuyển đổi việc làm ở nhóm tuổi 51-60 có nhiều

hạn chế, khó khăn.

Đánh giá của người dân 2 xã về mức độ ảnh hưởng của thu hồi đất

nông nghiệp đến việc làm kết quả số liệu cho thấy ở mức ảnh hưởng nhiều và

rất nhiều, cùng với mức độ ảnh hưởng cho thấy có mối quan hệ với tính đa

việc làm nhằm đảm bảo thu nhập, sinh hoạt cuộc sống của người dân. Và

người dân coi cùng một lúc làm nhiều công việc như một chiến lược sống

133

trong thời kỳ mới.

Chƣơng 4

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHUYỂN ĐỔI VIỆC LÀM CỦA

NGƢỜI DÂN KHU VỰC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

4.1. Các yếu tố nhân khẩu - xã hội, chủ quan.

Các yếu tố nhân khẩu- xã hội như tuổi, giới tính, trình độ học vấn… là

các yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình lựa chọn chuyển đổi việc làm của

người dân khi thu hồi đất nông nghiệp.

4.1.1. Yếu tố tuổi của người lao động

Để làm rõ yếu tố tuổi tác có tác động như thế nào đến sự biến đổi cơ

cấu lao động, việc làm của người dân, từ chọn mẫu 399 hộ và số người trong

độ tuổi lao động trong 399 hộ là 1083 người chia thành 3 nhóm tuổi.

ảng 4.1: Cơ cấu độ tuổi lao động

Cơ cấu độ tuổi lao động Số lƣợng Tỷ lệ %

Nhóm tuổi 15-24 157 14,4

Nhóm tuổi 25-50 655 60,4

Nhóm tuổi 51-60 273 25,2

1085 100,0 Tổng

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Nhóm tuổi từ 25 - 50 chiếm tỷ lệ cao nhất là 60,4%, là nhóm lao động

trẻ, có kinh nghiệm làm việc và tay nghề nhất định. Nhóm tuổi từ 51 – 60 là

25,2%. Số lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 15 – 24 là 14,4%.

Đặc điểm về tuổi có tác động đến sự chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm

134

thể hiện ở bảng dưới đây:

ảng 4.2: Mối quan hệ giữa độ tuổi và sự chuyển đổi việc làm

Chuyển đổi việc làm

Tổng

Không thay đổi việc làm Có thay đổi việc làm

47 110 157

29,90 70,10 100,00

351 304 655

53,60 46,40 100,00

160 113 273

Nhóm tuổi 15-24 Nhóm tuổi 25-50 Nhóm tuổi 51-60 58,60 41,40 100,00

558 527 1085 Tổng N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % 51,40 48,60 100,00

*p<0,05, tau-b=0,23

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Có sự khác biệt trong việc chuyển đổi việc làm giữa những lao động

trong 3 nhóm tuổi khác nhau. Cụ thể độ tuổi 50-60 chuyển đổi việc làm thấp

hơn; trong khi đó chuyển đổi việc làm ở nhóm tuổi từ 15 – 24 tuổi rất cao

chiếm 70,10%. Kết quả này là một trong những bằng chứng cho biết việc

chuyển đổi việc làm bị ảnh hưởng bởi nhóm tuổi.

4.1.2. Yếu tố trình độ học vấn của người lao động

Trình độ học vấn là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong

quá trình chuyển đổi việc làm.

ảng 4.3: Trình độ học vấn của ngƣời dân

Trình độ học vấn Số lƣợng Tỷ lệ %

Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung cấp Cao đẳng/ Đại học Tổng 217 376 311 31 150 1085

135

20,0 34,7 28,7 2,9 13,8 100,0 (Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Tỷ lệ người lao động có trình độ học vấn bậc tiểu học là 20,0%, tỷ lệ ở

cấp THCS là 34,7%, cộng dồn là 54,7%. Trình độ học vấn THPT là 28,7%.

Trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học cộng dồn là 16,7 %. Trong cơ cấu trình

độ học vấn của người dân 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế có ðến quá nửa là trình

độ tiểu học và THCS.

Xem xét yếu tố trình độ học vấn có tác động đến quá trình chuyển đổi

việc làm của người dân thể hiện ở bảng dưới đây:

ảng 4.4: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn sự chuyển đổi việc làm

Chuyển đổi việc làm

Trình độ học vấn Tổng Không thay đổi Có thay đổi

việc làm việc làm

Số lượng 137 80 217 Tiểu học Tỷ lệ % 63,10 36,90 100,00

Số lượng 204 172 376 THCS Tỷ lệ % 54,30 45,70 100,00

Số lượng 137 174 311 THPT Tỷ lệ % 44,10 55,90 100,00

Số lượng 18 13 31 Trung cấp Tỷ lệ % 58,10 41,90 100,00

Số lượng 62 88 150 Cao đẳng, đại học Tỷ lệ % 41,30 58,70 100,00

Số lượng 558 527 1085 Tổng Tỷ lệ % 51,40 48,60 100,00

*p=0,000, Cramer's V=.156

136

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Tỷ lệ người dân có trình độ học vấn cấp tiểu học chuyển đổi việc làm là

36,9%, tỷ lệ ở cấp trung học cơ sở là 45,70%, chiếm một tỷ lệ rất tương đối

lớn. Người dân có trình độ tiểu học, trung học cơ sở trong quá trình chuyển

đổi việc làm thường khó tiếp cận với các loại công việc đòi hỏi có kỹ năng,

tay nghề mà chỉ có thể tiếp cận các loại công việc thiên về lao động đơn giản,

tay chân, thể lực dẫn đến những hạn chế đi cơ hội lựa chọn việc làm của

người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm.

Trình độ học vấn người dân có trình độ THPT có chuyển đổi việc làm

chiếm tỷ lệ cao 55,9%. Nhóm có trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học có tỷ

lệ chuyển đổi việc làm cũng tương đối cao với tỷ lệ lần lượt là 41,9% và

58,7%. Đây là nhóm có nhiều thuận lợi nhất trong quá trình lựa chọn việc làm

, tuy nhiên, những người có bằng cấp càng cao lại thường không làm các công

việc liên quan đến chân tay. Họ thường lựa chọn các công việc ở văn phòng,

công ty từ trước đó. Do vậy, tỷ lệ người lao động chuyển đổi việc làm ở nhóm

trình độ này cũng ở mức độ tương đối cao.

Với Cramer's V=0,156 cho thấy mối liên hệ giữa trình độ học vấn với

quá trình chuyển đổi việc làm chỉ ở mức liên kết yếu. Do vậy, có thể khẳng

định trình độ học vấn không phải là yếu tố tạo nên sự khác biệt trong quá

trình chuyển đổi việc làm của người dân.

Kết quả phân tích chỉ dựa trên mẫu nghiên cứu. Tuy nhiên, với p=0,000

cho phép khái quát mối quan hệ giữa trình độ học vấn và chuyển đổi việc làm

cho tổng thể nghiên cứu với mức độ tin cậy cao và đáp ứng độ tin cậy từ 95 –

99% đã xác định cho nghiên cứu này.

4.1.3 Yếu tố giới tính

Trong cơ cấu giới tính mẫu khảo sát tại 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế có

137

tỷ lệ cân bằng cho phép phân tích chính xác hơn.

ảng 4.5: Giới tính của ngƣời trong độ tuổi lao động đƣợc thống kê

Giới tính Số lƣợng Tỷ lệ %

Nữ 530 48,8

Nam 555 51,2

Tổng 1085 100,0

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Như chúng ta đã biết, giới tính là cơ sở sinh học tạo nên đặc điểm và

khác biệt giới. Trong thực tế ở phổ biến nhiều xã hội tồn tại phân công lao

động trên cơ sở giới và định kiến xã hội xác định việc thực hiện vai trò giới

của nam và nữ có nhiều sự khác biệt.

Tại 2 xã Ngọc Mỹ và Thiện Kế khi đo lường yếu tố giới tính với khả

năng chuyển đổi việc làm cho thấy:

ảng 4.6: Giới tính và và sự chuyển đổi việc làm

Chuyển đổi việc làm Giới tính Tổng

Không chuyển đổi Có chuyển đổi

N 265 530 265 Nữ Tỷ lệ % 50,00 100 50,00

N 293 555 262 Nam Tỷ lệ % 52,80 100 47,20

N 558 1085 527 Tổng Tỷ lệ % 51,4 100 48,6

*p<0,05, Cramer’V=0,23

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Số liệu cho thấy không có sự khác biệt nhiều giữa nam và nữ trong việc

chuyển đổi việc làm. Yếu tố giới tính không phải là yếu tố ảnh hưởng nhiều

138

đến quá trình chuyển đổi việc làm của người dân..

4.1.4. Tâm thế của hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp

Trong quá trình thu hồi đất nông nghệp tâm thế để chuẩn bị cho quá

trình thay đổi là rất quan trọng. Nếu người nông dân được chuẩn bị tốt, họ sẽ

có khả năng thích ứng tốt hơn với những điều kiện mới. Và tâm thế cũng sẽ

thúc đẩy họ hành động. ảng 4.7: Tâm thế của ngƣời dân khi Nhà nƣớc thu hồi đất nông nghiệp7

Mức độ đồng ý

Điểm trung bình

2, Ít đồng ý

3, Đồng ý

4, Khá đồng ý

1, Hoàn toàn không

5, Hoàn toàn đồng ý

10,5

25,1

43,4

7,8

13,3

2,88

10,8

24,8

41,4

9,0

14,0

2,91

12,0

25,8

38,6

9,6

14,5

2,88

13,3

25,1

26,8

18,8

16,0

2,99

16,0

31,6

33,8

11,0

7,5

2,62

30,1

35,8

18,8

8,0

2,27

7,3

35,6

36,1

19,0

4,5

4,8

2,07

Ý kiến của ngƣời dân với các nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra Tôi thấy băn khoăn lo lắng về lương thực cho tương lai Tôi lo lắng cho cuộc sống của mình và gia đình Tôi lo lắng sẽ làm gì trong tương lai khi không còn đất nông nghiệp Tôi thấy băn khoăn về công việc của con cái trong tương lai Tôi băn khoăn tiền đền bù sẽ sử dụng như thế nào cho hiệu quả Tôi sợ rằng con cái sẽ không chịu khó làm ăn vì trông chờ vào tiền đền bù Tôi thấy vui khi có nhiều tiền đền bù

7 Lưu ý rằng Tâm thế của người trả lời là sự hồi cố của họ về tâm lý trong thời kỳ thu hồi đất nông nghiệp.

139

Mức độ đồng ý

Điểm trung bình

2, Ít đồng ý

3, Đồng ý

4, Khá đồng ý

1, Hoàn toàn không

5, Hoàn toàn đồng ý

23,6

33,1

28,6

9,0

5,8

2,40

53,1

28,1

13,0

3,5

2,0

1,73

42,6

33,1

18,5

3,5

2,3

1,90

26,6

26,6

35,1

7,3

4,5

2,37

22,1

28,1

34,8

7,0

8,6

2,51

Ý kiến của ngƣời dân với các nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra Tôi rất phấn khởi sẽ làm được nhiều công việc từ tiền đền bù (xây nhà, chuyển đổi cuộc sống,...) Tôi thấy phấn khởi vì từ bây giờ gia đình tôi không còn phải làm nông nghiệp nữa Tôi thấy vui khi có dự án về tôi/người trong gia đình sẽ có công việc mới mà không phải làm nông nghiệp Tôi thấy vui khi có dự án về xã sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng Tôi nghĩ rằng kinh tế địa phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án

(Nguồn: Kết quả khảo sát của Luận án)

Đánh giá của các hộ gia đình khi biết sắp có chủ trương thu hồi đất

được thể hiện qua bảng số liệu trên, ở các mức độ khác nhau. Trong đó, đa

phần các hộ gia đình đều cảm thấy lo lắng trước chủ trương thu hồi đất. Trong

hoàn cảnh bị thu hồi phần lớn ruộng đất, tất yếu số lượng người đang làm

nông nghiệp mất việc làm sẽ tăng lên. Theo quy định của Chính phủ Quyết

định số 63/2015/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc

làm cho người lao động bị thu hồi đất “Đối với hỗ trợ giải quyết việc làm

140

trong nước: Người lao động bị thu hồi đất được tư vấn, định hướng nghề

nghiệp và giới thiệu việc làm miễn phí tại các Trung tâm dịch vụ việc làm;

Vay vốn ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm theo quy định của pháp luật.

Đối với đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Người lao động bị thu hồi

đất nông nghiệp được hỗ trợ theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP

ngày 9/7/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc

gia về việc làm”.

Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một

số hộ gia đình bị thu hồi đất. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy,mặc dù khu

công nghiệp được thành lập tại địa phương và số người mong muốn được

làm việc lớn, nhưng chỉ có một phần nhỏ người lao động được nhận vào

làm việc.

“Ở đây thu hồi đất nông nghiệp rất nhiều vì mở khu công nghiệp Bá

Thiện kia, như thôn tôi là thôn Gò Cao thì thu hồi 100% đất nông nghiệp, còn

các thôn khác thu hồi tùy theo ít nhiều. Chủ yếu là công ty của Nhật Bản và

Hàn Quốc. Sản xuất về điện tử.

Nhà nước có chính sách tuyển dụng người thuộc diện thu hồi đất vào làm

việc là có nhưng các công ty người ta có tiêu chuẩn của người ta. Anh phải có

tay nghề người ta mới tuyển nên số người được tuyển không phải là nhiều. Với

lại họ chỉ tuyển nữ là nhiều chứ không tuyển nam, tuyển nam rất ít”.

(Nam, 56 tuổi, chủ hộ, xã Thiện Kế

Kết quả thu được từ phỏng vấn sâu cũng cho thấy, đa số người dân gặp

khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, và việc khó khăn này là do kiến thức

và kinh nghiệm chưa đủ để đáp ứng với những đòi hỏi của công việc mới nên

số nông dân cảm thấy luôn luôn bận rộn với công việc và công việc của mình

luôn tiến triển tốt không nhiều.

“Ở đây thu hồi đất để phục vụ mở đại lộ Thăng Long, Láng- Hòa Lạc,

đấy là hồi đầu cách đây hơn chục năm, gần đây thì thu hồi 72 ha đất nông

141

nghiệp để phát triển khu đô thị Tây Quốc Oai, sắp tới tiếp tiếp tục thu hồi để

phát triển khu công nghiệp. Dân ở đấy bây giờ còn ít đất ruộng nên cũng tìm

cách làm nghề khác. Nhưng cũng khó khắn lắm. Sang Hữu Bằng – Thạch

Thất học nghề mộc, người thì đi buôn bán, người thì làm nón, có việc gì thì

làm việc đấy phải xoay xở. Nói chung là cũng vậy vậy.”

(Nam, 31 tuổi, thợ mộc, xã Ngọc Mỹ)

Phần lớn người lao động lo lắng về việc làm của con cái mình trong

tương lai, với điểm trung bình 2,99/5 điểm cho thấy mức độ lo lắng về

việc làm của con cái trong tương lai ở mức trên trung bình. Đối với băn

khoăn, lo lắng về cuộc sống, lương thực và công việc của gia đình khi bị

thu hồi đất lần lượt là 2,91, 2,88và 2,88 điểm (thang đo giá trị là 5). Cũng

cho biết mức độ lo lắng tương đối cao, tuy nhiên với độ lệch chuẩn lớn

cho thấy có sự khác biệt về mức độ lo lắng đối với những hộ gia đình có

những đặc điểm khác nhau.

Một số hộ gia đình lại lo lắng, băn khoăn về tiền đền bù của gia đình sẽ

sử dụng như thế nào cho hiệu quả, hoặc lo con cái sẽ không chịu khó làm ăn

vì trông chờ vào tiền đền bù ở mức đồng ý và ít đồng ý với mức điểm trung

bình lần lượt là 2,67 và 2,27 điểm. Tuy nhiên, một số hộ gia đình lại cảm thấy

vui vì khi có nhiều tiền đền bù và họ sẽ làm được nhiều việc từ tiền đền bù

(xây nhà, chuyển đổi cuộc sống) với mức điểm trung bình là 2,07 và 2,40

điểm (thang đo giá trị là 5).

Khi nhận được chủ trương thu hồi đất, các hộ gia đình cảm thấy vui,

tuy nhiên chỉ ở mức độ trung bình từ 1,7 đến 2,57 điểm (thang đo giá trị là 5).

Sau khi thu hồi đất, các hộ gia đình nông thôn nhận được nhiều tiền đền bù,

dẫn đến nhiều hộ gia đình cảm thấy phấn khởi vì bây giờ không còn phải làm

nông nghiệp nữa. Tuy nhiên, nhận định này chỉ được đánh giá ở mức ít đồng

ý với mức điểm trung bình là 1,73 điểm (thang đo giá trị là 5). Một số hộ gia

142

đình cảm thấy vui khi có sự án về gia đình sẽ có công việc mới mà không

phải làm nông nghiệp hay sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng và địa

phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án với mức điểm trung bình lần lượt là

1,90, 2,37 và 2,51 điểm (thang đo giá trị là 5).

Như vậy, có thể thấy, các hộ gia đình khi biết được chủ trương thu hồi

đất cảm thấy lo lắng, băn khoăn về tương lai nhiều hơn, việc làm của người

lao động về tương lai chính là điều mà các hộ gia đình lo lắng nhiều nhất, việc

làm là một phần không nhỏ ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ gia đình

trong tương lai.

Trong quá trình nghiên cứu tác giả phân tích tương quan tâm thế của

người lao động đối với quá trình chuyển đổi việc làm của người lao động.

ảng 4.8: Mối quan hệ giữa tâm thế của ngƣời dân khi Nhà nƣớc thu hồi

đất nông nghiệp và quá trình thay đổi việc làm

Tâm lý lo lắng khi thu hồi đất

Tâm lý vui mừng khi thu hồi đất

Mức độ chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình

Tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số ngƣời trong gia đình

Hệ số r

Tâm lý lo lắng khi

thu hồi đất

Mức ý nghĩa

Hệ số r

Tâm lý vui mừng

khi thu hồi đất

Mức ý nghĩa

Tỷ lệ % chuyển

.399**

-.158**

1,000

Hệ số r

đổi/tổng số người

.000

.002

Mức ý nghĩa

trong gia đình

.453**

-.211**

.686

1,000

Mức độ ảnh hưởng

Hệ số r

đến công việc của

.000

.000

.000

Mức ý nghĩa

gia đình

**p<0,001 *p<0,05

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

143

Kết quả phân tích tương quan giữa tâm lý của người dân khi thu hồi đất

với tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số người trong gia đình và mức độ ảnh hưởng đến

công việc của gia đình. Trong đó, mức độ mối liên kết giữa các yếu tố mạnh

yếu khác nhau.

Tâm lý lo lắng khi thu hồi đất lại đồng biến với tỷ lệ % chuyển

đổi/ tổng số người trong gia đình, r = 0,399 và mức độ ảnh hưởng đến

công việc của gia đình với hệ số tương quan r= 0,453 với mức ý nghĩa

α<0,05, Ngược lại, tâm lí vui mừng lại thể hiện tính chất nghịch biến

với tỷ lệ % chuyển đổi/tổng số người trong gia đình và mức độ chuyển

đổi nghề nghiệp của hộ gia đình với r lần lượt là r = - 0,158 và r = -

0,211 với mức ý nghĩa α < 0,01.

Như vậy, có thể thấy, khi tâm lý của người dân càng lo lắng bao nhiêu

thì tỷ lệ % chuyển đổi và mức độ chuyển đổi càng lớn. Tâm thế của người dân

trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp thể hiện rõ những lo lắng của người

dân nông thôn. Tâm lý e ngại trong chuyển đổi nghề nghiệp cũng như tâm lý

lo lắng mình không biết làm việc gì khác ngoài làm nông nghiệp là một trong

những tâm lý then chốt khiến người dân nông thôn không tự tin để có thể

chuyển đổi nghề nghiệp của mình.

4.2. Các yếu tố khách quan

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của người lao

động, trong đó, tập trung chủ yếu vào ba nhóm yếu tố chính, đó là: yếu tố về

thị trường, yếu tố nguồn lực trong gia đình, yếu tố về sự giúp đỡ của người

dân/chính quyền địa phương.

4.2.1. Yếu tố về thị trường

Thị trường có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến từng hoạt động sản xuất

144

kinh doanh của người dân vì thị trường là mục tiêu của những người kinh

doanh và cũng là môi trường của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Khi

người dân nhận thấy thị trường có nhiều thay đổi để tạo ra lợi nhuận họ sẽ

thay đổi cách thức sản xuất để tọa ra các mặt hàng phù hợp với các lĩnh

vực thị trường cần.

ảng 4.9: Mức độ quan trọng yếu tố thị trƣờng trong quá trình chuyển

đổi việc làm của gia đình

Mức độ

Hoàn toàn Ít Tƣơng Quan Rất quan Mức độ quan trọng không quan quan đối quan Điểm trung bình trọng trọng trọng trọng trọng

Nhu cầu của 11,3 30,1 34,2 11,7 17,8 2,85

người tiêu dùng

địa phương tăng mạnh

Nhu cầu tiêu 28,2 35,7 25,2 7,5 3,4 2,22

dùng ở nơi khác tăng mạnh

Số người buôn 22,2 28,9 34,2 10,9 3,8 2,45

mua hàng hóa tăng mạnh

Dễ bán sản phẩm 20,3 32,7 34,6 8,6 3,8 2,43

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Các yếu tố thị trường (nhu cầu của người tiêu dùng địa phương, nhu

cầu tiêu dùng của người ở nơi khác, số người buôn mua hàng hóa tăng và dễ

bán sản phẩm) là những yếu tố người dân bị thu hồi đất cho rằng có ảnh

hưởng đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của gia đình. Trong đó, các yếu

145

tố về thị trường được đánh giá ở mức độ quan trọng với thang điểm trung

bình từ 2,22 đến 2,85 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, yếu tố nhu cầu

của người tiêu dùng địa phương được đánh giá cao nhất với điểm trung bình

là 2,85 điểm. Trong đó, yếu tố được người dân đánh giá ở mức ít quan trọng

và quan trọng chiếm tỷ lệ cao nhất là 30,1% và 34,2%. Yếu tố nhu cầu tiêu

dùng của người ở nơi khác tăng mạnh lại được đánh giá ở mức thấp nhất, ít

quan trọng với mức điểm trung bình là 2,22 điểm. Trong đó, phần lớn tỷ lệ

người trả lời hoàn toàn không quan trọng hoặc ít quan trọng chiếm tỷ lệ cao

nhất lần lượt là 28,2% và 35,7%.

Như vậy, qua bảng số liệu có thể thấy, trong và sau quá trình thu

hồi đất, người dân địa phương vẫn có mối liên kết chặt chẽ với nhau

nhiều hơn những người ở nơi khác. Bên cạnh đó, yếu tố số lượng người

mua hàng hóa tăng mạnh và dễ bán sản phẩm cũng được đánh giá ở

mức quan trọng với mức điểm trung bình lần luợt là 2,45 và 2,43 điểm.

Hai yếu tố này, được người lao động đánh giá ở mức độ ít quan trọng

và quan trọng chiếm tỷ lệ cao (khoảng 30%). Trong quá trình nghiên

cứu tác giả đã kiểm định mối liên hệ mức độ quan trọng của các yếu tố

trong quá trình chuyển đổi việc làm với đánh giá của chính người dân

nông thôn về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất

kết quả thể hiện có mối liên hệ một cách có ý nghĩa thống kê giữa các

yếu tố được đưa vào phân tích.

Kết quả phân tích tương quan thể hiện mối liên hệ giữa mức độ quan

trọng của các yếu tố thị trường với đánh giá của chính người dân nông thôn về

146

sự thay đổi việc làm của hộ gia đình.

ảng 4.10: Mối quan hệ giữa việc dễ bán sản phẩm và mức độ

ảnh hƣởng đến việc làm của của gia đình

Dễ bán sản phẩm

Nhu cầu tiêu dùng của ngƣời ở nơi khác tăng mạnh

Số ngƣời buôn mua hàng hóa tăng mạnh

Nhu cầu của ngƣời tiêu dùng địa phƣơng tăng mạnh

1

Tổng hợp về yếu tốt thị trƣờng thúc đẩy chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình .438**

Đánh giá về mức độ thu hồi đất nông nghiệp đã ảnh hƣởng đến việc làm của gia đình .033

.109

.026

-.058

r

.077

.676

.345

.000

.592

266

266

266

266

266

266

Mức ý nghĩa N

1

.566**

.340**

.109

.746**

.089

r

.000

.000

.077

.000

.149

266

266

266

266

266

266

Mức ý nghĩa N

1

.591**

.566**

.026

.805**

.119

r

.000

.000

.676

.000

.052

Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh Nhu cầu tiêu dùng của người ở nơi khác tăng mạnh Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh

266

266

Mức ý nghĩa N

266 .591**

1

266 .340**

-.058

266 .682**

266 .167**

r

Dễ bán sản phẩm

.000

.000

.345

.000

.006

266

Mức ý nghĩa N

266 .746**

266 .805**

266 .682**

266 .438**

1

266 .151*

r

.000

.000

.000

.000

.014

266

266

266

266

266

266

Mức ý nghĩa N

.033

.089

.119

.167**

.151*

1

r

.592

.149

.052

.006

.014

266

266

266

266

266

399

Mức ý nghĩa N

Tổng hợp về yếu tốt thị trường thúc đẩy chuyển đổi nghề nghiệp của hộ gia đình Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nôn nghiệp **p<0,01, *p<0,05

147

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Từ kết quả phân tích có thể thấy, yếu tố về thị trường có ảnh hưởng

tương đối lớn trong quá trình chuyển đổi việc làm của người dân. Kết quả

phân tích cho thấy tầm quan trọng của việc dễ bán sản phầm được các hộ

đánh giá ở mức độ quan trọng. Thực tế, các hộ gia đình kinh tế tư nhân, cá thể

có xu hướng giảm dần, tập trung chủ yếu vào kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn

đầu tư nước ngoài. Kết quả phân tích thể hiện có mối liên hệ giữa tầm quan

trọng của các yếu tố thị trường đến sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình

sau khi thu hồi đất nông nghiệp. Khi để riêng các yếu tố th yếu tố th yếu tố:

Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh, Nhu cầu tiêu dùng của

người ở nơi khác tăng mạnh, Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh không

có ảnh hưởng nhiều đến sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu

hồi đất. Yếu tố dễ bán sản phẩm có ảnh hưởng mạnh đến quá trình thay đổi

nghề nghiệp của hộ gia đình. Nhưng khi tác giả tổng hợp các yếu tốt thị

trường thúc đẩy chuyển đổi việc làm của hộ gia đình thì nhận thấy có mối

tương quan một các có ý nghĩa thống kê đối với quá trình thay đổi việc làm

của hộ gia đình và hệ số tương quan r =.167 cho thấy đây là một mối tương

quan liên kết yếu. Kết luận từ mẫu nghiên cứu cũng có cơ sở để khái quát cho

tổng thể nghiên cứu với mức độ tin cậy đã xác định.

Như vậy kết quả trên cho thấy, có mối quan hệ giữa việc nhận thức về

về tầm quan trọng của việc dễ bán sản phẩm, nhận thức về nhu cầu thị trường

với mức độ ảnh hưởng đến việc làm. Những người nhận thức thấy nhu cầu thị

trường cao thì càng cho rằng việc làm của hộ gia đình mình thay đổi nhiều

trong những năm qua.

Bên cạnh yếu tố sức mua tăng cao là yếu tố thị trường sản phẩm đa

dạng phong phú cũng là động lực thúc đẩy để các hộ gia đình chuyển đổi cơ

148

cấu việc làm của hộ gia đình.

ảng 4.11: Mức độ thuận lợi về thị trƣờng trong quá trình chuyển đổi

việc làm của gia đình

Mức độ

Thuận lợi về thị trƣờng tiêu thụ

Ít thuận lợi

Thuận lợi

Tƣơng đối thuận lợi

1, Thông tin thị trường

Hoàn toàn không thuận lợi 28,2

36,5

28,6

6,4

Rất thuận lợi 0,4

Điểm trung bình 2,14

29,7

33,5

25,9

9,0

1,9

2,2

2, Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ 3, Môi trường sản xuất

12,4

29,7

48,9

6,0

3,0

2,58

20,3

40,6

35,0

2,6

1,5

2,24

4, Địa bàn cách xa trung tâm

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, môi trường sản xuất là yếu tố thuận lợi

nhất trong quá trình chuyển đổi việc làm gia đình với mức điểm trung bình là

2,58 điểm, Trong đó, tỷ lệ người dân trả lời thuận lợi chiếm 48,9%, nhưng

mức độ tương đối thuận lợi và rất thuận lợi chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm

6,0% và 3,0%. Các yếu tố thông tin thị trường, sự thay đổi của thị trường tiêu

thụ, địa bàn cách xa trung tâm được đánh giá ở mức độ ít thuận lợi, với mức

điểm trung bình lần lượt là 2,14, 2,2 và 2,24 điểm. Như vậy, mặc dù đã nhận

được nhiều sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và nhu cầu tiêu dùng, mua

bán của người dân có tăng lên, song trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp,

các hộ gia đình vẫn gặp phải nhiều khó khăn về yếu tố thị trường. Bởi lẽ,

trong quá trình chuyển đổi ruộng đất, số tiền đền bù cho người dân vẫn chưa

thể đáp ứng được nhu cầu với giá cả của thị trường và khu tái dân cư. Bên

cạnh đó, một số địa phương chạy theo phong trào phát triển các khu công

nghiệp, khu đô thị mà chưa cân nhắc đến hiệu quả; hoặc phát triển công

nghiệp, dịch vụ bằng mọi cách mà chưa chú ý đúng mức đến tác động đối với

người dân. Chính vì vậy, cần phải tăng cường yếu tố thị trường để chuyển đổi

149

việc làm có nhiều thuận lợi.

Trong quá trình thu hồi đất, các hộ gia đình không còn đất canh tác sẽ phải

lựa chọn thay đổi việc làm khác để tạo thu nhập cho gia đình. Trong quá trình

chuyển đổi việc làm, phần lớn các hộ gia đình dựa vào nhu cầu của thị trường. Khi

thành phần kinh tế nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ tăng lên thì các hộ

gia đình cũng chuyển dần sang hoạt động công nghiệp và dịch vụ.

ảng 4.12: Mối liên hệ sự thay đổi của thị trƣờng và Đánh giá về sự thay

đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất

Thông tin thị trƣờng

Môi trƣờng sản xuất

Địa bàn cách xa trung tâm

Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nôn nghiệp

Tổng hợp những thuận lợi đánh giá từ yếu tố thị trƣờng

Sự thay đổi của thị trƣờng tiêu thụ

1

Thông tin thị trường

1

Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ

1

Môi trường sản xuất

1

Địa bàn cách xa trung tâm

1

266 .270** .000 266 .082 .184 266 .809** .000 266

266 .504** .000 266 .268** .000 266 .143* .020 266 .783** .000 266

266 .378** .000 266 .662** .000 266

266 .258** .000 266

r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa N

266

1

-.085 .165 266

r Mức ý nghĩa N

-.106 -.160** -.208** .001 .009 .085 266 266 266

-.209** .001 266

399

Tổng hợp những thuận lợi đánh giá từ yếu tố thị trường Đánh giá sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp **.p< 0,01 *. p< 0,05,

150

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả nghiên cứu thể hiện mối tương quan giữa nhận thức về sự thuận

lợi của các yếu tố thị trường trong quá trình chuyển đổi việc làm và đánh giá về

sự thay đổi nghề nghiệp của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp. Các

hệ số tương quan r đều mang dấu âm chứng tỏ 2 biến số có sự tương quan

nghịch với nhau. Càng những người nhận thấy thị trường ít thuận lợi thì càng

nhận thấy các thành viên viên trong gia đình chuyển đổi việc làm nhiều.

Trong quá trình thu hồi đất, các hộ gia đình không còn đất canh tác sẽ

phải lựa chọn thay đổi việc làm khác để tạo thu nhập cho gia đình. Trong quá

trình chuyển đổiviệc làm, phần lớn các hộ gia đình dựa vào nhu cầu của thị

trường. Khi thành phần kinh tế nông nghiệp giảm, công nghiệp và dịch vụ

tăng lên thì các hộ gia đình cũng chuyển dần sang hoạt động công nghiệp và

dịch vụ. Trong quá trình chuyển đổi việc làm, các hộ gia đình cho thấy khi

làm nông nghiệp chỉ đơn giản là làm các công việc theo các thói quen là

chính, những kinh nghiệm được truyền từ đời này qua đời khác do vậy cuộc

sống, việc làm của họ cứ êm đềm trôi theo ngày tháng năm. Tuy nhiên khi

bước vào thị trường cạnh tranh khốc liệt người dân nông thôn sẽ nhận thấy để

có thể làm việc được ở những khu vực công nghiệp xây dựng hay các ngành

nghề dịch vụ họ thấy không đơn giản một chút nào. Mọi việc làm đều phải

cạnh tranh nhau mới có được công việc, sự bươn trải ngoài cuộc sống hết sức

khó khăn. Kết quả phân tích thể hiện do quá trình thu hồi đất nông nghiệp

người dân không còn đất để sản xuất nên họ cũng đánh giá môi trường sản

xuất hiện nay không còn thuận lợi như trước nữa. Những người phải chuyển

đổi việc làm thì càng đánh giá môi trường sản xuất hiện tại không thuận lợi.

Người dân không còn đất để sản xuất nên họ cũng đánh giá môi trường sản

xuất hiện nay không còn thuận lợi như trước nữa. Qua những số liệu phân tích

chúng ta thấy được những “cú sốc” khi người lao động nông thôn thay đổi

151

việc làm của mình.

Quá trình khảo sát cũng thể hiện có mối liên hệ giữa những hộ gia đình

có người được đào tạo nghề thì có khả năng thay đổi việc làm nhiều hơn

những hộ gia đình không có người được đào tạo nghề.

ảng 4.13: Thuận lợi trong đào tạo nghề và đánh giá về sự thay đổi việc

làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất

Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất

Tầm quan trọng

Tổng

Thay đổi ít

Có thay đổi

Thay đổi nhiều

Hoàn toàn thay đổi

Hoàn toàn không thay đổi

5

4

7

48

22

79

N

Tỉ lệ %

5,8

4,7

8,1

55,8

25,6 100,0

Hoàn toàn không thuận lợi

1

16

12

24

22

89

N

1,3

21,3

Ít thuận lợi

Tỉ lệ %

16,0

32,0

29,3 100,0

11

14

9

28

19

69

N

Thuận lợi

Tỉ lệ %

13,6

17,3

11,1

34,6

23,5 100,0

3

1

2

4

3

24

N

Tương đối

7,7

thuận lợi

Tỉ lệ %

23,1

15,4

30,8

23,1 100,0

3

1

2

4

1

5

N

27,3

9,1

18,2

36,4

9,1 100,0

Rất thuận lợi

Tỉ lệ %

23

36

32

108

67

266

Tổng N

8,6

13,5

12,0

40,6

25,2 100,0

Tỉ lệ %

*p=.001; Kendall's tau-b.=-162

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Đào tạo nghề là một công tác quan trọng trong quá trình thúc đầy thay

đổi nghề nghiệp việc làm. Khi hộ gia đình nhận thấy việc đào tạo nghê có

nhiều thuận lợi thì họ sẽ tìm kiếm các công việc phù hợp. Nhưng quá trinh

152

phân tích số liệu không phản ánh điều đó mà cho thấy mặc dù đào tạo nghề

tạo ra việc làm mới nhưng người dân nông thôn thực sự chưa mặn mà với

nghề mới vì nhiều lý do như thu nhập không ổn định, không phù hợp thực tế

đời sống. Đào tạo nghề là một công tác quan trọng trong quá trình thúc đầy

thay đổi việc làm. Khi hộ gia đình nhận thấy việc đào tạo nghề có nhiều thuận

lợi thì họ sẽ tìm kiếm các công việc phù hợp với p= 0,001, Nhưng quá trinh

phân tích số liệu không phản ánh điều đó mà cho thấy mặc dù đào tạo nghề

tạo ra việc làm mới nhưng người dân nông thôn thực sự chưa mặn mà với

nghề mới vì nhiều lý do như thu nhập không ổn định, không phù hợp thực tế

đời sống. Các hộ gia đình thấy đào tạo nghề hoàn toàn không thuận lợi và

thuận lợi ít chiếm tỷ lệ cao và có mức ảnh hưởng nhiều và tương đối nhiều

đến việc làm của hộ gia đình. Các hộ gia đình cho rằng đào tạo nghề không

thuận lợi ảnh hưởng tương đối nhiều và rất nhiều chiếm 81,4%, hoàn toàn

không ảnh hưởng và ảnh hưởng ít chiếm 10,5% đến việc làm của các hộ gia

đình. Việc đào tạo nghề rất thuận lợi cho rằng ảnh hưởng tương đối nhiều và

ảnh hưởng rất nhiều chiếm 45,5%, hoàn toàn không ảnh hưởng và ảnh hưởng

ít chiếm 36,4%. Như vậy, khi các hộ gia đình càng nhận thấy đào tạo nghề có

nhiều thuận lợi thì vấn đề việc làm của hộ gia đình càng dễ dàng.

4.2.2. Yếu tố nguồn lực trong gia đình

Cho đến nay nước ta có 70% dân số làm nghề nông. Vì vậy đất chính là

cơ sở, là nguồn sống của phần lớn dân số Việt Nam. Tuy nhiên, để thực hiện

công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã

có chính sách phát triển các khu công nghiệp, mở rộng các khu đô thị. Để đạt

được mục đích trên, Nhà nước đã có chính sách thu hồi đất nông nghiệp để

xây dựng các khu công nghiệp cũng như làm quỹ đất để phát triển các khu đô

153

thị và phát triển cơ sở hạ tầng.

ảng 4.14: Động lực từ phía gia đình thúc đẩy chuyển đổi việc làm

Mức độ

Mức độ quan Điểm

Hoàn toàn Tƣơng Rất trọng của các trung Ít quan Quan không đối quan quan yếu tố bình trọng trọng quan trọng trọng trọng

13,2 17,3 45,5 9,0 15,0 2,95 1, Làm nông

nghiệp không

đủ ăn

23,7 27,8 30,1 8,3 10,2 2,53 2, Có thêm

nhân khẩu

19,9 15,4 46,6 10,5 7,5 2,7 3, Có thêm vốn

đầu tý cho sản

xuất, kinh

doanh, dịch vụ

14,3 15,4 37,6 11,3 21,4 3,1 4, Không còn

đất để canh tác

7,9 24,8 38,3 13,2 15,8 3,04 5, Kinh tế gia

đình khó khăn

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Trong các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi việc làm của người lao

động thì yếu tố nguồn lực gia đình được đánh giá quan trọng nhất, với mức

điểm trung bình từ 2,53 đến 3,1 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, yếu tố

ảnh hưởng nhiều nhất chính là yếu tố không còn đất để canh tác chiếm 3,1

điểm, được đánh giá ở mức độ quan trọng. Tỷ lệ người dân đánh giá quan

154

trọng và rất quan trọng lớn chiếm 37,6% và 21,4%. Sau quá trình thu hồi đất,

diện tích đất canh tác của người dân giảm đáng kể, nhiều hộ gia đình không

còn đất canh tác. Bên cạnh đó, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi hầu hết

là vùng đất tốt, có điều kiện thuận lợi cho canh tác, trong khi các diện tích

đất đền bù là đất xấu, cách xa khu dân cư và điều kiện hạ tầng phục vụ sản

xuất còn nhiều khó khăn. Chính những điều trên làm cho kinh tế gia đình

khó khăn hơn, được đánh giá ở mức độ quan trọng với mức điểm trung

bình là 3,04 điểm. Yếu tố kinh tế gia đình được đánh giá ít quan trọng hơn,

tuy nhiên vẫn được coi là đánh giá là một trong hai yếu tố quan trọng nhất

gây nên khó khăn cho các hộ gia đình trong quá trình chuyển đổi nghề

nghiệp. Các yếu tố khác như làm nông nghiệp không đủ ăn, có thêm nhân

khẩu, có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng được

đánh giá ở mức độ quan trọng với mức điểm trung bình lần lượt là 2,95,

2,53 và 2,7 điểm.

Đồng thời trong quá trình nghiên cứu thể hiện có mối liên hệ giữa

những yếu tố nội lực gia đình đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải

155

chuyển đổi việc làm để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.

ảng 4.15: Mối liên hệ giữa đánh giá về làm nông nghiệp không đủ ăn và Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất

Yếu tố nội lực gia đình

Làm nông nghiệp không đủ ăn

Có thêm nhân khẩu

Có thêm vốn đầu tƣ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ

Không còn đất để canh tác

Kinh tế gia đình khó khăn

Đánh giá sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp

1

Làm nông nghiệp không đủ ăn Có thêm nhân khẩu

1

1

r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa

.413** .000 .120 .050

.284** .000

1

1

1

Có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ Không còn đất để canh tác Kinh tế gia đình khó khăn Yếu tố nội lực gia đình

1

r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa r Mức ý nghĩa N r Mức ý nghĩa

.362** .000 .425** .000 .667** .000 266 .140* .023

.382** .000 .385** .000 .713** .000 266 .155* .011

.334** .000 .236** .000 .558** .000 266 .004 .947

.576** .000 .776** .000 266 .210** .001

.753** .000 266 .299** .000

266 .234** .000

Đánh giá sự thay đổi việc làm của hộ gia đình sau khi thu hồi đất nông nghiệp **p<0,01, *. p<0,05

156

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả phân tích thể hiện một mối liên hệ giữa việc đánh giá về sự khó

khăn trong nội lực gia đình và đánh giá về sự chuyển đổi việc làm trong

những năm vừa qua của gia đình. Những người càng nhận thấy nguồn nội lực

của gia đình mình khó khăn như có thêm nhân khẩu, làm nông nghiệp không

đủ ăn, không còn đất để sản xuất thì càng nhận thấy việc làm của gia đình

mình thay đổi nhiều trong những năm qua.

Khi người dân không còn sinh kết bằng nông nghiệp nữa thì họ sẽ thay

đổi phương thức làm ăn của mình. Hoặc các hộ gia đình nhận thấy làm nông

nghiệp không đủ ăn thì cũng buộc người dân nông thôn thay đổi hình thức sản

xuất kinh doanh việc làm.

Gia đình có thêm nhân khẩu là một trong những điều kiện tất yếu cần

thay đổi về mặt sinh kế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong hộ gia đình trả

lời, đa số đều cho rằng yếu tố “có thêm nguồn nhân lực” ảnh hưởng quan

trọng đến sinh kế của các hộ gia đình nông thôn. Thực tế cho thấy, nước ta

nói chung là một nước có dân số trẻ, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm

tỉ lệ cao. Tuy nhiên, số lượng các nhà máy, các công xưởng trên địa bàn xã

còn ít, còn nhỏ, không thể đáp ứng được nhu cầu làm việc của lao động trẻ tại

địa phương, đa phần lao động trẻ có tay nghề thường làm việc tại các khu

công nghiệp, các nhà máy lớn. Những lao động không qua đào tạo, hoặc gần

hết tuổi lao động thì vẫn sản xuất nông nghiệp và sản xuất các sản phẩm tiểu

thủ công nghiệp khác nhằm nâng cao năng suất lao động. Như vậy, có thể

thấy, yếu tố “có thêm nguồn nhân lực” mặc dù không được đánh giá cao như

hai yếu tố trên, nhưng cũng đã nói lên được tầm quan trọng của yếu tố “có

thêm nhân khẩu” cũng chứng minh được sức ảnh hưởng của nó đến sinh kế

của các hộ gia đình nông thôn sau quá trình thu hồi đất. Khi gia đình có thêm

nhân khẩu thì mức độ chi tiêu trong gia đình cũng sẽ tăng lên điều đó đòi hỏi

157

các thành viên trong gia đình phải năng động hơn, phải tìm kiếm các công

việc có khả năng tạo ra thu nhập nhiều hơn để có thể tạo cho gia đình mình

một cuộc sống tốt hơn. Kết quả kiểm định thể hiện các hộ gia đình càng cho

rằng gia đình có thêm nhân khẩu thì càng thay đổi nghề nghiệp nhiều.

Suy cho đến cùng công việc của mỗi một cá nhân đó chính là tạo ra

kinh tế cho hộ gia đình. Do đó nếu kinh tế gia đình khó khăn thì đây là một

yêu cầu tất yếu đòi hỏi các thành viên trong sẽ phải tìm kiếm các việc làm

mới thay cho các việc làm cũ.

Kinh tế hộ gia đình nói chung sẽ là động lực quan trọng trong quá trình

chuyển đổi việc làm. Do những mưu sinh trong cuộc sống nên họ phải cố

gắng tìm cách để phát triển kinh tế của gia đình.

Có thể thấy, hiện tượng quy hoạch treo, quy hoạch các khu đô thị, khu

công nghiệp tràn lan là khá phổ biến. Quá trình quy hoạch chuyển đổi mục

đích sử dụng cũng như thẩm định các phương án sử dụng đất và xây dựng

phương án bồi thường chưa thực sự khoa học, thiếu sự tham gia đầy đủ của

các ngành, các tổ chức có liên quan hoặc đại diện cho quyền lợi của người

dân. Bên cạnh đó, thời gian triển khai công tác thu hồi đất kéo dài nhiều năm

gây bất lợi đến tâm lý cũng như việc ổn định đời sống và việc làm của các hộ

dân nằm trong diện bị thu hồi đất. Chính những yếu tố trên ảnh hưởng đến

chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động sau quá trình thu hồi đất. Với hệ

số tương qun r~ 0,2 thể hiện mức độ mối quan yếu, với p=0,000 cho biết mối

quan hệ này hoàn toàn có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy cho phép. Hay

nói cách khác, kết quả này có độ tin cậy để khái quát cho tổng thể nghiên cứu.

Như vậy có thể thấy có tồn tại mối quan hệ giữa việc đánh giá tầm quan

trọng của nguồn kinh tế của gia đình và Đánh giá về sự thay đổi việc làm của hộ

gia đình sau khi thu hồi đất sau khi bị thi hồi đất. Những người cho rằng nguồn

kinh tế có vai trò quan trọng, đồng thời họ cũng cho rằng nguồn kinh tế càng khó

158

khăn thì ảnh hưởng càng nhiều đến sự thay đổi việc làm của hộ gia đình.

ảng 4.16: Những thuận lợi về nội lực gia đình trong chuyển đổi

việc làm

Mức độ

Thuận lợi trong

chuyển đổi việc làm Thuận lợi Ít thuận lợi Rất thuận lợi Điểm trung bình

35,0 Tƣơng đối thuận lợi 6,0 28,2 3,8 2,31 Hoàn toàn không thuận lợi 27,1 1, Vốn đầu tư

39,5 4,5 29,3 2,6 2,32 3, Nhân lực lao động 24,1

36,5 3,4 30,5 0,4 2,15 10, Thu hồi đất nông 29,3

nghiệp

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Trong quá trình chuyển đổi việc làm, yếu tố nguồn nhân lực được đánh

giá ở mức độ ít thuận lợi. Các yếu tố về nguồn nhân lực đó là thu hồi đất đất

nông nghiệp, vốn đầu tư và nhân lực lao động với mức điểm trung bình lần

lượt là 2,15, 2,31 và 2,32 điểm (thang đo giá trị là 5). Thực tế cho thấy,

người dân sau quá trình thu hồi đất, diện tích đất canh tác nông nghiệp

giảm, nhiều hộ gia đình không còn đất để canh tác, trình độ học vấn và

trình độ chuyên môn thấp không thể đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế

thị trường xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Bên cạnh đó, công tác tuyển

dụng lao động tại các địa phương có đất bị thu hồi chưa thực sự hiệu quả.

Chính vì vậy, lao động nông nghiệp nhìn chung không đáp ứng được yêu

cầu của doanh nghiệp. Hầu hết các lao động nông nghiệp vẫn giữ nguyên

nghề cũ sau khi đất sản xuất bị thu hồi: chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng vài

%) chuyển sang nghề mới và tìm được việc làm ổn định. Như vậy, yếu tố

nguồn lực gia đình được đánh giá cao, đòi hỏi phải có nhiều chính sách hỗ

159

trợ hơn nữa của chính quyền địa phương.

4.2.3. Yếu tố về sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, doanh nghiệp

và các tổ chức đoàn thể

Thực tế cho thấy, trước khi tiến hành thu hồi đất, người lao động chủ

yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, các hoạt động liên quan đến công

nghiệp và dịch vụ còn ít, bên cạnh đó, trình độ học vấn của người lao động

còn thiếu và thật sự không hiệu quả. Khi diện tích đất bị thu hồi, người lao

động muốn làm việc cần phải qua đào tạo, và cần có những chính sách hỗ trợ

của các cấp chính quyền. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này chỉ đáp ứng một phần nhu

cầu, đòi hỏi của người lao động về hỗ trợ đào tạo nghề, tư vấn nghề, hay nhận

vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất...

ảng 4.17: Sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phƣơng/chủ đầu tƣ

hỗ trợ cho ngƣời dân trong quá trình chuyển đổi việc làm

Tổ chức Số lƣợng Tỷ lệ %

Chính quyền xã 84 31,6

Ban lãnh đạo thôn 74 27,8

Doanh nghiệp 20 7,5

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả phân tích thể hiện sự đón nhận giúp đỡ của người nhân từ

chính quyền địa phương là 31,6%, ban lãnh đạo thôn là 27,8% còn doanh

nghiệp thấp nhất chỉ có 7,5% số người được hỏi nhận được sự giúp đỡ từ

doanh nghiệp. Như vậy từ số liệu điều tra thể hiện số lượng hộ gia đình nhận

được sự giúp đỡ từ các tổ chức chính quyền và doanh nghiệp tương đối thấp.

Trong đó thì sự giúp đỡ này trong thực tế thuộc về trách nhiệm của chính các

cơ quan trên bởi nhiệm vụ của các cơ quan này là chăm lo cho đời sống của

160

nhân dân. Do đó, tỉ lệ như trên có thể xem là không cao.

Trong các chính sách của Đảng và Nhà nước nêu rõ vai trò quan trọng

của tổ chức chính quyền địa phương cũng như những tổ chức doanh nghiệp

đóng trên địa bàn. Chính quyền địa phương phải là tổ chức có vai trò then

chốt trong công tác đẩy mạnh sự thay đổi về cơ cấu lao động. Cần phải truyền

thông về vị trí chiến lược của phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và

vai trò của công tác nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Đồng thời, cung

cấp thông tin cho người lao động để có sự lựa chọn chính xác trong việc tìm

kiếm việc làm phù hợp với tình hình thực tế thị trường lao động. Đồng thời

tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với

công tác chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông thôn. Xác định đây là

một trong những chiến lược quan trọng, có tính lâu dài trong việc phát triển

kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Quá trình định hướng

chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu

người nông dân, nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và của xã hội.

Đặc biệt quan tâm đến việc dạy nghề cho những đối tượng lao động bị thu hồi

đất ở những địa phương hình thành phát triển các khu, cụm công nghiệp của

tỉnh. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa dạy nghề, giải quyết việc làm. Huy động

các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và nhân dân tích cực tham gia

vào công tác dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Đẩy mạnh các

hoạt động hỗ trợ về vốn, phương tiện sản xuất, thiêu thụ sản phẩm và giới

thiệu việc làm cho lao động nông thôn sau khi học nghề.

Các doanh nghiệp cần thiết phải có trách nhiệm xã hội đối với cộng

đồng địa phương. Cần thiết phải có công tác đào tạo nghề cũng như sử dụng

lao động địa phương trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên trên thực tế các công

161

tác này thực sự chưa tới được với người lao động bị mất đất.

ảng 4.18: Thực trạng triển khai hỗ trợ cho ngƣời dân của chính

quyền/chủ đầu tƣ

Chính sách hỗ trợ Số lƣợng Tỷ lệ %

Hỗ trợ đào tạo nghề 89 22,31

Nhận vào làm việc 84 21,05

Tư vấn học nghề 49 12,28

Tư vấn sử dụng tiền 20 5,01

Hỗ trợ khác 19 4,76

Xuất khẩu lao động 3 0,75

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa phần người lao động không nhận được

sự giúp đỡ từ chính quyền địa phương, chiếm 46,87%, một số người lao động

nhận được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương trong việc đào tạo nghề

(chiếm 22,31%) hoặc được tư vấn học nghề (chiếm 12,28%). Có 21,05%

người lao động được nhận vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế

xuất... tại địa phương. Các nguồn hỗ trợ của chính quyền địa phương tuy đã

có nhiều cố gắng, song vẫn còn phân tán, thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp, chưa

hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất; đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu và

thiếu cán bộ khoa học, kỹ thuật; chưa thu hút được các doanh nghiệp đầu tư

phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự đầu

tư, hỗ trợ của Nhà nước ở một bộ phận người lao động còn nặng nên đã hạn

chế phát huy nội lực và sự nỗ lực vươn lên.

Chính sách hỗ trợ chủ lực là các chính sách liên quan tới đào tạo và tư

vấn học nghề. Chính sách này rõ ràng là chưa có sự phù hợp bởi lẽ tỷ lệ lao

động trung niên và người già của các hộ gia đình bị thu hồi đất chiếm tỷ lệ

162

cao, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp thu nghề mới.

ảng 4.19: Đánh giá của ngƣời dân về các chính sách hỗ trợ của chính

quyền/chủ đầu

Đánh giá về chính sách hỗ trợ Số lƣợng Tỷ lệ %

Rất không hiệu quả 50 12,5

Ít hiệu quả 124 31,8

Hiệu quả 195 48,9

Tương đối hiệu quả 27 6,8

Rất hiệu quả 3 0,8

Tổng 399 100

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay,

việc tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho việc hình thành

và phát triển thị trường lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động, nhất

là chuyển đổi lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp - nơi có năng suất lao

động thấp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn.

Để lao động nông thôn có thể có thể tiếp cận được với trang thiết bị, máy móc

hiện đại, các lớp tập huấn nâng cao tay nghề thì cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ

của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy, chính

sách hỗ trợ của chính quyền địa phương còn ít hiệu quả hoặc chỉ ở mức hiệu

quả, chiếm tỷ lệ lần lượt là 31,8% và 48,9%. Tỉ lệ người được hỏi cho rằng

chính sách hỗ trợ của địa phương tương đối hiệu quả hoặc rất hiệu quả thấp,

chỉ khoảng 7%.

Bên cạnh đó, mặc dù tỉ lệ người lao động tham gia xuất khẩu lao động

tại nước ngoài chỉ chiếm 0,75% nhưng cũng được Đảng, Nhà nước và chính

quyền địa phương quan tâm. Bởi lẽ người lao động ở Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài đã gửi về nước một khoản kiều hối rất đáng kể khoảng (hơn 1,5 tỷ

163

đô la Mỹ mỗi năm), góp phần phục vụ cho chiến lược công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nền kinh tế quốc dân, nâng cao mức sống nhân dân và đảm bảo an

sinh xã hội của đất nước.

Bên cạnh tổ chức chính quyền là các tổ chức xã hội luôn đồng hành sát

cánh bên người lao động nông thôn trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc

làm. Các tổ chức đoàn thể xã hội luôn đại diện cho quyền lợi cũng như các hoạt

động gắn chặt với các thành viên của mình tuy nhiên trong đánh giá của người

dân về sự trợ giúp của các tổ chức chính trị xã hội có nhiều hạn chế.

ảng 4.20: Sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể xã hội

trong quá trình chuyển đổi việc làm

Tổ chức N Tỉ lệ %

Đoàn thanh niên 4 1,5

Hội Phụ nữ 39 14,7

Hội Nông dân 29 10,9

Hội Cựu Chiến binh 13 4,9

Tổ chức phi chính phủ 2 0,8

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Số liệu thể hiện người lao động nông thôn nhận được sự giúp đỡ từ các

tổ chức đoàn thể xã hội. Tổ chức được đánh giá có nhiều sự giúp đỡ nhất đối

với người lao động nông thôn đó là hội phụ nữ có 14,7% số người được tiếp

nhận các trợ giúp, tiếp theo là hội nông dân với 10,9%. Các tổ chức khác sự

trợ giúp đối với người nông dân hết sức hạn chế.

ảng 4.21: Sự quan tâm giúp đỡ của anh em, bạn bè trong quá trình

chuyển đổi việc làm

Tổ chức N Tỉ lệ %

Anh em, họ hàng 120 45,1

Bạn bè 72 27,1

164

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Bảng số liệu thống kê về việc người dân có thường nhận được sự

giúp đỡ đến từ các chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội hay đến

từ người thân, bạn bè hay không? Từ số liệu ta thấy, hầu hết người dân

không thường nhận được sự giúp đỡ từ các tổ chức chính trị - xã hội tại

địa phương.

Các nguồn trợ giúp từ anh em, họ hàng và từ bạn bè có tỉ lệ cao nhất

lần lượt là 43,5% và 34,4%. như thực sự tỉ lệ này không cao. Anh em họ hàng

là những người thân thiết đối với mỗi người do vậy trong quá trình chuyển

đổi việc làm người dân sẽ tìm đến những người trong họ hàng, và những

người bạn bè để tìm kiếm những sự giúp đỡ.

Tuy nhiên, sự không thường xuyên giúp đỡ này hoàn toàn dễ hiểu

bởi trước khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì đa số người dân đều làm

các công việc liên quan đến nông nghiệp. Cơ chế phân phối đất đai và các

chính sách về ruộng đất là rất rõ ràng, quá trình thực hiện mùa vụ trong

trồng trọt là hoàn toàn tương đồng nhau về thời gian. Thế nên, các gia đình

đều tập trung cho sản xuất của hộ gia đình mình mà khó có thể giúp đỡ

được người khác. Hơn nữa, việc phân chia đất ruộng theo đầu người nên sẽ

không có nhiều hộ gia đình phải sản xuất trên quá nhiều diện tích, từ đó

công việc cũng không nhiều đến mức phải nhờ tới sự trợ giúp bên ngoài.

Từ đó dẫn tới việc người dân sẽ ít cần thiết phải giao tiếp hoặc tạo các mối

quan hệ bên ngoài xã hội.

Như vậy, nguồn vốn xã hội của họ là tương đối hạn hẹp. Điều này có

thể là một trở ngại đối với họ trong quá trình chuyển đổi việc làm sau khi bị

165

thu hồi đất canh tác.

ảng 4.22: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và ngƣời thân

Các hình thức giúp đỡ Số lƣợng Tỷ lệ %

Cho/ cho vay tiền 100 37,6

Sử dụng lao động của gia đình 51 19,2

Kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh mới 43 16,2

Mở rộng mối quan hệ trong SX, kinh doanh 29 10,9

Truyền thụ kiến thức chuyên môn 42 15,8

Giới thiệu việc làm 75 28,2

Đào tạo nghề mới 40 15,0

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các hộ gia đình nhận được sự giúp đỡ, hỗ

trợ của chính quyền địa phương tương đối lớn, trong đó, các hộ gia đình nhận

được hỗ trợ nhiều nhất về việc mở rộng mối quan hệ trong sản xuất, kinh

doanh (chiếm 89,1%). Các hộ gia đình nông thôn đều có mối quan hệ tốt với

nhau và thường giúp đỡ nhau, không chỉ về tinh thần mà còn hỗ trợ nhau về

vật chất. Cùng với sự quan tâm giúp đỡ của các hộ gia đình, chính quyền địa

phương cũng đào tạo nghề mới, truyền thụ kiến thức chuyên môn, kinh

nghiệm sản xuất, kinh doanh mới với tỉ lệ lần lượt là 85,0%, 84,2% và 83,8%.

Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng sử dụng lao động của gia đình,

giới thiệu việc làm cho người lao động với tỉ lệ lần lượt là 80,8% và 71,8%.

Đây là tỉ lệ tương đối cao, thể hiện mức độ quan tâm của chính quyền địa

phương với người lao động và các hộ gia đình về tinh thần tương đối lớn. Về

vật chất, chính quyền địa phương cho/cho các hộ gia đình vay tiền, nhưng chỉ

ở mức độ tương đối, chiếm 62,4%. Như vậy, chính quyền địa phương đã và

đang đồng hành cùng người lao động bằng nhiều hành động cụ thể, thiết thực

của mình trong việc hỗ trợ cho sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh

166

tế - xã hội địa phương.

ảng 4.23: Các hình thức giúp đỡ của tổ chức đoàn thể và ngƣời thân

Đánh giá của các hộ gia đình về hiệu quả của Số lƣợng Tỷ lệ % sự hỗ trợ

Rất không hiệu quả 38 14,3

Ít hiệu quả 91 34,2

Hiệu quả 88 33,1

Tương đối hiệu quả 43 16,2

Rất hiệu quả 6 2,3

Tổng 266 100,0

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Mặc dù nhận được sự trợ giúp tương đối lớn về vật chất và tinh

thần, nhưng các hộ gia đình đánh giá về hiệu quả của sự hỗ trợ này chỉ ở

mức trung bình. Các hộ gia đình đánh giá tương đối và rất hiệu quả ở mức

thấp, chiếm tỉ lệ lần lượt là 16,2% và 2,3%; phần lớn các hộ gia đình đánh

giá vế chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương ở mức độ hiệu quả

chiếm 33,1%, các hộ gia đình đánh giá rất không hiệu quả chiếm 14,3%

và ít hiệu quả chiếm 34,2%. Như vậy, có thể thấy, trước bối cảnh người

lao động gặp khó khăn về trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề,

chính quyền địa phương đã có chính sách cho người lao động vay/ cho

vay tiền cũng như đào tạo nghề cho người lao động. Tuy nhiên, cần có sự

đầu tư nhiều hơn nữa để chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương

thật sự đạt hiệu quả cao với người lao động nông thôn trong giai đoạn

167

hiện nay.

ảng 4.24: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và hiệu quả các hoạt động

hỗ trợ

Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ

Tổng Địa điểm phỏng vấn Ít hiệu quả Hiệu quả Tƣơng đối hiệu quả Rất hiệu quả

Rất không hiệu quả 37 60 112 3 239 27 N Vĩnh

Phúc 15,5 25,1 46,9 1,3 100,0 11,3 %

13 64 83 0 160 0 N Hà Nội 8,1 40,0 51,9 0,0 100,0 0,0 %

50 124 195 3 399 27 N Tổng 6,8 12,5 31,1 48,9 0,8 100,0 %

p=0,05, Tau-b=-0,085

Quá trình chuyển đổi việc làm của các hộ gia đình bị thu hồi đất ngoài

những nỗ lực chủ quan từ phía gia đình mà còn có những trợ giúp khách quan

từ các ban ngành đoàn thể, các bạn bè, cồng độ dân cư. Những sự hỗ trợ này

góp phần không nhỏ trong quá trình biến đổi cơ cấu việc làm của các hộ gia

đình. Kết quả điều tra thể hiện các hộ gia đình ở Vĩnh Phúc đánh giá mình

nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả từ bên ngoài tốt hơn những người ở khu vực

Hà Nội. Tại khu vực Hà Nội người dân đánh giá mức độ ít hiệu quả và có

hiệu quả là 40,0% và 51,9% không có ai đánh giá những sự trợ giúp bên ngoài

là tương đối hiệu quả và rất hiệu quả. Tuy nhiên tại khu vực Vĩnh Phúc với

mức độ đánh giá ít hiệu quả tỉ lệ người dân trả lời là 25,1% , có 46,9% số

người dân được hỏi của Vĩnh Phúc trả lởi là có hiệu quả và 11,3% cho rằng là

tương đối hiệu quả và 1,3% cho rằng là rất hiệu quả. Như vậy chúng ta thấy

tại khu vực Vĩnh Phúc vẫn có sự trợ giúp từ cộng đồng xã hội cao hơn Hà Nội

cũng như tính cố kết cộng đồng ở khu vực nông thôn cao hơn ở nông thôn của

168

Hà Nội.

ảng 4.25: Ngƣời dân có thuận lợi từ sự giúp đỡ của chính quyền

địa phƣơng

Mức độ

Thuận lợi

Thuận lợi Hoàn toàn không thuận lợi Ít thuận lợi Rất thuận lợi Điểm trung bình

Giúp đào tạo nghề 32,3 28,2 30,5 Tƣơng đối thuận lợi 4,9 4,1 2,2

Địa bàn cách xa 20,3 40,6 35,0 2,6 1,5 2,24

trung tâm

Chính sách, Quy 22,2 27,1 41,0 7,5 2,3 2,41

định được thực

hiện tại địa

phương

Có khu công 18,7 25,9 38,3 10,2 7,1 2,62

nghiệp đóng ở địa

phương

Sự quan tâm, ủng 9,4 19,5 55,6 13,9 1,5 2,79

hộ, giúp đỡ của

chính quyền địa

phương

Sự quan tâm, ủng 8,3 15,4 56,8 17,3 2,3 2,9

hộ, giúp đỡ của

người dân địa

phương

(Nguồn: Kết quả XLSL của Luận án)

Trong quá trình chuyển đổi việc làm của người dân, người dân/chính

169

quyền địa phương cũng có ảnh hưởng lớn sau quá trình thu hồi đất. Tuy

nhiên, chính sách hỗ trợ của địa phương chưa thật sự hiệu quả đến quá trình

chuyển đổi việc làm của người dân. Mức độ đánh giá của người dân về sự

giúp đỡ của người dân/chính quyền địa phương thấp, với mức điểm trung

bình từ 2,2 đến 2,9 điểm (thang đo giá trị là 5). Trong đó, sự quan tâm ủng hộ,

giúp đỡ của người dân địa phương được đánh giá thuận lợi nhất, mặc dù chỉ

chiếm 2,9 điểm. Tuy nhiên, cũng khẳng định được liên kết xã hội của người

dân địa phương chặt chẽ hơn, và họ giúp đỡ nhau nhanh hơn, hiệu quả hơn sự

giúp đỡ của chính quyền địa phương. Sự giúp đỡ của người dân/chính quyền

địa phương về đào tạo nghề thấp, ít thuận lợi cho người dân trong quá trình

chuyển đổi việc làm. Mặc dù, vấn đề đào tạo nghề tương đối quan trọng để

người dân có thể tiếp cận được công nghệ, trang thiết bị hiện đại khác, tập

trung vào mục tiêu chung của đất nước "giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ

trọng công nghiệp và dịch vụ" và đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành

nước công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, chính sách cũng như quy định

của địa phương còn cứng nhắc, các khu công nghiệp đóng tại địa phương

cũng chưa tạo được điều kiện để người lao động tiếp cận với công nghiệp,

dịch vụ hiệu quả, mức độ đánh giá của người dân về sự giúp đỡ này chỉ

chiếm 2,41 và 2,62 điểm, ở mức độ ít thuận lợi. Như vậy, có thể thấy, mặc

dù người dân trong quá trình chuyển đổi việc làm đã nhận được sự giúp đỡ

của người dân/chính quyền địa phương, song, sự giúp đỡ này chưa thật sự

tạo hiệu quả cao.

Từ các phân tích về các yếu tố ảnh hưởng tác giả đã chạy mô hình hồi

qui để phân tích mức độ tác động của các yếu tố đến quá trình biến đổi về cơ

170

cấu việc làm của người dân nông thôn khu vực thu hồi đất nông nghiệp.

ảng 4.26: Mô hình hồi qui các yếu tố ảnh hƣởng đến sự chuyển đổi việc

làm của hộ gia đình

Yếu tố Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4

Tâm lý lo lắng khi bị thu .363*** .325*** .332*** .333***

hồi đất

Tâm lý vui mừng khi -.214*** -.170** -.174** -.147*

nhận được tiền hỗ trợ

Tổng hợp động lực thúc .148** .148** .135*

đẩy từ nhu cầu của thị

trường tăng cao

Thuận lợi trong yếu tố từ -.169** -.164** -.162**

nội lực gia đình (kinh

nghiệm, nguồn nhân lực)

Sử dụng tiền đầu tư vào .123** .103*

kinh doanh

.176**

Độ tuổi R2 điều chỉnh 0,202 0,232 0,244 0,272

F 34,534 20,976 18,123 17,486

***p<0,001, **p<0,05, *p<0,1

Hằng số 2,877 2,931 2,849 2,037

Như vậy từ mô hình phân tích ban đầu và thông qua nhiều lần chạy mô

hình hồi qui các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi việc làm của người dân

khu vực thu hồi đất tác giả đã thu lại được mô hình tốt nhất thể hiện sự tác

động cùng lúc của các yếu tố.

Phương trình hồi quy tổng quát như sau: Y=α+β1X1+ β2X2+β3X3+ε

171

Áp dụng trong mô hình phương trình hồi quy được cụ thể như sau:

Chuyển đổi nghề = 2,037 + Tâm lý lo lắng - Tâm lý vui mừng + Động

lực thị trường - gia đình + Sử dụng tiền đầu tư vào kinh doanh + Độ tuổi + ε

Kết quả phân tích thể hiện tâm thế của người lao động nông thôn có

ảnh hưởng mạnh nhất đến sự chuyển đổi việc làm. Người dân nông thôn

càng lo lắng về việc làm sau khi thu hồi đất thì họ càng có khả năng

chuyển đổi sang việc làm khác, hệ số beta chuẩn hóa của yếu tố này là

0,333 thể hiện sự tác động tương đối mạnh mẽ. Tiếp đó là độ tuổi trung

bình của người lao động nông thôn có hệ số beta chuẩn hóa là 0,176, Hệ số R2 điều chỉnh giải thích được 27,2% sự biến đổi việc làm của người

dân nông thôn.

Kết quả phân tích đã chứng minh được giải thuyết sự biến đổi cơ cấu

lao động việc làm phụ thuộc vào các yếu tố như: Tâm thế của người lao động

nông thôn, các yếu tố từ nhu cầu thị trường, các yếu tố về kinh nghiệm của

những thành viên trong gia đình, yếu tố sử dụng tiền đền bù vào đầu tư sản

xuất, yếu tố tuổi có tác động đến sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm của

người dân nông thôn. Các yếu tố về sự giúp đỡ của chính quyền địa phương,

các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, trình độ học vấn khi tách riêng đứng độc

lập thì có tác động đến sự biến đổi cơ cấu lao động việc làm nhưng khi cùng

lúc tác động với các yếu tố khác thì các yếu tố này không đảm bảo về mặt ý

nghĩa thống kê hay nói cách khác nó chưa thực sự hiệu quả trong quá trình

giúp cho người dân nông thôn chuyển đổi việc làm. Thêm vào đó ngay từ đầu

yếu tố giới đã không thể hiện được sự khác biệt giữa nhóm nam và nhóm nữa

khi tác động đến sự biến đổi về cơ cấu lao động việc làm người dân nông

thôn. Như vậy người phụ nữ cũng giống như người đàn ông trong gia đình

172

phải tìm kiếm sinh kế mới mà không ở nhà như trước đây.

4.3. Ảnh hƣởng của quá trình chuyển đổi việc làm đến kinh tế hộ

gia đình

Quá trình thu hồi đất đã làm cho các hộ gia đình nông thôn phải thay

đổi sinh kế của mình. Quá trình thay đổi sinh kế đó đã tạo ra thu nhập cho các

hộ gia đình. Theo đánh giá của hộ gia đình mức sống của hộ gia đình có sự

thay đổi giữa trước khi thu hồi đất và sau khi thu hồi đất.

ảng 4.27: Đánh giá của ngƣời dân về mức sống của hộ gia trƣớc và sau

khi thu hồi đất

Mức sống Trƣớc khi thu hồi đất Sau khi thu hồi đất

Nghèo 4,3 4,8

Cận nghèo 7,0 5,5

Trung bình, đủ sống 77,2 78,9

Khá 11,3 10,5

Giàu có .3 .3

Tổng 100,0 100,0

(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)

Kết quả phân tích thể hiện đánh giá của người dân về mức sống của hộ

gia đình trong những năm qua. Kết quả thể hiện mức sống của hộ gia đình so

với mặt bằng chung của người dân ít có sự thay đổi. Tuy nhiên trong quá trình

nghiên cứu do sử dụng phương pháp hồi cố do vậy có thể có những sai số

nhất định về đánh giá mức sống.

Kết quả nghiên cứu thể hiện sự đánh giá về thay đổi của hộ gia đình

173

trong những năm qua kết quả thể hiện như sau:

ảng 4.28: Đánh giá của ngƣời dân về cuộc sống sau khi thu hồi

đất nông nghiệp

Đánh giá về cuộc sống Số lƣợng Tỉ lệ %

Khấm khá lên 149 37,3

Vẫn như trước 47 11,8

Nghèo đi/sa sút về kinh tế 203 50,9

Tổng 399 100,0

(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)

Kết quả nghiên cứu thể hiện có 37,3% đánh giá cuộc sống gia đình khá

giả lên có 11,8% đánh giá vẫn như trước, và đặc biệt là 50,9% đánh giá nghèo

đi. Như vậy kết quả nghiên cứu thể hiện người dân tự đánh giá về cuộc sống

gia đình có nhiều thay đổi. Trong nghiên cứu tác giả đã phân phân tích thu

nhập của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi đất.

ảng 4.29: Thu nhập và chênh lệch thu nhập của hộ gia đình trƣớc và

sau khi thu hồi đất

Sự chênh lệch Trung Độ lệch Thu nhập về thu nhập bình chuẩn (2015-2010)

Tổng thu nhập trung bình của 1 11,1454 7,79956 3,5789

hộ gia đình trong tháng (2015)

Tổng thu nhập trung bình của 1 7,5664 8,90824

hộ gia đình trong tháng (2010)

Thu nhập trung 4,1381 3,25991 1,3926

bình/người/tháng năm 2015

Thu nhập trung 2,7455 3,49686

bình/người/tháng năm 2010

174

(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)

Kết quả nghiên cứu thể hiện tổng thu nhập trung bình của các hộ gia

đình năm 2015 là 11,1454 triệu đồng/1 hộ gia đình, và năm 2010 là 7,5664

triệu đồng/1 hộ gia đình. Bên cạnh đó Thu nhập trung bình/người/tháng năm

2015 là 4,1381 triệu đồng và năm 2010 là 2,7455 triệu đồng. Như vậy số liệu

thể hiện sự tăng lên về thu nhập của hộ gia đình trước và sau khi thu hồi đất.

Kết quả phân tích thể hiện sự chênh lệch về thu nhập của các hộ gia

đình thấy tổng thu nhập của hộ gia đình trong tháng tăng lên trên 3,5 triệu và

thu nhập trung bình/người/tháng tăng lên 1,39 triệu đồng/tháng.

Kết quả nghiên cứu cũng thể hiện mối tương quan giữa mức độ chuyển

đổi nghề nghiệp việc làm với mức độ chênh lệch.

ảng 4.30: Tƣơng quan mức độ chuyển đổi nghề nghiệp việc làm với mức

độ chênh lệch

Mức độ chuyển đổi nghề nghiệp

Chênh lệch tổng thu nhập của hộ gia đình/tháng

Chênh lệch thu nhập/ng/tháng .118**

1

Mức độ chuyển đổi

r

.096*

nghề nghiệp

Mức ý nghĩa

.019

.056

N

399

399

r

Chênh lệch thu

1

399 .926***

nhập/ng/tháng

Mức ý nghĩa

.000

N

399

399

Chênh lệch tổng thu

r

1

nhập của hộ gia

Mức ý nghĩa

đình/tháng

N

399

*p<0,1; **. p<0,05; ***p<0,01

(Nguồn: Kết quả điều tra của Luận án)

Kết quả phân tích thể hiện có mối tương quan giữa mức độ chuyển đổi

175

nghề nghiệp và sự chênh lệch về tổng thu nhập của hộ gia đình trong tháng

cũng như thu nhập trung bình/người lao động trong tháng giữa 2 thời điểm

trước khi thu hồi đất và sau khi thu hồi đất. Kết quả thể hiện hộ gia đình nào

càng có mức độ chuyển đổi nghề nghiệp cao thì thu nhập của hộ gia đình càng

tăng lên.

ảng 4.31: Mối quan hệ giữa khu vực điều tra và cuộc sống gia đình sau

khi thu hồi đất nông nghiệp

Cuộc sống gia đình hiện nay và thời điểm trƣớc

khi thu hồi đất nông nghiệp Địa điểm phỏng

vấn Khấm khá Vẫn nhƣ Nghèo đi/sa Tổng lên trƣớc sút đi

Vĩnh Phúc N 109 36 239 94

% 45,6 15,1 100,0 39,3

Hà Nội N 40 11 160 109

% 25,0 6,9 100,0 68,1

Tổng N 149 47 399 203

% 37,3 11,8 100,0 50,9

p=0,012, Tau-b=-0,118

Quá trình biến đổi nghề nghiệp việc làm của các hộ gia đình khu vực bị

thu hồi đất có nhiều thay đổi. Đồng thời cũng có sự khác biệt giữa các khu

vực được điều tra. Từ kết quả khảo sát của đề tài thể hiện những người ở khu

vực Vĩnh Phúc đánh giá rằng kinh tế của gia đình mình có phần tốt hơn, khấm

khá hơn chiếm tỉ lệ là 45,6% trong khi đó ở Hà Nội tỉ lệ hộ gia đình thấy tốt

hơn chỉ là 25,0%. Trong khi đó các hộ gia đình thấy kinh tế gia đình mình

nghèo đi, làm ăn sa sút đi ở Vĩnh Phúc là 39,3% tron khi đó ở khu vực Hà Nội

cao gần gấp đôi là 68,1%. Như vậy từ kết quả điều tra chúng ta có thể thấy

176

quá trình thu hồi đất nông nghiệp ảnh hưởng lớn đến kinh tế, nghề nghiệp của

các hộ gia đình và những gia đình ở khu vực các thành phố lớn với mức chi

tiêu và giá thành các sản phẩm cao thì chịu mức ảnh hưởng cao hơn các khu

vực khác.

Tiểu kết chương 4: Kết quả phân tích đã cho thấy những yếu tố ảnh

hưởng đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của người dân như các

yếu tố tâm thế xã hội, yếu tố về nhân khẩu- xã hội như giới tính, độ tuổi, trình

độ học vấn cho thấy yếu tố giới, trình độ học vấn tác động không mạnh tạo

nên khác biệt giữa các nhóm lao động, yếu tố tuổi tác động mạnh tạo nên sự

khác việt nhóm tuổi trong sự chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm của người

dân. Thứ hai là các nhân tố khách quan như các nhân tố về thị trường lao

động, thị trường kinh tế, sự thúc đẩy từ trong hoàn cảnh gia đình, sự giúp đỡ

của các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp có ảnh hưởng đến quá trình

chuyển đổi nghề nghiệp việc làm của người dân. Đồng thời quá trình chuyển

177

đổi cơ cấu nghề nghiệp việc làm cũng làm thay đổi kinh tế hộ gia đình.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CHN- HĐH tất yếu kéo

theo biến đổi cơ cấu lao động và việc làm. Xu hướng biến đổi này làm hoàn

thiện cơ cấu xã hội và có tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế, xã hội.

Quá trình thu hồi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp hóa, đô thị

hóa đã có những tác động tích cực đến việc làm thu nhập và đời sống của

nông dân bị thu hồi đất; làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo

hướng hiện đại. Xu hướng lao động chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp

và dịch vụ tăng lên. Việc làm cũng chuyển biến theo xu hướng người dân rời

bỏ các việc làm liên quan đến nông nghiệp như làm ruộng, chăn nuôi, xay sát...

để chuyển sang các việc làm liên quan đến công nghiệp dịch vụ như thợ thủ

công, công nhân, buôn bán... Nhiều người đã thành công trong việc chuyển đổi

việc làm của mình. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp tạo ra nhiều cơ hội việc

làm đa dạng hoá việc làm cho người dân. Từ đó điều kiện sống và sinh hoạt của

người dân đã có những chuyển biến tích cực. Thu nhập và chi tiêu của hộ đều

tăng lên, người dân có điều kiện xây dựng nhà ở khang trang hơn và mua sắm

phương tiện sinh hoạt gia đình, cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm…

được đầu tư, nâng cấp ngày càng tốt hơn.

Bên cạnh những tác động tích cực thu hồi đất để công nghiệp hóa, đô thị

hóa còn có một số ảnh hưởng tiêu cực đến người dân, ở địa bàn xã Ngọc Mỹ

và Thiện Kế cho thấy tuy số lượng này không lớn nhưng có người thất bại

trong chuyển đổi việc làm.

Nhìn chung, quá trình thu hồi đất nông nghiệp tạo ra sự chuyển dịch cơ

cấu lao động, việc làm theo hướng hiện đại và ngày càng hoàn thiện hơn

nhưng vấn đề dạy nghề, đào tạo nghề còn nhiều bất cập, chưa phát huy được

178

hiệu quả dạy nghề để giúp người dân tìm kiếm được việc làm.

Trong nghiên cứu tác giả đã đánh giá cấu trúc việc làm của người dân

thông qua khía cạnh ngành kinh tế, thành phần kinh tế. Quá trình thay đổi về cơ

cấu lao động việc làm diễn ra tương đối nhanh.

Quá trình chuyển đổi việc làm của người dân có chịu tác động từ các yếu tố

nhân khẩu – xã hội. Tuy nhiên, qua số liệu có được để so sánh giữa các nhóm

trình độ học vấn, giới tính thì các yếu tố như giới tính, trình độ học vấn tác động

không mạnh. Mà thể hiện tác động mạnh là yếu tố độ tuổi, độ tuổi càng cao thì

người lao động càng có xu hướng ít chuyển đổi việc làm hơn so với các độ

tuổi trẻ. Đây là một tất yếu vì những người có tuổi để có thể thay đổi đã khó

và muốn họ thay đổi việc làm thì càng khó hơn. Giải pháp của họ là làm nhiều

việc làm thêm trong khi vẫn canh tác trên diện tích đất nông nghiệp còn lại.

Yếu tố giới tính chưa thể hiện được sự thay đổi việc làm có sự khác

biệt giữa nhóm nam và nữ. Như vậy xét trên khía cạnh giới cho thế người phụ

nữ cũng có nhiều cơ hội và điều kiện để thay đổi việc làm như nam giới.

Một yếu tố quan trọng đó là tâm lý của người dân ảnh hưởng đến quá

trình thay đổi việc làm của họ. Trạng thái tâm lý càng lo lắng cho tìm kiếm,

chuyển đổi việc làm thì người dân càng có xu hướng trăn trở, xoay xở thay

đổi việc làm.

Bên cạnh đó các yếu tố khách quan như thị trường hàng hóa thay đổi,

sức mua tăng cao cũng là yếu tố thúc đẩy các hộ gia đình thay đổi làm việc

buôn bán.

Các yếu tố trong nội lực gia đình cũng là yếu tố thôi thúc các thành

viên thay đổi việc làm để có thể có cuộc sống tốt hơn.

Chính vì thế quá trình giải quyết việc làm cho người dân khi thu hồi đất

nông nghiệp phải là quá trình tạo lập môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế xã

hội cần thiết, xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại

nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa và

179

dịch vụ nhằm bảo đảm thu nhập hợp pháp, ổn định cuộc sống lâu dài cho

nông dân sau khi thu hồi đất.

2. Khuyến nghị

Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân cũng như xu hướng phát

triển của việc chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm tại địa bàn xã nghiên

cứu thì tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau:

* Đối với nhà nước và chính quyền địa phương

Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách ưu tiên phát triển nguồn nhân

lực ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp, nhất là trong điều kiện ở từng địa

phương thu hồi đất nông nghiệp trên diện tích rộng lớn, nhiều hộ mất 100%

diện tích, thời gian thu hồi nhiều giai đoạn gây ra tính chất bấp bênh, mất việc

làm đột ngột. Do đó cần có chính sách đào tạo, dạy nghề song song với quá

trình thu hồi đất chứ không chờ thu hồi đất xong mới dạy nghề, đào tạo nghề.

Chính quyền địa phương cần tích cực sát sao nắm chắc nhu cầu việc

làm của người dân và khả năng lao động của từng nhóm lao động để từ đó xây

dựng kế hoạch, chủ động đề xuất giải pháp phù hợp với địa phương lên các cơ

quan ban ngành quản lý cấp trên, nâng cao tính phản biện chính sách.

Đồng thời cần phải có các chính sách phát triển kinh tế xã hội để giải

quyết việc làm phù hợp với từng khu vực, địa phương nhất định, có tính khả

thi xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với đặc trưng của từng vùng.

* Đối với bản thân người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp:

Thứ nhất người lao động cần phải luôn ý thức được tình hình hiện tại

của thị trường lao động để năng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng

được nhu cầu của công việc và yêu cầu của đơn vị tuyển dụng.

Thứ hai, cần có thái độ tích cực, tìm tòi học hỏi kiến thức và tay nghề

để tạo cơ hội cho chính bản thân có được công việc tốt, phù hợp.

*Giải pháp về kinh tế:

Phát triển kinh tế là một giải pháp mang tính chiến lược và quan trọng

180

nhất trong sự phát triển của một đất nước cũng như một khu vực nhất định.

Phát triển kinh tế nhằm phát triển và mở rộng nghành nghề, phân công lại lao

động để từ đó đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm trên

toàn địa bàn tỉnh nói chung và tại địa bàn nghiên cứu nói riêng.Do vậy để phát

triển tốt thì cần có những giải pháp sau:

Thứ nhất, các tỉnh/Thành phố, huyện cần có những chính sách khuyến

khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các khu công nghiệp luôn đổi mới

thiết bị công nghệ cũng như chuyển giao công nghệ nâng cao chất lượng sản

phẩm hàng hóa tăng sức cạnh tranh trên thị trường, các chính sách ưu đãi các cá

nhân và các doanh nghiệp sử dụng lao động trên địa bàn. Tạo điều kiện cho

người lao động mở mang nhiều ngành nghề phát huy thế mạnh của địa phương.

Cần tăng cường phát huy và mở rộng các ngành nghề truyền thống của

địa phương

Tận dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như các ưu thế

của thiên nhiên vào phát triển sản xuất như diện tích mặt nước ao, hồ,sông,

suối vào nuôi trồng thủy sản,trồng các loại cây hoa màu cũng như các cây

công nghiệp ngắn ngày có năng suất cao.

Tạo cơ hội, điều kiện cho người dân tự tạo việc làm, góp phần giải

quyết việc làm cho bản thân, gia đình và lực lượng lao động ở địa phương.

* Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực

Các cơ quan quản lý và các trung tâm dạy nghề cần nghiên cứu công

tác đào tạo nghề gắn sát với thực tế của từng địa phương và nhất thiết phải đa

dạng hóa hình thức dạy nghề, cách tổ chức dạy nghề và đa dạng hóa loại hình

việc làm, nghề nghiệp cho phù hợp với từng đối tượng đào tạo.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa trong việc đào tạo nghề, cần tập trung

mở các trường đào tạo nghề trọng điểm các trường đại học cao đẳng trung

cấp. Cần xây dựng một đội ngũ nhân lực chất lượng phù hợp với yêu cầu thị

trường. Trang bị cho người lao động những kiến thức cần thiết cho người lao

181

động có trình độ tay nghề đáp ứng yêu cầu của công việc và thị trường.

DANH MỤC BÀI BÁO CÁO, CÔNG TRÌNH

Đ CÔNG Ố CÓ LI N QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Phạm Thị Kim Xuyến (2017), Các yếu tố nhân khẩu xã hội tác động

đến chuyển đổi cơ cấu lao động, việc làm của nông dân khu vực thu

hồi đất nông nghiệp", Tạp chí Lao động và Công đoàn (615), tr.42- 43,

2. Phạm Thị Kim Xuyến (2016), “Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở

khu vực thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Lao động và Công đoàn

(610), tr.42- 43,

3. Phạm Thị Kim Xuyến (2015), “Quán triệt quan điểm của Karl Mark và

Friedrich Engels về chính sách đối với lao động”, Tạp chí Nghiên cứu

182

Khoa học Công đoàn (2), tr.27- 29.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Thuận An (2012), Nghiên cứu tổng quan các chính sách, quy

định pháp lý về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước ta từ khi

có Luật đất đai 2003 đến nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Phạm Bình An (2013),“Một số kinh nghiệm của Singapore trong việc quản

lý thị trường bất động sản”, Nội san Kinh tế (12), tr. 31 – 33.

3. Đặng Nguyên Anh (2016), “Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới

kinh tế, xã hội của đất nước”, Tạp chí Xã hội học (2), tr.40-43.

4. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt

Hồng, Lưu Đức Khải, (2006), Các yếu tố tác động đến quá trình

chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Viện Nghiên cứu

Quản lý Kinh tế Trung ương, Hà Nội.

5. UNDP, “Bảo trợ Xã hội”(2008),Báo cáo Phát triển Việt Nam, tr.31.

6. Nguyễn Đức Biền (2011),“Thực trạng, những vướng mắc trong quá trình

Nhà nước thu hồi đất để giao, cho thuê và tự thỏa thuận để có đất thực

hiện dự án”, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học của việc sửa đổi Luật

Đất đai năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12-15.

7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị

trường lao động ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội( 2001), Thuật ngữ lao động –

thương binh và xã hội, Tập 1, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội

9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007), Báo cáo về tình hình thu

hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2008), Báo cáo về thực trạng

183

thu hồi đất nông nghiệp.

11. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý

và pháp luật đất đai.

12. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Báo cáo về tình hình sử dụng đất

nông nghiệp xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và đời

sống của người dân có đất bị thu hồi.

13. Đặng Dũng Chí ( 2011), “Nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các

hộ nông dân bị thu hồi ở đồng bằng Sông Hồng, NXB Lao động, Hà Nội

14. Chu Văn Cấp (2010) “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác động của

chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH,

HĐH”,NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

15. Tống Văn Chung (2005) “Vận dụng lý thuyết di dộng xã hội vào nghiên

cứu chuyển cư”, Tạp chí Xã hội học (1), tr. 89.

16. Hoàng Văn Chức (2004), Di dân tự do đến Hà Nội, thực trạng và giải

pháp quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (JPGE) - Tổng cục Thống kê (2010), “Giới

và tiền chuyển về của lao động di cư”, NXB Trí thức, Hà Nội.

18. Nguyễn Sinh Cúc (2008),“Phát triển khu công nghiệp vùng Đồng bằng

sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng

sản (14), tr. 90.

19. Đặng Ngọc Dinh (2009) “Tác động của CNH – HĐH tới cộng đồng dân

sự nông thôn và chính sách sử dụng đất”, Kỷ yếu Hội thảo Hậu Giải

phóng mặt bằng, Bộ Tài Nguyên- Môi trường, Hà Nội, tr. 23 – 27.

20. Lê Quốc Doanh (2005), Đánh giá thực trạng của quá trình chuyển đổi cơ

cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở nước ta giai đoạn hiện 1996-

2002, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

21. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (2010), Xã hội học, NXB Đại học Quốc

184

gia, Hà Nội.

22. Ngô Văn Dụ, Trần Xuân Giá (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn

kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề

nghiệp cho thanh niên, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.

24. Nguyễn Hữu Dũng (2006), Nghiên cứu thực trạng thu nhập, đời sống và

việc làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công

nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu

cộng đồng và lợi ích quốc gia. NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Lân Dũng (2009), “Bất cập trong sử dụng đất nông nghiệp”, Tạp

chí Kiến trúc Việt Nam (5), tr.42 -45.

26. Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử Xã hội học, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Đại (2012), Đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng đồng

bằng Sông Hồng trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa, Luận

án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

28. Đại học Kinh tế Quốc dân (2005),Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu

hồi đất trong quá trình CNH, HĐH và ĐTH, Công trình khoa học cấp

Nhà nước KX.01 – 2005.

29. Đại học Kinh tế quốc dân, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển (2002),

Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, thực

trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đại học KTQD và Đại học quốc gia Mokpo Hà Quốc (2012), Chính sách xã

hội đối với di dân nông thôn thành thị, NXB Đại học KTQD, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội.

185

32. Nguyễn Văn Định (2013), Di cư và toàn cầu hóa; NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

33. Frank Ellis (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát

triển, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

34. G.Endruweit và G. Trommsdorff (2001), Từ điển Xã hội học, NXB Thế

giới, Hà Nội.

35. Lê Đăng Giang (1996), “Vấn đề di chuyển lao động từ nông thôn thông

qua phát triển các cụm công nghiệp làng nghề: nghiên cứu trường hợp

các cụm công nghiệp làng nghề ở Bắc Ninh và Hà Tây”, Kỷ yếu Hội

thảo Việt Nam học Quốc tế lần thứ 3, NXB Nông nghiệp, Hà Nội,

tr.23- 27.

36. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

37. Lưu Song Hà (Chủ biên) (2009), Điều tra điểm tâmlý nông dân bị thu hồi

đất làm khu công nghiệp, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

38. Tấn Hà –Phương Nam (2006), “Những chuyện lạ đền bù, giải tỏa”, Báo

Pháp luật Việt Nam (67).

39. Lê Thị Hạnh (2009), Nghiên cứu ảnh hưởng của di dân lao động nữ xã

Yên Phương – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc đến nông hộ, NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

40. Harry T.Oshima (1989), Tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á gió mùa,

Viện Châu Á – Thái Bình Dương, NXB Thế Giới, Hà Nội.

41. Hee Nam Jung (2010), “ Mối liên hệ tam giác trong hệ thống đất đa iở

Hàn Quốc: Quy hoạch phát triển và đền bù sử dụng đất”, Kỷ yếu Hội

thảo Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế nhằm xây dựng hệ thống quản lý đất

đai hiện đại tạiViệt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, NXB Chính

186

trị Quốc Gia, HàNội, tr.34- 37.

42. Hermann Korte (1996), Nhập môn lịch sử xã hội học, Viện Xã hội học,

NXB Tri thức, Hà Nội.

43. Tô Duy Hợp, Lê Thị Thúy Ngà (2015), “Biến đổi xã hội: từ xã hội học đại

cương đến xã hội học chuyên biệt”. Kỷ yếu hội thảo Biến đổi xã hội

Việt Nam dưới cách tiếp cận xã hội học, Viện Xã hội học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.27- 33.

44. Hội đồng Dân tộc (2013), “Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề

cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm 2010 đến 2013”.

Đề tài Khoa học cấp Nhà nước.

45. Nguyễn Quốc Hùng (2006), Đổi mới chính sách về chuyển đổi mục đích

sử dụng đất đai trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội.

46. Lê Ngọc Hùng (2008), Xã hội học kinh tế, NXB Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

47. Nguyễn Đình Hương (1999), Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân

không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long-Thực trạng

và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Phạm Thị Hương (2013), Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất vùng Đồng

Bằng Sông Hồng trong quá trình CNH- HDH nông nghiệp, nông thôn,

Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

49. Nguyễn Hữu Huỳnh(1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện Nghiên

cứu và phổ biến tri thức Bách Khoa. NXB Bách Khoa

50. KimJaejeong(2011), “Đất đai và quản lý đất đai ở Hàn Quốc”, Kỷ

yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc, Bộ Tài nguyên

và Môi trường, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội, tr. 34- 39.

187

51. K.Marx và Engels (1993), Toàn tập, tập 23, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Lê Doãn Khải (2001), Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, Luận

án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53. Trần Thị Lan (2013), Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông

dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội,

Luận án Tiến sĩ kinh tế. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

54. Đặng Đức Long (2009),“Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà

nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất”, Tạp

chí Tài nguyên và Môi trường (5), tr. 57 - 60.

55. Bộ Luật Lao động 2012,

http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanba

n?class_id=1&mode=detail&document_id=163542

56. Trịnh Duy Luân (2008), “ Thế nào là Biến đổi Xã hội”, Kỷ yếu Hội thảo

Nông nghiệp -Nông dân - Nông thôn, Trung tâm Phát triển Nông thôn

miền Trung, tr.50- 55.

57. John Maynard Keynes (1994), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và

tiền tệ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

58. Phạm Lê Mai (2009), Tạo việc làm cho lao động thuộc diện bị thu hồi đất

nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở quận Cầu Giấy. UBND quận

Cầu Giấy, Hà Nội.

59. MartinRavallion, Dominique vande Walle (2008), Đất đai trong thời kỳ

chuyển đổi- Cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam, NXB Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

60. Phan Minh(2010), "Một số giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn

hiện nay", Tạp chí Quản lý nông nghiệp ( 3), tr .110 – 115.

61. Nguyễn Chí Mỳ, Hoàng Xuân Nghĩa (Đồng chủ biên) (2009), Hậu giải

phóng mặt bằng ở Hà Nội- Vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị Quốc

188

gia, Hà Nội.

62. Nguyễn Thị Nga (2014), Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất- Thực trạng và hướng hoàn thiện, Đề tài khoa

học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.

63. Phạm Thị Nga (2014) “Quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại

trung tâm dạy nghề huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”, Luận án Tiến

sĩ Quản lý Giáo dục, Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

64. Ngân hàng Thế giới (2008), Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2008, Tăng

cường Nông nghiệp cho Phát triển,tr. 1 – 5..

65. Nguyễn Xuân Nguyên (1995), “Ảnh hưởng của công nghiệp tới phát triển

nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu

kinh tế (1), tr.45.

66. Phan Trọng Ngọ (1997), Xã hội học đại cương, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

67. Trần Thị Minh Ngọc (Chủ biên) (2010), Việc làm của nông dân trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng

đến năm 2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

68. Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2009 về đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia.

69. Nguyễn Thế Nhã (1998), “Thực trạng sản xuất và đời sống của hộ nông

dân không đất và thiếu đất ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí

Nghiên cứu Kinh tế (4), tr.55- 59.

70. Nguyễn Văn Nhường (2011), “Chính sách An sinh xã hội đối với người

nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp -

Nghiên cứu tại Ninh Bình”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

71. OSEC (2010), Báo cáo tư vấn, phản biện dự thảo Chiến lược Phát triển

Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020, Liên hiệp các Hội Khoa học,

189

Kỹ thuật Việt Nam, VUSTA, Hà Nội.

72. ParkHyunYoung (2011), “Mô hình phát triển đất đai của Hàn Quốc”, Kỷ

yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc, Bộ Tài

nguyên và Môi trường, NXB Chính trị Quốc gia, HàNội.

73. Lê Du Phong (2009), Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn,

nông dân của Hungari trong quá trình chuyển đổi kinh tế và vận

dụng cho Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

74. Anh Phương (2008),“Một số kiến nghị về công tác thu hồi đất, giải tỏa,

giải phóng mặt bằng đạt hiệu quả”, Tạp chí Cộng Sản (22), tr 42-44 .

75. Chu Tiến Quang (2001), Việc làm ở nông thôn – thực trạng và giải

pháp, NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

76. Vũ Hào Quang, Trương Ngọc Thắng, Vũ Thùy Dương (2013), Biến đổi

xã hội nông thôn trong quá trình dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng

đất và đô thị hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

77. Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững nông

thôn vùng đồng bằng Bắc bộ trong quá trình xây dựng, phát triển

các khu công nghiệp,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

78. Nguyễn Đình Quế (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong

những năm đầu thế kỉ XXI, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

79. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu

xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

80. Quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ( 2008), Đề án

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.

81. Quyết định số 971/QĐ-TTg sửa đổi của phó Thủ tướng Chính phủ bổ

sung Quyết định 1956/QĐ-TTg (2009), Đề án Đào tạo nghề cho lao

động nông thôn đến năm 2020.

82. R. Barker, C.P. Timmer, V.B.J. Tolentino ( 2000), Ảnh hưởng của chính

190

sách nông nghiệp: Kinh nghiệm các nước Châu Á và Đông Âu-

những gợi ý đối với Việt Nam, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

83. Trương Thị Minh Sâm (2006), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

vùng nông nghiệp ngoại thành Tp. Hồ Chí Minh, NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

84. Soo Chol (2011),“Quá trình đổi mới chính sách đất đai của Hàn Quốc”,

Kỷ yếu Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai Hàn Quốc. NXB

Chính trị Quốc Gia, HàNội, tr. 23- 28.

85. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn,

nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

86. Đặng Kim Sơn (2010), “Một số vấn đề về nông thôn Việt Nam trong điều

kiện mới”, Báo cáo khoa học đề tài đề cập Nhà nước, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

87. Đặng Kim Sơn (2009), “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn - Kinh

nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc”, Hội thảo Lý luận lần

thứ tư giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung

Quốc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. Lê Quốc Sử (2001), Sự chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh

tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH – HĐH từ thế kỉ XX đến thế

kỉ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, NXB Thống kê. Hà Nội.

89. Phùng Sướng (2007), “Đường hiện đại phố nhà quê”,

http://www.tienphong.vn, cập nhật tháng 05 năm 2017.

90. Phạm Đức Thành (1998), Giáo trình kinh tế lao động, NXB Giáo dục, Hà Nội.

91. Vũ Phạm Quyết Thắng (1996),“Những giải pháp tích cực nhằm đẩy mạnh

nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông

191

Hồng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế(4), tr 44 - 49.

92. Lê Đình Thắng (1998), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn – những

vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

93. Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế Trường (2009), Tác động của đô thị

hóa – công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và những biến dổi văn

hóa – xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

94. Lê Ngọc Thạnh (2009),“Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ”, Tạp chí Tài nguyên và

Môi trường (1), tr. 43 - 45.

95. Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng - đồng chủ biên (2009), Giải quyết việc

làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Văn Thu (2006), “Biến đổi xă hội ở nông thôn Việt Nam dưới tác

động của dô thị hóa, tích tụ ruộng đất và chính sách dồn điền đổi

thửa”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.

97. Trần Thị Thu ( 2003),Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. NXB Lao động Xã hội.

98. PhạmThị Chung Thủy (2011), “ Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế

định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

của Luật Đất đai 2003”, Kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học của việc

sửa đổi Luật Đất đai năm 2003, Đại học Luật, Hà Nội, tr. 28- 34.

99. Phạm Thu Thủy (2012),“Áp dụng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp

và một số giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường

(10), tr.43 - 47.

100. Phạm Thu Thủy (2013),“Trao đổi về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và

192

tái định cư”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường(13), tr.45 - 49.

101. Phạm Thu Thủy (2014),“Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp

luật về thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

(264), tr. 42 - 49.

102. Nguyễn Viết Thông (2009), Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn -

Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

103. Đào Công Tiến (1996), “Những biện pháp kinh tế, tổ chức và quản lý để

phát triển nông nghiệp hàng hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

thôn Nam Bộ”, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số KX 03.21.

104. Nguyễn Tiệp (2005), Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá

trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, NXB Lao động Xã

hội, Hà Nội.

105. Nguyễn Tiệp (2007), Giáo trình thị trường lao động, NXB Lao động Xã

hội, Hà Nội.

106. Tổng cục Dạy nghề (2007), Thị trường lao động việc làm của lao động

qua đào tạo nghề, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

107. Tổng cục thống kê(2004), Một số thuật ngữ thống kê thông dụng, NXB

Thống kêm Hà Nội.

108. Trần Bình Trọng (2002),Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

109. Tổ chức Lương thực-Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), 1991.

110. Đào Thế Tuấn (2006), “Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước

ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản (10), tr.10 – 17.

111. Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh (2010), “Pháp luật về bồi

thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và

193

Trung Quốc- Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp

luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí

Luật học (10), tr. 87- 92.

112. Nguyễn Quang Tuyến (2012), “Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền

lợi của người bị thu hồi đất”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (2), tr.

40- 44.

113. Trần Quang Tuyến, (2014), “Đất đai,việc làm phi nông nghiệp và mức

sống hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô”

Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (4), tr 36-43.

114. Trung tâm Luật so sánh (2008), “Đời sống KT – XH của các hộ gia đình

sau tái định cư trên địa bàn Thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải

pháp”, Báo tổng hợp đề tài cấp Thành phố, Hà Nội.

115. Ủy ban định giá Hàn Quốc (2011), “ Hệ thống định giá và hệ thống bồi

thường Hàn Quốc”, K ỷ yế u Hội thảo Kinh nghiệm quản lý đất đai

Hàn Quốc, Bộ Tài nguyên và Môi trường, HàNội, tr. 13- 17.

116. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,

việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

117. Nguyễn Thị Hải Vân (2012), Tác động của đô thị hóa đối với lao động,

việc làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội. Luận án Tiến sĩ Kinh tế

học, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

118. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế

hộ ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng hiện nay (Nghiên cứu trường

hợp Nam Định và Ninh Bình, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Đại học

Khoa học Xã hội & Nhân văn, Hà Nội.

119. Trần Thị Tường Vân (2008), Kinh tế - Xã hội vùng nông thôn huyện Gia

194

Lâm - Hà Nội trên tiến trình đổi mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

120. Tử Vĩ (2007), “Chuyển dịch sức lao động dư thừa ở nông thôn và vấn đề

việc làm của nông dân Trung Quốc”, Vấn đề nông nghiệp, nông

thôn và nông dân- Kinh nghiệm của Trung Quốc và Việt Nam, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr396- 405.

121. UNDP (2010), Lao động và tiếp cận việc làm.Thị trường Lao động, việc

làm và Đô thị hóa ở Việt Nam đến 2020- Học hỏi từ kinh nghiệm

Quốc tế, Báo cáo của UNDP Việt Nam.

122. Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội (2005), Di dân tới đô thị ở

Trung Quốc, NXB Tư pháp, Hà Nội.

123. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học - công nghệ (1997),

Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

124. Viện Kinh tế học (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới (2009), Tác động xã hội vùng của các

KCN ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

126. Bạch Hồng Việt (1996), “Mấy vấn đề về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí

Nghiên cứu Kinh tế (4), tr.36 -39.

127. Đặng Hùng Võ (2009), Báo cáo đề xuất về hoàn thiện chính sách Nhà

nước thu hồi đất và cơ chế chuyển đổi đất đai tự nguyện ở Việt

Nam, tài liệu công bố của WB, Hà Nội.

128. WB, Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển (2011), Nhận diện

và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai

195

ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

129. Nguyễn Thị Hồng Xoan (2012), Giới và di dân- Tầm nhìn châu Á, NXB

Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

130. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2001), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

Tài liệu tiếng nƣớc ngoài

131. Appelbaum, Richard P. and William J. Chambliss, (1997), Sociology: A

Brief Introduction, New York: Longman, pp.34- 39.

132. Davi Jary and Julia Jary, Happer Collins(1991), Dictionary of Sociology.

New York, p.98.

133. Clark c., (1940), The conditions of economic progress, London,

Macmillan.

134. C.P. Timmer. – Ithaca (1991), Agriculture and the state: Growth,

employment, and poverty in developing countries New York, Cornell

Univ press.

135. Chris Tilly (2004), “Labor Markets. Essay for Poverty and Social Welfare

in the United States,. New York, An Encyclopedia, pp 46-51.

136. Fisher A.G.B,(1935), The clash of progress and security, London,

Macmillan.

137. George Ritzer (2007), Modern sociogical Theory, SAGE publication,

United Kingdom.

138. Kuznets S., (1971), Economic growth of Nations: Total Output and

Production Structure, Havard University Press, Cambridge.

139. K.W.H. van Beek (1993), Labor markets theory, Amsterdam School of

Economics Research Institute (ASE-RI).

140. Mellor J.W., (1995), Agriculture on the Road to Industrialization,

196

JohnHopkins University Press, Baltimore.W.

141. Michael Reich, David M. Gordon, and Richard C. Edwards (1973), Dual

Labor Markets: A Theory of labor market segmentation, Papers and

Proceedings of the Eighty-fifth Annual Meeting of the American

Economic Association (63), pp 359-365.

142. Nick Moore(1980), Manpower planning in libraries. – London:

Library Association.

143. Leslie A. White, (1949), The Science of Culture: A Study of Man and

Civilization, Fercheron Press, Canada.

144. Moore, Wilbert E. (1964) Social Change, Prentice Hall, New Jersey.

145. Oxford, (2012),Oxford dictionary of sociology, Oxford University Press.

146. Bruce.J.Conhen and Terri.L.Orbuch (1994), Introduction to Sociology

McGraw- Hill’ College. Review.

147. Pitirim Sorokin (1928), Social Mobility, American Journal of Sociology

(34), pp 219-225.

148. Rafael Lopes de Melo (2008), Sorting in the labor market: Theory and

Measurement, Job Market Paper.

149. Todaro M.P.,(1982),Economic development in the third world, Longman,

Newyork- London.

150. W. Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D. Irwin(1955), The Theory

of Economic Growth, p.453.

151. William Fielding Ogburn (1947), How Technology Changes Society. The

ANNALS of the AmericanAcademy of Political and Social Science,

pp. 81-88.

152. WB(2000), World Development Indicators. - London: Oxford.

153. Yoshihisa Kashima, Paul Bain, Nick Haslam, Kim Peters, Simon Laham,

197

Jennifer Whelan, Brock Bastian, Stephen Loughnan, Leah Kaufmann,

Julian Fernando1 (2009), Folk theory of social change, Asian Journal

of Social Psychology (12), pp.227- 246.

Tài liệu mạng Tiếng Việt

154. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Trung ương. Tổng điều tra

Dân số và nhà ở Việt Nam (2009) “Di cư và đô thị hóa ở Việt nam:

Thực trạng, xu hướng và những khác biệt”,

http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=1

1120, truycập tháng 11 năm 2015.

155. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (2008), "Tính giá bồi thường theo

thời điểm trả tiền?", Vietbao.vn, truy cập tháng 7 năm 2008.

156. Nguyễn Sinh Cúc(2008), “Phát triển khu công nghiệp vùng Đồng

bằng sông Hồng và vấn đề nông dân mất đất nông nghiệp”, Tạp

chí Cộng Sản.

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-

Traodoi/2008/1519/Phat-trien-khu-cong-nghiep-vung-dong-

bang-song-Hong-va-van.aspx, truy cập tháng 7 năm 2008.

157. Nguyễn Sinh Cúc (2009), “Ổn định đất nông nghiệp để đảm bảo an ninh

lương thực quốc gia”, Báo Tài nguyên và môi trường I (7/57),

tr.14.http://www.vusta.vn/Temps/Home/template2/default.asp?nid=

8700, truy cập tháng 7 năm 2010.

158. Thế Dũng (2011), “Sử dụng tài nguyên đất nông nghiệp Phải tiết kiệm cho

con cháu và bản thân chúng ta”, Báo Hà Nội Mớí

http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/Kinh-te/528642/yeu-to-song-con-

bao-dam-an-ninh-luong-thuc, truy cập tháng 10 năm 2011.

159. Nguyên Đào (2017),“Những kẽ hở trong chính sách pháp luật về thu hồi,

198

bồi thường đất”, Báo Pháp lý, http://phaply.net.vn/dien-dan-luat-

gia/nhung-ke-ho-trong-chinh-sach-phap-luat-ve-thu-boi-boi-thuong-

dat.html, truy cập tháng 4 năm 2017.

160. Lại Ngọc Hải (2006), “Về giải quyết việc làm cho nông dân ở những nơi

thu hồi đất”, Báo Nhân dân,

http://nhandan.com.vn/chinhtri/item/6746902-.html, truy cập tháng

3 năm 2006.

161. Minh Huệ (2008),“Nông dân trước thềm công nghiệp hóa: Những tiếng

thở dài…”, Tạp chí Kinh tế nông thôn,

http://www.kinhtenongthon.com.vn, truy cập tháng 5 năm 2008.

162. Nguyễn Thành Lợi (2008), “Kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt

động thu hồi đất nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản điện tử,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-nghiep-nong-

thon/2008/3455/Kinh-nghiem-cua-Trung-Quoc-trong-hoat-dong-

thu-hoi-dat-nong.aspx, truy cập tháng 11 năm 2008.

163. Lê Phúc (2009), "Cẩn trọng khi thu hồi đất nông nghiệp”, Viện Chính

sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn,

http://agro.gov.vn/vn/tID13385_Can-trong-khi-thu-hoi-dat-nong-

nghiep.html, truy cập tháng 4 năm 2009.

164. Đăng Tuyên (2010), “Sử dụng đất nông nghiệp và vấn đề an ninh lương

thực”, http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-

KH-CN/Thu-hoi-dat-nong-nghiep-va-van-de-an-ninh-luong-thuc-

36680.html, truy cập tháng 12 nă m 20 10.

165. Hồ Khánh Thiện (2006), “Nông dân đối mặt với thất nghiệp”,

http://www.bannhanong.vietnetnam.net/home.php?cat_id=27&id=

2197&kh=, truy cập tháng 2 năm 2006.

166. Ngô Quang Trung (2017), “Tổ chức, quản lý cụm công nghiệp hoạt động

199

hiệu quả, góp phần thúc đẩy công nghiệp của địa phương phát

triển”, Cổng Thông tin điện tử Cục Công nghiệp Địa phương- Bộ

Công thương,

http://arid.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_i

d=233&news_id=3044, truy cập tháng 5 năm 2017.

Tài liệu mạng tiếng nƣớc ngoài

167. AFP,2012, “China to boost land payout law after unrest media”,

http://www.scmp.com/news/china/article/1094569/china-boost-

land-payout-law-after-unrest, access at web on 30 November 2012.

168. Quynh Anh, 2 0 1 2 ,“Equitable Treatment of all land users is crucial for

revised Land Law,

http://www.vn.undp.org/content/vietnam/en/home/presscenter/articles/

2012/11/08/equitable-treatment-of-all-land-users-is-crucial-for-

200

revised-land-law.html, access at web on 8 November 2012.

TRƢỜNG ĐẠI CÔNG ĐOÀN Khoa Xã hội học

CỘNG HÕA X HỘI CHỦ NGH A VIỆT NAM Độc lập - Tự do -Hạnh phúc

3

ẢNG HỎI

Chúng tôi đang thực hiện cuộc nghiên cứu về biến đổi cơ cấu lao động, việc làm ở các khu vực thu hồi đất nông nghiệp. Mong ông(bà) giúp đỡ chúng tôi trả lời những câu hỏi dưới đây. Những thông tin ông bà cung cấp chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học . Ông(bà) không phải ghi tên và địa chỉ vào phiếu này.

Xin chân thành cảm ơn ông(bà)!

Thời gian phỏng vấn Địa điểm phỏng vấn Tên người phỏng vấn Giám sát

Ngày tháng 12 năm 2015 Thôn I. THỰC TRẠNG ĐẤT THU HỒI

…………………………nhân khẩu

Câu 1 Số nhân khẩu trong gia đình ông bà

có đất nông nghiệp?

Câu 2 Tiện nghi sinh hoạt gia đình có

hiện có

1. Ô tô 2. Điều hoà nhiệt độ 3. Máy tính (để bàn, xách tay) 4. Điện thoại di động 5. Bình nóng lạnh 6. Tủ lạnh 7. Máy giặt 8. Tiện nghi khác: ………

0. Không

1. Có

Câu 3 Ông bà có biết Khoản 2 – Điều 74 – Luật đất đai quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất” hay không?

.........................................sào

Câu 4 Diện tích đất nông nghiệp trước khi

thu hồi

.........................................sào

Câu 5 Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi Câu 6 Hình thức đền bù mà ông (bà) được

nhận là như thế nào?

1. Nhận tiền đền bù 2. Nhận một mảnh đất khác

3. Khác:………………..

Câu 7 Mức hỗ trợ thu hồi đất nông nghiệp

Số tiền gia đình nhận đƣợc Triệu đồng

Qui định về mức giá Khôngbiết/ Mức giá không quan Triệu tâm (ghi 0) đồng

7.1

7.2

gia đình nhận được như thế nào? Ông bà biết về những qui định về mức giá đền bù nhƣ thế nào? Số tiền đền bù / 1 sào đất nông nghiệp Trong đó: 1. Đất nông nghiệp

/////////////

/////////

201

2. Hoa màu 3. Chuyển đổi nghề nghiệp 4. Hỗ trợ lương thực 5. Khác

............................lần

.....................................Triệu đồng/ sào

Câu 8 Tiền đền bù được trả thành mấy lần Câu 9 Thời điểm trả tiền sau bao nhiêu lâu? …………………………….tháng Câu 10 Theo ông bà giá thị trường (người dân bán đất nông nghiệp cho nhau) tại thời điểm thu hồi đất là bao nhiêu/sào?

Câu 11 Đánh giá về những nguồn thông tin

giúp ông bà biết về quá trình thu hồi đất nông nghiệp

1.Hoàn toàn không nhận đƣợc

2.Nhận đƣợc rất ít thông tin

4.Nhận đƣợc tƣơng đối nhiều thông tin

5.Về cơ bản là nhận đƣợc thông tin từ nguồn này

3.Nhận đƣợc khoảng 50% thông tin từ nguồn này

1. Chính quyền 2. Tivi 3. Loa truyền thanh 4. Hàng xóm 5. Mạng Internet 6. Người thân

Câu 12 Ông bà đánh giá nhƣ thế nào về

các thông tin sau

2.Rất mập mờ

4.Tƣơng đối rõ ràng

1.Hoàn toàn không rõ ràng

5.Rất rõ ràng minh bạch

3.Một số công khai, một số chưa được công khai

1. Thông báo chủ trương, kế hoạch thu hồi đất 2. Mục đích thu hồi đất 3. Tuyên truyền các hộ gia đình chấp hành chủ trương, kế hoạch 4. Thông báo phương án, mức đền bù

Câu 13 Các thông tin về dự án được gửi đến

ngươi dân như thế nào?

1. Qua đài truyền thanh của xã 2. Thông qua họp dân 3. Thông qua tở rơi 4. Pano áp phích 5. Qua chính quyền địa phương 6. Qua thông báo được dán công khai 7. Thông qua các cán bộ tuyên truyền 8. Thông qua người thân

202

....................tháng

Câu 14 Thời gian từ lúc ông bà nhận được thông báo đến lúc giải phóng mặt bằng khoảng bao nhiêu thời gian? Câu 15 Theo ông/bà, việc thu hồi đất nông nghiệp đã ảnh hưởng đến việc làm của gia đình như thế nào?

1. Hoàn toàn không ảnh hưởng 3.Ảnh hưởng ít 2.Bình thường 4.Ảnh hưởng tương đối nhiều 5. Ảnh hưởng rất nhiều

Câu 16 Ông bà đồng ý nhƣ thế nào với các

nhận định sau khi đƣợc biết chủ trƣơng thu hồi đất sắp diễn ra

Mức độ đồng ý 3.Đồng ý

4.Khá đồng ý

1.Hoàn toàn không

2.Ít đồng ý

5.Hoàn toàn đồng ý

16.1

16.2

16.3

16.4

16.5

16.6

16.7 16.8

16.9

Tôi thấy băn khoăn lo lắng về lương thực cho tương lai Tôi lo lắng cho cuộc sống của mình và gia đình Tôi lo lắng sẽ làm gì trong tương lai khi không còn đất nông nghiệp Tôi thấy băn khoăn về công việc của con cái trong tương lai Tôi băn khoăn tiền đền bù sẽ sử dụng như thế nào cho hiệu quả Tôi sợ rằng con cái sẽ không chụi khó làm ăn vì trông chờ vào tiền đền bù Tôi thấy vui khi có nhiều tiền đền bù Tôi rất phấn khởi sẽ làm được nhiều công việc từ tiền đền bù (xây nhà, chuyển đổi cuộc sống,...) Tôi thấy phấn khởi vì từ bây giờ gia đình tôi không còn phải làm nông nghiệp nữa

16.10 Tôi thấy vui khi có dự án về tôi/người

trong gia đình sẽ có công việc mới mà không phải làm nông nghiệp

16.11 Tôi thấy vui khi có dự án về xã sẽ có nhiều lợi ích chung cho cả cộng đồng

Số tiền

16.12 Tôi nghĩ rằng kinh tế địa phương sẽ phát triển hơn nhờ có dự án Câu 17 Ông bà sử dụng tiền thu hồi đất như

thế nào?

1. Đầu tư vào kinh doanh, buôn bán 2. Đầu tư vào chăn nuôi 3. Gửi ngân hàng lấy lãi 4. Cho vay 5. Chia cho các thành viên trong gia đình

.......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng .......................................triệu đồng

203

6. Mua sắm các tiện nghi trong gia

.......................................triệu đồng

đình

7. Dùng để đầu tư , làm ăn kiếm sống .......................................triệu đồng 8. Dùng tiền tự mình đi học nghề .......................................triệu đồng 9. Dùng tiền đầu tư cho con đi học .......................................triệu đồng

nghề

Câu 18 Ông bà hài lòng như thế nào về mức

đề bù đất nông nghiệp?

1. Hoàn toàng chưa phù hợp 2. Ít phù hợp 3. Tạm chấp nhận được 4. Khá phù hợp 5. Rất phù hợp

Câu 19 Ông ( bà) có biết mục đích của việc thu hồi đất nông nghiệp để làm gì ?

1. Xây dựng khu đô thị mới 2. Xây dựng khu công nghiệp 3. Làm sân gold 4. Xây dựng cơ sở hạ tầng ( điện, đường,

Câu 20 Hoạt động chủ đầu tư triển khai dự án

như thế nào?

trường, trạm) 5. Khác:………………….. 1. Triển khai ngay dự án 2. Một thời gian sau mới triển khai dự án 3. Sau một thời gian triển khai thì dừng

lại, cầm chừng

Câu 21 Sau khi thu hồi đất chính quyền/ chủ

đầu tư đã được hỗ trợ gì cho người dân?

Câu 22 Ông, bà đánh giá thế nào về sự hỗ trợ

trên

4. Bỏ hoang đất 5. Khác:………………… 1. Hỗ trợ đào tạo nghề 2. Tư vấn học nghề 3. XKLD 4. Tư vấn sử dụng tiền 5. Nhận vào làm việc 1. Rất không hài lòng 2. Ít hài lòng 3. Hài lòng 4. Tương đối hài lòng 5. Rất hài lòng

Câu 23 Nếu không thỏa mãn với sự hỗ trợ

………………………………………… …………………………………………

trên thì ông bà cho biết mong muốn của mình

'

204

Câu 24

STT

Tuổi

Giới tính

Học vấn

Tính đa nghề

Khu vực việc làm

Tính đa nghề

Thu nhập triệu đông

Thành phần kinh tế

Địa điểm (cách nhà KM)

Tính chất nghề nghiệp

Nghề nghiệp 2015 tạo ra nhiều tiền nhất

Thu nhập triệu đông

Nghề nghiệp 2010 tạo ra nhiều tiền nhất

Ngành kinh tế

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(11)

(12)

(13)

(14)

(15)

Địa điểm (cách nhà KM) (16)

(1) 1 1 1 1 1 1

*HƢỚNG DẪN PHỎNG VẤN VI N 1. Cột Số thứ tự. Hỏi từng thành viên hiện tại trong gia đình.Khoanh tròn vào số 1. 2. Tuổi: ghi số tuổi của từng thành viên: ví dụ 20 , 30, 40 3. Giới tính: 0= Nữ ; 1= Nam 4. Học vấn: Tổng số năm đi học. Có thể qui ước: Hết tiểu học = 5, THCS = 9, THPT=12, Trung cấp = 14, Cao đẳng=15, Đại học=16, Th.s = 18, Ts = 20 5. Mục: Nghề nghiệp tạo ra nhiều tiền nhất so với các nghề khác;Mục 7 Ngành kinh tế, được qui ước:

Mục 8. Thành phần kinh tế: Mã

Thành phần kinh tế

Giải thích

7 Ngành kinh tế (1) Nông nghiệp

1

Kinh tế Nhà nước

-Cơ quan chính quyền Nhà nước

-Cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước

5 Nghề nghiệp 1. Làm ruộng, làm vườn 2. Chăn nuôi 3. Xay xát thóc gạo, ngô.. 4. Các công việc có liên quan đến

Mục 6 Thu nhập Tổng số tiền bình quân từ các loại nghề nghiệp/ tháng Ghi : 0 Nếu không tạo ra thu nhập

nông nghiệp

(Nhà trường, bệnh viện, các tổ chức đoàn thể…)

Kinh tế tư bản nhà nước ( liên doanh)

Công ty cổ phần nhà nước

2

(2) Dịch vụ

Doanh nghiệp tư nhân/ các đơn vị nhà trường, tổ

Kinh tế tập thể ( doanh nghiệp tư nhân)

3

chức tư nhân (có con dấu pháp nhân)

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

4

5. Buôn bán, kinh doanh nhỏ 6. Bán hàng rong 7. Giúp việc 8. Lái xe 9. Sửa chữa vật dụng 10. Giáo viên 11. Bộ đội,Công an, cán bộ chính

Kinh tế tư nhân, tiểu chủ ( hộ gia đình)

( hộ gia đình)

5

quyền

12. Bác sỹ, y tá… 13. Xuất khẩu lao động 14. Hưu trí 15. Tự mở cty/Nhân viên trong doanh

nghiệp

Mục 9.Tính đa nghề : Tổng số lƣợng nghề phụ ngoài nghề chính, có thể 1 người làm 2,3,4 nghề phụ trong thời gian rảnh Mục 10. Địa điểm làm việc (cách nhà số KM). Ghi rõ số km từ nhà đến chỗ làm việc kể cả những ngƣời đi làm ăn xa

(3) Công nghiệp- xây dựng ( nhà máy, XN, Xƣởng…

16. Bốc vác 17. Thợ nói chung 18. Công nhân 19. Khác( ghi rõ):……….............. ..................................................

20. Thất nghiệp 21. HS, SV/người già/tàn tật

Tùy nghề nghiệp để ghi 1/2/3/4/5) (4) (5)

205

Câu 25

Ông/bà thấy sau khi thu hồi đất gia đình ông bà thay đổi việc làm nhƣ thế nào?

1. Vẫn làm công việc như trước trên diện tích cũ 2. Thay đổi cách thức sản xuất trên diện tích đất cũ 3. Làm thêm một công việc khác và vẫn làm công việc cũ 4. Làm thêm nhiều công việc khác và vẫn làm công việc cũ 5. Chuyển hẳn làm công việc khác

Câu 26 Mức độ quan trọng của các yếu tố sau Câu 27

trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp của gia đình ông/bà?

Mức độ 3. Quan trọng

2. Ít quan trọng

5. Rất quan trọng

1.Hoàn toàn không quan trọng

4. Tương đối quan trọng

1. Làm nông nghiệp không đủ ăn 2.Nhu cầu của người tiêu dùng địa phương tăng mạnh 3. Có thêm nhân khẩu 4.Nhu cầu tiêu dùng của người ở nơi khác tăng mạnh 5. Có thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ 6.Số người buôn mua hàng hóa tăng mạnh 7. Dễ bán sản phẩm 8. Không còn đất để canh tác 9. Kinh tế gia đình khó khăn 10. Ly do khác…………………………

Câu 28 Trong quá trình chuyển đổi nghề

nghiệp gia đình có thuận lợi nhƣ thế nào?

Mức độ 1.Thuậ n lợi

2.Ít thuận lợi

5. Rất thuận lợi

4.Tươn g đối thuận lợi

1. Vốn đầu tư

1.Hoàn toàn không thuận lợi

2. Thông tin thị trường 3. Nhân lực lao động 4. Sự thay đổi của thị trường tiêu thụ 5. Đào tạo nghề 6. Môi trường sản xuất 7. Sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ của chính quyền địa phương 8. Sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ của người dân địa phương 9. Địa bàn cách xa trung tâm

206

10. Thu hồi đất nông nghiệp 11. Có khu công nghiệp đóng ở địa phương 12. Chính sách, Quy định được thực hiện tại địa phương 13. Khó khăn khác……………………..

Câu 29 Gia đình ông bà thƣờng nhận đƣợc

sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức nào ở địa phƣơng trong quá trình chuyển đổi nghề nghiệp?

Câu 30 Những quan tâm và giúp đỡ đó là gì?

Câu 31 Hiệu quả của sự giúp đỡ hỗ trợ trên đối với gia đình ta như thế nào?

Câu 32 Các doanh nghiệp đóng tại địa bàn có ưu

tiên tuyển lao động địa phương không?

Câu 33 Họ ưu tiên cho thành phần lao động

nào?

Câu 34 Gia đình ông bà ai lao động xa nhà?

Câu 35 Nếu gia đình có người đi làm thuê ở ngoài địa phương ( ít về nhà) thì sự vắng mặt của người này ảnh hưởng đến mặt

1. UBND xã6. Hội Phụ nữ 2. Ban lãnh đạo thôn7. Hội Nông dân 3. Anh em, họ hàng8. Hội Cựu Chiến binh 4. Bạn bè9. Tổ chức phi chính phủ 5.Đoàn thanh niên10. Công ty đóng trên địa bàn xã 11. Cá nhân và tổ chức khác:…………… 1.Cho/ cho vay tiền 2.Sử dụng lao động của gia đình 3. Kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh mới 4. Mở rộng mối quan hệ trong SX, kinh doanh 5. Truyền thụ kiến thức chuyên môn 6. Giới thiệu việc làm 7. Đào tạo nghềmới 8.Khác:…………………………………… 1. Rất không hiệu quả 2. Ít hiệu quả 3. Hiệu quả 4. Tương đốihiệu quả 5. Rất hiệu quả 1. Có 2. Không 3. Tùy doanh nghiệp 4. Không rõ 1. Lao động nam 2. Lao động nữ 3. Lao động có trình độ, tay nghề 4. Không ưu tiên bên nào hơn 5. Không rõ 6. Khác:..... 1. Chồng 2. Vợ 3. Ông, bà 4. Con cái 5. Khác:..................... 6. Không có ai 1. Thiếu lao động gia đình 4. Quan hệ với họ hàng 2. Giáo dục con cái 5. Quan hệ trong gia

207

nào của đời sống của gia đình?

đình 3. Chăm sóc con cái 6. Thu nhập trong gia đình 7. Khác:……………….

Câu 36 Ông bà tự đánh giá về cuộc sống của gia

đình trước khi thu hồi đất nông nghiệp?

Câu 37 Ông (bà) tự đánh giá mức sống của gia đình so với mặt bằng chung của xã hội/ khu vực

Câu 38 So với thời điểm trước khi thu hồi đất nông nghiệp ông ( bà ) thấy cuộc sống của gia đình hiện nay?

1. Nghèo 2. Cận nghèo 3. Trung bình, đủ sống 4. Khá giả 5. Giàu có 1. Nghèo 2. Cận nghèo 3. Trung bình, đủ sống 4. Khá giả 5. Giàu có 1. Khấm khá lên 2. Vẫn như trước 3. Nghèo đi/ sa sút

208