
Biến thể ngôn ngữ xã hội trong thái độ đánh giá việc dùng đại từ nhân xưng giữa các cặp vợ chồng Việt Nam
lượt xem 1
download

Bài viết này trình bày một khảo sát các cặp vợ chồng người Bắc sống ở Hà Nội và so sánh với kết quả khảo sát các cặp vợ chồng người Nam. Kết quả cho thấy: a) người Nam và Bắc, cả nam và nữ, đều dễ chấp nhận cho người chồng dùng các đại từ này đề nói với vợ hoặc nói về vợ, hơn là người vợ dùng để nói với chóng hoặc nói về chống; b) với người Nam và Bắc, các đại từ này dễ được chấp nhận khi đang cãi vã hơn là khi không có mâu thuẫn gì; c) khác với người Nam, việc dùng các đại từ này dễ được người Bắc chấp nhận ở những người trẻ hơn là ở người lớn tuổi; và d) khác với người Nam, đối với người Bắc, nghề nghiệp cũng như học vẫn không phải là tác nhân quan trọng trong thái độ đánh giá này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Biến thể ngôn ngữ xã hội trong thái độ đánh giá việc dùng đại từ nhân xưng giữa các cặp vợ chồng Việt Nam
- P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 https://jst-haui.vn LANGUAGE - CULTURE BIẾN THỂ NGÔN NGỮ XÃ HỘI TRONG THÁI ĐỘ ĐÁNH GIÁ VIỆC DÙNG ĐẠI TỪ NHÂN XƯNG GIỮA CÁC CẶP VỢ CHỒNG VIỆT NAM SOCIOLINGUISTIC VARIATIONS IN ATTITUDES TOWARD THE USE OF PERSONAL PRONOUNS WHEN TALKING TO/ABOUT THE SPOUSE AMONG VIETNAMESE COUPLES Andrea Hoa Pham1,*, Andrew T Pham2 DOI: http://doi.org/10.57001/huih5804.2024.410 TÓM TẮT Các nghiên cứu Ngôn ngữ và Giới tính cho thấy, nhìn chung nữ giới nói năng lễ độ hơn nam giới. Trong số ít ỏi đại từ nhân xưng thật sự của tiếng Việt, các đại từ “tao - mày” và “nó” tuy không biểu thị giới tính nhưng phân chia tôn ti và thái độ của người nói. Vì xã hội truyền thống Việt Nam theo chế độ phụ hệ, người ta dễ chấp nhận người chồng dùng những đại từ này khi nói với vợ hay nói về vợ hơn là người vợ dùng những đại từ này khi nói với chồng hay về chồng. Thái độ đánh giá khác nhau này tuy dễ dàng tìm thấy trong các sách báo Việt Nam xuất bản vào những thập niên đầu thế kỷ XX, nhưng chưa bao giờ được kiểm chứng trong thực tế, nhất là dùng phương pháp thống kê. Khảo sát của Pham and Pham [22] về thái độ đối với việc dùng các đại từ này ở các cặp vợ chồng ở miền Nam cho thấy, ở cả hai phái nam và nữ, người ta dễ chấp nhận cho người chồng dùng các đại từ này với vợ hơn là người vợ dùng với chồng. Tình huống, học vấn, và cộng đồng là những yếu tố quan trọng quyết định mức độ chấp nhận này. Bài báo này trình bày một khảo sát các cặp vợ chồng người Bắc sống ở Hà Nội và so sánh với kết quả khảo sát các cặp vợ chồng người Nam. Kết quả cho thấy: a) người Nam và Bắc, cả nam và nữ, đều dễ chấp nhận cho người chồng dùng các đại từ này để nói với vợ hoặc nói về vợ, hơn là người vợ dùng để nói với chồng hoặc nói về chồng; b) với người Nam và Bắc, các đại từ này dễ được chấp nhận khi đang cãi vã hơn là khi không có mâu thuẫn gì; c) khác với người Nam, việc dùng các đại từ này dễ được người Bắc chấp nhận ở những người trẻ hơn là ở người lớn tuổi; và d) khác với người Nam, đối với người Bắc, nghề nghiệp cũng như học vấn không phải là tác nhân quan trọng trong thái độ đánh giá này. Từ khoá: Giới tính và lễ phép, đại từ nhân xưng tiếng Việt, ngôn ngữ và giới tính. ABSTRACT A common assumption in past studies in Language and Gender is that women tend to be more polite than men. Three actual personal pronouns in Vietnamese are the pair tao - mày (I - you) and nó (he/she). These pronouns are genderless and hierachical. They mark either solidarity and intimacy or authority and inferiority. The assumption is assumed to be evident in a patrilineal Vietnamese society where females are supposed to use of polite language towards males more than males toward females. This attitude can be seen in the Vietnamese literature published in the early 1900s; however, the assumption has never been statistically tested. Pham and Pham [22] surveyed the usage of three personal pronouns, tao - mày ‘I - you’ and nó ‘he/she’, among couples in southern Vietnam. The findings show that participants consider personal pronouns significantly more acceptable when used by men talking about/to women than when used by women talking about/to men. Furthermore, the study shows that contexts, levels of education, and subcultures are important in acceptability of personal pronouns usage among couples. This paper presents results from the survey of personal pronouns among couples living in Hanoi, compared to Southern couples. The findings show that a) Northerners and Southerners, regardless of sex, consider it is more acceptable when the husband uses personal pronouns toward his wife than vice versa; b) the use of these pronouns is more acceptable during conflict situations than in con-conflict situations; c) unlike Southerners, Northerners consider personal pronouns are more acceptable when used by younger couples than older couples; and d) unlike Southerners, for Northerners, career and levels of education show no significance toward the use of personal pronouns. Keywords: Gender and politeness, Vietnamese personal pronouns, language and gender. 1 Đại học Florida, Hoa Kỳ 2 Đại học Mississippi for Women, Hoa Kỳ * Email: apham@ufl.edu Ngày nhận bài: 06/9/2024 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 22/12/2024 Ngày chấp nhận đăng: 26/12/2024 Vol. 60 - No. 12 (Dec 2024) HaUI Journal of Science and Technology 3
- NGÔN NGỮ VĂN HÓA https://jst-haui.vn P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ VÀ CÁC LÝ THUYẾT VỀ NGÔN Một cách tiếp cận khác về những vấn đề Ngôn ngữ và NGỮ VÀ GIỚI TÍNH Giới tính và được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận nhất, là cách tiếp cận “động” (dynamic), hay xem giới tính là Trong các nghiên cứu về Ngôn ngữ và Giới tính một “thực thể xã hội” được thiết lập nên. Cách tiếp cận (Language and Gender), một điều đã được chứng minh ở này tuy công nhận những khác nhau giữa giới tính và tính nhiều ngôn ngữ là nữ giới nói năng lễ độ hơn nam giới. cách “thống trị” của nam giới như một hiện tượng xã hội, Phụ nữ ít chửi thề hơn, dùng nhiều từ có tính gợi ý hơn là nhưng quan niệm giới tính là một thực thể động cách nói khẳng định, phát âm gần giọng chuẩn hơn, và (dynamic), được xây dựng lên từ các mối liên hệ chồng trong những hoàn cảnh không chính thức (informal) thì chéo đa chiều, không ngừng thay đổi, là một thiết chế nói nhiều hơn đàn ông,… Những đặc trưng này được giải mang tính xã hội [3, 9, 12, 17, 32]. Những nhà nghiên cứu thích trong các lý thuyết “khiếm khuyết” (deficit) trong theo khuynh hướng này cho rằng những cách tiếp cận tác phẩm kinh điển của Lakoff [13] và sau này là lý thuyết trước đó nhìn nhận ngôn ngữ giới tính một cách quá sơ “thống trị, tôn ti” (dominance). Lý do những đặc điểm nói lược, không thấy rằng nó không phải do đặc điểm sinh trên là vì giới nữ trong gia đình và ngoài xã hội không có học quyết định (như khi sinh ra cơ thể là nữ hay nam, hay quyền lực và ưu thế như nam, nhất là trong chế độ phụ mang giới tính thứ ba), mà là một sản phẩm do xã hội tạo hệ, bị nam điều khiển, hay bị ngắt lời,… nên họ phải bù thành (a social construct). Tuy lúc sinh ra, mỗi cá nhân đắp lại bằng những cách nói nhẹ nhàng, dễ thương để được dán nhãn “nam” hay “nữ” tuỳ thuộc vào bộ phận chỉ tìm chỗ đứng trong xã hội [2, 7, 11]. Cách tiếp cận này ngụ giới tính trên cơ thể, nhưng lớn lên, cư xử như nam hay ý rằng, so với ngôn ngữ khẳng định và mạnh mẽ của nam, nữ (ví dụ trong cách ăn mặc, đi đứng, nói năng, xưng ngôn ngữ yếu đuối của phụ nữ là do “khiếm khuyết”. Cách gọi…) thì không lệ thuộc vào đặc điểm sinh học của họ. tiếp cận “thống trị” tuy không cho rằng những đặc điểm Aries [1] chỉ ra rằng đặc trưng giới tính chiếm chưa tới 5% nói trên trong ngôn ngữ phụ nữ là do khiếm khuyết, trong số những nguyên nhân của những biến thể nhưng cũng hàm ý rằng quyền lực (power) và giới tính có (variance) cư xử xã hội. Việc nhận diện, hình thành và quan hệ chặt chẽ và tương hỗ với nhau [31]. Cách tiếp cận khẳng định giới tính của mỗi cá nhân là thông qua sự này bị phê phán là đã giải thích phạm trù nam - nữ khá tương tác thường xuyên (routine) trong xã hội với những đơn giản và không tính đến các yếu tố khác ngoài quyền cá thể khác, ở trong các hoàn cảnh, các mối quan hệ khác lực. Cách tiếp cận “khác biệt” (difference) thì cho rằng nhau, và phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như vùng ngôn ngữ nữ giới không khiếm khuyết hay có vị thế thấp miền, tuổi tác, tộc người, tôn giáo, giai cấp, hay xu hướng kém hơn nam, nhưng nam và nữ thuộc vào 2 tiểu văn hoá tính dục [29]. Sự khác nhau này là do xã hội ấn định vai trò khác nhau. Cách tiếp cận này cho rằng sự khác nhau trong khác nhau của nam hay nữ và họ cư xử theo vai trò đó cách nói của nam và nữ là do họ được nuôi dạy, rèn luyện (doing), chứ không phải như bản thân giới tính (being) từ nhỏ theo hai loại văn hoá ngôn ngữ xã hội vốn là như thế. Nói cách khác, mỗi cá nhân thực hiện (sociolinguistic subcultures) riêng biệt, với hai phong (doing) giới tính của mình qua việc sử dụng ngôn ngữ cách nói năng khác nhau [8, 10, 20, 26, 27]. Những nhà theo như cách họ được học và được dạy dỗ, qua việc tuân nghiên cứu theo cách tiếp cận này cho rằng giới tính thể theo luật lệ (rules) bất thành văn của xã hội. Với ý nghĩa hiện qua việc tiếp xúc giữa các cá nhân là bình đẳng về này, Crawford [4] đề nghị từ “giới tính” nên được dùng mặt xã hội, nhưng các quan hệ xã hội mà cá nhân thường như là một động từ hơn là danh từ. Trong khi mà những tiếp xúc thì lại không bình đẳng [24, 25]. Như vậy việc nữ cách tiếp cận khác lúng túng, thì cách tiếp cận sau cùng kém lợi thế hơn nam trong bậc thang xã hội vì lý do họ là này có thể giải thích được một số hiện tượng trong khảo phụ nữ chỉ là “ngẫu nhiên”, nhưng cái chính là xã hội đã sát của chúng tôi về thái độ đối với cách dùng các đại từ phân cho họ những vai trò không bình đẳng. Cách tiếp nhân xưng trong tiếng Việt, trình bày ở bài báo này. cận này tuy cởi mở và tiến bộ hơn quan niệm “khiếm Đại từ nhân xưng (personal pronoun), ví dụ he, she, khuyết” nhưng bị phê phán ở một số điểm, như cho rằng they trong tiếng Anh, thể hiện các phạm trù ngữ pháp đặc trưng ngôn ngữ giới tính được thiết lập trong phạm chẳng hạn như ngôi (thứ nhất, thứ hai, thứ ba), số (số ít, vi “văn hoá” riêng biệt của mỗi giới, chứ không phải từ nhiều), giới tính (nam, nữ) và thường mang tính trung những tiếp xúc trong các quan hệ đa dạng. Cách tiếp cận hoà. Tiếng Việt hầu như không có các đại từ nhân xưng này cũng không nhận thấy mỗi giới tính có thể điều chỉnh hiểu theo đặc trưng ngữ pháp này, vì đại đa số các từ quan niệm hay hành vi cuả mình để thích hợp với người dùng để xưng hô là từ thân tộc, ví dụ như ông, bà, cô, chú, họ đang tiếp xúc. anh, chị, em, hoặc các từ nghề nghiệp hay chức vụ, như 4 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Tập 60 - Số 12 (12/2024)
- P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 https://jst-haui.vn LANGUAGE - CULTURE giáo sư, bác sĩ, chủ tịch,... Trong số ít ỏi các đại từ nhân Các nghiên cứu về giới tính và ngôn ngữ trong tiếng xưng mang đặc trưng ngữ pháp trên của tiếng Việt, tiêu Việt thường dừng lại ở chỗ cho thấy nữ giới lễ độ hơn nam biểu nhất là tao, mày, nó (hắn) chỉ số ít và bay chỉ số nhiều. giới và không khai thác sâu hơn. Những nghiên cứu về Trong tiếng Việt hiện đại, những đại từ nhân xưng này giới tính trong phạm vi đại từ nhân xưng thì lại càng hiếm, không phân biệt giới tính, được dùng chỉ ở hai cực và có lẽ vì đại từ nhân xưng trong tiếng Việt đã ít mà còn không có nét nghĩa trung hoà. Ở một cực là chỉ sự thân nặng thái độ khinh trọng, cho nên phạm vi sử dụng hẹp, thiết giữa bạn bè, hoặc từ phía người có vị thế cao hơn không có nhiều cái lý thú để bàn. nói với người ở vị trí thấp hơn. Tuy tuổi tác và thứ bậc là Trong khảo sát này, chúng tôi quan tâm đến mức độ điều kiện quan trọng, nhưng yếu tố tuổi tác quan trọng chấp nhận việc dùng đại từ nhân xưng giữa vợ chồng. Vì nhất trong việc có dùng những đại từ này được không. Ở đại từ nhân xưng không phân biệt giới tính nhưng lại đầy cực kia, thì các đại từ nhân xưng này dùng để tỏ thái độ tính tôn ti tầng bậc nên là chất liệu thích hợp để tìm hiểu không tôn kính, bất kể địa vị hay tuổi tác. về thái độ xã hội khác nhau của mỗi giới khi dùng những Xưa nay nghiên cứu về những vấn đề ngôn ngữ học xã đại từ này. hội trong tiếng Việt thường là trong mối tương quan với Phụ nữ Việt có một số quyền lợi và chỗ đứng cao hơn cách thể hiện sự lễ phép (politeness). Hầu như rất ít trong gia đình so với người phụ nữ Trung quốc, song nhìn nghiên cứu về quan hệ giữa giới tính và ngôn ngữ chung, Việt Nam vẫn là một xã hội theo chế độ phụ hệ, (gender and language). Tuy nhiên, những nghiên cứu này lấy những tam tòng tứ đức Khổng Nho làm nền tảng hành cũng khẳng định các cách tiếp cận giới tính theo xu xử cho phụ nữ. Việc nếu có nghe thấy các đại từ xưng hô hướng “khác biệt” (difference). Ví dụ kết quả khảo sát tao, mày, nó giữa vợ chồng, thì thái độ đánh giá thường là thống kê của Lê P. T. [14] về mức độ lễ phép của người một chiều: người chồng dễ được chấp nhận khi dùng Việt ở Úc so với người Việt ở Việt Nam cho thấy người Việt những đại từ ấy với vợ hơn là nếu người vợ dùng những ở Úc dùng nhiều phương tiện ngôn ngữ thể hiện lễ phép đại từ ấy với chồng. Quan niệm này thường được công (politeness marker) nhiều hơn người Việt ở Việt Nam. nhận một cách tự nhiên trong dân gian, tưởng như đó là Theo tác giả, đó là kết quả của những thay đổi về xã hội - điều hiển nhiên và có từ lâu đời. Nhưng chúng ta cũng chỉ chính trị, trẻ em Việt ở Úc được học môn Đức dục trong mới thấy chứng cớ về việc ai có thể dùng các đại từ này trường trong khi ở Việt Nam môn này đã bị thay thế bằng dựa trên các sách báo in từ đầu thế kỷ thứ XX, trong đó môn Công dân giáo dục. Khi so với những người lớn tuổi chỉ có người chồng dùng những đại từ này với vợ chứ ở Việt Nam, những người Việt lớn tuổi sống ở Úc giữ được không phải là ngược lại [21, 22]. Chúng ta không có tư liệu nhiều nét văn hoá Khổng Nho hơn. Về giới tính, kết quả để biết thái độ đối với việc dùng các đại từ nhân xưng này khảo sát của Lê P. T. cũng khẳng định là nữ giới người Việt lễ độ hơn nam giới, bất kể lứa tuổi hay mặc dù quốc gia trong xã hội người Việt trước đó như thế nào. Mặc dù vậy, sinh sống là Việt Nam hay Úc. ngay cả trong những thập niên 20, 30, 40 của thế kỷ trước, việc xưng hô giữa vợ chồng không phải đã được “rạch ròi” Trong những nghiên cứu công phu và thuộc loại sớm như hiện nay. Trong truyện ngắn “Rình Trộm” đăng năm nhất về đề tài ngôn ngữ xã hội là công trình của Vũ T. T. 1943, in lại trong Tuyển Tập Truyện ngắn Nam Cao, Nam H. [30] về tiếng Việt ở Hà Nội. Trong đó tác giả thảo luận Cao miêu tả cái khó khăn trong việc xưng hô giữa vợ về các từ xưng hô như một công cụ thể hiện sự lễ phép chồng, nhất là những cặp vợ chồng trẻ chưa có con, như (respectful politeness) nhưng không nhắc đến các đại từ hai nhân vật trong truyện: nhân xưng mày - tao hay nó. Nguyen and Ho cũng nhắc đến từ xưng hô như một phương tiện của lễ phép và dẫn Tuy vậy họ cũng bắt chước người ta, gọi nhau bằng “thày tao - mày để miêu tả sự thân mật giữa bạn bè. Mặc dù 8 nó”, “u mày”, cho nó ngộ chơi. Mới đầu là sự nhại đùa. Mãi trong số 9 người tham gia khảo sát trong bài báo ấy là nữ, mãi thành quen. Bây giờ muốn bỏ thì không bỏ được. Vả lại các tác giả cũng không có nhận xét gì về đặc điểm giới bỏ, thì gọi nhau bằng gì được? Ở nhà quê, vợ chồng chưa có tính trong các cách xưng hô. Le P. T. [14] dùng một tình con, khó có tiếng mà gọi nhau lắm nhé. Cậu cậu, mợ mợ… huống hội thoại với 18 sinh viên Việt ở Úc, tuổi từ 25 đến thì ra lối tỉnh; mặc màn tà lồng ộp nghĩa là cái váy, mà gọi 60, thảo luận đề tài “bạn gọi bạn bè của bạn như thế nhau thế thì người ta cười đến chết! Mình mình, tôi tôi là lối nào?”, và nhận xét là nam giới ở mọi lứa tuổi khi nói Sài Gòn, mấy thằng cha đi cao su về, cố nhập cảng nhưng chuyện với bạn bè nam thì dùng tao - mày nhiều hơn là chẳng ai theo. Còn anh ơi? Với em ơi! Thì chỉ khi nào hờ nhau nữ giới khi nói chuyện với bạn bè nữ, và khi nam tức giận thì người ta mới dùng đến cho văn vẻ. Vậy thì gọi nhau bằng cũng dùng tao - mày nhiều hơn nữ. gì được? Hạng mày mày, tao tao là nhiều nhất; nhưng đó là Vol. 60 - No. 12 (Dec 2024) HaUI Journal of Science and Technology 5
- NGÔN NGỮ VĂN HÓA https://jst-haui.vn P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 những cặp vợ chồng ngày nào cũng phải chửi nhau một Nếu giới tính thực sự là yếu tố quan trọng quyết định thái lần… [18]. độ đánh giá, thì những người tham gia phỏng vấn có thể Người chồng dùng mày - tao với vợ lúc bình thường sẽ thiên vị, nghiêng về một phía tuỳ thuộc giới tính của không chỉ thấy trong những văn bản viết từ đầu thế kỷ họ và điều này sẽ dẫn đến nhưng kiểu trả lời khác nhau thứ XX, mà ngược lên tận giữa thế kỷ thứ XVIII, gần 400 giữa nam và nữ. năm trước. Trong thời kỳ chữ Quốc ngữ bắt đầu hoàn Giả thuyết 1c. Những đại từ nói trên dễ chấp nhận thiện, cách xưng hô mày - tao không theo “khuôn phép”, trong hoàn cảnh có xích mích mâu thuẫn hơn là lúc bình thứ bậc cũng xuất hiện. Trong tập sách viết tay của Bento thường. Thiện mà Đỗ Quang Chính đặt tên là “Lịch sử nước An Giả thuyết 2. Những cặp vợ chồng trẻ dễ chấp nhận việc Nam” được cho là viết năm 1659, kể chuyện Thánh Gióng, dùng các đại từ này hơn những cặp vợ chồng lớn tuổi. có đoạn viết: Giả thuyết 3. Những cặp vợ chồng có học vấn từ cao Thằng bé ấy bảo mẹ rằng: mẹ hãy gọi quan khách ấy vào đẳng hay đại học trở lên khó chấp nhận việc dùng các đại đây. Mẹ liền đi gọi quan ấy vào, mới chiềng quan rằng: con từ này giữa vợ chồng hơn những người có học vấn thấp. tôi nên ba tuổi, chẳng hay nói cũng chẳng hay đi, tôi mới Giả thuyết 4. Những người làm việc bàn giấy khó chấp thấy sự lạ, mà khiến tôi ra gọi ông vào. Quan ấy liền hỏi nhận việc dùng các đại từ này giữa vợ chồng hơn những rằng: thằng bé kia, mầy muốn đánh giặc cho vua chăng mà người làm việc lao động phổ thông. mầy gọi tao vào? Bấy giờ thằng bé ấy nói rằng: mầy có muốn cho tao đánh giặc cho Vua, thì về bảo Vua đánh một Giả thuyết 5. Những cặp còn hẹn hò ít chấp nhận việc con ngựa sắt, lại đánh một cái thiết vọt sắt đem đến đây, dùng các đại từ này hơn là những đôi đã cưới. cùng thổi một trăm nong cơm, cùng một trăm cong rượu Trong bài báo [22], Pham and Pham trình bày kết quả cho tao ăn uống [6]. khảo sát các giả thuyết trên qua phương pháp điều tra Nhưng trong thực tế đời sống hiện nay, liệu có phải thống kê với 42 người ở miền Nam và Nam trung bộ (gọi trong tất cả các trường hợp, những đại từ này là điều cấm tắt là nhóm Nam). Kết quả khẳng định giả thuyết 1a là kị giữa vợ chồng không? Hoặc ít nhất là chỉ cấm kỵ với đúng (significant). Đó là những người tham gia khảo sát người vợ không? Nếu điều này đúng, thì có đúng với tất dễ chấp nhận người chồng dùng các đại từ nhân xưng để cả các vùng địa phương ở Việt Nam không? Nếu khi nào, nói với vợ hay về vợ hơn là người vợ dùng dể nói với hoặc ở nơi nào đó người chồng hay người vợ dùng các chồng hay về chồng. Nói cách khác, cả đàn ông và phụ nữ đại từ này với bạn đời, thì liệu các yếu tố như tuổi tác, học đều dễ chấp nhận khi người chồng dùng những đại từ vấn, nghề nghiệp, đã là vợ chồng hay vẫn còn hẹn hò... có này nói với vợ hay về vợ, hơn là người vợ dùng để nói với ảnh hưởng đến thái độ chấp nhận các đại từ này ở cả chồng hay về chồng. Kết quả cũng khẳng định giả thuyết người nói lẫn người nghe không? Đó là những câu hỏi 1c (significant). Đó là cả hai giới đều cho là những đại từ chúng tôi tìm lời giải đáp. nói trên dễ chấp nhận trong tình huống có xích mích mâu 2. GIẢ THUYẾT KHẢO SÁT thuẫn hơn là lúc bình thường. Học vấn (giả thuyết 3) và Dựa trên những tính chất và đặc điểm xã hội nêu trên, nghề nghiệp (giả thuyết 4) cũng được khẳng định. Có chúng tôi khảo sát những giả thuyết sau đây về thái độ chứng cớ cho thấy những cặp vợ chồng ít học vấn hơn thì đánh giá việc dùng các đại từ nhân xưng giữa vợ chồng dễ chấp nhận cách dùng đại từ nhân xưng giữa vợ chồng người Việt. hơn là những người có học vấn cao. Những người làm Giả thuyết 1a. Nói chung, dễ chấp nhận cho người nghề bàn giấy ít chấp nhận các đại từ nhân xưng dùng chồng dùng tao - mày và nó khi nói chuyện với vợ hay nói trong quan hệ vợ chồng hơn những người làm công việc về vợ, hơn là người vợ dùng tao - mày và nó khi nói chyện lao động phổ thông. Tuổi tác (giả thuyết 2) không tác với chồng hay nói về chồng. Nói cách khác, cả đàn ông và động đến việc chấp nhận hay không những đại từ này phụ nữ đều cho rằng dễ chấp nhận khi người chồng dùng dùng giữa vợ chồng. Những cặp vợ chồng trẻ hay lớn tuổi những đại từ này nói với vợ hay về vợ, hơn là người vợ đều có thái độ như nhau trong đánh giá việc dùng đại từ dùng để nói với chồng hay về chồng. nhân xưng giữa vợ chồng. Đấy là kết quả khảo sát ở nhóm Giả thuyết 1b. So với phụ nữ, đàn ông dễ chấp nhận người Nam. hơn việc người chồng dùng những đại từ trên khi nói Nghiên cứu về những vấn đề thuộc giới tính và ngôn chuyện với vợ hay về vợ. Tương tự, so với đàn ông thì phụ ngữ trong tiếng Việt đã ít, việc tìm hiểu và so sánh đặc nữ có thể dễ chấp nhận hơn việc người vợ dùng các đại điểm văn hoá ở các địa phương khác nhau qua ngôn ngữ từ nhân xưng này khi nói chuyện về chồng hay với chồng. giới tính lại càng hiếm. Một số nhà nghiên cứu sử học (ví 6 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Tập 60 - Số 12 (12/2024)
- P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 https://jst-haui.vn LANGUAGE - CULTURE dụ, Marr [16], Taylor [28], Li Tana [15]) cho rằng từ khi Phụ lục cuối bài). Có 20 người tham gia, tất cả đều sinh ra Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong năm 1558, một vương và lớn lên ở các tỉnh Bắc bộ (Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, quốc tự trị đã dần dần hình thành, tạo ra một cộng đồng Vĩnh Phú, Bắc Giang, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình và Đại Việt mới với nhiều nét đặc trưng về văn hoá, khác với Hưng Yên). Trong số này có 13 nữ, 7 nam, người trẻ nhất người Việt ở Đàng Ngoài. Đặc trưng đó đã hình thành 28 tuổi, người già nhất 73 tuổi, số còn lại tuổi từ 40 đến trong hai thế kỷ XVII và XVIII. Nhà Nguyễn đã phá vỡ khái 50. Có 16 người sống ở Hà Nội, 1 người ở Hải Dương, 3 niệm “liên tục” và “toàn vẹn” của một cộng đồng, một văn người lớn tuổi nhất sống ở Đà Nẵng. Trong số này có kỹ hoá mà các triều đại vua chúa trước đó dày công xây dựng sư, cán bộ nghiên cứu, kế toán, hưu trí, người bán hàng, qua nhiều thế kỷ. Các chúa Nguyễn lại còn vi phạm truyền người làm nghề tự do, bảo vệ, và nội trợ. Trình độ học vấn thống chống ngoại xâm bằng cách dựa vào Xiêm La và gồm từ tiểu học lên bậc Sau đại học (graduate program). Pháp trong cuộc nội chiến với chúa Trịnh [15]. Việc tách Tất cả những phép tính được thực hiện dùng mức độ rời và phá vỡ này có thể giải thích tính cách hiếu kỳ, bao significance, α = 0,05. Khi nhiều phép tính được dùng, dung với những cái mới và ý tưởng mới lạ của người Đàng cách thường làm là hoặc kiểm soát lỗi Loại-1 “đúng giả Trong. Họ không để quá khứ và truyền thống ràng buộc tạo” (false positives) qua việc a) dùng ứng dụng điều nặng nề nên ít cố chấp, và thu dùng cái mới dễ dàng hơn. chỉnh cho đúng (như ứng dụng Bonferroni) làm giảm lỗi Cách thực hành tôn ti thứ bậc trong gia đình theo tinh Loại-1 và tăng lỗi Loại-2, hoặc b) qua việc áp dụng rập thần Nho giáo của họ khá tự do, lỏng lẻo hơn so với Đàng khuôn (replication). Vì không dễ thu thập tư liệu cho kiểu Ngoài, một phần là do người Đại Việt từ khi vào vùng đất đề tài này, chúng tôi tránh cả hai cách làm trên. Nếu áp mới đã sống chung với nhiều cộng đồng dân tộc có dụng một chỉnh sửa cho chính xác (a correction) hoặc lặp những nền văn hoá khác nhau, như Chăm, Khmer, Nhật lại rập khuôn khảo sát thì cần một lượng tư liệu lớn hơn và người Minh Hương. nhiều để bù đắp. Cho nên chúng tôi không khẳng định Liệu những đặc trưng về lịch sử và văn hoá ở Đàng rằng kết quả của chúng tôi là hoàn hảo mà chỉ có tính Trong có ảnh hưởng đến thái độ ngôn ngữ của người chất gợi ý từ những điều tìm thấy đầy hứa hẹn (intriguing miền Nam đối với cách dùng các đại từ nhân xưng đang findings) và cần tiếp tục khảo sát thêm. bàn, so với nhóm người Việt ở đất Bắc? Tuy không khảo (All tests are conducted at a significance level of alpha = sát với tư cách là một giả thuyết, trong bài báo này chúng 0.05. When many tests are conducted, one convention is tôi cũng so sánh kết quả hai nhóm người tham gia, nhóm either to control for Type-1 error (false positives) through a) Bắc và nhóm Nam, trong thái độ đánh giá việc dùng các the application of corrections (such as Bonferroni) that đại từ nhân xưng này. decrease Type-1 error and increase Type-2 error; or b) Lặp lại khảo sát ở Pham and Pham [22], năm 2018 through replication. Due to the difficulty in gathering this chúng tôi đã đi thu thập tư liệu từ nhóm người bắc, sinh type of data, we have made a conscious effort to do neither. ra và lớn lên ở các tỉnh miền bắc và đại đa số đang sống ở Applying a correction to our results would require us to Hà Nội (gọi tắt là nhóm Bắc). Bài báo này trình bày khảo collect a much larger sample to compensate, as would sát thái độ ngôn ngữ của nhóm người Bắc. Chúng tôi chỉ replications. With that said, we make no claims that our đưa kết quả của những giả thuyết được khẳng định, tức results are unassailable, but more that they are suggestive of có chỉ số thống kê đạt ở mức độ quy định được tính là đủ intriguing findings that merit further investigation.) quan trọng để khẳng định giả thuyết (significant), nghĩa 4. KẾT QUẢ KHẢO SÁT (NHÓM BẮC) là khi trị số p bằng hoặc thấp hơn 0,05 (p ≤ 0,05). Ngoài các giả thuyết từ 1 đến 5 đã nêu trên, chúng tôi cũng so Kết quả khẳng định giả thuyết 1a. Những người sánh dữ liệu của nhóm Bắc và nhóm Nam để xem có gì tham gia thuộc nhóm Bắc cả nam lẫn nữ dễ chấp nhận khác nhau không. việc người chồng dùng các đại từ nhân xưng khi nói với vợ hay nói về vợ (M = 4,14), hơn là người vợ dùng khi nói 3. PHƯƠNG PHÁP với chồng (M = 2,97; t(19) = 4,01; p = 0,001). Khảo sát này dùng các câu hỏi để phỏng vấn, với ghi Bảng 1. Paired Samples Statistics (Thống kê mẫu ghép đôi) giả thuyết 1a chép về tên họ, tuổi, tình trạng gia đình, nghề nghiệp, trình độ học lực, nơi sinh, nơi cư trú và giới tính của người Std. Deviation Std. Error Mean N tham gia. Những người tham gia khảo sát trả lời 18 câu (độ lệch chuẩn) Mean hỏi về bản thân, trong đó có các đại từ xưng hô (cặp mày Chồng nói với/về vợ 4,14 20 2,19 0,490 Pair 1 - tao và nó). Câu hỏi số 19 về quan sát người khác (xem Vợ nói với/về chồng 2,97 20 1,55 0,346 Vol. 60 - No. 12 (Dec 2024) HaUI Journal of Science and Technology 7
- NGÔN NGỮ VĂN HÓA https://jst-haui.vn P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 Bảng 2. Paired Samples Test (Thử nghiệm mẫu ghép đôi) giả thuyết 1a Paired Differences (khác biệt theo cặp) 95% Confidence Interval of the Difference Sig. Std. Std. Error t df Mean (khoảng tin cậy của sự khác biệt) (2-tailed) Deviation Mean Lower Upper Pair 1 Chồng nói với/về vợ - Vợ nói với/về chồng 1,17 1,30 0,291 0,557 1,77 4,01 19 0,001 Kết quả cũng khẳng định giả thuyết 1c (significant). Đàn bà nói chung dễ chấp nhận việc vợ dùng các đại từ Những người được khảo sát dễ chấp nhận việc vợ chồng này với chồng hơn chồng dùng với vợ. Giả thuyết 3 và 4 - dùng các đại từ trên trong khi cãi cọ, xích mích (M = 3,84) trình độ học vấn và nghề nghiệp không đóng vai trò quan hơn là trong những lúc bình thường (M = 3,12; trọng trong mức độ chấp nhận hay không việc dùng các t(19) = 2,92; p = 0,009). đại từ nhân xưng giữa vợ chồng. Chúng tôi không tính toán được yếu tố đã là vợ chồng hay còn hẹn hò vì tất cả Bảng 3. Paired Samples Statistics (Thống kê mẫu ghép đôi) giả thuyết 1c 20 người tham gia khảo sát này đều đã lập gia đình. Std. Std. Error Bảng 6 là so sánh kết quả chung của hai nhóm Bắc (20 Mean N Deviation Mean người) và Nam (42 người). Chúng tôi chỉ tóm tắt những Pair 1 Khi xích mích 3,84 20 2,02 0,452 giả thuyết được khẳng định, tức có vai trò quan trọng Bình thường 3,12 20 1,72 0,384 (significant). Những giả thuyết này với cả hai nhóm là giả Bảng 4. Paired Samples Test (Thử nghiệm mẫu ghép đôi) giả thuyết 1c Paired Differences Sig. 95% Confidence Interval of the Difference t df Mean Std. Deviation Std. Error Mean (2-tailed) Lower Upper Pair 1 Khi xích mích - bình thường 0,714 1,10 0,245 0,202 1,23 2,92 19 0,009 Về yếu tố tuổi tác (giả thuyết 2), tuy không nhiều thuyết 1a (dễ chấp nhận cho người chồng dùng các đại nhưng có chứng cớ cho thấy càng lớn tuổi người ta càng từ nhân xưng khi nói với vợ hay về vợ hơn là người vợ ít chấp nhận hơn việc dùng các đại từ nhân xưng nói trên dùng các đại từ trên khi nói với chồng hay về chồng) và giữa vợ chồng (F(1,18) = -2,19; p = 0,042). giả thuyết 1c (dễ chấp nhận việc vợ chồng dùng các đại từ nhân xưng trong khi cãi cọ hơn là lúc bình thường). Bảng 5. Descriptive Statistics (Thống kê miêu tả) Những giả thuyết được khẳng định nhưng khác Mean Std. Deviation N nhóm là đối với nhóm Bắc, giả thuyết 2 được khẳng định index of q1 to q18 3,61 1,84 20 là có vai trò quan trọng (người trẻ dễ chấp nhận việc dùng Tuổi 49,50 13,28 20 các đại từ nhân xưng giữa vợ chồng hơn là những người a lớn tuổi) nhưng giả thuyết này lại không được khẳng định Bảng 6. Coefficients (hệ số) đối với nhóm Nam. Ngược lại, giáo dục (giả thuyết 3) và Unstandardized Standardized nghề nghiệp (giả thuyết 4) được khẳng định quan trọng Coefficients Coefficients (significant) với nhóm Nam nhưng lại không quan trọng Model (hệ số chưa (hệ số t Sig. (non-significant) với nhóm Bắc. Tuy nhiên khi gộp hai chuẩn hoá) chuẩn hoá) nhóm lại, thì kết quả chung lại khẳng định rằng với cả B Std. Error Beta nhóm Nam và nhóm Bắc, càng có học vấn và làm các công việc bàn giấy thì người ta càng ít chấp nhận việc (Constant) 6,76 1,49 4,54 0,000 1 dùng đại từ nhân xưng giữa vợ chồng hơn. Tuổi -0,064 0,029 -0,458 -2,19 0,042 Hàng cuối cùng trong bảng là so sánh hai nhóm xem Những giả thuyết không được khẳng định là Giả nhóm nào dễ chấp nhận việc dùng đại từ nhân xưng giữa thuyết 1b - đàn ông nói chung dễ chấp nhận việc chồng vợ chồng hơn. Kết quả không khẳng định được nhóm này dùng các đại từ trên với vợ hơn đàn bà dùng với chồng. dễ chấp nhận các đại từ nhân xưng hơn nhóm kia. 8 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Tập 60 - Số 12 (12/2024)
- P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 https://jst-haui.vn LANGUAGE - CULTURE Bảng 6. So sánh kết quả chung của hai nhóm Bắc (20 người) và Nam để chọn những từ thân tộc thích hợp. Ngay cả trong (42 người) phong cách chính thức (formal), một xếp trẻ tuổi cũng e n = 42 người n = 20 người Tất cả n = 62 ngại khi dùng “ông - tôi” nói chuyện công việc với một Giả thuyết Nam và Nam Bắc sống ở người, Bắc và người dưới quyền nhưng lớn tuổi vào hàng cha chú. Khảo trung bộ Bắc bộ Nam sát của chúng tôi xác định thêm một phương diện khác: đó là với nhóm người Bắc, tuổi càng cao người ta càng GT 1a (cả hai giới tính) Significant Significant Significant cho rằng phải nói năng “đúng mực” hơn giữa vợ chồng. GT1b (trong mỗi giới) Non-significant Non-significant Non-significant Điều này dường như đúng với nhận định nặng về tôn ti GT1c (tình huống) Significant Significant Significant trật tự Nho giáo của văn hoá Đàng Ngoài. Ngược lại, ở GT2 (độ tuổi) Non-significant Significant Non-significant nhóm Nam thì tuổi tác không ảnh hưởng đến thái độ nói GT3 (giáo dục) Significant Non-significant Significant năng. Việc Đàng Trong xa rời hơn với quá khứ đậm chất Nho giáo ở Đàng Ngoài như Li [15] suy luận, cũng chưa GT4 (nghề nghiệp) Significant Non-significant Significant đủ để giải thích những kết quả khác nhau về các yếu tố GT5 (hôn nhân) Non-significant n/a Non-significant tuổi tác, học vấn và nghề nghiệp. Học vấn, thi cử là con Bắc vs Nam Non-significant n/a Non-significant đường tiến thân hầu như duy nhất trong văn hoá lấy Nho 5. THẢO LUẬN giáo làm nền tảng, như văn hoá Đại Việt của phần vương Giả thuyết 1a khẳng định người Việt nói chung, kể cả quốc Đàng Ngoài. Nhưng kỳ lạ thay, học vấn lại không đàn ông lẫn đàn bà, ở Bắc hay Nam đều cho rằng người đóng vai trò quyết định trong thái độ của nhóm Bắc đối chồng dùng các đại từ nhân xưng khi nói với vợ hay về vợ với việc dùng các đại từ nhân xưng giữa vợ chồng. Giải trong bất kỳ tình huống nào thì cũng dễ chấp nhận hơn thích điều đó như thế nào? là người vợ dùng các đại từ đó nói với chồng hay về Khác với Đàng Ngoài, ở Đàng Trong di dân Đại Việt chồng. Cách tiếp cận theo hướng “thống trị/tôn ti” phải thích nghi với các nền văn hoá bản xứ của người (dominance) trong lý thuyết nghiên cứu Ngôn ngữ và Giới Chăm, Khmer và những di dân người Nhật, Minh Hương. tính giải thích điều này rằng đó là do người đàn ông Các sắc dân này, khi cần một thứ tiếng để trao đổi chung thường đứng ở vị trí cao hơn về tài chánh, sức lực, cộng hằng ngày, hẳn là tiếng Việt của nhóm thống trị. Mà khi với truyền thống phụ hệ, nên có xu hướng lấn lướt phụ nói tiếng Việt, thì họ không dễ có cùng cái mẫn cảm ngôn nữ khi nói năng, ví dụ như ngắt lời, giễu cợt. Hoặc thay vì ngữ như người Việt về những sắc thái tế nhị, phức tạp an ủi khi người vợ gặp chuyện buồn phiền thì người chứa đựng trong cách dùng các đại từ nhân xưng của chồng chỉ đưa ra giải pháp hay lời khuyên một cách “khô người Việt, ít nhất là vấn đề tôn ti trong tuổi tác. Họ vất vả khan”, lý trí. Khảo sát của chúng tôi tuy khẳng định về mặt học và biết một số từ thân tộc cốt lõi nhất mà xưng hô. thống kê và cung cấp chứng cứ từ tư liệu thực tế Còn nếu dùng đại từ nhân xưng tao - mày, thì thường là (empirical evidence) cho giả thuyết 1a nhưng dù sao điều dùng với sắc thái thân mật (casual) hơn sắc thái kính này cũng có thể đoán trước (predictable). Song những kết trọng, hoặc ít nhất là cũng mang tính trung hoà. Cách quả bất ngờ mà tư liệu này cung cấp nằm ở các chi tiết dùng này cộng hưởng với tính xuề xoà dễ dãi của người của các yếu tố khác nhau, ở các cộng đồng khác nhau mà Việt Đàng Trong, ảnh hưởng đến cách người Việt dùng câu trả lời không đơn giản chung chung là “có” hay các đại từ này. Ở một số vùng ở Cần Thơ, Mỹ Tho và Nha “không” (yes or no), hoặc “khẳng định” (significant) hay Trang, một số cộng tác viên cho biết giữa vợ chồng với “không khẳng định” (non-significant), như sẽ trình bày nhau, nhiều lúc bình thường vui vẻ họ cũng mày - tao với dưới đây. nhau, không hề gì [22]. Thêm vào đó, người Việt ở Đàng Trong còn phải vật Trong khi cả hai nhóm Bắc và Nam giống nhau ở chỗ lộn thích nghi với điều kiện thiên nhiên nơi vùng đất mới, việc người chồng dùng các đại từ nhân xưng với vợ dễ và đặc biệt phải sống với những đặc điểm sinh hoạt xã hội chấp nhận hơn là vợ dùng nói với chồng, và dễ chấp nhận xa lạ với văn hoá lâu đời của họ (như việc mua bán nô lệ). các đại từ này lúc mâu thuẫn cãi cọ hơn lúc bình thường, Trong hoàn cảnh đó, người Đàng Trong càng cần xây thì có những kết quả hai nhóm lại khác nhau, như yếu tố dựng một bản sắc cho riêng mình. Điều đó khiến họ giữ tuổi tác, học vấn và nghề nghiệp. Sự khác nhau này là lại một số giá trị ông cha đã mang vào buổi đầu, nhiều khi điểm đặc biệt thú vị trong khảo sát. còn giữ kỹ càng hơn là những người ở quê hương cũ. Có Một điều ai cũng thấy là trong việc chọn lựa từ xưng thể việc coi trọng giá trị của học vấn là một trong những hô của người Việt, tuổi tác là yếu tố quan trọng hàng đầu nét văn hoá đó. Vol. 60 - No. 12 (Dec 2024) HaUI Journal of Science and Technology 9
- NGÔN NGỮ VĂN HÓA https://jst-haui.vn P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 Việc những người thuộc cộng đồng dân tộc khác cách những cặp đồng tính nữ người Việt ở Việt Nam xưng dùng đại từ nhân xưng của một tiếng nói không phải hô với nhau. Trong quan hệ này, người cung cấp phương tiếng mẹ đẻ có lẽ tương tự như người Việt sống ở những tiện sống (kinh tế), hoặc là người có sức mạnh thể hình nước nói tiếng Anh. Với những người trước đó chưa biết hơn, thì được người kia gọi bằng “anh” và xưng “em”. Trong tiếng Anh hoặc hiếm khi dùng tiếng Anh, họ thích thú với trường hợp này, nghĩa sinh học (sex) ngầm chỉ trong từ việc chỉ có “I” và “you” thay cho một biển từ nhân xưng tỉ xưng hô thân tộc của “anh” đã được thay thế bằng nghĩa mỉ rắc rối của tiếng Việt. Những câu chuyện kể lại với giới tính (gender), theo cách hiểu của xã hội (làm “anh” có đồng hương đã cho họ một khoảng không gian rộng để nghĩa là mang thức ăn về cho gia đình). Nói cách khác, hai thay thế những “you” và “I”, song thường là “tao” và “mày” cá nhân này tự quy ước giới tính với nhau tuỳ thuộc vào vai được dùng, bất kể tuổi tác, giới tính, quan hệ xã hội. Điều trò của họ trong mối quan hệ riêng của hai người. Ngoài xã thú vị là cách dùng mày-tao được trộn lẫn với hệ thống hội, cả hai đều được nhìn như hai người nữ. Cũng tương tự, xưng hô thứ bậc của người Việt. Ví dụ khi một người đàn nhưng xã hội dễ chấp nhận hơn là trường hợp đã có “thầy” ông kể lại rằng anh đang lái xe trên đường thì bị một phụ và “cô” rõ ràng cho nam và nữ, nhưng cũng vẫn có “bà thầy nữ tông phải rồi bỏ chạy, sau đó tìm được số điện thoại bói” và khi nói chuyện thì cũng gọi người thầy bói này bằng và gọi cho cô gái. Cả hai người không ai có bảo hiểm xe. “thầy” chứ không phải bằng “cô”. Khi cô gái (không phải người Việt) nhất định không bồi Nếu hiểu giới tính là khế ước xã hội thay vì đặc điểm thường tiền sửa xe, anh này doạ sẽ kiện cô ra toà: sinh học, thì có thể hiểu vì sao những cộng đồng người Người đàn ông: - Tao sẽ thuê luật sư đưa mày ra toà, OK? Việt ở một số vùng Nam bộ, Nam Trung bộ lại không xem Người phụ nữ: - Tôi sẵn sàng ra toà, ông cứ thuê luật sư việc người phụ nữ mày - tao với chồng trong lúc cơm vẫn đi! [5] lành canh vẫn ngọt là điều gì đáng chê trách. Hoặc trường hợp một số những đôi vợ chồng trẻ trong khảo sát này Nhân vật nam này khi kể lại câu chuyện bằng tiếng cho biết có khi họ cố tình dùng cách xưng hô mày - tao để Việt, đã dùng cặp mày - tao suồng sã (casual) để dịch “you hâm nóng lại tình cảm, vui đùa, gợi lại thời hẹn hò khi còn - I” cho câu nói của chính anh ta với cô gái, nhưng đặt vào là bạn học. miệng cô gái cặp đại từ lễ độ và mang phong cách trang trọng (formal) là tôi - ông khi trả lời anh ta. Điều này có thể Sự khác nhau trong thái độ đối với việc dùng đại từ hàm ý tỏ thái độ mình xứng đáng nhận cặp từ xưng hô nhân xưng giữa vợ chồng khẳng định những nét “bản sắc ông - tôi vì cho rằng cô gái có lỗi và để tỏ ra mình có uy, văn hoá” khác nhau của hai nhóm Bắc và Nam. Một mặt, ngầm lôi kéo sự đồng tình của người đồng hương. Hoặc nó cung cấp thêm chứng cứ cho nhận định của những có thể vì biết cô gái không nghe thấy câu chuyện của anh nhà nghiên cứu như Keith Taylor và Li Tana nêu trên. Đó ta, và vì tiếng Anh không có những phân biệt khinh trọng là tuy cùng một yếu tố ngôn ngữ và của cùng một tộc trong “I - you” nên anh ta dịch một cách xuề xoà câu nói người, nhưng giá trị sử dụng lại khác nhau tuỳ theo với cô ấy. những mẫu mực “bình thường” được xã hội chấp nhận (norm) của từng vùng văn hoá khác nhau. Mặt khác, nó Cách dùng các đại từ nhân xưng tao, mày, và nó rất có góp thêm chứng cứ cho cách tiếp cận xem giới tính là thái thể đã biến đổi theo thời gian. Ở thời xa xôi lắm, có thể độ xã hội, gồm nhiều yếu tố phức hợp trong trạng thái những đại từ mày - tao mang tính trung hoà hơn là trong động hơn là một định nghĩa chỉ đơn giản xem trọng phần tiếng Việt hiện đại, tương tự như cách dùng đại từ xưng sinh học và quyền lực, để giải thích cho sự khác nhau giữa hô chỉ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai ở nhiều thứ tiếng ngôn ngữ giới tính. khác trong vùng Đông Nam Á [19, 23]. 6. KẾT LUẬN Một trong những cách nhìn của lý thuyết “động” trong ngôn ngữ giới tính cho rằng giới tính là sự thực hiện ngôn Cách nhìn giới tính như một thực thể động và đa chiều ngữ có tính chất xã hội của một cộng đồng cụ thể nào đó và là việc hành xử trong những cộng đồng văn hoá cụ thể (social and linguistic practice of specific community). Vì đóng vai trò vô cùng quan trọng để hiểu thái độ đánh giá bản chất của cộng đồng là luôn biến đổi, cho nên cái gì trong cách dùng các đại từ nhân xưng mày, tao, nó trong được xem là “tiêu chuẩn” của một cộng đồng chưa hẳn lúc tiếng Việt. Điều này giải thích vì sao tâm lý “địa phương, nào cũng là tiêu chuẩn của tất cả cá nhân trong cộng đồng cục bộ” lại có sức sống mãnh liệt trong các vấn đề văn hoá đó. Một minh hoạ cho cách tiếp cận xem giới tính là một và ngôn ngữ. quan niệm, thiết chế xã hội (social construct), liên tục vận Tất cả các cách tiếp cận trong lý thuyết Ngôn ngữ và động trong các mối quan hệ và các yếu tố khác nhau là Giới tính (như “thống trị - dominance”, “khác biệt - 10 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Tập 60 - Số 12 (12/2024)
- P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 https://jst-haui.vn LANGUAGE - CULTURE difference”, và “động, thực thể xã hội - dynamic, social 8) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với gia đình mình, construct”) bổ sung lẫn cho nhau. Về thái độ đối với việc vợ có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. dùng đại từ nhân xưng tiếng Việt giữa vợ chồng, chúng 1 2 3 4 5 6 7 tôi cho rằng cách tiếp cận “động và cộng đồng giao tiếp 9) Bình thường, khi nói chuyện với bạn bè, vợ có thể - dynamic, communicative” cung cấp giải thích tốt nhất dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. những phức tạp trong cách dùng tao, mày, và nó trong tiếng Việt, như đã thấy ở Mỹ Tho, Cần Thơ, hay trong 1 2 3 4 5 6 7 những đôi lứa trẻ tuổi ở cả nhóm Nam và nhóm Bắc. 10) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với bạn bè, vợ Chúng tôi rất hi vọng sẽ có những nỗ lực tiếp nối của có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. những người quan tâm về ngôn ngữ học xã hội khảo sát 1 2 3 4 5 6 7 những khác biệt trong ngôn ngữ giới tính trong tiếng 11) Bình thường, khi nói chuyện với bạn bè, chồng có Việt, ở mọi hoàn cảnh và không gian, mọi mối quan hệ, thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về vợ. mọi phương tiện và phong cách ngôn ngữ, với mọi nhóm 1 2 3 4 5 6 7 cộng đồng văn hoá trong lòng văn hoá chung của người 12) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với gia đình dân Việt. chồng, vợ có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. 1 2 3 4 5 6 7 PHỤ LỤC 13) Bình thường, khi nói chuyện với gia đình mình, chồng có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về vợ. Tên: Tuổi: Nghề: Học lực: 1 2 3 4 5 6 7 Nơi sinh: Nơi sống (mấy năm): 14) Khi cãi cọ, bạn gái có thể dùng ‘mày-tao’ hay ‘mi- Khoanh tròn câu trả lời. Số 1 là hoàn toàn chấp nhận tao’ với bạn trai. được. Số 7 là không thể chấp nhận được. Số 4 là không 1 2 3 4 5 6 7 khuyến khích cũng không chê bai. 15) Bình thường, khi nói chuyện với gia đình chồng, vợ 1) Bình thường vợ chồng có thể gọi nhau bằng ‘mày - có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. tao’ hay ‘mi - tao’. 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 16) Khi cãi cọ, bạn trai có thể dùng ‘mày - tao’ hay ‘mi 2) Khi cãi cọ, vợ chồng có thể gọi nhau bằng ‘mày - tao’ - tao’ với bạn gái. hay ‘mi - tao’. 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 17) Bình thường, khi nói chuyện với gia đình vợ, chồng 3) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với gia đình mình, có thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về vợ. chồng có thể dùng ‘nó/hắn’ khi nói về vợ 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 18) Khi cãi cọ, vợ có thể dùng ‘mày - tao’ hay ‘mi - tao’ 4) Bình thường, khi nói chuyện với gia đình mình, vợ có với chồng. thể dùng ‘nó/hắn’ để nói về chồng. 1 2 3 4 5 6 7 1 2 3 4 5 6 7 19) Anh/chị có nghe thấy cặp vợ chồng nào dùng 5) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với gia đình vợ, “mày - tao” với nhau không? Nếu có thì là lúc binh thường chồng có thể dùng ‘nó/hắn’ khi nói về vợ hay cãi cọ? Chỉ người chồng nói, hay vợ nói, hay cả hai? 1 2 3 4 5 6 7 Lứa tuổi họ có trên bảy mươi không? 6) Khi cãi cọ, chồng có thể dùng ‘mày - tao’ hay ‘mi - tao’ với vợ. 1 2 3 4 5 6 7 7) Khi vợ chồng cãi nhau, nói chuyện với bạn bè, chồng TÀI LIỆU THAM KHẢO có thể dùng ‘nó/hắn’ khi nói về vợ [1]. Aries Elizabeth, Men and Women in Interaction: Reconsidering the 1 2 3 4 5 6 7 Differences. Oxford: Oxford University Press, 1996. Vol. 60 - No. 12 (Dec 2024) HaUI Journal of Science and Technology 11
- NGÔN NGỮ VĂN HÓA https://jst-haui.vn P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 [2]. Brown Penelope, “How and why are women more polite: some [21]. Pham Andrea Hoa, “Gender in addressing and self-reference in evidence from a Mayan community,” in Coates, Jennifer (ed.) Language and Vietnamese,” in M. Hellinger and H. Bussman (eds) Gender Across Gender: A Reader, 81-99, Oxford: Blackwell, 1998. Languages, 281-312, Amsterdam: John Benjamins, 2002. [3]. Coates Jennifer, Women, Men and Language. A sociolinguistic account [22]. Pham A. H., Pham A. A., “Sociolinguistic variation in attitudes to of Gender Differences in Language. 3rd edition reissued, London: Routledge, 1st pronoun use among couples in southern Vietnam - a statistical analysis”. In edition published in 1986 by Longman, 2004. Enfield, N., Sidnell, J., & Zuckerman, C. (eds.) The Anthropology of Language in [4]. Crawford Mary, Talking Differences: On Gender and Language. London: Mainland Southeast Asia, Hawaii: Journal of Southeast Asian Linguistic Society, Sage, 1995. 112-123. 2020. [5]. Dương Viết Điền, “Lẩm cẩm hay nghẹn ngào?,” Trong tập Trên Đất Mỹ, [23]. Phan Khôi, Việt ngữ nghiên cứu. Hà Nội: Văn Nghệ, 1955. 31-41, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2003. [24]. Ridgeway, Smith-Lovin, “The gender system and interaction,” In [6]. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659. Saigon: Ra Khơi, Annual Review of Sociology, 25, 191-216, 1999. 1972. [25]. Ridgeway C.L., Smith-Lovin L., Gender and Interaction. In: [7]. Gomm Isabel, A study of the inferior image of the female use of the Handbook of the Sociology of Gender, 247-274. Springer, Boston, MA, English language as compared to that of the male. Unpublished BA dissertation, 2006. Ormskirk, Edge Hill College, 1981. [26]. Tannen Deborah, You just don’t understand: Women and men in [8]. Holmes Janet, Women, Men and Politeness. London: Longman, 1995. conversation. New York: William Morrow and Company, 1990. [9]. Holmes Janet, Miriam Meyerhoff, “The Community of Practice: [27]. Tannen Deborah, “Cultural patterning in language and woman’s Theories and Methodologies in Language and Gender Research,” In Language place,” In Mary Bucholtz (ed.). Language and Woman’s Place: Text and in Society, 28:2, 173-183, Cambridge University Press, 1999. Commentaries, 158-164. New York: Oxford University Press, 2004. [10]. Humm Maggie, The Dictionary of Feminist Theory. London: Harvester Wheatsheaf, 1989. [28]. Taylor K. W., “Nguyen Hoang and the beginning of Viet Nam’s southward expansion,” In Southeast Asia in the Early Modern Era, (ed.) [11]. Jesperson O., Language: It’s Nature, Development and Origin. New Anthony Reid. Ithaca: Cornell University Press, 1993. York: Allen and Unwin, 1922. [12]. Kessler S., McKenna W., Gender: An ethnomethodological approach. [29]. Uchida Aki, “When “Difference” is “Dominance”: a Critique of the New York: John Wiley and Sons, 1978. “Anti-Power-Based Cultural Approach to Sex Differences,” In Language in Society, 21:4, 547-568, 1992. [13]. Lakoff Robin, “Language and Women’s Place,” Language in Society, 2:1, 45-80, Cambridge University Press, 1973 [30]. Vũ Thị Thanh Hương, Politeness in Modern Vietnamese - a [14]. Le Phuc Thien, Variation in linguistic politeness in Vietnamese. A study Sociolinguistic Study of a Hanoi Speech Community. PhD. Thesis. University of of transational context. Asia-Pacific Linguistics Published in SEAMLES. The Toronto, 1997. Australian National University. Canberra, 2013. [31]. West Candace, Zimmerman Don, “Small insults: a study of [15]. Li Tana, “An Alternative Vietnam? The Nguyen kingdom in the interruptions in cross-sex conversations between unacquainted persons,” In Seventeenth and Eighteenth Centuries,” In Southeast Asian Studies, 29:1, 111- Thorne, Barrie, Kramarae, Cheris and Henley, Nancy (eds.) Language, Gender 121, 1998. and Society, 103-118. Rowley, MA: Newbury House, 1983. [16]. Marr David, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925. Berkeley and [32]. West Candace, Zimmerman Don, “Doing gender,” In Gender and Los Angeles: University of California Press, 1971. Society 1: 125-5, 1987. [17]. Mills Sarah, Gender and Politeness. Cambridge: Cambridge University Press, 2003. [18]. Nam Cao, Rình Trộm, Truyện ngắn Nam Cao [1943], tái bản. Nhà xuất AUTHORS INFORMATION bản Văn học, 215-222, 2003. Andrea Hoa Pham1, Andrew T Pham2 [19]. Nguyễn Văn Chiến, “Các lớp yếu tố chỉ người trong hệ thống đại từ 1 nhân xưng ngôn ngữ Đông Nam Á,” trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam University of Florida, USA 2 Á, Hanoi, 1988. Dẫn từ Nguyễn Thị Trung Thành, “Việc sử dụng cặp từ xưng gọi Mississippi University for Women, USA tao - mày trong giao tiếp hội thoại,” Ngôn Ngữ và Đời sống, 7, 16-20, 2003 [20]. O’Barr William, Atkins Bowman K., “‘Women’s language’ or ‘powerless language?’,” In McConnell-Ginet, Sally, Borker, Ruth and Furman, Nelly (eds.) Women and Language in Literature and Society, 93-110. New York: Praeger, 1980. 12 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Tập 60 - Số 12 (12/2024)



Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
