16
NGUYÊN PHƯƠNG CHÂM
BIỂU TƯỢNG
HOA ĐẢO
NGUYÊN PHƯƠNG CHÂM”)
An thế giới đa sắc của các loài hoa,
hoa đào là thứ hoa đẹp và quý. Hầu
hết các bộ phận của cây dào đều có giá trị
đối với đời sống thực tế. Trong văn hoá
của nhiều quốc gia, chủ yếu là các quốc
gia phương Đông, hoa đào, cây đào, quả
đào được lựa chọn làm biểu tượng với rất
nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước hết
chúng tôi muốn nói đến cây đào trong tự
nhiên với các tính chất sinh học của nó.
Đào là cây gỗ nhö, thuộc họ hoa hồng, cao
khoảng 3 - 4m, lá đơn mọc so le, phiến
hẹp và dài, cuống ngắn, mép có răng cưa
nhỏ, hoa màu hồng nhạt, mọc riêng lẻ, có
ð cánh, cuống hoa ngắn, nhị hoa có
khoảng 3ð - 40 cái, quả hạch có rãnh dọc,
ở mặt ngoài có phủ nhung tơ. Nhân hạt,
hoa, lá đào đều có tác dụng y học chữa
một số bệnh cho người''. Theo Từ điển
biểu tượng uăn hoá thế giới đào có những
ý nghĩa biểu tượng sau:
- Hoa đào biêu tượng cho mùa xuân
- Hoa đào là hình ảnh của sự đổi mới
và sức sinh sản đổi dào, ở Trung Quốc
người ta lấy nó biếu tượng cho lễ cưới.
- Hoa đào tượng trưng cho sự trong
trắng và thuỷ chung theo quan niệm của
người Nhật Bản.
1) _ xử. .' “E ~ “, “ˆ
Thạc s1, Viện Nghiên cứu văn hóa dân
gian.
- Ổ Trung Quốc quả đào được xem là
có tác dụng phòng chống những ảnh
hưởng xấu, trừ tà ma. Ngoài ra cây đào
và quả đào thường biểu trưng cho sự
trường sinh bất tử gắn với huyền thoại về
cây đào của Tây Vương Mẫu cứ 3000 năm
lại ra quả một lần, ai ăn quả đó sẽ được
trường sinh bất tử.
- Cũng với người Trung Quốc vườn
đào ngoài việc gắn với để tài lịch sử Lời
thể ở vườn đào, nó được xem là khu vườn
địa đàng, vườn của sự trường sinh, sự tới
đích của hành trình thụ pháp. Người ta
còn dùng gỗ cây đào khắc thành những
hình nhãn treo trên cửa ra vào để tránh
tà ma hoặc chế tạo ra những cây bút
trong thuật bói toán, những cây bút gỗ
đào này khi chuyển động sẽ viết nên
những văn tự tiên báo tương lai.)
Trong văn hoá Việt Nam, hoa đào
cũng như cây đào, quả đào không hàm
chứa hết những ý nghĩa biểu tượng ở trên
mặc dù những ý nghĩa ấy không xa lạ gì
với người Việt Nam qua lịch sử, văn hoá
Trung Quốc cũng như Nhật Bản. Với
người Việt Nam biểu tượng đào chủ yếu
tập trung ở ý nghĩa của hoa đào, vườn
đào mà ít khi nhắc đến cây đào hoặc quả
đào. Điều này thể hiện rõ trong ca dao.
Chúng tôi đã thống kê trong bộ Kho tàng
ca dao Việt Nam có 103 lời nói tới đào
trong đó chiếm số lượng của yếu là hình
ảnh của hoa đào và vườn đào.
Người thiếu nữ và hoa vốn đã có mối
quan hệ đặc biệt với nhau qua sự tìm
hiểu của chúng tôi đối với biểu tượng hoa
sen, hoa hồng... với biểu tượng hoa đào
mối quan hệ trữ tình ấy lại một lần nữa
được khẳng định. Các thi sĩ dân gian đã
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
17
không lầm khi khắc họa vẻ đẹp người phụ
nữ trong sự tương quan với hoa đào, đôi
khi là búp đào, đào tơ hay qua đào non:
Thấy em mắt phượng môi son
Mày ngài da tuyết đào non trên cành
Hình anh người con gái đứng bên hoa
đã từng là đề tài cho vô số những tác
phẩm nghệ thuật từ cổ đến kim. Với ca
dao hình ảnh ấy được khắc họa như một
bức tranh trữ tình:
Hôm qua thở thấn uườn đào
Thấy người thục nữ uít cành đào hát hoa
Người con gái xuân sắc giống như
hoa đào đang còn độ hàm tiếu hấp dẫn
bao người:
+ Đi ngang thấy búp hoa đào
Muốn uào mà bẻ sợ bờ rào lắm gai
+ Bông đào choi chói nở ra
Giơ tay muốn hát sợ nhà có cây
Trái đào chín hây hây má đỏ cũng
được ví với vẻ đẹp rực rỡ của người con
gái, vẻ đẹp ấy để lại bao niềm tiếc nuối
cho các chàng trai:
Ngắn tay uới chẳng tới cao
Tiếc ôi là tiêc trái đào chín cây
Không chỉ hoa đào, búp đào, quả đào
được ví với người con gái mà cả cây đào
cũng được ca dao lấy làm biểu tượng cho
người con gái:
+ Công anh gánh đất đắp cội cây đào
Công anh rào dậu để cho ai uào hái hoa
+ Cây lê, cây lựu cây đào
Ba bốn cây đứng đó cây nào còn không ?
Từ ý nghĩa biểu tượng cho người con
gái hoa đào gắn với tình yêu đôi lứa, gắn
với chuyện nhân duyên. Biểu tượng vườn
đào xuất hiện nhiều lần trong ca dao với `
rất nhiều ý nghĩa khác nhau mà hầu hết
những ý nghĩa ấy gắn với tình yêu. Cũng
giống như biểu tượng vườn hồng, vườn
đào là khu vườn yêu nơi người con gái gửi
găắm tình cảm của mình. Vườn đào có huê
là nói đến người con gái đang sẵn sàng
bước vào gial đoạn yêu đương:
Hỏi chàng quê quán nơi nao
Sao mà chàng biết uườn đào có huê
Anh là bhách lạ đường xa
Biết đây có gái đào hoa tốt tìm
Sư ngỏ lời của chàng trai trở nên vô
cùng ý nhị khi anh ta muốn gửi gắm tình
yêu của mình tới cô gái bằng hình ảnh
xin gửi cây lan, cây huệ tới trồng ở vườn
đào:
Vườn đào có đám đất không
Anh có cây lan cây huệ đưa uào trồng
tốt chăng ?
Hình ảnh vườn đào đầy xuân sắc hấp
dẫn biết bao bướm ong qua lại giống như
sự tấp nập kế ra người vào của chốn "lầu
hoa" nơi có người con gái đẹp đang tuổi
kén chọn bạn tình:
+ Bướm uàng, bướm trắng, bướm xanh
Bay qua lượn lại quấn quanh uườn đào
Bướm lớn bướm nhỏ lao sao
Tung tăng uườn đào hút nhuy đưa hoa
+ Dừng xa khoan héo ai ởi
Hình như ong bướm dạo chơi 0uườn đào
Chốn vườn đào là hình ảnh tượng
trưng cho nơi gặp gõ của các cô thôn nữ
và các chàng nho sĩ mà không nhất thiết
phải có một vườn đào thực ngoài đời:
18
NGUYỄN PHƯƠNG CHÂM
=———ễ——————ễễễễễễễễễỄễỄễỄễễễễễ=ễễễễễễẽễE=E==E=ễ=ễEễ=Eễễễ.
+ Vườn đào uừa tốt uừa tươi
Mời chàng nho sĩ uào chơi 0uươn đào
+ Trăm hoa đua nở uườn đào
Mời chàng nho sĩ bước uào thăm hoa
Vẫn chỉ là chuyện muôn thuở của các
chàng trai khi thể hiện quyết tâm của
mình trong tình yêu. Các thi sĩ dân gian
đã tưởng tượng ra hình ảnh vườn đào
quyến rũ nhưng lại có vô vàn khó khăn
ngăn trở đòi hỏi người con trai phải có
quyết tâm lớn để chiếm được tình yêu của
người con gái:
Lâm nghe núi cả non Bồng
Dạ cam mà chỉ ngọt bòng, ngon sao
la tay bẻ hhoá uườn đào
Rẽ mây gạt gió, lọt uào hết duyên
Vẫn là biểu tượng vườn đào nhưng
khi vườn đào ấy vắng bóng bướm ong qua
lại là lúc người con gái đã phai má đào
mà vẫn không có tình yêu:
Chồng còn mô có anh nào
Em còn lận đân uườn đào sớm trưa
Cũng vẫn trong vườn đào yêu đương
ấy hình ảnh Sen ngó đào tơ lại là hình
anh của mối tình đầu lãng mạn thuở mới
lớn:
+ Duyên còn sen ngó đào tơ
Khách tình xin sẽ qua 0uô uườn đào
+ Đào tơ sen ngó xanh xanh
Ngọc lành còn đợi giá lành đẹp duyên
Không chỉ biểu tượng vườn đào mà
biểu tượng hoa đào nói chung đã thể hiện
rất nhiều trạng thái tình cảm khác nhau
của tình yêu đôi lứa. Sự lo sợ của người
con gái trước khi trao gửi tình yêu được
thể hiện thông qua hình ảnh mong manh
của hoa đào trước nắng gió cuộc đời:
+ Vóc bồ liễu e đè gió bụi
Đoá hoa đào sợ hãi nắng sương
+ Em biết đâu là bháh đài chương
Ngãi nhân giữ được bực thường uậy chăng
Hoa đào héo nhuy biểu tượng cho
người con gái đã qua thời xuân sắc nhưng
không phải là đã hết duyên:
Hoa đào héo huy anh thương
Anh mong be lá che sương cho đào
Tuổi xuân của người con gái rồi cũng
đến lúc nhạt phai như tuổi của một đời
hoa. LỡI trách móc của người con gái đối
với người bạn tình không chung thuỷ
nghe thật chua xót:
Thân thiếp như cánh hoa đào
Đang tươi đang tốt thiếp trao cho chàng
Báy nhờ nhuy rửa hoa tàn
Vườn xuân nó hém sao chàng lại chê
Hoa đào trong vai trò biểu tượng cho
tình yêu được ca dao sử dụng nhiều theo
từng cặp biểu tượng cho đôi bạn tình.
Cặp biểu tượng thường gặp nhất và cũng
quen thuộc nhất với người Việt Nam là
mận - đào qua những lời ca dao tỏ tình
nổi tiếng:
+ Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai uào hay chưa ?
+ Đêm qua mận mới hỏi đào
Vườn xuân đã có ai 0uào hái hoa 2
Sự quấn quít của mận - đào đã thể
hiện mơ ước về một tình yêu đôi lứa hạnh
phúc.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
19
Muôn cho mận ở uới đào
Tình ở uới tính lúc nào chăng 0ui.
Sư trách móc, hờn dỗi trong tình yêu
được cao dao thể hiện rất đặc sắc thông
qua lời tự tình của cặp bạn tình: đào -
mận:
Vì đào nên mận chững quên
Vì đào nên mận ngậm phiền nhớ mong
Vì đào nên mận long đong
Xin đào chớ ở ra lòng Bắc Nam
Cặp biêu tượng mận đào cũng có lúc
không trong vai trò là đôi bạn tình mà
chỉ đơn thuần biểu tượng cho con người,
nhất là người con gái. Ca dao dùng hình
anh Khi xưa cành mận bhỉ nay cành đào
để nói đến người con trai không chung
thuy:
Xin chàng hãy bỏ tay ra
Đến mai uề cửa uê nhà sẽ hay
Chàng đừng cầm lấy cổ tay
Khi xưa cành mận khi nay cành đào.
Cũng xuất hiện khá nhiều trong cao
dao là cặp biểu tượng lựu - đào hầu hết
mang ý nghĩa của sự trắc trở, chia xa
trong tình yêu để lại nỗi nhớ thương da
diết cho đôi bạn tình:
+ Sen xa hồi sen bhô hồ cạn
Lựu xa đào lựu ngd đào nghiêng
Vàng trên tay rót xuống không phiền
Phiền người bội nghĩa biết mấy niên cho
hết sầu.
+ Lời em phân gan thắt ruột bào
Vì đâu xui bhiến lưu uót đào xa nhau
+ Mấy lâu cách lựu xa đào
Cây cao xa bóng biết ngày nào gặp nhau.
Lưu lại gặp đào là chuyện vô cùng
hiếm hoi trong ca dao được dùng diễn tả
những sự kiện khó có thể xảy ra kiểu như
dân gian ta thường nói Rồng đến nhà tôm
Vậy:
Bưu nay tựu lại gặp đào
Cựu tình tương hội lẽ nào chẳng 0ui.
Lựu và đào luôn biểu tượng cho sự
cách trở trong tình yêu của đôi bạn tình.
Ý nghĩa này phải chăng xuất phát từ
thực tế hoa đào nở vào mùa xuân, hoa lựu
nở vào mùa hè. Khi hoa đào đã tàn hết,
quả đào đã xanh mướt thì hoa lựu mới nở.
Khi quả đào đã được hái hết khỏi cây vào
mùa hè thì quả lựu mới bắt đầu lơ lửng
như những chiếc đèn lồng mùa thu trên
cây. Đào và lựu luôn nối tiếp nhau theo
thời gian mà không gặp dược nhau,
không tổn tại cùng nhau trong một mùa.
Sự xa cách này không khác lắm so với
những sự chia xa của tình yêu đôi lứa, có
tình với nhau nhưng do rất nhiều lý do
không thể đến được với nhau.
Khác với cặp biểu tượng lựu - đào,
cặp biểu tượng đào - lý mang nhiều ý
nghĩa hơn. Khi là đôi bạn tình đã chia xa:
Đã chích phụng loan chia màn uyên thuỷ
Đào đà cách lí cúc nọ xa lan
Kiếng bia đã uỡ bhó hàn
Khuyên anh nhớ tiếc hãy lo đàng thất gia.
Khi lại không phải là đôi bạn tình mà
chỉ biểu tượng cho một phía:
Thấy đó nói ra em đà hiểu ý
Muốn cho đào lí hiệp uới trúc mai
20
NGUYỄN PHƯƠNG CHÂM
Quản chỉ biểu rộng sông dài
Ôm duyên em đợi bhách chương đài
bấy lâu.
Có khi tác giả dân gian dùng biểu
tượng đào - lý để nói đến người con gái ở
độ tuổi xuân xanh có nhiều nơi ướm hỏi,
đánh tiếng:
+ Đi qua trước cửa 0uườn đào
Thấy hoa thiên lý muốn uào hái chơi.
+ Chiều chiều uãn cảnh uườn đào
Hỏi thăm thiên lý rơi uào tay di.
Ý nghĩa của cặp biểu tượng đào lý
trong ca đao khác hẳn trong thơ ca bác
học. Đào lý trong các tích cổ cũng như
trong thơ ca cổ thường mang ý nghĩa của
sự quyển quí của các bậc hiển tài.
Nguyễn Du dùng sân đào lý trong Kiều
để chỉ sân của nhà quyển quý. Trong
Cung oán đào lý được dùng để chỉ những
bậc hiển tài:
Sân đào lý râm lông man mác
Nền đỉnh chung nguyệt gác mở màng.
Ngoài các cặp biểu tượng trên, đào
còn đi với liễu thành một cặp biểu tượng
cũng thường thấy trong ca dao. Đào - liễu
cũng là đôi bạn tình nhưng là đôi bạn
tình son sắt, gắn bó mật thiết với nhau
trong sự hội ngộ:
+ Mlay mô may, hhéo mô khéo
Cơn có héo gặp trộ mưa rào
Mối tình duyên hội ngộ liễu uới đào ta
bháp nhau
+ Bướm xa hoa bướm bhô hoa tế
Liêu xa đào liệu ngân đào ngây
Đôi ta tình năng nghĩa dày
Dù xa nhau đi nữa cũng phút ba 0uạn sáu
ngàn ngày mới xa.
Đào và liễu trong một vài lời ca đao
lại được dùng theo kiểu cấu trúc hình
tượng song song (mà không phải đối lập)
để nói đến người con gái:
Hai bên bên liễu bên đào
Mặc tình mặc ý thương bên nào thì thương.
Đào biểu tượng cho tình yêu đôi lứa
là ý nghĩa chủ đạo nhưng bên cạnh ý
nghĩa đó đào còn biểu tượng cho tình vợ -
chồng:
Đôi ta như cánh hoa đào
Chồng đây uợ đấy ai nào hém di.
Trong thực tế hoa đào được coi là đấu
hiệu, là biểu tượng của mùa xuân nhưng
trong ca dao ý nghĩa này hầu như không
xuất hiện. Trong hơn một trăm lời ca dao
nhắc đến hoa đào thì chỉ có duy nhất một
lời nhắc tới hoa đào gắn với mùa xuân.
Chào chàng tới cảnh đình trung
Chào mừng sẽ hỏi anh hùng tài cao
Rằng đây thu cúc, xuân đào
Mở xe mận lại gió chào trăng thu.
Như vậy ý nghĩa biểu tượng của đào
trong ca dao chủ yếu là biểu tượng cho
người con gái, cho tình vêu đôi lứa và
tình cảm vợ chồng. Đào trong ca dao chủ
yếu là hoa đào, quả đào và cây đào cũng
xuất hiện nhưng chỉ chiếm phần trăm rất
nhỏ. Điều này khác với ý nghĩa của đào
trong các loại hình nghệ thuật khác cũng
như trong thơ ca bác học. Đào rất ít xuất
hiện trong nghệ thuật tạo hình truyền
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21
thống Việt Nam, trong các tác phẩm điêu
khắc, trang trí họa tiết cây đào, hoa đào
đôi khi cũng xuất hiện nhưng không
mang ý nghĩa đặc biệt. Trong tranh dân
gian hoa đào xuất hiện nhiều hơn chút ít,
chủ yếu là ở tranh Hàng Trống, rất hiếm
trong tranh Đông Hồ và các dòng tranh
khác. Tiêu biểu là tranh Thất đồng với
những trái đào căng tròn thể hiện cho sự
trường thọ, sung túc, tranh Wgủ gud với
cành đào rực rỡ đặc trưng của ngày tết.
Đây đó trên đồ gốm mĩ nghệ hoa đào
cũng là những mô típ khi thì miêu tả
theo mùa, khi thì đơn thuần là họa tiết
hoa lá trang trí. Nhìn chung trong nghệ
thuật tạo hình Việt Nam đào ít xuất hiện
và ý nghĩa biểu tượng cũng đơn giản hơn
so với các loại thực vật khác như sen,
BỨC...
Về đẹp của hoa đào là để tài muôn
thuở trong thơ ca bác học từ cổ đến kim.
Từ trong những tuyệt tác của thơ Đường
cổ hoa đào đã là đối tượng trữ tình đặc
biệt: Hình anh hoa đào trôi theo dòng
nước trong thơ của Trương Húc còn mãi
được thi nhân ngàn ca tụng. Hoa đào
biểu tượng cho người con gái đẹp trong
thơ Thôi Hộ:
Tích niên bhim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất trì hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Năm ngoái hôm nay trong cổng này
Mặt người và hoa đào ánh lẫn nhau
Giờ đây mặt người không biết đã đi
đâu
Chỉ còn hoa đào vẫn cười trước gió
đông như cũ)
Hoa đào, gió đông đã trở thành điển
tích trong thơ của các thi nhân đời sau:
Hoa đào năm cũ còn cười gió đông (Kiều).
Đặc biệt là trong Kiều của Nguyễn Du
ông đã dùng rất nhiều hình ảnh hoa đào
với đa dạng các nghĩa biểu tượng khác
nhau. Má của người thiếu nữ hồng như
hoa đào, nói má đào là nói đến người con
gái đẹp:
Số còn năng nợ má đào
Người dù muốn quyết trời nào có cho.
Phòng xuân hay phòng đào là nơi ở
của người con gái đẹp:
Phòng xuân trướng rủ hoa đào
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy
nàng.
Cây đào non (dịch từ câu "đào chi yêu
yêu") cũng được ví với người con gái đẹp
đang thì mơn mởn:
Vẻ chỉ một đoá yêu đào
Vườn hồng chỉ dám ngăn rào chỉm
xanh j
Còn nhiều biểu tượng đào nữa trong
Kiều như Nhị đèo biểu tượng cho vẻ đẹp
thanh tân của người phụ nữ, £hơ đào biểu
tượng cho thân phận yếu đuối của người
phụ nữ...
Trong thơ Nguyễn Trãi hoa đào đồng
nghĩa với mùa xuân, đồng nghĩa với vẻ
đẹp kín đáo, thanh cao:
Một đoá đào hoa bhéo tốt tươi
Cách xuân mởn mởn thấy xuân cười
sh
NGUYÊN PHƯƠNG CHÂM
Đông phong ất có tình hay nữa
Kín tiến mùi hương dê động người
Sau này trong thơ ca bác học cận
hiện đại cũng như thơ ca hiện đại hoa
đào chủ vếu biêu tượng cho mùa xuân,
điều này khác hoa đào trong ca dao. Hoa
đào, mùa xuân, ngày tết và người thiếu
nữ trở thành một mô típ đặc biệt trong
thơ ca:
+ Hôm nay là xuân mai còn xuân
Một cánh đào rơi nhớ cố nhân
(Nguyễn Bính - Nhạc xuân)
+ Anh hiệu sức uươn của những cành
đào
Qua gió rét uấn đỏ hoa ngày tết
(Phạm
phâm Gửi năng cho em)
Tuyên - nhạc
Như vậy ý nghĩa của biểu tượng hoa
đào ở thơ ca bác học được mở rộng hơn và
nó có một số ý nghĩa khác với cùng biểu
tượng này ở ca dao. Nhưng cả ca dao và
thơ ca bác học biểu tượng đào đều chung
một ý nghĩa nổi trội nhất là biểu tượng
cho người phụ nữ. Theo chúng tôi, nếu
như cùng biểu tượng cho người phụ nữ
nhưng nhìn chung trong văn học nghệ
thuật hoa sen mang một vẻ tươi tắn, tràn
đây sức sống; hoa cau - lá trầu tượng
trưng cho vẻ đẹp thanh khiết, đây đặn;
hoa hồng chính là cái đẹp cao quý, quyến
rủ, rực rở thì hoa đào lại tượng trưng cho
một vẻ đẹp đượm buồn, xa xăm và có một
chút bạc phận.
Cũng như loài hoa của thế giới
phương Đông nhưng ý nghĩa của hoa đào
dường như không gắn nhiều tới yếu tế
thiêng của tôn giáo mà nó gắn bó thân
thiết với dân chúng. Cây đào được trồng ở
khắp các làng quê Việt Nam với rất nhiều
các chủng loại khác nhau và ở Việt Nam
cũng có những vùng chuyên trồng đào.
Với Trung Quốc, Nhật Bản cũng như vậy,
đặc biệt ở Nhật Bản còn có mùa lễ hội
hoa đào rất đặc sắc. Vào mùa đào nở rộ
ngươi dân nước này nô nức đi đến những
công viên, những vườn hoa, những nơi có
phong cảnh đẹp và nhiều hoa đào nở để
ngắm hoa, người ta còn làm lều bạt nghỉ
lại để thưởng thức hoa. Không phải ngâu
nhiên người ta nói Nhật Bản là đất nước
của hoa đào. Mùa hoa đào rất ngắn ngủi
ở từng vùng của nước Nhật nhưng chúng
nở nối tiếp nhau ở từng vùng tạo nên
mùa hoa trải dài đến vài tháng trên khắp
nước này.
Trong cuộc sống hôm nay hoa đào
vân là loài hoa quý không thể vắng mặt
trong mỗi gia đình Việt Nam dịp tết đến
xuân về và những ý nghĩa biểu tượng của
nó được lưu giữ nhiều trong thi ca nhạc
họa, đặc biệt là trong những lời ca dao
xưa.
N.P,C
1. Từ điển bách bhoa Việt Nam , Trung
tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam,
H, 189ã.
32. Từ điển biểu tượng uăn hóa thế giới,
Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Nxb Đà
Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du xb, H,
1997.